GIAN TRUÂN NGHỀ BÁO NGHIỆP VĂN (bản thảo)


 

 


Gian truân

NGHỀ BÁO NGHIỆP VĂN

Chân dung văn

 

 

Tôi & tôi

(Thay lời mở sách)

 

                    Trước hết, về tác giả cuôn sách này.

                   Tôi về nhận việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam, theo quyết định tiếp nhận số 156 TC/ĐFT ngày mồng 7 tháng 10 năm 1987, do Tổng biên tập Trần Lâm ký. Dịp ấy, tôi chỉ là một trong số 5 người được Đài tuyển dụng, cùng đó, có Nguyễn Trọng Huân, Lê Vũ Huyền My, Nguyễn Điệp Anh và Nguyễn thị Thu Liên. Trước đấy, tôi đã có gần 7 năm làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (cũ) theo chuyên môn được đào tạo, kỹ sư nông nghiệp. Do phải vào tận An Giang làm thủ tục giấy tờ chuyển công tác nên tôi là người nhận viêc sau cùng, về Ban Thính giả, cùng Nguyễn thị Thu Liên, ái nữ của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi.

                   Năm ấy, bối cảnh nhà Đài có sự thay đổi căn bản. Trước đó, mô hình tổ chức quản lý ngành phát thanh truyền hình ở ta, cao nhất là Ủy ban phát thanh truyền hình Việt Nam. Ủy ban này có nhiệm vụ quản lý nhà nước  hai đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN) và Đài Truyền hình Việt Nam, (Đài THVN) cùng các đài phát thanh truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ủy ban này bị giải thể vào giữa năm 1987, thay vào đó, Bộ Thông tin được thành lập để quản lý nhà nước ngành phát thanh truyền hình và báo chí nói chung. Vậy là, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam độc lập nhau cùng chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Thông tin. Nhà báo Trần Lâm, trước là Chủ nhiệm Ủy ban phát thanh truyền hình Việt Nam, kiêm Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, chỉ còn giữ chức Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam mà thôi. Bộ Thông tin thì nhạc sĩ Trần Hoàn làm bộ trưởng, nhà báo nhà văn Phan Quang làm thứ trưởng, có trụ sở chung với Đài Tiếng nói Việt Nam ở 58 Quán Sứ, Hà Nội. Hơn một năm sau, khoảng cuối năm 1988, ông Trần Lâm nghỉ hưu, ông Phan Quang được điều động và bổ nhiệm từ Thứ trưởng Bộ Thông tin làm Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. Bộ Thông tin rời khỏi 58 Quán Sứ chuyển trụ sở về nhập chung với Bộ Văn hóa trên phố Ngô Quyrnf, Hà Nội.

                   Thời điểm đó, Ban Thính giả , Đài TNVN mới được thành lập, nghe đâu, quyết định thành lập ký ngày 13 tháng 8 năm 1987, nên sau này Ban bị giải tán, anh em trong ban vui miệng nói đùa, rằng lập ban vào “tháng tám ngày ba” thì làm sao mà bền được. Lãnh đạo Ban là nhà báo Đặng Quang Tình, trưởng ban và nhà báo Trần Đức Nuôi (Vĩnh Trà) là cấp phó giúp việc. Sau khoảng dăm năm tồn tại, Ban Thính giả bị giải tán, nhà báo Đặng Quang Tình được điều chuyển làm Trưởng ban Ban Phát thanh Dân tộc mới được lập. Các phòng chức năng của Ban Thính giả chuyển về Ban Thư ký biên tập, lúc này do nhà báo Trần Đức Nuôi làm trưởng ban.

                   Năm 1994, Ban Chuyên đề tách làm đôi, Ban Văn hóa xã hộiBan Kinh tế & Khoa học công nghệ. Phòng phát thanh Tiếp chuyện bạn nghe đài chuyển từ Ban Thư ký biên tập sang Ban Văn hóa xã hội.  Riêng tôi không ở lại phòng cũ mà được phân công về Phòng Tạp chí truyền thanh & Du lịch, rồi sau đó là Phòng Diễn đàn các vấn đề xã hội cùng thuộc ban này. Đầu năm 2001, tôi được bổ nhiệm Phó trưởng ban Văn hóa xã hội, giúp việc cho nhà báo, nhà thơ Nguyễn Huy Dung, trưởng ban. Đến đầu năm 2008, tôi được điều động và bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ quan thường trú khu vực miền Trung, Đài TNVN có văn phòng tại Đà Nẵng. Hai năm sau, năm 2010, tôi được điều động trở lại Hà Mội với cương vị Chánh Văn phòng Đài TNVN. Đầu năm 2012, tôi được bổ nhiệm Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ Đài TNVN. Từ tháng 8 năm 2016 tôi về lại chức danh Chánh Văn phòng Đài cho đến lúc nghỉ hưu, tháng 11 năm 2017.

                   Như vậy, tôi có tròn 30 năm  công tác tại Đài TNVN và hân hạnh được làm việc dưới trướng của các Tổng giám đốc, Trần Lâm, Phan Quang, Trần Mai Hạnh, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Thế Kỷ. Riêng Tổng giám đốc đương nhiệm Đỗ Tiến Sỹ, tôi chỉ được tiếp xúc trong một số cuộc gặp mặt của lãnh đạo Đài TNVN với các cán bộ nghỉ hưu nhân các dịp lễ tết.

          Tập sách “Gian truân nghề báo nghiệp văn” mà bạn đọc có trên tay là dầu sách thứ 29 của tôi. Ở đây, tập hợp các bài viết về những người từng làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam qua các thời kỳ, ấy là các nhà báo có sản phẩm văn chương và các nhà văn, nhà thơ thành danh sống bằng nghề báo. Về cương vị công tác tại Đài, có người là lãnh đạo các cấp, có người là phóng viên, biên tập viên bình thường. Mọi nhân vật trong cuốn sách này đều bình đẳng, nên thứ tự các bài viết tôi xếp theo thông lệ A, B, C…

          Sẽ có bạn đọc, từng làm việc ở Đài hay bạn đọc bên ngoài đặt ra câu hỏi, tại sao lại là những nhân vật này mà không phải là những người khác, thậm chí, người này đáng để viết hơn người kia? … Xin thưa, với mấy ngàn con người từng làm việc ở Đài (VOV) thì tác giả có cố gắng đến bao nhiêu để viết cũng không đặng. Hơn nữa, ở mức độ nào đó cũng có sự chọn lựa, bởi để khắc họa chân dung ai đó thì tác giả phải có đủ độ hiểu biết, đủ tư liệu về con người và tác phẩm của người được khắc họa và quan trọng hơn, phải đủ cả độ thấm, độ thẩm để có thể chuyển hóa tư liệu thành hồn cốt nhân vật,…

          Với những lý do đó, xin bạn đọc tạm bằng lòng cùng tác giả về những nhân vật có mặt trong cuốn sách này. Hy vọng, khi có đủ điều kiện, thời gian tới, tác giả sẽ tiếp tục khắc họa chân dung các nhân vật khác, những con người dưới bóng mái nhà chung Đài Tiếng nói Việt Nam mà tác giả hằng kính trọng, yêu quý!...

          Thêm nữa, tại sao tít bài viết thay cho lời mở sách này lại là “Tôi & tôi”?

          Xin thưa, danh xưng Tôi đầu là cái tôi – tác giả cuốn sách, đồng thời cũng là người dẫn chuyện trong từng bài viết của cuốn sách. Còn danh xưng tôi sau là cái tôi – nhân vật, có nghĩa là tác giả là nhân vật của chính mình, cùng tham gia vào câu chuyện của người được khắc họa trong mỗi bài viết.

          Sau cùng, dù nỗ lực thì vốn tư liệu và sự hiểu biết của tác giả cũng có hạn, nên ai đó cho rằng còn chưa đầy đủ, khiếm khuyết này nọ,  hoặc có sơ suất gì, thì xin được lượng thứ. Tác giả luôn cầu thị và sẵn sàng tiếp thu để chính sửa cho chuẩn chỉ.

          Kính bút!

                  

 

                             Bố bản Đặng Quang Tình

Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.

          Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa, còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người đã có  nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam cả lĩnh vực báo chí và văn chương. Bằng chứng, trong quá khứ, khi còn sung sức, Đặng Quang Tình đã từng bốn lần đoạt giải cao trong các cuộc thi văn chương danh giá ở xứ ta với ba lần ở thể loại truyện ngắn và một lần ở thể loại bút ký mà nội dung các sáng tác này của ông đều về đề tài miền núi dân tộc thiểu số...

 

1.     Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,

 

          Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu tại Đài Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông, đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chẳng hạn. Nghe nói, lâu lắm rồi, Đặng Quang Tình từng có đơn gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam và hiện hồ sơ công tác hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ lý lịch trích ngang của ông. Song hằng năm, mỗi đợt kết nạp, người ta dường như đã quên tên ông thì phải?...

          Đặng Quang Tình không hài lòng về việc này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi. Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn là Hoa rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh v.v...

          Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động 2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và bút pháp văn phong  một nhà văn đã được khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải, đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có, những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của ông lại khá đậm nét...

          Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vậy mà Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó xảy ra cuộc chiến trang biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, Đặng Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật là người Mông, người sống ở vùng rùng núi nước ta. Dù trong thời kỳ nào, làm cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế, chống giặc là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và người các dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh vững vàng, hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước. Ở mảng đề tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở trường của mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính cối  giành giải Ba cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1983).

          Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi, Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống, sự hiểu biết sâu rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến một thuận lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.

Ông quê Vụ Bản, Nam Định, nhưng gia đình ông sống ở Lào, ông được sinh năm 1934 tại Viên-chăn. Khi về nước, ông tham gia quân đội, nhiều năm sống ở vùng miền núi phía Bắc. Chuyển nghề làm báo, ông có nhiều năm là phóng viên của Đài phát thanh Tây Bắc (khi đó thuộc khu tự trị Thái Mèo) đóng tại Sơn La. Khi đài phát thanh này được sáp nhập vào Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thì Đặng Quang Tình tiếp tục theo dõi và quản lý màng nội dung về miền núi, dân tộc thiểu. Việc am tường về một mảng nội dung, cộng thêm sự sâu sát địa bàn, chất nhanh nhậy của một người làm báo, không những giúp cho ông làm tốt công tác quản lý, biên tập mà thêm lần nữa, làm nên thành công trong sáng tác văn học. Nhà văn Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhì cuộc thi viết ký do Hội Nhà báo và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức năm 1995 với bút ký Ba lần lên Sa Dung, thêm phần khẳng định sự sát giải (cứ dự thi là đoạt giải) của ông).

          Thời còn công tác, Đặng Quang Tình viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và mãi nhiều năm sau, khi đã về nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001). Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm, ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông (NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt gió (NXB Hội Nhà văn, 2011) và Âm thầm (NXB Lao Động, 2015), và tập truyện Một thời giông bão (NXB Hội Nhà văn, 2010).

          Ào ạt với một sê-ri tiểu thuyết như vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu không muốn nói là lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều này, có vài ba lý do...

          Trước hết, tự thân, sáng tác các tiểu thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một nhu cầu giải tỏa bản thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn có. Sự thôi thúc viết ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà như thể, nếu ngần ngại hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời... Càm giác ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống, đã trải qua, từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư liệu mình có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân, không giới thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra cho mình,...

          Góc độ khách quan, thời kỳ này, đã có sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng tác văn học nước nhà. Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã tác động mạnh đến thị trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu đọc sách của công chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át sách văn học. Và riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được tái bản tràn lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật không dễ, vì ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các chiêu trò PR này nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng Quang Tình bị lút chìm là đương nhiên.

          Còn một lý do nữa, theo tôi, sở trường của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông chặt chẽ, dồn nén trong việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình và ngôn ngữ hội thoại sắc sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được sang tiểu thuyết,...

 

2. Đặng Quang Tình, nhà báo – bố bản,

         Tháng 10 năm 1987, tôi cầm quyết định về làm biên tập  viên của Ban Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không lâu, ban biên tập Thính giả được thành lập vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dânĐài Tiếng nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp nước, qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu, khiếu nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công dân hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự hiểu biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống bức thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy thỏa mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ nổi nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp thính giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích là sẽ chuyển nội dung đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu không được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều năm làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban luôn nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời ăn tiếng nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một tuần nên thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn định trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên Trưởng ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác. Ấy là trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ thể đưa vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả lời công văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thế,  hiệu quá công việc khá cao. Tôi không thể nhớ nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải quyết bằng cách này trong những tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy năm, rồi được xem xét lại. và được thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau, khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.

          Sau một thời gian ở Ban Thính giả, một ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc nghỉ hưu. Từ ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản, thì người nhà Đài hẩu như ai cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.

         

3. Chuyện vào Hội Nhà văn.

          Nhà văn Đặng Quang Tình có đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam từ thời ông còn làm việc và nổi danh làng văn ta với mấy giải thưởng liên tiếp về truyện ngắn. Nhưng không hiểu sao, danh sách hội viên được kết nạp vào Hội hàng năm không có tên ông. Mỗi khi có ai đó nói với ông về chuyện này, ông đều cười bảo “Nếu không là hội viên mà không viết được văn thì tớ mới buồn... chứ không là hội viên mà tớ vẫn viết đều thì có gì mà buồn...”.  Nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, trong lòng, ít nhiều vẫn gợn lên những suy nghĩ .... Là tôi cứ nghĩ thế, bởi cái tâm trạng “cuời như thầy khóa hỏng thi” vốn thâm căn trong con người ta, nhất là các quốc gia châu Á có bề dày khoa bảng như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và xứ Việt mình,... Miếng giữa làng kia mà!...

          Khi nhà văn Đặng Quang Tình nghỉ hưu, chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng, mùa kết nạp hội viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem ông có vào Hội hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn kia, rằng cái tay ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt này.... Vậy đấy!...

          Lâu rồi không ai nhắc đến ông nữa, xem như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi chẳng mấy ai nhớ đến ông thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam!...

          Số là, cách đây dăm bảy năm, khi nhà thơ Trần Đăng Khoa tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam, đôi ba lần trong câu chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn tên Đặng Quang Tình với nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công tác lâu năm ở Đài này, xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Đăng Khoa gật gù công nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên (2017, 2018), ông có nhắc đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên, trong cuộc họp của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa còn nhắc đến các trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Trần Ngọc Thụ, nhà thơ Nguyễn Huy Dung (cùng người nhà Đài), đã mất, mà đáng ra họ xứng đáng được kết nạp vào Hội khi còn sống...

          Có lẽ vậy, mùa kết nạp năm 2019, nhà văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công nhận là hội viên của Hội bằng quyết định số...  nhưng nhầm tưởng ông đã mất.

          Cuối năm 2020, Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại hội, có tập NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà văn Đăng Quang Tình, khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm tưởng ông đã mất. Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết đâu đấy, nếu biết chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...

 Một hôm ông gọi điện cho tôi với tâm trạng vui vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để làm gì, nhưng thế cũng là sự ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời mình, cậu ạ”. Rồi ông nói về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất khi công nhận ông là hội viên Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến trăm tuổi!...

Nhưng rồi ông cũng rời cõi tạm trước ngưỡng cửa chin mươi  ./.

 

ĐẢO CHÌM CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

CHUYỆN NGOÀI TRUYỆN

 

        I. Những nhân vật của tiểu thuyết Đảo Chìm ngoài đời.

 

          Những chuyện tôi kể sau đây, bắt đầu từ chuyện trên một trang mạng xã hội, Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net) vào đầu năm 2011.

