TRẦN NHUẬN MINH & những kiếp nhân sinh,...

 


@@@


 

 

TRẦN NHUẬN MINH

& những kiếp nhân sinh,...

                                       

NGUYỄN CHU NHẠC

        

Trần Nhuận Minh, bốn trong một, bởi gọi ông là Nhà thơ, Nhà văn, Nhà sử học, hay Nhà nghiên cứu và phê bình văn học cũng đều đúng cả. Song ở đây, tôi chỉ khảo sát ông ở góc độ Nhà thơ với đày đủ ý nghĩa của nó…

 

          1.

          Ở xứ ta, Trần Nhuận Minh là người nổi tiếng, trước hết bởi tự thân ông với sự nghiệp văn chương của mình, thứ nữa, ông là anh ruột của thần đồng thi ca đất Việt một thời, nhà thơ Trần Đăng Khoa. Hồi Trần Đăng Khoa mới nổi lên như một hiện tượng trong nền văn học nước nhà, thoạt đầu người ta còn chưa mấy tin rằng cậu bé bảy, tám tuổi làng Điền Trì, Nam Sách lại có thể làm được những bài thơ hay thế và nghi ngờ có ai đó gà cho, người ấy không ai khác chính là người anh trai của cậu, tức nhà thơ Trần Nhuận Minh. Thế nhưng, để định danh với cái tên và cũng là bút danh chính thức Trần Nhuận Minh, ông đã trải qua vài lần thay đổi, từ tên đầu là Trần Bình Minh và tên gọi bây giờ Trần Nhuận Minh. Vô hình chung, con đường dịnh danh của ông phần nào thể hiện quá trình tự lập và sau đó là tự làm mới mình trong sự nghiệp văn chương cá nhân, tức là, có hai Trần Nhuận Minh giống và khác nhau ở mỗi thời kỳ,...

          Tôi sớm biết tên tuổi ông vì tôi chơi thân với nhà thơ Trần Đăng Khoa từ đầu năm 1975, khi chúng tôi cùng đứng chung Đội tuyển học sinh giỏi môn Văn lớp 10 (hệ 10/10) tham dự kỳ thi học sinh giỏi toàn miền Bắc, trước Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Biết vậy thôi, nhưng mãi sau này mới gặp ông, bởi ông sớm rời quê từ năm 1959, năm Khoa mới có 1 tuổi, rồi sau đó ra khu mỏ Hồng Quảng, sau này là tỉnh Quảng Ninh.

          Thời ấy, khu mỏ Quảng Ninh là vùng công nghiệp khai thác than nổi tiếng của Việt Nam nên các nhà văn từ trung ương hay đi thực tế sáng tác ở đây, đặc biệt trong đó có Huy Cận và Trinh Đường, vô hình chung kích hoạt và phát lộ các cây bút sinh sống làm việc ở vùng đất này. Trần Bình Minh trở thành cây bút trẻ triển vọng trong dàn đồng ca văn chương, gồm những Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cương, Yên Đức, Sĩ Hồng, Thi Sảnh, Phạm Doanh, Long Chiểu, sau đó là Trí Dũng, Đào Ngọc Vĩnh, Triệu Nguyễn, ... Dàn đồng ca ấy cất giọng đồng thanh xuyên suốt thời chiến tranh chống Mỹ vắt sang thời bình và cả thời hậu chiến sau này, nên dù mỗi cây bút có thể có chút riêng, nhưng đều mang giọng điệu chung là tụng ca cuộc sống chiến đấu và lao động cống hiến ở vùng Than, vùng Công nghiệp Mỏ...

          Năm 1971, Trần Bình Minh  xuất bản tập thơ đầu tay Đấy là tình yêu. Năm 1972 - 1973, đi học khóa 5 trường Bồi dưỡng Viết văn Trẻ Quảng Bá, khóa học  9 tháng. Tại đây, ông đăng thơ trên báo lấy tên khai sinh Trần Nhuận Minh làm bút danh mới, và sau đó, in sách tuyển chọn lần đầu năm 1973,  trong tập thơ  “Ca bình minh”  của 5 tác giả công nhân (Lý  Phương Liên, Trần Nhuận Minh, Yên Đức, Thanh Tùng , Đào Cảng)  ở  Nhà xuất bản Văn học.

