Người về khép áo lặng trông
( Tiểu thuyết )
Đề từ
Quê nhà một thoáng cuối năm
Người đi muôn dặm xa xăm nhớ về
Ai người một chốn đôi quê
Đường đời lắm nẻo bến mê cũng nhiều,
Đồng làng cổ quán cô liêu
Gạo già khắc khoải trong chiều gió đông,
Có người khép áo lặng trông
Mơ vầng hoa đỏ nở không đúng mùa...
( Nguyễn Chu Nhạc )
1.
Ngày giỗ tổ. Tôi thu xếp công việc
để về quê. Cái họ Nguyễn làng Khê Thủy có ba chi. Nhà tôi là trưởng chi giữa.
Mỗi chi có một ngày giỗ tổ riêng, và cùng chung ngày giỗ cụ tổ khởi phát . Cũng
chẳng rõ thuở lập làng, cụ thuỷ tổ từ đâu đến. Chỉ biết rằng, cụ có ba con trai
thì lập thành ba chi đến ngày nay. Lại căn cứ vào ngôi chùa Lĩnh làng bên, tương truyền được xây từ thời Lý, là một
trong số bảy mươi hai ngôi chùa được xây theo lệnh của bà Hoàng thái hậu ỷ Lan
triều Lý Nhân Tông, sau khi bà này hối hận vì đã ra xui bẩy nhà vua giết Thái
hậu Thượng Dương cùng bảy hai cung nữ, thì chí ít làng cũng được lập từ trước
đó, nghĩa là vào thế kỷ mười một .
Theo thói quen, mỗi khi về quê, bao
giờ tôi cũng ghé thăm mảnh vườn nhà. Trước đây, khi mẹ tôi mất, vườn bỏ không
người ở, tôi nhờ người hàng xóm trông nom hộ. Đầu năm nay, thằng con trai lớn
chị gái tôi viện cớ nhà nó hẻo lánh khó làm ăn nên muốn mượn đất xây cửa hàng
bán tạp hóa ở đó. Thế là một cửa hiệu mọc lên. Tôi về đến nơi, thấy vợ chồng
đứa cháu đang tíu tít bán hàng. Không ngờ nông thôn mà đông khách ra trò. Khách
mua hàng toàn người loanh quanh người làng, họ
chào tôi , lại khen tôi tốt bụng nhường cho cháu. Đáp lễ họ mà tôi có
cảm giác trong những lời khen ấy có gì đó canh khoé. Nghĩ thế, tôi chợt giật
mình, thôi chết, lát nữa trong bữa cỗ việc họ, thế nào cũng có người trong họ
mang cới chuyện từ việc này cho mà xem. Quả nhiên, khi cỗ nửa chừng, chén chú
chén anh đã ngà ngà, người chú họ chừng tuổi tôi tên Cán, vốn nóng tính hay gây sự , rót đầy chén
rượu cho tôi và cho chú, rồi bảo :
- Anh trưởng... Anh uống với tôi một
chén. Trăm phần trăm nhé. Uống là uống cái tình họ hàng ruột thịt, chứ quyết
không phải là uống rượu đâu mà sợ say.
Tôi nâng hai tay cung kính mời chú
uống trước, bụng nhẩm tính cách nói năng vì biết không khéo sẽ sinh chuyện từ
đây. Chú Cán một hơi cạn , dốc ngược chén không còn một giọt , cao giọng :
- Tình nghĩa là phải cạn. Cạn là cạn
rượu, tình thì còn dài, còn dây dưa hết đời này sang đời khác, phải thế không
các ông, các bác, các cháu ?
Một người chú họ cao niên tên Mảnh,
vốn có tiếng túc trí đa mưu trong làng, cười khà khà, thủng thẳng :
- Này anh trưởng. Chú Cán chú ấy nói
đúng đấy. Xưa nay, chi nhà này bao giờ cũng lấy chuyện tình nghĩa làm đầu. Cũng
chính vì tình nghĩa, mà xưa ông nội anh
đi thi đỗ đạt, có chạy chọt quan trên thì cũng được một chức quan nhỏ địa
phương, những ông cụ đã không làm thế, mà về quê mở trường dạy học cho con em
họ hàng làng xóm, được tiếng thơm để đời. Rồi nữa đến cha anh, chữ nghĩa Tây
Tàu làu làu, thêm nghề kiến trúc, về quê tậu ruộng xây nhà tây to đùng ăn hàng
trăm mâm cỗ không hết chỗ ngồi, giàu có nhất vùng, thuốc phiện cô đầu đủ cả,
thế rồi lúc già cũng về quê làm ruộng sinh sống... Thử hỏi, không tình nghĩa
thì sao làm được vậy ?... Còn đến anh, xin lỗi anh trưởng... Bây giờ anh giàu có thế nào họ hàng không biết,
chứ với chức cán bộ cấp vụ thì cũng coi như ngày xưa đỗ đạt làm quan... những
không biết tân thời... anh có làm giống ông nội anh, cha anh hay không thì họ
hàng chúng tôi đây chẳng rõ ?...
Tôi cười . Méo mặt mà cuời. Cố nặn ra
câu nói lấy lòng, bởi tôi hiểu chẳng biết sau này mình có làm được như thế
không, song trước mắt cứ phải thoát ra khỏi trận đồ bát quái mà mọi người đang
bầy ra trước mặt mình:
- Thưa các ông, các chú ! Mọi người
thấy đấy, cháu đã cho xây tường bao giữ đất giữ vườn. Cháu định sau này về hưu,
nhà ngoài thành phố cháu để cho các cháu, còn vợ chồng cháu về quê xây nhà sống
nốt quãng đời tuổi già, Bây giờ đường sá thuận tiện, đi lại dễ dàng, với lại ở
mãi thành phố cũng tù túng lắm ạ...
Chú Giảng, người chú cao niên, nhánh
gần nhất với nhà tôi, người mà họ hàng quen gọi vui là phó chi, những lúc tôi
vắng nhà, mọi công việc đầu trò của chi họ đều do chú quyết định, mừng ra mặt,
thật thà bảo :
- Anh trưởng nghĩ thế là phải ! ...
Được lời ấy của anh, chú với mọi người trong họ rất mừng. Hôm nay giỗ tổ, nói
có các cụ tổ tiên và mọi người trong họ chứng giám, tôi có đến năm con trai, lo
lấy vợ dựng nhà cho chúng nó đến tàn một đời... quê lại đất chật người đông,
nhiều lần định nói chuyện với anh, định mua lại mảnh đất hoặc một nửa chỗ đất
ấy của anh cho các em nó có chỗ ở...
Chú Giảng nói đến đây thì dừng lại
nhìn tôi, nhìn mọi người. Đám cỗ ồn ào hẳn lên ra vẻ tán đồng. Tôi chưa biết
nói sao thì chú Giảng tiếp lời :
- Nhưng cứ nghĩ đi nghĩ lại, thấy có
gì đó không phải, nên thôi. Hôm nay nói ra thế, anh trưởng ạ, không phải chú
mượn chuyện đánh tiếng mua đất của anh đâu, mà chỉ muốn bày tỏ nỗi lòng... Chú
biết, mảnh đất ấy không phải là đất hương hoả xưa do các cụ để lại, mà là cha
mẹ anh mua lại khi về làng sống, lúc chiến tranh đánh Mỹ xảy ra. Như thế nào là
toàn quyền ở anh, chứ họ hàng quyết không dám ý kiến gì ...
Chú Cán oang oang tham gia :
- Nhưng mà thằng cu cháu con chị Ngoãn
xây cửa hàng to đùng ở đấy. Thì cứ cho là cho nó mượn nhưng biết đến bao giờ nó
trả ? Chẳng hiểu anh trưởng có tính đến chuyện ấy không ?
Tôi nhẩm bụng, gay rồi. Giờ mới là lúc
khó xử đây. Tôi im lặng nín nhịn, kéo dài chừng nào hay chừng ấy. Liền khi đó,
chú Mảnh vuốt râu, khề khà lên tiếng :
- Chú Cán đừng lo hộ ... Chú chỉ được
cái biết một mà không biết mười thôi... Tôi là tôi hiểu tấm lòng anh trưởng...
Thôi thì thiên hạ bao la, đâu cũng là nhà, ở đâu quen đó. Anh trưởng và các
cháu ở thành phố quen rồi, sau này về hưu anh có về quê với chúng tôi thì càng
vui , song cứ ở ngoài đó cùng các cháu cho gia đình đông đúc cũng tốt. Miễn
là....
Chú Mảnh bỏ lửng, nâng chén nhấp một
ngụm, lại vuốt vuốt chòm râu mới để còn ngắn tũn, vừa định nói thì chú Cán chặn
họng :
- Sao bác bảo em chỉ biết một mà không
biết mười ? Bác thì thông minh nhất họ,
nhất làng rồi. Thông minh bác có thừa, truyền sang cho cả mấy đứa con, nên bây
giờ chúng nó mới không đứa nào chịu đứa nào cả...
Mọi người lên tiếng gạt đi không cho
chú Cán nói tiếp. Chú Mảnh vẫn giữ vẻ mặt bình thản, cười cười nói với tôi, coi
như chưa từng nghe chú Cán khích bác :
- Anh trưởng ạ !... Miễn là... anh cứ
cho xây một căn nhà nhỏ ba gian bỏ đấy... Tiền xây anh bỏ ra cũng được... mà để
họ hàng chúng tôi góp vào cũng được ... Gọi là có nơi thừa tự , như nhà thờ họ
ấy mà...
- A a a ... Chú Cán vống lên rồi tự vả
nhẹ vào mặt mình, hệt như người diễn trò trên sân khấu – Bái phục ! Em thật bái
phục quan bác... Bác Mảnh ạ... Em là em cứ xin lỗi vì nãy vô lễ với bác... Đúng
là em chỉ biết một... Không. Biết nửa một thôi ... Ngu quá. Mình ngu quá !...
- Thế ý kiến bác Giảng thế nào ? Thấy
em đề đạt như vậy có được không ?
Chú Mảnh hỏi thẳng chú Giảng theo kiểu mớm
lời, tìm đồng minh, rồi cười khà khà, lại đắc ý nhìn khắp lượt mọi người, vuốt
vuốt chòm râu ngắn tũn , ghé sát mặt chú Giảng ngồi bên vẻ chờ đợi. Chú Giảng
bị hỏi đột ngột, lại khó nghĩ, cứ ậm à ậm ừ mãi không thành câu. Song dường như
dưới áp lực cái nhìn xoáy vào tâm can của chú Mảnh, đành nuốt khan cục khó vào
bụng, liều nói :
- Nói có anh trưởng đây... lại có đủ
mặt họ hàng... Tôi thấy chú Mảnh nói cũng được đấy... Có điều là... Thôi thì
tuỳ anh trưởng ...
Chú Giảng cười bối rối, sợ mất lòng
tôi lại sợ mất lòng họ, song bụng chắc cũng tán thành ý kiến chú Mảnh, muốn tôi
hiến mảnh vườn cho họ mạc xây nhà thờ tổ. Tôi không chấp chú Giảng, song hơi
bực vì chú cũng vào hùa với mọi người. Tôi cố lờ đi, hỏi chuyện một cậu em ngồi
cạnh mình chuyện mùa màng, làng xóm . Chú Giảng cũng không dám nói gì thêm. Còn
chú Mảnh thì sợ câu chuyện nguội mất, cất lời xuê xoa :
- Anh trưởng ạ !... Hôm nay nhân việc
họ giỗ tổ, mọi người cùng cái tâm hướng tổ nên mới chuyện vậy... Anh trưởng
cũng đừng nghĩ ngợi nhiều, ngày tháng còn dài rộng cơ mà !... Chúng tôi ở làng,
biết anh trưởng học rộng hiểu nhiều, bao giờ anh trưởng cũng có những việc làm
đúng lễ nghĩa, phải thế không ạ ?
Lác đác có người tán thưởng, phần đông
cánh trẻ thì chỉ mải ăn uống, không muốn can dự vào. Chú Mảnh hơi mất hứng, có
vẻ không hài lòng, bắt đầu quay lại phản công chú Cán. Cái cục giận ban nãy với
chú Cán còn chặn ngang họng. Chú Cán tự nhận mình ngu, thua cuộc rồi, không ngờ
ông anh họ vẫn để bụng, đề xướng việc to không thành, quay ra chơi mình, liền
chấp nhận vào trận mới . Bữa cỗ chạp tổ sôi sục hẳn lên. Người đứng về phía chú
Mảnh, kẻ lại bênh chú Cán, có người ra điều can ngăn cả hai bên ... Tôi nén tiếng thở dài, nhìn ra những bụi tre
xơ xác khô cằn nơi góc vườn...
2.
Gần bốn mươi năm trước, chiếc xe cam nhông chở gia
đình tôi dừng bánh nơi ngã ba đường. Tôi ngồi trong lòng bố ở ca bin xe ngơ
ngác chưa hiểu gì thì bố tôi bảo :
- Đến nơi rồi. Nào bố con mình xuống
đi. Quê nhà mình đây...
Bác tài xế cùng bố tôi đỡ mẹ và hai
chị gái tôi lục tục trèo từ thùng xe hàng xuống đất. Tôi thấy rất đông người
đứng chờ, họ giúp nhà tôi chuyển giường tủ, đồ đạc trên thùng xe xuống rồi buộc
dây khiêng đi. Khi đồ đạc chuyển đi hết rồi, bố mẹ tôi chào cảm ơn bác tài xế ,
đợi cho chiếc xe quay đầu nổ máy chạy đi, để lại phía sau luồng bụi đất và
khuất hẳn sau khúc ngoặt, mới dắt chị em tôi đi. Qua một chiếc cầu bắc chênh
vênh bằng những thanh tà vẹt ngang con sông nhỏ, lại theo đường bờ mương nước,
tôi thấy cơ man là tre. Đã mấy lần theo cha mẹ về quê ngoại mỗi dịp hè nên tôi
biết cây tre là thế nào nên cứ chỉ chỏ làm vẻ hiểu biết. Đường làng lát gạch
nghiêng, tôi đi guốc gỗ nên trầy trật mấy lần suýt trẹo chân. Khi ngang qua một
luỹ đất cao với tre gai và dứa dại dầy đặc, mẹ tôi bảo là ngày trước nhà mình ở
đây. Tôi ngây thơ hỏi:
- Thế bây giờ nhà mình về ở chỗ này hả
mẹ ?
- Không, không ! ... – mẹ vội bảo –
Bây giờ là của người khác rồi. Nhà mình không có nhà, phải ở nhờ nhà cụ Thi,
con ạ .
Tôi không hiểu tại sao lại đi ở nhờ ,
song cũng không hỏi thêm. Tôi lờ mờ biết rằng có chuyện gì đó mà trẻ con không
hiểu được. Hôm ấy, bữa cơm trưa cả nhà tôi ăn cơm với nhà bà cụ Thi. Lại mất cả
buổi chiều, đến sâm sẩm tối, mọi người mới giúp nhà tôi kê dọn xong đồ đạc vào căn nhà ngang mà bà cụ Thi cho gia đình
tôi mượn.
Đêm đầu tiên ngủ ở quê, tôi thiếp đi vì mệt sau một
ngày di chuyển, bận rộn cùng cả nhà. Rồi tôi tỉnh ngủ. Thoạt đầu tôi vẫn tưởng
mình đang ở ngôi nhà cũ ở ngoài thành phố, nên đưa mắt nhìn ra cửa sổ cạnh
giường, những bây giờ tối om. Ngọn đèn dầu hãm hạt đỗ đỏ quạch trên nóc tủ chè
đủ cho tôi hiểu mình đang ở quê. Gia tài nhà tôi, của nả trông thấy có một
chiếc giường tây, một chiếc phản lim, một tủ chè gụ, một tủ đứng đựng quần áo,
thêm chạn bát và vài cái chum vại đựng gạo. Thường thì tôi ngủ chung với bố mẹ
trên chiếc giường tây, hai chị gái tôi ngủ trên chiếc phản, đã nhiều năm nay là
thế. Tôi nằm im nghe ngóng. Chợt tôi nghe tiếng bố tôi húng hắng, trở mình và
hình như ông quàng tay lên người mẹ định âu yếm, an ủi. Lại hình như mẹ gạt tay bố rồi trở mình nằm nghiêng về
phía tôi ở trong cùng và choàng tay ôm riết tôi vào lòng. Tôi vốn sợ bóng đêm nên sung sướng nộp mỡnh trong lũng mẹ ờm ỏi, lại lo mẹ biết là mình tỉnh ngủ,
bốn nằm im thin thít vờ ngủ say, không dám thở mạnh. Tôi đoán là mẹ giận bố. Tôi biết, trước khi về quê,
giữa cha mẹ tôi đó xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt. Mẹ tôi thỡ không muốn về
quê nội mà muốn về quê ngoại, nơi đất vườn rộng, lại có bà ngoại và các cậu dì tôi giúp đỡ. Còn bố tôi thì nhất
quyết về quê nội, dù có phải bỏ tiền ra mua đất, dù có thiếu thốn đến mấy cũng
chịu được, vì ông vốn chất gia trưởng, muốn giữ tiếng không phiền lụy bờn nhà vợ .
Tôi chỉ hiểu vậy, chứ đâu biết còn những nguyên nhân sâu xa khác, mãi đến sau
này tôi mới rõ. Ấy là sự ê chề mà mẹ tụi phải gánh chịu những ngày tháng về làm
dâu bên quê nội trong thời kỳ cải cách ruộng đất...
Tôi nghe tiếng bố tôi thở dài. Lại nghe tiếng côn
trùng sau nhà i ỉ, tiếng cá đớp ao bèo lóp tóp, tiếng ếch nhái từ ngoài đồng xa
mơ hồ. Ngoài sân vườn không ánh điện, chỉ bóng đêm đặc quánh. Rồi nghe đâu như
gió mùa nổi. Tôi hình dung ra cả một thế giới ma quái đang nhảy nhót ngoài kia,
bỗng thấy sởn người, nên co mình nằm thụt vào lòng mẹ. Và tôi thiếp dần đi
trong nỗi sợ, mơ hồ thấy tiếng thở dài của cha, tiếng mẹ trở mình quay lại phía
cha ...
Rồi những bỡ ngỡ ban đầu cũng dần qua
đi . Chỉ lo nhất là không biết rồi đây cả nhà sẽ sinh sống bằng gì ?...
3.
Điều lo lắng nhất là gia đình tôi sẽ sống bằng gì, rồi
ra cũng có cách giải quyết. Ngoài việc được hỗ trợ một năm tiền lương của bố
tôi, ông còn bán đi chiếc xe đạp loại dành cho thiếu nhi Liên Xô vốn vẫn làm
phương tiện đi làm công sở ở Hà Nội, được cả thẩy 150 đồng. Số tiền bán xe đạp
vừa đủ để mua một miếng đất thổ cư giữa làng rộng hơn một sào Bắc Bộ, song
người chủ đất cho chịu 50 đồng sau một năm mới phải trả nốt. Vậy là gia đình
tôi đã có miếng đất cắm rùi.
Có đất cắm rùi, nhưng rồi lấy tiền đâu ra để làm nhà ?
Dù có nhà tranh vách đất thì cũng tốn kém ít nhiều. Song đấy là chuyện tính
sau, trước mắt, miếng ăn cho vào miệng hàng ngày mới là đáng kể. Các cụ nhà
mình xưa đã dạy “ miệng ăn núi lở “ là gì. Miếng ăn rỉ rả ngày ngày đến núi còn
lở, huống hồ trông vào khoản trợ cấp một lần. Hợp tác xã người ta có ưu tiên
cấp cho chút ruộng 5 phần trăm thì cũng con phải cấy hái chờ đến mùa màng chứ.
Lo miếng ăn chưa xong thì cái tết sầm sập đến...
Cái tết năm 1964 sang 1965, mùa đông tháng chạp ấy sao
mà rét. Ở thành phố, nhà cửa san sát chật hẹp nên cái lạnh dường như bớt đi.
Căn nhà ngang gia đình tôi ở nhờ nhà bà cụ Thi, đầu hồi nhà kề ngay bờ ao,
hướng Bắc. Mấy cái ao liên tiếp nhau, điểm xuyết đôi bà cụm tre là đến ngay
cánh đồng. Gió mùa đông bắc hun hút thổi. Những ngày gió mùa về, rét ơi là rét.
Có bao nhiêu quần áo rét mang ra mặc hết vào người.
Giáp tết năm ấy, chẳng thấy nhà mình sắm sửa tết nhất
gì cả. Khác hẳn mọi năm khi còn ở thành phố, dù cài gì cũng mua theo tem phiếu
song đủ cả, nhất là đám trẻ con mấy chị em chúng tôi còn được sắm quần áo mới.
Mấy ngày giáp tết, trẻ con được nghỉ học. Ở nhà, lẩn quẩn chân mẹ, chẳng thấy
sắm sanh gì. Tôi lại hồi tưởng đến những tết trước. Dịp này, năm ngoài, tôi còn
được mẹ cho đi chơi chợ hoa Hàng Lược. Thật khó tả cái niềm vui trẻ thơ khi lạc
vào chợ hoa tết. Cơ man là hoa đào, lay ơn, thược dược. Như xứ sở thần tiên mà
tôi đã từng được xem trên phim ở bãi chiếu bóng ngoài trời dốc Yên Phụ. Tuyệt
nhất là mấy chị em chúng tôi, cùng chúng bạn trong cái ngõ Trúc Lạc, trốn nhà,
rủ nhau lên tận Quảng Bá xem đánh cờ người. Những hình tướng, sĩ, tượng, xe,
pháo, mã, tốt trong bộ Tam cúc vẫn chơi hàng ngày, nay là những con người cụ
thể diện trang phục xanh đỏ tím vàng, y hệt quân bài, tay cầm biển chữ, di
chuyển theo sự điều khiển của người chơi cờ. Chúng tôi xem mê ly, quên cả đói
bụng, cho đến khi trời ngả sang chiều mới rủ nhau về, trong sự lo âu của bố mẹ.
Giờ thì xa rồi. Tôi có nằm mơ cũng chẳng được thế nữa.
Đám trẻ con trong cái ngõ Trúc Lạc ấy, theo cha mẹ tứ tán cả. Chẳng biết mấy
đứa còn ở lại, tết này có lên Quảng Bá xem cờ người không ?...
Thấy
đám trẻ chúng tôi buồn thiu mà không dám ho he thắc mắc gì, lựa lúc bố tôi vắng
nhà, mẹ tôi bảo: “ Giờ nhà mình về hẳn quê rồi. Chẳng còn được mua sắm tết theo
tem phiếu như ở Hà Nội nữa đâu. Tết năm nay, thiếu thốn nhiều, các con ạ...”.
Mẹ tôi bỏ dở chừng câu nói, giọng như nghẹn đi, mắt ầng ậc nước. Tôi biết bà cố
nén để không bật lên tiếng nấc.
Chị Ngoan, là chị lớn trong ba chị em chúng tôi, khi
đó đang học dở lớp 6, cố làm ra vẻ người lớn, an ủi : “ Đâu có gì, mẹ ơi. Chúng
con cùng lớn rồi mà. Tết nhất, nhà có gì ăn nấy... Với lại, quần áo mẹ mua tết
năm ngoái vẫn còn mới tinh, diện vào vẫn đẹp lắm ...”. Nói an ủi cho mẹ yên
lòng, mà giọng chị Ngoan cũng có nước mắt... Mẹ tôi cố làm ra cười, bảo: “ Thế
nào... thì cũng có bánh chưng, các con ạ “.
Phiên chợ giáp tết, mẹ tôi ghé cùng mấy người làng lần
mò đi chợ Nôm, nghe nói là khá xa. Đây là cái chợ đặc biệt, mà mãi sau này tôi
mới rõ, cái câu dân gian cửa miệng rằng “ đồng nát thì về Cầu Nôm, con gái nỏ
mồm về ở với cha “, là nói đến cái chợ Nôm này. Mẹ đi chợ tết, còn bố tôi ở
nhà, hì hục lấy đất thịt, nhào thật nhuyễn với trấu thóc, đắp một cái bếp lò to
tướng ngay trong góc nhà. Tôi xem bố đắp bếp, mấy lần hỏi mà bố tôi chỉ ậm ừ
cho qua chuyện. Quá trưa ấy, mẹ tôi đi chợ về, trong quang thúng, ngoài những
thứ hàng sắm tết, còn có một chiếc nồi đồng to tướng. Tôi lăng xăng giúp mẹ bỏ
những thứ hàng tết, tò mò hỏi :” Sao nhà mình lại thổi cơm vào cái nồi to thế
hả mẹ ? “. Mẹ ngần ngừ giây lát, rồi ấn ngón tay chỏ vào trán tôi, bào : “ Sau
tết, nhà mình sẽ tráng bánh cuốn, để mang bán cho mọi người lấy tiền mà nuôi
các cơn chứ “.
Tôi reo lên thích thú: “ Ôi, thích thế mẹ. Tha hồ được
ăn bánh rồi “.
Nhưng tôi đã nhầm. Thực ra, tôi còn quá nhỏ để chưa
thể hiểu gì...
Ấy, bắt đầu cho một nỗi cơ cực, tủi hờn !...
4.
Giáp tết, họ hàng cho nhà tôi chung một phần tám con
lợn, cả xương xẩu được chừng dăm cân, khéo chế biến, có nhân gói bánh chưng,
rồi cũng có giò nạc, giò mỡ, xương dành nấu măng nấu miến… Chiếc nồi đồng to
tướng mẹ mua ở chợ Nôm trước tết được mở hàng đem dùng luộc bánh chưng.
Sau bữa cơm trưa ba mươi Tết, chiều gió mùa đông bắc
về từ đêm trước, trời mưa chút ít, gió thổi hun hút them lạnh buốt. Lâu rồi, bố
tôi mới nhấp vài chén rượu, chẳng hiểu do phấn khích hay để giải buồn, ông ngà
ngà say, chùm chăn kín đầu ngủ, tiếng ngáy không đều như có gì đó phấp phỏng lo
lắng. Chiều muộn, mẹ và các chị tôi bận rộn việc dọn dẹp nhà cửa. Hai chị lục
lọi đống họa báo Liên Xô, Trung Quốc mang về từ Hà Nội, tìm xem những trang có
ảnh đẹp, gỡ ra, hì hụi dán lên tường nhà trang trí đón xuân.
Tôi không có việc gì làm, tha thẩn ra bờ ao, ngồi bên
mép cầu gạch, hết nhìn ngắm những đám cá cờ quẫy tranh nhau đớp mồi vẩn trong
nước ao, lại nhìn những cụm bèo cuối đông già khô xác dần, chán mắt lại hóng
mắt sang lũy tre bờ ao bên kia, thấp thoáng là cánh đồng làng, lệch chút là gò
ông Tướng. Đây là một gò cao, nghe nói mấy trăm năm trước là cơ ngơi dinh thự
của ông Tướng, giờ bỏ hoang, cỏ leo mèo lốc, dặt những loại cây thân dây và dứa
dại mọc um tùm. Đó còn là nghĩa địa, nơi dành riêng để chôn cất toàn trẻ con
trong làng chết. Tôi đã vài lần theo đám trẻ trâu trong xóm dẫn ra đấy chơi,
những gò mả, cái mới cái cũ hình tròn cao thấp. bọn chúng dọa ma, hô lên rồi cả
bọn bỏ chạy tán loạn. Tôi khiếp vía, chạy thục mạng, nhảy bừa qua lùm cây dại,
chân vướng gai, chảy máu, sau khiếp vía, chẳng dám bén mảng ra gò ông Tướng.
Nghe nói, vào dịp cuối năm, những chiều tối gió bấc mưa dầm, người ta thấy bóng
dáng đám trẻ con đội mồ chui lên, dìu dắt nhau lang thang trên đồng, ghé cả về
chân tre bìa làng, xin ăn hay kếu oan gì đó. Trời sẫm dần, nền mây xám xịt, tôi
rung mình sợ, khong dám đưa mắt về phía gò ông Tướng nữa, rời bờ ao, trở vào
nhà. Các chị tôi đã dán xong những tờ họa báo trang hoàng tường nhà, bắt đầu
quay quanh mẹ tôi xem gói bánh chưng. Chị Ngoan lớn nhưng chỉ chầu chực chờ mẹ
sai vặt thôi, còn chị Hạnh, nhỏ tuổi hơn, lại mạnh bạo hơn, chờ mẹ tôi gói xong
những chiếc bánh chưng to, năn nỉ để mẹ bớt lại chút gạo và những lá rong rách
nhỏ cho chị tập gói bánh chưng con…Và
rồi, sau hồi lâu hì hụi, chị Hạnh đã gói thành ba cái bánh chưng con để mẹ tôi
xếp lên trên cùng, dành cho ba chị em tôi mỗi người một chiếc. Chị Hạnh khéo
tay, làm cái gì cũng đẹp, từ việc bọc sách vở, đến việc làm thủ công, hay giúp
mẹ gập quần áo. Chỉ phải cái tính bướng bỉnh, khó sai vặt, khác hẳn chị Ngoan
hiền lành dễ bảo, cái gì chị thích thì làm bằng được, không thích thì bỏ ngoài
tai, lần chần không chịu làm, nên hay bị mắng, thậm chí bị bố mẹ đánh đòn…
Chợt đâu đó, hơi lửa thoảng trong không gian và những
tiếng nổ lép bép, khiến bầu không ấm hẳn lên. Tôi hiếu kỳ, nhảy ra ngoài sân,
ngó nghiêng xem sao. Loanh quanh tìm kiếm một hồi, rồi cũng phát hiện, thì ra
bà cụ Thi vun cành lá khô quét tước vệ sinh sân vườn đón giao thừa, vun rác lá
thành một đống to ngoài cổng ngõ, châm lửa đốt. Quanh đống lửa rác, cả đám trẻ
con cháu cụ Thi gần chục đứa vây quanh, tôi hòa vào đám trẻ, chuyện trò liên
thuyên, vui lắm. Có đứa ti toe khoe têt có áo quần mới, có đứa lén bỏ khoai
lang, sắn vào đống lửa nướng ăn, có đứa lại khoe chuyện được theo mẹ đi chợ
phiên cuối năm, tha hồ mà ngắm hàng tết…
Sau này, tôi mới biết là người ta đốt đống rấm chiều
cuối năm theo phong tục ở quê. Và hơi lửa đống rấm ngày đầu ấy cứ ám ảnh tôi,
theo tôi đến mãi sau này khi đã trưởng thành, đi đấy đó khắp thế gian… Và cứ
vào chiều ba mươi tết, dù là ở phương Nam nắng gió nóng bức mùa khô, hay ở
thành phố, thì tôi vẫn có cảm giác thèm thuồng hơi lửa đống rấm, thèm cái không
khí háo hức đón tết đầy chất trẻ con … Có lẽ, hơi lửa và không khí đống rấm
chiều quê ba mươi tết ấy đã nhen nhóm trong lòng tôi ngọn lửa khao khát học
hành, kiến thức, đi xa, vươn xa …
5.
Cái tết năm đó qua đi nhanh chóng. Bây giờ, tôi chẳng
mấy nhớ chuyện tết ngày ấy có vui hay không. Bố tôi bảo, nước nhà có chiến
tranh thì vui cái nỗi gì, theo phong tục, tết đến thì cứ phải lo cho đủ lệ bộ
vậy thôi. Những năm tháng ấy, mặc dù đã sau chục năm hòa bình lập lại, xã hội
có khá lên một chút, nhưng đất nước lại bước vào cuộc chiến tranh mới. Sự kiện
Vịnh Bắc bộ, thực ra là đế quốc Mỹ đã chủ động gây hấn để buộc ta phải chấp
nhận dấn vào một cuộc chiến không cân sức. Về thực lực, Mỹ đang trên đà lớn
mạnh, và đem so với Pháp thì còn mạnh và hiện đại hơn nhiều.
Ở nông thôn, tết quê vốn đã giản tiện, với nhà nghèo
lại càng giản tiện hơn. Qua một cái tết, đất nước có chiến tranh, rồi chẳng
biết tết năm sau sẽ ra sao ? Mà nhà tôi, khi ấy, đúng là nhà nghèo, vì ngay đến
cái nhà còn phải đi ở nhờ, thì nói gì đến chuyện miếng ăn. Thêm nữa, bố mẹ tôi
chuẩn bị nghề làm bánh cuốn, nên bao nhiêu vốn liếng phải cho hết vào việc mua
sắm dụng cụ và nguyên liệu làm nghề. Nghề này, tuy không cần máy móc gì, nhưng
cũng phải bỏ tiền mua nồi, làm phên tre, mua than cám, và nhất là phải đong
thóc dự trữ. Mà thóc gạo cũng phải là loại ngon, dẫu không giống tám thơm, hay
gạo dự, thì cũng phải là loại hạt trắng, có độ dẻo, độ mịn thì bánh mới ngon
được, mẹ tôi bảo vậy. Nhà vốn chật mà góc nhà phải quây một cái cót nhỏ để dự
trữ thóc, nên càng them chật chội. Vất vả nhất là khâu xay lúa, giã gạo làm
nguyên liệu bánh. Cái khoản này là nặng nhọc nhất, nên bố và các chị tôi phải
đảm nhiệm, vì lúc đó, nhà nông chưa sẵn máy xay xát gạo như sau này. Thỉnh
thoảng, bố tôi còn cho tôi đứng thêm vào phía trước cần cối giã gạo. Thằng bé
bảy tuổi đầu lại thấp bé nhẹ cân như tôi có thêm vào thì có thấm tháp gì, có lẽ
ông muốn cho tôi biết lao động chân tay cơ cực thế nào? Tôi đứng gá vào đấy,
đạp chân theo nhịp, dẫu sao bố cũng thêm vui và đỡ nặng nhọc chút ít. Những lúc
như vậy, bố tôi thường thủng thẳng kể chuyện, như Tây Du Ký, Tam Quốc, Thủy Hử,
hoặc cổ tích An-đéc-xen, ngụ ngôn La-phông-ten... Tôi lắng nghe, như nuốt lấy
từng lời trong tiếng chày giã thì thụp. Thỉnh thoảng, lời kể bị đứt đoạn, tôi nghe
biết vậy, song đâu có hiểu, khi ấy là lúc bố tôi mệt đứt hơi... Rõ khổ cho ông.
Từ nhỏ, ông có phải làm việc nặng nhọc như thế này đâu, ngay cả khi còn trai
tráng mạnh khỏe. Vậy mà, đến lúc tuổi cao sức yếu, ngày ngày phải xay lúa, giã
gạo, thức khuya dậy sớm với những công việc nặng nhọc.
Bố tôi được sinh ra trong một gia đình Nho giáo. Đến
đời ông nội tôi thì gia đình ít nhiều sa sút. Ông nội tôi lấy vợ nhà giàu, của
hồi môn bà nội tôi mang về nhà chồng cũng kha khá, nghe đâu gần mẫu ruộng và
già nửa số đó thuộc diện nhất đẳng điền, bờ xôi ao mật của làng. Bà nội tôi chỉ
canh tác chân ruộng tốt, còn ruộng xấu đồng xa thì phát canh thu tô. Nhờ thế,
nhà dư thóc ăn, dẫu không đến mức của ăn của để thì ông nội tôi cũng không biết
mưa nắng là gì, chỉ ngày đêm đèn sách chữ Nho, học đủ Ngũ kinh Tứ thư, chờ thi
cử mà thôi. Ông nội tôi dạng bạch diện thư sinh, thể chất yếu ớt, bù lại, bà
nội tôi người thấp đậm, khỏe mạnh, tuy con nhà giàu song thạo công việc nhà
nông, kể cả lao động chân tay. Ông bà sinh hạ hai người con, gái đầu, trai sau
hơn nhau dăm tuổi. Chị gái bố tôi đến tuổi cập kê đã lấy chồng gia đình khá giả
ở xã bên và sinh hạ trai gái đến gần chục người con.