          Khi ấy, tôi (Nguyễn Chu Nhạc, tác giả bài viết này) lập trang cá nhân trên BlogTiếng Việt có tên Ngẫm & Viết. Bài đăng đều đều với phần cảm nhận (comment) của nhiều cư dân mạng. Chẳng có gì đáng nói, đến một ngày (27/2/2011), tôi đăng bài nói về một bài thơ ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa thời học trò có tên “Sắp mưa” theo thể Đường luật, thất ngôn bát cú. Người cảm nhận đông lắm, khen chê đủ kiểu, trong đó có ý kiến khía vào chuyện bài thơ này luật bằng trắc chưa thật chỉnh. Ý chê là đúng. Trong rất nhiều ý kiến ấy, tôi thực sự chú ý đến Bạn đọc (chỉ người không phải là blogger, tức là không lập trang cá nhân với tư cách là bloger) có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn: Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]   28.02.11@20:32/ Tôi đã về hưu mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về Trần Đăng Khoa rất hay, tôi bèn ra quán Nét ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu ghép lại, vần điệu, niêm luật có thể búa xua. Vì thế chẳng nên mang luật thơ ra bàn. Tôi là dân Nga học (Tôi học thuyền trưởng ở Ô-Đe-sa, Nga, cùng Ngô Tự Lập), từng có thơ in trên báo Hải quân nhân dân và báo Văn Nghệ. Tôi cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc của nó và mới thành đỉnh cao thi ca nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ ngày xưa, chúng tôi chỉ gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ  ứng tác. (Tức là thơ đọc ngay tắp lự). Bài thứ nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu kết: "Thuyền trưởng ơi, tiếc là không có rượu/ Ta đã uống đâu mà, sao biển cả đã say/ Để sóng lớn chồm lên muôn ngọn núi/ Nâng tầu ta đi canh giữ nước non này". Chúng tôi sướng những câu thơ ấy lắm. Rất sảng khoái và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm một bài thơ đái trên biển. Cứ sõng thẳng từ trên boong xuống biển. Không ngờ cha Cua Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ tình mà cánh lính biển tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc ngay và nhớ đến tận bây giờ: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn trùng trời nước/ Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả vào biển cả/ Nguồn yêu thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã Cua đồng, và nhắn giùm: Thuyền trưởng Trí vẫn nhớ Khoa, Mong Khoa sớm trở về với biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Đinh thì ghé Trí chơi.”.

          Thật bất ngờ và vui. Bởi từ ý kiến bày tỏ quan điểm về thi ca rất chi là hiện đại và tiến bộ, Trần Trọng Trí còn cho biết ông từng công tác, có mối quen biết cũ với nhà thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là thơ ứng tác của Khoa đầy thú vị. Tôi khoe ông rằng nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có trang cá nhân trên Blog này, có tên Lão Khoa, ông có thể vào đọc, tha hồ nhắn nhe nhau, đồng thời tôi cũng mách với Trần Đăng Khoa về chuyện thuyền Trường Trần Trọng Trí nhắn gửi.  Nhà thơ nhớ ngay người quen cũ, lập tức trả lời: “Bình luận từ: Trần Đăng Khoa [Bạn đọc]   · http://Blogtiengviet.net/Lao Khoa 01.03.11@10:48/ Vài hôm rồi quy quả với mấy việc hệ trọng, bữa nay ghé vào quán lá nhà lão Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được nhiều bạn cũ, người quen cũ, có người đến ba chục năm nay không thấy mặt,... Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có cô con gái rất xinh tên là Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú lính khác, đi đến đâu bác cũng được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính mới té ngửa: "Bố ơi, dạo này con ngoong lắm, không gác chân lên cổ mẹ, mí nữa đêm ngủ con không còn đái dầm nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu thư công nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Chính trị viên Thuận ở cuốn tiểu thuyết mini Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé. Chúc các bác, các bạn luôn gặp điều lành.”...

          Từ bất ngờ này dẫn đến bất ngờ khác, một cựu lính hải quân, cấp dưới của thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã nhận ra thủ trưởng cũ của mình: “Bình luận từ: Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc]   01.03.11@15:24/ Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em nghe bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông Khoa, hóa ra lại gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng sống được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác Khoa còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất thiết thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết thơ lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch ra ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em thích nhất bài thơ Sếp tặng em. Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới cưới. Sếp viết hộ em: "Gửi tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm xuýt mất cu/ Mìn vướng, bom gài, anh đéo sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt cu". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần và vật chất. Mất cái "cần tăng số" thì có đến hàng trăm mét dù, nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn của nả về mà con vợ em nó vẫn đi theo thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ em thay ba vợ rồi. Vợ em hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện nuôi con. Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy.”...

          Điều thú vị nữa, trong phần cảm nhận của bài viết này, nhiều bậc văn-thi sĩ, nhà phê bình văn học và các bậc cao nhân đều vào bàn góp, nhất là kể những giai thoại về tài ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa như Nhật Tuấn, Vu Gia, Đỗ Hoàng, Vũ Cao Đàm,... và có cả những bạn thơ văn thuở thiếu thời của Trần Đăng Khoa là Chu Hống Quý, Nguyễn Việt An cũng nhảy vào đàm luận....

          Thấp thoáng bóng dáng vài ba nhân vật của tiểu tuyết Đảo Chìm, thuyền trưởng Trần Trọng Trí, lính thủy Nguyễn Văn Tròn và còn nữa...  Lẽ dĩ nhiên, tướng Giáp Văn Cương, vị Tư lệnh binh chủng Hải Quân, một nhân vật trung tâm, ông là người tên tuổi nổi tiếng, nhưng tôi không nhắc ở bài viết này, bởi trong tiểu thuyết Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa đã dành cả chương để khắc họa chân dung ông, vả lại ông đã khuất bóng lâu rồi nên hãy để ông yên giấc ngàn thu cùng những huyền thoại xung quanh mình. Ở đây, tôi muốn dành để nói về các nguyên mẫu khác mà nhiều người còn chưa biết họ ngoài đời. Tôi thấy, cũng cần có đôi lời thưa cùng quý bạn đọc, những phần trích từ các nguyên mẫu nhân vật được tôi dẫn trong bài viết này, có thể làm ai đó không hài lòng bởi ngôn từ họ dùng để giao lưu với nhau là thứ ngôn từ đời thường, ít nhiều chất bụi bặm lính tráng, song chúng chân thực đến xót xa và tươi rói sắc màu cuộc sống, nên tôi tôn trọng giữ nguyên... Những mong được  bạn đọc thứ lỗi.

          Và những câu chuyện ngoài truyện của Đảo Chìm bắt đầu từ đây,...

 

          II. Đảo Chìm, chuyện ngoài truyện.

 

          Câu chuyện của thuyền trường Tàu HQ 05 Trường Sa, Trần Trọng Trí và những người lính thuộc cấp của mình một thời còn tiếp diễn. Song trước khi nói về tiểu thuyết ĐẢO CHÌM của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng những chuyện ngoài truyện, tôi muốn kể thêm về vị thuyền trưởng tàu HQ 05, Trần Trọng Trí và những người lính ngày ấy của ông (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v...), bởi đó là những nguyên mẫu mà nhà thơ Trần Đăng Khoa dựng thành các nhân vật chính trong cuốn sách của mình: Chính trị viên Thuận, Tư Xồm... Âu cũng là cách để bạn đọc biết thêm về các chuyện thực ngoài dời của các nhân vật tiểu thuyết, mà cụ thể ở đây là xứ ĐẢO CHÌM.

Vẫn trong phần ghi cảm nhận bài viết của tôi về thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa, một người lính hải quân khác xuất hiện khi anh chàng này được bạn mình-cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn mách bảo: “Bình luận từ: LÊ VĂN KHÁNH [Bạn đọc]   02.03.11@10:51 Ôi chồ chồ, thủ trưởng ơi, em là Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó. Thằng Tròn điện cho em bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho thủ trưởng. Em vào mấy hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ thiên hạ thy thua thơ thủ trưởng hết. Em đọc thơ thủ trưởng, ai cũng thích. Vịnh cây khoai môn: Trên rừng sướng nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn rất ngon./ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/ Lá nó hao hao giống cái l...Vịnh Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm/ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum./ Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn. Vịnh cái tủ lạnh Sa-ra-top: Cắm vào run rảy toàn thân./ Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn./ Hỡi người quân tử giàu sang./ Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra. Nhưng em thích nhất bài thơ Sống ở đảo chìm, viết tặng ông Trần Đăng Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái./ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở đầu, đái ở chân (Đầu đảo, chân đảo) /Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa./ Chẳng như hồi sống ở nhà./ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng thức nhá”.

          Chưa hết, trong các cảm nhận vào bài viết của tôi, thầy trò Trí-Tròn  còn đối đáp nhau nhiều: Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]   01.03.11@20:59/ Con cháu tôi lại khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi lại phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán thịt chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm Trường Sa giết con Ái Vân (tên con chó khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ thích đặt cho chó) để chiêu đãi tướng Cương, chú với ông Khoa không ăn. Chú còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng béo như ông Khoa, hơn 5 sọi rồi mà nước vẫn dâng như lũ sông Hồng. Chú Tròn ba vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy (về truyện ngắn Ngày xưa ấy của Nguyễn Chu Nhạc). Vào đọc ngay. Tôi rất thích. Thích nhất là đoạn làm tình của đôi trẻ. Tôi bây giờ đọc bác Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn. Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ. Vào xem mấy con để l…à". Tôi bảo, thì để đỡ tốn tiền, bà cởi cho tôi xem. Đấy, văn bác Nhạc được bà ấy ví với cái l.. Chuyến này khéo ông Khoa sẽ ghen vì văn ông Khoa không được đề cao như văn ông Nhạc. Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên truyền hình. Béo quá. Ông ấy về làng, không khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là thằng tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với mấy ông cựu chiến binh bên Bộ Tổng tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB đài tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn làm thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông in trong tập Hương ngoại ô cùng với một triệu tiền mua sách. Thơ mà tôi tâm đắc, cánh cựu chiến binh quê tôi thích đều là thơ mách qué. Bác Nhạc có giám in thơ tôi không? Đại loại bài độc vận thế này: IẾC XIẾC: Tối qua đi xem xiếc/ Thấy rõ ràng từng chiếc/ Càng nhìn lại càng tiếc/ Không được đi đoàn xiếc/ Để được sờ từng chiếc/ Tiếc/ Iếc xiếc. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ đến thăm chú Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây giờ các bác ấy mở quán ảo rồi, tôi sẽ vào luôn”.

Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc]   02.03.11@10:24/ Thủ trưởng Trí. May có bác Nhạc làm liên lạc để em được gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó chẳng quan trọng. Vợ và chú em vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền với điều hành chúng. Quán của em ở thị trấn Ba Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông khách lắm. Thế cái bệnh lòi dom của thủ trưởng bây giờ thế nào? Thủ trưởng vẫn làm thơ quậy à? Em vừa thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối chày gì đó. Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một chút, chả gì Sếp cũng Đại tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí thức đọc cả đấy. Em xem thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã. Bà ấy có thể không thích văn chương nhưng vì tò mò, tưởng ở đấy có l... gái trinh, mò vào, gặp thủ trưởng nói xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại tắm cho thủ trưởng một can xăng như vợ nhà báo Hoàng Hùng thì khốn. Đàn bà không tin được đâu. Gặp thằng mả mẹ nào nó khen đểu cho một câu là chổng phao câu lên, coi chồng như cứt chó ngay. Các cụ xưa không cho ngồi chung mâm, chỉ để ăn trong xó bếp kể cũng không oan. Em qua ba cối rồi, em biết. Tanh lắm. Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây giừ qua nhà ông Nhạc, anh em mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả hứng. Thủ trưởng bảo trọng”.

Trong cảm nhận này, Nguyễn Văn Tròn có nhắc đến một chuyện, ấy là cựu thuyền trưởng, đại ta Trần Trọng Trí xuýt được phong Anh hùng (danh hiệu AHLLVT). Về điều này, tôi tìm hiểu, được biết, khi xem xét hồ sơ để phong tặng danh hiệu cho Trần Trọng Trí thì có vấn đề về lí lịch nhân thân (nghe nói, ông vướng thành phần gia đình đia chủ trong CCRĐ, lại  dính thêm chuyện mê tín dị đoan vì ông cụ thân sinh biết nghề thày cúng nên thi thoảng làng xóm có việc nhờ cúng giùm). Chẳng rõ hư thực ra sao?

Hồn thơ lính trong cõi lòng vị cựu thuyền trường Trường Sa ngày nào như sống dây, khi tôi đăng bài thơ Xuân mưa. “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]   01.03.11@21:45/ Vừa đọc bài thơ tứ tuyệt XUÂN MƯA của thi sĩ CHU NHẠC, tôi cũng nổi ngứa chim cò tặng Chu Thi sĩ mấy câu thơ Thiền:: XUÂN NẮNG/ Xuân sang, ta Sáu Tư rồi/ Vắt đâu ra mấy giọt trời được đây/Bà Xanh đã tốc váy mây/Ta cùng vợ vác cối chày ra phơi. Tôi đề nghị chữa của ông hai từ “giọt trời”, thành “giọt giời”, ông tỏ ra khoái lắm. “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]   03.03.11@21:58/ Ông Nhạc chữa cho tôi một chữ mà hay hơn đấy. Cao thủ. Mặc dù ý không thay đổi, nhưng chữ giời thì hợp hơn chữ trời. Tôi sẽ qua chú Tròn trong dịp tới. Chú giúp tôi mua vi tính, nhưng không cần tặng tôi, thằng con rể tôi nó cho. Thằng cu đang muốn kéo tôi về Yên Bái sống với vợ chồng nó. Tôi đang tính. Nghe có mấy đứa vừa báo tôi bên nhà ông Khoa có trò mới cũng vú vê búa sua. Tôi sang xem đã nhé”.  

          Sau những ngày đầu đầy xúc động, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã kiềm chế cảm xúc của mình, tỏ ra điềm tĩnh, sâu lắng, thì chàng cựu lính Nguyễn Văn Tròn vẫn tràn đầy năng lượng, như phát rồ, bắn liên thanh bằng những cảm nhận gây xốc: ”Bình luận từ: Nguyễn văn Tròn [Bạn đọc]   03.03.11@06:22/ Thủ trưởng Trí ơi!. Bây giờ chắc thủ trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn được vô nhà bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng cái máy tính con con của em. Rất tiện lợi. Giờ em quyết định thế này: Giữa tháng Ba này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi tính xách tay và cái USB nối mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ trưởng đọc bác Khoa bác Nhạc và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo nhạt toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng chơi nhòe. Thủ trưởng nhắn cho em thằng Hanh, con Nhạn (Cái con ngày xưa thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi bóp vú ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi. Rồi thằng Bình, thằng Việt, thằng Cải, thằng Khang, thằng Trường (Thằng Trường khỏe như trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này rất thông minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng hâm đột xuất). Em thấy đàn bà chẳng sâu sắc thủy chung gì đâu, cù được vào nách là ngả được bàn đén luôn, từ con osin đến các mệnh phụ phu nhân, rồi cả hoa hậu nữa, sếp thấy có đứa nào ra hồn đâu. Đấy như vợ Hoàng Hùng đấy, có thể thiêu chồng chạy theo một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã tốt hơn chày của thằng Hùng. Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu khen đểu là động cỡn liền. Đàn bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường coi khinh những thằng tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn thằng Khánh thì em liên lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông thương mà không làm phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn càng tiện lợi. Cánh công chức toàn thế đấy thủ trưởng ạ. Bồ bịch búa sua”.

          Hình như, cảm thấy ngại khi dùng ngôn ngữ đầy chất lính tráng, anh chàng Nguyễn Văn Tròn có vẻ khách khí. Tôi bèn thưa lại vì thực lòng muốn mọi người cứ tự nhiên như cũ: “Bình luận từ: nguyenchunhac [Blogger]   03.03.11@09:08/ Chủ nhân xin có lời nhắn với thuyền trưởng Trí, và các cựu binh Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v... Mọi người cứ giao lưu thoải mái, không có gì phiền đâu.
Rất vui được hầu trà thuốc điếu đóm, cả rượu thịt chó nữa, để bồi tiếp mọi người. Kính
”.

          Việc giao lưu ảo trên mạng xã hội, nhất là khi vào trang cá nhân của tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Trần Đăng Khoa, rồi gặp các lính cựu Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh.... khiến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí bị hấp dẫn đến nỗi không cưỡng nổi, cho đến một hôm, ông thông báo với tôi và cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt: ”Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]   06.03.11@21:26/ Tôi đã sắm máy tính cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn mê các ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui nhập thế giới hiện đại. Ngày mai tui đi Sài Lang Thành (ý chỉ Sài Gòn-Tp.Hồ CHí Minh ) nhưng vẫn đọc các ông đấy”. Với thông báo này, ông còn như ngầm nhắn với các cựu binh đàn em của mình (Tròn, Khánh....) rằng từ giờ họ có thể tha hồ chuyện trò với nhau mà không cần nhờ trang cá nhân của ai, không làm phiền người khác, rằng họ sẽ cùng nhau ôn lại ký ức, làm sống lại thời lính Đảo chìm, Trường Sa một thuở...

