@@@
TÀO MẠT
Tên, Tài & Tâm
1
Năm 1991, tôi còn nhớ, khi đó, Trần
Đăng Khoa đang học tại Đại học Gorky bên Nga, một lần về phép, tới chơi, Khoa rủ
tôi đến thăm Tào Mạt vì nghe nói ông bị ung thư. Lúc ấy, ông sống ở căn nhà do
quân đội tạm cấp tại phố Nhà Binh – Lý Nam Đế với bà vợ từ quê lên chăm bệnh
cho chồng và ngày ngày đi bán trứng thêm thắt.
Ông có tên thật là Nguyễn Đăng
Thục, quê Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Tây cũ. Vì khâm phục khí phách của Tào Mạt, một
võ tướng nước Lỗ mà lấy tên vị tướng này làm bút danh của mình. (Thời Đông
Chu Liệt Quốc của Trung Hoa cổ đại, người đã dám dùng vũ khí uy hiếp vua nước Tề-Tề
Hoàn Công, bá chủ chư hầu, tại hội thề của các nước chư hầu nhà Chu, ép Tề Hoàn
Công trả lại phần đất mà nước Tề đã chiếm lấy từ nước Lỗ, khôi phục lãnh thổ và
danh dự cho vua Lỗ là Lỗ Trang Công).
Tôi cứ ngỡ sẽ bắt gặp một ông Tào
Mạt ốm o, nằm bẹp trên giường bệnh, kiệt sức và suy sụp tinh thần. Nào ngờ, người
ra mở cửa cho chúng tôi lại chính là ông – một Tào Mạt với dáng vẻ hoạt bát,
vui vẻ lắm. Ông không giấu bệnh như nhiều người khác khi không may bị căn bệnh
hiểm nghèo này. Ông chỉ cho Khoa và tôi xem những chuỗi u, cục to nhỏ, lổn nhổn
suốt từ tay đến chân bên trái, rồi phủi tay bảo: “Thây kệ nó, việc nó nó
làm, việc mình mình làm”. Chao ơi, người nói về căn bệnh sẽ hành chết mình
nay mai một cách thản nhiên, hài hước như vậy thì không biết ý chí, nghị lực đến
nhường nào?... Khoa nhìn đống giấy tờ ngổn ngang nơi bàn giấy, hỏi: “Quan
bác đang làm gì vậy?”. Tào Mạt phấn chấn: “A...Mình có người quen công
tác ở Trung Quốc mua tặng trọn bộ Đỗ Phủ. Mình đang gấp rút dịch toàn bộ thơ Đỗ
Phủ... Nếu nó để cho mình rảnh tay... nếu còn kịp thì mình sẽ viết một vở kịch
về Đỗ Phủ. Trong số các nhà thơ đời Đường, ông này là gần dân nhất, lầm than nhất...”.
Rồi ông hỏi han Khoa về văn học Liên Xô thời biến động, đàm đạo về văn chương,
nói say sưa về Tam Quốc Diễn Nghĩa và Hồng Lâu Mộng.
Trời chiều, Khoa mời ông đi ăn
quán, ông lo chuyện cơm nước cho vợ vì thương bà đi bán trứng về mệt, song ông
vẫn nhận lời. Ngồi trong quán ở phố Cấm Chỉ, ông nhấm nháp chút ít mằn thắn
không mì với chén rượu thuốc. Trong câu chuyện, ông nhiều lần nói với Khoa về
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh và khen những sáng tác của chị, rồi lại tỏ ra băn khoăn vì
việc Đạo Tĩnh muộn lập gia đình. Nhiều lúc ông lặng đi, mắt nhìn thẳng vào đâu
đó thinh không, như không nghe không thấy gì sự huyên náo của một phố ẩm thực.
Ngỡ như ngồi đấy mà tâm trí ông như để ở phương nào...
Sau lần gặp ấy, tôi có viết một
bài báo với nhan đề Nhà viết kịch Tào Mạt đối diện với căn bệnh hiểm
nghèo. Chừng gần nửa năm, một lần nhà thơ Lâm Huy Nhuận nghe đâu tin
Tào Mạt bị ung thư, thế là anh đòi tôi đưa anh đến nhà Tào Mạt. Tôi ngỡ ông đã
quên tôi, nhưng không, ông trách nhẹ: “Trần Đăng Khoa đi Nga rồi, còn cậu,
sao lâu không đến mình? Mình có biết bài cậu viết về mình. Thật quý hóa! ”.