 

            Nhưng rồi, Trần Nhuận Minh sớm ngộ ra một điều gì đấy, khi ông vào thăm Huế, cuối năm 1975 và đầu năm 1976, lần đầu tiên được tiếp xúc với anh chị em văn nghệ sĩ Huế. Người đón ông đầu tiên là nhạc sĩ Trần Hoàn. Bấy giờ ông này là Giám đốc Sở Văn hóa  tỉnh Thừa Thiên  Huế  (sau đó,  ngày 24/ 2/1976 mới thành lập tỉnh Bình – Trị - Thiên). Chính Trần Hoàn trực tiếp lái xe đưa ông đi thăm danh thắng, đền đài Huế. Rồi nữa, mời Trần Nhuận Minh, với tư cách là nhà thơ công nhân tiêu biểu  của miền Bắc xã hội chủ nghĩa trò chuyện với anh em văn nghệ sĩ mà trong đó có rất nhiều tên tuổi quan trọng  của xứ Huế và của miền Nam trước năm 1975... Theo lời Trần Nhuận Minh trao đổi trong một diễn đàn văn nghệ, thoạt đầu ông rất hào hứng, dù ông không hề biết người ngồi trước mình là những ai. Thế rồi bằng một linh cảm đặc biệt nào đó, ông nhận ra rằng hình như mình đã có một sự nhầm lẫn nào đó. Và ông ngộ ra rằng, hình như mình là một người rất lạc hậu. Mồ hôi vã đầm đìa sau lưng áo. Đất nước đã giải phóng. Một con đường lớn đã thông thương đến tận mũi Cà Mau mà mình vẫn loanh quanh ở bên này sông Bến Hài. Ông nhận ra mình là nhà thơ cuốc than viết cho người cuốc than đọc. Bây giờ là đất nước rộng lớn. Người đọc ông bây giờ không phải chỉ là người cuốc than mà còn có cả những trí thức, những nghệ sĩ lớn ở Huế, ở Sài Gòn ở chót mũi Cà Mau và cả những nhân sĩ ở trên nhiều bến bờ thế giới. Cuộc đốn ngộ đến bừng thức này, đã dẫn ông đến cuộc khủng hoảng sáng tác đến cả 10 năm: “Ta  học chim để sản xuất máy bay / Học cá để chế tạo tàu ngầm / Nhưng Ta  không biết học ai  / Để làm lại bản thân mình...”

 

         Vậy là, mười năm ấy, Trần Nhuận Minh chưa biết sẽ phải viết gì, nhưng trước hết ông loại bỏ toàn bộ các sáng tác trong một phần tư thế kỷ trước đấy. Trong đó, có nhiều tác phẩm từng gây được tiếng vang, từng nhận được những giải thưởng cao của Hội Nhà văn, của Tổng công đoàn Lao động Việt Nam. Ông rũ bỏ đến trắng tay để làm lại từ đầu, “ để làm lại bản thân mình...” Làng văn xứ ta, không phải chỉ một mình Trần Nhuận Minh, mà có rất nhiều người như ông, cùng cảnh ngộ với ông. Nhưng không phải ai cũng làm được như Trần Nhuận Minh và có được sự dũng cảm đó. Đấy là lý do ta hiểu vì sao rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, từng được giải thưởng rất cao mà rồi bây giờ không còn đọc được nữa. Chính Trần Nhuận Minh cũng phải ngỡ ngàng đến kinh ngạc:

                   “Mới chục năm thôi  thơ đã khác

                   Bao  tuyệt  tác một thời,

                                               giờ  đọc chẳng còn hay

                   Thời gian ơi, sao em cay nghiệt thế

                   Đỏ cả rừng chiều...

                                          Lá bay…  “ 

 

          Tác phẩm của Trần Nhuận Minh thoát được cảnh mưa bay gió cuốn, vì ông đã tự loại rồi. Một người thứ hai cũng có chút may mắn là em trai ông, nhà thơ Trần Đăng Khoa. Ông cũng lặng lẽ làm một cuộc tinh lọc, loại bỏ những ấu trĩ, để thành mấy tập tinh tuyển. Vì thế tác phẩm của ông vẫn in lại đều đều, dù ông không có lòng dũng cảm. cũng không cải cách quyết liệt như anh trai mình.