Nhưng, khi còn chưa kịp chuyện Trường Sa thì có một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa Trần Trọng Trí với nữ thi sĩ Chử Thu Hằng và Nguyễn Việt An (một người bạn học, bạn văn chương của Tôi và Trần Đăng Khoa từ thời học phổ thông, hiện sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh). Tôi không đưa vào bài viết này, song về phần mình, tôi nhận ra sự hóm hỉnh và thông minh, đầy tài hoa trong việc ứng biến thơ của Trần Trọng Trí, nên nhắn ông: “nguyenchunhac [Blogger]   24.03.11@10:59@ Bác Trí,/ Đọc lại những bài thơ vịnh của bác, gạt đi phần bông đùa, tếu táo, còn lại, thơ thật hay lắm đó...”.

Quả thật, Trần Trọng Trí sắc lẻm như dao cau, mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu, tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người tồn dư tính láu cá nông dân… Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông, cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh,...).

Cho đến ngày 26/3/2011, tôi đăng bài viết của mình có tên “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện” bàn về  tiểu thuyết “Đảo Chìm” của nhà thơ của Trần Đăng Khoa thì mọi chuyện mới thật xôm trò. Rất nhiều người vào đọc và bình luận. Xin trích đăng một số cảm nhận để cùng tham khảo:

Bình luận từ: Người qua đường [Bạn đọc]  ( tức nhà văn Nhật Tuấn-NCN)  22.03.11@23:22/Tôi cũng đã đọc Đảo Chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể loại khác. Nhưng rồi đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui vui, như chơi, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc rất mới, cũng là một phát hiện, mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Chu Nhạc. Tiếc là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay. Tôi vẫn nói Chu Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài, dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy”.

Bình luận từ: Chử Thu Hằng (nhà thơ) [Blogger]   24.03.11@09:02/Chu Nhạc tiên sinh! Đảo chìm của anh Trần Đăng Khoa, Chử Thu Hằng chỉ lặng lẽ đọc vì không muốn "khen phò mã tốt áo"; nhưng đọc bài này của Tiên sinh, phải thốt lời thán phục. Thưởng văn phải như thế, rất riêng và chẳng cần phải nhiều lời. Cái Tầm của Tiên sinh đã làm cho Chử Thu Hằng nhiều lần phải ngưỡng mộ

Bình luận từ: Minh Tâm (PGS.TS,) [Bạn đọc]   24.03.11@18:20/Bài viết của ông Chu Nhạc rất hay. Tôi đã đọc Đảo Chìm mấy lần rồi. Tôi rất thích cuốn sách này, nhưng không thấy được rạch ròi như ông Chu Nhạc. Tôi là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, cũng đã từng nghiên cứu thi pháp, bài viết của ông Nhạc là ứng dụng thi pháp rất nhuần nhuyễn. Tất nhiên, nếu ông mở rộng thêm thì sẽ rất hay”.

Bình luận từ: Khách [Bạn đọc]   24.03.11@21:17/Từ một điểm nhìn cận cảnh, tác giả Trần Đăng Khoa (TĐK) đã xây dựng một không gian nghệ thuật thật đặc sắc: không gian hữu hạn - không gian vô hạn - không gian tâm tưởng. 3 loại không gian ấy có khi tách bạch nhưng có lúc lại đan cài, tạo nên một không gian nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Đó là thứ hiện thực lãng mạn, pha chút “Liêu trai“ Phương Đông. Phát hiện của anh rất hay! Em xin cóp bài này để tham khảo, phân tích thêm để bổ sung cho phần thực hành... Cảm ơn anh! Em rất hâm mộ TĐK, là người đang "gieo rắc" tác phẩm của anh ấy cho lũ trẻ. Giờ thì hâm mộ luôn cả người bình văn TĐK!

Bình luận từ: Vũ Trọng Trường [Bạn đọc]   26.03.11@03:47 / “Tôi đã đọc nhiều lần Đảo Chìm. Rất tâm đắc với lời bình của Chu Nhạc.... Lời bình của ông rất đanh,... Mấy hôm nay bọn họ đang gây sự ở Trường Sa bằng tuyên bố Biển Đông là của họ và cấm mọi hoạt động ở quần đảo này. Điều ông Khoa nói ở mấy dòng mở đầu đang thành hiện thực. Vì vậy càng thấy quý cuốn sách của Khoa và bài bình của ông Nhạc. Tôi sống ở Đức, rất xa đất nước nên càng biết ơn những trang viết của các ông để gần lại quê nhà.”.

          Còn nhiều lời bình khác của bạn đọc, trong nước, Việt kiều định cứ ở nước ngoài, một số nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, nhân sĩ yêu nước bày tỏ sự quan tâm và ủng hộ chủ quyền biển đảo Việt Nam.

          Rồi PGS.TS Minh Tâm còn dẫn dụ, giới thiệu một bài viết khác bình cuốn Đảo Chìm (bài viết của nhà báo Nguyễn Lương Phán – VOV) để mọi ngươi cùng tham khảo thêm: “Bình luận từ: PGS. TS Minh Tâm [Bạn đọc]   26.03.11@23:13/ Nhân bài viết rất hay của Chu Nhạc về Đảo Chìm, tôi mò vào mạng xem thiên hạ nói gì về Đảo Chìm thì bắt gặp bài viết cũng rất công phu. Bài này không có tính thi pháp như Chu Nhạc nhưng được cái xúc cảm. Tôi cop về để bạn dọc tham khảo, càng thấy cái tài của Chu Nhạc trong việc dùng chữ...”. Vì bài viết đó khá dài nên không thể trích dẫn ra đây được. Thực lòng, khi được nhiều cao thủ làng văn đọc và bình khen, tôi cũng sinh ái ngại, tự hỏi, không biết bài phân tích của mình về tác phẩm Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa có thật hay như người ta đã khen, song tôi nghĩ, chắc ít nhiều bổ ích cho bạn đọc ?

          Song có lẽ, cảm nhận khiến tôi suy nghĩ nhất, chính là của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, nguyên mẫu của nhân vật chính trị viên Thuận trong tiểu thuyết Đảo chìm: “Trần Trọng Trí [Bạn đọc] 19.03.11@22:14  @ Nhà văn, nhà thơ Chu Nhạc. Bữa rày, ông Khoa đưa lại cái Đảo Chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến một dòng, cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với người khác trùng tên mà viết nhạt toẹt... . Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nôi, có lên thăm ông Nhạc ông Khoa. Con bé (nhưng cũng là gái xề rồi), là nguyên mẫu, mà trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương, nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú Khoa. Bữa nay chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.

          Đọc cảm nhận của Trần Trọng Trí, tôi cứ thẫn thờ với một linh cảm mơ hồ... Lại càng không ngờ, đấy có thể là những dòng cuối cùng ông để lại cho cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt, và cũng là những dòng cuối cùng của ông trên cõi đời này... Bặt đi cả tháng trời, không thấy Trần Trọng Trí và các đàn em của ông (Tròn, Khánh) xuât hiện trên mạng. Tôi nghĩ, chắc mấy thấy trò gặp nhau, mảng vui sau bao ngày xa cách, nên có ý chờ đợi những câu chuyện của họ sau chuyến đi đầy vui thú này. Song không hiểu sao, sự vắng bóng của họ cứ khiến tôi phấp phỏng chẳng yên, và mơ hồ cảm thấy một điều gì đó không hay?...

          Quả nhiên, thật đột ngột, một buổi vào mạng Blog Tiếng Việt, tôi sững sờ không tin vào mắt mình khi đọc mấy dòng cảm nhận của người con gái ông, nguyên mẫu của Mộng Tương tiểu thư trong tiểu thuyết Đảo Chìm: “Bình luận từ: Trần Thu Hà [Bạn đọc]   23.04.11@23:24/ Chú Chu Nhạc kính mến! Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì tai nạn giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn bố cháu vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã nửa tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết. Nếu có gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”.

          Cả mạng Blog Tiếng Việt xôn xao, mọi người vào cảm nhận, bày tỏ sự thương tiếc ông  và chia buồn với Trần Thu Hà cùng gia đình ông. Tôi chỉ trích ra đây vài ba cảm nhận...: “Trần Đăng Khoa [Bạn đọc]   · http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 24.04.11@21:47@Trần Thu Hà.
Chú thực sự sửng sốt trước tin của bố cháu và chú Tròn, anh chàng Tư Xồm của chú. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có những cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm lá sinh động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị. Vậy mà ai ngờ... Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau thương này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình
”.

Còn đây là cảm nhận của tôi: “nguyenchunhac [Bạn đọc] http://blogtiengviet.net/nguyenchunhac 24.04.11@07:23@ Trần Thu Hà/Trước hết, cho chú được chia buồn cùng cháu và gia đình, cùng bên gia đình chú Tròn. Chú rất đột ngột khi biêt tin này. Nhớ cách đây chừng hơn tháng. Bố cháu có tin cho chú là lên Hà Nội và vào thăm VOV nhưng chú lại đi công tác và chú Khoa cũng không đến cơ quan (vì ngày nghỉ). Bố cháu còn thông báo là đi Lào với Tròn chơi rồi về dọn nhà lên Yên Bái ở với gia đình nhà cháu. Vậy mà,... Chú và chú Khoa, và cả làng blog Tiếng Việt này, sẽ rất buồn vì bố cháu đã ra đi đột ngột. Mọi người sẽ không quên những dòng cảm nhận, những bài thơ sâu sắc và vui của bố cháu. Đối với Tròn cũng vậy. Có lẽ, chỉ có một an ủi duy nhất, bố cháu và chú Tròn, họ đã sống bên nhau những ngày gian khó ở Trường Sa, bây giờ họ lại đi cùng nhau. Có lẽ, họ luôn cần nhau, cháu ạ... Hà có thể cho chú hoặc chú Khoa biết điện thoại liên hệ, để khi có điều kiện, chú và chú Khoa cùng mọi người đến thắp cho bố cháu nén hương tưởng nhớ...”.

Ngày 25/4/2011, tôi viết bài viết “Tưởng nhớ thuyền trưởng Trần Trọng Trí” trên trang cá nhân của mình. Hầu hết bạn bè trong Blog Tiếng Việt đều ghi cảm nhận, thương tiếc ông và người lính của ông, cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn (Tròn Lùn), nhân vật Tư Xồm trong Đảo Chìm. Xin trích vài cảm nhận: Nhà thơ Bùi Thị Binh Bình luận từ: buithibinh [Blogger]   27.04.11@15:10/” ... Viết mấy vần thơ mộc mạc này tưởng nhớ đến Anh Trần trọng Trí và Anh Nguyễn Văn Tròn. “Đảo chìm” em mới đọc lần đầu/ Cái khóc, cái cười cứ quyện nhau/ Mong gặp Lão Khoa cùng nhân vật/ “Xóm lá mình mà … chắc chả lâu”/ Bao nhiêu cảm nhận của “hai Nhà”/ Đọc đi, đọc lại quá xót xa/ Ước muốn không thể thành sự thật/ Để được mời Anh: Một chén trà./ Anh mất rồi sao "Anh Thuận"ơi/ Tác phẩm “ Đảo Chìm” vẫn để đời/ Cái danh Trọng Trí còn mãi mãi/ Trong lòng bè bạn … khắp mọi nơi/ Cuộc đời như một chuyến rong chơi/ Thủ trưởng, nhân viên đã hẹn rồi/ Về nơi cực lạc đừng quên nhé/ Nghĩa tình “mạng ảo” chẳng xa xôi”.

Ai những tưởng, gặp nhau ngoài đời nào có khó  gì đâu, khi đã giao lưu mạng ảo, khi biết địa chỉ và cách nhau cũng không xa. Song không, như người đời vẫn bảo “vạn sự tùy duyên” hẳn không sai, trời không cho duyên gặp thì tưởng gặp nhau trong gang tấc, hóa vẫn không. Bằng chứng, Trần Trọng Trí đã hai lần đến cơ quan chúng tôi (Đài Tiếng nói Việt Nam), ở đây, ông gặp người này người nọ, nhưng cả hai lần, những người ông muốn gặp (Trần Đăng Khoa và tôi) thì cả hai chúng tôi đều công tác vắng. Kể cả vậy, ông vẫn tự tin là gặp nhau không khó, định bụng sau chuyến ông vào Quảng Bình thăm Tròn Lùn và các đồng đội khác và sang Lào chơi, thì ông Giời lại bắt ông đi luôn một mach, đi mãi sang thế giới khác....

Cái “những tưởng” ấy cũng có trong suy nghĩ của nhà văn Trần Hồng Giang, một người phải ngồi xe lăn, đi lại khó khăn, người cùng sống ở quê Nghĩa Hưng (Nam Định) với ông: “Bình luận từ: tranhonggiang [Blogger] 25.04.11@21:33/ Bất ngờ quá anh Nhạc ơi!. Em đọc "Đảo chìm" của anh Trần Đăng Khoa ngay từ lần xuất bản đầu tiên. Với lòng yêu mến và cảm phục những người lính đảo đến khôn cùng. Vậy nhưng đến vừa rồi qua blog của các anh thì em mới biết là bác Trí nguyên mẫu trong "Đảo chìm" là đồng hương Nghĩa Hưng với em. Biết được thông tin này, em đã rất vui mừng, em đã nhờ một người bạn ở thị trấn Liễu Đề, liên lạc với bác Trí để một lúc nào đó có thể gặp gỡ. Em hy vọng khi gặp được bác ấy thì sẽ viết một cái gì đó về một con người mà mình ngưỡng mộ. Thế mà... Cuộc đời này sao lại có những thực tế phũ phàng như thế chứ!”.

Cả tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều nhắn trên trang của mình ở mạng Blog Tiếng Việt, mong một ngày nào đó Trần Thu Hà, cô con gái rượu của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đọc được, để lại lời nhắn, hay số điện thoại liên lạc, hay địa chỉ nhà cô để chúng tôi có manh mối tìm gặp. Song không, cho đến nay đã hơn chục năm trôi qua, hai chúng tôi vẫn không biết Trần Thu Hà hiện ở đâu. Chỉ có chút manh mối, ấy là trước khi đi Quảng Bình và Lào cùng Nguyễn Văn Tròn, Trần Trọng Trí đã hé lộ chút ít, ấy là dự dịnh của vợ chồng ông sẽ thu dọn rời Nghĩa Hưng lên Yên Bái sống chung với cô con gái rượu của họ. Thế nhưng, Yên Bái rộng bao la, ở đâu cụ thể nào ai biết. Hay chăng, thử về thị trấn Liễu Đề (Nghĩa Hưng, Nam Đinh) hỏi dò dân ở đấy xem gia đình ông, vị đại tá, cựu thuyền trưởng tàu HQ 05 Trưởng Sa, ông thợ cắt tóc phố huyện, còn sống ở đấy, hay đã chuyển đi đâu, có lên Yên bái không và cụ thể địa chỉ nhà, số điện thoại liên lạc?... May ra, hy vọng. Song thú thực, việc này thì giờ này chúng tôi vẫn chưa làm được,... Thật có lỗi với ông.

Có nhiều đồ đoán về nguyên nhân vụ tai nạn ô tô của họ khi Tròn Lùn tự lái xe của mình đưa thủ trưởng cũ qua Lào sang Thái Lan chơi. Song cá nhân,  tôi đã từng ngồi xe hơi đi trên đất Thái Lan nên biết luật giao thông của họ giống kiểu Anh, Hồng-kông, Nhật bản, khác phần lớn các quốc gia khác là ngược lại, đi trái về phải, do đó người lá xe tay lái thuận, nếu không quen sẽ nhãng quên lao sang làn đường ngược chiều. Đấy là suy luận vậy thôi. Có một sự thật, mạng Blog Tiếng Việt sau khi họ vắng bóng thì kém sôi động, trầm lắng hẳn đi, và mấy năm sau, do  trục trặc kỹ thuật, nền tảng lưu trữ kém, các bloger bị mất bài, rời bỏ đi nơi khác. Blog Tiếng Việt vắng như chùa Bà Đanh. Giờ nền tảng kỹ thuật mạng này có khá lên, song không khí thì vắng lặng. Thời vàng son đã qua, khó bề cứu vãn. May mắn thay, phần bài viết và những cảm nhận liên quan đến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh lính của ông vẫn còn, để giờ đây tôi có thể tra cứu, trích dẫn, lưu giữ,...

