BẰNG VIỆT mộng mơ, mải miết đến quên mình...

 




@@@


BẰNG VIỆT

mộng mơ, mải miết đến quên mình...

 

Mấy năm gần đây, không ngờ tôi lại hay gặp nhà thơ Bằng Việt nhiều đến vậy. Cứ vài ba tháng, Bằng Việt lại ghé thăm tòa soạn tạp chí Nhà văn & cuộc sống, nơi tôi làm biên tập. Trong căn phòng hẹp trên tầng 5 ở Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam tại số 9 Nguyễn Đình Chiểu, ông uông trà, nhỏ nhẹ trò chuyện cùng chúng tôi, chừng hơn giờ đồng hồ rồi đi, không lâu và cũng chẳng chiếu lệ qua quýt, đủ độ thân mật ấm áp. Có hôm ông đến, sẵn vài ba người khách, câu chuyện rôm rả, lai có khi mỗi mình tôi “gác chùa” nên câu chuyện với ông tập trung hơn. Nhờ thế mà tôi dần dà biết thêm về ông nhiều điều, kể cả về nguồn gôc gia đình Chàng Sơn Thạch Thất và thời gian gia đình ông ở Huế cuối thời Nguyễn lúc ông còn là cậu bé bôn năm tuổi,...

Nhưng điều tôi muốn viết về ông, là thơ ca, văn chương, thứ mà ông say mê theo đuổi và nhũng nhẵng cũng nó kể cả khi ông có cương vị khá cao ở chính quyền Hà Nội, cho đến tận bây giờ...

Thời học sinh, sinh viên, tôi và vài ba người bạn mê thơ Bằng Việt lắm. Ngáy ấy, Bằng Việt sớm được bạn yêu thơ biết đến khi tập thơ Hương cây bếp lửa (in chung Lưu Quang Vũ, Bằng Việt) được xuất bản. Làm gì có sách mà mua, mượn đọc rồi chuyền tay nhau, thích bài nào thì chép tay vào sổ. Bài thơ Bếp lửa, Trở lại trái tim mình, Về hỏa tuyến thăm con… của Bằng Việt nhiều người thuộc lắm. Thuộc để trích dẫn khi lăm văn tự luận thì mang ra bình. Sướng mê tơi. Yêu thơ nên thèm biết người thơ nhưng làm sao mà gặp được. Nhà thơ đi mây về gió, đâu đâu tận cung trăng ấy.  Ngây thơ và buồn cười của một thời là vậy đấy.

Giờ thì Bằng Việt, ông lão ngoại tám mươi xuân ngồi đây, trước mặt tôi, nhấm nháp chén trà và thủng thẳng chuyện. Ngắm Bằng Việt chuyện về dịch thơ, bỗng nhớ có lần nhà thơ Trần Đăng cảm thán rằng sẽ không bao giờ lên đọc thơ trước đám đông vào lễ hội thơ Nguyên tiêu nữa bởi sau khi chứng kiến cảnh Bằng Việt đọc thơ đêm Nguyên tiêu trời mưa rét nặng hạt thấy thương làm sao. Tôi không chứng kiến cảnh ấy nhưng cứ nghe Trần Đăng Khoa mô tả thôi thì cũng hình dung ra được thế nào,.. Là nói vậy thôi, cái nghiệp thơ nó ám vào người, cả Trần Đăng Khoa và Bằng Việt vẫn cứ phải đăng đàn, đọc thơ vì người ta mời, người ta trọng vọng…

