@@@
NGUYỄN ĐỨC TÙNG –
Thơ là chốn để mình đau với đời
Nguyễn Đức
Tùng,
Ông là một
doanh nhân thành đạt,
Nhưng trước hết,
ông là một người lính, một nhà thơ,
Vậy mà lần đầu
tiên chạm mặt, tôi đã nhầm ông với một nhân vật trùng danh tính nổi tiếng khác,
Một sáng đầu hạ
2025, tôi đến tòa soạn tạp chí Nhà văn & cuộc sống ở trụ sở Hội
Nhà văn Việt Nam- số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, đã thấy nhà thơ Trần Đăng
Khoa, Tổng biên tập Tạp chí đối ẩm trà với một vị khách. Trần Đăng Khoa chỉ vào
người khách, hào hứng giới thiệu: “Đây là nhà thơ Nguyễn Đức Tùng”.
Nghe vậy, tôi à lên:”Nguyễn Đức
Tùng, từ Canada về,…”.
Khoa vội cải chính ngay:”Không phải.
nhà thơ Nguyễn Đưc Tùng này khác. Anh ấy ở trong nước thôi… Còn là một doanh
nhân”.
Vậy là câu
chuyện của ba chúng tôi bắt đầu như thế, rỉ rả chuyện thơ chuyện đời hết cả buổi
sáng không chán. Sở dĩ tôi nhầm ông với một người nổi tiếng khác, ấy là nhà
nghiên cứu văn học Nguyễn Đức Tùng, một Việt kiều định cư ở Canada, lâu nay được
biết với các chuyên luận về thi ca, người từng đối thoại văn chương với nhà thơ
Trần Nhuận Minh (anh trai của nhà thơ Trần Đăng Khoa) từng nổi tiếng qua
cuốn sách “Đối thoại văn chương” do nhà thơ Trần Nhuận Minh biên soạn.
Thêm nữa, cũng vào thời điểm ấy, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng từ Canada về Việt
Nam chuẩn bị lễ ra mắt tập sách mới của ông –“Thuyền” do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn ấn hành.
Trở lại câu
chuyện buổi đầu gặp mặt, nghe Nguyễn Đức Tùng đọc thơ một hồi, tôi mạn phép ông
đưa ra mấy nhận xét cảm tính của tôi, thẳng thắn, không mấy dễ nghe nếu là người
tự ái. Nhưng không, Nguyễn Đức Tùng cười, đưa tay ra bắt tay tôi rất chặt: “Ông
nói đúng. Thẳng thắn, bộc trực, không vuốt ve,… Tôi thích tính cách này. Tóm lại,
ông là người chơi được. Tôi tin thế”. Cả ba chúng tôi cùng cười sảng khoái.
Từ đó, chuyện không cần phải đề phòng haydè chừng nữa mà thoải mái cao đàm
khoát luận. Đấy là cơ sở để sau đó câu chuyện về Nguyễn Đức Tùng từ thi ca đến
cuộc đời, dần hé lộ trong mắt tôi.
Nguyễn Đức
Tùng sinh năm 1952, tuổi Nhâm Thìn ở một làng quê vùng bán sơn địaThanh Thủy,
Phú Thọ, bên bờ sông Đà khúc lượn quanh chân Ba Vì, Tản Viên sơn. Tốt nghiệp phổ
thông, Nguyễn Đức Tùng nhập ngũ cuối năm 1970 như bao thanh niên trai tráng
khác bởi khi đó, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đang vào giai đoạn ác liệt.
Cuộc đời lính tráng cứ thế mải miết, đi đâu, làm gì là lệnh cấp trên. Đi chiến trường B từ 1971, bộ binh rồi là
lính thông tin dây trần thuộc Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc, xây dựng Đường dây Thống Nhất từ Lệ Thủy, Quảng
Bình – Đắc Siêng, Gia Lai, phục vụ các chiến dich Xuân hè Quảng Trị 1972, giải
phóng Tây Nguyên 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn thống nhất đất
nước năm 1975.