Những gì họ để lại trên trang blog của tôi, thì đã trích nêu trong phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang cá nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là còn nhiều, nhưng trong cuốn sách Đảo Chìm - Trường Sa của mình, nhà thơ chỉ trích chút ít. Tôi cũng trích lại đây cảm nhận (comment) của Trần Trọng Trí, xem như cái cớ đề bàn thêm về ông và các đồng đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai lỳ. Tôi hay vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay đọc lại cuốn sách về Trường Sa, tôi đã khóc. Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần Thị Thu Hà mà ông Khoa gọi là Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm đó), có hai con gái. Cháu ngoại tôi đã học lớp 12, cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó không biết đấy là chuyện bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này mà không biết tìm ở đâu. Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải mở máy tính. Tôi lên Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên trang của nhà văn Xuân Đức...  Tôi sẽ đến thăm ông Nhạc (Nguyễn Chu Nhạc-Đài Tiếng nói Việt nam), ông Khoa. Lâu rồi, không gặp”...

Tâm thế trong cảm nhận này của Trần Trọng Trí, thực ra, cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của tôi, khác chăng ở một vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại các cảm nhận của Trần Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng mị, sa lầy trong mớ hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc của mọi người, đặc biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế bào thần kinh trong con người vị đại tá (lương tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một thời, đã về vườn, trong vai ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những ẩn ức một thời bùng phát, tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ thôi. Trần Trọng Trí như người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra, hay đúng hơn là không muốn thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí ông...

Tôi xin lỗi đã kể hơi dài về Thuyền trưởng Trí, bởi ông là một nhân vật chính của cuốn Đảo chìm, chúng ta cũng nên biết kỹ về ông ở ngoài đời thực. Sở dĩ, ngày ấy, Thày trò Trí -Tròn nổi bật như nhân vật trung tâm của mạng xã hội Blog Tiếng Việt, là bởi họ gắn với một chủ đề nóng bỏng, ấy là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam mà phần lớn người dân xứ ta đều quan tâm; khi mà, họ là nguyên mẫu các nhân vật chính trong tiểu thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trường Sa, Hoàng Sa và rộng ra là Biển Đông chưa bao giờ vơi nóng, bởi nguyên nhân chính là quan điểm, thái độ và cách ứng xử của nước lớn không phù hợp với luật pháp quốc tế về chủ quyên biển đảo trong các nước khu vực, nói chung. Sự tham góp của họ (cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và các cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh...), cùng tác giả cuốn sách-nhà thơ Trần Đăng Khoa và rất nhiều các bậc nhân sĩ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, người lính, bạn đọc nói chung với các câu chuyện thật ngoài đời liên quan dến cuốn sách, vô hình chung đã biến tác phẩm Đảo Chìm như một sân khấu lớn, đại cảnh, lớp lang chính phụ, đầy bi hài,...

Ta cùng thử hình dung, Đảo Chìm như một tác phẩm Sân khấu thì sẽ thế nào nhỉ?

Song trước khi nhìn tiểu thuyết Đảo Chìm như một Sân khấu lớn, xin trở lại với không gian tiểu thuyết mà tôi đã nhận thức và nêu ra trong bài viết có tên Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ở đó, tôi phát hiện sự tài tình của tác giả trong việc tạo dựng nên ba không gian đồng thời để kể câu chuyện của mình. Ấy là không gian hữu hạn. bao gồm “cái lều bạt” chung chiêng trên thềm san hô, là con tàu loanh quanh trong khu vực của mình, được xem là hòn đảo nổi; ấy còn là không gian vô hạn với mênh mông trời nước, lúc hiền dịu mộng mơ, lúc lặng thinh bí hiểm, lúc cuồng điên dữ dội đầy bất trắc; và nữa, một không gian tâm tưởng chỉ tồn tại trong ý nghĩ của mỗi nhân vật. Ba không gian ấy khi tách bạch, khi xâm lấn nhau, khi đồng dạng phối cảnh,... Và trong bối cảnh như vậy, tất thảy nhân vật, con người (từ chàng lính quèn đến vị Tư lệnh), con vật (chim biển, cá mập, con lợn), vật dụng (lều bạt, tư trang quần áo, cuốc xẻng, lưới câu, vũ khi, con tàu...) đều sống động, có hồn, suy nghĩ, hành xử theo logic của mình.... Chính nhờ tạo dựng một không gian nghệ thuật như vậy nên mọi ý nghĩ, hành động, tính cách nhân vật, tình huống, tình tiết truyện (có khi phi lý) đều chấp nhận được và trở nên có lý có tình,... Một sự hỗn mang như mê sảng. Chim biển, cá mập thì như người, như ma quái, con lợn cũng như người, lại như yêu tinh; còn con người thì “nhanh chóng mất hơi người”, có lúc như chim, như cá, lại có khi như lợn, như người nguyên thủy (nhân vật Hai Ùm hay cởi truồng)... và có khi chỉ là “một chiếc linh hồn nhỏ” (phần kết, Hai Ùm chết, hồn như nhập vào một con chim biển khổng lồ, dáng gù gù trong lều bạt, khiến đồng đội vừa mừng vừa sợ tưởng anh sống lại).... Và cũng chính việc tạo dựng nên một không gian nghệ thuật như vậy, mà tác phẩm Đảo Chìm không giống hiện sinh kiều phương Tây, cũng chẳng “hiện thực huyền ảo” kiểu Mỹ-la-tinh, mà nó là hiện thực lãng mạn pha chút “Liêu trai” phương Đông...

Còn về ngôn ngữ tiểu thuyết Đảo Chìm. Nếu tác giả tài tình bao nhiêu trong tạo dựng không gian truyện thì tài tình và điêu luyện bấy nhiêu trong ngôn ngữ kể chuyện. Là nhà thơ, tác giả Trần Đăng Khoa đã dùng thế mạnh của mình, ngôn ngữ thơ, để kể chuyện và khắc họa nhân vật. Mỗi chương của tiểu thuyết như một bài thơ văn xuôi vậy. Có thể thấy, tác giả rất kiệm lời, chắt lọc đến từng chữ một. Cảm giác chung, cả tiểu thuyết, không có câu độn từ thừa. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, gây ấn tượng và rất gợi,... Ví như, cảnh hoàng hôn trên đảo:“Chiều xuống dần. Mặt trời đã chìm khuất sau một bầu nước rùng rùng tím ngắt. Nhưng những đám mây vẫn còn bắt nắng, đi lững thững trên đầu, rừng rực như những đám cháy lớn. Bầy chim biển đi kiếm ăn về. Chúng kêu toang toác quanh lều  Tiếng kêu hoang vu và tanh lợm mùi cá...” (chương III-Chim biển); Hay đêm trăng lên biển đảo:”Sương xuống tê tê. Phía sau lều bạt, biển bục lên một đám cháy lớn. Trăng đang mọc. Vài con ó biển giật mình, tiếng kêu oang oác trên thinh không mông lung mờ mịt.” (chương VII-Cô tiên trên đảo); Và đây, một sự kiện đặc biệt, lợn đẻ trên đảo: “Hàng chục ngọn đuốc rần rật bùng lên. Lửa réo ù ù trong gió biển. Con tàu túc tắc được nhổ neo, lượn ba vòng xung quanh Đảo Chìm. Sau đuôi tàu, biển rực lên một vùng lân tinh sáng chóa. Trong đêm, nom nó quái dị và kỳ vĩ như một dải Ngân hà đang cháy.” (chương IX-Tiếng còi tàu đột ngột); Đây nữa, biển đảo sau bão tố: “Vùng đảo hoang lanh một màu khai thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá voi khổng lồ đã bị rỉa hết thịt.” (chương XV-Biển mặn)..v.v... Còn nhiều nữa những đoạn văn giàu chất thơ, gây ấn tượng mạnh và đấy sức gợi như vậy. Tôi trích ra đây để phần nào minh chứng cho ngôn ngữ đặc sắc của tiểu thuyết Đảo Chìm,...

Giờ thì ta cùng nhìn nhận Đào Chìm ở phương diện sân khấu với các màn chính kịch, màn phụ  theo lớp lang của nó. Dĩ nhiên, người chính trị viên tên Thuận, các thủy thủ tên gọi Hai Ùm, Tư Xồm cùng các đồng ngũ của mình trên con tàu HQ và trên đảo, thêm vị Tư lênh binh chủng nữa, đều là những nhân vật chính. Tác giả cuốn sách,  nhà thơ Trần Đăng Khoa là người dẫn chuyện. Vậy là đủ vai? Không. Còn thiếu một vai, ấy là vai Hề, con lợn An-ta-ra-mê-na. Chớ quên, chỉ là vai phụ thôi, nhưng vai diễn này vô cùng quan trọng

Thiết nghĩ, hãy khoan bàn về con lợn An-ta-ra-mê-na với tư cách vai Hề, trước hết, xem vai trò của Hề trong sân khấu truyền thống ra sao? Với góc nhìn từ vai Hề ở sân khấu chèo (có thể mở rộng cho vai Hề trên sân khấu truyền thống nói chung), nói đến vai Hề, người ta thường nghĩ đến một nhân vật luôn mang lại tiếng cười cho người xem. Dù chỉ là một vai diễn mang tính chất phụ họa cho những lớp bối cảnh chính, nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng và đặc biệt là cái hồn của vai diễn, bởi trong tiếng cười chính là sự sâu lắng, phản ánh rõ nét nhất cuộc sống qua tạo hình đặc biệt của một vai diễn trên sân khấu.

Khái niệm là vậy, giờ ta thử lấy lăng kính Hề sân khấu soi chiếu vào con lợn An-ta-ra-mê-na trong Đảo Chìm xem sao? Con lợn tinh ranh, bắng nhắng, hay làm trò cho lính cười. Ả ta (lợn cái) được mọi người quan tâm, cho diện váy áo mớ ba mớ bảy lòe loẹt trong khi các chàng lính mình thì trần như nhộng đóng mỗi chiếc quần cộc, thậm chí chẳng mặc gì; đến thứ quý nhất là nước ngọt thì tiêu chuẩn hàng ngày của ả ta cũng gấp đôi của lính. Bi hài nhất, là mỗi khi đến chu kỳ động dục, ả ta tăng động, ngoe nguẩy chìa bộ phận giống cái ướt nhẹp đỏ hỏn của mình vào mặt đám lính thủy... Chẳng thế mà, từng có một nữ nhà văn tầm cỡ, trong một lần mạn đàm với nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ ý định táo bạo, rằng nếu cô ấy là tác giả thì sẽ đảy chi tiết này đến tận cùng (nghĩa là cho đám lính thủy trong cơn khát thèm đàn bà lâu ngày, không kiềm chế nổi bản thể, làm cái chuyện đực cái với nàng lợn An-ta-ra-mê-na). Tất nhiên nhà thơ rất tỉnh táo, chẳng bao giờ nghe ai đó “xui dại” như thế. Ông chỉ bảo, ý nghĩ của người đời kinh thật.

Song quả thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa ít nhiều cũng băn khoăn về số phần của vai Hề này, từng tự hỏi, mình có nên chỉnh sửa đôi chút phần kết của tác phẩm Đảo Chìm, khi có độc giả bày tỏ thắc mắc, rằng liệu tác giả có bỏ quên con lợn An-ta-na-mê-ra hay không, mà cuối truyện chẳng thấy nó đâu,... Vậy thì nó biến đi đâu mất, số phận nó ra sao sau cái chết của Hai Ùm?

Tôi nghĩ, bạn đọc đòi hỏi không sai, song cũng không cần phải giải quyết chi cả, bởi nó là vai Hề cơ mà. Hề chỉ là vai phụ, Hề xuất hiện để kết nối và sâu chuỗi các phần chính kịch với nhau thành một chỉnh thể lo-gic, xét về cấu trúc; còn về biểu hiện thì sự ra mắt của Hề là để làm trò, gây cười, dù là cười vui vẻ sảng khoái, cười chảy nước mắt, hay cười để nuốt nỗi buồn đau vào tận đáy lòng,...và hơn nữa, thâm chí để nói những điều mà tác giả không thể nói được trong vai trò người dẫn chuyện, mà cũng không thể gửi gắm vào các nhân vật chính kịch. Hoàn thành các việc này, là Hề  tròn vai, hết chuyện, cần chi đẩy số phận vai phụ đến tận cùng. Lẽ di nhiên, trong câu chuyện và văn cảnh cụ thể, Hề ta có số phận thì cũng hay.

Ở đây, còn bởi, cái kết của tác phẩm Đảo Chìm rất đắt, rất đắc địa rồi, đó là cái chết của nhân vật Hai Ùm, ám ảnh và lay động tâm can, lay động trời biển. Chẳng ai có thể quên nổi, hình ảnh con chim biển khổng lồ đứng trước cửa lều bạt dáng gù gù hệt Hai Ùm vì như hồn chàng lính thủy này nhập vào, khiến đồng đội vửa sợ vừa mừng tưởng anh sống lại ...

Một cái kết bi tráng, cô đọng, giàu biểu đạt như đúc tượng vậy, thử hỏi còn có gì tuyệt hơn, cần chi mà phải bàn thêm về số phận con lợn Hề cho dài dòng văn tư. Ta cùng đọc lại mấy dòng kết này để thấm nỗi bi tráng: “Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở Đảo Chìm, người đó tại sao không phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được thấy cánh chim hải âu”.  (Ở đây, tôi xin được mở ngoặc, bởi đó là chi tiết rất đắt. Hải Âu thường chỉ bay ở ven bờ, cách đất liền chừng hơn trăm cây số. Ngoài đại dương không có Hải Âu. Vì thế với lính biển, Hải Âu là tín hiệu báo đất liên. Và trước đó Trần Đăng Khoa cũng đã bàn về cái chết dữ dội của những người lính biển. Dù chết vẫn không được yên. Dẫu chỉ còn một mảnh xương tàn thì mảnh xương đó vẫn đêm ngày phải vật lộn với sóng gió. Cho nên, chi tiết ước gì trước khi nước khép mặt Hai được nhìn thấy bóng chim Hải Âu, ấy là niềm ước vọng mong manh có thể mảnh xương của mình sẽ được sóng đẩy vào đất liên). Bởi thế: “Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ lấy vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chất.  Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như máu...”.

Hàm súc, ấn tượng như một triết lý, dư ba,  mà gợi mở ra vô tận,...

Nhân đây, bạn đọc nên biết một bí mật về ả lợn Hề An-ta-ra-mê-na này. Thực tế, ngày ấy, ngoài Trường Sa, đặc biệt là Đảo Chìm, chẳng có một chú lợn nào cả. Tác giả, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã hư cấu, tạo nên một ả lợn bắng nhắng vui nhộn làm trò cười cho lính, trên cơ sở một con chó khoang có thật. Theo cánh lính Trường Sa commen kể lại, và theo dõi cuộc trò chuyện trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt (đã trích ở phần trước) giữa nhà thơ Trần Đăng Khoa với cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí (nguyên mẫu nhân vật chính trị viên Thuận) cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, (nguyên mẫu Tư Xồm), Lê Văn Khánh, thì lúc ấy ở đảo, họ có nuôi một con chó khoang được goi  tên Ái Vân (cánh lính đảo thích lấy tên của một nữ ca sĩ xinh đẹp nổi tiếng một thời đặt tên cho con chó của họ. Đây là sự trân trọng yêu mến thực sự của cánh lính đảo, chứ không phải giễu cợt hay thóa mạ), và rồi trong lần đón tiếp vị Tư lệnh binh chủng thị sát đảo, họ đã lấy cớ thiết đãi ông rồi làm thịt. Và nếu như, chỉ có thế thôi thì quả là “chó chết hết chuyện”, nên nhà thơ đã rất sáng tạo khi chế ra  một ả lợn tên gọi An-ta-ra-mê-na quyền năng như phù thủy, tinh ranh như yêu tinh, hoạt náo vui nhộn như tên Hề sân khấu. Chó khôn và tình nghĩa là đương nhiên (“khuyển mã chi tình”), nhưng lợn khôn mới khó và lạ chứ (người đời vẫn quen  bảo “ngu như lợn”mà). Ấy vậy, ả lợn An-ta-ra-mê-na này lại tinh khôn đến bất ngờ, có cá tính hẳn hoi, và như thế nó xứng đáng là một “nhân vật đặc biệt”.  Bí mật của vai Hề này là thế đó. Và theo tôi, ả lơn này không những góp phần tạo bầu không khí sinh động cho câu chuyện của những người lính biển, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng làm nên chất uy-mua và bi tráng cho cả thiên truyện.