Bố tôi bảo, ông giống bà nội tôi, thể chất đậm đà khỏe
mạnh. Vì ông tôi theo đòi nghiệp khoa cử, bà nội tôi lại đồng áng đảm đang, nên
ngày nhỏ, bố tôi không phải lao động chân tay, không học công việc nhà nông,
cùng lắm chỉ giúp bà việc vặt chăm sóc cây cối vườn tược, chuyên tâm học chữ
Nho, do ông nội tôi trực tiếp truyền dạy. Ông nội tôi dùi mài kinh sử, vài lần
dự khoa thi hương triều Nguyễn, song chỉ đỗ khoa sinh, nên có phần chán nản.
Ông cụ, vốn người yếu ớt, hay ốm đau, nên viết chữ Nho, tay kém, nét chữ sạch
sẽ dễ đọc đấy, nhưng thiếu sự quắc thước, thần thái. Người đã yếu thì tinh thần
cũng không sảng khoái, khoát đạt được, nên khi làm bài thi cũng khó mà tới độ
sáng sủa, tinh anh, vì thế không thể đỗ đạt cao hơn, và sự nghiệp làm quan của
ông nội tôi xem như thành mây khói. Chán ngán, và chắc cảm thấy quá sức mình,
ông nội tôi bỏ không thi nữa, mở lớp dạy học chữ Nho tại nhà. Các lớp học trò
thay nhau luôn có mươi đứa trẻ trong làng, làng bên, xã bạn nghe tiếng theo
học. Học phí khoán theo tháng, trả bằng tiền hay quy ra thóc. Nhờ vậy, kinh tế thêm dư dả. Ông
nội tôi cũng dần quên nỗi buồn thi cử,
dốc lòng với nghiệp gõ đầu trẻ qua ngày…
Bố tôi học chữ Nho với ông tôi. Xưa nay, bố tôi bảo,
thường những người khoa cử, đỗ đạt làm quan, chỉ quyên tâm lập công lập nghiệp,
việc nước việc làng, chứ không bỏ công sức vào việc dạy con học hành. Việc dạy
con cái nối dõi tông đường, tiếp nghiệp khoa cử, thường được ký gửi vào các ông
thầy khác trong thiên hạ vốn nổi tiếng hay chữ, tính tình nghiêm cẩn, khoan
dung, đạo đức, không may mà thất bại trong việc thi cử. Các cụ truyền rằng, dạy
dỗ con cái thiên hạ thì được và có thể thành đạt, chứ khó có thể dạy cho con
cái mình thành đạt được, vì sợ rằng, với con cái mình, dễ không nghiêm khắc,
hoặc nếu nghiêm được, thì con cái thành ra sợ hãi, học cũng khó vào. Người xưa
chiêm nghiệm thế, hẳn là đúng. Ông nội tôi cũng biết điều đó, nhưng cực chẳng
đã, chẳng kiếm ai trong vùng có được những điều kiện khả dĩ để gửi gắm việc dạy
học cho bố tôi, nên ông đành chấp nhận việc tự mình làm thầy dạy cho con. Song
để khắc phục sự hạn chế của việc này, ông tôi xếp bố tôi vào lớp chung, nghĩa
là học cùng đám học trò trang lứa, cũng kiểm tra bài, mắng mỏ, thậm chí đánh
đòn như các học trò khác. Việc dạy dỗ chung là thế. Riêng ra, ông nội tôi vốn
tính nghiêm khắc, với bố tôi trong chuyện học hành, chữ nghĩa, ông cụ cũng có
mong muốn con mình hơn người, nên càng nghiêm khắc hơn.
Ngày ấy, giấy tờ bút lông mực Nho là của hiếm, đắt
lắm, nên học trò khi học mặt chữ, tập viết các nét và bộ chữ cơ bản, phải tập
viết trên mặt sân gạch bằng than củi, rồi bằng que tre vạch trên mặt sân đất;
có khi còn phải rải cát xuống sân và dùng bàn cào, loại dụng cụ chuyên trang
thóc, để trang cát cho phẳng, đặng viết chữ lên đó, viết đầy rồi lại trang đi,
viết lại. Cứ thế ngày ngày, thuộc mặt chữ rồi thì tập viết cho đẹp. Bố tôi là
người sáng dạ, học chữ nhanh lắm, viết cũng đẹp. Để rèn chữ, mỗi khi ông nội
tôi có việc vắng nhà, trước khi đi, bao giờ ông cũng gọi bố tôi, viết chữ son
vào hai gan bàn chân, và ra bài tập để bố tôi tập viết. Xong việc và nhà, ông
gọi bố tôi lại, kiểm tra gan bàn chân, nếu chữ son do ông viết nhòe nhiều, hoặc
mất cả chữ, thì bị phạt đòn, bởi như vậy, tức là bố tôi không học, chạy nhảy
nhiều, hoặc trốn ra ngoài chơi. Nghiêm khắc là thế, nhưng có lẽ vì vậy, sau
này, chữ bố tôi đẹp lắm, không những chữ Nho, chữ quốc ngữ và cả chữ Pháp cũng
vậy. Tôi đã kiểm chứng việc này qua các loại văn bản giấy tờ, hồ sơ, giao phả
gia đình và dòng họ do bố tôi thủ bút đều rất đẹp, nét chữ cứng cáp, khoáng đạt
và có tính cách lắm.
Khi dạy dỗ bố tôi, ông tôi thầm gửi gắm tâm nguyện và
ước muốn đỗ đạt làm quan không thành vào người con nối dõi của mình. Tuy nhiên,
những năm đầu thế kỷ 20, triều đình Nhà Nguyễn còn gắng tổ chức vài ba khoa
thi, song chữ Hán có vẻ dần thất thế, chữ quốc ngữ đang được truyền bá, còn chữ
Pháp đang thịnh hành, nhất là với các bậc trí thức, những người có học, muốn đi
làm công chức sở Tây của chính phủ bảo hộ. Bậc túc Nho, nặng nề nghiệp khoa cử
Hán học sống ở làng quê như ông nội tôi, cũng nhận ra điều đó. Và chẳng hiểu
trời xui, đất khiến thế nào, ông nội tôi đã ra một quyết định dứt khoát là gửi
bố tôi ra Hà Nội, ở một nhà người họ hàng xa, đồng thời theo học chữ quốc ngữ,
chữ Pháp và nghề kiến trúc, xây dựng nhà cửa. Việc ấy, đã khiến bố tôi, cậu trẻ
trai nhà quê ở độ tuổi chớm lớn, nhanh chóng thay đổi thành chàng thanh niên
tân thời,…
Và dĩ nhiên, bước ngoặt đó thay đổi hẳn cuộc đời bố
tôi …
6.
Qua tết, nhà tôi chuẩn bị đồ nghề cho việc làm bán
cuốn, loại bánh quà phổ biến ở xứ ta, hầu như vùng quê nào cũng có, với các tên
gọi khác như bánh tráng, bánh mướt. Ngày trước, gia đình tôi sống ở ngõ Trúc
Lạc, bên bờ hồ Trúc Bạch, tháng vài ba lần, thường là vào chủ nhật, mẹ tôi mua
quà sáng, món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh cuốn Thanh Trì là loại bánh không có
nhân, tráng lớp mỏng, chỉ phết qua chút hành chưng mỡ rồi xếp thành nếp với
nhau, ăn với loại nước mắm pha, sang hơn thì nước chấm có cà cuống. Bố mẹ tôi,
gốc nông thôn nhưng cả hai đều không biết nghề làm ruộng. Bố tôi thì học hành
chữ nghĩa là vậy, còn mẹ tôi lại theo nghề làm hàng quà và buôn bán từ nhỏ, tuy
bên ông bà ngoại tôi cũng có vài mẫu ruộng ở quê, nhưng mẹ tôi không mấy thạo
nghề nông.
Về quê, đương nhiên là phải vào hợp
tác xã nông nghiệp, gần như bắt buộc vậy, song bố mẹ tôi phải nuôi ba chị em
tôi còn nhỏ, chị Ngoan đang lớp 6, chị Hạnh lớp 5, tôi đang học dở vỡ lòng, nếu
chỉ trông vào thóc lúa HTX thì lấy gì mà sống. Ông bà bàn nhau, sẽ làm thêm
nghề tráng bánh cuốn. Thuận vợ thuận
chồng tát bể Đông cũng cạn kia mà, bố tôi bỏ công cả tuần tìm đến mấy làng
chuyên nghề bánh cuốn ở Thanh Trì học nghề. Chẳng biết ông học thật, học lỏm ra
sao, chỉ biết ông rất tự tin mở nghề này ở quê. Quả thật, ở quê tôi khi ấy, làm
bún, làm đậu phụ thì có, chứ tráng bánh cuốn thì chưa có ai. Vậy là thuận lợi
quá rồi.
Xuân mới, đợi qua rằm tháng Giêng, các
cụ ta bảo, lễ tết cả năm không bằng rằm tháng Giêng là gì, nên cứ phải qua ngày lễ trọng này, rồi muốn khai mở gì thì mới bắt đầu. Tuy là ngày mười
sáu mới làm mẻ hàng đầu tiên, nhưng trước đầy, mẹ tôi đã tráng thử vài mẻ, để
xem độ loãng đặc, dày mỏng, độ chín tới của bánh, rồi tập trang bánh cho quen
tay đến mỏng đều là được … Buổi đầu tráng mẻ ít, bán quanh xóm quanh làng, nhà
họ hàng người quen, người mua chưa có tiền trả thì cho chịu, nên đến trưa thì
cũng hết hàng, chị Ngoan xung phong bê thúng bánh đi bán, xong việc về vui lắm.
Mẹ tôi cũng phấn khởi ra mặt, riêng bố tôi thì vẫn trầm ngâm. Dường như, ông
lường trước được những khó khắn sắp tới…
Chỉ thương cho chị Ngoan, đang học dở
dang lớp 6 trường Chu Văn An, một ngôi
trường danh tiếng ở Hà Nội, vốn cũ là trường Bưởi, trưởng trung cấp bảo
hộ từ thời Tây, thì phải bỏ, theo gia đình về quê học trường làng. Qua tết, đã
vào học kỳ 2, vậy mà chị vẫn phải tranh thủ buổi không học, bê thúng bánh đi
bán dạo khắp xóm làng. Khi đó, chị Hạnh đang học dở lớp 5, nhỏ tuổi hơn, lại
tính bướng bình, nhất định không chịu mang bánh cuốn đi bán. Ép lắm, thì chị
cũng chỉ bê thúng bánh đi loanh quanh xóm, không chịu rao, ai biết mua thì mua,
một hồi rồi mang về, bảo là không bán được và nhất định không chịu đi nữa.
Những lúc như vậy, chị Ngoan thương em, thương bố mẹ tôi, lẳng lặng đội thúng
bánh đi rao thêm vài vòng nữa, bán hết hàng mới chịu về. Mẹ tôi thương các con
đến trào nước mắt.
Có một lần, vào ngày nghỉ học, chị
Ngoãn mạnh dạn mang bánh xuống tận làng Trâu bán hàng. Đây là một làng thuộc xã
khác, nhưng có cánh đồng liền với cánh đồng làng tôi, xa chừng vài cây số. Từ
làng tôi đến làng Trâu, phải băng qua mấy cánh đồng, đường đi toàn bờ mương, bở
máng, bờ dộc, bờ đầm, khó đi là thế, lại
nguy hiểm vào mùa mưa bão nước đầy. Làng Trâu thuộc vùng chiêm trũng, ruộng đất
chua phèn, quanh năm ngập nước, canh tác thì cấy chay bừa chùi, khi cày bừa
trâu lội ngập bụng nước, khi gặt lúa phải dùng lưỡi hái ngoặc ngọn lúa lên mà
cắt, vậy nên, mang tên gọi làng Trâu. Thế mà, chị Ngoan lặn lội, hết cắp
nách lại đội đầu thúng bánh vừa đi vừa
dò đường, đến tận nơi. Mẹ tôi phải dậy sớm tráng bánh, để chị Ngoan còn kịp
mang đi. Chị đi, đến quá trưa sang chiều thì về đến nhà. Đói và mệt, mặt trắng
bệch ra, nhưng vui lắm vì bán hết cả thúng bánh. Chẳng rõ chị bán ra sao, theo
lời chị kể, lúc đầu thì ít người mua lắm, nhưng khi chị tua quanh làng lần sau
thì mọi người gọi nhau í ới, rồi bảo nhau mua, chỉ nghe người ta rì rầm bảo
nhau, con gái ông Ký Chữ đấy, mua hàng cho cháu nó mừng, nhờ thế mà hết bánh.
Sau này, nhà tôi mới biết, sở dĩ hôm
ấy, chị Ngoan bán hết cả thúng bánh đầy, là bởi, người làng Trâu tò mò, gia thế
nhà ông Ký Chữ nổi tiếng một thời là vậy, mà giờ lại thất thế, đến nỗi con cái
phải đi bán hàng rong thiên hạ; phần nữa, chị ruột bố tôi lấy chồng làng này,
bà đông con nhiều cháu, gia tôc lớn ở làng Trâu, khi biết tin con của người em
ruột mình đến đây bán bánh, bà lén huy động đám con cháu trong nhà, ra mua hết
hàng. Ngày ấy, chị Ngoãn không biết chuyện gì, nên cứ hàng tuần, vào ngày nghỉ,
chị lại cất công mang bánh cuốn xuống làng Trâu bán hàng vô tư.
Chị Ngoan cứ thế, vừa học vừa giúp bố
mẹ bán bánh cuốn, cho đến khi học hết lớp 7, tức là tốt nghiệp cấp 2 thì nghỉ
hẳn, ở nhà làm ruộng mà không học lên cao hơn, mặc dù chị học rất giỏi. Chị
Ngoan là người thông minh, học đâu nhớ đấy, nhất là mấy môn tự nhiên như Toán,
Lý, Hóa. Thông minh, nên tuy không có thời gian học bài ở nhà, bởi còn phụ giúp
việc bán hàng, nhưng chị Ngoan vẫn học giỏi, luôn đứng đầu lớp, đầu khối học,
đặc biệt môn toán. Hổi gia đình tôi còn ở Hà Nội, chị học cấp 1 ở trường Mạc Đĩnh
Chi, và đứng đầu trường. Chẳng thế mà, chị đã hai lần được giới thiệu và lựa
chọn vào đoàn học sinh thiếu nhi xuất sắc của Thủ đô, diện sơ-mi trắng, zíp
xanh, thắt khăn quàng đỏ, đội mũ ca-nô, lên lễ đài tặng hoa và chúc mừng nguyên
thủ Trung Quốc là Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, và Tổng thống Indonesia là ông
Su-các-nô, trong lễ đón chính thức khi các vị này sang thăm Việt Nam. Từ một
học sinh thành phố như vậy, chị Ngoan nhanh chóng chấp nhận cuộc sống của học
sinh nông thôn, lao động chân tay lam lũ, chăm chỉ, mà không một lời phàn nàn,
oán trách gì bố mẹ. Bố mẹ tôi đã phải ra một quyết định thất khó, ấy là, chị
Ngoan còn một năm nữa là hết cấp 2 nên được tiếp tục học nốt, còn chị Hạnh thì
học hết lớp 5, tạm nghỉ để khi chị Ngoan học xong cấp 2 rồi thôi học, khi đó,
chị Hạnh sẽ lại đi học tiếp. Còn tôi, con trai út, nhỏ tuổi, chưa giúp nhà được
việc gì thì cứ học hành từ bình thường. Ngày ấy, biết mình phải tạm nghỉ, chị
Hạnh đã khóc, giận bố mẹ tôi lắm, chị càu nhàu trách cứ là bố mẹ tôi không
thương chị, mà chỉ thương chị Ngoan và tôi…
Ôi, nỗi hờn giận trẻ thơ, đáng thương
hơn là đáng trách. Đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuổi học tuổi chơi, ấy vậy mà phải
nghỉ học, thức khuya dậy sớm, lao động chân tay như người lớn vậy, thì bảo sao
không hờn giận cơ chứ!
Sau này, chị Hạnh khi đã thành đạt,
thường cười tự giễu mình, mỗi khi nhà có việc đông vui, mấy anh chị em cũng
nhau ôn nghèo kể khổ chuyện xưa cũ. Ngày ấy, dẫu có nằm mơ, thì chị Hạnh cũng
chẳng bao giờ mơ thấy, một ngày nào đó, mình lại trở thành tiến sĩ khoa học,…
Giờ đây, chị Hạnh là người có học vị cao nhất trong các chị em đại gia đình nội
ngoại chúng tôi, là chuyên gia trong một vài lĩnh vực, và thường xuyên làm việc
với các nhà khoa học nước ngoài, từng tham gia nhiều hội nghị khoa học chuyên
ngành quốc tế ... Nghỉ hưu nhà nước rồi,
chị lại làm việc cho các tổ chức khoa học quốc tế ở ta…
7.
Cứ theo tính cách của hai người chị tôi, chị Ngoan và
chị Hạnh, thì hẳn ai cũng nghĩ là chị Ngoan vừa học giỏi, lại hiền ngoan, chăm
chỉ hơn, còn chị Hạnh ngang bướng và học hành lại bình thường. Dĩ nhiên là vậy,
nhưng đấy là cái tính trẻ con thế thôi, chứ khi lớn lên, sẽ thay đổi nhiều. Mà
ngay khi còn là trẻ con, thì cũng chưa hẳn là vậy.
Ngày trước, nhà tôi sống ở số ... ngõ Trúc Lạc, mặt
chính thông ra phố Phó Đức Chính, mặt trong giáp với bờ hồ Trúc Bạch. Đây là
dinh cơ của đại gia đình cụ Nguyễn Trọng, một nhà thầu nổi tiếng thời Pháp
thuộc, từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20. Vì sao nhà tôi lại sống ở dinh cư
này, là có nguyên do khá dài dòng.
Cụ Nguyễn Trọng thuộc dòng họ lớn, gốc làng Trúc Lạc.
Nghe nói, làng này xưa kia, vốn là nơi sinh sống của dân ngụ cư tứ xứ kéo ra
kinh thành Thăng Long lập nghiệp, sinh sống bằng nghề thợ thủ công, trong đó có
dân nghề đúc đồng quê gốc Hưng Yên, Nam Định chi đấy. Cụ Nguyễn Trọng thì khởi
nghiệp từ nghề xây dựng, và nghe đâu, cụ đã thông đồng với một số quan chức xứ
ta làm việc cho chính quyền bảo hộ nên trúng được nhiều gói thầu béo bở mà phất
lên nhanh chóng. Cụ này đông con lắm, trong số mấy con trai của cụ, lại có
người lấy vợ là người làng Trì quê tôi. Gia đình người vợ cũng là một gia đình
bề thế ở quê, vừa có họ xa, vừa có người từng theo học chữ Nho với ông nội tôi.
Cứ dây mơ dễ má vậy, nên mới có chuyện, khi hiểu được chữ Nho dần thất thế, ông
nội tôi đã nhờ cậy gia đình này nói khó để họ nhận bố tôi theo học nghề kiến
trúc với cụ Nguyễn Trọng. Bố tôi bỏ chữ Nho ra Hà Nội trọ học là thế, và ông ở
trọ ngay trong nhà thầy Nguyễn Trọng, cùng một lúc theo học quốc ngữ, học tiếng
Pháp và nghề kiến trúc. Bố tôi vốn thông minh, nhanh trí nên theo được. Dinh cơ
rộng lớn này, có một ngôi biệt thự lớn trung tâm liền với mặt ngõ, trong khuôn
viên còn có mấy dãy nhà gạch, chuyên dành cho các thành viên của đại gia đình,
người làm công và các học trò ở. Bố tôi kể rằng, cụ Nguyễn Trọng là một người
rất nghiêm khắc. Sáng nào cũng vậy, dù mùa đông hay mùa hè, cụ đều dậy sớm, cắt
đặt công việc cho mọi người. Hễ ai, dậy muộn, lười biếng không có mặt kịp giờ
cụ giao việc là cụ đi kiểm tra ngay. Mùa đông rét mướt là thế, hễ thấy ai còn
chui chăn ngủ, bất kể con cái hay người ở, học trò, là cụ hắt ngay cả chậu nước
lạnh cho ướt hết chăn chiếu, quần áo, để lần sau nhớ mà chừa. Bố tôi khi kể lại
chuyện này, ông như còn ám ảnh chuyện hắt nước ấy.
Sau cải cách ruộng đất, mẹ và hai chị tôi thoát được
từ quê ra, về cùng sống với bố tôi tại một căn trong dãy nhà gạch đó, và ở
chính nơi này, đã hoài thai rồi sinh tôi. Ngày ấy, cụ Nguyễn Trọng đã mất lâu
rồi, cả dinh cơ ấy chỉ còn dăm gia đình sinh sống, đó là nhà ông Sâm, con trai
thứ cụ Nguyễn Trọng, đứa cháu gái ngoại của cụ, và gia đình ông Đàm, nguyên là
cán bộ kháng chiến về làm ngành giáo dục, ở chung trong ngôi biệt thự tây. Còn
dãy nhà gạch thì có gia đình tôi, gia đình một người cháu gái, vài phòng chung
cho mấy người độc thân hoặc có vợ con ở quê, và một căn nữa dành cho bà Đò, một
người con dâu cụ Nguyễn Trọng. Tôi không rõ, tại sao đám con cái cụ Nguyễn
Trọng đông đúc là thế mà chỉ có mấy nhà ấy sống ở dinh cơ chính, nơi khởi phát
của cụ? Láng máng qua lời kể của bố tôi, hình như, cụ Nguyễn Trọng còn có nhiều
dinh cơ khác nữa, ở quanh đấy và trên phố, nhưng sau này cụ phân chia cho các
con khác, và họ sống ở những nơi ấy, hoặc có người được chia nhà cửa quanh đó,
vì phá sản mà phải bán đi mất.
Với
ngần ấy gia đình, nên số trẻ con sống trong khu này cỡ vài chục đứa, cộng thêm
đám trẻ con dăm đứa nữa ở khu nhà bên cạnh, vừa là hàng xóm vừa là dây mơ với
nhà cụ Nguyễn Trọng, khiến số trẻ con đông lắm. Đám trẻ, lại chia ra thành mấy
tốp. Tốp đầu, khi ấy đang học cuối ấp hai hoặc đầu cấp ba, gồm vài đứa con lớn
nhà ông Sâm và con lớn nhà ông Đàm, vị cán bộ ngành giáo dục. Tốp hai, có mấy
đứa giữa con ông Sâm, ông Đàm và hai
người chị tôi. Còn tốp bét, đứng đầu là cậu út nhà ông Sâm, vài đứa nhỏ nhà ông
Đàm, tôi, thêm mấy nhóc của khu nhà bên cạnh. Đây là một xã hội thu nhỏ khá
sinh động, tôi sẽ kể những câu chuyện của chúng sau...
Trẻ con đông đúc là thế, lại dều học trò, hay nghịch
ngợm, mà người lớn thì bận đi làm cả ngày, có ai trông nom quán xuyên chi đâu.
Trẻ con chơi đùa, nảy sinh va chạm, đánh nhau,là chuyện thường, nhưng giải hòa
không khéo là từ chuyện trẻ con thành chuyện người lớn ngay.
Ngày
đó, tôi cũng không nhớ vì sao mà mấy đứa út nhà ông Đàm lại hay bắt nạt tôi.
Một lần, sinh chuyện, đứa lớn nhà ông Đàm bênh em nó, còn chị Ngoan bênh tôi,
hai bên cãi vã. Bố mẹ tôi đi làm vắng, bà Quýnh, vợ ông Đàm thì nội trợ ở nhà,
thấy đám trẻ con cãi nhau, đáng lý là người lớn phải đứng ra can ngăn, hòa
giải, thì bà Quýnh lại bênh con mình, mắng chị Ngoan, chị Ngoan tức quá, cãi
lại. Chuyện tưởng như vậy rồi thôi. Ai ngờ, chiều muộn mẹ tôi đi làm về, vừa
thấy bóng dáng mẹ tôi là bà Quýnh xồ ra, nói xa xả, mách mẹ tôi rằng chị Ngoan
hư, lại dám cãi nhau tay đôi với bà. Không những thế, bà Quýnh nghe hơi nồi chõ
từ đâu, lại cạnh khóe rằng nhà tôi thuộc diện thành phần xấu, rằng bố tôi làm
kiến trúc xây dựng cho tư nhân nhưng thực ra là làm cho giặc Tây, rằng bà tôi ở
quê thì là địa chủ bóc lột nông dân, còn nhà bà thuộc thành phần cách mạng
kháng chiến. Mẹ tôi bực lắm, bèn gọi riêng chị Ngoan ra hỏi chuyện. Khi nghe rõ
đầu đuôi câu chuyện xích mích, mẹ tôi bảo với bà Quýnh là “Tôi đã dạy cháu rồi. Nó gây ra chuyện gì thì để cháu nó tự biết phải
làm thế nào“. Thực ra, mẹ tôi có ý ngầm để một mình chị Ngoan tự ứng xử,
còn chị lại nhất định không nhận mình có lỗi. Thế là cuộc chiến nổ ra, một mình
chị Ngoan khẩu chiến với bà Quýnh cùng mấy đứa con nhà ấy. Bên nào đứng cửa nhà
nấy, cách nhau một quãng sân, ứng khẩu, nhát một. Chị Ngoan hiền là thế, nhưng
khi cần thì cũng cứng rắn, ghê gớm lắm thay. Cãi vã một hồi, bà Quýnh chu chéo
méo giật: “Ới bà Lụa kia, bà dạy con bà thế nào mà để con
bà cãi nhau với tôi thế à? Còn con bé
kia, tên mày là Ngoan là mày chả ngoan tí nào, mày hư lắm, dám cãi nhau với
người lớn à…”. Mẹ tôi lầm bầm “Rõ
người lớn già mồm, đi cãi nhau với trẻ ranh, dại chưa. Lần sau thì chừa nhé !?”.
Chán chê, rồi cuộc khẩu chiến ấy cũng kết thúc. Khi bố
tôi và ông Đàm đi làm về thì cuộc chiến đã lặng. Trong nhà tôi, tôi thì trẻ con
ngơ ngác, mẹ tôi có ý ngầm của mình, chị Ngoan hăng hái khẩu chiến, riêng chị
Hạnh chỉ lặng quan sát cuộc khẩu chiến như người vô sự. Thực ra, chị Hạnh cũng
muốn bênh chị và em mình, nhưng xét về phân cấp tốp trẻ trong ngõ, chị Hạnh
đang là thủ lĩnh của tốp giữa, mà đám lâu la dưới trướng chị lại là mấy đứa con
nhà Đàm- Quýnh. Tốp này, với sự cầm đầu của chị Hạnh, sau còn bày nhiều trò vè,
quậy phá nhiều chuyện không tưởng …
8.
Trở lại chuyện học hành ở quê của mấy chị em chúng
tôi.
Khi từ Hà Nội về quê, chị Ngoan đang học dở lớp 6, còn
chị Hạnh lớp 5 cùng trường Chu Văn An. Ngôi trường này tên cũ thời Tây là
trường Bưởi, sau hòa bình lập lại năm 1954, nó được đổi tên thành Chu Văn An,
một nhà Nho, một vị quan thanh liêm, giàu khí tiết, một nhà giáo dục tài năng
đức độ cuối thời Trần. Trường có hai cấp học theo hệ phổ thông 10 năm, cấp 2 từ
lớp 5 đến lớp 7, cấp 3 từ lớp 8 đến lớp 10. Còn tôi, khi ấy đang học Vỡ lòng, ở
dốc phố Châu Long, tức là mới học chữ cái, ghép vần, tóm lại là thuộc mặt chữ,
biết đọc biết viết, chứ chưa hề học bốn phép tính.
Về quê, hai chị tôi tiếp tục theo học
đúng lớp của mình, riêng tôi, chẳng hiểu sao, bố mẹ tôi lại cho tôi vào học lớp
1. Mấy ngày đầu vào lớp, ngoài việc làm quen với đám trẻ quê cùng lớp, tôi phải
còn chịu đựng sự chế nhạo trêu người các đủ kiểu của bọn chúng. Khi học Tập đọc
thì không sao, nhưng hễ hôm nào học Toán là tôi ngôi chết trân, chẳng biết phải
làm gì. Ngó nghiêng nhỉn vở mấy đứa cùng bàn, thấy chúng nó viết các con số,
phép tính, rồi dùng ngón tay hay que tính bằng tre tính tính toán toán, riêng
tôi đã học Toán đâu mà biết cách làm. Hết giờ, thầy giáo kiểm tra, vở tôi để
trắng, bèn hỏi tại sao, thì tôi bảo là chưa được học nên không biết cách làm.
Lúc ra chơi, chúng nó cứ nhằm đôi guốc gỗ tôi đi dưới chân mà ê ê, thậm chí có
đứa còn xông vào lấy guốc của tôi ra xem, rồi ném cho nhau xem như đồ chơi.
Chúng nó toàn đi chân đất, thấy đôi guốc gỗ của tôi xem như vật lạ lắm. Tôi
thật dở khóc dở mếu vì chuyện nàỳ, đến nỗi, giờ ra chơi thì tôi không dám ra
ngoài sân, cứ ngồi lì trong lớp để tránh sự trêu chọc của bón chúng. Hai chị
lớn tôi cũng bị đám bạn học cùng lớp trêu chọc vì đi guốc gỗ. Chị Ngoan thì
lẳng lặng thây kệ, còn chị Hạnh bản tính mạnh bạo thì cãi lại, có khi còn cáu
tiết xông vào giằng lại guốc, dùng guốc làm vũ khí chống lại bọn kia.
Sau mươi ngày học thử lớp 1, thấy tôi
không theo được vì chưa hề học môn Toán học, nhà trường đã nói với bố mẹ tôi
cho tôi nghỉ ở nhà, chờ đợi năm học sau. Tôi cũng không theo lớp vỡ lòng ở quê,
mà ở nhà, bố tôi dạy tôi tập đọc tập viết, ông cũng dạy tôi học Toán, cách làm
các phép tính, nên năm học sau, niên khóa 1965-1966, khi bước vào học lớp 1,
tôi không những đọc thông viết thạo, chữ khá đẹp, còn biết làm toán. Hai chị
tôi, theo quyết định của bố mẹ, chị Hạnh đã hết lớp 6, tạm nghỉ ở nhà phụ giúp
bố mẹ làm bánh cuốn, chị Ngoan theo học nốt lớp 7 dể có bằng tốt nghiệp cấp 2
rồi thôi luôn. Chị Hạnh ức lắm, tị nạnh với chị Ngoan, rồi ngầm trách bố mẹ tôi
con yêu con ghét. Được cái, chị Ngoan rất thông minh, luôn đứng đầu lớp, mà về
nhà vẫn dành thời gian để đỡ bớt công việc cho chị Hạnh, nên mọi việc đều ổn
thỏa.
Còn tôi, bước vào lớp 1 là tôi đứng
đầu lớp ngay. Ngày ấy, trường lớp ở quê còn thiếu, nên lớp 1 của tôi học ngay
trong đình làng. Thầy dạy lớp tôi là tên là Sanh, là người trong làng, nhỏ
người diện thấp bé nhẹ cân, một mắt bị dị tật. Nghe bố tôi bảo, thầy cùng họ
với nhà tôi, nhưng ở chi khác, và xét họ hàng xa, thì thầy là vai chú họ tôi.
Lớp học ở quê ngày ấy buồn cười lắm, thầy trò đều là người làng, họ hàng với
nhau, nhiều đứa học trò xét về họ hàng ngang vai nhau, thậm chí có đứa vai trên
thầy cô, nên khi dạy và học khó lắm. Đã có chuyện, thầy cô phạt học trò, học
trò cãi lại, văng tục bảo tao là chú, là anh mày, sao mày phạt tao. Có một
chuyện khôi hài cười ra nước mắt, ấy là khi lên lớp 2, có đứa cùng lớp với tôi,
cô giáo cũng người làng dạy, khi bị cô phạt vì tội nói chuyện riêng, bắt đứng
úp mặt vào tường, nó phá quấy không chịu, xin ra ngoài đi tiểu, bảo buồn tiểu
quá, nếu không cho ra ngoài thì nó tè ngay ra lớp, cô vẫn không cho ra, nó liền
vạch quần tè luôn ra lớp, cô bực quá đánh thước kẻ vào mông, nó khóc và chạy về
nhà mách bố mẹ, bố nó liền đến lớp mắng té tát cô giáo, lại còn dọa mách bố mẹ
cô giáo nữa. Thật chẳng ra sao cả,
Tôi học giỏi, nên ngay năm đầu lớp 1,
trường đã chọn tôi đi dự kỳ thi học sinh giỏi môn Toán. Nơi tổ chức kỳ thi đó ở
một xã khác trong huyện, nếu đi đường chính thì từ quê tôi đến đấy cũng gần
chục cây số, còn như đi tắt, băng qua đồng cũng cỡ bảy cây số. Thầy Sanh nhận
trách nhiệm đèo tôi bằng xe đạp đến nơi dự thi. Hôm đi thi, tôi dạy sớm ăn
sáng, đợi thày Sanh đến đèo đi. Thầy thấp bé, lại chọn đường tắt băng đồng, nên
thầy trò trầy trật, có lúc tưởng cả hai thầy trò ngã xuống mương cừ nước. Đường
tắt, đi ngang qua một cổ quán, tức là quán nghỉ giữa đồng của một làng ven
đường, quán này cũ kỹ rêu phong mái, cạnh quán có một cây si cổ um tùm lá, vời
những chum rễ buông, rễ xoắn vào than cây, nhìn rất cổ quái. Khi thầy Sanh chở
tôi ngang qua đấy, tôi nhìn vào sợ rúm người, tay bấu chặt vào mạng sườn thầy,
khiến thầy đau kêu ai ái, tôi sợ đến mức thiếu nước nhảy khỏi booc-ba-ga xe bỏ
chạy lên trước. Qua khỏ cổ quán một đoạn, khi chưa hoàn hồn thì đường đi lại
băng ngang một khu nghĩa địa cũ, nhìn vào thấy nhấp nhô những gò đống mồ mả to
nhỏ, xen kẽ là những cây dứa dại cỡ cổ thụ. Tôi nín thở vì sợ. nhưng không sợ
đến mức như sợ cái quán cổ vừa nãy. Cuối cùng cũng đến được trường dự thi.
Các học sinh từ khắp các trường cấp 1
trong huyện đã tề tựu. Đứa thì thầy cô nhà trường đưa đi, đứa thì cha mẹ đưa
đến. Thầy Sanh dặn dò tôi mấy câu rồi tôi vào lớp thi. Đã qua lâu rồi, và khi
ấy tôi mới bước vào 8 tuổi, nên chẳng còn nhớ về đề thi. Song tôi nhớ mang máng
là các câu thi Toán ấy phần lớn là dạng đố mẹo, đòi hỏi trí thông minh đa\ực
biệt mới làm được, thế nên, tôi có học giỏi thì cũng là dạng con hát mẹ khen
hay, làm bài thi, bài được bài không, câu được câu mất, kết quả, không được
giải gì.