Hành trình người
lính như thế, là bom đạn tránh mình, để Nguyễn Đức Tùng sống mà thành kỹ sư chế
tạo máy, thành doanh nhân và thành nhà thơ. Ngày ấy ở chiến trường, nhà thơ áo
lính Phạm Tiến Duật, một đồng hương Phú Thọ nổi như cồn, còn chàng lính Nguyễn
Đức Tùng cũng tập tọng thơ phú. Ông kể, khi đó, cấp trên thấy cậu lính trẻ có
khiếu chữ nghĩa nên cử đi học bồi dưỡng viết tin. Là lính thông tin, được tiếp
xúc với mấy cây thơ cùng binh chủng là Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Quang Chuyền, Phạm
Khắc Vinh, Trọng Việt... càng thôi thúc anh chàng làm thơ. Không ngờ bài báo tường,
bài thơ “Nơi hai cầu treo” lại được nhà thơ Trung tá Xuân Miễn
mang ra Bắc đăng báo Quân đội nhân dân, năm 1973:”Buớc nhẹ khoan thai
hẳn đồng chí đã già/ Nhún nhảy, đung đưa là bước chân lính trẻ,/ O giao liên
sáng nào chẳng thế,/ qua cầu thường đứng lại soi gương…./ Kỷ niệm qua cầu đọng
lại trong anh,/ còn một cây cầu anh qua mà chưa thấy/ là đường dây trần cao hơn cầu
treo ấy,/ chiếc cầu riêng cho những dòng tin…”. Bài thơ mang dấu ấn đặc
trưng của binh chủng Thông tin liên lạc ấy được đăng báo trung ương khiến tâm hồn
chàng lính trẻ bay bổng, tự tin rằng mình cũng có thể làm thơ, có thể thành nhà
thơ. Và kể từ ngày ấy, Nguyễn Đức Tùng tự bắc thêm cho mình một cây cầu treo nữa,
cây cầu thứ ba - cầu Thi ca. Vậy là ông nhũng nhẵng, đung đưa, đánh đu với cây
cầu thi ca cho đến giờ, và dần dần chạm vạch đích, ấy là tập thơ “Dặn con”
này. Ngẫm thấy ở làng văn thơ xứ mình, tuổi Nhâm Thìn (sinh 1952) lắm người tài
hoa, có nhiều nhà thơ áo lính thành danh như Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Huy Nhuận,
Nguyễn Việt Chiến…
Thực ra, ngày
đó, có thơ đăng báo đã tạo cho chàng lính Nguyễn Đức Tùng sự tự tin làm thơ khi
cảm thấy cần phải viết một cái gì đó để lưu giữ, chưa hẳn kích hoạt một cây
bút, nên chàng chỉ viết những điều mình đã trải qua, chứ không viết như dân
chuyên nghiệp với dụng ý lập ngôn. Có lẽ vậy, thơ thời lính của ông không nhiều,
lại chủ yếu viết về công việc của người lính đường dây (các bài thơ Nơi
hai cầu treo, Tiếng vỗ ba lô, Gùi, Chuyện
có gì đâu, Bài thơ không nói hết, Quả Thạch, Ba lô lộn, vv.vv…), chỉ đủ
cho Nguyễn Đức Tùng ghim lại ký ức về một thời tuổi trẻ quân ngũ chiến tranh.
