ĐỖ CH , ĐỜI VĂN CHIA HAI NỬA,...





 @@@


ĐỖ CHU,

đời văn chia hai nửa

 

 

Đỗ Chu là nhà văn sớm thành danh và ông được hưởng lộc văn chương đến già, tôi nghĩ thế.

Ngày từ khi mới cầm bút viết văn ở độ tuổi ngoài đôi mươi, Đỗ Chu đã nối tiếng là cây truyện ngắn có phong vị riêng, mà thời ấy người ta gọi là chất “lãng mạn cách mạng”. Các truyện ngắn của Đỗ Chu như Hương cỏ mật, Phù sa, Ráng đỏ, Mùa cá bột ... ra mắt là được bạn dọc mê mẩn, yếu mến. Thời ấy, tôi cũng là một trong vô vàn người thích văn Đỗ Chu. Không những thế, các đồng nghiệp viết văn khác vừa ghen tị vừa ao ước viết được một truyện ngắn như Đỗ Chu. Viết văn được như vậy thật sướng!

Và có thế nói, trong các nhà văn đương đại Việt Nam, không một ai có được sự may mắn, suôn sẻ như Đỗ Chu, viết ra đến đâu được đón nhận và ca ngợi đến đó. Cứ thủng thẳng nhẹ nhàng mà gặt hái các giải thưởng văn chương (Giải thưởng Nhà nước, Giả thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật). Thử hỏi có mấy ai? Rồi đến khi cao tuổi, sau khi có đủ các giải thưởng thì ông luôn có chân thành viên trong các Hội đồng xét giải thưởng này nọ. Oách chứ.

Nhưng... tôi nghĩ, phải từ tập truyện vừa “Mảnh vườn xưa hoang vắng” trở về sau, Đỗ Chu mới thật sự chạm đến thân phận con người; cùng với đó, các tập tản văn và chân dung văn học tiếp sau này là “Tản mạn trước đèn” và “Thăm thẳm bóng người” góp phần làm nên một phong cách Đỗ Chu và bồi tụ cho sự nghiệp văn chương của Đỗ Chu dày dặn thêm. Và dường như sau ngần ấy, Đỗ Chu cảm thấy đủ, hay ngại viết, hay là cạn vốn, như đèn dầu hỏa ngắn bấc cạn dầu, phải chăng?

Đỗ Chu cũng không viết một cái gì dài hơi trong suốt đời viết văn của mình. Sở trường của ông là viết ngắn. Tự nhiên, tôi lại muốn mang ông ra đặt bên cạnh một đồng nghiệp lớp trên đất Kinh Bắc của ông là nhà văn Kim Lân. Nói đến nhà văn Kim Lân, người ta không thể không nhắc đến các truyện “Làng”, “Con chó xấu xí”, “Vợ nhặt”. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng tên tuổi nhà văn Kim Lân và các tác phẩm ấy có sức sông mãnh liệt và dai dẳng, kể từ khi chúng ra đời cho đến tận bây giờ và còn sau nữa... Với Đỗ Chu, tác phẩm thì dày dặn hơn Kim Lân đấy, song sức sống bền lâu hay không thì chưa hẳn, còn phải chờ xem sao?...

Tại sao vậy? Đỗ Chu viết có phong vị, kiểu như Thạch Lam xưa, văn ông cũng giàu chi tiết, có chuyện đấy, và người ta thấy bóng dáng cuộc đời, đủ để suy ngẫm hay chiêm nghiệm, nhưng là những chuyện vặt người thường. Phong vị thì có đấy nhưng tư tưởng thì dường chẳng mấy. Đỗ Chu cũng không tạo ra được những hình mẫu, nhân vật điển hình liểu như “Xuân tóc đỏ” của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc của Nam Cao, Chị Dậu của Ngô Tất Tố, Anh Pha của Nguyễn Công Hoan... hay Anh Keng của Nguyễn Kiên, Lão Hàm của Nguyễn Khắc Trường,... Vậy người ta nói đến Đỗ Chu thì lấy cái gì ra để nhớ? Cảm giác chung, Đỗ Chu cứ rỉ rả kể chuyện, đọc thú vị đấy, nhưng ấn tượng để nhớ lâu thì chưa. Song le, viết được như Đỗ Chu thực không dễ chút nào. Có lẽ, ông là người có tài nhặt nhạnh may vá các mảnh vụn cuộc đời thành tấm áo lành lặn chăng? La tôi nghĩ vậy. Khó nhỉ.