Thi xong, làm không mấy tốt, tôi không
vui chút nào, nhưng đấy chưa phải là tất cả. Tôi lo không biết khi thầy Sanh
hỏi về kết quả làm bài, mình sẽ trả lời ra sao, chân bước ra cổng trường, thấy
cảnh thầy trò, cha mẹ thiên hạ hỏi con xem thi cử ra sao, đầu óc nặng ý nghĩ
tìm câu trả lời thầy. Nhưng ôi thôi, tôi đảo quanh tìm thầy Sanh mà chẳng thấy
thầy đâu, tôi thoáng sợ, dáo dác tìm thầy. Tôi cứ loanh quanh, nhớn nhác hết
cổng trường rồi mấy ngả đường dẫn vào trường mà tuyệt không thấy bóng dáng thầy
Sanh. Một hồi, cổng trường vắng tanh, mọi người đưa đón nhau đã về hết, tôi sợ
toát mồ hôi hột, sợ đến tè ra quần, mặt đầm đìa nước mắt. Chết lặng vì sợ giờ
lâu, qua cơn tuyệt vọng, tôi nghĩ, chắc thầy Sanh đưa mình đến đây rồi thầy đi
họp hành đâu đó, để mình tự về. Nhưng nếu vậy, sao ban sáng thầy không bảo mình
trước. Một sự táo bạo lóe lên trong ý nghĩ, tôi quyết định nhớ lại, lần ngược
đường ban sáng để về. Trước hết là xác định phương hướng, nhớ lại đường, theo
đúng vệt lối cũ sáng đến đây lối nào, thì về đúng lối đó, cứ như theo vệt bánh
xe đạp ban sang, chỉ có điều ngược lại thôi.
Nỗi sợ cứ thế dần vơi, tôi nghĩ, chỉ
cần không lạc đường sẽ về được nhà. Lại băng ngược qua nghĩa địa, rồi cổ quán.
Tôi nhớ, ngày đó, đến cách cổ quản chừng chục thước, tôi dừng lại một chút nén
nỗi sợ, mắt nhắm mắt mở, căm đầu chạy thục mạng băng ngàng cây si quán cổ, qua
vài chục thước mới dám chậm lại. Tôi chạy đến mức chiếc cặp đeo trên vai xóc
nảy lên như muốn văng ra khỏi vai tôi. Dừng lại chút để thở, xì ra mồm nỗi sợ
hãi, tôi chỉ dám nghé đầu nhìn lại ngôi cổ quán, rồi theo đường cũ cắm cúi đi. Đến
bìa xã quê tôi, tôi thở phào vì biết mình sẽ không lạc đường. Về đến nhà, gần 2
giờ chiều, áo đẫm mồ hôi, quần cỏ may găm đầy, đầu tóc bơ phờ, đói và khát đến
lả người đi. Thấy bộ dạng tôi vậy, bố mẹ xoắn lấy hỏi han, lấy nước cho uống,
cơm cho ăn. Vừa ăn, tôi vừa kể lại sự tình, nghe rồi, mẹ tôi than thở, sao lại
thế nhỉ, còn bố tôi khá bực tức, ông bảo sẽ hỏi rõ thầy Sanh sao lại bỏ tôi như
vậy. Vừa mừng, vừa sợ, vừa bực mình, nên bố mẹ tôi chẳng them quan tâm đến kết
quả thi cử của tôi, bố tôi động viên, “Con
về đến nhà là tốt rồi, làm bài thế nào cũng không sao, con ạ”.
Hôm sau đi học, tôi định bụng và theo
lời mẹ dặn, hỏi lại thầy Sanh sao lại để tôi như vậy. Thầy vào lớp, dạy bình
thường, tuyệt không đả động gì đến chuyện thi cử của tôi hôm qua. Lúc ra chơi,
tôi tìm thầy, chưa kịp nói gì thì thầy đã át tôi, bảo: “Đề thi chắc là khó lắm nhỉ. Không được giải cũng không sao, em ạ”.
Rồi thầy đi làm việc khác, không hề nói đến chuyện thầy đi đâu, làm gì và sao
lại không chờ đón đưa tôi về.
Cho đến sau này, tôi không nói lại
chuyện đó, và đến tận bây giờ, tôi cũng không biết vì sao hôm ấy thầy Sanh lại
bỏ tôi như vậy. Lâu lâu về làng, tình cờ gặp thầy Sanh, đã là ông lão già lụ
khụ ngoài tám chục tuổi, tôi chào thầy bằng chú, xưng hô theo kiểu họ hàng ở
quê, thầy chào lại theo kiểu xã giao thôi. Ngày còn trẻ, đôi khi nhớ lại chuyện
này, tôi có thoáng trách thầy thiếu trách nhiệm, nhưng thâm tâm, tôi lại biết
ơn thầy Sanh về chuyện đó. Ấy là, sự việc đó, vô tình đã sớm khơi dậy trong tôi
tính tự lực cánh sinh, không phụ thuộc và dựa đẫm vào ai, khó đến mấy cũng có
cách giải quyết, những đạo lý cha mẹ tôi từng dạy, nhưng đấy là bài học thực
hành đầu đời.
Theo cách nói vừa hình tượng vừa thông
dụng bây giờ, ấy là “hãy tự cứu mình,
trước khi trời cứu”.
9.
Khởi đầu nghề làm bánh cuốn, có chật vật thật đấy,
nhưng rồi nhà tôi cũng tạm có một nguồn thu nhập, chủ yếu lấy công làm lãi. Sợ
nhất, dăm bữa nửa tháng, không may hôm nào ế hàng, bánh cuốn thừa ra, cả nhà
mang ăn thay cơm bữa.
Ngày ấy, món này là hàng quà loại sang, thế nhưng ăn
thay cơm một bữa, hai bữa thì còn thấy ngon miệng, nuốt được, chứ đến bữa thứ
ba, thì ôi thôi, miếng bánh đưa lên miệng, cứ ở đầu lưỡi mãi không thèm trôi
xuống họng. Ấy là phần vì ngán theo đúng nghĩa đen, phần nghẹn họng vì chua
chát của cái nghề, của gia cảnh. Đã có thời, cả nhà, trừ bố tôi vẫn làm ra bình
thản, chứ mẹ và mấy chị em chúng tôi, hễ cứ ngửi thấy mùi hành phi mỡ, mùi nước
mắm pha loãng chua chua để chấm bánh là ngán đến nỗi đầy hơi từ dạ dày xông lên
ngang họng.
Có một chuyện trọng đại, ấy là mua đất
làm nhà. Khi từ Hà Nội về, gia đình tôi nhờ tạm ở cái nhà ngang của gia đình bà
cụ Thi. Đã là ăn nhờ ở đậu thì sao mà yên lòng được. Người đời bảo, có an cư
thì mới lạc nghiệp là gì. Vậy nên, việc kiếm được mảnh đất để cất nhà là việc
bố tôi nghĩ đến đầu tiên, khi ông quyết định đưa cả gia đình về quê nội. Như
tôi đã kể, khi còn đi làm cho cơ quan nhà nước ở Hà Nội, bố tôi được mua phân
phối một chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô, để làm phương tiện đến công sở hàng ngày.
Về quê, không cần xe nữa, bố tôi quyết định bán đi, được giá 150 đồng tiền lúc
bấy giờ, cộng thêm được chu cấp một năm tiền lương, làm lưng vốn. Nhờ cậy, bố
tôi mua được miếng đất vườn bỏ không của ông Bàng, người xóm Tự, giáp với làng
tôi. Nghe nói, trước đây, ông Bàng mua mảnh đất này, rộng gần sào rưỡi định
dành cho người vợ bé của ông làm nhà ở riêng, nhưng bà này bỏ làng đi đâu mất,
nên đất bỏ không. Ông Bàng tiếc đất, có cấy lúa dăm ba vụ, nhưng ruộng ở trong
làng, bóng cây cớm nắng nên thóc lép, chẳng thu được bao nhiêu. May mà ông tốt
bụng, tiền bán đất chỉ lấy trước 100 đồng, số còn lại cho chịu đến năm sau, nên
nhà tôi mới có thể lo liệu việc dựng một ngôi nhà tường đất mái rạ, đặng có chỗ
chui ra chui vào.
Mảnh đất này thuộc dải đất đầu làng
tôi, giáp khít và như hình đầu chiếc chày thọc sâu vào xóm Tự, lại ngay trục
đường chính của cả hai làng, nên địa thế khá đẹp. Vườn có lũy tre thành tường
rào, và một rãnh ao nhỏ, mấy cây lưu niên như ổi, nhãn, mít. Nhà tôi bỏ chút
công san lấp, rồi thuê thợ đào đất từ rãnh ao lên, nhất cử lưỡng tiện, vừa
thành ao hình chữ nhật, lại có đất đắp tường. Bố tôi bỏ tiền mua xoan và tre
ngâm để làm cột kèo, xà ngang và đòn tay nhà, số thiếu còn lại, chi họ nội nhà
tôi hô hào nhau, mỗi nhà mang đến đóng góp ít nhất một cây tre, một bó rạ để có
vật liệu thưng vách rơm bùn và lợp mái nhà. Mỗi nhà cũng góp một vài ngày công
giúp giập thêm. Thế nên, ngôi nhà rộng ba gian hai chái nhanh chóng thành hình
hài. Khung nhà vừa dựng lên là lợp mái ngay, bố tôi kê luôn tấm phản ngựa cũ
vào nhà mới và mỗi tối, hai bố con tôi ngủ đêm ở đây để giữ nhà. Nhà chống
chếnh, tường sau đắp cao mới lưng lửng đầu, vách trước còn chưa thưng, đêm ngủ
dù mùa hè mà cứ thấy lành lạnh, sờ sợ làm sao. Có lẽ lạnh bởi màn đêm và những
ngọn gió quê hoang hoải, bởi sự thiếu thốn của gia cảnh, và sự hoang mang của
lòng người.
Vào một đêm như thế, tôi còn sợ rúm
người bởi tiếng kèn trống của đám ma từ nhà hàng xóm kế bên. Cụ ông nhà này vừa
mất, theo phong tục ở quê, phường bát âm được thuê đến thổi kèn giải. Kèn,
trống, nhị nỉ non điệu lâm khốc suốt từ chiều tối đến quá nửa đêm, rồi tiếng
người thân thở than, rên rỉ, chẳng hiểu khóc vờ hay khóc thật, chốc chốc lại
rống lên thì ngủ sao nổi cơ chứ. Chui trong màn, nằm cạnh bố tôi, tôi không tài
nào ngủ được, vì kinh động, và sợ hãi, đầu óc cứ ong ong những âm thanh não nề,
rồi những hình ảnh ma quái lạnh lẽo lẩn khuất. Bố tôi nhắm mắt đấy, nhưng tôi
biết ông cũng khó ngủ, một tay choàng qua giữ vai tôi cho tôi đỡ sợ, một tay
ông gác ngang trán, lâu lâu lại thở dài...
Biết tôi không ngủ được, bố tôi bèn kể
chuyện. Ông giảng giải, rằng tại sao gia đình tôi lại không còn đất ở quê, mà
khi về quê phải đi mua lại. Chuyện rằng ngày trước, ông bà nội tôi có miếng đất
ở ngay giữa làng rộng vài sào, do các cụ từ đời trước để lại, đấy là ngôi nhà
vườn mà khi bố tôi còn nhỏ ở quê, ông nội tôi đã mở lớp dạy chữ Nho. Sau này,
ông nội tôi mất, bố tôi làm nghề kiến trúc nhà cửa ở Hà Nội, khi có tiền, đã
đổi miếng đất ấy lấy mảnh đất bên cạnh, rồi bỏ tiền mua trương của mấy nhà hàng
xóm, thành một thửa đất lớn, rộng đến 6 sào Bắc bộ. Lúc có nhiều tiền hơn, bố
tôi cho xây dựng một ngôi biệt thự Tây, kiến trúc kiểu Pháp, bốn mái, tường dày
đến gần nửa thước. Để đủ gạch xây, đã phải đốt những hai chục lò gạch to, tương
đương với hai mươi vạn gạch, rồi thêm các vật liệu gỗ, sỏi cát khác, mất 4 năm
mới cơ bản hoàn thành. Ấy vậy mà, ngôi biệt thự nhà vườn hoành tráng ấy lại chỉ
tồn tại không đầy 4 năm sau khi xây xong. Số là, khi ấy, thực dân Pháp lo ngại
lực lượng cách mạng kháng chiến theo chính phủ cụ Hồ ngày càng lan rộng, nên đã
xua quân đi càn quét, vùng quê tôi nằm giữa đường số 5 và đường sắt nối Hà Nội
với cảng Hải Phòng cũng bị quân Pháp chiếm đóng. Bố tôi đưa cả nhà đi lánh nạn
như nhiều dân làng. Quân Pháp chiếm căn biệt thự của gia đình tôi khi đó bỏ
không làm căn cứ đóng quân của chúng. Vài tháng sau, khi quân Pháp rút đi,
chúng chôn mỗi góc nhà một khối thuốc nổ và cho nổ tung. Thế là bao nhiêu tiền
của công sức của bố tôi đổ vào ngôi biệt thự, bỗng chốc thành đống gạch vụn.
Sau này, khi từ nơi tản cư trở về, bố
tôi cho dọn dẹp, nhặt nhạnh từ đống đổ nát ấy, cho xây lại một ngôi nhà ngói 5
gian theo lối nhà đại khoa ngay trên thổ đất này. Nhưng rồi, khi cải cách ruộng
đất, bà nội tôi bị quy địa chủ, cả ngôi nhà đại khoa, cùng của cải, phương
tiện, vật dụng ở quê bị đội cải cách tích thu hết, đem chia cho dân nghèo. Thửa
đất vườn rộng 6 sào ấy, được chia đều ra làm tám phần, nhà tôi được trả lại một
mảnh rộng 8 thước, bảy phần đất còn lại chia cho các nhà nghèo trong làng. Nhà tôi
không ở quê nữa, mà sống ở ngõ phố Trúc Lạc, nên bố tôi đem mảnh đất ấy cho chị
Nguyên, là chị gái lớn con của mẹ già tôi. Chị Nguyên đi lấy chồng xã khác, lại
mang bán phần đất đó đi, lấy tiền mang về nhà chồng.
Nguyên do vậy, gia đình tôi từ ruộng
đất, nhà cửa giàu có hạng nhất nhì trong vùng, thành tay trắng, không mảnh đất
cắm dùi... Lời bố kể thì thầm trong đêm đã ru tôi vào giấc ngủ, cho tôi thoát
khỏi những tiếng nỉ non lâm khốc của nhạc bát âm đám ma, trong căn nhà gianh
vách đất còn dở dang, trống huếch trống hoác, đầy những tiếng gió lùa và tiếng
ếch nhái cầm chừng...
10.
Cuộc đời con người ta là vậy,
Sự nghiệp và tài sản là mấy thứ quan trọng của mỗi
cuộc đời con người ta, nhất là với người đàn ông. Bố tôi, may mắn sinh ra trong
một gia đình có truyền thống Nho gia, bậc trung, gần mẫu ruộng đất với thổ cư
vài sào, thêm nữa, ông nội tôi gõ đầu trẻ, dạy chữ Nho nên ít nhiều có thu nhập
ngoài canh tác. Bố tôi, ngày nhỏ, chỉ mỗi việc học hành, không phải chân lấm
tay bùn bao giờ. Bao việc đồng áng đều một tay bà nội và bác gái tôi lo toan.
Đến khi bác gái đi lấy chồng thì một tay bà nội tôi đảm đương. Ngạch trưởng nhà
tôi hiếm trai, đến bố tôi là đời thứ tư độc đinh, nghĩa là đã liền bốn đời, mỗi
đời chỉ có mỗi một con trai nối dõi tông đường. Ông nội tôi bạch diện thư
sinh,thể trạng yếu ớt, may bà nôi tôi thấp đậm khỏe mạnh kéo lại, nên cả hai
chị em của bố tôi ai cũng thừa hưởng sự khỏe mạnh từ mẹ. Vì yếu người, lo không
thọ, lại trách nhiệm trưởng chi, cần sớm có cháu đích tôn nối dõi tông đường,
nên ông nội tôi bàn với bà, sớm tính chuyện gia thất cho bố tôi...
Mai mối thế nào, ông bà chấm cô Nhu, người làng Trâu,
nơi con gái lớn của ông bà về làm dâu. Gia đình cô Nhu thuộc diện giàu có của
làng ấy, nghe đâu cũng có tới ngót chục mẫu ruộng tốt. Cô Nhu lại khỏe mạnh,
bằng tuối bố tôi, dáng người lợi cho đường sinh nở. Bà Lợi, em ruột bà nội tôi,
một người mau mắn, mồm mép, thạo chuyện buôn vặt chợ nọ chợ kia, đảm nhận việc
đưa bố tôi đến đánh tiếng với nhà ấy và xem mặt cô Nhu. Khi hai dì cháu đang
ngồi uống nước tại tràng kỷ với ông bà nhà thì cô Nhu đi làm đồng về, từ trong
nhà nhìn ra, gần ban trưa, hai dì cháu nhìn dáng người có vẻ hài lòng, nên đánh
tiếng nhờ bố mẹ cô Nhu gọi cô ra chào khách. Xem mặt rồi, thấy cũng dễ coi, nên
bố tôi ưng thuận. Bố tôi kể, dì Lợi rất thạo việc mai mối, xem mặt, nên ông bà
nội tôi tin tưởng lắm. Chuyện này phải cẩn thận, bởi đã có chuyện nực cười có
thật xảy ra ở làng bên, ấy là nhà nọ, hỏi vợ cho con; hôm đi xem mặt, đến vào
buổi chiều, cô dâu tương lai đi làm đồng vắng, chập choạng tối mới về, cô này
đi ngang qua sân, đầu choàng khăn kín mít, chú rể tương lại nhìn dáng người
thấy thích nên ưng ngay, chẳng cần xem mặt; đến hôm cưới, cô dâu đón về hóa ra
không phải người ấy, thì chuyện đã rồi, đành ngậm ngùi chấp nhận mà thôi; số là
nhà gái có hai cô con gái, Tý chị hình thức kém chút, còn Tý em trẻ đẹp hơn và
cũng đã có mối nhắm rồi, nhà nọ đánh tiếng xem mặt, bị nhà gái xảo thuật cho
xem người cô em, vì chủ quan nên nhà trai không nói rõ ngọn ngành và tỏ mặt cô
dâu, nên mới ra chuyện, đi hỏi Tý em lại cưới về Tý chị. Với cô Nhu, như thế là
cẩn thận, yêm tâm rồi.
Không những thế, trước khi xem mặt, bố tôi đã biết cô
Nhu. Ông kể là, trước đấy một thời gian, có lần, ông theo đám trẻ làng đi hôi
cá ở ao làng sau khi tát ao cuối năm. Đám trẻ đang lục sục quấy bùn, mò mẫm thì
trên đường làng xuất hiện hai cô gái, một cô áo cánh nâu nhỏ người hơn, cô kia
áo cánh trắng hé lộ mông vú nở nang dưới làn áo mỏng. Khi ngang qua ao làng,
hai cô gái lạ sợ sệt khép nép đi, không dám nhìn xuống nơi có đám người đang
hôi cá. Dẫu vậy thì các cô cũng không tránh khỏi sự trêu chọc của đám trai
làng. Đám trai mới lớn nhìn hau háu vào hai cô gái, rồi ê ê và vốc bùn ao ném
tứ tung vào các cô. Các cô ríu nhau bỏ chạy ra xa khỏi tầm ném mới dám dừng
lại, cô áo cánh trắng gạt bùn trên má, rồi làm cử chỉ dọa và chọc lại đám trai
làng, còn cô áo cánh nâu thì lôi tay gàn cô áo trắng. Bọn trai làng thích chí
cười ầm ĩ. Một cậu trai làng lớn hơn bố tôi vài tuổi tỏ ra thông thạo, bảo
rằng, con bé áo cánh trắng tên là Nhu, người làng Trâu, con ông nọi bà kia, nhà
nó giàu nhất nhì làng, rồi cậu ta còn khoe là, thích cái Nhu lắm, nhưng hiềm vì
nhà nó nghèo, sợ nhà kia chê không môn đăng hộ đối nên không dám đánh tiếng
hỏi. Bố tôi bảo, khi ấy chỉ ậm ờ cho qua chuyện, nhưng cũng cảm thấy thinh
thích cô Nhu rồi.
Duyên gặp gỡ là vậy, giờ thì thành duyện phận với nhau
rồi, đành phải chiều thôi. Khi ấy, bố tôi đã ra trọ học ở nhà cụ Nguyễn Trọng
làng Trúc Lạc rồi, nên đám cưới cũng nhanh chóng được thu xếp ổn thỏa. Sau đám
cưới khá to, ăn uống đến vài trăm mâm cỗ, cô Nhu về làm dâu ông bà nội tôi, với
của hồi môn 5 sào ruộng. Hết tuần trăng mật, bố tôi ra lại Hà Nội ăn học tiếp.
Tưởng yên bề gia thất, yêm tâm học hành thành tài, thỏa chí lập nghiệp, thì có
chuyện xảy ra. Đước mấy tháng, bà nội tôi cho người nhà ra gọi bố tôi về giải
quyêt chuyện nhà. Vẫn chuyện muôn thuở, mẹ chồng con dâu mâu thuẫn. Bà nội tôi,
kể tội con dâu với bố tôi, việc nhà thì không khéo, việc đồng không thạo, cãi
miếng một với mẹ chồng... Những tội ấy có thể tha được và dạy bảo dần, song tội
coi thường nhà chồng thì không thể bỏ qua. Bố tôi gặng hỏi mấy lần, bà nội tôi
mới kể, rằng cô Nhu đã vai ba lần, lên mặt nhà mình giàu, chê nhà chồng là nhà
Nho nghèo, chữ không mài ra mà ăn thay cơm được. Ông nội tôi bị xúc phạm, ức
trong lòng những trả lời con dâu, chỉ giao việc ấy cho bà nội tôi xử. Thực
lòng, bố tôi không muốn cuộc hôn nhân đổ vỡ, nhưng bên cha mẹ thì phải hiếu đễ,
còn bên vợ thì phải cảm thông, tha thứ, nên chằng dám quyết gì. Cô Nhu cũng là
người đáo để, nhất quyết không một lời xin lỗi, nên chuyện chẳng đi dến đâu cả.
Bố tôi ra Hà Nội, được dăm bữa nửa tháng thì người nhà lại ra tìm báo tin, cô
Nhu mượn cớ xin về thăm cha mẹ và ăn giỗ cụ, rồi ở lại nhà cha mẹ đẻ, không
chịu về nhà chồng nữa. Bố tôi phiền lòng lắm, vì cuộc hôn nhân đầu, còn chưa
kịp bén duyên đã có nguy cơ sẽ tan thành mây khói mất...
11.
Làng Khê Thủy quê tôi là một làng lớn thuộc xã Hương
Linh. Nghe nói, ngày xưa, thuở lập làng từ triều đại nào thì không rõ, nhưng
căn cứ theo lịch sử hình thành của ngôi chùa cổ Thái Linh thì vùng đất này có
cư dân sinh sống sớm nhất phải trước thời Lý.
Xã Hương Linh từ xa xưa đã phân chia thành hai làng.
Làng Khê Thủy nằm bám bờ một con sông nhỏ, là chi lưu của sông Cái, nên có tên
chữ là Khê Thủy. Làng kia, tên làng được lấy làm tên xã là Hương Linh, chỉ bám
bờ sông một đoạn ngắn rồi phát triển
theo chiều vuông góc với bờ sông, và gồm có ba xóm, ấy là xóm Tự, nơi chùa Thái
Linh tọa lạc và giáp với làng Khê Thủy; tiếp đến là xóm Trì vì ở đây có liền
một dãy ao lớn; rồi nữa là xóm Lộ, gọi vậy là do xóm này bám theo rìa con đường
cái quan liên tổng liên huyện.
Làng Khê Thủy, tên chữ là vậy, nhưng do địa thế trườn
mình theo bờ sông uốn khúc nên hình dáng giống con rắn đang bò, nên làng có tên
tục là làng Xà, và thời nào cũng có kẻ bụng dạ tiểu nhân, gian ngoan. Về hình
dáng làng liên quan đến tính cách hay thân phận con người, xưa nay cũng có
nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Có ý kiến bảo, từ xa nhìn bao quát thấy giống
cánh cung đang giương căng dây, nên đàn ông thường tính khí nóng nảy. Lại cũng
có ý khác, bảo hình dáng làng hao hao con cò đứng ở bờ sông ngoảnh cổ lại, nên
người làng có hanh thông quan lộ bao nhiêu hay làm ăn phát đạt đâu xa, đến khi
về già, cũng mong hồi hương... Đại khái thế, điều này thì cũng vài ba lần tôi
nghe bố tôi bảo vậy.
Làng Khê Thủy, tộc họ Nguyễn là lớn nhất. Trong làng
cũng có vài ba họ khác như họ Lê, họ Hồ, họ Phạm, họ Đoàn, nhưng rất nhỏ. Ngày
xưa, việc họ to là quan trọng lắm, từ lý trưởng trong làng, đến chánh tổng hàng
tổng cũng phải nể nang mấy phần, vì thế những nhà họ nhỏ bị lép vế, nên từng có
nhà tự nguyện cải họ xin vào họ lớn để được núp bóng, hòa đồng. Tộc họ Nguyễn
nhà tôi cũng có mấy nhà từ họ khác xin gia nhập và được chấp thuận. Tộc họ
Nguyễn làng Khê Thủy phân nhánh thành ba chi lưu, chi nhánh nhà tôi là chi
giữa. Các cụ tổ trực hệ nhà tôi là trưởng chi lưu, và cứ thế, ông nội tồi, rồi
bố tôi thay nhau thủ vai trưởng chi họ. Nếu sống ở quê, việc ấy cũng có vẻ oai
tí chút, song phiền hà cũng lắm. Riêng với nhà tôi, từ ông nội tôi đổ vê trước,
loanh quanh đều sống ở quê, nên mọi công việc họ hàng vai trưởng cũng dễ bề lo
liệu. Nhưng đến bố tôi, ông ra thành phố học hành và lập nghiệp, tuy ở quê nhà,
bà nội tôi lúc còn sống đã giúp giập, cáng đáng đỡ phần nào, đến khi bà mất, bố
tôi phải gánh vác hết, đã gặp không ít phiền toái, mất lòng. Đương nhiên, khó
tránh khỏi, khi bố tôi sống ở Hà Nội, ngày giỗ tổ chi họ hằng năm, năm nào
trùng vào chủ nhật thì vất vả đường sá, tàu xe là mấy thì bố tôi đều cố gắng về
dự. Còn như, vào ngày đi làm, thì chịu chết, làm sao nói thác với cơ quan là
xin nghỉ làm để về quê làm giỗ tổ cơ chứ. Vậy nên, thường mấy năm liền, bố tôi
vắng mặt, việc giỗ chạp ở quê đều cập nhờ váo mấy ông chú họ cao niên và chú
Giảng, cùng nhánh trưởng với nhà tôi,
nhưng liền khúc ruột cũng từ mấy đời trước. Ở nhà, với vai đóng thế, được coi
là Phó trưởng họ, chú Giảng chăm chỉ lắm, song phái cái tội ăn nói lắp bắp, kém
cỏi nên toàn bị các ông chú, ông em khích bác này nọ. Mỗi lần, bố tôi có việc
về quê, chú Giảng đây đẩy chối từ: “ Em
... là em nhất định trả lại bác, ... em không giúp bác được đâu... Với lại, em
chỉ là cái thứ trưởng giả thôi, chứ trưởng gì cái ngữ nhà em,...”. Mỗi lần
như vậy, bố tôi lại phải nói khó, an uỉ, dỗ dành mãi chú mới nguôi nguôi chịu
nhận giúp cho những khi bố tôi không về được.
Ngày xưa, ông nội tôi được các cụ để lại cho đất hương
hỏa ngót nghét hai sao đất thổ cư ngay giữa làng, liền với đường trục chính.
Còn việc họ, đồ lễ bái, ăn uống của các suất đinh ngày giỗ tổ trông cả vào mấy
sào ruộng chung của chi họ. Như vậy, không ai phải đóng tiền, theo suất đinh,
tức là chỉ tính con trai, thứ tự theo ngày tháng năm sinh mà chứa họ trước sau.
Mâm cỗ cúng được mang đến nhà Trưởng chi họ, bàn thờ có bài vị cụ Tổ chi, hương
khói khấn khứa ở đấy cả. Cúng xong, mâm cỗ cúng lại được bê về nhà chứa giỗ tổ
họ năm ấy, để các cụ cao vai, cao niên và người Trưởng chi ngồi chung mâm thụ
lộc. Nhà chứa giỗ họ chỉ phải lo rau dưa, mắm muối, củi lửa, mâm bát, bù lại
được hưởng một mâm cỗ gọi là mâm nhập gia. Cứ theo phong tục, lề thói ấy đã mấy
trăm năm, vài chục đời kế tiếp. Bố tôi kể, ông nội tôi có người có chữ cao nhất
chi họ, lại là Trưởng chi, nên mọi người trong họ, trong làng nể trọng lắm. Dẫu
không đỗ ông Nghè như cụ Quan Huy ngày xưa, thì ông nội tôi cũng là người còn
dám lều chõng vác mặt đi thi mà không thấy hổ thẹn vì vốn chữ nghĩa kha khá của
mình. Ngày ấy, cả hàng xã, hàng tổng liệu có mấy người được như vậy đâu. Tuy
nhiên, do chỉ đỗ khóa sinh của kỳ thi Hương, không được thi Hội, ông nội tôi
chán chường nghiệp khoa bảng, chỉ chuyên dạy chữ Nho tại gia. Tưởng rồi, đời
nối đời ở đấy thì đã xảy ra chuyện ma quái trêu ngươi, quậy phá trên thổ đất
hương hỏa ấy, khiến ông nội tôi vốn hay ốm yếu, lại sinh nghĩ ngợi, ám ảnh mà
thành bệnh trọng, mà mất khi mới ngoài bốn chục tuổi. Sau này, nguyên do đó
cũng là một phần, để bố tôi quyết định đánh đổi thổ phần hương hỏa nhiều đời
của nhà mình lấy mảnh đất bên cạnh nhỏ hơn.
Chuyện ma quái ấy như thế nào mà ông tôi lại bị ám ảnh
làm vậy?
12.
Ấy là chuyện cô Yêu.
Chuyện này, mấy chị em chúng tôi đã vài ba lần nghe bố
tôi kể lại.
Kể rằng, ngay cổng vào thổ đất do các cụ đời trước để
lại cho ông nội tôi, cũng có thể coi là đất hương hỏa, có một mô đât nhô cao
hẳn lên so với cả lũy tre chạy dài mặt tiền giáp với đường làng, làm hàng rào.
Bố tôi bảo, ông nội tôi được sinh ra ở đấy, và khi ông nội còn trẻ con thì đã
thấy mô đất cao ấy rồi. Theo ngày tháng, trên đó, cây duối cổ còi cọc và lùm
dứa dại, cùng đám mây leo và các loài cây thân bò quấn quýt thành lùm, thành
búi rậm rịt. Đồn rằng, ở đấy có cô Yêu trú ngụ,...
Cô Yêu là ai? Lại phải giải thích.
Theo lời bố tôi, từ thời Bắc thuộc, nghĩa là từ hơn
nghìn năm trước, trước khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trong chiến thắng
Bạch Đằng lịch sử vào năm 938, xứ Giao Châu thuộc quyền cai trị của các triều
đại Trung Hoa. Các quan lại Trung Hoa thay nhau giữ quyền cai quản từ chính
quyền trung ương đến địa phương, tài sản vơ vét, tích trữ là vàng bạc châu báu.
Khi được gọi về nước, hoặc bị điều đi cai trị nơi khác, khối tài sản ấy, họ
không dám mang theo, mà tìm cách cất giấu ở bản địa. Để cất giấu, lại phải tìm
đất, bí mật cho xây kho tàng ngầm, vẽ địa đồ. Nhưng thế vẫn chưa đủ, kho tàng
thì phải có thủ kho, người trông coi bảo vệ nữa chứ. Các ông thầy pháp thuật
Tàu đã nghĩ ra một cách, tạo ra người giữ kho bằng hình thức người cõi âm. Họ
bày cho chủ nhà đi tìm các cô gái trẻ chưa chồng song phải thực sự đồng trinh,
bỏ tiền ra mua về làm lẽ. Khi theo về nhà chồng, cô gái được chọn lựa ấy, không
phải làm gì, kể cả nghĩa vụ làm vợ, vì thực ra chỉ là vợ hờ, được cho ăn uống
béo tốt. Sau khi chọn được ngày giờ thích hợp, thường vào ban đêm, cô gái ấy
được bí mật đưa đến địa điểm kho tàng bí mật, thực ra cũng là ngôi mộ, để thực
hiện nghi thức phép thuật phù trú thần giữ của bằng cách chôn sống cô gái ấy.
Thầy Tàu quan niệm, phải chôn sống mới thiêng, và ma nữ ghê gớm hơn ma nam.
Cách thức là, cô gái được cố định vào một vị trí thích hợp trong mộ, cùng với
vàng bạc châu báu của gia chủ được cất giấu trong các chum vại sành để ở đây.
Cô gái được cho ngậm sâm quỹ, bị gắn miệng lại, trước mặt có 9 ngọn đèn tượng trưng
cho 9 via của đàn bà. Thầy pháp cúng lễ, phù trú phép thuật vào cô gái, trong
đó có truyền đạt câu thần trú gọi mở cửa kho tàng, đại khái như câu trú “Vừng ơi mở ra” trong chuyện cổ Ba Tư
vậy, hay như mật khẩu trong tin học mạng ngày nay. Thầy Tàu thực hiện xong lễ
pháp phù phép cho cô gái, của kho mộ được đóng lại, bịt kín, xóa dấu vết về
không ai biết, trừ gia chủ có sẵn địa đồ. Tính toán của thầy Tàu, sâm quý giữ
cho cô gái sau bảy bày bốn chín ngày mới chết và khi ấy các ngọn đèn via cũng
tắt, hồn phách cô gái đó không siêu thoát, mà trở thành thần giữ của cho gia
chủ, thực ra là một thứ ma quái siêu nhiên chỉ phục vụ riêng việc trông giữ kho
của cho gia chủ mà thôi. Cô Yêu là vậy đó...
Cái tên gọi nghe có vẻ mỹ miều thế, thì có gì đáng sợ?
Đã có lần tôi hỏi bố tôi như vậy. Ông cười tủm giái thích là, Yêu là yêu quái,
nhưng lại là yêu quái nữ, thêm nữa khi làm người là gái đồng trinh và hẳn không
kém phần xinh đẹp, nên thành ma thì cũng phải khác thường chứ. Ma nữ từng là
gái đồng trinh xinh đẹp, bị chôn sống và phù trú thành ma giữ của, tính nết
chắc có phần yểu điệu, đỏng đảnh đây.
Vậy là cái gò
cao ngay lối cồng chính đất hương hỏa nhà tôi là nơi trú ngụ của cô Yêu. Đồn
vậy thôi, chứ phải có nằng cớ gì người ta mới tin chứ. Vì có cây trái và hoa
dại nên trẻ con trong làng hay rur nhau leo trèo ở đấy vặt hoa chơi, vặt quả
duối chín mà ăn. Nghe nói, lâu lâu lại có đứa trẻ làng bị cô Yêu vật cho thành
ốm đau, thành mê sảng nói năng linh tinh. Thầy làng bắt mạch kê đơn chữa chả
khỏi, nhưng nhà nào biết, sửa cái lễ mọn mang ra bày rồi thắp hương cúng lễ cầu
xin cô Yêu tha cho, vậy là bệnh khỏi. Càng về sau, trẻ làng sợ, nên cây cối ở
đây ngày thêm um tùm...
Bố tôi kể, thấy vậy, có lần ông nội tôi, chống gạy
ba-toong ra đó, phán to rằng “Thần hay ma
thì cũng chẳng ai lại đi bắt nạt trẻ con như thế. Nếu có thiếu thốn đói khát
thì hiển linh cho biết, ta đây sẽ cho xây miếu, tuần rằm mồng một có lễ vật
hương khói đàng hoàng”...