          Trần Nhuận Minh đã thành công ngoạn mục trong cuộc cải cách ấy. Ông đã  tự lột xác, lặng lẽ lách mình khỏi dàn đồng ca vùng mỏ và cả dàn tụng ca làng thi ca xứ mình.

          Thường người ta không dễ thay đổi thói quen, đời sống. Trong sáng tác văn chương, cũng thế. Phải có một tác động nào đó đủ mạnh và tự thân cũng phải có dũng khí và tài năng để đổi mới chính mình. May thay, Trần Nhuận Minh đã làm được điều này, khiến ông sớm tách ra khỏi dàn đồng ca chung, tự thân tìm được lối đi riêng.

          Điểm qua các phẩm của Trần Nhuận Minh, không thể không nhắc đến tâp truyện “Trước mùa mưa bão”, tập thơ “Âm điệu một vùng đất”, “Thành phố bên này sông”. Đấy là những tập thơ mang hơi hám Trần Bình Minh, nó lẫn vào dàn đồng ca, tụng ca. Trần Nhuận Minh tự thân làm nên “một thời mới” cho riêng mình. Thời mới này đánh dấu bằng tập thơ “Nhà thơ và hoa cỏ”. Nói cho thật công bằng, những tập thơ trước là thơ công nhân, dù có nhiều bài ông  không viết trực tiếp về công nhân, nhưng nhìn qua con mắt công nhân, nếp nghĩ công nhân. Đến “Nhà thơ và hoa cỏ” là ông đi từ công nhân đến nhân dân. Tập thơ đề cập số phận con người, đặc biệt là những con người bé nhỏ, bất hạnh. Trong tập thơ này, những bài đặc sắc nhất đều là thơ chân dung. Nếu Trần Đăng Khoa, em trai ông rất giỏi dựng chân dung bằng văn xuôi, thì ông lại xuất sắc dựng chân dung bằng thơ. Và dựng chân dung bằng thơ mới cao cường, vì chỉ có mấy chục chữ mà đã ra một con người, một số phận, mà nhiều khi nhà văn phải dùng cả một cuốn tiểu thuyết mới lột cả được, như trường hợp “Thím Hai Vui”, rồi nữa là những “Ông Vọng”, chị “Hồng Tâm”, “Cháu Thủy”, “Bạn chơi từ thuở khăn quàng đỏ”, “Phúc”,, “Ông Hủi”,” Võ Huy Tâm”, Thanh Tùng- “Nhà thơ áp tải”.... vv và vv. Nhiều lắm những bài thơ như thế. Chẳng vậy mà, một nhà thơ, nhà phê bình có tiếng nọ đã rất tinh khi cho rằng, nhiều bài thơ của Trần Nhuận Minh, nếu thoáng qua, có cảm giác như một chuyện kể. Nhưng không phải. Nó là thơ. Chỉ có điều, nó là thơ chân dung. Thơ chân dung phải thế. Nó rất tự nhiên. Có cảm giác rất dễ viết. Nhưng không. Đó là ảo giác. Thơ Trần Nhuận Minh chỉ cảm thấy dễ viết khi ông đã viết ra rồi. Còn khi ông chưa viết thì không phải ai cũng viết được. Nhiều người bị ảnh hưởng của ông, họ cũng viết như khuynh hướng của ông mà nào có thành đâu.

          Thông thường, các nhà thơ sớm thành danh cứ nếp cũ tuần tự như tiến, nhưng đi mãi cũng chẳng tới mình, thật khó làm khác mình, trước hết, bởi tự cảm không cần thiết, rồi như một quán tính và sau cùng sợ mạo hiểm, sợ thất bại khi chuyển hướng,… Nhưng với Trần Nhuận Minh thì không, ông đã làm mới mình, mạnh dạn (nếu không muốn nói là dũng cảm) khi quẳng lại phía sau những gì đã làm nên tên tuổi và giải thưởng của mình. Có thể khẳng định, Trần Nhuận Minh đổi mới mình, tạo được bản sắc riêng và như thế, ông đã thành công! Vậy điều gì đã làm nên thành công ấy?