Trở lại với tuổi thơ của doanh nhân
thành đạt hôm nay, ngày nhỏ đi học ở quê, Nguyễn Đức Tùng học giỏi đều các môn
và ở tất cả các cấp học. Lên 11 tuổi học làm thơ, khi đó thần đồng Trần Đăng
Khoa còn chưa xuất hiện. Sở trường là môn toán, nhưng lại yêu văn chương, thi
thoảng vẫn tập tọe viết. Điều này lý giải vì sao, sau khi kết thúc chiến tranh
chống Mỹ, năm 1977 phục viên về quê, Nguyễn Đức Tùng ngồi ghé vài tháng với học
sinh lớp 10 trường huyện Thanh Thủy, Phú Thọ ôn lại kiến thức cũ sau 7 năm
buông sách vở, thi đại học và trúng tuyển ngay vào khoa Cơ khí chế tạo máy của
Đại học Cơ Điện (nay là trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên). Ông kể lại,
ngày ấy có cậu đàn em cùng lớp ôn thi có khiếu văn chương rủ cùng thi vào Tổng
hợp Văn, nhưng Nguyễn Đức Tùng từ chối bảo là văn chương vốn bạc, khó sống lắm,
cần tìm một nghề kỹ thuật để nuôi sống bản thân và phục hưng gia đình. Theo học
ngành cơ điện, ông chỉ nghĩ đơn giản, nếu không xin được việc làm thì mở một cửa
hàng nhỏ chuyên chữa xe máy kiếm sống, ngồi nhờ vỉa hè nhà ai cũng được. Ai ngờ,
sau này Nguyễn Đức Tùng lại là kỹ sư giỏi, thuộc tốp đầu các công trình trọng
điểm cấp quốc gia như Thủy điện Hòa Bình (Sông Đà), Thủy điện Vinh Sơn (Bình Định),
Thủy điện Sông Hinh (Phú Yên), Thủy điện Cần Đơn ( Bình Phước), Thủy điên Yaly
(Gia Lai), Hầm đường bộ qua Đèo Ngang (Dự án BOT giao thông đầu tiên của cả nước,
mà ông là chủ biên và thực hiện). Hai mươi lăm năm (1982 – 2007) lên rừng làm
thủy điện cần mẫn và tận tâm, vô hình chung đã luyện cho ông có “Bản lĩnh Doanh
nhân” …. Chính thời kỳ làm kỹ sư
công trình, khi phụ trách chế tạo các cấu kiện cơ khí và các đội lắp ráp các cấu
kiện đó để thi công hệ thống hầm, lăn lộn hàng ngày, nhiều năm ở trong hầm cùng
anh em và chuyên gia Liên Xô, Nguyễn Đức Tùng có được chút hào quang văn
chương. Bài thơ “Gửi người đi hầm” đoạt giải A của Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Tổng Liên Đoàn lao động Việt Nam đồng tổ chức sáng tác
về Công trường Thanh niên cộng sản Hòa Bình năm 1998: “Chúng mình đi dưới
đáy hành tinh,/ Bước cần mẫn trong điệp trùng thớ đá./ Đá ngạo nghễ, đá già
ngàn triệu tuổi,/ Còn chúng mình đang sống tuổi hai mươi…”. Chỉ với khổ thơ
mở đầu, Nguyễn Đức Tùng đã phác họa nên tầm vóc, diện mạo và khí thế công trình
thế kỷ rồi. Giải thưởng này đã khích lệ ông tiếp bước với nghề kỹ sư công trình
và mang theo hành trang tinh thần là thơ ca. Bài thơ đã trở thành tài sản chung
của những người thợ Sông Đà, ai cũng thuộc nó, liên hoan nào cũng đọc nó, mọi
người gọi nó là “Tổng công ty ca”. Bài thơ mang đến cho ông niềm vinh dự,
đồng thời cho ông nhận thức về hiện thực đời sống và thơ... Thế nhưng, khi bước
chân ra với đời sống xã hội, thoát khỏi những ràng buộc, khuôn khổ này nọ, Nguyễn
Đức Tùng mới thực sự bùng phát giải phóng sức lao động sáng tạo nghề nghiệp để
trở thành một doanh nhân mà vẫn vắt vai tay nải thơ ca. Có tận mắt chứng kiến
quang cảnh Công ty Hợp Lực ở Khu công nghiệp Quế Võ II, Bắc Ninh do ông là Chủ
tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc điều hành, luyện thép từ phế liệu thành
thép tiêu chuẩn quốc tế, mới thật sự khâm phục Nguyễn Đức Tùng. Ông đã biến các
trai làng địa phương thành những người thợ lành nghề, từ khâu lắp lò luyện đến
dây chuyền sản xuất ra thép thành phẩm. Ông đã tự cải tiến dây chuyền sản xuất
2000 tấn trên tháng thành dây chuyền sản xuất 6000 tấn trên tháng. Nghe ông kể
mà ngỡ như chuyện cổ tích. Ông nói vui với tôi về triết lý kinh doanh của ông,
“mua của thằng chán, bán cho thằng thèm” (mua phế liệu rồi chế tạo thành
chính phẩm). Có lẽ, sau nhiều năm lăn lộn với các công trình lớn tầm cơ thế kỷ
đã cho ông kinh nghiệm và bản lĩnh để làm nên thành công như ngày hôm nay ta thấy.