Ít lâu sau, vào một đêm hè gió nam hây hẩy, trời có
trăng nhưng sáng mờ. Ông nội và bố tôi khi ấy con nhỏ tuổi năm ngủ trên bộ phản
gỗ gụ trong nhà. Dưới nền nhà và ngoài hiên, đám học trò rải chiếu nằm ngủ ngổn
ngang dưới đất. Bàn thờ, ngọn đèn dầu hãm hạt đỗ. Nửa đêm về sáng, đang ngủ,
chợt ông nội tôi ngồi bật dậy, miệng ú ớ mãi không thành tiếng, tay chí ra phía
sân nhà. Bố tôi và đám học trò cũng thức dậy ngơ ngác chả hiểu gì. Chỉ nghe ông
tôi bảo “Kia kìa, cô Yêu... cô Yêu, ... chúng bay có nhìn thấy không?...”. Cả
bố tôi và đám trẻ, đang ngủ say thị đột ngột bị đánh thức, hỏi làm sao nhìn
thấy gì cơ chứ. Rồi mọi chuyện vãn hồi. Sáng ngày ra, ông nội tôi mới kể lại
rằng, ông đang ngủ mơ màng thì chợt thấy như có ai đang nhìn mình. Định thần,
thi ra có một người đàn bà trẻ đẹp, đứng ngay sát đầu giường, hai tay giang
rộng chống vào đầu giường và từ từ cúi xuống nhìn chính diện mặt ông. Ông hốt
hoảng kêu lên và ngội bật dậy. Cô gái thoắt lướt qua đám trẻ ngủ dưới đất, đi
ra hiên và sân. Lúc này ông mới thấy góc dáng yểu điệu trong trang phục áo mớ bảy mở ba, đầu đội nói thúng quai
thao. Cô ngoảnh lại nhìn ông, cưới khanh khách, rồi lướt đi và mất hút vào gò
cây ngoài cổng.
Giờ thì ông nội tôi tin là cô Yêu có thật. Ông còn
bảo, cô Yêu này thời còn là gái đông trinh, chắc gốc vùng Kinh Bắc, nên trang
phục kiểu cách chị Hai Quan họ làm vậy. Ông nội tôi cho gọi ngay thợ đến xây
miếu ở đấy, tháng đôi lần, mồng một và rằm, đều đặn hương lễ đầy đủ...
Song cũng kể từ đấy, ông nội tôi dường như bị ám ảnh
ít nhiều, sức khỏe cứ kém dần đi...
13.
Dù sức khỏe yếu, song ông nội tôi vẫn cố gắng duy trì
lớp học chữ Hán, đặng có thêm nguồn thu cho gia đình. Ngoài việc dạy học ra,
ông nội tôi chằng biết làm việc gì. Việc nông tang không thạo, việc vặt trong
nhà vừa không xứng vừa không biết. Bao nhiêu việc dồn hết vào bà nội và người
chị lớn của bố tôi. Ngay như, bố tôi thể trạng tốt nhưng cũng không phải làm
gì. Các cụ bảo, làm lụng hỏng tay, viết chữ thế nào được nữa. Bố tôi kể, có
lần, ngày mùa, sân nhà phơi thóc bà nội tôi đi làm đồng, trời nổi giông đổ mưa
đột ngột. Ông nội tôi mặc kệ mưa ướt thóc. Mưa to quá, sợ nước chảy trôi thóc
theo, bần cùng, ông nội tôi lấy rơm ra đút nút lỗ cống lại. Còn váy áo của bà
nội tôi phơi dây, ông không đụng tay vào, mà lấy cây gậy kều vào. Chuyện đại
loại vậy.
Cũng vì sức khỏe yếu, nên ông nội tôi quyết định rất
nhanh mấy việc trọng đại trong vòng có vài năm, ấy là việc gửi bố tôi ra Hà Nội
học, và sau nữa là cưới vợ cho bố tôi. Việc học hành của bố tôi thì thành công
tấn tới, nhưng việc tậu dâu thì lại hỏng, con dâu về nhà chồng được vai ba
tháng đã tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ, điều này làm ông nội tôi phiền não lắm. Vốn thể
trạng yếu lại thêm bệnh ở tâm, nên dù có thuốc thang này nọ nhưng không khá hơn
lên. Năm ấy, sau kỳ nghỉ ở quê ăn tết, ra lại Hà Nội học tiếp, mới được hơn
tháng đã có người từ nhà quê ra tìm, triệu hồi về quê gấp. Về đến nhà, ông nội
tôi đã yếu lắm rồi. Bố tôi ở nhà chăm sóc, cha con bên nhau, chẳng hiểu có dạy
dỗ dặn dò gì thêm hay không. Rồi ông nội tôi mất sau đó ít ngày. Nghe nói, hôm
lễ mai táng ông nội tôi, chỗ chôn đất là một gò đất cao giáp ranh cánh đồng
làng tôi với làng Trâu, cô Nhu có ra đấy xin được chịu tang. Tang lễ xong, cô
Nhu vẫn không theo về bên nhà tôi mà về lại nhà cha mẹ đẻ. Thế là, cuộc hôn
nhân có thể xem là tan vỡ rồi, khó bề vãn hồi được nữa. Vậy mà, gần bảy năm
sau, hôn thú mới được cắt bỏ.
Chuyện về cô Yêu và lịch sử làng quê dằng dịt vào
nhau, được bố tôi thủng thẳng kể lại qua những tháng ngày gian khó vất vả khi
nhà tôi về ở hẳn quê. Chẳng hiểu mấy chị gái tôi có nhớ gì không, chứ riêng tôi
thì như in vào đầu vậy. Tự nhiên, cho tôi một biệt tài, ấy là trí nhớ những gì
thuộc về lịch sử, địa, lý ngay từ khi con nhỏ. Ngày ấy, cùng những câu chuyện
làng quê, thì những câu chuyện về Phong Thần, Đông Chu liệt quốc, Tây Du ký,
Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng, và nhiều tiểu thuyết kiếm hiệp ly kỳ, tôi nghe như nuốt
lấy từng lời và nhớ nằm lòng luôn.
Những chuyện kia thì mãi đẩu đâu, xa xôi huyền ảo, chứ
chuyện làng quê mình thì có đâu xa. Giờ mình đang sống trên mảnh đất quê, hàng
ngày đi lại ngang chỗ ở của cô Yêu nên cũng thấy sờ sợ thế nào ấy. Khi biết tôi
sợ cô Yêu, bố tôi lại bảo: “Ui dào, sợ
gì. Miếu thờ không còn. Giờ thời
chiến tranh súng đạn, chắc cô Yêu cũng sợ mà dạt đi đâu đó rồi. Với lại, cô Yêu
chỉ bắt nạt những ai yếu bóng vía thôi, chứ như bố đây, bố đâu có sợ”.
Rồi bố tôi kể chuyện, rằng lúc còn trai trẻ, lại cũng
từng chứng kiến việc cô Yêu trêu chọc ông nội tôi, nhưng bố tôi thì không sợ.
Có lần, vào ban đêm trăng mờ, bố tôi đi một mình trên đường làng, đến gần chỗ
trú ngụ của cô Yêu thì thấy một cây tre từ lũy tre bên đường ngả rạp xuống chắn
ngang tầm thắt lưng. Định tìm cách chui qua thì thân tre rạp hẳn xuống, không
thể chui được, còn khi tìm cách đè tre xuống để quai chân bước qua thì thân tre
lại nâng lên khiến không bước qua được. Cứ thế, người và tre dằng co với nhau.
Bố tôi bực quá, nói gì đó một hồi, bỗng thân tre dâng bổng lên thẳng vào trong
bụi, để bố tôi đi qua. Kể xong, bố tôi cười khà khà ra chiều sảng khoái lăm.
Chuyện vậy, lúc đầu thì tôi tin, nhưng rồi nghĩ lại,
hẳn là bố đã bịa chuyện ra làm vậy để trấn an mấy chị em chúng tôi thôi. Thực
hư thế nào chẳng rõ, chứ sợ thì vẫn sợ. Ban ngày thì không sao, còn khi đêm tôi
thì ghê lắm. Khi đi cùng mấy chị thì bớt sợ, còn một mình thì ôi thôi. Tôi có
hai cách để ban tối đi qua đây một mình, ấy là khi gần đến nơi, dừng lại chút,
nín thở rồi cắm đầu chạy ngang qua thật nhanh; hoặc là tay cầm đèn dầu cố nén
sợ đi bình thường ngang qua một chút, khi ấy mới cắm đầu chạy, có lần gió thổi
tắt cả đèn.
Sợ là thế, phiễn nỗi, nhiều khi có việc vẫn phải đi
vào ban đêm. Sân kho hợp tác xã nông nghiệp ngày ấy cách nơi ấy không xa, mà từ
nhà tôi đến sân kho thì kiểu gì cũng phải ngang qua đấy. Thế có khổ cho tôi
không ?
14.
Mấy năm đầu ở quê, hành trình hàng ngày chính của tôi
là từ nhà đến trường và từ nhà ra sân kho hợp tác xã. Ở cái sân kho này, đám
trẻ con chúng tôi tận dụng lúc không mùa màng để làm sân chơi các loại trò chơi
dân gian ở nông thôn ngày ấy, như nhảy dây, pháo đốp, ô ăn quan, và khoái nhất
là đá bóng, bóng làm từ lá chuối khô cuộn lại, bóng từ quar xanh bưởi phơi cho
nẫu mềm ra rồi đá cho đỡ đau chân, và sang nhất là bóng cao su. Tuần một lần
váo buổi tối, sinh hoạt đội thiếu niên tiền phong. Mỗi khi vào vụ gặt, cả chiêm
lẫn mùa, sân kho ưu tiên cho riêng việc gặt hái, phân chia thóc rơm theo tiêu
chuẩn công điểm và số khẩu trong mỗi hộ gia đình.
Quê tôi, tuy không phải diện đồng chiêm trũng như làng
Trâu, song cũng có một diện tích ruộng lớn, nơi tiếp giáp với cánh đồng làng
Trâu là đất trũng, quanh năm mùa thối chiêm khê, ấy là vụ năm thì khô nẻ, vụ
mười thì nhập úng. Năm nào mưa nhiều thì cánh đồng khác cũng chìm trong nước,
nhất là vụ mười, sau mùa mưa bão, nước sông Cái lên to, nước đồng úng thủy
không đổ ra sông Cái được. Lúa chín ngả lướt thướt trên mặt nước ruộng, khiến
ngưới gặt phải lội sâu tới bẹn, dùng lưới hái ngoặc xén lấy từ chân cổ bông.
Lúa quẩy về, đánh đống ở sân kho hợp tác, nước từ lúa chảy ra ướt sũng sân, gặp
ngày nắng, hơi nước bôc lên ngùn ngụt, lúc đập lấy hạt thì hạt thóc ướt bị ủ cả
ngày lên mùi ngai ngái, ung ủng. Không may cho nhà nào đúng phiên được chia
thóc, tuy có trừ hơi theo tý lệ định sẵn song kiểu gì thì cũng thiệt là cái
chắc. Nhà tôi đã mấy lần bị nhận thóc kiểu này, chẳng hiểu do không may, hay là
tay Bục, tổ trưởng đội sản xuất thù ghét nhà tôi mà cứ nhè đầu làm vậy. Thiệt
đơn thiệt kép, ngoài thiệt cân, thóc sau có phơi khô thì xay giã, gạo cũng bị đớn nhiều, bổi lại không thơm. Quê tôi, người ta gọi tấm là đớn, gọi cám là bổi, vì sao lại gọi như vậy, tôi sẽ giải thích sau.
Ban đêm, thóc chia xong, hai chị tôi thay nhau kẽo kẹt
gánh đống thóc ướt đó về nhà, vì ươt nên nặng một thành đôi, còn tôi phải cầm
chiếc đền chai dầu hỏa đỏ quạch lẽo đẽo theo bên cạnh soi đường cho chị. Cứ thế
tua đi tua lại ngang qua nơi miếu thờ cô Yêu ngày trước, sợ đến chẳng còn tóc
gáy đâu mà sởn. Gánh xong thì đã gần nửa đêm. Nhà nào ỉ eo chê thóc ướt không
muốn lấy, tay Bục, đội trưởng chừng mắt bảo: “Này, tôi nói cho mà biết nhá, chiến trường Miền Nam đang ác liệt, bộ
đội ta đổ máu hy sinh biết bao nhiêu, hậu phương chúng ta cứ nhất nhất phải một lòng vì hỏa tuyến, thóc
không thiếu một cân quân không thiếu một ngườ nhá. Có thóc mà chia thế này là
phúc rồi đấy. Chê chê cái gì. Có nhận không thì bảo, không thì tôi phân cho nhà
khác đấy”. Thế là chả nhà nào dám chê nữa. Các chị tôi cũng chỉ dám lầu bẩu
trong miệng rủa ngầm tay đội trưởng rồi đành cắn răng mà gánh về thôi.
Lấy thóc là thế, tuy có chút bực bội, nhưng còn có cái
mà ăn, với tôi, tức nhất là khi họp đội Thiếu
niên tiên phong. Tuy không là đội viên, nhưng tôi vẫn được sinh hoạt. Cả
xóm nhà tôi có chừng vài chục đứa sinh hoạt đội, tất cả chúng nó đều là đội
viên, đù có mấy đứa hư láo, hay đánh nhau, mà học thì dốt đặc cán mai, chỉ
riêng tôi không phải là đội viên. Nhiều cuộc họp, cái Ngà là đội trưởng, có nêu
ra việc nên xét kếp nạp tôi vào đội, với lý do là tôi học giỏi lại ngoan hiền,
cả mấy năm cuối cấp 1 đầu cấp 2 tôi đều học giỏi nhất lớp, nhất trường, lại giỏ
đều các môn học. Khi lấy ý kiến, thằng con tay Bục đội trưởng đội sản xuất nhất
định không đồng ý, bảo rằng, tôi là con cháu địa chủ cường hào bóc lột nhân
dân, thành phần xấu, không thể là đội viên đội thiếu niên tiền phong được. Ý
kiến đó lập tức được thằng cu con lão Cột chuyên đưa thư báo, ủng hộ, và sau đó
một loạt đồng thanh nhất trí không cho tôi vào đội. Cái Ngà nhìn tôi an ủi
nhưng nó cũng chẳng thể chống lại số đông. Đến phần sinh hoạt văn nghệ, chúng
nó hát đồng ca hào húng lắm, nhưng sang phần đơn ca thì rúm cả lại, chẳng đứa
nào dám hát. Cái Ngà chỉ định mấy đứa nhưng chẳng đứa nào thuộc nổi lấy một
bài. Cái Ngà lại đưa mắt nhìn tôi khuyến khích, rồi chỉ định đích danh. Tôi đắn
đo giây lát, không phải vì sợ mà vì chưa biết chọn hát bài gì, rồi lòng tự
trọng và máu yêng hùng nổi lên, tôi nhận lời và cất tiếng hát “... Tiến lên đoàn viên, theo Đảng tiên phong,
bước theo lá cờ rực màu đấu tranh...”. Nhớ là, tôi hát to lắm tuy giọng hơi
run nhưng đúng lời đúng nhạc. Khi ấy, lòng tôi chỉ âm âm một suy nghĩ, rằng giờ
họ không cho mình vào đội thiếu niên thì sau này mình sẽ là đoàn viên, là đảng
viên cho mọi người biết mặt... Mấy đứa kia ngạc nhiên, bảo nhau, ồ thằng này
sao lại biết bài hát này nhỉ...
Lúc tan họp, bọn trẻ giải tàn về các ngõ. Có vài đứa
chung đường về với tôi, song chúng nó còn tụm lại ở sân kho hợp tác, có lẽ
không muốn đi cùng với tôi, hoặc ngại vì nãy chúng nó vừa biểu quyết nhất định
không cho tôi gia nhập đội thiếu niên. Thây kệ, tôi đi một mình, chiếc đèn chai
dầu hỏa đỏ cạch trên tay, tôi bước đi đày mạnh bạo, tự tin, đầu vẫn căm việc
không được vào đội, và đâu đó ong ong. văng vẳng lời bái hát vừa rồi. Chợt nhận
ra mình vừa ngang qua miếu thờ cô Yêu, lúc ấy tôi mới thấy sợ và cắm đầu chạy
thục mạng một mạch, chui vào cổng nhà mình, chốt cổng lại mà tim vẫn đập thình
thịch. Mở cửa vào nhà, cà nhà đã ngủ, chỉ còn bố tôi vẫn ngồi bên chiếc bàn gỗ
cũ kỹ, bên chiếc điều bát thuốc lào, cất tiếng hỏi tôi: “ Họp hành có gì mà về muộn thế hả con?”...
15.
Tôi
không được kết nạp vào Đội thiếu niên tiền phong, lòng ấm ức lắm. Chẳng gì,
những năm đầu chống xâm lược Mỹ, cái bầu không khí sôi sục ăn vào từng ngõ xóm,
mái nhà và trái tim khối óc mọi người. Ai cũng nghĩ, Mỹ có hùng mạnh đến mấy
thì cũng không đáng sợ, chỉ là con hổ giấy hù dọa những người yếu bóng vía
thôi. Ta tuy bé và nghèo, nhưng ý chí quyết thắng và lòng dũng cảm tì có thừa,
lại thêm sức mạnh của người bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đất nước giang san, mang sức
mạnh của chính nghĩa, dưới sự hỗ trợ của cả phe xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là
Liên Xô hùng mạnh, dẫn dắt trong bầu ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng
và ý nghĩ ấy thì đến trẻ chúng tôi cũng biết, cũng nhiễm. Thế nên, đã là người
Việt Nam, là dân của miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì trẻ con phải là Đội viện,
lớn lên phải là Đoàn viên, rồi Đảng viên, ấy là lẽ sống của mỗi người. Không
được kết nạp đội, thì có nằm mơ cũng không thể là cháu ngoan Bác Hồ. Tôi ngợp
đi trong ý nghĩ ấy. Dường như bố tôi cũng đoán được, ông động viên tôi “Không
sao con ạ. Cứ học cho thật giỏi đã, rồi biết đâu có ngày…?”. Nghe lời bố,
tôi gắng học thật giỏi.
Tại sao
tôi lại có lòng mong mỏi được vào Đội làm vậy, ấy là tôi đã từng chứng kiến và
giữ mãi hình ảnh lễ kết nạp Đội của chị Hạnh. Khi còn ở Hà Nội, chị Hạnh học
trường tiểu học hữu nghị Việt Nam-Cuba trên phố Nguyễn Trường Tộ. Năm học lớp
3, chị Hạnh được vinh dự kết nạp vào Đội thiếu niên tiền phong tại ngôi trường
này, cùng với một số học sinh khác của trường. Tôi nhớ, cả gia đình tôi được
mời đến trường dự lễ. Buổi tối hôm ấy, cả nhà đều ăn mặc đẹp, đi sớm, ngồi ở
hàng ghế khách mời danh dự. Học sinh tham dự lễ đông lắm. Tôi còn đang mẫu giáo
lớn, được bố mẹ cho theo, ngồi trong lòng mẹ, tôi chìm đi trong không khí đám
đông buổi lễ. Nghi thức trang trọng, chị Hạnh cùng tất cả các học sinh được kết
nạp đều diện sơ-mi trắng, zíp xanh, đầu mũ ca-nô, xếp hàng ngang trang nghiêm,
trong tiếng nhạc truyền thống của Đội. Người phụ trách thực hiện nghi thức thắt
khăn quàng đỏ lên cổ mỗi người. Tất cả đều lặng đi vì xúc động tự hào, tôi còn
bé nhưng cũng cảm nhận được và ngợp đi trong bầu không khí trang trọng đó, vì
thế, sau này khi về quê, tôi vẫn mơ thấy một ngày nào đó mình được như chị
Hạnh…
Chị Hạnh
trở thành đội viên Đội Thiếu niên tiền phong bằng một lễ kết nạp trang trọng
đầy xúc động như vậy, hẳn chị phải là người ngoan hiền, song chị là người có cá
tính mạnh, bình thường ít nói và đặc biệt nghịch ngầm. Hồi nhà tôi ở ngõ Trúc
Lạc, có mấy phi vụ gây ầm ĩ cả khu phố do đám trẻ con gây ra, thì chị Hạnh đều
trong nhóm đầu têu.
Chuyện
thứ nhất, ấy là vào dịp tết một năm, tôi không nhớ rõ năm nào. Bố mẹ tôi cho
mấy chị em chúng tôi dắt nhau đi chơi phố và dặn đến trưa thì về ăn cơm. Chơi
phố chán, dùng tiền mừng tuổi mua quá vặt, gần đến trưa thì chị Ngoan bảo về,
chị Hạnh nói chị Ngoan cứ đưa tôi về trước, còn chị tìm mua gì đó rồi về sau,
Ai dè, cả nhà chở cơm mãi vẫn không thấy chị Hạnh về. Cả nhà lo lắng bủa đi tìm
nhưng qua mấy phố mà chị em chúng rôi chơi ban sáng không thấy chị Hạnh đâu,
sang chiều vẫn không thấy chị Hạnh về, bố mẹ tôi lo chị bị lạc, bèn hỏi xem mấy
nhà hàng xóm trong ngõ phố, đám trẻ con có đứa nào biết chị Hạnh không. Lúc ấy,
các nhà mới biết, con họ cũng mất tăm mấy đứa không biết chơi đâu. Thế nhà cả
ngõ nhốn nháo đổ đi tìm. Mãi chiều muộn, mới thấy chị Hạnh cùng đám trẻ về. Thì
ra, chị Hạnh về gặp đám trẻ trong ngõ chơi quanh quẩn ngoài cổng ngõ, bèn rủ cả
lũ lên tận Nghi Tàm, Quảng Bá xem người ta đánh cờ người. Tàn cuộc thì đã quá
muộn. Cả lũ bị bố mẹ quát mắng, riêng chị Hạnh thì bị bố tôi cho mấy roi vào
đít, phạt tội đầu têu chuyện này.
Chuyện
nữa, ấy là chuyện chị cầm đầu nhóm trẻ trong ngõ ăn trộm nước đá. Số là, từ ngõ
nhà chúng tôi, ra đầu dốc Yên Phụ đổ xuống đường Thanh Niên rất gần, nên ngày
ấy, vào những tối trong mùa nghỉ hè, đám trẻ con trong ngõ hay rủ nhau ra chơi
đường Thanh Niên chơi, vì ở đây có vườn hoa, ghế đá, gió từ hai hồ Trúc Bạch và
Hổ Tây thổi mát rượi, và nhà thuyền Hồ Tây có sân rộng. Mấy quầy bánh tôm và
giải khát hồ Trúc Bạch, điện sáng chiếu cả một khu vực nên rất tiện cho trẻ con
chơi. Nô đùa, chơi trò chán chê nên đứa nào cũng thấy nóng và khát nước. Một
đứa nào đó ao ước “Giá có nước đá uống
thì sướng biết bao?”. Nghe vậy, chị Hạnh bảo “Chúng mày có muốn uống nước
đá không?”. Cả hội đều thích, hỏi lấy tiền đâu mà mua nước giải khát. Chị
Hạnh chỉ vào quấy bánh tôm bảo “Ở đây chứ
đâu.”. Thế là, sau một hồi bàn bạc, chị Hạnh cùng mấy đứa lẻn vào chỗ để
nước đá của quầy, hì hục vần được nguyên cả một cây nước đá vẫn còn dính đầy
mùn cưa bảo quản mà không bị phát hiện. Cả bọn để cây nước đá lên ghế đá, gạt
mùn cưa, cho chảy bớt nước, sạch sẽ, rồi tìm cách đập ra, thi nhau ăn đá, uống
thỏa thuê thì vã lên mặt. Chán chê, bỏ cây nươc dở lại, kéo nhau về. Hôm sau,
mấy đứa bị sốt viêm họng do ngậm nhiều nước đá. Chuyện này, tôi được chị Hạnh
cho theo, nhưng bé quá, chỉ nhớ mang máng vậy. May là, người lớn không ai biết,
nên chẳng đứa nào bị mắng phạt cả. Ấy là bí mật của lũ trẻ con trong ngõ mãi về
sau...
Chuyện
thêm, là một chuyện tày đình, cũng là một bí mật của số ít trẻ con trong ngõ.
Ấy là, ngõ bên, liền với khu nhà chúng tôi, có một xưởng sản xuất đồ hộp, bao
bì các-tông. Trong khu vực ấy, có một gia đình nguyên là cán bộ tập kết, nghe
đâu họ người ở mấy tỉnh miền Trung, giọng nói nặng, khó nghe lắm. Nhà này có
hai đứa con gái, tính nết cũng thuộc loại ngang bướng, hay gây sự, không hiểu
vì sao chúng lại mâu thuẫn với đứa con gái nhà Đàm Quýnh, bạn thân của chị
Hạnh. Chuyện đến tai bố mẹ hai đứa kia, nên một lần, con bé nhà Đàm Quýnh bị bố
mẹ chị em nhà kia đe nẹt. Nó tức lắm, bèn rủ chị Hạnh giúp nó trả thù nhà kia.
Nghĩ mãi, bèn bầy ra một cách tai quái đến mức khó hiểu là tại sao hai đứa trẻ
con lại có thể nghĩ ra được. Nguyên tường ngăn giữa hai khu nhà chạy dài ra sát
mép hồ, ở đấy có một cây roi rất to, cỡ cây cổ thụ, cành lá xum xuê. Liền đấy,
bên này là khu nhà bếp chung, bên kia là căn nhà mà gia đình nhà ấy đang ở. Một
tối, chị Hạnh và bạn leo lên cây roi, rồi chuyền xuống mái nhà bếp, lại bò sang
mái nhà bên. Bọn trẻ con mấy đứa nhóc chúng tôi đứng dưới gốc roi hóng lên,
lặng im theo dõi hai chị leo trèo không rõ việc gì. Một lát sau, nghe thấy
tiếng nhà bên hô hoán ầm ĩ gì đó, rồi thấy hai chị chàng vội vàng chuyền xuống,
kéo mấy đứa chúng tôi bỏ chạy khỏi gốc roi, im thít, nhanh chóng giải tán ai về
nhà nấy. Mấy hôm sau, tôi mới được vỡ lẽ, thì ra, để trả thù, hai bà chị trẻ
ranh này đã treo lên mái nhà kia, lén rút một viên ngói, rồi tè xuống qua lỗ
hổng. Nghe nói, thoạt đầu nhà họ tưởng trời mưa dột mái, rồi mới phát hiện ra
phải, vì thấy nước có mùi khai, bèn túa ra sân, thấy trời không mưa, mới hô
hoán lên. Chuyện này được ém nhẹm, nếu không thì hai đứa chết đòn, mà lại còn
phiền toái to.
Sau này,
mỗi lần nhắc lại, chị Hạnh vẫn mủm mỉm cười vì sự tai quái trẻ ranh ngày đó.
Nhưng hỏi rằng ai nghĩ ra trò quái này, chị Hạnh vẫn chỉ cười nhẹ, không trả
lời,...
16.
Năm tôi
học lớp 3, lớp tôi bổ sung thêm mấy bạn học mới. Nghe nói, cuộc chiến tranh
bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc ác liệt quá, khi ấy, Mỹ lại đe dọa sẽ đánh
thẳng vào Hà Nội, vì thế, nhiều trường đại học ở Hà Nội phải sơ tán về các vùng
nông thôn lân cận. Vùng quê tôi, đón nhận mấy khoa của Trường Đại học Tổng hợp
sơ tán về. Trong số mấy học sinh bổ sung vào học cùng lớp với tôi có hai người
là anh em ruột, ấy là Bình, người anh và Duyên, em gái. Chú Mạnh, cô Phương, bố
mẹ họ là cán bộ của Trưởng Tổng hợp, được phân công theo sinh viên về đây. Cả
nhà, gồm 5 người, sau anh em Bình, Duyên, còn có cu cậu út là Tú, học lớp 1.
Chẳng hiểu sao, Bình hơn em gái mình 2
tuổi mà anh em lại học cùng niên khóa. Cùng trang lứa vời chúng tôi, nhưng hai
anh em nhà này phổng phao hơn, phải chăng người thành phố được chăm sóc và ăn
uống tốt hơn. Vì cùng là người từ thành phố về, nên hai anh em Bình, Duyên
nhanh chóng thân với tôi, còn có lẽ, khi ấy tôi thuộc diện học giỏi nhất lớp.
Về học lực, Duyên khá hơn anh mình, tuy nhiên, khi gặp những bài toán khó, hai
anh em vẫn phải nhờ tôi giải giúp. Vì thân và hay qua lại nhà nhau, nên bù lại,
tôi lại được anh em họ cho mượn sách truyện. Thật may mắn cho tôi làm sao, và
cho đến tận bây giờ, đã nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày đó, tôi vẫn thầm cảm ơn
anh em Bình-Duyên đã cho tôi mượn sách truyện đọc. Không ngần ngại, tôi khẳng
định, đấy là những cuốn sách đầu đời tôi được đọc, nhờ đó, tôi sinh lòng say mê
sách, lòng ham hiểu biết, và sớm có chút hiểu biết, tri thức từ khi còn nhỏ tuổi.
Số là, trưởng sơ tán, về theo có cả bộ phận thư viện, tư liệu, mà cô Phương, mẹ
của anh em nhà ấy lại là nhân viên của bộ phận này. Vậy là họ mượn quyển nào là
tôi được đọc ké quyển đỏ. Chỉ mỗi tội áp lực, là mỗi quyển tôi mượn, không được
quá ba ngày, thậm chí, có quyển chỉ một ngày, phải trả lại đề hoàn về thư viện.
Chẳng hiểu anh em nhà ấy đọc sách ra sao, chứ đến tay tôi là tôi ngấu nghiến
cho bằng hết. Tôi đọc quên ngày quên đêm, thậm chí phải lỉnh ra một xó nào đó,
góc bếp, xó vườn, chân lũy tre, miễn đừng để bố mẹ tôi biết là được. Thực ra,
bố mẹ tôi khuyến khích con cái việc đọc sách, nhưng lại lo vì quá say mê mà xao
nhãng việc học bài. Giờ đây, tôi không nhớ rõ bao nhiêu quyển đã qua tay tôi,
song cuốn sách đầu tiên đã khiến tôi mê mẩn và để lại ấn tương sâu đậm nhất
trong tôi thời đi học, ấy là cuốn “Thần
thoại Hy Lạp”. Ngày ấy, tôi đã say đắm thế giới của các vị thần, thần Zớt
(Zeus), vị thần chúa tể, với cây quyền trượng trong tay và vũ khí sấm chớp, cai
quản bầu trời bao la với quần thần trên đỉnh Olanhpơ (Olimpus) rực rỡ; thần
Hades cai quản địa ngục tăm tối; thần Poseidon với chiếc đinh ba cai quản biển
khơi mênh mông cuộn sóng... rồi đó, là các vị thần, Hera, nữ Hôn nhân và Gia
đình, quyền uy, vợ của thần Zớt; Apolon-thần Ánh sáng điển trai có cây cung
bạc; Ares-thần Chiến tranh có bộ dạng dữ tợn, Athena-nữ thần Trí tuệ sáng suốt;
Aphrodite-nữ thần sắc đẹp quyến rũ. Hermes (Mercury), thần Bách nghệ cực kỳ
thông minh, khôn khéo và lanh lợi; Atemix (Diana)- nữ thần săn bắn xinh đẹp,...
Rồi nữa, là các vị thần là Iris-thần Cầu vồng, truyền tin như gió; Dionysus- thần Rượu nho, và đặc biệt, Eris-nữ thần Bất hòa
và xung đột, người đã thả quả táo vàng “tặng
cho người đẹp nhất” vào bàn tiệc trong cưới vua Hy Lạp Peleus và nữ thần biển Thetis,
khiến ba nữ thần là Hera, Athena và Aphrodite tranh nhau, và cuối cùng thần Zớt
đành phải trao xứ mệnh phân xử bằng cách trao quả táo vàng ấy cho chàng hoàng
tử Paris, người nổi tiếng đẹp trai, và kết quả, anh chàng này đã trao quả táo
vàng cho nữ thần tình yêu Aphrodite, khi nàng ta hứa sẽ giúp chàng chinh phục
người phụ nữ nhan sắc nhất thế giàn, khiến hai nữ thần kia nổi giận, đó là
nguyên nhân gây bất hòa giữa các vị thần, dẫn đến cuộc chiến tranh thành Troa
tàn khốc, từng được kể trong trường ca Iliat bất hủ... Tôi cũng rất ngưỡng mộ
các vị anh hùng của Thần thoại Hy Lạp là Hec-quyn, A-sin, Hec-to, tuy thân hình
mình mảnh khảnh, ngại chuyện đụng chân đụng tay, nhưng lại dám mơ ước mình có
được tinh thần như các vị anh hùng đó...
Cùng với Thần thoại Hy Lạp, tôi còn được đọc Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoi, Những linh hồn chết của Gogol, ... mà sau này, tôi mới biết đấy
là những tác phẩm kinh điển của văn học Liên Xô. Trong số sách truyện ngày ấy,
tôi nhớ, có một số tác phẩm hiện đại đề tài về chiến tranh thế giới thứ hai như
Đội cận vệ thanh niên, Trong chiến hào Stalingrat... Còn văn
học Trung Quốc thì chỉ được đọc mấy tập Tây
Du ký, Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử
thôi đã sướng mê li rồi... Cũng nhờ những cuốn sách truyện mượn được từ anh em
Bình-Duyên, tôi bắt đầu tích cóp những đồng xu, tiền hào từ tiền ăn quà vặt mẹ
cho, dành để mua những cuốn sách đầu tiên cho riêng mình, gây dựng nên tủ sách
gia đình tôi với hàng ngàn cuốn sau này. Thực tình, những câu chuyện cổ tích, chuyện
thần thoại và lịch sử Trung Hoa mà bố tôi đã từng kể cho nghe mỗi đêm trước khi
đi ngủ đã dung dưỡng âm thầm trong tôi lòng yêu văn chương, lịch sử, thì nay,
các cuốn sách truyện này, vô tình thổi bùng sự say mê sách vở văn chương tháng
ngày thơ ấu, thành ngọn lửa rực sáng trong tôi những khát khao cháy bỏng...
Chưa hết, mấy anh em nhà Bình, Duyên
còn đem đến cho bọn trẻ con xóm tôi một niềm đam mê khác nữa, ấy là bóng đá.