Khi tôi giới thiệu Lâm Huy Nhuận, ông nắm chặt tay Nhuận bảo: “Tên và thơ cậu
thì mình có biết, nhưng người thì nay mới gặp, âu cũng là duyên kỳ ngộ đưa cậu
đến thăm mình”. So với lần trước, trông thần thái ông có kém, song ông vẫn
rất vui.
Lâm Huy Nhuận biết nghề thuốc, lại
khá Hán Nôm, anh đòi Tào Mạt lấy nghiên mực, bút lông để anh kê đơn một bài thuốc
tiêu ung cổ. Tào Mạt cầm đơn xem cười chỉ cho Nhuận những chữ viết không chỉnh,
rồi ông lại đòi Nhuận viết vào đơn lời đề tặng bằng chữ Hán là Lâm Huy Nhuận kê
cho Tào Mạt. Vừa khi ấy thì ông có khách, một người bạn già. Tào Mạt mời rượu mọi
người, nói chuyện với người bạn về thuở kháng chiến, về thơ Phùng Quán. Lúc
này, ông mới biết Lâm Huy Nhuận là con trai nhà thơ Yến Lan. Thế là ông xoay
sang nói chuyện về Yến Lan và nhóm thơ Tứ
Linh của đất
Bình Định (Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên). Bầu không khí
chuếnh choáng, chủ khách đều cao hứng đọc thơ. Tào Mạt đọc thơ người, thơ bạn
và thơ mình. Thơ ông hầu như là thế sự, và tôi đồ rằng những bài thơ này ông
không in ở đâu cả, chỉ viết cho chính lòng ông và thi thoảng đọc cho bạn bè
nghe chơi. Nhìn ông say, ông vui mà tôi cứ bùi ngùi, tôi hiểu, với ông giờ đây,
những phút giây như vậy thật là quý, bởi sau đó, ông phải lặng lẽ lo cho vợ
con, lo kịp viết xong những điều tâm huyết dang dở trong cuộc chạy nước rút cuối
cùng với căn bệnh quái ác giết dần ông từng giờ, từng ngày... Và tôi cũng hiểu,
ông chiều lòng Lâm Huy Nhuận kê đơn, yêu cầu ghi đề tặng, là để làm kỷ vật, chứ
người am tường, giỏi Hán Nôm như ông, tự thân biết thuốc chỉ chữa được bệnh, chứ
nào đâu chữa được mệnh. Lúc ra về, Lâm Huy Nhuân cứ lẩm bẩm “Hủ nho, hủ nho…
đúng là hủ nho”. Tôi xuýt bật cười, bởi tôi hiểu, anh bực mình vì Tào Mạt
không dùng đơn thuộc anh kê, chẳng những thế lại thẳng thừng chê anh chữ Hán còn
chưa chuẩn,…
Tôi nhớ, hôm tôi cùng Trần Đăng
Khoa thăm ông, Khoa nói có thấy băng ghi âm bộ Bài ca giữ nước được dân
xuất khẩu lao động bán ở bên Nga, cũng như sau đó, biết băng ghi hình bộ ấy được
Việt Kiều yêu thích, lùng mua ở nước ngoài, ông bình thản, tuyệt nhiên không hề
nhắc đến chuyện tiền bạc, vi phạm bản quyền, chỉ cười hiền: “Thế á!... Thật
may... là người mình vẫn yêu thích, trân trọng văn hóa truyền thống dân tộc. Sợ
nhất là sự vong bản về văn hóa! ”.
Hôm ông mất (năm 1993), người đến
tiễn biệt ông ở nhà tang lễ Bộ Quốc phòng – số 5 Trần Thánh Tông đông lắm. Tôi
nhớ, khi ấy là mùa xà cừ rụng lá. Lúc đám tang cất rồi, cả đường Trần Thánh
Tông heo hút, chỉ bời bời lá xà cừ rụng... Chắc hẳn, những vở chèo ông viết, dù
là ở dạng văn bản, băng ghi âm, hay băng ghi hình, và rồi sau này có thể người
ta tiếp tục dàn dựng lại trên sân khấu, thì chúng vẫn sống với thời gian, có sức
lay động lòng người!...