Có điều này,  mỗi khi nghĩ về tiểu thuyết Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, tôi lại nghĩ đến hai tiểu thuyết ngắn khác, đó là “Ông già và biển cả” của Ernest Hemingway và “Trên mảnh đất người đời” của Anatoli Stepanovich Ivanov. Theo tôi, ba tiểu thuyết ngắn này ít nhiều có độ tương đồng, về số lượng từ, về độ hàm súc của ngôn ngữ và tính biểu đạt hình tượng.  Nếu như, ở “Ông già và biển cả” người ta thấy được sự cô đơn của con người giữa thiên nhiên và dù con người có cố gắng đến mức nào cũng nhiều khi trở nên vô nghĩa; Và ở “Trên mảnh đất người dời” người ta nhận ra một chân lý khác, ấy là dù có bị vây hãm trong tình yêu, sự dượt đuổi của người trả thù giấu mặt trong sự kinh hãi của kẻ chạy trốn, sự ghê tởm và lòng hận thù tột độ thì đến một lúc nào đó lại có thể tha thứ và coi đấy là cách trả thù còn kinh khủng hơn,... Về không gian tiểu thuyết, hai cuốn này đơn tuyến, nặng về chất tự sự, giàu nội tâm...  

Còn ở Đảo Chìm, không gian truyện phức tạp hơn nhiều, dù lượng chữ rất mỏng, con người ta sống trong một trật tự tưởng vô cùng nghiêm ngặt song lại như một thế giới tự do tự tại, nhưng ngặt thay, là con người tự khép mình trong sự cố kết bởi ý thức trách nhiệm và niềm tự hào vì một tương lai mù mịt vời vợi phía chân trời...  Với nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng của Đảo Chìm mà tác giả đã lựa chọn, là rất thích hợp và độc đáo.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Lê Lựu, một người rất khó tính về nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là thần bút.

Còn tôi thì coi đó là một kiệt tác...

 

 

ĐI TÌM THI PHÁP THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

 

        Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý thức muốn tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người đã trưởng thành, dù ở lứa tuổi nhỏ, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, cũng đều nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác... 

          Tôi cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào đấy và cho tôi biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ?”. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng chưa nói lại với ông...

          Cho đến một lần, đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ khá dày. Khi ký sách tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tôi nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ mồn một, từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung,  mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất. Hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua...

           Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa thuộc dạng thức quan hệ sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh,  phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học, hầu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đều theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách trong một bài.

          Ngay trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực - áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vàng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy câu kết này, bài thơ chuyển thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Nó là chuyện về con bướm đấy. Cũng là chuyện về tuổi thơ. Tuổi thơ đến rồi đi. Có nhìn theo, đuổi theo, cũng không níu được. Không vươn tới được. Nó là chuyện của Khoa, cũng là chuyện của tất cả mọi người. Cái tuổi thơ thực đấy mà ảo đấy. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức cảnh sinh tình mà làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đám dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức, vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,... nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn.

          Bài thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần như cả bài thơ là sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/ thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá”là động. Đấy là những câu thơ trực diện tả cái ngõ cụ thể. Rồi sau đó là cả cuộc kháng chiến cứu nước đi qua cái ngõ nhỏ này. Người vá đường, Người đẩy xe. Bộ đội hành quân. Xe tăng, xe kéo pháo. Cả nước lên đường ra trận. và câu kết, rất bất ngờ: “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, chỉ có cái ngõ ở lại. Hai câu kết, với 6 chữ rất mong manh, mà nâng được cả bài thơ dậy.

          Bài thơ Gà con liếp nhiếp cũng theo phép thực-ảo. Ảo mà lại không ảo. Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                          mưa phùn ướt cánh, ướt đầu…Đấy là điều hiển nhiên. Chả có gì đáng bàn. Thậm chí còn có câu tự nhiên, thật thà dễ dãi theo kiểu nhà quê “Mưa mỗi lúc một to sau rồi đâm ra tạnh” Nếu chỉ vậy thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực, kiểu học trò, lũ gà mải bắt sâu đến quên rũ lông, lại thêm một câu thật thà hiển nhiên: “Nhưng nắng to chú vẫn khô đầu”. nhưng tài tình thay, tất cả những câu chữ hiển nhiên để chuẩn bị cho câu kết: “Đôi mắt tròn trong như hai giọt nước/ hai giọt nước  không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo diệu và rất bất ngờ, ám ảnh. Ám ảnh mà lại hồn nhiên.

          Bài thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thực - ảo, lại hóm hỉnh mà cũng đầy bất ngờ:  Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran suốt cả buổi chiều/ Tiện mồm em cũng hát theo một bài.”

          Hay như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương là bài thơ ông không thể nào viết lại được. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thực-ảo. Tác giả chỉ đặc tả trăng. Không tả trực tiếp trăng như bài Trăng ơi từ đâu đến. Mà lấy cây vườn, như chuối và cau, con vật như chim và sâu. Cau cao, chuối thấp, tương tự chim trên cây, sâu dưới đất. Vẫn là chuyện cao và thấp. Và cái sân là trung tâm. Không có người. Vậy mà thành vũ hội thiên nhiên. Câu thơ đảo đi đảo lại, lặp đi lặp lại mà không trùng. Trăng lồng lộng ngự trị, ôm trùm cả trời đất. Chỉ có là người ở nông thôn, thấm đẵm cảnh sắc văn hóa thôn quê mới khắc họa được một bức tranh sinh động như vậy. Vừa thực vừa ảo. Vừa động vừa tĩnh. Đúng là một bài thơ rất khó viết mà viết nhẹ nhàng như xoay quân đomino. Rất tài tình!

          Bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi uống sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời”. Đó là hai câu hay nhất trong bài. Trần Đăng Khoa thường dụng công ở câu kết. Nó như chân đế, giá đỡ, có sức nâng cả bài thơ dậy.

          Hay nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức  Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu trong bóng chiều , cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm nhỏ bé/ Biết bay về nơi đâu?”...

          Bài thơ Đêm Côn Sơn, người ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào  thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Câu thơ kéo xưa về thực tại, lại có không khí thời đại. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh.

          Bài thơ Đồng chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt như là khói bay/ Đất trời cách một gang mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, thực đấy mà ảo đấy. Đó là sự ảo diệu của đồng quê, làng mạc!

          Thêm nữa, bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê rất mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ Trâu ai no cỏ thả rông  bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/ Bâng khuâng nhớ lúa đậu vào vai em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế!...

          Còn nhiều lắm bài thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đến, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những  bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova, mùa đông năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi, Ở nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…). Hay mới đây, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: Về quê:Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ Bây giờ bầu bạn cùng ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà ngoài hiên” cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các  mối quan hệ lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua.

          Có một điều không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc bằng âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy, đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt mỏng nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là đám xác chữ, không hồn vía, như xác chết vậy.

Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa như  kể một câu chuyện, như có cốt truyện vậy, hoặc nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy, người ta thấy được các nhân vật trữ tình, con vật, đồ vật cây cối trong thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn được bạn đọc yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục được tái bản và vẫn bán rất chạy...

          Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả,  nhà thơ Quang Dũng với Tây Tiến ;  sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh (thơ thế sự, nhân v ật). Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca dài.  Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện thưc mà ảo diệu và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện”.

*

          Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Ở đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường, thậm chí là tầm thường. Thủ pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng...

          Hay đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình thường, thậm chí là tầm thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị làm sao. Cũng như một câu thơ trong bài thơ viết về Mạc Thị Bười (Em đang cô một vòng hoa): Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao. Nếu Lúa chiêm chín rực… thì câu thơ lười quá. Ở đây ta thấy được sự linh diệu của thủ pháp hoán dụ trong thơ Trần Đăng Khoa có vai trò quan trọng như thế nào.

Cũng vậy, lối đồng dao, vận dụng ca dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa, khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, biến những vật vô tri vô giác mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển... ( các bài Con chim hay hót, Máy cày xình xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv... ).

Bài thơ Kể cho bé nghe là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở lại, thú vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/ hay múa xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ...

Bài thơ Em kể chuyện này, lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như hót đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này.

Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/ Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vận dụng ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đêm trăng suông như thế, người làm đường không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng không  thể phát hiện được mục tiêu bên dưới mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.

Ở bài thơ Hạt gạo làng ta, có câu thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn pháo súng bắn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về hình thể, màu sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của chiến tranh, hủy diệt,  chết chóc, một bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình, sự sống, ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng,” nhưng mấy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”. Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ !

*

          Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch

          Những câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hẳn, bài thơ như vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy...

          Ví như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...

          Hay như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ Ò ó o...Ò ó o…” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng để lại gì.

          Bài thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài thơ. Hình ảnh người nông dân chống chọi với thiên nhiên mới thật lẫm liệt.

          Bài thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao  nhiêu cái mũ lắng nghe/ xa xa từ một ngọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi. Đặc biệt câu thơ giản đơn như không mà lại rất tài: “Bao nhiêu cái mũ lắng nghe”….

          Bài thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ Nhuộm vàng cả trời cao”.

          Hay nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.  Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,...

          Bài thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách điếu đi cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài.

          Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài.

          Bài thơ Trận địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình này “Em nhìn đáy nước trong veo/ Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà/ Thảo nào các chú đã xa / Thằng giặc chẳng dám bay qua nơi này”.

Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/Bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng không, là có dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài thơ như cựa  quậy,  sống động hẳn lên, v.v...

          Ở bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu”  giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt Nam, tạo sức nặng cho bài thơ. Nhất là trong chiến tranh khốc liệt.

          Hay ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.

Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ rất gợi. Tôi nghĩ, mấy câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng đến suốt đời...

          Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến trưởng thành và cho đến tận bây giờ. Những câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo logic khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại ở phần kết như thế. Ở một số bài thơ, câu thơ-luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải những điều gan ruột.

          Nếu như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc hát người anh hùng, Trần Đăng Khoa lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sử dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm, vừa là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu, từ giọng điệu kể nhanh làm chậm lại, bớt nhàm, mà lắng đọng, suy ngẫm,...

Ví như, một số khúc tôi dẫn ra đây

           “Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.

Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai nát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông”

“Lửa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoang/ Chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi”

Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”.

“Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng vặc  sáng. Hoặc heo hút tàn”

Cái cánh cửa hát rằng: Ngày  mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi  vơi đầy/ Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”

“Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ  thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”

“Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc trời  trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao dời/ Lại nghe trong đất máu người ngân vang”

Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc Vô cùng, chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn  thổi vương ngõ ngoài...”,

Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, những khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng của Trần Đăng Khoa.

*

          Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Ngay thơ mình,  cho đến giờ, một số bài thơ làm từ ngày nhỏ, ông vẫn nhuận sắc khi lựa chọn được cách diễn đạt hay hơn, bởi nhiều bài thơ trước đây có không gian mở.  Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,...

Thú vị, tôi từng được nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà mình tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời” tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, mạnh tay thì cũng có thể bỏ đi một số bài, và ông cũng đã bỏ trong tập tinh tuyển mới đây, có bài từng được một nhà thơ lớn đánh giá cao, ông cũng loại bỏ, hoặc lược bớt thì mới đạt tới độ tinh túy. Nhưng mà, tôi nghĩ, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,..

*

          Là bạn học với Trần Đăng Khoa, cùng Trần Đăng Khoa tập tọng làm thơ ở thời ấu thơ, lại cũng chơi với ông khi về già tôi muốn kể thêm vài chuyện ngoài lề mà không phải ai cũng biết.

          Trần Đăng Khoa là một người khá đặc biệt. Ông có khả năng ứng tác thơ. Điều này hình thành từ khi còn nhỏ. Do nhiều người không tin, hoặc cũng có thể tò mò, người ta hay ra đề cho ông làm. Yêu cầu viết gì, ông viết cái đó. Rất nhanh. Có bài thành kiệt tác, có mặt trong các tuyển tập. Ông viết theo yêu cầu hay tự nguyện sáng tác đều như nhau. Đây cũng là cái tài của ông, quả thật cũng là hiếm có. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ thật, nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tài thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú, từ cây cối, đồ vật, con vật, tình huống này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra làm đề tài. Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt hàng của báo này, báo nọ, ông nọ bà kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn  em, Sao không về Vàng ơi, Cái sân, Cây dừa... là những bài như thế. Rồi sau này là cả tập Chân dung & Đối thoại, rồi Đảo chìm, Hầu chuyện Thượng đế cũng vậy.

          Đấy là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ đùa ứng tác, kiểu xuất khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau ở Lớp bồi dưỡng học  sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc (trước ngày giải phóng miền Nam), tôi lần đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa khi nhóm học sinh chúng tôi trêu đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay một bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu đúng y với yêu cầu đề ra, mà thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi còn thuộc bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Vì bài này chứa nhiều bí mật nội bộ của nhóm nhất quỷ nhì ma chúng tôi. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu đùa, bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dư tửu hậu, phiếm đàm nơi công sở.

Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng gom lại thành tập, kể cũng thú vị đấy, khéo còn bán chạy hơn cả Góc sân và khoảng trời, Chân dung và Đối thoại. Tôi chỉ xin dẫn một bài. Chuyện là, Đài TNVN họp cộng tác viên ở Bình Định. Các phóng viên nữ Sơn La uống rượu như cọp. Các em đề nghị nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng làm thơ tặng. Mừng nhờ Khoa cứu nguy. Khoa viết ngay vào giấy ăn bài thơ về rượu, chếnh choáng ngay từ câu đầu đến câu cuối. Đúng là ma men, dù Khoa không biết uống tượu: Biển và trời Bình Định/ Sóng sánh màu Sơn La/ Ngổn ngang bao ngọn núi/ Ngả nghiêng trong xó nhà/ Ánh trăng vàng Ghềnh Ráng/ Tan trên đỉnh Chót Pài/ Chỉ còn thần với thánh/ Bồng bềnh dưới đít chai/ Thế là bao đau khổ/ Chẳng còn là khổ đau/ Kìa biển trời chếnh choáng/ Ngắm chúng mình …uống nhau. Viết ngay tắp lự mà viết được như thế là tài lắm chứ. Trẻ con thần đồng. Già nua thần lão. Thì cũng vẫn Khoa cả thôi!

 

 

LÂM HUY NHUẬN,

 chàng thi sĩ  lãng tử

 

 

          Tôi biết đến cái tên Lâm Huy Nhuận bắt đầu từ bài thơ Thung lũng tiếng chim đoạt giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ khi cuộc chiến tranh chống Mỹ Ngụy chưa kết thúc, cùng với người bạn thơ mặc áo lính với anh là Hoàng Nhuận Cầm. Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, mãi cho đến quãng năm 1978 tôi mới biết mặt Lâm Huy Nhuận, khi đó đang là sinh viên Hán Nôm khóa 22 của Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số là, tôi có mấy người bạn học cùng khoa với anh, hay rủ tôi sang chơi vào dịp cuối tuần nhân thể dự đêm thơ của trường ấy. Ở vào thời điểm đó, Khoa Văn Đại học Tổng hợp hay tổ chức đêm thơ ở khu giảng đường Thanh Xuân, Hà Nội. Người đọc thơ thì nhiều, sinh viên có và cả những nhà thơ bên ngoài cũng có, song nổi bật nhất thì chỉ có hai, ấy là Hoàng Nhuận Cầm và Lâm Huy Nhuận. Giảng đường chật ních những người, đa số là dân Tổng hợp, cũng có sinh viên của một số trường đại học khác ở Hà Nội mò đến dự, kiểu như mấy đứa chúng tôi. Tôi nhớ, khi Hoàng Nhuận Cầm đọc thơ, anh như người nhập đồng. Đám cử tọa nữ sinh bên dưới nhiều đứa lén chấm nước mắt. Còn Lâm Huy Nhuận thi khác, thơ anh không êm dịu, ru rín lấy nước mắt như thơ Hoàng Nhuận Cầm, mà câu chữ có gì đó rổn rảng, tinh xảo. Thực ra, anh trình diễn thơ, giọng khỏe, điệu bộ chân tay như diễn đạt ý tưởng. Nghe rồi, tôi thầm so sánh. Hoàng Nhuận Cầm, lời thơ bộc trực, ý lộ, như chuyện kể giàu nhạc điệu, nên hiệu quả tức thì, dễ lay động tuổi mới lớn đang yêu. Trái lại, Lâm Huy Nhuận chắt lọc, ẩn ý, câu chữ ấn tượng nên dễ át người nghe, thoáng qua thì khó hiểu, sau xem lại bằng mắt mới thấy từ, thấy tứ. Chính vì sự khác hẳn nhau, nên khi cả hai cũng xuất hiện trên diễn đàn, đều nổi bật tuy hiệu lực trái nhau...