Với Nguyễn Đức Tùng, càng vượt khó thì ông cang yêu thơ. Có cảm giác thơ với
ông như một sự trợ giúp, hơn thế, một điểm tựa tinh thần để ông vượt qua bao trở
ngại trên con đường lập thân lập nghiệp?!
Vậy mà, yêu thơ, làm thơ, nhưng Nguyến
Đức Tùng không chủ trương lập ngôn. Thơ với ông là tiếng lòng, là chốn để tâm hồn
mình nương náu và để mình đau với đời. Khi đã quen nhau, ông không ngại, chợt
nghĩ một câu thơ nào đó, ông gửi cho nhà thơ Trần Đăng Khoa, hay gửi cho tôi đọc.
Sau lần tôi và Khoa lên thăm nhà máy sản xuất của ông, bỗng một chiều, ông gửi
cho tôi câu thơ “Gặp nhau, thơ bạn thơ tôi/ Chuyện thơ hỉ hả vợi rồi lại đau”.
Tôi biết ông đang tâm trạng nên nối vần, gửi lại “Cũng là cái cớ tìm nhau/
Thơ là chốn để mình đau với đời”. Ông khen, hay. Rồi sau chuyến ông đưa hai
chúng tôi về thăm quê ông, một làng quê nghèo vùng bán sơn địa thuộc Thanh Thủy,
Phú Thọ, nằm bên bờ Sông Đà, vọng xa dãy Ba Vì, nơi có cơ ngơi thờ tự do ông
xây dựng đẹp đến nuột nà mà trang trọng,
thành kính giữ đất gia tiên, gồm nhà thờ, tháp bút, lăng mộ song thân,
đài hạc, nhà khách, với một hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh...tạo thành một tổng thể
kiến trúc độc đáo, mà người trông giữ là
người chị ruột không lập gia đình, do chiến tranh thành quá lứa nhỡ thì vì chờ
người yêu đi bộ đội hy sinh; Rồi nghe ông kể chuyện nguồn gốc gia đình, thêm thấu
hiểu tâm trang, nỗi niềm và nguyên do vi sao ông đến với thơ, nhũng nhẵng suốt
đời với nó, như điểm tựa tinh thần, một nơi ẩn chứa tâm can và hơn thế, như một
duyên nợ . Và rồi, tôi chợt hiểu ra, Nguyễn Đức Tùng - thơ là chốn để mình
đau với đời. Thật vậy!...