Nhưng, hình dung của tôi về Bằng Việt không chỉ có vậy, mà xa xôi về quá khứ. Ở cái tuổi mới lớn, vừa bươc chân vào cổng trường đại học, mấy cậu sinh viên trường canh nông chúng tôi yêu văn chương, mỗi chiều thứ bảy lại kỳ cạch đạp xe từ Trâu Quỳ Gia Lâm vượt cầu Long Biên sang Thanh Xuân Mễ Trì để dự các đêm thơ sinh viên khoa Văn Đại học Tổng hợp. nghe Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Huy Nhuận, Đặng Huy Giang, Kai Quỳnh Nam… đọc thơ. Có người không đọc thơ mình lại đọc thơ Olga Bergol, “Bài thơ cuộc đời”, “Mùa hè rớt”. Những vần thơ trữ tình say đắm qua bản dịch của nhà thơ Bằng Việt làm lay động lòng người. Chúng tôi nghe ngây ngất, thích lắm và thầm ước ao được gặp gỡ nhà thơ Bằng Việt một lần cho thỏa lòng hâm mộ. Ngày ấy, bài thơ Bếp lửa, Về hỏa tuyến thăm con, Tình yêu và báo động và một số bài thơ trong tập thơ “Hương cây Bếp lửa” in chung với Lưu Quang Vũ, được đông đảo người yêu thơ khen ngợi, nên Bằng Việt đã sớm có vị trị trong lòng bạn đọc. Là sinh viên, có tí máu văn chương trong người, ai mà không thuộc những câu thơ mê đắm của Bằng Việt “Đồi trung du phơ phất bóng thông già Trường sơ tán buồn trong chiều lặng gió/Những câu thơ đi suốt đời vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu/ Lẵng qua thông trong suối nhạc nhiệm màu /Hay Chuyến xe đêm thẫn thờ mê đắm/ Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm/ Một khoảng trời vĩnh viễn ướp hương hoa… (Nghĩ về Pauxtovsky). Các cậu chàng, cô nàng bụng đói nhệu nhạo nhai và rướn cổ nuốt khan miếng bột mì nắp vung luộc cho ấm dạ mà trong đầu vẫn ngân vang những câu thơ như thế của Bằng Việt. Mới thấy sức mạnh của thi ca ma mị đến cỡ nào. Khi ấy, Bằng Việt thật sự là bậc tiên thánh thi ca của giới sinh viên Việt cả một thời gian dài.

Phần  thơ dịch, thơ Nga với Olga Bergol, X. Exenin và các tác giả khác (Puskin, Lermontov, Akhmatova, Gamzatov, Étusenko); thơ Thổ Nhĩ Kỳ với Nazim Hikmet, F.G. Lorca (Tây Ban Nha), P Neruda (Chile), P. Eluảd (Phap), Y. Ritsos (Hy Lạp)….trong số các bản dịch của nhiều người thì Bằng Việt cũng nổi trội và được người ta yêu thích hơn cả. Không dưới một lần, đối thoại văn chương với nhà thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa, nhận định, Bằng Việt là một trong số ít người ở xứ ta dịch thơ nước ngoài hay nhất. Dịch văn học đã khó rồi, dịch thơ lại càng khó hơn. Bằng ngôn từ đẹp, trau chuốt, giàu hình ảnh và nhạc điệu, Bằng Việt đã “Bằng Việt hoá” những Olga Bergol, Exenin, Pauxtovsky, Nazim Hicmet và tất thảy các nhà thơ thế giới mà ông đụng đến… Chất thơ ấy được người ta chấp nhận và bị nó ru ngủ khi nào không hay. Quan trọng là, sau mấy chục năm trời, giờ đọc lại những bài thơ Bằng Việt dịch ngày ấy vẫn thấy hay. “Trên má mơ hồ tơ nhện bay giăng/ Khe khẽ như không, nhẹ nhàng phơ phất/ Lanh lảnh bầy chim đi muộn nhặt/ Hoa cuối mùa sặc sỡ đến âu lo…”, hay là “Sao ơi sao sắp rụng vào đêm/ Ta biết lắm thời gian đang vĩnh biệt…” (Mùa hè rớt, Olga Bergol) là những câu thơ như thế. có sức sống mãnh liệt, phần lớn nhờ bản dịch tuyệt vời của Bằng Việt.

Nhớ về quá khứ để có một cái nhìn bao quát về con người thơ Bằng Việt, dịch thuật và sáng tác nói chung. Bẵng đi nhiều năm, tôi không chú ý đến thơ Bằng Việt nữa. Bởi nhiều lẽ, tôi tốt nghiệp đại học vào Nam nhận việc, rôi lang bạt gần chục năm lại ra Bắc làm báo, kiếm ăn với lo toan thường nhật. Thêm nữa, khi ấy có hàng loạt cậy bút thơ trưởng thành từ chiến tranh, sau Phạm Tiến Duật là những Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Ngọc Cảnh,… đem đến luồng sinh khí mới cho thi ca Việt, ít nhiều lấn át chất thơ hàn lâm và lãng mạn hơi hướng tiểu tư sản một thời. Và lẽ dĩ nhiên, thơ Bằng Việt không thuộc luồng khí mới mẻ đó. Và chẳng rõ, luồng sinh khi thơ mới mẻ đó có tác động đến Bằng Việt hay không, song ông cũng không thể sáng tác như trước nữa? Ở vào thời điểm đó, những năm cuối của thế kỷ 20, thực tế cuộc sống thiếu thốn, khốn khó khiến người ta không thể sống bằng khát khao lý tưởng hão huyền mà phải vập mặt vào chuyện cơm áo gạo tiền của cuộc sống hang ngày trong cơn bĩ cực. Tôi nghĩ, Bằng Việt có lẽ không quen với bầu không khí này, song ông chẳng thể mãi bay bổng phiêu du với những vần thơ êm ái ru rín như ông từng dịch và sáng tác ngày nào.