 

 

          2.

          Giải mã thì to tát quá, nhưng thực lòng, tôi muốn tìm hiểu xem, nguyên do nào khiến nhà thơ Trần Nhuận Minh dứt khoát để lại phía sau hết thảy thành tựu đã có, để khởi nguồn cho lối nghĩ và lối viết mới?

          Hơn một lần, tôi nghe nhà thơ Trần Đăng Khoa lúc đàm luận văn chương ở một khoảng hẹp, nhắc đến một tâm sự của nhà thơ Trần Nhuận Minh với  ông mà ông xem như một “bí mật nghề”. Đó là chính là cái lần đầu tiên Trần Nhuận Minh  vào thăm Huế  như tôi đã kể ở trên. Thực ra, cái duyên gặp gỡ ấy chỉ là “giọt nước làm tràn ly” mà thôi, chứ những điều ngỡ là mới ấy đã manh nha trong một số bài thơ ở các tập thơ trước đó của ông, có điều khi đó ông chưa ý thức rõ nên chưa dám đặt niềm tin vào đấy mà thôi.

          Trong bài thơ “Gửi bác Trần Nhuận Minh” của mình, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết: “Người bảo bác theo Đỗ/ Em phải học Lý thôi/ Bác đã bay dưới đất/ Em đành đi trên giời…”. Đấy là một cách nói. Một xác quyết. Để cùng tồn tại thì hai anh em phải khác nhau. Có lần, trong một cuộc trò chuyện về cuộc đời và văn chương, Trần Đăng Khoa đùa mà bảo, “bay dưới đất” hay “đi trên giời” thì đều toi cả, vì đất không phải để bay, mà giời cũng không phải để đi. Nói vui vậy thôi, nhưng mấu chốt là hai anh em họ phải khác nhau.

          Nhân chuyện này, tự nhiên tôi lại muốn so sánh nhà thơ anh Trần Nhuận Minh và nhà thơ em Trần Đăng Khoa với nhau. Đành vô phép hai ông Trần. Nhà thơ Trần Đăng Khoa xuất hiện rất sớm và nổi bật ngay, số đầu sách không nhiều, chỉ hơn chục cuốn, bao gồm đủ các thể loại: (thơ có “Từ góc sân nhà em”, “Góc sân và khoảng trời”, trường ca “Khúc hát người anh hùng”, “Đi đánh thần hạn “ , “Trường ca Làng quê”, “Trường ca Trừng Phạt”…  “Bên cửa sổ máy bay”, “Tuyển tập thơ “...; phê bình và tiểu luận văn học có “Chân dung và đối thoại”, “Hầu chuyện thượng đế”; văn xuôi có “Đảo Chìm”, “Người thường gặp” )... Cuốn nào ra cũng gây tiếng vang, được bạn đọc chú ý, bán chạy và đều được tái bản nhiều lần. Có khi in lại từng tuần ở nhiều nhà sách khác nhau. Văn của Trần Đăng Khoa tinh tế, chắt lọc, chỉn chu và bút pháp khá nhất quán từ buổi đầu cho đến nay. Còn với Trần Nhuận Minh, khởi đầu từ thơ, nhưng bung phá ra mọi thể loại, đề tài, số lượng lớn, gần 80 đầu sách, số sách gần bằng số tuổi ông, văn xuôi thì truyện, ký, tiểu thuyết, thơ thì thơ tập và trường ca (“Đá cháy “, “Một trăm bước cuối cùng”),  mảng nghiên cứu và phê bình văn học khá dày dặn. Sách của Trần Nhuận Minh ra liên tục, tuy không lập tức gây tiếng vang ngay, nhưng đã đọc là nhớ. Bạn đọc và giới phê bình văn học nhanh chóng nhận ra những giá trị đích thực trong sự bề thế ngổn ngang sách của ông. Trần Đăng Khoa thì ý thức, tính toán kỹ càng, nên hay không, chọn thời điểm ra sách, kiểu ”một phát ăn ngay”. Trần Nhuận Minh thì miệt mài không ngừng nghỉ, viết xong là cho ra luôn, không câu nệ, mặc bạn đọc  tiếp nhận và phán xét,… Mỗi người một kiểu, và xem ra cái cách “bay dưới đất” và “đi trên giời” của anh em nhà thơ họ Trần đều hay cả. Chỉ có điều Trần Nhuận Minh bề thế hơn, vạm vỡ hơn, phong phú hơn. Trong bài thơ tặng ông anh mình, Trần Đăng Khoa bảo: “Em quảy bầu trăng gió/ Bác gánh bao nỗi người/ Sánh đôi mà đơn độc / Đi mang mang trong đời”. Đây cũng là câu thơ mang tính xác quyết, rằng hai anh em cần phải khác nhau. Trần Nhuận Minh “gánh bao nỗi người” thì  đúng. Còn Trần Đăng Khoa “quảy bầu trăng gió” thì không phải. Trần Đăng Khoa nói rất nhiều về trăng, về gió, nhưng thơ ông là trăng gió thì không phải. Thơ Khoa hoàn toàn hiện thực. Thơ trăng gió tôi lại thấy nhiều ở Trần Nhuận Minh. Ảo diệu đến thế này ở Trần Nhuânh Minh là đỉnh rồi: “Một nửa mùa thu nghiêng bóng xuống khoang thuyền”....Và tuyệt vời và cũng là đỉnh cao của Trần Nhuận Minh là hai tập Trường ca không vần: “Bản xô nát hoang dã” và “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh”.