2.
Mấy chục năm qua, sau khi Tào Mạt qua
đời, với xu thế mới xã hội, cùng sự bùng nổ của truyền hình rồi sự ra đời và phát triển vũ bão của mạng xã hội,
chèo và các loại hình sân khấu truyền thồng khác nói chung (tuồng, cải lương…)
bị lắng xuống và lâm vào tình trạng ngoắc ngoải. Các đoàn nghệ thuật truyền thống
cầm cự, thoi thóp, dựng vở là để tham gia hội diễn lấy huy chương làm sang cho
đoàn và danh hiệu cho diễn viên giắt lưng phòng khi xét nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ
nhân dân hơn là biểu diễn cho người xem. Và đương nhiên, các bạn trẻ sinh từ những
năm chin mươi của thế kỷ trước đổ lại saiu hầu như không biết đến cái tên Tào Mạt
cùng bộ ba chèo Bài ca giữ nước của ông lãy lừng sân khấu nước
nhà một thời. Kịch của Lưu Quang Vũ thì vẫn có đoàn dựng lại đôi ba vở, nên người
ta còn nhớ tên. Sân khấu truyền thống hầu như không diễn rạp, sân khấu phát
thanh và sân khấu truyền hình thì cũng cầm chừng cho có mà thôi, chứ khán thính
giả không mấy mặn mà. Nghĩ mà buồn, nhưng chẳng thể khác,…
Năm 2022, Tạp chí Nhà văn &
cuộc sống của Hội Nhà văn Viêt Nam tổ chức cuộc thi viết cho chuyên mục “Chân dung cuộc sống”,
bài tham gia cuộc thi rất nhiều, trong đó nổi bật hơn cả là mảng chân dung văn
nghệ sĩ. Chung khảo, có bài viết của một nhà văn khá nổi tiếng nọ khắc hoạ chân
dung nghệ sĩ nhân dân Tào Mạt, được cân nhắc trao giải cao nhất của cuộc thi. Bài
viết khá sinh động, khắc hoạ sắc nét tính cách và ít nhiều bắt được thần thái
con người Tào Mạt, thế nhưng nhân vật chỉ nổi bật chất con người khí tiết chứ
phần về tác phẩm và sự đóng góp của Tào Mạt với nghệ thuật chèo lại nhẹ bẫng và
sơ lược. Có ý kiến cho rằng, viết chân dung văn nghệ sĩ, thậm quan trọng là phải
đánh giá được vai trò của người đó đã đóng góp được gì cho lĩnh vực nghệ thuật
mà họ theo đuổi, hoạt động? Đúng vậy. Chiểu theo quan điểm này thì bài viết
chân dung Tào Mạt của nhà văn nọ nhẹ thật. Ban chung khảo cân nhắc kỹ lưỡng và
chỉ trao giải nhì cho bài viết đó. Đang tiếc thay!
Đề cập chuyện này, để bàn đến phần
không thể thiếu , thậm chí quan trong khi khắc hoạ chân dung kịch tác gia Tào Mạt.
Có thể nói, Tào Mạt là một người có tài, đầy tâm huyết và có công lớn trong việc
gìn giữ loại hình chèo truyền thống, không những thế, ông còn đơn thương độc mã
làm cuộc cách tân chèo. Tào Mạt sớm nhận ra xu hướng thời đại, rất có thể không
riêng gì chèo mà các loại hình sân khấu cổ truyền nói chung sẽ khó bắt kịp nhịp
sống đương đại mà rớt lại phía sau, nên ông đã mạnh dạn và quyết tâm làm một cuộc
thử nghiệm cách tân chèo cổ thông qua âm nhạc và lối hát nói gần với ngôn ngữ đời
thường… Ở đây, xin không bàn sâu về nội dung cách tân, chỉ biết, cuộc cách tân bắt đầu từ các hoạt cảnh chèo đến
vở chèo đề tài hiện đại (Trong phòng trực chiến, Đình cao phía trước, Đường
về trận địa, Nguyễn Viêt Xuân…). Đặc biệt, khi chọn đề tài cổ sử, bộ ba vở
chèo Bài ca giữ nước (gồm Lý Thánh Tông tuyển hiền, Nhiếp
chính Ỷ Lan, Lý Nhân Tông kế nghiệp) ông cũng mạnh dạn thử nghiệm sự
cách tân của mình. Dường như ông muốn chứng minh, khi đã có phương pháp thì đề
tài gì, kim hay cổ cũng làm được. Khán giả xem, nghe và chấp nhận, thậm chí
khen ngợi, vậy là ông thành công. Song le, đấy là thử nghiệm với thành công bước
đầu. Còn về lâu dài, sự cách tân ấy mà Tào Mạt khởi xướng và thử nghiệm, có trở
thành hình thức phổ biến, thành xu hướng mới của nghệ thuật chèo hay không thì
chưa rõ. Cho dù thế nào, đấy cũng là sự đóng góp đáng kể của Tào Mạt với nghệ
thuật sân khấu chèo.