Cái miền quê bán sơn địa ven bờ sông
Đà ấy là nơi cha sinh mẹ đẻ thật đấy nhưng không phải quê gốc của ông. Nghe
nói, quê gốc của ông thuộc Vĩnh Phúc, Phúc Yên chi đó, cụ tổ mang họ khác, có
tư tưởng kháng Pháp, giữ một chức quan ở địa phương, giữ thành cho Vua thời
Nguyễn suy bại. Năm 1882, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết khi bị mất thành Hà Nội
vào tay Pháp. Sau đó ít lâu, quân Pháp tập kích các phủ đệ vùng trung du và gia
đình cụ tổ của ông bị lính Pháp bắt và tru di ba họ, chỉ sót một cậu bé con 3
tuổi được người làm bế chay mang sang vùng Thanh Thủy, Phú Thọ bán, rồi được một
gia đình ở đó nhận nuôi, đến Nguyễn Đức Tùng là ba đời. Lập nghiệp ở vùng quê mới,
đến ông thân sinh Nguyễn Đức Tùng có trang trại, nhiều ruộng và nhiều nương sơn
(Phú Thọ có cây sơn lấy nhựa xuất khẩu ). Rồi biến động thời cuộc, lại trắng
tay, cậu bé Tùng thành con nhà nghèo, gắng học thật giỏi, đặng lập thân lập
nghiệp để không hổ hẹn với cha ông tổ tiên, nhưng lớn lên gặp thời chiến tranh,
không thể sống khác, chàng trai Nguyễn Đức Tùng đành gác lại bút sách nhập ngũ
như bao trai tráng cùng trang lứa, trải qua đời lính, đời thợ để rồi trưởng
thành nên người- một doanh nhân, thi sĩ như ta biết ngày hôm nay. Với thân phận
như vậy, hẳn tâm can ông ẩn chứa bao nỗi niềm không thể nói bằng ngôn ngữ thông
thường nên ông mang vào thơ,… Thực sự, có đau với đời thì mới biết cảm thông và
chia sẻ với người khác được,… Con người ta sống thế nào thì thơ cũng vậy!...
Theo lời Nguyễn Dức Tùng, năm 11 tuổi
đã tập tọng làm thơ, vậy mà đến nay, tuổi dư thất thập, dồn lại có bấy nhiêu
bài tập hợp trong tập thơ này. Nhiều nhặn gì đâu, đơn giản, bởi Nguyễn Đức Tùng
không định lập ngôn, không năn bóp, uốn éo ngôn từ để thành thơ như ai đó, mà
chỉ làm thơ để diễn đạt nỗi lòng như một nhu cầu tự tại. Những bài thơ thời ông
là lính chiến trường hay sau này khi ông là kỹ sư tham gia thi công các công trình trong điểm quốc gia,
ít nhiều mang không khí của thời đại và nội dung cũng có chất tuyên truyền, cổ
vũ này nọ. Đương nhiên là thế, khi mà các nhà thơ thành danh cũng đâu khác, cái
khác nhau là ở giọng điệu, ngôn từ của mỗi người,… Không giống ai, Nguyễn Đức
Tùng nói bằng giọng điệu, ngôn ngữ của mình, bộc trực, dễ hiểu, thông dụng,
không bay lượn uốn éo, cảm giác như ta ngồi đàm thoại với ông. Trực diện, dễ hiểu
đấy nhưng không đơn giản, bởi sự liên kết chặt chẽ như toán học trong một tổng
thể thống nhất. Đề tài thơ ông đa dạng mà giản dị, mỗi bài thơ là một vấn đề mà
ông gặp trong cuộc sống rồi tư duy, cảm xúc viết thành thơ, nhưng không dễ dãi,
ta bắt gặp trong từng bài thân phận và nỗi niềm của ông. Khi là người lính
trong bom đạn làm thơ, cũng như khi là doanh nhân trong thương trường nghiệt
ngã làm thơ, thì tư cách công dân của ông rất rõ, khát vọng về độc lập dân tộc,