          Bẵng đi, mãi năm 1987, tôi về nhận công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, đã thấy bóng dáng Lâm Huy Nhuận vật vờ đâu đó trong sân trụ sở 58 Quán Sứ. Thì ra, anh đã trở thành biên tập viên của Ban Văn nghệ nhà đài mấy năm rồi.

          Với Lâm Huy Nhuận, để chơi được thì trước hết người đó phải ôn hòa và có sức chịu đựng, hoặc không thì tính cách dữ dội cỡ tương đương. Điều này, có lẽ nhiều người trong làng văn thơ, làng họa và cả những người quen biết anh còn hiểu hơn tôi. Tôi chơi được với anh là nhờ chọn cách ôn hòa, và dù nhiều khi có thể nói là chịu đựng, song cũng là phù hợp với tính cách tôi.

          Lâm Huy Nhuận là người đa tài, chí ít trong  bốn lĩnh vực: thơ- họa-  bốc phệ và xem mạch bốc thuốc đông y.

          Với thơ, đấy là duyên nghiệp của anh. Lâm Huy Nhuận được bạn đọc, công chúng biết đến trước hết là nhờ thơ. Thân sinh ra anh là thi sĩ Yến Lan, con kỳ lân của nhóm Tứ Linh đất Bình Định từ thời tiền chiến (Hàn Mặc Tử-Chế Lan Viên- Yến Lan- Quách Tấn). Có lẽ Lâm Huy Nhuận chỉ thừa hưởng ở cha mình cái gen thơ phú lãng tử, còn lại anh tự lập ngôn. Sớm nổi tiếng với giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ khi còn là lính chiến với bài thơ Thung lũng tiếng chim, song nếu chỉ có vậy, sẽ chẳng là gì cả. Sau khi phục viên, học ngành Hán Nôm -Tổng hợp Văn Hà Nội, rồi về Đài TNVN, Lâm Huy Nhuận nhũng nhẵng làm thơ. Nói vậy bởi anh không bỏ mà cũng chẳng ham. Khi đọc thơ thì trong đêm thơ sinh viên hàng mấy trăm người, đọc cho dăm ba người xung quanh nghe, hoặc lúc say rượu chỉ đọc cho người bạn đối ẩm, anh đều bốc như nhau. Đọc thơ thì vậy nhưng làm thơ không vậy, không bốc đồng và cũng chẳng hề sốt ruột. Mặc ai đó thiên hạ làm thơ đăng báo và in tập như điên, để rồi thành nhà này nhà nọ. Anh thì không. Chỉ làm khi có tứ, có cảm xúc thật. Câu chữ , ý tứ chắt lọc lắm thay. Rồi ra cũng chẳng cần đăng báo. Thích thì đọc bạn bè nghe chơi. Ai đó thấy thích bảo đăng thì đăng. Cứ nhũng nhẵng thế hàng chục năm trời, đến nỗi bạn bè anh em sốt ruột hộ, và nghe nói cả Hội Nhà văn cũng sốt ruột lây cho anh. Quy chế hội là chí ít phải ra tập, mà Lâm Huy Nhuận chẳng chịu ra cho. Hội thì cứ chờ ra tập rồi mới giới thiệu kết nạp hội viên. Mãi thì chuyện gì đến cũng phải đến, anh xuất bản tập thơ đầu tay "Chiều có thật " ( NXB Văn học, 1999 ), và sau đó trở thành hội viên Hội nhà văn. Với anh, chẳng có gì khác trước, sống vẫn vậy và viết cũng vậy, thất thường, nhũng nhẵng và dai dẳng !...

          Với những người không biết Lâm Huy Nhuận, quả là cầm tập thơ Chiều có thật mỏng mảnh với 62 bài, phần nhiều là thơ ngắn, sẽ chẳng thể cảm sức nặng của nó. Bìa sách màu nâu nhạt do họa sĩ Phan Cẩm Thượng, bạn anh, bỏ công vẽ, thoạt nhìn sơ sài, phải ngắm kỹ mới thấy sự độc đáo. Song sự độc đáo chính lại ở ruột của của tập thơ. Đọc qua thấy bài nào cũng được. Đọc nhẩn nha, rồi ngẫm nghĩ, thấy lạ và hay. Hầu như, bài nào cũng có cái được, khi ở cấu tứ, khi ở câu chữ , lúc là nhịp điệu, mạch thơ ... Có những bài hay như : Tự xông đất, Chiều thu,  Mặt hồ, Váng sương, Và đôi lúc ...Song khi bảo phải chọn một bài thôi, thì thật khó. Nhìn chung, thơ Lâm Huy Nhuận ngôn từ sắc lẻm và táo bạo, kiệm chữ, mà không gian vẫn hư ảo. Đọc rồi, ưng hay không là tùy ở người, song bao giờ cũng đọng lại một cái gì đấy. Tôi nghĩ, thơ Lâm Huy Nhuận được, và có chăng hơn ai đó, là nhờ đấy.

          Tuy thơ làm nên tên tuổi Lâm Huy Nhuận, song với anh thơ chỉ là non nửa, nếu không đả động gì đến những cái tài khác.

          Họa chẳng hạn. Cũng như thơ, Lâm Huy Nhuận đều đối xử bạc bẽo như thế. Anh chơi với nhiều họa sĩ, chẳng học họa ngày nào, thấy người vẽ  thì anh cũng vẽ. Khoái lên, điên điên lên thì vẽ. Anh chọn chất liệu bột màu giấy dó là chính. Anh vẽ phố, vẽ người, vẽ con vật... Vẽ xong, xếp đồng giấu sau tủ. Lâu lâu tự lôi ra ngắm, hoặc sau trận nhậu, tây tây lên, lôi bạn bè đàn em về nhà và lôi tranh ra khoe. Vẽ thế, song xem tranh anh người ta thấy lạ, thấy quái, rồi thì tìm thấy sự hợp lý trong cái lạ, cái quái, mà thích. Chơi họa nghiệp dư song làng tranh gán gọi anh là ông " tôm ôm đá, cá trên mái nhà, đàn bà một vú, hổ tứ đuôi ". Vậy cũng đủ thấy tranh của Lâm Huy Nhuận không thường chút nào. Lý giải cho cái sự không học mà vẽ của mình, hơn một lần Lâm Huy Nhuận tuyên bố rằng : " Có triết ở trong đầu, tự sẽ thấy bố cục, cấu tứ , mảng màu ... mà thành tranh ". Phải chăng đấy là tuyên ngôn nghệ thuật của anh ? Dân họa chịu anh đến đâu thì có trời biết ...

          Mặc dù lối sống hơi bụi bặm, song tự trong máu, Lâm Huy Nhuận là một người thấm đậm chất phương Đông, nho sĩ. Nhưng anh là nho sĩ của thời đại mới. Chẳng thế mà một lần đến chơi thăm Tào Mạt, sau vài giờ đồng hồ đàm đạo văn chương, kê đơn thuốc tiêu ung cho Tào Mạt, đường về, anh phán một câu xanh rờn: " Ông này có chất nho sĩ, nhưng mà là hủ nho ". Khoan bàn về việc đúng sai khi nhận định Tào Mạt như vậy, song rõ ràng ở đây, Lâm Huy Nhuận nhận thấy anh và Tào Mạt có nhiều điểm giống nhau, duy chỉ có điều, ông ôn nhu và kém lãng tử hơn anh. Thực ra, Tào Mạt là người yêư nghệ thuật chèo và đã từng khởi xướng việc cách tân chèo thì hẳn ông không phải là người cổ hủ. Có chăng, ông luôn biết giữ sự mực thước mà thôi.

          Nho y lý số, xưa nay các bậc túc nho đều có. Lâm Huy Nhuận không phải và sẽ chẳng bao giờ là bậc túc nho, song anh khá tam tường về những lĩnh vực ấy. Anh có căn duyên với nghề thuốc. Lại cũng như họa, không trường lớp, anh tìm thày theo học, rồi mầy mò tìm sách, vận dụng cái chất triết, chất lý trong đầu và vốn chữ nghĩa Hán Nôm mà tự học thành nghề thày thuôc Đông y, và cũng khá nổi tiếng. Đấy mới là cái nghề thực sự nuôi sống gia đình anh. Chỉ thế thôi, anh đâu có ham tiền, ham làm giàu từ nghề thuốc, bởi không, là trái với tính cách con người anh, trái với đạo nghề. Không những thế, Lâm Huy Nhuận còn được nhiều người biết đến với tài bốc phệ, lấy quẻ tử vi, xem tứ trụ. Nhiều lần anh giữ mục Thày thuốc Đông y cho tờ báo này báo nọ. Rồi mỗi độ tết đến xuân về, bạn đọc lại thấy những bài viết của anh dự đoán vận khí năm mới đó đây trên mặt báo. Còn với bạn quen, người lạ, có lúc phải rợn người bởi lời phán về vận khí cá nhân mình khi tình cờ gặp lúc anh nhập đồng. Đâu phải với người khác, với chính bản thân mình, anh cũng vậy. Có một dạo, anh em cơ quan và bạn bè thân quen bỗng thấy anh tuyên bố, rằng anh phải hành phương Nam thì mới hợp vận, hợp cách của mình. Tưởng đùa vậy thôi, anh đùng đùng nộp đơn lên lãnh đạo xin vào công tác ở văn phòng phía Nam. Và anh đi thật. Lúc ở gần, nhiều khi thấy bừng bực về sự thái quá của anh, song anh đi rồi lại thấy thiêu thiếu văng vắng...

          Lữ hành cô độc là tên một truyện ngắn của tôi lấy cảm hứng từ Lâm Huy Nhuận, viết cách đây mười mấy năm, được in trong tập truyện đầu tay Đêm nguyệt thực. Bài viết này về anh, tôi thích giữ nguyên cái tít ấy, bởi nó đúng với anh. Đa tài và đa tình, song cô độc. Lâm Huy Nhuận sống ồn ào đấy, nhưng thực ra anh là người lặng lẽ, thu mình, khó chia sẻ. Là gỗ quý nhưng vỏ nhựa độc, khó dùng. Tự thân muốn làm gì thì làm, miễn là phải đạo. Cũng khá tự do, tự tại, ấy là sướmg, song lại tự vây hãm mình. Cô độc là vì thế chăng ?

          Ngẫm cho kỹ, thực ra từ ngót hai mươi năm trước, Lâm Huy Nhuận đã tự họa mình, hình và bóng, tâm tư và tính cách  : " Tự mình xông đất cho mình/ Căn phòng vắng ngắt lặng thinh suốt mùa/ Tự đốt pháo, tự giao thừa/ Bắt tay chúc tết như vừa thấy nhau/ Giật mình hai mắt trũng sâu/ Người trong gương ấy còn đau hơn mình " (Tự xông đất).

          Cũng chẳng rõ, khi nào Lâm Huy Nhuận cho ra tập thơ tiếp theo. Thơ thì vẫn làm, nhưng người ta nhắc đến anh như một thày thuốc đông y và có tài bốc phệ nhiều hơn. Dường như, với thơ, anh đang nén đợi một điều gì đấy ?!...

          Và rồi, sau 23 năm ra tập thơ đầu, tập thơ thứ hai của Lâm Huy Nhuận đến tay bạn đọc. Tập thơ “Mùi mưa sông mắt ướt” (NXB Hội Nhà văn , 2022) dày dăn với 132 bài. Vẫn nguyên tính cách Lâm Huy Nhuận, tên tập, tên bài là lạ. Thơ ngắn, khá chắt lọc, ý tứ kín và giàu sức liên tưởng. Lâm Huy Nhuận không tiến mà cũng chẳng lùi. Vẫn nguyên một cõi thơ của riêng mình.

         

 

 

NGUYỄN ĐĂNG TIẾN,

làm thơ để là chính mình...

 

Có lần, lúc trà dư tử hậu, tôi hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, rằng câu lục bát nào của Nguyễn Bính là hay nhất? Trần Đăng Khoa ngay tắp lự bảo, Nguyễn Bính có nhiều bài thơ lục bát hay, câu lục bát thích, song khoái nhất câu này “Quê tôi có gió bốn mùa/ Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm”. Phàm làm thơ, kỵ nhất là nói những diều hiển nhiên. Vậy mà, tài tình ở chỗ, câu thơ này của Nguyễn Bính toàn nói những điều hiển nhiên ai cũng biết, nhưng cái suwj hiển nhiên ấy không hiển nhiên chút nào, ở chỗ, đọc rồi sinh ám ảnh mãi. Ngẫm nghĩ, thấy Trần Đăng Khoa thật tinh và có lý. Nguyễn Bính nói những điều hiển nhiên ấy một cách thản nhiên như không lại khiến người ta tò mò sinh nghĩ ngợi và rồi gợi mở ra những thứ chẳng phải hiển nhiên mà có,... Trò đời lắm lo-gic ngược là thế.

Văn chương, thơ phú, càng dụng công, nắn nót càng hỏng. Câu thơ hay là trời cho thì được. Dông dài đôi chút là để trở lại với tập thơ của nhà báo Nguyễn Đăng Tiến mà bạn đọc có trong tay,...

Nhà báo Nguyễn Đăng Tiến vốn là một kỹ sư ngành nông nghiệp, được chuyên gia của Cộng hòa dân chủ Đức đào tạo trực tiếp theo chương trình hợp tác đào tạo giữa nước bạn và ta, rồi sau đó chuyển sang làm công tác Đoàn. Từ trung ương Đoàn ông được điều ra nước ngoài quản lý công tác Đảng đoàn người Việt Nam học tập và lao động ở Đức. Về nước, ông   quản lý ở Nhà in Tạp chí Cộng Sản,  rồi lần lượt giữ các chức vụ  Chánh Văn phòng và Phó Tông biên tập Tạp chí Cộng Sản. Tiếp đó ông chuyển sang giữ chức Phỏ trưởng ban Công tác đại biểu của Quốc hội Việt Nam và sau cùng về Đài Tiếng nói Việt Nam với cương vị cao nhất, Tổng giám đốc Đài. Việc trải qua nhiều cương vị và lĩnh vực công tác giúp cho ông có một vốn sống phong phú, sự từng trải dày dặn và sự chiêm nghiệm sâu sắc,  điều này là một lợi thế cho người cầm bút và sáng tác thơ ca.

 Phàm người làm công tác quản lý lãnh đạo, nhiều khi phải nói những điều cần nói sao cho có lợi cho công tác quản lý nói chung, chứ chưa hẳn là những điều mình nghĩ, mình tâm niệm. Thế nên, với nhà báo Nguyễn Đăng Tiến, làm thơ là một cách để ông trải nỗi lòng, để được là chính mình,... Phải chăng vậy mà ông lấy tên tập thơ của mình là CỖI RU? Đây là tập thơ thứ hai của ông sau tập thơ đầu “Dư vị thời gian” (Nxb Văn học, 2015). Thơ là tiếng của cõi lòng, xưa nay vẫn thế. để trang trải nỗi niềm riêng,  an ủi và xoa dịu chính mình, để chia sẻ và cảm thông với đời,… Tôi ngĩ vậy.

Nhưng trước khi nói về Nguyễn Đăng Tiến với tập thơ mới “Cõi ru” của ông, tôi muốn bàn chút về những đóng góp của ông trong lĩnh vực quản lý Đài Tiếng nói Việt Nam cho sự phát triển chung của nhà Đài trong nhiệm kỳ ông giữ cương vị Tổng giám đốc (2011-2016). Trong khoảng thời gian này, tôi là người giúp việc hàng ngày cho ông với tư cách Chánh Văn phòng rồi Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ, kiêm Chủ tịch Liên chi hội Nhà báo Đài TNVN.