Trước đấy, lũ trẻ con chúng tôi cũng đã biết đến trò chơi đá bóng, nhưng ở quê
thì lấy đâu ra bóng mà đá. Thế là, lũ trẻ đã nghĩ ra một cách, lấy lá chuối khô
quấn tròn nhiều lớp thành quả bóng, chằng buộc dây cho chặt rồi đem đá, song
chỉ chốc lạt, dây buộc bị tuột, lá xổ bung ra, mất đá. Lại có đứa nghĩ ra cách,
lấy quả bưởi xanh, nướng qua lửa cho nẫu bớt, rồi thay bóng mà đá, đá chân đất
chứ đâu có giày tất, bưởi nẫu, đá đỡ đau chân hơn, nhưng cũng chóng chán. Đến
khi, Bình và cậu em Tú mang ra khoe quả bóng bằng cao su, và rủ chúng tôi cùng
đá, thì niềm vui mới thực sự. Tôi còn nhớ, quả bóng cao su màu đỏ nhạt, kích
thước vừa chân trẻ con, bóng căng, đá
bay vèo vèo, sướng lắm. Lũ trẻ chúng tôi chạy hùng hục, tranh cướp bóng quyết
liệt, nhưng luật lệ thì chẳng biết gì. Có chiều chủ nhật, chú Mạnh, bố của Bình
rỗi rãi, ra xem và cổ vũ lũ trẻ chúng tôi chơi bóng. Chú ấy còn giảng giải, làm
trọng tài giám sát trận đấu, bắt chúng tôi phải chơi theo luật, dạy thế nào là
ném biên, rồi đá coóc-ne (phạt góc),
đá phạt pê-nan-ty (phạt 11m) ra
sao... Bình lớn phổng phao hơn chúng tôi và đá kỹ thuật lắm, còn thằng Tú bé
tí, hay bị chèn ngã, hoặc bóng đá vào người, đau quá khóc nhè. Và thật cáu
tiết, mỗi khi thằng Tú như thế, nó thường bỏ đá, đứng chầu rìa, hoặc đe dọa
mách bố mẹ, và tệ hơn, nó rình khi bóng ra ngoài sân, liền chạy nhặt bóng rồi
ôm bóng chạy thằng về nhà cất biến đi. Không có bóng đá, Bình tức lắm, phồng
mang trợn má, trừng mắt dọa, nhưng thằng cu Tú đau có sợ. Bọn trẻ chúng tôi thì
châng hẩng, chỉ biết nài nỉ thằng cu Tú, hoặc xúi giục Bình về lấy bóng... Tức
thằng Tú phá đám, nhưng nịnh nó, rồi cũng có lần nó lại mang bóng cho đá. Chán
nhất là bóng hỏng, bóng cao su, đá trên sân gạch hùng hục như thế, chỉ dăm bữa
nửa tháng là bị sạn gạch chọc thủng, hoặc dò kiểu châm kim, bóng xì hơi dần,
mềm oặt, lép xuống, đá tậm tịt lắm, đành bỏ đi. Mỗi lần vậy, lại phải chờ hết
tuần, thậm chí cả tháng sau, bố mẹ Bình về Hà Nội mới mua được bóng mới. Song
dẫu có chiều con đến mấy, thì bố mẹ Bình cũng chỉ đáp ứng việc mua bóng mới dăm
ba lần thôi. Vậy là, quả bóng tuổi thơ và niềm vui đá bóng của tôi và lũ trẻ
xóm đã ngừng bay...
Về mối quan hệ của tôi với gia đình
cô chú Mạnh-Phương và tình bạn với anh em nhà Bình, Duyên, Tú được chừng một
năm rưỡi thì bị gián đoạn. Kết thúc năm học lớp 4, khi đó, cuộc chiến tranh
bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc tạm lắng, gia đình cô chú Mạnh, Phương phải
theo trường từ nơi sơ tán về lại Hà Nội, thế là tôi đành phải chia tay với hai
bạn học là anh em Bình, Duyên. Lưu luyến lắm, mà cũng phải thôi, cùng nỗi nhớ
bạn, còn có nỗi nhớ, nỗi thèm khát những cuốn sách truyện và trái bóng cao su
màu đỏ... Song chưa hết, chừng mươi năm sau, tôi đã nối lại được mối quan hệ
với gia đình này, cùng mấy người bạn cũ ấy, không những thế, câu chuyện còn dài
dài mãi về sau, và ít nhiều ảnh hưởng đến bước đường đời và số phận của tôi ...
17.
Những
năm học thời chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, phải lựa chọn địa
điểm đơn lẻ, không tập trung, lại vì kinh tế khó khăn, nên cũng không thể xây
dựng trường lớp cho ra hồn được. Năm lớp 1 và 2, lớp tôi học ở đình làng, sang
lớp 3 thì đúng vào thời điểm máy bay Mỹ oanh tạc thủ đô và vùng lân cận ác liệt
nhất, nên các lớp học phải dựng tạm theo kiểu dã chiến, nửa chìm nửa nổi. Người
ta chọn một mảnh đất nằm ở rìa làng, nơi khô ráo và liền kề với lũy tre um tùm,
rồi đào sâu xuống chừng hơn mét, lấy đất đào lên ấy, đem nhào nước rồi đắp
thành tường nổi phía trên, dựng cột, xà mái tre, lợp rạ che mưa nắng, sao cho
độ cao tính từ nền đáy cốt âm lên đến nóc chừng hơn ba mét, kiểu na ná như hình
lều bạt của dân du mục Mông Cổ vậy. Mỗi lớp học như vậy, có hai cửa ra vào, bàn
ghế và bảng đen đầy đủ. Lớp học thế, khá bí hơi, nên mỗi giờ nghỉ là cả lũ học
trò lục tục chui hết ra bên ngoài hưởng khí trời. Vào ngày hè, tuy nóng bức
nhưng được cái ánh nắng đủ chiếu sáng cho lớp, đến mùa đông, những ngày trời âm
u, lớp tối om, nhìn bảng chẳng rõ chữ. Trời nắng ráo, dẫu có nóng bức, cố mà
chịu, còn hơn khi trời mưa, kiểu gì thì nước mưa cũng tạt mái và theo lối cửa
ra vào chảy xuống nền lớp học, ướt lép nhép, thậm chí ngập đến mắt cá chân,
thật khổ sở.
May mà,
sang năm lớp 4, học trò chúng tôi thoát cảnh lớp học tù túng kiểu nửa âm nửa
dương, được xếp học ở mấy gian hậu điện của chùa Thái Linh thuộc xóm Tự. Nghe
nói, chùa Thái Linh là một ngôi chùa cổ có lịch sử hình thành hàng ngàn năm, là
một trong số bảy mươi hai ngôi chùa được xây dựng theo lệnh của Hoàng Thái hậu
Ỷ Lan, sự hối lỗi muộn màng của bà này,
sau vụ án giết Hoàng Thái hậu Thượng Dương và 72 cung nữ. Trải bao thăng
trầm của lịch sử, qua nhiều lần bị tàn phá và tôn tạo, lúc ấy, chùa Thái Linh
chỉ còn trơ ba gian hậu điện với bệ Phật trơ trỏng vài ba pho tượng đất nung.
Phía trước là một khoảnh sân gạch rồi chiếc ao không rộng lắm, và ngoài cùng là
một gò đất cao trội hẳn lên, trên đỉnh gò đất ấy có tượng một sư tử đá rất to
ngồi trên bệ sen. Cả sư tử đá và bệ sen đều được chạm hoa văn rất tinh xảo. Bọn
học trò chúng tôi, giờ ra chơi, hay la cà leo lên bệ sen, lần sờ những nét hoa
văn chạm khắc quanh thân bệ sen, và phần mông con sư tử đá. Lúc ấy, đang có một
đoàn cán bộ, nghe đâu của Viện Khảo cổ học, từ Hà Nội về đào bới và khảo sát
những hoa văn trên bê sen, sư tử đá và cả đôi sấu đá nơi tiền sảnh của chùa cổ,
cùng chân nền chùa bị vùi sâu dưới đất. Mãi về sau, khi lớn lên, đọc sách, tôi
tình cờ thấy được hình ảnh chụp những hoa văn ấy, và mới được biết, đó là điêu
khắc thời Lý Trần, thuộc diện đẹp nhất trong nghệ thuật điêu khắc đá ở xứ ta từ
cổ xưa đến ngày nay.
Cái ao
ở trước sân chùa, khi ấy vẫn còn nồi lềnh phềnh vài pho tượng Phật bằng gỗ sơn
son thiếp vàng, dạo nào, bị dân chúng hạ bệ rồi quẳng xuống ao, vì chẳng ai dám
lấy đi hoặc đốt bỏ. Nghe nói, việc đó từ thời phong trào lên hợp tác xã nông
nghiệp, xóa bỏ tàn tích văn hóa phong kiến, bài trừ mê tín dị đoan để xây dựng
văn hóa mới. Cũng lại nghe, đã có người, từng hăng hái bê tượng Phật ở chùa,
vứt trôi sông, sau chết bất đắc kỳ tử, nhãn tiền, nên mọi người sợ hãi. Lệnh
trên, phá bỏ chùa thì cứ phải làm, nhưng tượng Phật thì ngại không dám đụng đến
nữa. Thế nên, bệ Phật nơi hậu điện, chỗ lớp tôi học, mới may mắn còn sót lại
dăm pho tượng đất nung, dẫu chẳng ai hương khói. Lớp học, làm chùa bớt hoang
vắng, thế nhưng, hôm nào, đến phiên trực nhật, phải đến sớm trước nửa tiếng,
quét lớp, lau bảng và bàn ghế, khi trời còn chưa sáng rõ, tôi sợ ớn người vì sự
tĩnh lặng của cả khu chùa Hương Linh phế tích với những dãy nhãn cổ thụ rợp
bóng, nhất là nhìn bóng các pho tượng mờ ảo sáng tối, chập chờn như bóng người
hay bóng ma ấy.
Có lần, tôi sợ nên không dám đi trực
nhật sóm, đến muộn hơn chút lại lo không trực nhật kịp, cuống quýt quét tước,
tay làm, miệng hát khe khẽ để trấn át nỗi sợ. Chợt có bóng áo trắng ngay sau
lưng, tôi giật bắn người và nhẩy dựng lên bởi tiếng ú òa. Thì ra cái Duyên đi
học sớm, thấy tôi vậy, bèn lén đến sau lưng tôi, dọa tôi một trận hú vía. Tôi
vừa sợ, vừa tức, nổi cáu định mắng Duyên, thì nó toét miệng cười bảo: “Tớ xin lỗi... làm ấy sợ. Đưa chổi đây, tớ
quét giúp cho. Ấy đi lau bảng đi cho kịp giỡ, kẻo các bạn đến đông bây giờ”.
Không đợi tôi đồng ý, Duyên dằng ngay lấy chiếc chổi từ tay tôi, xăng xái quét
nhà, miệng liên thuyên chuyện này nọ. Tôi gắng trấn tĩnh, nén tức, nghe loàng
thoáng cái Duyên chê “Con trai gì mà nhát
như cáy ấy... Không biết... có sợ vãi ra quần không đây?”. Còn tôi, nghe mà
tức thêm, nhưng cũng xuýt phì cười, đành lẳng lặng lau bảng, nghĩ bụng, cái con
bé này, nghịch ngợm như con trai ấy, sau này có ma nó lấy làm chồng ...
18.
Tôi được bố mẹ chiều hơn các chị,
không phải làm việc gì nặng nhọc cả, đơn giản vì là con trai út, lại duy nhất,
và thể chất vốn gày yếu. Đấy là về công việc thôi, chứ còn về dạy dỗ, thì bố mẹ
tôi nghiêm khắc lắm, nên tôi chịu sự rèn rũa hơn so với các chị mình. Tôi đã
từng bị vài trận phạt đòn nên thân, nhớ đời, cho đến giờ vẫn không hề quên ...
Tôi nhớ, khi đó tôi chừng chín tuổi
thì phải. Nguyên trong xóm, cách nhà tôi chừng dăm chục thước, có thằng bé con
trai của một người anh họ xa với tôi, bị chứng sài đẹn gì đó. Thằng cu ấy kém
tôi vài tuổi nhưng người nó còi cọc chỉ như đứa lên ba. Bị bệnh lâu ngày, người
nó như cái tã rách, nhem nhuốc. Lũ trẻ chúng tôi đã từng nhìn thấy nó lê la
trên nền sân đất, đưa tay lên gãi đầu, rồi bứt cả đám tóc ra khỏi da đầu, dễ
như người ta nhổ mầm mạ, và đút cá nắm tóc vào mồm nhai nhai. Hôm nó chết, cả
xóm xôn xao. Chị Hạnh rủ tôi đi xem. Hai chị em đúng lẫn cùng đám trẻ con trong
xóm lố nhố hàng chục đứa, ngoài bờ rào râm bụt, tò mò ngó vào xem bố nó bó
chiếu xác nó để mang ra khu nghĩa địa trẻ con của làng ở gò Ông Tướng, vị võ
quan với chức danh Thiêm sự xưa. Ở nhà, bố tôi gọi nhưng không thấy tôi và chị
Hạnh đâu, bèn loanh quanh tìm trong xóm thì thấy hai chị em đang ngó nghiêng ở
đó. Bố tôi mắng mấy câu rồi áp giải hai chị em về nhà. Đến cồng nhà, thấy bố
tôi vẫn còn bực tức, sợ bị đánh đòn, tôi không vào nhà như chị Hạnh, mà linh
lỉnh, tìm cách lảng ra xa. Thấy vậy, bố tôi giận lắm, bèn gọi giật giọng, thế
là tôi sợ quá nên bỏ chạy. Ông đuổi
theo, dọc đường làng, một quãng dài mới nắm được vai tôi. Ông lôi tôi xềnh xệnh
về nhà, bắt tôi nằm sấp xuống giường, quất hàng chục roi vào mông. Tôi đau quá,
khóc gào lên đầy sự ấm ức. Mẹ tôi thương tôi, nhưng vì thấy bố tôi giận, cũng
không dám gàn gì, nhịn cho chồng dạy con. Chị Hạnh vì cái tội rủ tôi đi xem,
cũng bị quất vài roi vào chân, song chị ấy gan lắm, chỉ rân rấn nước mắt, chứ
không khóc to như tôi. Sau này, tôi mới biết, sở dĩ bố mẹ tôi không muốn chúng
tôi đến chỗ ấy, là vì lo sợ thằng bé đó, ngộ nhỡ mắc chứng bệnh gì, mà lây
truyền thì nguy hiểm lắm. Là thế đấy, cha mẹ lo cho con cái, nhưng con cái có
hiểu được lòng cha mẹ ngay đâu...
Trận đòn thứ hai, còn nặng nề và nhớ
đời hơn.
Nguyên do, làng quê tôi, vốn có thói
quen ẩm thực, ấy là ăn thịt chuột đồng. Kể ra đây, mọi người chớ kinh sợ, le
lưỡi, khi tôi nhắc đến tập tục này, là bởi người ta chỉ nghĩ đến những con
chuột cống to sụ, bẩn tười, bởi chúng chuyên chui lủi dưới cỗng rãnh hôi hám
của thành phố. Chuột đồng, dù là chuột nhắt bé nhỏ hay chuột đàn lớn hơn, sống
ở đồng ruộng, chuyên ăn thóc lúa, củ quả, hay đọt cỏ non, mỗi mùa gặt, nhất là
vụ tháng mười, trời se lạnh, hết lúa là đến vụ hoa màu, đồng sẵn thức ăn, nên
chuột béo lắm. Người ta bắt chuột đồng về, đập chết, đun nước sôi làm lông sạch
sẽ, mổ bỏ nội tạng, chặt vứt đầu, đuôi và bốn chân, đem thui qua rơm lửa cho
thơm. Chế biến thì có vài ba món phổ biến, như luộc cách thủy ròi chấm với muối
tiêu, lá chanh thái tăm; hoặc có thể ướp giềng mẻ rang mặn, hoặc ướp ngũ vị
hương rồi chiên ròn... Nghe nói, có vùng, đám cưới cỗ ăn có món thịt chuột
đồng, mà nhà nào đãi món này thì mới coi là cỗ to và sang. Còn miền Tây
Trở lại câu chuyện của tôi. Người săn
chuột có nghề, luôn có đủ bộ đồ nghề, bao gồm một vài chú chó nhà được huấn
luyện săn chuột từ nhỏ, chiếc thuổng sắc bén, vài chiếc rọ tre và một thùng nhỏ
múc nước, thểm chiếc bật lửa. Vậy có thể coi là đủ bộ đồ nghề. Khi đi săn, nhờ
chó đánh hơi, hoặc người có kinh nghiệm thường nhanh chóng phát hiện ra hang ổ
của loài chuột. Loài này, thường ở những nơi gò đống, bờ cao khô ráo và không
quá xa chỗ có nguồn thức ăn. Kinh nghiệm cho thấy, hang chuột không bao giờ có
một cửa, mà ít nhất phải có vài ba cửa ra vào, và để đề phòng thoát thân khi bị
săn đuổi. Chiếc thuổng đào hang, rọ đơm bịt cửa, với việc hun khói vào cửa hang
chính, hoặc múc nước đổ vào hang, kiểu gì thì chuột cũng không chịu nổi buộc
phải phọt ra ngoài, và như vậy, không chui vào rọ thì cũng bị chó rình vồ ngay.
Tôi thích xem cái trò này, nên mỗi khi ở ngoài đồng, đi chăn trâu hay làm công
việc gì đó, thấy có ai đang săn chuột, có cơ hội là tôi bám theo xem ngay. Một
lần, tôi bám theo xem một anh chàng người làng nổi tiếng săn chuột, ham quá, đi
mãi sang đồng xã bên, lúc nhớ ra phải về đi học chiều thì đã muộn. Ở nhà, bố mẹ
tôi chờ đến quá trưa, vẫn không thấy tôi về ăn cơm để đi học chiều, bèn nháo
nhác đi tìm. Có đứa mách là thấy tôi đi xem săn chuột ngoài đồng, thì bố tôi
bực lắm. Tôi về đến nhà thì đã muộn giờ học. Bố tôi nổi trận lôi đình, dùng dây
trói cả chân tay tôi vào, rồi đánh cho một trận nên thân nên đời. Biết mình có
lỗi, chẳng oan ức gì, nhưng đau và giận hờn trẻ con nên tôi khóc dữ lắm. Khóc chán,
tôi đói lả vì mệt. Lúc áy, mẹ tôi mới cởi trói, múc cho bát cháo, tôi ăn ngấu
nghiến, vừa ăn vừa nức nở. Rồi tôi ngủ thiếp đi cho đến chiều muộn.
Mất một buổi học chữ, tôi có được một
bài học về cuộc đời...
19.
Bố tôi là một người cương trực, khá
nóng tính, không nhiều lời, nhưng khi nói, hay kể chuyện thì rất hóm hỉnh.
Những năm về lại quê, phải lao động nặng nhọc để kiếm sống và nuôi con, lúc
tuổi đã cao, lại đúng vào thời kỳ khó khăn của đất nước, nên ông phát huy vốn
kiến thức sẵn có, sự vững vàng và hài hước của mình, qua sách vở và thực tế
từng trải, đặng răn dạy con cái, động viên bản thân mình và cả gia đình vượt
lên bao khó khăn cực nhọc. Ông rỉ rả, lần hồi, kể chuyện về ông bà và bản thân,
không ngại giấu giếm những chuyện tế nhị, nhạy cảm, thậm chí cả thói xấu, hay
thất bại của mình, một cách hài hước. Chính vì thế, mẹ và mấy chị em chúng tôi
biết rõ nhiều chuyện buồn vui của cuộc đời ông. Riêng tôi, còn để ý và ghi nhớ
nhiều chuyện làng xã, quê hương, bản quán, lịch sử vùng đất, lịch sử quốc gia,
dân tộc, không chỉ qua sử sách đọc được sau này, mà qua những câu chuyện của bố
tôi, từ tấm bé...
Bố tôi có chút buồn phiền vì ông nội
tôi mất sớm, lại thêm cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ, nhưng tuổi trẻ đầy khát vọng,
nên chỉ sau một thời gian, mọi chuyện nguôi ngoai dần. Ông yên tâm vào việc học
nghề, ở nhà có bà nội tôi khỏe mạnh, siêng năng, cần mẫn ruộng vườn, và cũng
không phải chu cấp gì cho việc ăn học của bố tôi, bởi khi đã biết nghề, ông lấy
tiền công kẻ vẽ bù tiền học nghề cho chủ.
Sau mấy năm chuyên cần theo học nghề
kiến trúc kèm luôn thực hành, bố tôi đã thạo nghề, lại thêm vốn tiếng Pháp cũng
kha khá, nên ông có vài sự lựa chọn, ấy là hợp đồng làm thuê với chính ông thày
của mình, tức cụ Nguyễn Trọng, hoặc ra làm tự do. Để thỏa chí tang bồng, bố tôi
đã chọn cách thứ hai, xuống Hải Phòng làm thuê cho một nhà thầu xây dựng thuộc
loại hàng đầu của thành phố cảng sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy
giờ. Vì sáng dạ, có chí khí lại đầy quyết tâm, nên bố tôi được ông chủ tin dùng,
quý mến lắm. Ông chủ này, con cái trai gái đủ cả, nhưng người con trai lại kém
chí thú, thích chơi bời kiểu “phá gia chi tử” nên ông chủ có ý vun đắp cho
người con gái và nuôi ý đồ chọn con rể hòng tính kế lâu dài làm người kế
nghiệp. Và không có gì lạ, khi ông chủ có ý chọn bố tôi làm con rể kế nghiệp
ông ta. Cô con gái ông chủ, là người thực tế, khéo léo, cũng ưng thuận sự sắp
đặt này. Với bố tôi, sau cuộc hôn nhân ở quê chẳng nên cơm cháo gì, khi có được
thịnh tình của ông chủ như vậy, đương nhiên là chấp thuận ngay.
Nhưng cuộc đời, ai học được chữ ngờ.
Bà nội tôi biết chuyện, lập tức phái ngay một người cháu họ của mình xuống Hải
Phòng, triệu bố tôi về quê bàn công việc. Bố tôi cũng phần nào đoán được nguyên
nhân, song không thể không về. Ở quê, bà nội tôi bày tỏ sự phản đối việc bố tôi
lấy vợ ở thành phố, lại càng không muốn bố tôi ở làm rể và phải phụ thuộc vào
gia đình bên vợ. Với bà nội tôi, ảnh hưởng quan niệm Nho giáo từ ông nội tôi,
nhưng tính cách bà quyết liệt hơn nhiều, bà cho là đàn ông phải lập nghiệp, cũng
không chấp nhận chuyện con dâu ở nhà bố mẹ đẻ và muốn làm gì thì làm. Biết tính
khí mẹ mình, bố tôi tìm kế hoãn binh, cứ vờ đồng ý với bà nội tôi đã, rồi tính
sau. Thế nhưng, trở ra Hải Phòng, ông đã phần nào phân tâm, không còn thiết tha
với dự tính của ông chủ. Một thời gian ngắn sau, bà nội tôi kiến quyết hơn, lại
phái người đáp hỏa xa xuống Hải Phòng, áp tải bố tôi về quê. Và lần này, bà nội
tôi đã định liệu. Ấy là ép bố tôi ăn hỏi cô Linh, con một gia đình khá giả bậc
nhất xóm Tự. Thấy bố tôi lưỡng lự thì bà nội tôi thể hiện sự cương quyết của
mình bằng cách đe bố tôi rằng, nếu cứ nhất quyết làm rể con ông chủ thầu xây
dựng ở Hải Phòng thì bà cụ sẽ từ bỏ bố tôi, coi không là con nữa. Người ta bảo,
ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên, nhưng bà nội tôi đã ép như vậy đấy. Bố tôi chỉ
còn biết nghe theo ý chỉ của mẹ mình, là để tỏ lòng hiếu thuận. Có còn lý do gì
nữa không, khi bố tôi từ bỏ thịnh tình chọn rể kế nghiệp của ông chủ thầu này?
Bố tôi không nói gì về việc đó, nhưng mãi sau này, khi bố tôi đã khuất bóng, có
lần, tôi đã nghe ông lang Chuyên, người bạn tâm giao với bố tôi, lại là cháu họ
xa với bà nội tôi, cũng là anh họ gần với cô Lĩnh, người đã hai lần được bà nội
tôi tín nhiệm phái xuống Hải Phòng gọi bố tôi về quê, bảo rằng, sở dĩ bố tôi
ngày ấy từ bỏ ý định làm rể ông chủ, nghe lời bà nội tôi, chấp thuận cưới cô
Linh làm vợ kế, là vì bố tôi biết được sự dèm pha, phá đám của cậu con trai ông
chủ thầu, ghen tức và không muốn để bố tôi làm rể kế nghiệp nhà đó. Đúng sai
thế nào chẳng rõ, song nghe ra có vẻ có lý.
Vậy là cô Lĩnh, người xóm Tự đã trở
thành vợ kế, người vợ thứ hai của bố tôi, và sau này, là mẹ già của tôi. Và để
làm đám cưới với cô Linh, bố tôi đã phải làm thủ tục cắt bỏ hôn thú với vợ đầu,
đó là cô Nhu, người làng Trâu, sau gần bảy năm trời bỏ bẵng, để mình lấy vợ mới
và cô Nhu cũng có thể tái giá...
20.
Vậy là cô Lĩnh chính thức
về làm dâu và trở thành ngươi vợ kế của bố tôi. Bố tôi kể, cô Lĩnh, mà sau này
tôi phải gọi là mẹ già, theo cách gọi thông dụng ở vùng quê tôi,
kém bố tôi vài tuổi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn, dáng người đậm đà khỏe mạnh,
kiểu đàn bà dáng dấp dễ sinh nở. Mẹ già tôi, về làm vợ kế của bố tôi, mang theo
của hồi môn, vài mẫu ruộng tốt, cộng với hơn mẫu ruộng cũ của ông bà nội tôi,
thành ra số ruộng đất kha khá đủ để đưa gia đình nhà tôi lên hàng phú nông.
Ruộng đất làm không xuể, bà nội và mẹ già tôi, ngoài việc phải thuê mướn lao
động mùa vụ, còn phát canh thu tô một số diện tích. Gặp thời tiết thuận lợi
được mùa mấy năm liền, nên thóc gạo nhà tôi nhiều lắm, tha hồ sửa sang nhà cửa
khang trang, sắm sanh đồ gia dụng.
Bố tôi,
vì lấy vợ quê, không trở thành con rể ông chủ thầu xây dựng lớn ở Hải Phòng,
nên chỉ một thời gian sau, giữ ý, đã thôi không làm việc ở đấy nữa, mà về lại
Hà Nội. Ông làm thiết kế tư nhân, có nhận việc từ nhà cụ Nguyễn Trọng, mà vẫn
thoải mái nhận đặt hàng của những người khác. Đông khách, nhiều việc, ông phải
thuê thêm người giúp việc mới xuể, vậy nên, thu nhập khá khẩm. Về Hà Nội, được
cái gần nhà, hầu như tháng nào bố tôi
cũng về quê vài lần. Ông chỉ việc ra ga Hàng Cỏ, mua vé hạng sang, hơn hai chục
cây số đường sắt, qua vài ga là đến ga Lạc Đạo, xuống ga, cuốc bộ chừng vài cây
số là về đến nhà rồi. Sau này, khi giàu có hơn nữa, bố tôi không đi bộ nữa, mỗi
khi về quê như vậy, nhà thuê sẵn xe tay chờ đón ở sân ga đưa ông về nhà, rồi
hôm đi, cũng xe tay chở ông lên ga về lại Hà Nội. Mẹ già tôi sớm có thai, rồi
sinh chị Nguyên. Tuy là con gái, chưa phải là đích tôn nối dõi tông đường,
nhưng bà nội tôi cũng rất mừng, bởi lẽ, bố tôi lận đận đường thê thiếp, phải
gần chục năm kể từ ngày kết hôn lần đầu mới có con, thêm nữa, nhà nhiều ruộng
đất, con gái hợp với câu cửa miệng nhà nông “ruộng sâu trâu nái không bằng
con gái đầu lòng”; và còn một lý do nữa, ấy là việc chính bà nội tôi lựa
chọn cô Lĩnh về làm dâu trong nhà, nay đơm hoa kết quả, hỏi sao không mừng
được.
Việc
nhà nông do bà nội và mẹ già tôi cai quản, lẫn công việc làm ăn của bố tôi ở
phố đều hanh thông nên tài sản, tiền bạc tăng lên nhanh chóng. Nhà bố tôi từ
diện phú nông không mấy chốc thành bậc giàu có nhất nhì trong vùng. Không những
thế, khi chị Nguyên vài ba tuổi thì mẹ già tôi lại có mang rồi sinh hạ con
trai. Anh Hoan, tên người anh trai tôi, ra đời là một niềm vui lớn của gia
đình, bởi từ đây, nhà chính thức có đích tôn nối dõi tông đường cho
cả gia tộc, dòng họ, vì gia đình tôi vốn là trưởng chi họ. Bố tôi đặt con trai
tên Hoan, là muốn biểu thị niềm hân hoan vô cùng của ông. Gia tài phát triển,
con cái nếp tẻ đều đã có, và với ông, còn một niềm vui ẩn chứa, ấy là việc ông
gửi gắm vào người con trai đầu của mình sự nghiệp thi thư, học hành thành đạt
của gia tộc. Lòng mong mỏi và niềm tin ấy của bố tôi là hoàn toàn đúng với gia
cảnh nhà tôi thời đó.
Sau
đó, mẹ già tôi còn đôi lần mang thai nhưng khi sinh thì đều không nuôi được.
Với bố tôi, dẫu sao con cái như vậy cũng là tạm ổn. Chị Nguyên khỏe mạnh, lớn
mau, tính tình có vẻ đoảng ngay từ nhỏ, còn anh Hoan thì dáng dấp mảnh khảnh
trắng trẻo, ngoan hiền, chăm học. Yên tâm phần nào đường thê thiếp, con cái,
bao nhiêu tiền kiếm được từ nghề thiết kế kiến trúc, phần lớn ông đưa cho bà
nội và mẹ già tôi ở quê, dành mua thêm ruộng đất trong làng và quanh vùng. Có
nhiều tiền, bố tôi, giống như nhiều trí thức và các nghệ sĩ thời đó, bước vào
con đường ăn chơi, tiêu xài. Ông thử hút thuốc phiện rồi đâm nghiện bàn đèn,
rồi đó, cô đầu nhà hát với ông là chuyện hàng ngày. Ở một mình ngoài Hà Nội, bố
tôi không mua đất làm nhà làm gì cho tốn, ông chỉ ở nhà thuê, mà có khi cả tuần
ông không về đến nhà một lần, bởi cứ cái vòng quay, sáng ăn quà, đi làm, tối
cơm tiệm rồi đến phố Khâm Thiên, bàn đèn thuốc phiện, gối đầu đùi non cô đào,
lim dim nghe tom tom chát chát “hồng hồng
tuyết tuyết, mới ngày nào còn chưa biết cái chi chi, mười lăm năm thấm thoắt có
xa gì, ngoảnh mặt lại ...”, sáng hôm sau lại bắt đầu một vòng quay mới. Sau
này, bố tôi rất thành thật và khá hài hước khi kể lại cho con cái chúng tôi
nghe chuyện thời ông sa đà chuyện ăn chơi ở phố ngày trước thê nào. Ông vẫn
thuộc và có thể đọc lại lời nhiều bài hát ả đào; rồi nữa, chuyện ông đã từng
vài lần bị lây bệnh hoa nguyệt, nhưng
vì có mấy người bạn chơi là bác sĩ nên ông chữa trị cẩn thận, mà không bị vô
sinh. Thời ấy, chẳng như bây giờ, những chuyện chơi bời hút xách như vậy là
chuyện thường tình với dân trí thức, nghệ sĩ và những người có tiền. Thậm chí,
chơi bời vậy còn là để dán cái nhãn của tầng lớp trên tiền, chính quyền không
cấm đoán mà gia đình, người thân cũng chẳng can ngăn.
Thực
ra, bà nội tôi không ưa gì việc bố tôi tiêu xài vào thú ăn chơi phố thị, nhưng
cũng không thể ngăn cản. Còn mẹ già tôi, bà hiểu biết chuyện đó và thức thời
hơn, chỉ nhắc nhở bố tôi làm sao đừng để tổn hại đến sức khỏe, đừng rước bệnh
về nhà đổ cho vợ con. Thâm tâm, mẹ già tôi ngấm ngầm ngăn cản chuyện này bằng
cách riêng của bà. Mẹ già tôi để tâm, thăm dò trong vùng, xem mặt vài ba cô gái
khỏe mạnh, con nhà tử tế, nghèo cũng được, rắp tâm cưới thêm vợ lẽ cho bố tôi.
Làm vậy, bà hi vọng, bố tôi sẽ bớt chuyện cô đầu con hát đi, đặng nhà lại thêm
người, có thể thêm con, thêm của. Nhưng mẹ già tôi gặng thế nào, bố tôi cũng
không chịu nghe, chiều lòng vợ, ông có theo bà đi xem mặt vài đám, thấy cũng
đường được, nhưng rồi chẳng ưng ai. Thấy không ép được, mẹ già tôi cũng thôi,
bỏ hẳn ý định tìm vợ bé cho chồng. Sau
này, kể lại chuyện đó, bố tôi bảo, ngày ấy ông nghĩ, cưới thêm vợ bé là nhà dễ
nảy sinh chuyện nọ chuyện kia ngay, xưa nay “chồng chung ai dễ ai chiều cho
ai” là thường tình...
Tiếng
là vậy, tiêu xài vào chuyện ăn chơi khá tốn kém đấy, song bố tôi cũng không
phải là diện “phá gia chi tử”. Ông là
người phải trực tiếp làm nụng để kiếm tiền, hiểu giá trị của đồng tiền, lại
xuất thân từ nhà Nho nghèo ở thôn quê, nên ông hiểu đến mức nào là chừng mực.
Ngoài việc chi tiền cho mẹ và vợ mua thêm ruộng đất ở quê để giữ đúng nếp Nho
gia truyền thống là “dĩ nông vi bản”, ông bắt đầu ý thức và tích cóc cho việc
xây dựng một cơ ngơi ở quê nhà cho xứng tầm. Mọi chuyện bắt đầu từ việc phải có
được một khoảnh đất thổ cư đủ rộng để xây dựng cơ ngơi theo ý tưởng nhà-vườn.
Đất ở cũ do các cụ để lại, nơi ông nội tôi từng mở lớp dạy chữ Nho, nơi có
chiếu miếu Cô Yêu ngày nào, tuy không chật, nhưng không đủ rộng để làm. Bố tôi
đã thương lượng với hàng xóm liền kề, đánh đổi miếng đất cũ lấy miếng đất kế
bên, tuy hẹp hơn một chút, ấy là sự chấp nhận thiệt thòi, lấy cơ hội mở rộng.
Đổi xong mảnh đất chính, dần dà vài ba năm, bà và mẹ già tôi, thăm dò, và mua
trương được mấy miếng đất nữa của các nhà hàng xóm, từ việc cắt bớt đất ở của
họ bán cho. Vậy là, thổ cư của nhà tôi tăng lên thành sáu sào Bắc bộ, bốn góc
đất vuông vức, mặt tiền bám trục chính đường làng dài hàng trăm thước.
Kể
từ đây, bố tôi có đủ điều kiện để xây dựng một cơ ngơi to tát theo dạng kiến
trúc biệt thự Tây ở giữa với vườn tược bao bọc xung quanh. Chuyện về biệt thự
nhà vườn này, tôi nghe và đã kể , nên không nhắc nữa. Vì chung thành với làng
quê, gìn giữ nếp hiếu đễ Nho giáo, bố tôi đã từng khước từ cơ hội trở thành một
chủ thấu xây dựng giàu có nhất mực trên đất cảng Hải Phòng ngày nào, nên việc
ông chỉ ở nhà thuê tại Hà Nội, dành dụm tiền để xây cơ ngơi lớn ở quê là thế.
Chấp nhận việc một thân, ngày ngày “cơm
niêu nước lọ” kiểu quà vặt, cơm tiệm là cái thú riêng của ông. Nhờ đó, bố
tôi có cơ duyên làm quen với một cô gái quê ra phố giúp việc tiệm cơm cho bà
trẻ, mà nên vợ nên chồng, chính là mẹ đẻ ra tôi. Nhưng đấy là chuyện sau...
21.
Năm cuối cấp I, lớp tôi
đóng tại hậu cung của Chùa Hương Linh. Đây là phần kiến trúc còn lại duy nhất
của ngôi chùa cổ. Cùng kiến trúc này, phần còn lại bao quát cảnh quan
chung của ngôi chùa, là mảnh sân khá rộng trước hậu cung được lát bằng gạch Bát
Tràng to, rồi kế ngoài là một cái ao nhỏ, tiếp ngoài ao là phần gò đất cao mà
chính giữa gò là một tượng sư tử đá lớn đội tòa sen trên lưng; rồi đó là vài
cột đá sót lại chơ vơ, đồ rằng là cột cũ của ngôi chính điện chùa; kế tiếp
ngoài cùng là ba hàng tay vịn đá được chạm chổ theo hình sấu đá và hoa văn.