lòng yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu cái thiện thật rạch ròi và trong sáng. Như
tôi đã nhận định, mặc dù Nguyễn Đức Tùng không chủ định ganh đua này nọ, ông rất
sát giải, hễ dự thi thơ là giật giải, mà giải cao. Thời ông làm công trình Thủy
điện Hòa Bình, bài thơ “Gửi người đi hầm” của ông đoạt giải Nhất
cuộc thi lúc ấy. Sau này, năm 1992, Nguyễn Đức Tùng lại đoạt giải Nhất cuộc thi
thơ do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định (cũ) tổ chức, với chùm thơ 5 bài (Với Hàn Mạc Tử, Thêm một nhành
hương, Dừa Tam Quan, Bài thơ không nói hết, Chia tay người
về hưu). Chẳng có gì to tát, song đấy thực sự là động lực để ông song
hành với thơ ca,…
Sau bao nhiêu năm tháng lao động sáng
tạo, cống hiến cho Nhà nước, khi cao tuổi, Nguyễn Đức Tùng mới bắt đầu tự thân
lập nghiệp ở tuổi 55 với chút vốn liếng và kinh nghiệm nghề. Ông bảo, bản tính
ông thích cái khó, thích sự thánh thức, đi tìm sự khác biệt và cái gì dễ dàng đến
với ông sau đó đều hỏng cả, nên phải tìm tòi, gắng gỏi vượt qua để thành công
thì mới khoái và bền lâu. Chính ý chí vượt khó ấy hun đuc nên một doanh nhân
Nguyễn Đức Tùng, suy ngẫm, cẩn trọng mà dám nghĩ dám làm trong công việc kinh doanh
và với cả thơ ca.
Nhưng thôi, tạm gác một Nguyễn Đức
Tung với tư cách một doanh nhân để nhìn nhận ở tư cách thi nhân. Về với đời thường,
khi tuổi cũng đã cao, giọng thơ ông không mấy đổi nhưng sự suy nghĩ đã khác.
Suy tư, chin chắn, ân cần, ấm áp và đồng cảm chia sẻ hơn. Để hiểu Nguyễn Đức
Tùng, hãy cùng ông về quê, đi bên bờ sông Đà ngắm nhìn cây cỏ xanh mướt, nhìn
dòng nước về xuôi để suy ngẫm, hồi tưởng và chia sẻ cùng ông nỗi niềm thương
con sóng, mà thực ra là thương cái thân mình, thế mới nên nỗi: |”Từ thuở lọt
lòng ra đã bạc đầu”.(Tự ngẫm); Hãy cũng ông đi mua sắm chốn
chợ quê để tận mắt thấy: “Người giàu đi chợ mua sang./ Kẻ nghèo đi chợ mua
ngàn âu lo.” (Chợ nghèo): Hay nữa, lại cùng ông dạo bước thăm
bảo tàng: “Dưới tượng nàng Tô Thị tự ngàn xưa/ Bao cuộc tiễn đưa chưa một lần
hóa đá,” (Ghi ở bảo tàng): …
Ngay như một việc tưởng chừng đơn giản ở mỗi gia đình, ông cũng cận trọng:
“Đời người gặp lắm khúc nhôi,/ Tìm trong lịch sử, có lời hơn, thua...” (Dặn
con). Sự cẩn thận không thừa, trong vai một người cha dặn con, nhưng thực
lòng, tôi thích một Nguyễn Đức Túng giản dị, trong sáng và mông mơ như thế này:
“Thời gian ơi, mấy mươi năm./ Hình dung lại, vẫn mơ nằm chiêm bao./ Nhìn
quanh, nào thấy đâu nào/ Dấu trong tim, những ước ao vẫn còn...” (Ngày
xửa, ngày xưa),…
Đọc thơ ông để thấy một Nguyễn Đức
Tùng chan chứa tình đời biết bao nhiêu, nhưng cõi lòng còn bao khúc nhôi ẩn chứa.
Vậy nên, ông vẫn có nhiều điều để mọi
người cùng bạn yêu thơ khám phá!... ./.
(Nguyễn Chu Nhạc )
Nhận xét
Đăng nhận xét