          Thơ không vần ở Việt Nam xuất hiện rất sớm. Theo tôi biết, thoạt tiên từ Văn Cao đầu những năm 1940 với Trường ca “Những người trên của biển”, và đẩy lên một nấc nữa là Nguyễn Đình Thi. Nhưng rồi Nguyễn Đình Thi thi bị phê phán tơi tả ở Việt Bắc từ năm  1948.  Sau này, nhiều nhà thơ tiếp nối và đưa đẩy đến mức toàn thắng sau thời đổi mới. Giờ thì rất nhiều người làm thơ không vần, nhưng theo tôi rất ít người thành công, bởi nó bị văn xuôi hóa. Nó là văn xuôi. Tư duy văn xuôi. Câu chữ văn xuôi. Nhịp điệu văn xuôi. Nó chẳng liên quan gì đến thơ cả. Cá nhân, tôi vốn không thích thơ không vần và với Trần Nhuận Minh cũng không là ngoại lệ. Song qua hai trường ca “Bản xô nát hoang dã” và “45 khúc đàn bàu của kẻ vô danh” thì tôi nghĩ, ông có những thành công nhất định ở định dạng này. Bởi với Trần Nhuận Minh, thơ không vần là tư duy thơ, hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ, chứ không đơn thuần là hình dạng và sự xếp đặt câu chữ, vần vèo…

 

 

          3.

          Như tôi thấy, tác phẩm của Trần Nhuận Minh bề thế và ngổn ngang, đủ các thể loại. Sắp xếp riêng ra từng loại thì mảng nào cũng có  đậm sắc cả. Chỉ riêng mảng nghiên cứu và phê bình văn học, Trần Nhuận Minh cùng với nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đức Tùng (Việt kiều ở Canada) với tác phẩm “Đối thoại văn chương đủ gây tiếng vang trên văn đàn xứ ta rồi. Bên cạnh, mảng nghiên cứu lịch sử và văn học của ông cũng đáng nể. Phần nghiên cứu các nhân vật họ Trần trực hệ từ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải trở về sau qua suốt các triều đại Trần, Hồ, Lê-Mạc-Lê, Nguyễn… Gần đây, bài nghiên cứu sâu về nhân vật văn học Hồ Xuân Hương của Trần Nhuận Minh (đăng trên tạp chí Nhà văn & cuộc sống, số 20 năm 2024) trả Hồ Xuân Hương cùng tác phẩm của bà về đúng sự thật lịch sử chứ không như mọi người vẫn lầm tưởng bấy lâu nay, bởi sự ngụy tạo và gán ghép của nhân gian làm sai lệch đi nhiều, về cả cuộc đời và phần thơ Nôm vốn không phải của bà. Đấy là sự đóng góp đáng trân trọng của Trần Nhuận Minh.