Đáng tiếc thay, dũng khí và sự tâm huyết
thì có dư, nhưng sức khoẻ và bênh tật thì không cho phép Tào Mạt tiếp tục thử
nghiệm và đi đến khẳng định việc cách tân chèo của mình. Tào Mạt rời cõi tạm
(1993) khi mọi việc còn ngổn ngang, dang dở. Nay thời đại của công nghệ, trí tuệ
nhân tạo đang gây bão, thử thách mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, cả sự
sáng tạo nghệ thuật nói chung, vậy thì nghệ thuật chèo của ta sẽ đi về đâu, nào
ai đoán định được?...
Tào Mạt là kịch tác gia. Chẳng hiểu
sao, cuộc đời ông lại có một cái kết đầy chất kịch, mà là bi kịch. Sau này, nhà
thơ Trần Đăng Khoa kể chuyện. Ở vào giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư, ông yếu
lắm phải nằm viện cầm cự. Bà vợ quê mùa từng đi bán trứng thêm thắt vào để chăm
bệnh cho ông khi bệnh chưa quá nặng, lại vào viện đêm hôm khuya sớm chăm ông những
ngày cuối cùng. Nghe đâu, trước đây, Tào Mạt cũng có lúc than thở với bạn hữu
thân tình, rằng ông tiếc là bà vợ thật thà tốt tính đấy nhưng quê mùa quá nên
không thể cùng ông tiếp khách, giao đãi chuyện văn chương. Cậu con trai thương
mẹ vất vả lên chăm bố đỡ mẹ thì lại không may bị tai nạn giao thông tử vong. Bà
vợ quê mùa ấy đã làm một việc không tưởng. Ấy là, bà đã giấu chồng lặng lẽ nén
nỗi đau tột cùng lo ma chay cho con trai, nhưng lúc chăm ông thì vẫn nói năng
bình thường, thậm chí phải làm bộ tươi tỉnh để ông không nghi ngờ gì, bà nói dối
rằng con bận đi đâu làm việc gì đó, lúc ông muốn gặp con căn dặn, trối chăng. Mỗi
lần vậy, bà đã kìm nén dối ông, nhưng ra khỏi buồng bệnh ông đến một góc hành
lang thật xa bà mới bật khóc tức tưởi. Bà khóc con, thương chồng, không muốn
ông biết tin đau xót ấy mà gục ngã, bà khóc cho cả thân phận khổ ái đến tận
cùng của mình! Ông ra đi, bà sẽ dống ra sao những năm còn lại của cuộc đời? Và nếu
cha con ông có gặp nhau ở thế giới bên kia, thỉ hẳn, họ sẽ thương bà bao nhiêu
cho xiết, hả trời?!... Trớ trêu thay, cả một đời ông theo nghiệp kịch nghệ, hát
xướng, từng chứng kiến biết bao vai diễn song đâu có ngờ rằng, vai diễn tài nhất,
bi nhất lại chính là người vợ quê mùa của mình khi bà phải làm “diễn viên bất
đắc dĩ” trong vở kịch cuối cùng của đời ông!...
Cho dù có thế nào đi chăng nữa, giờ
tôi vẫn ước, được biết về một sự đeo đuổi đầy tâm huyết khác nữa của Tào Mạt
khi ông còn sống, ấy là những bản dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng đời Đường
mà ông kính nể và yêu thích, ra sao?...
Nhận xét
Đăng nhận xét