Ngày ấy, có một đoàn cán
bộ về, đào bới tìm kiếm các hiện vật, nghe nói họ là các nhà nghiên cứu kháo cổ
học. Giờ ra chơi, tôi và chúng bạn hay la cà ra xem họ làm việc. Mấy tháng miệt
mài đào bới tìm kiếm, họ ra đi. Mãi hàng chục năm sau, thấy bảo di tích chùa
Hương Linh được xếp hạng là Di tích văn hóa nghệ thuật kiến trúc chi đó từ thời
Lý. Người ta còn đồn, bệ đá hình sư tử đội tòa sen ấy là to nhất và chạm khắc
đẹp nhất trong toàn cõi Đông Dương. Quý là thế, mà dân làng chẳng ý thức gì
việc gìn giữ, bảo vệ. Đám trẻ làng và học sinh chúng tôi hay leo trèo ngồi lên
bệ tượng đá, thậm chí có đứa nghịch ngợm, còn lấy gạch ghè vào thân tượng làm
trầy sứt các nét hoa văn. Ngày ấy, văn hóa mới đang cổ vũ cho việc bài trử mê
tín dị đoan, đâu chỉ bọn trẻ con, mà người lớn còn đập phá, chẳng sợ gì thần
phật quở trách cả, chùa chiền tan hoang, vắng tanh, chẳng ai hương khói.
Ngày nhỏ, tôi đã nhiều
lần nghe bố tôi kể về lịch sử, cùng những huyền thoại về ngôi của cổ Hương Linh
này trong các câu chuyện hàng ngày của ông, nhất là khi có đoàn khảo cổ học về
tìm dấu vết trên nền móng phế tích ngôi chùa. Tôi nhớ nhất, chuyện ông kể, rằng
ngày xưa, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan đã cho sát hại bảy mươi hai cung nữ trong một vụ
án cung đình, nên sau này, bà đã hối hận, sám hối bằng cách lệnh cho xây bảy
mươi hai ngôi chùa trong toàn cõi, vừa đúng bằng số cung nữ oan khuất, để bày
tỏ lòng kính Phật, hướng thiện của mình. Và ngôi chùa Hương Linh chính là một
trong số đó. Ngôi chùa cổ Hương Linh này còn là một minh chứng xác định lịch sử
vùng đất, thời gian hình thành nơi định cư của cư dân nơi đây, đồng thời cho
thấy chiều sâu văn hóa của cộng đồng dân cư và làng mạc. Bố tôi còn kể, quê của
bà Nguyên phi Ỷ Lan quanh vùng đất này, chuyện xưa vua Lý Thánh Tôn tuyển hiền,
đi chơi quanh vùng có ý tìm thê thiếp, đặng sinh con nối dõi tông đường, ngôi
vị ra sao; chuyện nhà vua gặp một cô gái hái dâu xinh tươi có tài ăn nói, đối
đáp, đưa về triều làm thiếp, ấy là Nguyên phi Ỷ Lan-Linh Nhân Hoàng Thái hậu
sau này…
Tất cả những câu chuyện
ngày xưa nghe bố kể, sau này, trưởng thành, với lòng yêu văn chương, lịch sử,
tôi đã để ý tìm hiểu, được biết và vỡ lẽ ra bao nhiêu bí mật của trầm tích lịch
sử văn hóa từng phủ bụi thời gian trên phế tích ngôi chùa cổ Hương Linh, nơi
ngày bé đi học, mình vẫn vui chơi vô tư mà chẳng hề biết gì.
Trước hết là câu chuyện
oan khuất của bảy mươi hai cung nữ trong vụ hàm oan của Hoàng Thái hậu Thượng
Dương dưới triều vua Lý Nhân Tông vào năm Quý Sửu 1073. Sự việc này, sách Đại Việt Sử ký toàn thư và một số sách
sử khác có chép, tôi chỉ tóm tắt lại, xem như một việc quét bụi thời gian phủ
dày trên phế tích chùa cổ ở vùng quê tôi mà thôi. Chuyện rằng, Nguyên phi Ỷ Lan
được vua Lê Thánh Tông trong một lần tuần du qua hương Thổ Lỗi, sau đổi là Siêu
Loại, Thuận Thành, Bắc Ninh, một vùng đất trù phú ven bờ sông Đuống, đưa về hậu
cung làm phi tần, có long thai sinh con trai, là Thái tử Càn Đức. Vây nên địa
vị trong triều của bà được nâng lên nhanh chóng. Vốn tư chất thông minh, lại có
tài ăn nói, khéo ứng xử, bà Ỷ Lan được vua Lý Thánh Tông sủng ái, tin cậy, giao
việc triều chính khi vị vua này xuất kinh đem quân đi đánh giặc Chiêm Thành. Tử
đấy, Hoàng hậu Thượng Dương và Nguyên phi Ỷ Lan nảy sinh mâu thuẫn, ganh ghét
nhau vì cùng tranh giành sự ảnh hưởng của mình đến nhà vua. Khi vua Lý Thánh
Tông băng hà, thái tử Càn Đức, là con đẻ của Nguyên phi Ỷ Lan lên nối ngôi, tức
vua Lý Nhân Tông, thì đương nhiên, thần thế của bà Ỷ Lan, khi đó được phong là
Linh Nhân Hoàng Thái hậu đương nhiên phải hơn Hoàng Thái hậu Thượng Dương. Tuy nhiên, khi ấy, triều chính chia thành hai phe,
Thái sư Lý Đạo Thành ủng hộ bà Thượng Dương, còn Thái úy Lý Thưởng Kiệt lại
đứng về phía bà Ỷ Lan. Sự việc này, nếu cứ dằng dai, sẽ sinh mâu thuẫn lớn,
nguy hại đến ngôi vua của vị vua trẻ mới lên 7 tuổi, và cả triều nhà Lý vốn cần
sự ổn định lâu dài, trước nguy cơ xâm chiếm từ triều Nhà Tống Trung Hoa. Cơ sự
vậy, bà Ỷ Lan vốn cơ mưu, lại quen việc triều chính từ thời vua Lê Thánh Tông
tại vị, đã biết cách ra tay, đi trước một bước như thế nào. Kết cục là bà
Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ bị tống ngục, rồi bị bức tử, để rồi lịch
sử ghi danh mang tiếng xấu cho bà Ỷ Lan, người chủ mưu gây nên vụ án “Thượng
Dương cung” năm Quý Sửu 1073 cho đến tận bây giờ.
Triều
nhà Lý, xuất phát từ cửa Phật, Thái tổ Lý Công Uẩn vốn được nuôi đưỡng trong
chùa từ nhỏ dưới sự nuôi dưỡng, dìu dắt của các nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn
Hạnh. Chính vì vậy, Nhà Lý rất sùng đạo Phật và Phật giáo trờ thành quốc đạo.
Với căn cơ đó, bà Ỷ Lan khi đã vững vàng
địa vị với tư cách là Linh Nhân Hoàng Thái hậu, không còn mối nguy cơ triều
chính nào nữa, đã hối hận việc làm trái đạo lý trước đây của mình, sám hối bằng
việc lệnh cho xây dựng bảy mươi hai ngôi chùa, nhằm rửa oan cho các
nạn nhân của bà. Sở dĩ, Linh Nhân Hoàng Thái hậu lại sám hối vậy, ngoài tinh
thần Phật giáo là phổ độ chúng sinh, thì khi đó, tuổi ngoại bảy mươi, sức khỏe
yếu dần, mà vua Lý Nhân Tông vẫn chưa có con trai nối ngôi, khiến bà càng hối
hận về tội lỗi của mình trong quá khứ. Nhằm tăng sức mạnh tinh thần, vào năm Ất
Mùi 1115, cùng việc lập ba hoàng hậu cho nhà vua với hy vọng lập tự, bà ăn
chay, lập đàn cầu tự cho nhà vua, dường như Linh Nhân Hoàng Thái hậu còn ám ảnh
việc chủ mưu loại đối thủ chính trị.gây ra cái chết oan khuất không những của
Hoàng Thái hậu Thượng Dương mà cả bảy hai cung nữ vào năm Quý Sửu 1073, đã lệnh
cho xây nhiều đền chùa giải oan. Sách Đại
Việt sử ký toàn thư ghi chép lại sự kiện này rất vắn tắt. Song cùng sự việc
này, còn có ý cho là, việc bắt bảy mươi hai cung nữ của vua Lý Thánh Tống phải
chết vì ngày đó, nhà Lý có tục tuẫn táng,
nên khi vua chết thì theo luật tục, nghiễm nhiên các cung tần của vị vua đó
phải chôn theo để ở cõi âm tiếp tục phục vụ nhà vua. Có lẽ, người đời đã có ý
bênh vực bà Ỷ Lan, nên có chuyện nói vậy, chứ thực ra thời đó, nếu có tục tuẫn táng, thì sử sách phải ghi chép
chứ, đấy chưa kể việc đối chiếu với các vị vua nhà Lý trước và sau đều không
thấy có tục này.
Dân
gian còn lưu truyền chuyện, rằng bà Thượng Dương ghen tức bà Ỷ Lan sinh được
con trai, đã lén đánh cắp thái tử Càn Đức từ lúc sơ sinh, nói là con mình đẻ
ra, vu bà Ỷ Lan mang quái thai sinh ra mèo chết, kiểu như câu chuyện “ly miêu hoán thái tử” như triều Tống bên
Trung Hoa trước đó. Chính vì bị đối đãi như vậy, nên bà Ỷ Lan khi có địa vị đã
hại chết bà Thượng Dương là để rửa hận mà thôi. Dân gian lưu truyền vậy, đương
nhiên là khó tin, bởi sử sách đều chép cả, bà Ỷ Lan vốn được Lý Thánh Tông yêu
chiều, thậm chí còn giao quyền nhiếp chính cho bà khi nhà vua xuất cung mang
quân đi đánh dẹp Chiêm Thành, nên càng không thể có chuyện “ly miêu hoán thái
tử” dưới triều Lý Thánh Tông được. Nhưng tại sao, dân gian lại có chuyện vậy,
có ý bênh vực cho đức hạnh của bà Ỷ Lan, chắc phải có lỳ do nào đó?
Việc
dân gian lưu truyền vậy, bố tôi, ngày ấy, trong câu chuyện của mình, cũng đã
đưa ra kiến giải, mà sau này, khi tra cứu sử sách, tôi thấy sự hợp lý. Thật sự,
sử sách ghi chép, cho thấy, bản thân bà Ỷ Lan, khi còn là Nguyên phi, đã có
nhiều đóng góp giúp vua Lý Thánh Tông giữ nước và ban hành quốc kế dân sinh
tích cực. Sau này, khi nhiếp chính, và cả khi vua Lý Nhân Tông, con đẻ của bà
trưởng thành tự mình giữ quyền cai trị, thì bà vẫn tiếp tục giúp con ban hành
quốc sách mang lại lợi ích dân sinh. Vì lẽ đó, người dân biết ơn bà mà quên đi,
hoặc cố tình xóa đi cái lỗi của bà từ thời tranh quyền đoạt vị. Ấy là công to
lấn tội. Chẳng những thế, những câu chuyện về bà Ỷ Lan còn trở thành huyền
thoại, và không rõ tự bao giờ, người đời đồng hóa bà với nhân vật Cô Tấm thảo hiền trong truyện cổ tích Tấm Cám. Vì kính trọng bà, dân gian sinh
tục kỵ húy ở nhiều vùng quê có thờ cúng bà, chẳng hạn như quê tôi, gọi tấm gạo là đớn, và kỵ luôn cả cám
gọi là bổi, bởi có ngôi chùa cổ được
làm từ năm 1115 theo lệnh Linh Nhân Hoàng Thái hậu, tức bà Ỷ Lan.
Gần
một nghìn năm trước, chuyện tranh quyền đoạt vị chốn cung đình là vậy. Sử sách
ghi chép, chỉ là một chuyện, vì có thể ít người hiểu biết, và lâu ngày phủ bụi
thời gian mà phai mờ đi. Nhưng hệ thống đền chùa miếu mạo thì vẫn còn đó, chí
ít là dấu tích hay thần phả, nhất là những nơi có đền chùa được xây dựng theo
lệnh của bà Ỷ Lan, thì cùng với việc thờ Phật, các chùa chiền đó đều thở bà Ỷ
Lan, theo kiểu “tiền Phật, hậu Thần”
thường thấy xứ ta. Và các đền, chùa đó còn gọi nôm na là đền, chùa Bà Tấm. Đã lần,
cùng các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa, tham gia khảo cứu một số công trình
kiến trúc văn hóa nghệ thuật- tôn giáo, tôi tình cở được biết, đồng thời vỡ lẽ
ra sự hiểu lầm dẫn điến việc tranh đoạt các nơi thờ tự. Dường như, mối hiềm
khích giữa hai bà Thượng Dương và Ỷ Lan từ xa xưa vẫn âm thầm, chưa dứt, để
ngày nay, đám hậu thế lại tranh giành nhau việc thờ cúng, xin kể lại
đây...
Số là,
sử sách ghi, bà Ỷ Lan quê hương Thổ Lỗi, Bắc Ninh, sau đổi thành Siêu Loại,
Thuận Thành. Trải qua gần ngàn năm, các địa danh đổi tên, rồi việc quy thuộc
đơn vị hành chính nào cũng thay đổi, nên việc định quê gốc của bà Ỷ Lan và
nhiều nhân vật lịch sử không hề đơn giản. Người ta cho rằng, hương Thỗ Lỗi, Bắc
Ninh xưa, nay là Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Khi xưa, khi lệnh cho xây chùa,
đương nhiên, bà Ỷ Lan không thể không chọn quê mình và các vùng lân cận. Vậy
nên, chỉ loanh quanh vùng đất quê bà, đã có đến ba ngôi chùa được cho là xây
dựng vào năm Ất Mùi 1115, và dân gian quen gọi là chùa Bà Tấm, ấy là Tư Phúc tự-chùa làng Dương Xá, Gia Lâm, Tư Kính tự-chùa làng Ngọc Quỳnh, Văn Lâm
và Viên Giác tự-chùa cổ ở quê tôi.
Trong ba ngôi chùa cổ này, thì ngôi chùa ở quê tôi xa lảnh hơn chút, nên không
có việc hiểu lầm và tranh cãi gì, nhưng hai ngôi chùa kia thì giờ đây vẫn đang
có sự tranh giành đâu là ngôi đích thờ bà Ỷ Lan? Các nhà nghiên cứu và quản lý
văn hóa tôn giáo, cũng đã vào cuộc tranh luận, kiến giải này nọ, dài dòng và
rắc rối lắm, không nhắc lại. Có một cách phân định, khá đơn giản, được các bậc
cao niên kiến giải, ấy là căn cứ vào các bài vị thờ thần hiện đang tại vị ở hai
cụm đền-chùa này mà suy ra, là rõ. Theo đó, thì ở Dương Xá, cả đền và chùa, tức Tư Phúc tự, thờ Lý triều đệ tam hoàng hậu (tức Hoàng hậu Thượng Dương, vì bà là hoàng hậu của vua Lý Thánh Tông); còn ở Ngọc Quỳnh thì cả đền và chùa, tức Tư Kính tự và đền Ghênh, thờ Lý triều đệ tứ hoàng thái hậu (tức bà Ỷ
Lan, vì dưới triều Lý Thánh Tông bà chỉ là Nguyên phi, song đến triều Lý Nhân
Tông, là mẹ đẻ của vua nên được tôn hoàng
thái hậu). Theo súy luận này, thì quần thể đền Ghênh và Tư Kính tự là nơi chính thờ bà Ỷ Lan.
Truy nguyên, có ý kiến cho rằng, bà Ỷ Lan trước cho xây đền Ghênh và chùa làng
Ngọc Quỳnh, tức Tư Kính tự vào năm
1115, sau đó, chính bà lại cho xây thêm đền và chùa ở làng Dương Xá, tức Tư Phúc tự để thờ bà Cả, tức là Hoàng hậu Thượng Dương, cùng đám cung nữ
chết trong vụ bức tử vào năm Quý Sửu, Thái Ninh thứ 2, 1073. Vì sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi quá vắn tắt,
nên mới có chuyện các bên truy nguyên theo cách có lợi cho mình. Còn có một
nguyên nhân nữa dẫn đến sự tranh nhận sau này giữa hai cụm di tích, ấy là vì
vào năm 1953, đền Ghênh bị giặc Pháp tàn phá, dân làng này đã phải mang tượng
Đức bà Ỷ Lan sang gửi bên đền Dương Xá, và mãi đến năm 1989 mới đưa rước tượng
này về lại đền Ghênh, khi đền này được tu tạo trên nền cũ. Như vậy, đã có một
thời gian dài tới hơn ba chục năm, đền Dương Xá thờ giúp tượng bà Ỷ Lan cho đền
Ghênh, nên nhân dân trong vùng thấy vậy, gọi đền Dương Xá là đền Ỷ Lan, thay vì
đích là đền Ghênh, là có lý do của nó.
Chẳng
rõ, rồi ra chuyện tranh nhận đâu là đích này sẽ còn tiếp diễn đến bao giờ?...
22.
Lại tiếp chuyện học hành của ba chị em
chúng tôi.
Giữa năm học cuối cấp I,
có một sự kiện, khiến tôi bắt đầu có ý thức học hành hơn. Ấy là, học gì thì
học, cũng phải phấn đấu sao cho luôn xếp thứ nhất, không những vậy, còn học để
đi thi học sinh giỏi, giành thành tích này nọ về cho nhà trường. Tôi được tham
dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn, và tiếp tục được chọn vào lớp bồi dưỡng của
huyện để đi thi học sinh giỏi môn Văn lớp 4 cấp tỉnh. Những năm học trước, năm
nào tôi cũng được chọn dự thi học sinh giỏi môn Toán cấp huyện. Như tôi đã kể
chuyện đi thi học sinh giỏi lớp 1 và bị thày giáo bỏ quên không đón về. Ba năm
liền thi Toán chằng đạt kết quả gì, lên lớp 4, may mắn lại đạt chút kết quả.
Sau này, lớn hơn, ý thức được, tôi mới hiểu sở dĩ mình đả chút kết quả học sinh
giỏi môn Văn ngày ấy, là do thày giáo chủ nhiệm lớp có con mắt tinh đời. Nguyên
là, thày giáo dạy lớp tôi là thày Danh, người cùng làng và xét về họ hàng, tôi
phải gọi thày là bậc chú. Về ngoại hình, thày Danh dáng vóc tầm thước, đẹp
trai, tình tình hòa nhã và cẩn trọng. Thày dạy cả Toán và Văn đều giỏi. Dù thấy
tôi học Toán vẫn tốt, nhưng quan trọng, thày Danh lại phát hiện ra năng khiếu
học Văn tiềm tàng nơi tôi, nên kỳ thi năm đó, thày Danh đã đề nghị trường xếp
tôi vào diện thi học sinh giỏi môn Văn. Kết quả nhãn tiền, tôi trúng ngay vào đội tuyển cấp huyện để tiếp tục tham
gia kỳ thi học sinh giỏi Văn cấp tỉnh.
Có nửa tháng tập trung đội tuyển để luyện gà nòi, tôi lại đùm bọc khăn
gói xa nhà đến nơi tập trung đội, cách xa chục cây số. Thày Danh lúc ấy cho
chiếc xe đạp fa-vô-rít, xe cũ thôi nhưng luôn được lau chùi sáng bóng, oách
nhất làng, đã đèo tôi đến nơi tập trung. Lớp gà nòi có gần chục đứa. trai gái
đủ cả, được lựa chọn từ các trường cấp I trong huyện qua kỳ thi. Thày giáo An,
một giáo viên dạy Văn cấp I giỏi có tiếng trong huyện, lại có nhà của khang
trang rộng rãi, vườn tược thoáng mát, nhận đăng cai lớp bồi dưỡng ngay tại nhà
mình. Hàng ngày, lũ nhóc chúng tôi dành cả buổi sáng để học Văn, còn mỗi chiều
thì có giáo viên đến dạy chương trình học bình thường, để khi kết thúc khóa bồi
dưỡng, chúng tôi trở lại trường mình, không bị chậm chương trình học chung.
Thời gian ngắn, thày An chịu trách nhiệm truyền kinh nghiệm thi cử, giảng các
bài văn mẫu, ra một số bài tập làm văn theo chương trình học có chút nâng cao,
lại cho đội tập làm quen với đề văn mở rộng, kiểu như các đề mở sau này. Tôi
nhớ nhà lắm, nên khi ngồi học, có lúc chểnh mảng, nhìn ngó ra bên ngoài. Vườn
nhà thày An có nhiều cây ăn quả, nhưng hấp dẫn và ấn tượng nhất với tôi, ấy là
giàn nhót chín đỏ mỏng, ngắm và nghĩ thôi, đã thấy chua tứa cả nước miếng...
Cả lớp rất hào hứng mỗi
khi được làm bài tập theo kiểu đề mở. Cho đến giờ, tôi vẫn nhớ, có lần, thày An
ra đề, là hãy viết một kỷ niệm làng quê khi mình đi đâu xa, trở về. Có một bạn
nữ làm bài văn rất hay, được thày An khen ngợi, mang ra đọc cho cả lớp cùng
nghe, rồi cùng phân tích. Bạn gái ấy, khi làm văn, đã biết cách giả tưởng, là
khi xa nhà đi dự lớp bồi dưỡng văn tập trung này, trở về, nhìn thấy cây gạo già
đầu làng, xúc động như gặp người thân và rồi những ký ức về tuổi thơ với cây
gạo già ùa sống dậy... Đại khái là vậy. Còn tôi, đã viết ấn tượng lần đầu về
quê nội. khi gia đình tôi rời phố phường Hà Nội về sống ở quê những năm đầu
chiến tranh chống máy bay Mỹ. Tự nhận thấy, mình viết cũng tạm, nhưng công bằng
mà nói, không hay, không ấn tượng bằng bài văn của bạn gái kia. Bài văn học trò
của bạn gái ngày ấy, ấn tượng mạnh đến tôi, mà sau này, mỗi khi nghĩ và viết gì
về làng quê mình, lại phảng phất hình bóng cây gạo già trong tưởng tượng. Hình
như, người ta gọi nó là điển hình hóa thì phải? Mọi người hay nói này nọ về văn
hay, tôi nghĩ, ám ảnh mình đến thế, là văn hay chứ sao, cần gì phải lý sự dài
dòng cơ chứ ...
Kết thúc khóa bồi dưỡng,
đội tuyển tham gia kỳ thi môn Văn cấp tỉnh, cả nhóm chúng tôi chẳng một ai được
giải cả. Bấy giờ, nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa bắt đầu nổi, và nghe đâu kỳ
thi ấy đã đoạt giải cao nhất, rồi tiếp lại giật giải cao cấp trung ương. Trái
đất bao la nhưng cũng thật chật hẹp làm sao, ai ngờ, mấy năm sau đó, tôi gặp
lại người bạn gái, tác giả của bài văn về cây gạo già, ở bậc học cấp 3, và hơn
nữa, tôi còn được đứng chung đội tuyển học sinh giỏi môn Văn của tỉnh nhà với
nhà thần thần đồng nọ...
Theo đúng ý định của bố
mẹ, chị Hạnh tạm nghỉ học để chị Ngoan học nốt cấp II. Học xong cấp II, tức là
hết lớp 7 hệ học 10/10, chị Ngoãn thôi hẳn, nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình, để
chị Hạnh tiếp tục học. Chị Hạnh học không chăm và học lực cũng không bằng chị
Ngoan, được cái chắc chắn, cứ kha khá thôi, nhưng lên lớp đều đều, ngay như thi
vào cấp III, tương đương bậc Trung học phổ thông bây giờ, rất khó, chị cũng đỗ
ngay. Ngày ấy, cả huyện có duy nhất trường cấp ba ở huyện lỵ, gần giáp đường 5
Hà Nội nối Hải Phòng, là trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, lại xa nhà đến
ngót chục cây số. Để theo học, chị Hạnh phải khăn gói quả mướp đi trọ học, hàng
tuần, hoặc nửa tháng mới về nhà một lần, vừa cho đỡ nhớ nhà, còn để lấy thêm
tiền gạo, rau dưa tiếp tế từ nhà cho cuộc sống vất vả nơi trọ học.
Tôi
vào bậc học cấp II, cả xã có chung một trường, với 6 thôn nằm rải rác thành mấy
cụm, nên trường học phải chọn xây dựng ở vị trí khá trung tâm, nhằm cho học
sinh ở tất cả các làng đi học không quá xa. Trường mới, cách học mới, và đây
cũng là lần đầu tiên mang dáng dấp mô hình trường lớp tập trung. Những năm cấp
I, toàn tận dụng chốn đình chùa làm lớp học, học sinh đều là người cùng làng,
họ hàng với nhau, trong lớp phân vai chú cháu, đánh nhau chí chóe suốt. Trường
lớp mới, tôi có chút lo lắng, nhưng chỉ sau một học kỳ, tôi đã nhanh chóng vượt
lên thành người đứng đầu lớp, không những thế, đứng đầu khối. Và như vậy, tôi
trở thành học sinh cưng của nhà trường, luôn được quan tâm, đào tạo theo kiểu
gà chọi.
Được
nhà trường và các thày cô giáo quan tâm, lợi thế nhiều đấy, nhưng không phải
không có ức chế. Tự nhiên, mình cứ phải giữ ý này nọ, từ việc đi đứng, nói năng
cẩn thận, sao cho ra dáng học sinh giỏi chăm ngoan, để xứng đáng danh hiệu cháu
ngoan Bác Hồ chứ. Hồi đầu về quê, sinh hoạt ghé đội thiếu niên ở làng, tôi còn
không chấp nhận kết nạp đội viên vì bị
cho là thành phần gia đình không trong sạch, nên tôi chẳng thể được bình bầu là
cháu ngoan Bác Hồ, nay trở thành học sinh gà nòi của cả trường, mặc nhiên, việc
chăm ngoan học giỏi với thành tích học tập tốt mang lại cho tôi danh hiệu cháu
ngoan Bác Hồ. Sướng quá còn gì. Khổ nỗi, mình cứ phải lên gân lên cốt, sao cho
xứng với danh hiệu. Song đấy chỉ là hình thức bên ngoài, khi đi học hoặc ở
những hoạt động đoàn thể, cố giữ dáng vậy không mấy khó. Cái khó nhất, là học
hành làm sao để giỏi đều tất cả các môn, xứng đáng danh hiệu học sinh giỏi toàn
diện. Mà ngày ấy, ngoài giờ đi học chính, tôi vẫn phải giúp bố mẹ trong việc
làm mì gạo, nguồn sống chính của gia đình, rồi ra, cách nhỡ vài ngày lại có một
phiên nuôi trâu cày của Hợp tác xã nông nghiệp. Vậy nên, mỗi khi đi chăn trâu,
tôi đều phải mang sách giáo khoa theo. Tranh thủ học các môn học thuộc lòng,
như lịch sử, địa lý, sinh vật và các bài văn vần. Được cái, tôi vốn có năng
khiếu về lĩnh vực này, nên các sự kiện lịch sử, các địa danh địa lý, tôi chỉ
đọc vài lần là nhớ như in. Năng khiếu và trí nhớ tốt bộc lộ từ ngày ấy, sau
này, giúp ích tôi rất nhiều trong các bậc học cao hơn, cả khi ra đời làm việc
và hoạt động xã hội...
23.
Những tháng năm đầy
gian khó ấy, sống bình thường đã vất vả lắm rồi, lại thêm các cơn bão cuộc đời,
thay nhau lần lượt, hoặc cùng lúc ập đến, thử hỏi, con người ta sẽ chống chọi
và sống sao đây? Gia đình tôi đã trải qua những trận bão cuộc đời như thế. Đương
nhiên, bố tôi, người thủ lĩnh tối cao của gia đình, người có kiến thức uyên
thâm, đã biết tự lập thân lập nghiệp, có kinh nghiệp sống và sự từng trải, phải
đứng ra, chèo lái con thuyền gia đình qua giông bão cuộc đời này...
Khi kể lại những biến
cố cuộc đời cho con cái nghe, ông thể hiện sự thâm trầm xen lẫn hài hước, rồi
thản nhiên như một sự định vị, ngầm động viên mình, mặc cho thực tại cuộc sống
của gia đình đang tròng trành trong xã hội đầy biến động bởi chiến tranh và các
định kiến chính trị...
Song khoan đã, trước khi kể lại những
chuyến vượt giông bão ấy, hãy nghe bố tôi kể chuyện về trầm tích văn hóa tâm
linh làng xã quê tôi, mà theo ông, những câu chuyện đầy yếu tố hoang đường,
tưởng chừng vô bổ ấy, thực ra, đã hun đúc trong ông bản lĩnh vượt khó... Bố tôi
bảo, ông luôn có nhãn quan lịch sử, mỗi khi phải nhìn nhận, đánh giá về con
người, sự kiện này nọ, và cả những vấn đề thuộc về thời đại nữa…
Chuyện rằng, ông thủy
tổ phát sinh chi phái nhà tôi, theo gia phả để lại, ghi là từ thời Lý. Cứ thế
mà suy, lấy căn cứ sử sách chép về việc Hoàng Thái hậu Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan,
lệnh cho dựng 72 ngôi chùa nhằm rửa oan cho 72 cung nữ buộc phải chết theo
Hoàng hậu Thượng Dương, trong vụ án Thượng Dương cung vào năm 1073 Quý Sửu đưới
triều vua Lý Nhân Tông, trong số đó có chùa Hương Linh ở xóm Tự kế bên làng
tôi. Điều đó, đồng nghĩa với cư dân ở đây ở vào thời ấy đã khá đông đúc. Dựng
chùa là để truyền bá tư tưởng đạo Phật, là để người dân trước hành lễ, sau giác
ngộ mà noi theo tư tưởng phổ độ chúng sinh của nhà Phật. nên người ta thường
chọn nơi cư dân đông đúc. Với một lịch sử dài lâu ngót ngàn năm, lại cách kinh
thành Thăng Long không xa, và cũng gần quê quán bà Ỷ Lan, đến tận triều Nguyễn,
vẫn thuộc phiên chế hành chính Kinh Bắc, thì hẳn, trầm tích văn hóa tâm linh
vùng đất này phải nhiều tiềm tàng. Không kể những trầm tích lịch sử gắn vào các
cuộc đổi ngôi triều chính, các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, các cuộc tranh
giành quyền lực, và chuyện thần thánh ma quỷ, thì những câu chuyện ân oán, trả
nghĩa hay báo thù truyền kiếp, mang màu sắc tâm linh hoang đường cũng đầy
rẫy...
Chuyện tâm linh, cô
Yêu thì có miếu thờ ở làng tôi, do ông nội tôi cho xây, sau một lân Cô hiện
hình cho ông tôi thấy. Làng tôi, đình làng thờ Thành hoàng là Lý Đạo Thành, vị
Thái sư triều Lý, người xưa kia theo phò bà Hoàng Thái hậu Thượng Dương, đối đầu
với bà Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt trong việc nhiếp chính giúp ông vua bé
Lý Nhân Tông kế nghiệp, triều chính. Rồi nữa, chuyện về cụ Thủy tổ lập làng là
Phúc Trạch xưa, có một người ở đợ cho cụ, chuyên việc chăn lợn, sau này người
ấy chết thiêng, cũng có miếu thờ, húy gọi Trúc Tiêu, vì ngày xưa vị này thổi
sáo trúc rất hay. Một làng có ngần ấy vị, trần sao âm vậy, nên các vị cũng
tranh giành việc hưởng quyền được thờ cúng, mà lục đục với nhau. Làng Tự kế
bên, thêm vị thần Sấm Đá, và dưới cõi âm, các vị này cũng sinh hiềm khích nhau.