Trước hết, xin trân trọng đặt gần nửa thế kỷ hình thành và phát triển của Đài TNVN từ ngày thành lập do Tổng biên tập Trần Lâm lãnh đạo (43 năm, từ 1945 đến 1988) ở phía trước, để các bậc tiền bối đàn anh nhận đỉnh, và sau đó, các vị lãnh đạo kế nhiệm khi tôi đã nghỉ hưu nên không rõ, mà chỉ bàn đôi chút về quãng thời gian khi mình trở thành một thành viên của mái nhà chung, trụ sở 58 Quán Sứ, Hà Nội, từ thời điểm nhà báo Phan Quang tiếp quản, và trải qua thời kỳ các Tổng giám đốc Trần Mai Hạnh, Vũ Văn Hiền và Nguyễn Đăng Tiến thay nhau quản lý.

Với nhà báo, nhà văn Phan Quang, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Đài TNVN, ông đã có một thời gian dài làm báo ở báo Nhân Dân với tư cách là một cây bút bình luận có hạng, rồi sau đó ông lần lượt giữ chức vụ quản lý ở Ban Tuyên giáo Trung ương (Vụ trưởng Vụ Báo chí) và Bộ Thông tin (Thứ trưởng). Về Đài TNVN, ông chủ trương tăng cường tính bình luận các vấn đề thời sự nóng bỏng, những vấn đề cần làm ngay (thời kỳ này, Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh phát động “Những việc cần làm ngay” - N & L). Ông cũng bắt đầu nhận thấy lối phát thanh cũ (các chương trình đóng cứng, phát thanh ngăn kéo) tỏ ra không phù hợp với sự biến động và phát triển của xã hội nên cho thử nghiệm một số chương trính phát thanh mở (như “Tạp chí truyền thanh”, FM Tin tức và âm nhạc…). Đây còn là điều kiện và cơ hội để phát thanh truyền hình và báo chí nói chung tiếp cận với báo chí thế giới qua tổ chức OIJ, đặc biệt là các quốc gia Âu Mỹ có nền phát thanh truyền hình hiện đại. Đây cũng là thời kỳ nhiều phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên ngành phát thanh truyền hình nước ta được đưa ra nước ngoài đào tạo,… Bản thân, năm 1996, tôi là một trong số các phóng viên nhà Đài được cử tham dự một khóa học về phát thanh hiện đại tại Paris kéo dài gần 2 tháng theo học bổng của chính phủ Pháp mà Tổng giám đôc Phan Quang nỗ lực mang lại.

Với nhà báo Trần Mai Hanh, trong khoảng thời gian gần 7 năm là Tổng giám đốc, ông mạnh dạn và quyết liệt trong việc nâng cao chất lượng chương trình phát thanh, tạo dựng nhiều chương trình mở, nhất là thể loại phóng sự điều tra. Đây cũng là thời kỳ nhà Đài có nhiều phóng sự điều tra gây chấn động làng báo và xã hội Việt Nam. Đặc biệt, đóng góp của ông  đặt nền móng cho Đài TNVN từ cơ quan phát thanh đơn thuần trở thành tập đoàn truyền thông đa phương tiện, như mở báo in, báo Tiếng nói Việt Nam (1998) và báo điện VOV.VN (1999),…

Tổng giám đốc Vũ Văn Hiền tiếp quản Đài, trên cơ sở sự khai mở của các lãnh đạo tiền nhiệm, ông mở thêm báo hình (phát thanh có hình) để Đài TNVN trở thành cơ quan truyền thông đầu tiên và duy nhất có đủ 4 loại hình báo chí. Đặc biệt ông khai mở Kênh phát thanh Giao thông (VOV GT) ngay lập tức thành công và phát huy hiệu quả tốt về báo chí, xã hội và kinh tế cho đến tận bây giờ. Cùng với đó, đảy mạnh việc nghiên cứu khoa học và áp dụng kết quả vào thực tiễn quản lý, điều hành,…

Về phần mình, Nguyễn Đăng Tiến khi đảm nhiệm cương vị cao nhất, nhà Đài đã khá đầy đủ và toàn diện, đây là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn khi phải chèo lái một con tàu đầy ắp nhưng dần trở nên nặng nề. Không chịu sức ì của tàu đầy ắp, ông quan sát để tìm ra những gì cồng kềnh và  những điểm chưa hợp lý, đặng tổ chức sắp xếp lại cho gọn gàng, hay một cách hình tượng là tim ra những khe hẹp để lách mái chèo ,… Trong nhiệm kỳ của mình, Nguyễn Đăng Tiến đã để lại dấu ấn khá đậm nét, như việc rà soát để điều chỉnh lại mặt sóng cho hiệu quả hơn; tạo format mới và bồi dưỡng các “cây bút” nhằm gây dựng thương hiệu để tăng nguồn thu;  quan tâm và đầu tư chiến lược cho phát thanh đa nền tảng, mở rông băng thông cho nền tảng số (vov.vn, giao ban trực tuyến…). Cũng không vì con tàu VOV đã đầy ắp mà không dám chất thêm hàng, ông đã cho mở thêm chương trình phát thanh tiếng Hàn Quốc (VOV5), các cơ quan thường trú trong và ngoài nước (như khu vực Đông Bắc, văn phòng thường trú tại Cộng hòa Séc và Đông Âu, đặt vấn đề mở thường trú tại Indonesia, Australia, Ấn Độ mà sau đó Đài đã triển khai thành công và hiệu quả).

Trở lại với một Nguyễn Đăng Tiến – Thơ,

Tiếng là làm thơ để trải lòng nhưng Nguyễn Đăng Tiến không cho phép mình tự nhiên, dễ dãi, thế nào cũng được. Đọc thơ ông, có gì đó là lạ, không giống ai, ngẫm nghĩ thấy thú vị, nhiều bài ý tứ sâu xa... Người ta bảo, thơ có thể hay hoặc chưa hay, nhưng trước tiên không được giống ai đó, ngay cả lặp lại mình, còn như có được giọng điệu riêng thì khỏi phải bàn. Thơ Nguyễn Đăng Tiến không giống ai. Trong thơ, Nguyễn Đăng Tiến trung thực với lòng mình, không làm dáng và cũng chẳng uốn éo, điệu bộ. Ông cũng thích nói những điều hiển nhiên một cách tự nhiên và cũng không e ngại cách diễn đạt khác người. Mình cảm nhận sao thì nói vậy. Phàm với người làm thơ, rộng ra trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật nói chung, ấy là điểm mạnh, là cái cách để người ta thoát ra chuẩn mực thông thường…

 

Tập thơ CÕI RU của Nguyễn Đăng Tiến với dung lượng không nhiều, nếu bạn hứng thú thì đọc loáng một cái đã xong… Còn như bạn hứng thú hơn mà dừng ở một câu, một bài nào đó, nhấn nhá một chút sẽ cảm nhận được ẩn giấu trong đó là mạch chảy của sự chiêm nghiệm, chắt lọc giữa cái chung và cái riêng; giữa cái bao la và cái hữu hạn, gần gũi của trời, của đất, của thiên hạ, thế gian qua sự thăng hoa và lưu dấu hôn cốt của tác giả.  Ở đấy cũng đọng lại đủ vị, cay, chua, mặn, chát... ; rồi đủ cung bậc cao, thấp, sâu xa, đáo để và cả chút phiêu lãng của cuộc đời,...

Giờ thì hãy trả Nguyễn Đăng Tiến về với “Cõi Ru” của mình để ông “mượn trời chút gió” mà rong ruổi cùng với biển…hay sa đà một chút xem sao: “Rượu là một cõi bao la/ thiên hạ uống rượu còn ta uống nàng”!?...

 

 

Nguyễn Hiếu, nhà văn người làng Chèm


1, Dấu ấn làng Chèm.

 

       Nhà văn Nguyễn Hiếu luôn tự hào là người làng Chèm.

       Vậy cài làng Chèm ấy là làng nào?

       Làng Chèm có tên chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu ngạn sông Hồng đoạn đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào diện làng cổ Việt, với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di sản văn hóa. Tương truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến năm 866, Cao Biền, quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và tạc tượng Lý Ông Trọng (tên thật là Lý Thân), một vị võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến công hiển hách, và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này, Lý Ông Trọng được người đời tôn  như vị Thánh, thờ phụng ở nhiều nơi cả Việt Nam và Trung Hoa. Đương nhiên, vì quê gốc Lý Ông Trọng ở làng Chèm, nên  được thờ phụng ở đình Chèm (nay gọi Đền Chèm) với tư cách Thần Hoàng làng, và có ý nghĩa hơn bất kỳ nơi thờ phụng ông nào khác. Vùng đất với bề dày trầm tích lịch sử văn hóa như vậy, Nguyễn Hiếu tự hào là người con của làng Chèm cũng phải thôi.
       Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ, nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy, rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu, cười đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "Tay này, văn chương của hắn ngai ngái mùi cỏ và hoai hoai vị phân trâu làng Chèm. Viết lách, hắn vơ víu, nhặt nhạnh, cấm bỏ sót cái gì, từ bãi phân gà phân chó làng Chèm trở đi...". Nghe vậy, Nguyễn Hiếu chỉ cười khì, không giận, bởi ông hiểu, ngoài sự tếu táo, đùa cợt cửa miệng cho vui ấy, là một sự thật, ấy sự thấu hiểu ngọn ngành, chân tơ kẽ tóc, từ lịch sử văn hóa đến phong tục tập quán và đời sống dân sinh của làng Chèm, một làng mang tính điển hình cho làng quê Bắc bộ xưa nay. Và như thế, khác nào việc thấu hiểu văn hóa làng quê Việt cổ truyền vậy ?...
       Trong văn chương của Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng dễ bề bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên làng Chiện. Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì hầu như làng Chiện có cả, song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa hẳn đã có. Vây nên, làng Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của Nguyễn Hiếu mà thôi. 
       Thế là cái làng Chiện ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày biện các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất hiện lẻ tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của ông.   

2. Nguyễn Hiếu, phu chữ,

        Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.

          Trước khi điểm những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ, cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần, Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá lớn tác phẩm đã xuất bản. 

          Năm 1984, Nguyễn Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhớ một cách đầy tự hào, rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những người thích đùa, của  nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội, dựng pa-nô quảng bá vẽ bìa cuốn sách này...

          Sau tập sách đầu tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu thuyết “Người đàn bà quỷ ám”.  Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án...  Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi đườngTôi bán mình. Giải thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn  Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết. Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...

          Sau quãng thời gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách. Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật (Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu, Hội Điện ảnh VIệt Nam).

Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích dự các Trại sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia. Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc. 

Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài ?!...

Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như  Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!

         

3. Chất hài, người và văn.

Ở xứ Việt mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ, là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố (trong Việc làng), và nhà văn Nam Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...

Lóp trước là vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây văn chương giàu yếu tố uy-mua như Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...

Thường thì, văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người, trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương  hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa” (chẳng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản xuất chương trình của nhà Đài)...

Đấy là con người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra  tập hài nữa là “Cười dành cho tất cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ hài. Tuy không chuyên tâm viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết các tác phẩm của ông ở mọi thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch phim, tiểu luận, phê bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một thế mạnh của Nguyễn Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dính vô cùng quan trọng giúp các tác phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số tác phẩm về  ý tưởng, hoặc kết cầu, còn non. Hài là yếu tố đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh vốn có này, đã chuyền dần sang địa hạt sâu khấu và ông khá thành công. Kịch bản của ông không những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng cao trong các hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, nhan nhản chi tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn học, cũng thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hứng hài hước. Đợt dự trại sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc trá dư tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra nhiều nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn xác, ngắn gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...

 

4. Lãng đãng thơ

          Lãng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém miếng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia, song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca. Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì  riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả kịch thơ, trường ca. 

          Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài viết dài bàn luận “Tính công dân trong thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn ngữ kịch đã làm nên tính công dân trong thơ ông?

          Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông. Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như vậy, thường tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết, Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng, Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận, bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo ra đấy, cần chi phải đọc hết cả bài cho mất công !?...

          Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ,  mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có cái đọng lại để khen.

          Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới, đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt Nam. Xin viện dẫn:

Đầy suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/ Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/ Tình một thủa ai quên?... (Trở lại căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả bây giờ/ Ai đi qua đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi thoi đụn nhà mái rạ/ Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái lùn đi vì gánh vì gồng/ Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng gày/ Con thuyền cũng mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...”  (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh)...

          Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.

Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi, trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/ Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn, khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); Một thủa làng tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh tư đã rời hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người chập choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng sâu...” “Một thời làng tôi/ Đàn ông vợi đi vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu cứng mồm hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/ Thóc giống cắn chuột trong bồ...” (Đàn ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa ấy thế/ Nước dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không chua vị khế/ Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ hát/ Dây quai thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng ông chuếnh choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);

          Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ Rét ở Mường Khương, nỡm mọi người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” đây nữaCó thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp vào

Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lửa/ Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..

          Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn, đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình....

          Tiếc là Nguyễn Hiếu ra đi sau một cơn đau tim đột ngột năm 2023.  Nghe nói mấy hôm trước đó, ông còn dự một hội thảo, phát biểu tham luận hăng lắm. Giờ lại nhớ cái cười và những câu bông lơn tếu táo cửa miệng của ông. Ông lao đông văn chương miệt mài không ngừng nghỉ, nếu còn ở cõi đời thì không biết danh sách tác phẩm của ông sẽ dài đến đâu ?

 

 

NGUYỄN HUẤN,

KỊCH SĨ GIỮA ĐỜI THƯỜNG

 

 

Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tại Huế vào một ngày đầu tháng 9 năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời....

Ở tuổi 66, không phải là trẻ nhưng cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười lăm năm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang lang thang đâu đó ở Huế rồi đột ngột ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định, mất vào chiều ngày mồng một tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn Huấn đã sắp đặt cho sự ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, khi anh bỏ nhà lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những năm còn lại, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...

1. Cách đây lâu rồi, đó là năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là phóng viên chương trình Tạp chí truyền thanh & Du lịch do nhà báo Thanh Lịch phụ trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu lưu tình ái của anh, tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cố gái xứ dừa Bến Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”. Truyện in báo rồi vào sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nổi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền Trumg. Nguyễn Huấn cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao éo chết, sống nhăn răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một phần tư thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh diễn cố cho xong!...

Nguyễn Huấn quê Kim Thái, Vụ bản, Nam Định, sinh naw,1956 tuổi Bính Thân. Anh hay vui miệng khoe, tuổi Con Khỉ nên theo nghiệp diễn là đúng vai đúng số. Nghe đâu, sơ sinh, Nguyễn Huấn nặng tới 4,3 kg, là chuyện hiếm hồi ấy. Bố là công an, mẹ là cán bộ phụ nữ, thuộc thành phần cơ bản, nhưng anh không theo nghiệp học hành mà sớm trở thành công nhân, vì bố mất sớm. Nguyễn Huấn làm công nhân ở Khu gang thép Thái Nguyên với nghề chính là lái xe goòng chở than và quảng. Sau này, những cuộc rượu vui, anh hay đùa về thời kỳ ấy, rằng hàng ngày cứ phải cầm lái điều khiển cái đầu tàu kéo dăm toa xe đầy than, quặng chạy đi chạy lại trên một đoạn đường cố định vài trăm mét, không khác gì phải diễn một vai kịch phụ khô cứng và nhạt phèo. Có lẽ vì chán nghề, không cam chịu, Nguyễn Huấn tìm niềm vui trong hoạt động văn nghệ quần chúng. Anh có khiếu kẻ vẽ, cắt giấy, hát hò, diễn kịch nên trở thành hạt nhân văn nghệ quần chúng ở Khu gang thép Thép Thái Nguyên. Và  cơ hội đến, Nguyễn Huấn được đơn vị mình cử đi dự tuyển đào tạo ở Trường Sân khấu Điện ảnh trung ương. Được đào tạp chính quy ở ngôi trường danh giá tạị thủ đô, Nguyễn Huấn bắt đầu làm quen và giao du với nhiều nhân vật có tiếng trong giới nghệ thuật biểu diễn ở trung ương, nên khi tốt nghiệp, anh không muốn quay về chốn cũ, vì như thế, nghĩa là anh chấp nhận vau diễn nhỏ, chẳng biết đến bao giờ mặt mũi mới sủi tăm lên được. Nhưng không quay về cơ quan cũ, cũng đồng nghĩa với bỏ việc chấp nhận cuộc sống tự do, tự lo công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, mà thời bao cấp, những việc ấy còn quan trọng hơn cả sự nghiệp. Thế nhưng, Nguyễn Huấn vẫn sẵn sàng chấp nhận, để đi tìm vai diễn lớn cho cuộc đời mình. Ạnh bước chân vào ngưỡng cửa Nhà hát Tuổi trẻ khi đó có các tên tuổi lớn là Thùy Chi, Phạm Thị Thành, Đức Trung và cùng với lứa diễn viên trẻ đầy tài năng như Lan Hương, Chí Trung, Ngọc Huyền, Minh Hằng, Anh Tú, Lê Khanh vv...