Quả vậy, sau này, tuyển tập thơ thời kỳ đổi mới của Bằng Việt cho thấy rõ điều này. Không thể không ghi nhận ý thức và dụng tâm đổi mới của Bằng Việt, song người ta không thấy ở thơ ông một diện mạo mới của sự sáng tạo mà chỉ thấy ở đó sự gượng gạo của việc cố tình làm khác đi mà thôi. Thơ ngắn, nghèo nhạc điệu nên ngôn từ suồi suội chuội đi, chẳng hồn vía gì mà ý tứ cũng không rõ, hoặc là triết lý vụn. Hình như ông không quen việc cấu tứ một bài thơ, bởi ông chỉ quen đến thành quán tính làm đẹp những vần thơ bằng tiếng Việt từ những bài thơ hay có sẵn của những tác giả nổi tiếng. Có cảm giác, thơ thời kỳ đổi mới của ông cứ nằm đâu đó bên ngoài cuộc sống. Lại như, sự nổi trội và thành công của dịch thơ khiến Bằng Việt như người đi trên mây và ông không xuống mặt đất được nữa. Ngỡ có một Bằng Việt hoàn toàn khác, chẳng dính líu gì đến Bằng Việt xưa, mà cũng chẳng thấy một sự tiếp biến nào của hai thời kỳ. Song ông cũng không thể viết như xưa cũ, nên thành ra “đi mắc núi trở lại mắc song”. Hơn ai hết, hẳn ông tự hiểu tình trạng này của mình. Có thể nói, Bằng Việt đã mất mình với phần thơ sau này.

Bằng cớ, mới gần đây, Bằng Việt gửi đến Tạp chí Nhà văn & cuộc sống bài thơ “Đọc lại Dế mèn phiêu lưu ký”, khi biên tập xếp số, tôi thấy bài thơ là lạ với những bài thơ đổi mới sàu này của Bằng Việt. HơiNhu thơ cu cũ nhưng ngôn từ khang khác. Bài thơ như bị chia thành hai mảnh, Mảnh đầu đặc cũ “Một chút gì trong vắt, quá mong manh/ Như dĩ vãng xa xưa thức dậy/ Bỗng phấp phỏng yêu đời biết mấy/ Nhớ về tuổi thơ, những vầng sáng lạ lùng/ Nhớ da diết một hang rào dâm bụt/ Một goc bình yên, thu vén bên trong…” Những khổ thơ sau, hơi thơ cu cũ nhưng ngôn từ không cũ cũng chẳng mới lại có phần lộ cộ không yên vị, thiếu trau chuốt. Tôi đem điều này hỏi Bằng Việt. Ông ngẫm nghĩ chút, bảo: “Cậu thấy thế à? … Tinh đấy. Bài thơ này, mình khởi thảo từ cuối những năm 70, nhưng thấy không ổn mình để lại. Quãng những năm hai nghìn mình viết lại nhưng vẫn giữ khổ thơ đầu. Nhưng rồi vẫn chưa ổn nên mình không đưa vào tập nào cả. Gần đầy, mang viết lại nhưng vẫn giữ nguyên khổ thơ đầu. Vậy thôi”. Bằng Việt nhìn xa xôi đâu đó. Có lẽ, câu chuyện đưa ông về dĩ vãng, một thời vang son của Bằng Việt?...

Biết là ông vẫn chăm dịch thơ. Nghe nói, ông sử dụng được mấy ngoại ngữ. Không chỉ dịch xuôi, Bằng Việt còn dịch ngược, ví như ông dịch thơ Nguyễn Đình Thi sang tiếng Pháp. Chẳng rõ chất lượng ra sao, nhưngg thực tâm, tôi không mấy tin tưởng. Chỉ cảm phục nỗ lực và sự cần mẫn theo đuổi thi ca của một người  cả đời mải miết đi tìm cái đẹp. Mải miết đến quên mình. Chí ít, khi dịch thơ, ông vẫn có thể “Bằng Việt hoá” thơ thiên hạ, bởi đấy là sở trường của ông, lĩnh vực đã làm nên tên tuổi và sẽ vẫn tiếp tục lưu giữ tên tuổi ông trong long người yêu thơ xứ Việt mình !?... 




 


Nhận xét