Tuy nhiên, tôi xin bàn phần nghiên cứu văn học của ông vào một dịp khác để đi sâu tìm mạch thơ Trần Nhuận Minh với mảng thơ thế sự và nhân vật, bởi đó là điểm khác biệt giữa hai thời kỳ sáng tác của ông.

          Về thơ, Trần Nhuận Minh cũng bung phá với nhiều thể thơ, tự do, lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn…. miễn sao chứa nổi nội dung ông cần truyền tài và thể loại nào ông cũng có những bài hay, đa dạng và luôn mới, hiện thực trụi trần hay mơ hồ sương khói có cả, song cảm nhận, ông có sự lựa chọn đầy tâm huyết với thơ chân dung qua lối kể của riêng mình.

          Có lẽ, thơ thế sự và chân dung của Trần Nhuận Minh khởi nguồn từ khi ông tự vấn mình, trăn trở nỗi niềm người, nỗi niềm ta,… Năm 1983, trong bài thơ “Chiều Yên Tử” ông viết: “Tôi nằm trên vệ cỏ/ Đối mặt với trời cao/ Một nỗi niềm trinh bạch/ Giữa bốn bề gian lao/ … Cuộc đời đến đâu ư?/ Con người là gì vậy?/ Họa phúc có hay không?/ Kiếp sau ai đã thấy?/ Mỗi người một câu hỏi/ Đi mang mang trong đời/ Nổi chìm bao ghềnh thác/ Tôi chưa tìm thấy tôi…” . Thế rồi theo năm tháng, ông miệt mài đi tìm để lý giải niềm băn khoăn của mình qua những thân phận người,… Với thể thơ năm chữ, linh hoạt và phù hợp với ngôn ngữ kể chuyện, Trần Nhuận Minh gửi gắm sự đồng cảm và chia sẻ sâu sắc của mình bằng ngôn ngữ bi hài chen lấn, khiến bạn đọc nhiều khi bật cười đấy mà ứa nước mắt đấy…. Nào chuyện “Thím Hai Vui”, bao năm gian khó vất vả âm thầm chờ chồng đi chiến trận chẳng sao nhưng khi chồng về ngực đầy huân huy chương thì bi kịch mới ập đến gia đình thím. “Những năm chú ra trận/ Thím buồn vui một mình/ Thím bảo những năm ấy / Là những năm hòa bình”... Thế rồi cả nước hòa bình, thì thím lại không yên: “Chỉ thương thím Hai Vui/ Mặt mũi luôn thâm tím/ Đến bây giờ chiến tranh/ Mới đến thật với thím/ ... Chú đòi phái ly dị/ Mỗi con về một nơi/ Thím hát như kẻ dại/ Miệng mếu lại thành cười…”;  Rồi chuyện”Dì Nga’, lấy được chồng giàu có, nhà chẳng thiếu gì, chỉ thiếu hạnh phúc. Mới hay hạnh phúc không ở trong nhung lụa tiền bạc. “Dì theo một anh chàng/ Chuyên nghề câu cá vược/ Bên nhau trong khoang thuyền/ Giữa bốn bề mây nươc…/ Chả biết dì sung sướng/ Hay là dì khổ đau/ Nửa đời… ừ sao nhỉ/ Họ không tìm thấy nhau”...  Đó là “Cháu Thủy”, trẻ trung, ngoan hiền, nết na, chăm chỉ, ai cũng khen, vậy mà mắc bệnh hiểm nghèo, không qua khỏi. Thương tiếc là thế, nhà thơ  cầm lòng chẳng đặng phải thốt lên câu than: “Sao ngắn đến thế này/ Cuộc đời một người tốt?: và chua xót hơn nữa: “Xưa nay những người tốt/ Thường gặp điều không may?”. Sao lại trớ trêu thế hả giời?... Ấy là chuyện người bạn, từng phấn đấu lên chức này chức nọ, về hưu gặp thời mở cửa kinh tế, ‘bung ra”, thành một người khác “Ta không hiểu sao bạn/ Bung ra đến độ này/ Đem đời mình đánh đổi/ Lấy cái ngoài tầm tay/… Lòng băn khoăn không dứt/ Bỗng thèm một chén trà/ Cuối trời tia nắng quái/ Cháy kinh hoàng sau ta” (“Thăm bạn”); Lại nữa, một người bạn tên là “Phúc”, từng phong lưu sang trọng hơn người, bỗng không may gặp họa, “đốt tiền trong  toa lét/ Ba ngày còn chưa xong”... nhà bị niêm phong, thành dở người, lang thang ăn mày khắp chốn, nhà thơ cám cảnh mà rằng “Trò đùa của tạo hóa/ Đến thế này thì thôi”; Đó là bác Vương Liên (“Gửi bác Vương Liên”) vốn nghèo khổ, đã bỏ lại người vợ tào khang nuôi con một mình, vào Nam quyết chí kiếm tiền bằng mọi giá và trở nên giàu có, sống sung sướng, quên luôn người cũ “chị ấy vẫn lam lũ/ vẫn một mình nuôi con”, khiến nhà thơ chạnh lòng mà than: “Sự đời bao rắc rối/ Phải trái tính sao đây/ Lòng mình thì nhàu nát/ Kinh sách thì thơ ngây…”. Ngẫm sự đời mà chạnh lòng cùng nhà thơ; Rồi đó là thân phận những văn nghệ sĩ, ấy là bạn thơ, “Nhà thơ áp tải” (nhà thơ Thanh Tùng), sống bằng nghề áp tải hàng, cực nhọc và nguy hiểm-“Đất nước có một thời/ kẻ gian nhiều như nấm/ không ngờ một nhà thơ/ lại sống bằng nắm đấm…”, sống cực thế đã đành, nhưng đâu bằng, với tư cánh một nhà thơ-“Hãy áp tải sự thật/ đến những bến cuối cùng…”, nhọc nhằn và gian truân hơn nhiều…; Và nữa, là nhà văn (Võ Huy Tâm) bỏ phố lên rừng dựng lều viết văn, bản thảo cho vào bao, nhếch nhác như hành khất địu về thủ đô chờ xuất bản, những tác phẩm mà nhà văn hi vọng “trong văn có biển rừng/ bao kiếp người chìm nổi”; Còn có người bạn cũ, thời đi lính dũng cảm chiến đấu thành dũng sĩ này nọ được  tặng thưởng nhiều huân huy chương, nhưng sang thời bình theo mộng văn chương, muốn thành Kẻ Sĩ đến nỗi thân tàn ma dại “Tấm áo choàng lấm đất/ bốn phương trời tha hương/ chắc gì mà kiếm được/ chút nụi vàng văn chương?” (“Bạn cũ”)… Còn nữa, nhiều lắm những thân phận, những cảnh đời ngang trái, những nỗi niềm chua xót, đắng cay.