Cùng việc tranh được thờ cúng, còn cả chuyện tình ái nữa. Dân làng đồn lại,
linh vị Trúc Tiêu, người ở đợ chuyên chăn lợn của cụ thủy tổ Phúc Trạch xưa,
rất mê cô Yêu, nhưng chô Yêu lại chê vị này ẻo lả, đi thích Thần Sấm Đá oai
phong, thế là, ba vị này cứ vòng vo, lúc đục nhau mà sinh đủ chuyện. Và mỗi khi
các vị lục đục là trên dương gian, làng xã lại có chuyện chẳng lành. Tuy nhiên,
tự thân, mỗi vị riêng, cũng có cái đáng được của mình. Cô Yêu thì hay trợ giúp
những người đàn bà xấu xí muộn chồng, hoặc đàn bà góa cô đơn. Thần Sấm Đá thì
mỗi khi thấy dương gian có chuyện bất bình, ngài lại nổi giận gầm lên, người
thường không nghe thấy tiếng ngài, nhưng kẻ gây chuyện thì nghe sấm dậy bên
tai, kinh sợ mà thôi. Còn vị Trúc Tiêu lại có cách của riêng mình. Tương
truyền, ở cõi âm, vị này cai quản một đàn lợn con vàng ròng đông nhung nhúc
không rõ bao nhiêu con. Vỉ vậy, thần Trúc Tiêu chuyên việc ban của cải, hoặc
thử lòng người trần gian. Người nào khó khăn mà ngài ta muốn giúp, thì thường,
ban đêm người đem đàn lợn vàng đến thả ở sân vườn nhà người đó. Ngài ngồi ung
dung thổi sáo trúc, đàn lợn tản ra liếm sương đêm, trong đàn luôn có một con
lợn què còi cọc, chạy rất chậm, người được ban của, hiểu ra, không tham chỉ
rình theo bắt con lợn còi què chân ấy là đủ, còn ai tham quáng mắt đuổi những
con to hơn thì chẳng thể bắt nổi một con nào. Đã có chuyện, chủ nhân nhà ở trên
nền đất xưa là chuộng lợn của Trúc Tiêu xưa, được thần ban của, nhưng rồi xôi
hỏng bỏng không. Chuyện là, một đêm, nhà nọ được Trúc Tiêu báo mộng cho của,
bừng tỉnh dậy, mở cửa nhà, thấy ngoài sân vườn, đàn lợn vàng tha thẩn cả bầy,
ánh vàng sáng lóa trong màn đêm sương mờ trăng lu, người đó vừa hô gọi người
nhà dậy, vừa nhảy ra định bắt lợn. Thấy con lợn còi què chân đang rạch ngay
trước mặt, người này chê bé, bỏ, cứ đuổi theo một con lợn vàng to hơn nhiều, có
vẻ như con đầu đàn, Bầy lợn vàng tản ra, chạy rất nhanh, người này nhăm nhăm
bắt con đầu đàn, đuổi một hồi nó chạy mất, ngơ ngác định tìm con khác thì chúng
đã chạy tán loạn cả, lúc ấy chợt nhớ ra con lợi còi què, quay lại thì dù có
chậm chân nó cũng lủi mất tiêu. Chủ nhà tiếc ngẩn ngơ về tay không. Hiểu là
mình tham nên chẳng được gì. Tham thì thâm là vậy. Cũng có ý cho rằng, thần
Trúc Tiêu định giúp, nhưng thần phạt không cho nữa, mà chỉ thả lợn vàng thử
lòng người mà thôi, bởi trước đấy, người này đã nhiếc mắng, hắt hủi một kẻ ăn
mày… Chưa hết, thời nay, chuyện đàn lợn vàng nhạt đi, thì chuyện cho của vẫn ám
ảnh người làng. Đồn là, con cháu nhà người hụt lợn vàng, cũng một lần hụt mất
ngọc quý. Người đó, đêm trở dậy, thấy viên ngọc to lấp lánh sáng rực, vội nhặt
lên xem, mừng lắm, bỏ vào túi giấu đi. Sáng ra, mở túi xem, chẳng thấy ngọc
đâu, mà chỉ còn vết cháy sém thủng lỗ to bằng kích thước viên ngọc. Thần không
cho, ngọc hóa lân tinh cháy túi, bốc hơi…
Chuyện cô Yêu, thần
giữ của, cũng ám ảnh nhiều thế hệ người làng. Vốn nơi trú ngụ của Cô ngay bên
cổng ra vào đất nhà ông nội tôi. Khi cho xây miếu thờ Cô, ông nội tôi chỉ mong
muốn Cô để yên, không quấy đảo làm dân làng đau ốm, chứ tuyệt nhiên không cầu
lợi lộc, của cải, nên không hề động chạm gì đến tương truyền về kho báu của
người Tàu, mà đào bới, tìm tòi. Sau này, bà nội và bố tôi đổi đất ấy cho nhà
khác, không biết ngôi miếu ấy có được hương khói hay không? Chỉ nghe nói, gia
chủ mới, đã bí mật đào bới sâu khu vực xây miếu để tìm của. Thấy bảo là, khi
đào bới, họ có phát hiện một ít chum vại, vò sành, nhưng bên trong, hoặc chứa
đầy bùn đất, vỏ ốc, hoặc có mấy lưỡi liềm, lưỡi cuốc han gỉ. Người làng dèm pha
rằng, xưa nay, ai đời lại mang liềm cuốc đi cất giấu kỹ thế, người Tàu nhiều
vàng đem đúc ra như vậy khi cất giấu, chẳng qua, số không giàu nên lưỡi liềm
cuốc vàng bị cô Yêu biến hóa thành sắt gỉ mà thôi. Của nả chẳng thấy đâu, họa
thấy nhãn tiền, gia chủ trực tiếp đào bới ấy, chỉ cảm mạo xì xắng, lại thổ
huyết mà chết, đồ là, cô Yêu phạt tội phá hủy nơi trú ngụ của Cô nên vật chết
tươi… Không những thế, người con trai của gia chủ, sau này làm cán bộ ngành y,
nghe đâu, cũng mắc chứng bệnh gì đó, và bệnh mỗi nặng thêm, thổ huyết như cha
mình mà mất… Nghĩ mà ghê người, nhưng dân làng vẫn bán tín bán nghi…
Riêng thần Sấm Đá,
xưa thiêng là thế, nhưng đến thời mới cũng mất thiêng. Bố tôi kể, thần Sấm Đá
có gầm thêm một nữa, ấy là khi người Pháp khởi công, cho làm con đường sắt nối
thủ đô Hà Nội với cảng Hải Phòng vào hồi đầu thế kỷ 20, chạy ngang qua gần quê
tôi. Đồn rằng, lần gầm này nào lúc nửa đêm, cuối tháng mùa đông trời tối đen
như mực, tiếng gầm hòa lẫn với tiếng gió bấc tràn về, gào rít vang dội, cả vùng
đều nghe thấy. Nghe vậy, tôi nghi ngờ hỏi lại, có đúng thế không, bố tôi chỉ
cười ý nhị… Nhưng sau này, đời cũng nhiều ngang trái, làng xóm cũng xảy ra
nhiều chuyện thương thiên bại lý, sao các vị thần ấy, đi đâu hết cả, hay mất
thiêng, mà không trừng phạt? Người ta đùa, mỉa mai rằng, các vị ấy cứ mê mải
theo đuổi chuyện yêu đương, ghen tuông lẫn nhau, quyên cả việc đời, mà sinh mất
thiêng thôi?...
24.
Chị Ngoan nghi học, ở nhà đi làm đồng ruộng và giúp
gia đình túc tắc nghề làm mì gạo. Nhà tôi, tạm yên tâm về nguồn thu nhập để
sống. Chị Ngoan chăm chỉ, cần mẫn, thêm nữa nhà tôi được nhận nuôi nửa trâu,
nghĩa là hai nhà chung nuôi một con trâu được Hợp tác xã giao cho nên đủ định
mức công điểm để được chia thóc ăn từ Đội sản xuất. Nghề làm mì gạo cũng thêm
thu nhập, đồng ra đồng vào để mua sắm thức ăn, quấn áo và lo ăn học cho chị
Hạnh và tôi.
Cái ăn tạm ổn, thì nỗi lo khác lại đến
từ chuyện yêu đương, lấy chồng của chị Ngoan. Trong mấy người chị gái, thì chị
Ngoan xinh nhất. Chị lấy được cả nét trội, nét đẹp của cả cha và mẹ. Da trắng,
tóc mây dày đen nhánh, khuôn mặt trái xoan, xống mũi cao, mắt hiền, hàm răng
khá đều, chiều cao tầm thước. Trong khu vực làng xã quanh đó, ở vào thời điểm
ấy, khó ai xinh hơn chị Ngoan. Tuổi mười bảy, lại chịu khó chịu thương, nên chị
là tâm điểm chú ý của cánh trai làng, đàn ông biết đến chị. Khổ nỗi, đang chiến
tranh, trai làng khỏe mạnh vào bộ đội, đi chiến trường hết cả, số ở nhà thì đui
què mẻ sứt, đàn ông góa vợ. Nói chung là vậy, nhưng không phải là không có
người xứng tầm để lựa chọn. Vẫn có những sinh viên của các trường đại học sơ
tán về, còn có những cán bộ viên chức gia đình ở quê, và cả những chàng bộ đội
là thương bệnh binh loại nhẹ phục viên, xuất ngũ về quê nữa.
Ở quê, những thanh nữ ở lứa tuổi chị
Ngoan cũng không nhiều. Vì thế, nữ giới cùng trang lứa bạn với chị hầu như
không có. Chị Ngoan có duy nhất một người bạn thân, ấy là chị Đoan. Chị Đoan
sống chung cùng nhà bố mẹ chồng, hàng xóm cách một con ngõ với nhà tôi. Chị
Đoan hơn chị Ngoan dăm tuổi, chồng là anh Toán, đi bộ đội. Họ có một con gái
nhỏ, hai mẹ con chị ở chung, nhưng ăn riêng trong một chái nhà của gia đình nhà
chồng. Chị Đoan, tính trầm, ít nói, được tiếng ngoan hiền, chăm chỉ. Hình thức
không xinh nhưng khuôn mặt ưa nhìn, dáng dấp tầm thước, săn chắc. Mẹ tôi bảo,
chị Đoan là người đa đoan, bởi con mắt nhìn đắm đuối và cái hông nở nang hút
đàn ông, cùng đó là dáng đi hơi chúi người về phía trước, nên cuộc sống tình
cảm khó bề tên ổn. Chị Đoan ngoài công việc ra, hầu như ít giao lưu xóm láng,
vậy nên, chị hầu như không sang nhà tôi. Chị Ngoan thi thoảng lúc rảnh rỗi ban
tối, qua nhà bên thăm mẹ con chị Đoan. Thường là, hai chị em rúi trong căn
buồng chái nhà chị Đoan, vừa đan lát, khâu vá, vừa chuyện trò đàn bà con gái
với nhau. Bố mẹ tôi không thích mối thân tình này của hai chị em, nhưng cũng
không cấm đoán, bởi thời buổi chiến tranh, có ai đâu mà chơi, nên cũng cần phải
cho chị Ngoan giao tiếp xã hội chứ, xa đã chẳng thể đi, thì gần gặn cũng phải ít
nhiều. Sở dĩ không thích, là bởi bố mẹ tôi lo cái sự đa đoan từ chị Đoan lây
sang chị Ngoan.
Quả là cách nhìn người của người xưa
để lại khá đúng, sự lo ngại về cái sự đa đoan tiềm ẩn trong con người chị Đoan
đã thành sự thật. Một ngày nọ, người ta rì rầm với nhau là chị Đoan có chửa.
Rồi cái sự giấu kín bằng cách dùng khăn thắt bụng của chị Đoan cũng không ổn,
khi cái bụng chị mỗi ngày một phình to. Chị Đoan mang thai, khi anh Toán chồng
chị không về phép, mà chị thì cũng không hề lên đơn vị thăm chồng vì anh Toán
đang ở mặt trận phía nam, vậy thì chị Đoan có chửa với ai? Phiền toái hơn, chị
Đoan là đảng viên và còn làm thứ ký đội sản xuất. Không lâu sau khi vỡ lở
chuyện chị Đoan chửa hoang, người ta đã tìm ra chủ nhân của cái thai hoang chị
Đoan mang trong bụng, ấy là tay Đội trưởng đội sản xuất mà chị Đoan là thư ký
đội. Thì ra, ông đội trưởng và cô thư ký, việc chung việc riêng lẫn lộn, ngày
đêm hậm hụi rồi thậm thụt ăn nằm với nhau mà sinh chuyện.
Chị Đoan sinh hạ con gái, dù không đến
mức dị tật, nhưng do có một thời gian thắt bụng giấu giếm, nên thai nhi bị ảnh
hưởng, sau này sức khỏe không tốt, hay ốm yếu. Vì mang tội chửa hoang, nên chị
Đoan cũng chẳng còn mặt mũi nào ở chung nhà với bố mẹ chồng nữa. May là, người
ta cám cảnh, có phần thương tình, cấp tạm cho miếng đất hẹp rìa làng bỏ hoang
lâu nay, để dựng căn nhà tạm, mẹ con mang nhau ra đấy ở. Cháu gái con với chồng
thì được ông bà nội giữ lại. Nhưng một thời gian, nó xin ra ở với mẹ, đỡ đần chị
Đoan việc trông em và cơm nước. Chuyện chị Đoan vậy, nên chị Ngoan tôi, tuy vẫn
quý thương chị Đoan nhưng cũng ngại gặp gỡ. Bản thân, chị Đoan cũng chủ động
tránh gặp gỡ nhiều với chị Ngoan, bởi chị hiểu, gia đình tôi vốn nổi tiếng làng
xã về nền nếp, gia phong. Tôi biết, giấu bố mẹ, thi thoảng, chị Ngoan vẫn đáo
qua căn nhà rìa làng của mẹ con chị Đoan, thăm nom, an ủi...
Hơn năm sau chuyện ấy, anh Toán, chồng
chị Đoan từ chiến trường đột ngột về thăm nhà. Anh bị thương nhẹ, được ra Bắc
ăn dưỡng, rồi làm thủ tục phục viên. Là đảng viên, lại sĩ quan cấp úy, nên về
địa phương, anh là đối tượng được quan tâm để sung vào đội ngũ cán bộ thôn xã,
giữ một chúc trách nào đó. Không thể cảm thông, chia sẻ và tha thứ cho lỗi lầm
của vợ, họ nhanh chóng làm thủ tục ly hôn. Cháu gái con chung của họ, vẫn xin
được sống cùng với mẹ nó. Đấy là niềm an ủi của chị Đoan...
Rảnh rang, anh Toán bắt đầu nghĩ đến
việc lập gia đình mới. Oái ăm thay, đối tượng anh Toán nhắm đến lại là chị
Ngoan. Kể cũng khôn, chị Ngoan vừa trẻ đẹp nhất làng, tính nết ngoan hiền, con
nhà nền nếp gia giáo, lại hàng xóm làng giềng. Tôi nghĩ, ai ở vào hoàn cảnh anh
Toán, cũng vậy cả thôi. Chắc anh Toán khá tự tin vào bản thân, nên anh vừa tìm
cách gặp gỡ chuyện trò với chị Ngoan, vừa sang nhà tôi chơi, trước là hỏi thăm
hàng xóm láng giềng khi phục viên về nhà, sau là kể chuyện chiến sự gian khổ, ác
liệt ra sao, sau nữa, là đánh tiếng, xin phép được tìm hiểu chị Ngoan. Mỗi lần
anh Toán sang nhà, mẹ tôi chỉ xã giao đôi câu rồi tránh mặt, còn bố tôi, vốn
từng trải lịch thiệp, trà nước tiếp khách vui vẻ. Anh Toán là người khéo miệng,
nên hai bên có chuyện để nói, không đến nỗi tẻ nhạt nói cho qua chuyện. Về việc
này, tuy giấu con cái, nhưng tôi biết, giữa bố và mẹ tôi có cách nhìn nhận khác
nhau. Đã có lần, tôi giả vờ ngủ để nghe lén chuyện bố mẹ bàn nhau trong việc
ứng xử với anh Toán khi anh này đặt vấn đề được tìm hiểu, tiến tới chuyện xin
cưới chị Ngoan làm vợ anh. Mẹ tôi thì nhất mực không đồng ý, bởi bà không ưng
tính cách con người anh Toán, thêm nữa, mối quan hệ bạn bè thân tình giữa chị
Ngoan và chị Đoan khiến bà băn khoăn, và còn một linh cảm trực giác riêng của
nữ giới, là cảm nhận sự không hạnh phúc yên ấm gia đình nếu hai người lấy nhau.
Bản thân cuộc đời mẹ tôi, xinh xắn, chịu thương chịu khó là thế, từng hy sinh
cả chuyện riêng tư, đặng giúp cha mẹ bươn chải nuôi nấng các em, mà sinh quá lứa
nhỡ thì, để rồi làm lẽ thứ ba của cha tôi, nên bà thấm hiểu cuộc sống ấy như
thế nào. Nhưng tại sao, ngày xưa ấy, mẹ tôi vẫn đống ý làm lẽ cha tôi, là bởi,
bà nhìn thấy bản lĩnh đàn ông và sự vững vàng ở cha tôi, cùng đó là sự linh cảm
đem lại cho bà lòng tin, là dù có gian truân đến mấy, cùng sẽ vượt qua. Giờ thì
mẹ tôi không thấy sự linh cảm ấy ở hoàn cảnh chị Ngoan và anh Toán. Bà thương
con gái, xinh hiền nhất mực lại phải gánh chịu sự đa đoan không đáng có, mà có
thể tránh được nếu mình kiên quyết, dứt khoát. Trong khi đó, bố tôi lại nghĩ
hơi khác. Ông hiểu được suy nghĩ của mẹ tôi, và cũng chia sẻ được sự lo lắng
ấy, song ông lại có cái lý của đàn ông. Ấy là, về con người, anh Toán tuy đã
một đời vợ, nhưng chuyện ly hôn là chính đáng, tuổi còn trẻ, có chút thương tật
chiến tranh song sức khỏe tốt, không ảnh hưởng gì đến đường con cái. Quan trọng
nữa là, anh Toán đã xong nghĩa vụ quân sự, không phải ra trận nữa, có thể yên
tâm chăm chút gia đình, chứ nếu để chị Ngoan lấy một thanh niên mới lớn, hoặc một
ai đó đang quân ngũ, thì không chừng một ngày kia, tạch nơi chiến trường thì
chị Ngoan thành góa bụa à? Cái lý này, thì mẹ tôi chịu cứng. Bố tôi đồng tình
với mẹ tôi, tuy anh Toán hơi dẻo mỏ, cảm giác thiếu chân thành, nhưng đàn ông
vậy cũng không phải là khuyết tật gì ghê gớm, thậm chí, nếu hoạt động xã hội,
làm việc tiến thân, thì tính cách ấy lại là một ưu điểm cũng nên. Còn có một
nỗi lo chung nữa, cả bố và mẹ tôi cùng hiểu, nhưng không một ai nỡ nói ra, sợ
gở miệng, ấy là, chị Ngoan xinh xắn
ngoan hiền, mơn mởn như thế, tính cách lại thật thà, ít va chạm ngoài đời, như
mỡ treo miệng mèo, trước mắt cánh đàn ông, biết đâu đấy, ngày nào đó, lại trúng
bẫy ngon ngọt của một gã Sở Khanh, bụng mang dạ chửa, thì thôi rồi, có mà đào
lỗ chui xuống đất?... Chính vì thế, bố tôi có chút phân vân trong việc này, sở
dĩ vậy, còn bởi, bố tôi lấy chuyện đời mình ra mà suy, cuộc đời ông long đong
lận đận, việc riêng thì mấy lần lở dở, nhưng cuối cùng vẫn lấy được mẹ tôi,
đúng kiểu người thục nữ, đức hạnh, mà
con cái cũng không đến nỗi nào... Cuối cùng, hai ông bà quyết định, không can
thiệp nữa, chuyện thành hay không, hoàn toàn là ý chị Ngoan. Và chị Ngoan đã có
câu trả lới dứt khoát về chuyện này. Không!
`Chuyện chồng con của chị Ngoan sau
đó, còn rắc rối hơn, mà nguyên nhân không phải từ chị, toàn do phía đối phương
gây ra. Những chuyện này, tôi sẽ kể sau...
25.
Sau khi anh Toán cố gắng để lấy chị Ngoan không thành,
anh ta cũng chẳng lấy đó làm buồn, nhanh chóng nhờ mai mối làm đám khác. Với
người như anh ta, coi như là đã bước qua cuộc chiến tranh, hầu như không sứt mẻ
gì, còn trẻ khỏe, lại có tí quân hàm, dù đã qua một đời vợ, nhưng vẫn ra vẻ oai
lắm. Ở quê, người dạng như anh ta không nhiều, và vẫn được xem là niềm mơ ước
của đám gái làng, nhất là khi ấy, làng xóm hầu như vắng bóng đàn ông. Làng xã
bấy giờ, người ta còn phát động phong trào, lấy thương bệnh binh làm chồng, và
coi việc ấy như một biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, bằng sự đền đáp cho
công lao mà họ đã cống hiến cho nền độc lập của tổ quốc. Anh Toán lấy một người
đàn bà xã bên, hình thức hơi kém và cũng quá lứa nhỡ thì một chút, những khi
thành vợ chồng, họ sớm có con ngay và đẻ liền vài đứa, đủ nếp tẻ. Thấy họ vậy,
nhà tôi cũng mừng, bởi nếu anh ta cưới một người vợ chẳng ra gì, thì mình cũng
thấy như là có lỗi vậy.
Thế nhưng, chuyện hôn nhân không thành
của chị Ngoan với anh Toán, sự việc qua đi, nhưng mẹ tôi lại giận mát bố tôi.
Bà nghĩ, bố tôi đã quá xuề xòa, dễ tính trong chuyện này đến vậy. Sở dĩ, cách
nghĩ của bố mẹ tôi khác nhau, vẫn nguồn gốc từ chuyện nên duyên vợ chồng của
hai ông bà, được lấy ra làm tấm gương soi chiếu, song mỗi người một kiểu. Ngày
ấy, mẹ tôi tuy đã ngót ba mươi tuổi, nhưng hình thức khá xinh đẹp, có duyên,
lại đảm đang, hiếu thuận, mà dám chấp nhận làm lẽ bố tôi, làm người vợ thứ ba,
lại chênh lệch kém chồng những mười lăm tuổi. Khi ấy, bố tôi đang nghiện thuốc
phiện nặng, được cái tính tình tốt bụng, xởi lởi, có nghề nghiệp, tiếng tăm
đàng hoàng và gia sản giàu có. Mẹ tôi không ham giàu, nhưng biết người biết
mình, thêm nữa, bà ngoại tôi và người bà trẻ, chủ quán cơm của mẹ tôi, cả hai
cùng kết bố tôi nên khuyên nhủ mẹ tôi nhiều lắm.
Sau khi lấy nhau, mẹ tôi không về ở
quê chung với bà nội tôi, mà sống ở một căn nhà do bố tôi thuê, nơi thị trấn
huyện lỵ nằm trên trục đường 5 Hà Nội - Hải Phòng, và vẫn tiếp tục nghề buôn
bán. Mẹ tôi, có kể rằng, ngầy ấy, quả là bà có chút ngần ngại, rằng bố tôi đã
cao tuổi, từng qua hai đời vợ, và nhất là nghiện thuốc phiện nặng. Bà ngoại tôi
đã kết đám này, nên lý lẽ, bảo mẹ tôi, rằng bố tôi là người tử tế, còn chuyện
nghiện thuốc phiện thì cũng đâu có gì ghê gớm, chỉ là chuyện thường tình của đa
số dân nhà giàu, trí thức bấy giờ. Bà ngoại tôi còn bảo mẹ tôi rằng “Ông ấy có thuốc phiện thì cũng đâu có lấy
tiền của nhà cô để hút xách đâu mà lo. Nhà ông ấy nhiều ruộng đất, lại có nghề
kiến trúc, hái ra tiền bạc, hút thế chứ có hút nữa cùng chẳng đáng là bao ...”,
Đại khái là vậy. Xét về tuổi tác, bố tôi chỉ kém bà ngoại tôi chừng dăm tuổi,
nên tuy là con rể, nhưng bà ngoại tôi tôn trọng bố tôi lắm, khi xưng hô, bà
ngoại đều một điều “nhà ông... này nọ”.
Còn bố tôi, nhất nhất một niềm kính trọng và hiếu đễ với bà ngoại tôi, chẳng
kém gì so với bà nội tôi. Về chuyện hiếu đế với song thân, bố tôi thuộc diện
hiếm có.
Quê ngoại tôi cách Hà Nội chừng hai
chục cây số, lại kề sát đường số 5 huyết mạch thủ đô với thành phố cáng Hải
Phòng, nên trong họ ngoài làng bên ngoại ra Hà Nội sinh sống đông lắm. Ông
ngoại tôi tậu được một căn nhà mặt phố Mã Mây, mở hiệu giặt là quần áo. Bác Cả,
anh trai trưởng và mẹ tôi, được đưa ra Hà Nội để trông nom, phục vụ cho hiệu
giặt là. Mẹ tôi thì chợ búa, cơm nước và phụ giúp khâu giặt đố hàng, còn bác Cả
thì chuyên việc là quần áo. Được vài năm làm ăn như thế, chẳng đến nỗi nào,
nhưng không hiểu sao, ai xui khôn xiu dại thế nào, ông ngoại tôi sang nhượng
lại hiệu giặt là cho người khác, lầy tiền về quê tậu thêm ruộng đất và chạy
chức lý trưởng. Nhà không còn cửa hiệu nữa, bác Cả đi làm thuê cho hiệu giặt là
khác, còn mẹ tôi ở lại phục vụ hàng cơm với người bà trẻ cũng ở ngay con phố
này. Có lẽ, đấy là số phận, là cái duyên gặp gỡ và nên vợ chồng với bố tôi...
Khi lấy mẹ tôi, bố tôi rất có trách
nhiệm với gia đình bên nhà vợ. Lúc ấy, để có người chia sẻ bớt công việc thiết
kế kiến trúc, bố tôi thu nạp mấy người làm học trò dạy nghề trực tiếp. Trong số
học trò ấy, có người cậu, em ruột mẹ tôi, còn mấy người kia cũng là họ hàng nhà
nội ngoại của bố tôi cả. Được bố tôi trực tiếp dạy dỗ, truyền nghề và khi đã
biết nghề, lại được bố tôi giao làm phụ trong công việc thiết kế kiến trúc hàng
ngày, nên những học trò này nhanh chóng thành nghề cả. Người cậu tôi vốn sáng dạ,
lại được anh rể chỉ bảo thêm, nên trội hẳn lên trong số các học trò. Việc này,
khiến bà ngoại và mẹ tôi mừng lắm. Sau này, cả mấy người học trò của bố tôi,
cùng người cậu tôi không ai bỏ dở, đều theo nghề kiến trúc, trong đó, câu tôi
và một người nữa khá thành đạt, giữ các cượng vị quan trọng ở đơn vị mình làm
việc thuộc nhà nước ta.
Chuyện mẹ tôi, sống trong căn nhà thuê
ở phố huyện lị, buôn bán hàng vải chạy Hà Nội-Hải Phòng. Giữ lễ nghĩa, hiếu
kính mẹ chồng, tháng đôi lần, mẹ tôi về thăm bà nội tôi ở quê. Khi ấy, mẹ già
tôi mất đã mấy năm, ở cùng với bà nội tôi ở quê có chị Nguyên, con mẹ già, và
chị gái nuôi. Chị gái nuôi là con nuôi của bố và mẹ già tôi, quê gốc ở Thái
Bình, nạn đói năm Ất Dậu 1945, lưu lạc đến vùng quê tôi, và được nhận làm con
nuôi trong nhà. Chuyện về mẹ già tôi mất ra sao và chuyện nhận chị gái nuôi
này, tôi sẽ kể sau,...
26.
Cuối năm 1964, sau khi Mỹ gây hấn ở Vịnh Bắc Bộ bằng
cách vu vạ cho ta bắn trọng thương chiến
hạm Ma-đốc, lấy cớ gây chiến để đưa không quân ra bắn phá miền Bắc, ta có một
cuộc vận động lớn nhằm giảm dân số ở thủ đô. Bố tôi đi làm ở công sở, khi ấy là
Bộ Kiến trúc, không thấy ai ở cớ quan nói gì, nhưng tối tối, cán bộ khu phố lại
mò đến tận nhà, giảng giải này nọ, rằng cuộc chiến sẽ rất ác liệt, khó tránh
khỏi bom đạn đổ nát, thương vong, nên để tránh những mất mát không cần thiết,
nhà nước ta mở cuộc vận động sâu rộng, đề nghị các gia đình đang sinh sống ở
thủ đô, nếu có quê hương bản quán ở đâu, thì hãy đăng ký trờ về quê nhà sinh
sống... Họ đi lại, vận động nhiều lần như thế, kín đáo, rỉ rả, song quyết liệt.
Biết là khó tránh, nhất là khi ấy, gia đình tôi thuộc diện bị xem là “thành phần không trong sạch”, tốt nhất
là đăng ký trở về quê cho yên thân mọi bề. Hơn chục hộ sống trong ngôi nhà
chung ... ở ngõ Trúc Lạc ngày ấy, quá nửa là từ quê ra, nên rốt cuộc đều đăng
ký về quê cả. Sau này, nhìn nhận lại sự việc ấy, phần đông cho rằng đây là một
cuộc vận động chiến lược, thực hiện chính sách thời chiến, giống như Liên Xô
trong chiến tranh thế giới thứi 2, nhằm đảm bảo an toàn cho dân chúng. Nhưng
cũng có ý kiến sắc bén và nhạy cảm hơn, thì đánh giá, bên cạnh ý nghĩa tích cực
đó, còn có một khía cạnh kín đáo, mà ngày đó, không ai nghĩ đến, hoặc giả có
nghĩ đến thì cũng chẳng ai dám nói ra, ấy là, khi các gia đình chuyển về quê
hương sinh sống, phần nhà cửa họ để lại thủ đô, được lấy phân cho các gia đình
thuộc thành phần đi kháng chiến về hoặc những người có công với cách mạng, dọn
đến ở. Chuyện tranh chấp nhà cửa giữa những gia đình phải về quê, không sống
nổi, dăm ba năm sau quay trở lại thủ đô với những gia đình được chính quyền
phân đến tiếp quản ở, trờ thành câu chuyện dài kỳ với âm hưởng buồn dai dẳng
mãi về sau. Biết là vậy, chẳng rõ đúng sai, mà cũng đâu có ai phân giải chính
sách này?... Ngay căn nhà cũ, gia đình tôi sống trước đây, được cấp ngay cho
một gia đình khác, một ông thợ làm khuôn đúc đồng lành nghề đến độ được phong
nghệ nhân đợt đầu tiên, và ngày ấy, ông này có hai con trai thì cả hai cùng
nhập ngũ, và một anh chiến đấu dũng cảm, được phong dũng sĩ diệt Mỹ. Vậy là quá
xứng đáng rồi còn gì.
Với gia đính tôi, về quê, đành rằng thế, nhưng về quê
nào? Mẹ tôi, thì nhất nhất là về quê ngoại, bởi vì vườn nhà quê ngoại tôi rộng
những 5 sào, săn đất cho việc dựng nhà ở, và bà ngoại tôi đang sống với người
cậu và di út ở đó, có thể đỡ đần cho gia đình tôi, nơi ấy lại gần đường lớn nên
mẹ tôi có thể kiếm sống bằng nghề buôn bán vặt... Còn bên quê nội, phần đất
được Đội cải cách ruộng đất chia lại cho nhà tôi chỉ là 1 phần 8 diện tích đất
vườn nhà tôi cũ, sau khi Đội đem chia làm 8 phần, lấy 7 phần cấp cho các hộ bần
cố nông ở làng trong cải cách ruộng đất; phần đất này, bố tôi cho chị Nguyên,
con mẹ già tôi, và khi chị Nguyên đi lấy chồng ở xã khác, đã bán đi cầm tiền về
nhà chống coi như của hồi môn; giờ về quê nội, lâm vào cảnh không miếng đất cắm
rùi, đã không chỗ ở, lại chỉ biết bám vào nghề nông, sẽ sống ra sao đây? Thêm
nữa, với mẹ tôi, bà đã chịu đựng cảnh
khổ nhục lúc cải cách ruộng đất, từng chứng kiến cảnh người thân họ hàng nhà
mình, những người mà gia đình mình trước đó từng cưu mang, giúp đỡ, lại nhày
cẫng mà lên gào thét, chửi bới, rủa tả, chỉ thắng mặt bà nội tôi và chị Nguyên,
tố cáo này nọ, bằng những lời điêu toa bậy bạ. Chính mẹ tôi đã bị Đội cải cách
bắt giam ở chuồng trâu nhà khác hàng
chục ngày, cho đến khi bố tôi viết thư gửi Đội cải cách, hứa xin thoái
tô thì mẹ tôi mới được họ thả cho về... Uất ức, nhục nhã vậy, chuyện qua đi
chưa đầy chục năm, giờ lại trở về đây, hàng ngày phải giáp mặt với những khuôn
mặt gớm giếc ngày nào, mẹ tôi làm sao chịu nổi?...
Lý do của mẹ tôi thật chí lý lắm thay, nhưng bố tôi
kiên quyết hơn lý lẽ ấy, rằng người như ông, không thể sống lụy bên nhà vợ,
rằng ông còn có họ hàng làng xóm bên nội đông đúc, rằng ông đã về quê thăm dò,
bên nội tộc khuyên ông và hứa giúp đỡ nếu như chuyển về lại quê nội sinh sống,
kể cả việc sẵn sàng nhường nhà của họ cho gia đình ông mượn ở tạm, trước khi
mua đất ở riêng... Dùng dằng ít lâu, rồi mẹ tôi đành khuất phục. Lý do đơn
giản, thuyền theo lái mà. Khi ấy, tôi còn nhỏ, không biết gì về câu chuyện ấy,
còn bây giờ, tôi nghĩ, trong trường hợp này, bố tôi là người cổ hủ, đành rằng,
ông có cái lý của mình, ấy là lòng tự trọng và sự sĩ diện cá nhân ...
Mẹ tôi miễn cường nghe theo, nhưng không trách gì bố
tôi, bời bản tính bà như vậy và ngay từ nhỏ, được cha mẹ dạy dỗ kỹ lương, bà đã
thấm nhuần đạo lý tòng phu và lòng hiếu thuận. Một khi đã chấp thuận, thì gian
khó mấy cũng không từ nan, kể cả phải cắn răng đến chảy máu, phải dàn dụa nước
mắt vì khổ ải thì cũng chùi đi, chẳng chút phàn nàn. Sự chịu đựng ấy ở mẹ tôi,
sau này tôi đã chứng kiến và theo ngày tháng dần thấu hiểu tấm lòng mẹ thật
nhân từ và bao la không giới hạn ... Khi bố tôi còn sống, gian khổ mấy, mẹ tôi
còn có chỗ bấu vứu, ấy là bản lĩnh và sự cứng cỏi của bố tôi, coi đó là chỗ dựa tinh thần, chứ sau này, khi bố
tôi mất đi, gian khổ còn lắm lắm, bà biết dựa vào ai, khi mà tôi chưa trưởng
thành, còn chị Ngoan đã đi lấy chổng, chị Hạnh học hành còn dang dở? Tôi đọc
sách, hiểu được sự giữ lửa của bậc làm cha mẹ trong các gia đình Việt cổ truyền
từ xa xưa như thế nào. Song đấy là đạo lý, khuôn phép, sách vở thế thôi, còn
trong thực tế, nó muôn hình vạn trạng, chẳng nhà nào giống nhà nào... Sự giữ
lửa ấy, tôi đã thấy ngày ngày trong căn nhà gianh vách đất của gia đình mình ở
quê, qua lời ăn tiếng nói, qua cử chỉ, ứng xử của cha mẹ tôi với nhau, nên càng
thấm thía...
Hàng ngày, biết bao công việc lặt vặt, không đếm xuể
mà cũng chẳng thể nhớ nổi, nhưng có hai thời điểm, để nhận biết “sự giữ lửa” trong mỗi ngôi nhà, mà cụ
thể, là gia đình tôi những năm tháng ở quê. Ấy là, sau mỗi bữa cơm tối đạm bạc,
có đủ các thành viên trong nhà, bố tôi thường là người ăn xong trước, ông ngồi
xỉa răng uống nước, điểm lại vài ba công việc trong ngày và chuyện phiếm cho
tiêu cơm, nhằm gây bầu không khí vui vẻ cho cả nhà sau một ngày vất vả, lao
lực. Khi đám con cái bắt đầu học bài hoặc làm việc riêng của mình, ông ngồi suy
ngẫm thêm chốc lát, trong im lặng, dường như nhẩm tính sắp đặt công việc cho
ngày mai, rồi buông màn đi ngủ trước. Ông được cái tính cái nết, biết gạt bỏ đi
những lo toan, nên hễ đặt lưng xuống chút sau là ngủ, ngáy nhẹ thanh thản, thi
thoảng mệt người mới ngáy to. Bố tôi đi ngủ, là lúc mẹ tôi bắt đầu việc dọn dẹp
và làm lặt vặt các công việc mà ban ngày bận rộn việc mưu sinh, chưa kịp làm,
tỉ như khâu vá, lau chùi... Bà thường là người đi ngủ sau cùng trong nhà, khi đã
thắp lên ngọn đèn dầu hỏa, hãm hạt đỗ để trên bàn thờ, đủ chút ánh sáng trong
nhà... Sớm hôm sau, bố tôi bao giờ cũng là người dạy sớm nhất, chừng lúc 5 giờ
sáng, ông lặng lẽ nhóm bếp, đun nước pha trà, rồi trầm ngâm độc ẩm, như nhẩm
tính các công việc phải làm cho ngày mới, và việc gì phải làm trước, thì ông là
người bắt tay làm, cho đến mẹ tôi là người thứ hai trong nhà thức dậy, tiếp
quản công việc cho ông... Đã nhiều lần như thế, tôi chợt tỉnh giấc vào sớm mai,
khi ngoài trời còn chưa rạng, trong sáng của ngọn đèn dầu hãm nhỏ, tình cở nhìn
cái bóng bố tôi in hình trên vách đất gồ ghề như hình một người khổng lồ lặng
phắc, nhuốm nỗi ưu tư qua dáng ngồi với
đôi vai gù gù và cái lưng còng xuống ...
Và như thế, một ngày mới bắt đầu, khi thấy mẹ tôi trờ
dậy, bố tôi mới vặn bậc đèn cho sáng hơn... Sự giữ lửa cứ vậy trong nhà tôi
ngần ấy năm tháng gian khó truân chuyên...
27.
Về cái sự giữ lửa ấy, thực ra tôi đã chứng kiến bố mẹ
tôi làm hàng ngày từ lâu lắm rồi, nhưng khi ấy tôi còn quá nhỏ, để không thấu
hiểu ý nghĩa sâu xa và cũng rất đỗi giản dị. Với mỗi gia đình bé mọn, thì biểu
tượng của việc giữ lửa là ngọn đèn sáng đêm đêm và bếp lửa cháy bập bùng ngày
đôi ba bận. Song với mỗi làng quê, sự giữ lửa của cả cộng đồng, ấy là các thiết
chế văn hóa như đình, đền, chùa, chợ,... đặc biệt hơn, yếu tố vừa mang tính tự
nhiên, vùa chất chứa văn hóa làng xã, ấy là ao chuôm và dòng sông,...