Đấy là tôi chưa tính các tác phẩm từng nổi đình đám thời Đỗ Chu mới xuất hiện (Hương cỏ mật, Phù sa, Mùa cá bột, Ráng đỏ...) mà sau này nghĩ lại, thực ra là các câu chuyện kiểu người tốt việc tốt, hình mẫu chung chung phổ biến một thời được tác giả tô vẽ bằng phong vị lãng mạn. Giờ đọc lại chúng thấy nhạt  và tầm phào, hay nói một cách hình tượng, hết tuyết như than để ngoài mưa... Cùng phong vị nhưng không bằng những“Lặng lẽ Sa-pa” và “Trời xanh mệnh mông” của Nguyễn Thành Long. Sở dĩ ngày ấy, Đỗ Chu được đón nhận nông nhiệt từ các bậc đàn anh văn chương xứ ta là bởi người cầm bút trẻ thời ấy chưa ai viết được như thế. Vậy là cũng xứng đáng. Có lẽ nhờ thế mà Đỗ Chu tự tin lắm. Tôi từng được nghe một vài bậc đàn anh văn chương cùng trang lứa với Đỗ Chu kể rằng, mỗi khi Đỗ Chu đến trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, đi lại nói năng chẳng hề rụt rè như thường thấy ở những cây bút trẻ khác mà đầy vẻ chững chạc tự tin, thậm chí có gì đó hơi khệnh khạng kiểu chàng Dế mèn trong truyện của cụ Tô Hoài. Có lẽ, thái độ đầy tự tin ấy sớm có ở Đỗ Chu, nó bám lấy và theo ông qua Lớp bồi dưỡng sáng tác Quảng Bá, khi ông làm Trưởng ban các nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam và mãi đến tận bây giờ khi thành bậc Trưởng lão làng văn Việt?

Đã có lần tôi liều nói trực tiếp với Đỗ Chu như thế. Ông im lặng nhìn tôi trân trối, chỉ ầm ừ và nhát gừng nói sang chuyện khác. Chẳng hiểu ông nghĩ gì. Tôi thây kệ, kiểu bất cần của kẻ chiếu dưới, đàn anh có mẳng mỏ gì là chuyện thường. Vậỵ mà ông không mắng, nhưng có lần chỉ đối thoại hai người, ông bảo tôi, kẻ cả “Này, nghề viết là cứ phải tạo được gì đó ấn tượng, ... phải có giọng điệu riêng”. Tôi vâng dạ, bởi ông dạy đúng, những điều này thì các bậc đàn anh của ông như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã từng dạy rồi. Tôi biết, Đỗ Chu chẳng đọc cái gì của tôi, nên có sách in tôi cũng không tặng ông. Thế không phải tôi không tôn trọng ông vì tôi hiểu có tặng thì ông cũng vứt xó hoặc cho ai đó bất kỳ mà ong gặp, bởi  hình như ông chẳng đọc ai, một thới quen của người sớm thành danh và được thiên hạ nuông chiều, như người ta vẫn đồn. Ông chỉ có nhu cầu viết và người ta phải đọc ông mà thôi.

Một thời hâm mộ văn Đỗ Chu nhưng phải đến khi nhà thơ Trần Đăng Khoa về Tạp chí Văn nghệ quân đôi, tôi hay đến thăm  Khoa ở số 4 Lý Nam Dế mới được gặp Đỗ Chu ở đấy. Trước đấy, Đỗ Chu xuất bản tập truyện vừa “Mảnh vườn xưa hoang vắng”, tập có truyện này và truyện ‘Mê lộ”, tôi đọc thấy thích. Đến khi gặp Đỗ Chu ở phòng Khoa, thấy ông nói chuyện thoải mái, tôi bèn ‘vuốt râu hùm” đùa ông: “Em mua đọc và thích tập Mảnh vườn xuwa hoang của bác lắm. Em đi tán gái, thấy cô này cũng hay đọc sách, em lấy le, mạn phép bác, tặng cô ấy cuốn sách này của bác, lại còn khoe là được bác tặng cho. Cố ấy là vợ em bây giờ. Oai như cóc chưa?”. Đỗ Chu cười độ lượng bảo tôi là có tội với cô ấy, giờ hay ra hiệu sách mua một cuốn về đây để ông ký tặng thật, mang về đưa vợ tạ lỗi với cô ấy. Tôi làm đúng thế, về đưa vợ cuốn sách có chữ ký tươi của Đỗ Chu. Vợ tôi cười bảo, khi ấy em cũng đoán vậy nhưng vờ như không để anh vui thôi. Chuyện là thế.

Bẵng đi, sau thi thoảng gặp ông ở quán cà phê. Biết ông ra liền mấy cuốn (“Tản mạn trước đèn”, “Thăm thẳm bóng người”), tôi đều mua đọc và nhận thấy, một Đỗ Chu sâu lắng hơn với thân phận con người, trên nền của một Đỗ Chu nhếnh nháng phù sa, màu mỡ riêu cua ngày xưa. Thế là ông được chứ không mất gì. Có một thời gian dài, mấy tờ báo Tết, cứ phải xin bằng được bài Đỗ Chu, bất kể thể loại gì, dài  hay ngắn. Người ta mua cái tên ông lấy oai lấy khước hơn là xem ông viết gì viết như thế nào. Cũng lại mừng cho ông,...