Thực ra, về thơ kể chuyện nhân vật trong văn học Việt Nam hiện đại, nhà thơ Tố Hữu là người đi tiên phong và thành công với nhiều bài thơ được nhiều người thuộc như: “Mẹ Tơm”, “Mẹ Suốt”, “Bầm ơi”, “Bà bủ”, “Bà má Hậu Giang”, “Lão đày tớ”, “Lượm”,Tiếng hát Sông Hương”… Có điều khác, nếu Tố Hữu là cảm xúc một chiều từ phía nhà thơ, tình thương yêu, quý trọng, đồng cảm chia sẻ, khích lệ hay an  ủi, vỗ về nhằm tuyên truyền cố động cho một lối sống, thì Trần Nhuận Minh lại tạo những hình ảnh thuận nghịch, cảnh huống ngang trái, thậm chí đối lập, như ngầm so sánh với nỗi niềm ngổn ngang, không nói hộ nhân vật, không áp dặt ý chí của mình mà để tự thân bài thơ toát nên thông điệp hoặc bạn đọc cảm  nhận mà ngộ ra lời giải, chỉ gợi mở để bạn đọc cùng nghĩ và tham gia vào câu chuyện với nhân vật cùng tác giả. Nhờ thế mà thơ ông có dư ba, có sức  ám ảnh người đọc.Thực lòng, với tư cách vừa là bạn đọc vừa là người sáng tác, tôi thích cách gợi mở của nhà thơ Trần Nhuận Minh hơn.