Với riêng tôi, dấu ấn tự nhiên và văn
hóa làng tác động mạnh mẽ nhất là dòng sông quê. Về lịch sử cội nguồn của dòng
sông này, tôi đã vài ba lần hỏi bố tôi và sau này có điều kiện đọc sách, tôi có
ý tra cứu, tìm kiếm nhưng vẫn mở mịt. Dòng sông không có tên chung, chày qua
vùng nào thì người dân ở đó gọi nó bằng cái tên của làng hay vùng đất nó chảy
qua. Điều này thì không lạ, ngay như những dòng sông lớn ở xứ ta như sông Hồng,
sông Lô, sông Chày cũng mang nhiều cái tên. Con sông quê tôi được lấy tên làng tôi
để gọi. Sở dĩ vậy, bởi mấy thôn xóm ở quê tôi thì làng tôi bám theo cả một
quãng bờ sông dài nhất so với các làng khác. Thậm chí, hình dáng làng và tính
cách dân làng chịu ảnh hưởng từ con sông này...
Bố tôi bảo, cũng chẳng ai biết con
sông này có từ bao giờ, chỉ biết, vào thời Lê Trịnh, có một lần sông được khai
thông mở rộng lòng... Căn cứ vào nguồn chày, sông lấy nước một chiều từ cửa
sông nối với sông Cái-Hồng Hà, còn phần cuối nối vào đâu thì cho đến giờ tôi
không rõ. Nhưng cứ theo hướng cháy mà đồ đoán thì cuối nguồn nó sẽ nối vào sông
Đuống vì con sông Đuống chảy cùng chiều và chỉ cách đó chỉ chừng hơn mươi cây
số. Vả lại với khởi nguồn là chi lưu của
sông Cái cùng cái tên cổ là Thiên Đức, cả vùng đất vốn là quê của bà Ỷ Lan thành nơi hội tụ tập trung đầy đủ ba
yếu tố Thiên Địa Nhân để tạo nên vùng cổ tích. Chiểu theo lịch sử định cư và
phát triển của mấy dòng họ lớn ở làng tôi thì rõ ràng, con sông này đã là nguốn
tưới tiêu đồng ruộng cho vùng đất này mấy trăm năm nay, và đó cũng là lý do để
con người về đây quần tụ, lập thành làng mạc. Ngược dòng lịch sử, căn cứ vào
ngôi chùa cổ Hương Linh được xây dựng vào đầu triều Lý, thì rất có thể, ngày
ấy, con sông này đã là một chi lưu nhỏ của sông Cái, ăn sâu vào vùng đất cổ xưa
thuộc xứ Kinh Bắc, quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan, nên mới được bà chọn đất cho
xây dựng những ngôi chùa đầu tiên nhằm sám hối và giải oan cho bảy mười hai
cung nữ bị sát hại cùng Hoàng hậu Thượng Dương. Một vài căn cứ nữa để suy đoán,
ngày xưa, khi xây dựng các công trình văn hóa, tôn giáo, người ta thường chọn
đất thuận tiện cả về giao thông thủy bộ. Con sông quê tôi, cách sông Đuống quê
bà Ỷ Lan đâu có xa. Bằng chứng, ngôi đền thờ đích bà Linh Nhân Hoàng thái hậu
tức Ỷ Lan còn đến nay cũng nằm kề giữa hai con đường thủy bộ, thuận lợi giao
thương. Vậy nên, rất có thể, ngày xưa, ở vùng này từng có sự kết nói giao thông
để hoàng tộc có thể thăm viếng, hành lễ các chùa chiền lớn. Trải qua mấy thế kỷ
với sự thay đổi các vương triều trị vì, các dòng sông có thể bị cạn dòng hay
được mở mang là tùy vào sự nhìn nhận của kẻ trị vì hoặc quan lại cai trị từng
vùng. Điều này được ghi nhận, ấy là sự mở mang con sông quê tôi dưới thời Hậu
Lê và gần đây nhất là sự kết nối của công trình thủy nông Bắc-Hưng-Hải dưới thời
chính phủ cộng hòa của Cụ Hồ...
Con sông quê tôi, ghi dấu ấn cả tuổi
thơ tôi. Bắt đầu từ chuyến xe cam-nhông chở cả gia tài nhà tôi từ căn nhà hơn
ba chục thước vuông ở ngõ Trúc Lạc, Hà Nội về quê, thực hiện chính sách thủ đô
thời chiến tranh. Đia điểm chiếc xe cam-nhông đỗ, để dỡ đồ đạc của nhà tôi
xuống là bờ sông bên kia làng, nơi ngã ba con dường liên huyện, liên tình đi
Bắc Ninh ngày ấy. Người nhà, họ hàng bên nội tôi lục tục khuân vác đồ dùng cho
nhà tôi qua chiếc cấu bắc qua sông để vào làng. Mặc dù đoạn sông nơi có chiếc
cầu được thu hẹp lại quá nửa, song với mấy chị em chúng tôi, vượt qua nó đã là
một thử thách đầu tiên cho cuộc sống ở quê. Chị Hạnh bạo dạn theo chân mẹ tôi
qua cầu trước. Còn chị Ngoan thì líu ríu nắm tay đẻ bố tôi dắt trong khi ông
cõng tôi trên lưng. Cây cầu được bắc bằng mấy thanh tà-vẹt đường sắt cũ ghép
liền nhau, nên khi đi dến giữa cầu, người đi cảm nhận được mặt cầu khẽ nhún
nhẩy, ai nhát thì dễ sợ... Chiếc cầu ấy còn tồn tại đến vài chục năm sau. Chính
chị Hạnh đã từng một lần phóng xe đạp qua, loạng quạng tay lái thế nào, ngã cả
người và xe xuống sông. May vào mùa sông cạn gần đáy nên lóp ngọt bò lên được.
Đấy là đận chị Hạnh hú vía. Mãi sau này, mỗi lên về quê, qua lại cây cầu này đã
được đổ bê-tông, chị vẫn cười nhắc lại chuyện cũ...
Những ngày sống ở quê, dòng sông mùa
đục mùa trong, mùa nước đổ đầy ắp phù sa, mùa sông cạn gần đáy, sông đều gắn
quện với đời sống mỗi người dân làng tôi. Trong số mấy chị em tôi, chị Ngoan
nhát nước hơn cả. Chị đã suýt đuối nước nơi cầu sông ngay cửa đình làng. Ấy một
lần, vào mùa cấy, chập tối đi làm đồng về. chị Ngoan xuống cầu sông, tháo
xà-cạp, rửa chân tay, thì không may, bước hụp chân, ngã nhào ra ngoài xa. Không
biết bơi, chị chới với ngụp xuống nhô lên, vừa may có một chị người làng bơi
giỏi nhìn thấy, vội ào ra, nắm tóc chị Ngoan lôi lên bậc cao. Uống mấy ngụm
nước sông nhưng chị Ngoan thoát chết. Tởn đến già.
Với riêng tôi, cầu sông nơi của đình
làng để lại nhiều kỷ niệm. Hai bên cầu gạch này, có mấy cây đa già cỗi, và một
cây bàng. Cây bàng thì lá xanh lá đỏ báo
hiệu các mùa, còn mấy cội đa già, buông xuống mặt sông những chùm rễ dài, còn
phần gốc thì các rễ nhánh quềnh quàng non nửa ăn ngầm bờ xuống đáy sông, cho
thấy vẻ cổ xưa của làng quê. Tôi và những đứa trẻ con tập bơi, cứ bám chặt vào
đám rễ ngầm đập chân quạt nước thì thõm. Trộm vía, tôi cũng có lần dại dột bắt
chuồn chuồn cho cắn rốn để biết bơi, nhưng chỉ thấy đau điếng, chứ đâu biết
bơi. Thế nhưng, sau vài ba lần bị mấy đứa trẻ con nghịch ngợm lặn xuống ngầm
nắm chân tôi kéo mạnh ra xa, tôi tuột tay, bị kéo ra xa, uống mấy hớp nước,
cuống cuồng đập chân quẫy tay nhoài vào bờ. Vậy là bơi được.
Và một lần, khi tôi vào tuổi dậy thì,
gặp nỗi buồn riêng tư của buổi đầu biết đến tình cảm luyến ái nam nữ, tôi đã
bơi sang bờ sông bên kia, rồi lại bơi về. Vô tình, tôi đã cứu sống một người.
Đúng ra, sự xuất hiện bất ngờ của tôi, khiến người ấy đang định quyên sinh,
chợt tỉnh ngộ và từ bỏ ý định tiêu cực. Người tôi vô tình cứu sống ấy là một
thiếu phụ, xét thứ bậc là vai trên trong họ hàng nhà tôi. Người thiếu phụ ấy
sớm góa chồng, khi đó mới ngoài ba mươi tuổi, có vẻ đẹp mặn mà chín mọng. Phải
nuôi con nhỏ, và sống chung với bà mẹ chồng khó tính lắm điều, quanh năm suốt
tháng giữ gian con dâu cho hồn ma của con trai, thiếu phụ đó luôn biết nén
mình, kín đáo để giữ gìn tiết hạnh. Song vẻ mặn mà và khát vọng yêu đương vẫn
toát ra bên ngoài, gây sức hút cho đám đàn ông, trai làng từ bậc cao tuổi đến
đám gà trống choai mới lớn. Đêm ấy, sân đình có chiếu chèo, diễn tích Quan âm Thị Kính. Thiếu phụ ấy, sợ mẹ
chồng này nọ, nào dám ra xem, mặc dù nhà chỉ cách sân đình một quãng. Đang thì
thụp giã gạo một mình, chợt có bóng người lẻn đến ôm chầm từ sau lưng. Thiếu
phụ vùng ra, gỡ tay và kêu lên. Bà mẹ chống từ trong ra, thấy động ngó ra thì
thấy bóng một người đàn ông chạy vụt ngang sân ra ngõ. Bà này bám theo nhưng
bóng đen ấy chạy nhanh về phía sân đình và mất hút trong đám đông đang xem
chèo. Bà ta tức giận, quay về nhà, trút giận lên đầu con dâu. Thiếu phụ ấy có
giãi bày thế nào cũng không được, trong khí bà mẹ chồng nhiếc móc thậm tệ bằng
những lời lẽ dân gian gớm ghiếc đầy tục tĩu... Uất hận mất khôn, thiếu phụ đã
lẳng lặng ra cầu sông với ý định trầm mình tự vẫn. Vừa lúc ấy, tôi từ bờ sông
bên kia lặng lẽ bơi về. Trong ánh sáng chập chờn từ chiếc đèn măng-xông nơi đám
diễn chèo sân đình hắt ra, tôi nhận thấy có người đang xuống dần từng bậc cầu
sông. Bơi vào gấn đến nơi, cũng là lúc người đó nước đã ngập đến cổ. Chỉ một
cái nhoài ra, rất có thể, tôi chẳng thể cứu nổi. Thấy có người bơi vào, người
đó sững lại. Tôi cũng chỉ nghĩ ai đó tắm đêm, vậy thôi, nên cất tiếng hỏi. Rồi
hai bên nhận ra nhau, chào hỏi chiếu lệ vài câu. Thiếu phụ ấp úng nói chẳng
thành câu, rồi bỏ mặc tôi, cứ thế quần áo sũng nước trở lên, về nhà. Vài ngày
sau, chuyện vỡ lở, người làng cũng biết chuyện thiếu phụ bị quấy rối, và người
ta thì thầm với nhau, đồn tên một cậu chàng mới lớn, chùng hơn tôi vài tuổi.
Cho đến khi cậu chàng kia nhập ngũ, chuyện phai nhạt dần, bởi ai cũng nghĩ đến
người ra trận, một đi nhưng khó trở về...
Chuyện tôi tình cờ bắt gặp người thiếu
phụ trong phút giây mệnh hệ đó, thì chỉ có hai người biết với nhau. Cuộc sống
biết cách an ủi và xoa dịu tất cả. Giờ cậu chàng đó đã là một ông già, gia đình
con cháu đề huề, khi từ quân ngũ trờ về lành lặn không sứt mẻ gì sau cuộc
chiến, lấy vợ sinh con. Còn người thiếu phụ bề trên của tôi, đã giữ nguyên tiết
hạnh, đến tuổi già và bệt giường mấy năm nay rồi...
28.
Trở lại chuyện học hành của chị Hạnh và tôi.
Chị Hạnh xét về học hành thì có vẻ
không trội như chị Ngoan và tôi, khi chị chưa bao giờ đạt thành tích cao để
được đưọc xếp đứng đầu lớp, đầu khối học, thậm chí đầu trường như chị Ngoan và
tôi. Chị cũng chưa bao giờ được chọn vào đội tuyển dự các kỳ thi học sinh giói
cấp huyện, tỉnh như tôi, nhưng thực học khá chắc chắn. Hầu như các môn học đều
từ trung bình đến khá, lên lớp đều và đặc biệt là chị có khả năng lôi kéo người
khác phải theo mình, trong các nhóm nhỏ nhóm to gì thì chị luôn là thủ lĩnh.
Bời vậy, mặc dù phải nghỉ đứt đoạn mất một năm, nhưng khi đi học lại, chị học
theo lớp bình thường y như người học liên tục, và tốt nghiệp cấp II, thi vào
cấp III là đỗ luôn. Trường cấp III huyện duy nhất cách nhà tôi gần chục cây số,
mà nhà lại không có phương tiện xe đạp để chị đi học hàng ngày nên chị phải đi
trọ học, vì vậy, chị không giúp công việc đồng áng gì nữa, toàn bộ do chị Ngoan
đảm nhiệm.
Còn tôi, vào cấp II, trường học vẫn ở
xã, nhưng quãng đường xa gấp đôi. Tôi nhớ, buổi đầu tiên đi tập trung tại
trường cấp II, mấy đứa học sinh thì thầm bảo nhau, bố mẹ chúng vừa nghe Đài
Tiếng nói Việt
Lễ truy điệu Bác được chính quyền xã
tổ chức, ông chủ tịch xã kêu gọi người dân “biến
đau thương thành hành động cách mạng”, hăng hái xây dựng miền Bắc thành hậu
phương vững chắc, xứng đáng là thành trì xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng chi viện
cho miền Nam tuyến đầu tổ quốc, đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào. Mọi người
khóc nấc, thương tiếc Bác bao nhiêu thì căm thù giặc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
bấy nhiêu. Ở trường học, lễ khai giảng
năm học mới cũng vậy. Thầy hiệu trưởng hô hào học sinh hãy gắng học tập tốt,
chăm ngoan xứng đáng là cháu ngoan của Bác, để lớn lên, tiếp bước cha anh, trở thành
người có ích cho đất nước. Không những thế, thầy hiệu trưởng còn thuộc và nhắc
lại một số đoạn trong lời phát biểu của Tổng bí thư Lê Duẩn tại lễ truy điệu
Bác ở quảng trường Ba Đình. Phải nói, làng quê tôi ở vào thời điểm ấy, bầu
không khí chộn rộn giữa niềm tiếc thương Bác vô hạn với sự hừng hực cách mạng
lan tỏa từ lời hiệu triệu của vị Tống bí thư. Phần đông người dân tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhất là sau cuộc tổng tiến công
mùa xuân Mậu Thân 1968 thắng lợi. Song cũng có chút gì đó lo lắng, khi có người
bày tỏ rằng, Bác mất đi như vậy, là mất người chèo lái vĩ đại, dẫn dắt con
thuyền cách mạng trong giông tố chiến tranh, liệu rồi có sớm cặp bến? Có sự lo
lắng vậy, là bởi, có thông tin rò rỉ, từ phía đài địch, rằng cuộc tổng tiến
công xuân Mậu Thân không thực sự thắng lớn như đài báo ta loan tin, mà quân ta
cũng thiệt hại khá lớn về lực lượng và mất nhiều cơ sở cách mạng bí mật trong
lòng địch. Điều này, cũng cho thấy, Mỹ Ngụy vẫn khá mạnh và chúng đã cảnh giác.
Sự lo ngạt ấy, it nhiều có cơ sở, khi lác đác có những trai làng nhập ngũ trở
về địa phương thành thương binh, rồi số giấy báo tử cũng tăng lên, cùng đó là
các cuộc gọi nam thanh niên khám nghĩa vụ quân sự... Người ta bảo, chiến trường
đang thiếu quân lắm...
Khi nghe mấy đứa bạn học cùng lớp là
con cán bộ thôn xã rỉ tai nhau như vậy, có lần tôi hỏi bố tôi chuyện ấy, thì
ông trầm ngâm không nói gì. Hồi lâu, ông dặn tôi, đại ý là tôi còn bé, chưa
hiểu gì, cấm được chuyện trò bép xép về những chuyện chiến tranh, về việc của
người lớn, mà chỉ nên tập tục học cho giỏi, tranh thủ giúp việc gia đình.
Tôi nghe lời bố tôi, học hành chăm chỉ
và nhanh chóng trờ thành người đứng đầu lớp, đầu khối học của mình. Cuối mỗi
năm học, tôi đều được tặng giấy khen về thành tích học tập xuất sắc. Tôi cũng
tranh thủ thời gian giúp bố mẹ một vài khâu trong việc làm mì gạo, hoặc chăn
trâu mỗi khi nhà có phiên trâu. Tôi đặc biệt ham đọc sách, ngốn sách nhanh như
trâu bò đói được ăn cỏ tươi. Sau khi mấy khoa của Trưởng đại học Tổng hợp
chuyển về Hà Nội, thì đến lượt trường Chính trị gì đó sơ tán về. Thế là, hầu
như kho tư liệu sách vở của nhà trường được chuyển về cho sinh viên đọc, những
gì là tác phẩm văn học, hầu như đều qua tay tôi hết. Vậy làm sao tôi chỉ là một
cậu học sinh cấp hai bé tẹo lại có thể mượn được các tác phẩm văm học chứ danh
thuộc kho tàng văn học Nga, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp và một số nước thuộc phe
Xã hội chủ nghĩa khác như Đông Đức,
Vậy là tôi đã sớm có được cơ hội tiếp
cận các tác phẩm văn học, lịch sử từ nhỏ một cách may mắn vậy. Tuy nhiên, các
chàng sinh viên lai vãng nhà tôi, sau đó, không hiểu vô tình hay hữu ý, đã mang
phiền hà, rắc rối cho gia đình tôi...
29.
Như tôi đã kể, các chàng sinh viên hay
lai vãng nhà tôi chơi, thăm nom này nọ. Lấy tiếng là được nói chuyện với bố
tôi, một người có sự hiểu biết Đông Tây kim cổ, được xem là bậc nhất trong
vùng, thêm nữa, bố tôi vốn nghiện trà, nên thường có trà dùng hàng ngày, dù chỉ
loại Thanh Hương rẻ tiền giá ba hào hai xu một gói, thì khi họ đến đây cũng như
là được thưởng trà đàm đạo việc đời...
Ngày trước bố tôi nghiện thuốc phiện nặng, chơi bời cô
đầu con hát đủ cả. Nhưng sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, kế đó là giảm tô,
cải cách, bố tôi đi làm cho nhà nước, ngày đó là Bộ Kiến trúc, nên ông bỏ cả.
Sau này, chỉ còn nghiện trà và thuốc lào. Cả khâu tài chính và chế độ xã hội
mới không cho phép bố tôi nghiện những thứ xa xỉ và bị coi là đồi trụy ấy. Sở
dĩ, hồi ấy bố tôi kiên quyết bỏ mấy thứ nghiện đó là ông hiểu, sau cải cách
ruộng đất, của nả, tài sản, đất đai, ruộng vườn bị tịch thu đêm chia cho dân
nghèo hết, ông trở thành dân nghèo. Việc tài sản bao năm trời tích lũy mất
sạch, còn có nguyên cở khác. Số là, trước đấy, vào năm 54, phong trào di cư vào
Nam rầm rộ, bố tôi đã bị một người bạn thân lừa một khoản tiền lớn, ấy là khoản
tiền đặt cọc mua một miếng đất rộng ở Cống Trắng, Khâm Thiên. Người bạn này nói
là được mẹ mình cho một miếng đất, cần bán đi lấy tiền tiêu, gạ bán cho bố tôi
chỗ đất đó, và để mua nó, ông đã phải đặt cọc một khoản tiền giá trị bằng một
phần ba. Tin bạn, cọc tiền, cầm tờ biên nhận viết tay, đợi ngày lấy đất và trả
nốt tiền. Chờ lâu, không thấy, đến nhà bạn thì ông này bỏ trốn xuống Hải Phòng
lên tàu há mồm di cư vào
Ngày đó, tôi nhớ, làng xóm chẳng có ai
đặt mua báo chí gì. Đài thu thanh thì chỉ mấy vị cán bộ xã, hợp tác xã, cán bộ
làng là được mua đài theo giá phân phối thì phải. Vậy mà, bố tôi lại đặt mua
hẳn họa báo, xen kẽ hàng năm hai loại Liên Xô và Trung Quốc. Thế là oách chứ
gì. Việc đặt mua họa báo này, làng xóm cũng ít nhiều xì xào rằng lấy tiền đâu
ra mà mua. Bố tôi giải thích cho mấy mẹ con về cái sự được cho là tiêu xài sang
ấy, tiếng là có chút tốn kém nhưng công dụng lại nhất cử lương tiện, rất chi hữu
ích. Họa báo nước ngoài có nhiều ảnh đẹp, giấy tốt, bóng láng và rất dai, nên
sau khi xem nội dung chán chê, thì mang ra cho chúng tôi bọc sách, còn những
trang có ảnh đẹp thì mang dán, hoặc đóng đinh căng lên tường nhà, che đi mặt
tường đất, vách rơm bùn lồi lõm, như thế vừa sạch đẹp, lại sáng nhà. Bố tôi có
lần hài hước cười bảo, tốn chút tiền mua họa báo, nhưng được những ba mươi sáu cái tiện thể, nên cũng đáng
lắm.
Nhờ xem họa báo nên ngồi xó bếp quê,
cũng ít nhiều hiểu được phe ta, tức là phe Xã hội chủ nghĩa ấy tiến lên nhường
nào, dưới sự dẫn dắt của hai quốc gia được xem là cường quốc khi ấy, Liên Xô và
Trung Quốc... Cứ thấy họ tiến lên không ngừng mà lòng hân hoan. Liên Xô thì sau
sự kiện đưa tàu vũ trụ lên cung trăng, rồi là chó Lai-ca, tiếp đến các anh hùng
Gagarin, Titov..., vượt mặt cả Mỹ, chinh phục Mặt Trăng rồi thì sẽ chinh phục
các hành tinh xa xôi khác là sao Hỏa, sao Kim, hùng mạnh là thế, nào ai dám bì.
Còn Trung Quốc thì tiến hành cách mạng văn hóa, phen này tiến bộ phải biết...
Cùng với những chuyển biến cũa xã hội Trung Quốc, những mưu toan chính trị của
họ thế nào không rõ, chứ chuyển biến về văn hóa nghệ thuật thì dễ nhận biết.
Tôi nhớ, ngày ấy, Trung Quốc ca ngợi vở Kinh kịch Chuyện chiếc đèn đỏ lăm
lắm. Không biết nội dung vở Kinh kịch thế nào, nhưng tác giả của nó là Giang
Thanh, phu nhân của Chủ tịch Mao Trạch Đông, một nhân vật cấp tiến của Đảng
cộng sản Trung Quốc thời ấy, đã đủ làm cho vở kịch nổi tiếng lắm rồi. Những
hình ảnh trích đoạn từ vở Kinh kịch này trên họa báo khá rực rỡ, rất ấn tượng,
nhất là hàng ngày chúng luôn đập vào mắt chị em tôi, vì các trang họa báo có
những hình ảnh đó được chúng tôi căng dán đầy dán tường nhà.
Với nhà tôi, việc ấy là bình thường có
ai để ý chi đâu. Nhưng rồi một hôm, bỗng có mấy người lạ được một vị công an
viên của xã dẫn đến nhà tôi. Sau tuần trà xã giao, họ hỏi bố tôi tại sao lại
dán đầy nhà những hình ảnh này, rồi họ lại hỏi có biết chuyện gì xảy ra ở Trung
Quốc không, và biết gì về mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không? ... Đại
loại là thế. Chuyện người lớn, tôi nghe lỏm, lõm bõm là vậy, nhưng sau đó bố
tôi kể lại thì mọi người trong nhà mới rõ hơn về câu chuyện hôm đó. Đại ý, bố
tôi bảo, ông nói là không quan tâm và không biết gì về những chuyện ấy; rằng
ông chỉ biết về cuộc kháng chiến chống Mỹ Ngụy của nước ta có nhiều gian khổ hy
sinh nhưng đang trên đà thắng lợi; rằng việc dán những trang họa báo trong nhà
chỉ là thấy hình ảnh đẹp, vừa làm tranh trang trí vừa sạch tường nhà, vừa dùng
cho trẻ con bạc sách vở, vậy thôi. Để chứng mình cho việc sử dụng họa báo vô tư
như đã nói, bố tôi còn lôi cả chồng sách vở của chúng tôi ra đưa cho xem, cho
thấy việc dùng chúng bọc sách vở là để giữ gìn cho sách sạch đẹp là thật. Căn
vặn một hồi, rồi họ đi, không nói rõ nguyên cớ và mục đích của cuộc kiểm tra
này ra sao. Tuy nhiên, qua vài câu nói chung chung về tình hình thế giới và sự
tương quan giữa các phe của họ, bố tôi có thể suy đoán được là tại sao lại có
cuộc thăm nhà đột ngột này, và ông cũng biết, ai trong số những chàng sinh viên
hay là cà đến nhà tôi chơi để tán tỉnh hai chị gái tôi, là thủ phạm việc mật
báo cho lực lượng an ninh đến kiểm tra nhà tôi...
Sau đận ấy, bố tôi thôi không đặt họa
báo nữa. Những trang họa báo nước ngoài Trung Quốc, Liên Xô bị gỡ bỏ hết, kệ
cho những bức tường nhà đất nện và vách rơm bùn phô mặt nham nhở. Tuy nhiên,
tường đất nhà nứt toác nhiều, mỗi mùa đông gió lùa vào nhà rất lạnh, nên chúng tôi lại phải vo những giấy vở học sinh
đã dùng qua năm học nhét kín vào kẽ hở ngăn gió lùa...
Những năm sau, khi bố tôi đã mất, cả
đất nước Trung Quốc rộng lớn chuyển động kinh hồn khi ông Mao Trạch Đông qua
đời, các nhân vật tối cao của Trung Quốc đã bày mưu tình kế để lật đổ sự tiếm
quyền của “bè lũ bốn tên” là Giang
Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên, đặc biệt là Giang
Thanh, kẻ cầm đầu. Từ đó, vỡ lẽ mà suy ra, rất có thể ngày ấy, bên ta đã ít
nhiều nhận thức được nguy cơ ấn giấu trong sự chuyển biến này của họ, mà sớm đề
phòng, cảnh giác...
30.
Thực ra, bố tôi đã quá quen với sự
tráo trở của con người, ông từng nhiều lần ngậm đắng nuốt cay khi bị người ta
vu oan giá họa này nọ. Chỉ trong vòng vài chục năm thôi, ông đã phải hứng chịu
nhiều tai họa mà phần lớn là do sự dối trá và tráo trở của người đời, trong có
có những người thân, họ hàng của ông gây nên...
Sự nghiệp làm giàu của bố tôi khá
thuận lợi. Sau khi dứt áo ra đi khỏi mảnh đất Hải Phòng, với việc từ chối trở
thành con rể của ông chủ thầu xây dựng giàu có nhất mực ở đất Cảng, bố tôi về
quê cưới vợ theo sự xếp đặt của bà nội tôi. Mẹ già tôi, tức bà Lĩnh, về làm dâu
nhà tôi, kèm theo của hồi môn mẫu ruộng tốt, cùng với số ruộng cũ của bà nội
tôi, nên việc nông gia cũng dư dả. Bố tôi ra Hà Nội nhận làm thuê cho người
thầy dạy nghề đồng thời cũng là ông chủ thầu xây dựng lẫy lừng của Hà thành nên
lương bổng khá khẩm. Bố tôi là người có chí, không muốn cam phận làm thuê mãi,
nên tích cóp tiền bạc, đưa về nhà cho bà nội tôi tậu têm ruộng, mua trương đất
ở. Mặc dù, bố tôi cũng đua chân vào chốn ăn chơi, cô đầu, thuốc phiện, nhưng so
với tiền bạc kiếm được không đáng bao nhiêu, nên chỉ dăm bảy năm, bố tôi đã
khởi công việc xây dựng ngôi biệt thự kiểu Pháp ở quê. Do thiếu thốn vật liệu,
đặc biệt là gỗ tốt để làm sàn nên ngôi biệt thự làm hơn bốn năm mới cơ bản hoàn
thành.
Có nhà mới bề thế ở quê, bố tôi bớt
chuyện chơi bời cao lâu, cô đầu, hay về quê hơn. Thời buổi tao loạn, chiến
tranh ở Tây, còn ở ta thì xảy nạn đói năm Ất Dậu. Thiên hạ mất mùa chết đói chứ
đâu đến nhà giàu. Nghe nói đận ấy, bố tôi cũng căn dặn bà nội tôi ở nhà, họ
hàng người làng, nhà nảo túng thiếu thì cứ lấy thóc nhà ra đỡ đần trước đã rồi
tính sau. Bà nội tôi bản tính cận thận tằn tiện, đành bấm bụng nghe theo. Thóc
bổ thóc cót xuất ra cả tần cho mọi người dật tạm cầm chừng chống đói. Cũng
chính năm ấy, ở nhà bà nội tôi nhận nuôi nấng những mấy người, trong đó có chị
Gái.
Nhật đảo chính Pháp. Rồi cách mạng
tháng Tám nổ ra, nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Chính phủ Cụ Hồ ra mắt
quốc dân đồng bào. Để hình thành bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa
phương, Cụ Hồ kêu gọi phàm là trí thức, người có trình độ hiểu biết hãy ra mắt
ứng nhận các chức vụ trong hệ thống chính quyền. Bố tôi cũng nghe theo lời kêu
gọi ấy, trở về quê đảm nhận chức vụ chủ tịch xã lâm thời đầu tiên. Sau này, bổ
tôi có kể lại chuyện ấy cho mẹ tôi và mấy chị em chúng tôi nghe, nhưng tôi
không nhớ nổi rằng thời gian làm chủ tịch xã của chính phủ lâm thời ấy, ông đã
làm được những gì. Thời sơ khai ấy, ngoài việc giữ chính quyền, thì giặc đói,
giặc dốt là chính. Ngay nội bộ, thống nhất cách làm việc với những vị cán bộ
cách mạng nhưng ít học nghĩ sao làm vậy cũng là khó khăn lắm rồi. Bố tôi vốn
tinh quyết đoán, lại thêm phấn gia trưởng bởi ảnh hưởng tinh thân Nho giáo thâm
căn mấy đời, con trai trong gia tộc phải đứng mũi chịu sào, quyết sách việc lớn
trong họ, trong nhà, nên trong công việc chính quyền ông cũng đem lối suy nghĩ
ấy mà ứng xử trong công việc chung. Ông không quen việc mang ra bàn bạc dân chủ
tập thể, nhất là khi mấy vị cán bộ người xã cùng làm việc, vừa thiếu kiến thức,
thiếu hiểu biết lại kề rề, thích bàn ngang, rách việc. Thế là sinh mâu thuẫn.
Mà một khi đã mâu thuẫn thì phiền và gay rồi. Việc mình quyết có đùng thì không
sao, chứ khi sai hay lệch chút thôi liền bị người ta xúm vào đổ lỗi, bảo mình
độc đoán chuyên quyền. Bố tôi bảo, ngày ấy, dẫu trong lòng đấy nhiệt huyết,
muốn đem sự hiểu biết và chút công sức để xây dụng chính quyền lâm thời ra dáng
vẻ, chững chạc, tạo nền móng nền nếp cho sau này cũng thật khó. Ông đã tính xin
thôi nhưng cấp trên lại động viên nên cố.
Ngày ấy, nghe bố tôi kể lại chuyện,
tôi có hỏi ông đôi ba điều này nọ, thì ông bảo, ông không hề ân hận vì những gì
mình đã làm cho chính quyền xã nhà thời kỳ chính phủ lâm thời của cụ Hồ. Trước
đấy, ông học hành, gắng sức lập thân lập nghiệp và cũng đã trở thành người nổi
tiếng và giàu có trong vùng, nhưng sự nỗ lực ấy là cho bản thân mình và người
thân trong gia đình mình thôi. Đằng này, mọi việc ông gắng sức là cho cộng
đồng, xã hội và sự nghiệp chung vì một nền độc lập dân tộc và tiến bộ của nước
nhà.
Sau này, bố tôi khẳng định như vậy là
ông thật lòng, bởi cũng chính vì việc quyết định tham chính hồi ầy đã cuốn cuộc
đời ông sang một ngả khác với con đường mà ngày trẻ ông đã chọn là lập thân làm
giàu, cho dù tiếp ngay đấy, ông bị mất mát, gia đình mấy người bị thiệt thân,
khiến ông phải nửa đường đứt gánh...
Mùa đông năm 1946, Pháp quyết xâm lược
Việt Nam một lần nữa, chính phủ cụ Hổ, nhà nước dân chủ cộng hòa non trẻ đầu
tiên ở Đông Nam Á có nguy cơ tan vỡ, nên đành phải rời bỏ thủ đô Hà Nội lên
Việt Bắc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bố tôi theo kháng chiến, mang hai con
đi tản cư lên phố Thắng thuộc Bắc Giang, khi đó là cửa ngõ của an toàn khu, của
thủ đô kháng chiến theo chính sách thời chiên. Ở quê chỉ còn bà nội và mẹ già
tôi cầm chừng trông nom nhà cửa, ruộng vườn...
Bố tôi, từ khi được sinh ra, tiếng con
nhà nông, nhung nặng chất Nho giáo, không giàu có nhưng cũng không đên nỗi
thiếu ăn. Nhà có hai chị em, bao phần việc nhà nông thì mẹ và chị gái làm hết,
nên ngày nhỏ, ông chị quanh quẩn việc vặt trong nhà và theo nghiệp đèn sách,
học chữ Nho do ông nội tôi truyền dạy. Lớn lên chút, bỏ chữ Nho ra Hà Nội học
chữ quốc ngữ, học tiếng Pháp và học nghề kiến trúc, có vất vả chút nhưng vẫn
được gia đình chu cấp đầy đủ, nên chưa phải kham khổ gian nan bao giờ, Khi
thành nghề, thành danh thì kiếm được nhiều tiền, nhanh chòng giàu có, lại nhiễm
thêm thói ăn chơi, cô đầu nhà hát, hút xách, sướng quen thân. Bỏ nhà đi kháng
chiến, dẫu mới tới Phố Thằng, cửa ngõ vùng kháng chiến thôi thi cũng là gian
khổ thiếu thốn đủ thứ rồi. Chặng đường kháng chiến dài lâu và chỉ mới bắt đầu,
vậy mà bố tôi đã mất sạch, dẫu chưa đến mức trắng tay, thì những gì gọi là quý
giá yêu thương nhất với ông, ấy là vợ con, đều lần lượt theo nhau mà đi mãi
mãi…
Thử hỏi, người chưa quen chịu khổ ải
đau thương như ông, làm sao mà chịu đựng
nổi những mất mát to lớn ấy,…
31.

Nhận xét
Đăng nhận xét