Dăn năm trở lại đây, tôi nghỉ hưu ở Đài (VOV)  làm biên tập cho tạp chí Nhà văn & cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam do nhà thơ Trần Đăng Khoa phụ trách, tôi thường xuyên được tiếp chuyện Đỗ Chu dù ở trụ sở cũ 65 Nguyễn Du hay khi tạp chí rời về số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Ông đến thường xuyên, tháng dăm ba lần, kề cà chuyện trò, thỉnh thoảng ra quán ăn trưa cùng chúng tôi. Gần ông, biết thêm nhiều chuyện về làng văn. Ông chuyện nhát ngừng, chuyện nọ dọ chuyện kia, nguyễn chất kẻ cả, nhớ quên lẫn lộn. Người ta bảo và chấp nhận chất kẻ cả của ông như tất nhiên phải vậy, bởi ông được quyền như thế. Kể cũng hay cái làng văn xứ mình.

            Vì nhà văn Đỗ Chu hay đến toà soạn nên tôi cũng mượn cớ “gần chùa gọi Bụt bằng anh” cứ búa xua “bác bác em am” tràn cung mây. Có lần, tôi mạnh dạn bảo: “Bác ạ, sách của bác thì em chỉ tính từ cuốn Mảnh vườn xưa hoang vắng trở về sau, bởi từ đây bác mới đụng chạm đến thân phận con người. Còn mấy tập truyện ngắn đầu nhếnh nháng váng phù sa thì giờ, xin lỗi bác, em cóc đọc lại được... Đấy là em chưa tính đến mấy cái truyện vừa bác gì đó về chiến tranh chống Mỹ, thường lắm...”. Đỗ Chu lại nhìn tôi trân trối, chẳng nói gì. Tôi hiểu Đỗ Chu nghe không lọt nhĩ những điều đó nhưng thây kệ bởi mình nghĩ sao nói vậy, mình có quyền phản biện các bậc đàn anh chứ. Khi viết văn là quyền của mình, nhưng khi tung tác phẩm ra thiên hạ là trao quyền phán xét cho người đọc rồi. Rất có thể, sự im lặng của Đỗ Chu thể hiện chất cao ngạo không thèm chấp nvốn có của ông chăng? Cãi nhìn trân trối hàm ý,  nhà ngươi biết được bao nhiêu mà dám phán xét ta ? hãy cứ viết đi đã xem ình hay dở thế nào rồi sẽ phán xét người khác… Một lần, mãi quá trưa ông mới ra về. Tôi tiễn ông ra cửa, gọi thang máy cho ông. Nhưng rồi ông không đi, quay lại, gọi tôi míu bảo: “Mày ạ, tao bảo nhé…văn chương người ta… không cần phải viết nhiều, ít thôi, nhưng phái có dấu ân của riêng mình…”. Câu này thì ông đã dạy tôi đôi lần rồi. Và chắc hẳn, ông cũng mang ra dạy nhiều cây bút khác nữa chứ đâu mình tội. Ông ngẩn ngơ từ ban công tầng 5 nhìn xuống cổng Hội nhàg văn, lát sau rồi mới chịu ra về. Ông vẫn đúng., tôi nghĩ, song có điều, ông dạy tôi mà cũng là tự nhủ và trấn an lòng mình. Ở vào cái tuổi U90 cũng có thể ngoái lại nhìn toàn bộ đời văn của mình lắm chứ?!...

        Giờ khi cao tuổi, Đỗ Chu có vẻ hiền khô, không chấp những kẻ văn chương chiếu dưới nhưng thực ra ẩn trong những câu nói rời rạc tưởng chẳng ra đâu vào đâu ấy vẫn nguyên vẻ cao ngạo cũ. Nhà văn Tô Hoàng kể, ngày trẻ, Đỗ Chu đáo dể lắm. Rằng đã có lền, khi ông còn là học viên Lớp Bồi dưỡng viết văn Quảng Bá, khi luận vềg tính Mác-xít trong văn học, Đỗ Chu chộ cho nhà văn Vũ Sắc, cán bộ tuyên huấn giảng dạy một phen “kinh hồn táng đởm”. Và cứ chiểu theo chuyện ấy thì có vẻ Đỗ Chu đã sớm ngộ ra đường hướng của nghề viết để mà ông không bị sa lầy vào những định kiến cố hữu thủ cựu chăng, để ông đắm mình vào các thân phận người của nửa sau đời văn ?,…

            Lâu rồi không thấy Đỗ Chu lai vãng đên Hội nên cũng chẳng thế ghé Tạp chí chung tôi uông trà chuyện vãn. Người ta bảo ông đã lẫn, đi ra ngoài là quên đường về nên người nhà không để ông đi lại tự do như trước đây nữa.

            Vắng bóng ông, tôi lại hay nghĩ về dấu ấn văn chương ông!...

           Nghe đâu, trong một lần xất hiện trên mạng xã hội, nhà văn Đỗ Chu “đe” rằng, trước khi về cõi hạc, thế nào ông cũng có một cái gì đấy tầm cỡ “kinh thiên động đia”. Mong là ông sẽ cho ra một tác phẩm để đời như lời ông đã hứa !?...

 

 









Nhận xét