Thế nên, cũng bằng phương pháp này, nhiều bài thơ thế sự của Trần Nhuận Minh cũng rất gợi, dễ vào lòng người nên ám ảnh người ta, hút hồn bạn đọc chia sẻ và đồng cảm cùng nhà thơ. Ta bắt gặp điều này ở nhiều bài thơ của ông: “Chiều Yên Tử”, “Đồi hoang”, “Móng Cái”, “Hoành Mô mây trắng”, “Trăm năm trong cõi...”, “Tự do”, “Bạn hưu”, “Họp chi bộ”, “Trong nhà’, “Bạn thơ mời rượu bên sông Tiền”, “Chào cụ Phan-xi-păng”, “Tạ ơn dân”, “Trước khi”…, “Cụ Chiến tiễn cháu gái đi giúp việc gia đình ở nước ngoài”, “Lẽ thường”, “Thăm nhà thơ có hai con gái học võ” ….  Gần đây nhất, bài thơ “Giỗ bố”  khi mà các cuộc chiến tranh kéo dài, dằng dai giữa Nga với Ukraina, giữa Israel với Palestine cùng các lực lượng Hồi giáo cực đoan chưa có hồi kết, dân ta thì tự chia làm mấy phe, bênh-chê khác nhau mà sinh mâu thuẫn này nọ,… Ngoài xã hội là vậy, đến trong nhà cũng thế, chuyện anh em tứ xứ về quê giỗ bố, tranh luận thời sự thành cãi nhau rồi động chân động tay… “Nhà bỗng thành náo loạn/ Thề: không nhìn mặt nhau/ Bố thằngnào nấy cúng/ Sông chết cũng mặc dầu” và vì thế mà nên cảnh “Nén hương cha chưa tắt/ Xôi thịt còn lên hơi/ Mỗi người đã mỗi ngả… Chỉ còn bà mẹ ốm/ Rên rỉ khóc giữa nhà/ Hờ ôi, cái gì vậy? Mà tan tành nhà ta”... Nghĩ sâu, thực ra sự nóng giận nhất thời khi tranh luận chỉ là cái cớ thôi, chứ nguồn cơn là từ sự phân hóa xã hội, sự suy giảm niềm tin và sự tan rã của đạo đức lối sống, dẫn đến các mâu thuẫn đời thường… Thế đấy, Trần Nhuận Minh nhạy cảm và sâu sắc, lấy cái bi hài đẩy sự việc đến tận cùng để tự thân nó lên tiếng!...

Gần đây, tập thơ mới xuất bản của Trần Nhuận Minh ( “Thơ nằm trên cỏ”- NXB Hội Nhà văn, 2024) có nhiều điều để bàn. Hay đâu, nhẩn nha đọc lại mấy tập thơ  của ông (“Bản xô nát hoang dã”, NXB Hội Nhà văn, 2013 và “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh”, NXB Hội Nhà văn, 2013), càng thấy một Trần Nhuận Minh đa chiều, ngổn ngang trăm mối. Bóc tách ra một khúc – “Khúc 15”:  Con người lớn lên / Từ các cuộc tranh giành/ Và cái ác thấm dần vào trong máu/ Những hận thù hôn nhân, điền thổ/ Vẫn ngấm ngầm sau bao lũy tre xanh/ Có cơn mưa / Chết cháy cả lúa đồng/ Lời ngon ngọt mà thân người đổ gãy/...  Có người đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành bậc Chân tài/ Có kẻ đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành tên đại ác/... Những đám mây thong thả của Ngày Xưa/ Đều bay qua và lặng lẽ mỉm cười…”. Chỉ thế thôi, cũng có bao chuyện để nói, bao điều để bàn rồi.

          Tôi đã nói bao điều về Trần Nhuận Minh, vậy mà hình như vẫn chưa tới. Ông vẫn còn nhiều thứ để khám phá…

 


Nhận xét