Dường như, vận may chưa mỉm cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vai quần chúng, thậm chí không có vai mà chỉ làm cái việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông cảnh, kéo phông màn,.. Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc rời Nhà hát Tuổi trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNVN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật, kể chuyện cảnh giác tối thứ bảy, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi với ngần ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp diễn, vì ở đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,

Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu. Khi ấy tôi làm việc ở Phòng Tiếp dân và xử lý đơn thư của Ban Thính giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Phòng làm việc cua tôi thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay dưới tòa biệt thự kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Văn nghệ với các phòng Văn học, Sân khấu và Văn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh chàng to béo lảm nhảm đe dọa người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh chàng béo. Người này khựng lại, vằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga: Kto? *Mày là ai?. Miệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy, biên tập viên Hồ Nhật Quang chạy đến kịp vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa quát vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sau đó, tôi biết được chàng béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn. Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài lấy nhuận bút, rồi vui miệng rủ Vũ Hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huấn thành tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn khi về chung phòng làm việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phục thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh trí, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.

Lân la rồi chẳng hiểu sao, Nguyễn Huấn xin được vào học việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà nước và Pháp luật do nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc cả. Khi ấy, Đài đã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên chính thức của nhà đài. Sau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ môn ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển. Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà cho nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn Huấn đã phát huy được chất giong tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình cho làn sóng của Đài, không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nợ môn tiếng Nga là thế, nhưng đã có lần, tôi chứng kiến, trong một chuyến công tác, khi cần giao lưu với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ôm ghi ta hát bài Đôi Bờ bằng tiếng Nga khá chuẩn xác, hay và đầy cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhờ khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hay do anh gây nên để thoát hiểm. Tội và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được. Thực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn Huấn. Thời còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng và Trần Nhật Minh, mỗi khi thấy Nguyễn Huấn giả lả nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện, mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, bỏ qua cho nhau cả.

Kể chuyện Nguyễn Huấn mà quên không nhắc chuyện “liên kết mậm riềng” của anh thì thật thiếu sót. Đây là câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu tố hài hước như chuyện ở một sân khấu hài kịch. Chuyện này lý giải đời Nguyễn Huấn chính thức ba đời vợ và mỗi thị sinh cho anh một công chúa, hay như cách nói dân dã của anh là vịt giời hoặc chữ nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời Nguyễn Huấn kể, tôi chắp nối lại thì toàn cảnh thê thiếp của Nguyễn Huấn nhứ sau: Thời còn là công nhân lái tàu goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy vợ và có con gái đầu lòng. Cô vợ này sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn. Tiếp theo, lang bạt về quê, Nguyễn Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì phải và kết cục của cuộc hôn nhân thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này, khi đã là phóng viên nhà Đài, trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ, Nguyễn Huấn tình cờ làm quen với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy làm vợ rồi đưa theo về Hà Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cô con gái nữa ra đời. Vậy là, liên doanh mậm riềng của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách liên doanh tiếp với hy vọng cho ra một mậm riềng (con trai) đặng có người nối dõi tông đường. Thế nhưng, trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời chẳng gật. Trước tuổi nghỉ hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ, nằm nhà cả năm trời. Dẫu không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất toại thì cơ thể cũng chậm chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà thôi. Đành nghỉ hưu trước tuổi, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi thiệt thòi lắm. Về chức vụ, hàm phó vụ trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành kịch phát thanh, huân chương Lao động hạng 3.

 

2. Nguyễn Huấn là người yêu thơ, là tác giả của hàng trăm bài thơ, ... song chẳng mấy quan tâm. Hình như, ờ vào thời kỳ chiến tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy thơ ca làm chỗ dựa tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huấn cũng là người như vậy. Sau này  Nguyễn Huấn có tập hợp in thành tập, ( tập Bóng đời, NXB Hội Nhà văn 2009)  nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết anh dính dáng thi ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm nhận thức, thi ca không nuôi nổi bản thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng tác kịch, diễn kịch phất thanh, rồi công tác tham gia các hội diễn văn nghệ quần  chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tươi thóc thật để lấy cái ăn cho vào miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ đã mất công sinh ra các tiểu thư, công chúa cho mình.

Tôi nhớ, trong nhiều chuyến công tác đi các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn Huấn cao hứng đọc thơ anh, thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc. Mục đích làm gia vị cho các cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, ngà ngà say, Nguyễn Huấn mượn rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê thơ, tôn thờ thơ và cũng thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn đấy nhé. Ông là dân văn xuôi thì cứ văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái và làm duyên với đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huân cũng có lý. Nhưng mà, cái gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính, song thơ túc tắc, cũng dăm bảy tập rồi. Còn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ từ khi nghỉ hưu, nằm khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên đường, dường như chỉ có thơ (sau miếng ăn, cuộc nhâu) là giúp anh chuyên chở sự hưng phấn hay nôi cô đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình, Nguyễn Huấn trải lòng bằng những bài thơ... Ví nhuw “SócTrăng nhớ” làm vào cuối năm 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai trẻ lang bạt kỳ hồ đây những lỗi lầm: “Anh sẽ đưa em về/ Bến Nguyệt Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề sang sông/ Dù đục và dù trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day dứt khôn cùng/ Người ơi !/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều cửa bể/ Mây nước buồn nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/ Người xưa !/ Và sông xưa !/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn Khmer/ Sông Trăng buồn sắt se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/ Cô đơn một bóng thuyền/ Thế mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tình”.  Hay như bài thơ “Em và thu “ làm ngày 10.8.2021  không lâu trước ngày Nguyễn Huấn ra đi vĩnh viến cũng một tông như vậy: “Có phải em/ MÙA THU/ Lá vàng lơi lơi/ đường vắng/ Thu lại mùa .../ em vẫn em/ Hình như/ câu Thơ/ của mùa Thu cũ/ Em tít tắp xa/ nơi miền xanh núi ngủ/ Từng đêm.../ vòng tay thả hững hờ/ Thu cùng em/ câu đợi, câu chờ/ Cúc vườn nhà/ vàng lên như nắng/ Hoa hát em nghe/ lời trống vắng/ Và nói hộ lòng/ em mãi mãi/ yêu anh/ Ở bên ni/ vẫn bát ngát xanh/ Huế giao mùa/ dòng trong ngăn ngắt/ Bến Sông Hương/ anh đi tìm câu hát/ Thương nhớ duềnh lên/ mỗi độ Thu về/ Câu thơ em ngân nga/ quấn quýt níu chân đi/ Cúc Quỳ vàng ruộm/ cho ai cay mắt/ Lễ giao mùa/ năm nay Cô vít/ anh nỏ về được mô ? Anh không về/ Câu Nam bình mượn Thu/ một chút nồng nàn/ em ru giấc/ Một chút se se/ một chút vàng/ Em vẫn em/ Thu vẫn/ Thu sang ,..

Dường như, cái nghiệp diễn kịch thấm vào con người Nguyễn Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử hằng ngày, cũng như trong nghề báo của anh. Và với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có chút tính kịch, câu chữ lại càng rõ, chất hội họa thêm chút khoa trương kiểu diễn viên thoại sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng. Miễn sao Nguyễn Huấn thấy vui, hay yên lòng mình là được, bởi nhiều nhà thơ lớn còn ối bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của Nguyễn Huấn còn đậm chất khoa trương hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên là bộ đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ tích/ Người lính trẻ trung theo đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực làng quê/ Súng bom thù xé ngang trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”* người đI/ Hiền lành như bông lúa rễ tre / Trong như giọt chuông/ chiều trong trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt quê hương / son sắt lời thề / Điện Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào đồng đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm phía quân thù/ Chiến hào Him Lam/ nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao thiết quá/ Có phải không cha: cánh hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh Điện Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến thắng/ Cha về nhé - sớm nay - cùng nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/ Bài ca hóa lửa vừng đông/Bóng cha xanh mướt cánh đồng Điện Biên...

Thơ ca làng nhàng vậy thôi, nhưng trong nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết sức nghiêm túc. Cùng với các nghệ sĩ, đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, Nghi Xuyên, Nguyễn Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu truyền thanh không những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ thống phát thanh cả nước. Ghi nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thanh hoàn toàn xúng đáng. Không nghững vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt nghệ thuật sử dụng âm thanh, tiếng động trong nghề báo phát thanh và lĩch vực quảng cáo khá thành công.... Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp chí truyền thanh cùng với tôi và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh... là những năm tháng Nguyễn Huấn say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy hết khả năng chất kịch trong con người và kiến thức của mình để sáng tạo từ khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn xuất của mình, để tạo nên những sản phẩm phát thanh chất lượng cao,...

 

3. Một sáng chủ nhật (tháng 9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng chút hơi thu mát mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì thì điện thoại reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi tôi có biết anh ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai. Sau một hồi chất vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo "Huấn đây. Nguyễn Huấn đây". Nguyễn Huấn thật sao? Thực lòng, khi nghe máy, đầu óc tôi không hề nghĩ đến Nguyễn Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không sủi tăm" những dăm, bảy năm nay rồi. Giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau nói... Một hồi, Nguyễn Huấn trách:"Ông vào Fb chưa? Tôi gửi yêu cầu kết bạn với ông rồi đấy". Quả là, lúc vừa vào mạng, tôi thấy mục xin kết bạn nổi cái nick Nguyen Huan Hue, có ngó qua, nhưng avatar nhỏ quá, tôi nhìn không rõ, nên chưa vội ok. Thói quen của tôi, hễ ai yêu cầu kết bạn, nếu không phải là người quen cũ, thì tôi cũng phải vào trang đó xem họ là ai, viết thế nào, rồi mới chấp nhận... Thì ra, anh bạn già lại kèm thêm cái tên của vợ vào, nên tôi không nhận ra... Vậy là hai thằng í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần như ngày nào tôi và Nguyễn Huân cùng alo cho nhau, này nọ. Tôi biết anh khỏe lại được mấy tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần kinh chập mạch" từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang đương chức Phó trưởng ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV... An ủi, khi đó, anh đã xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...

Nói căn bệnh "thần kinh chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn Huấn bị tai biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi làm lại. Ai cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi cũng vậy, nhưng cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười thì sau chỉ còn ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã hơn dăm năm nay. Cách đây 2 năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một số anh em cơ quan đi viếng ở mãi Nam Định. Gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy... Ai ngờ đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện Quân đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại, chập nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như hồi nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới đầu tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật mừng!

`        Đúng hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ là dứt ra, để không sai hẹn với người khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.

Nói theo cách nói thông dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi hại hơn xưa !...

Nhưng lợi hại chẳng thấy đâu, Nguyễn Huấn trở lại cuộc sống nguyên tính cách xưa, ăn to nói lớn, đi phăm phăm, làm linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa. Hinh như, Nguyễn Huân sống bù cho gần chục năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi nhẹ nói khẽ. Có cảm giác, Nguyễn Huấn hung hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên tiếp gặp gỡ lại các bạn bè đồng nghiệp làng báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn Huấn rời Hà Nội, lang thang đâu đó mãi miền Tây Nam bộ, rồi lên Tây Nguyên,...bỏ lại sau lưng người vợ thứ ba, người đã sinh cho anh cô công chúa út.

Lần gặp cuối cùng của tôi với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê dịp tôi xây lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dốc chuyện, nhậu tưng bừng và quậy cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm ỏ quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống khá nhiều. Rạng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân trên Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy đúng ngày Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12. Anh dánh thức, dựng tôi dậy khi trời còn chưa sáng, để đọc cho tôi nghe bài thơ anh vừa sáng tác (tôi đã trích ở phần trước bài viết này)....

Sau lần ấy, tôi chỉ còn thấy bóng dáng Nguyễn Huân thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc dòng tin nhắn trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ chút đỉnh về tài chính,... Lần theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn Huân vẫn lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng gió hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn Huấn vẫn đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi, biết giải thích sao đây,...? Dường như những ngày tháng cuối đời lang bạt này, Nguyễn Huấn quên mất lời tự răn mình và khuyên nhủ bạn bè là chớ đắm mình vào thơ mà khốn khổ, anh chỉ còn mấy mối quan tâm, ấy là miếng ăn vào miệng cho đỡ xót lòng và cùng với đó là Em và Thơ. Trang cá nhân của Nguyễn Huấn nhan nhản thơ tình,. Thơ về những vùng đất mà anh từng đặt chân đến...

Tôi không rõ lá số Tử vi của Nguyễn Huấn cụ thể ra sao, nhưng cứ cuộc đời anh mà suy thì hẳn cung Di và cung Nô của Nguyễn Huấn phải có sao tốt, nên chỉ khi nào Nguyễn Huấn còn đi được ấy là Nguyễn Huấn tồn tại, và hình như đến đâu anh cũng gặp được những người tử tế giúp đỡ, phò trợ ?... Thời bao cấp khốn khó, Nguyễn Huấn đã sớm ý thức việc lưu giữ những hình ảnh ghi dấu chân mình. Anh có chiếc máy ảnh cơ cũ kỹ nhưng vẫn chụp tốt, nên đến đâu cũng chụp dăm ba pô ảnh lưu niệm. Thời phim ảnh dắt đỏ song Nguyễn Huấn không tiếc tiền, chụp xong về chọn hình rửa thành ảnh hẳn hoi và mỗi khi trở lại nơi cũ, anh mang theo ảnh tặng lại cho chủ nhà. Mỗi lần vậy, Nguyễn Huấn ranh ma nháy mắt với tôi nói nhỏ:”Mỡ nó rán nó ấy mà...”. Nhờ thế sau này, tôi lưu giữ trong album của mình nhiều hình ảnh về Nguyễn Huấn và tôi cùng đồng nghiệp báo chí khác...

Và cho đến một ngày (kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi, vì biết anh quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép lại rồi, chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những cơn say, Nguyễn Huấn nhập đồng diễn, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè ai đó có muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,

Nguyễn Huấn, chàng kịch sĩ giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đồng nghiệp VOV và làng báo, chẳng quên anh đâu !...

 

 

NGUYỄN HUY DUNG

                                     đủng đỉnh báo và thơ


          Vậy là nhà báo nhà thơ Nguyễn Huy Dung về cõi vĩnh hằng đã ngót chục năm rồi đấy. Tôi nhớ không nhầm thì ông mất vào dịp cận tết năm 2015 sang 2016 thì phải. Tôi dự định viết một cuốn sách, phác họa chân dung các văn nghệ sĩ từng làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), việc đầu tiên là điền tên các nhân vật định viết, thì Nguyễn Huy Dung là cái tên sau cùng.

         Thường là viết về ai thì phải thật sự hiểu biết về người đó, hay chí ít cũng phải có một kỷ niệm nào sâu sắc với người ấy. Với Nguyễn Huy Dung thì tôi không có cả hai, mặc dù tôi làm việc cùng ban biên tập với Nguyễn Huy Dung và là thuộc cấp của ông là lâu nhất, khoảng 15 năm trời (1994 – 2008). Như thế kể cũng lạ ,...Đấy cũng là lý do tôi điền tên ông sau cùng trong tập sách viết dở của mình.

          Nguyễn Huy Dung quê cạnh Chùa Thày, Quốc Oai thuộc xứ Đoài, nhưng ông bảo gốc gác dòng Nguyễn Huy thi thư chữ nghĩa mãi trong Hà Tĩnh di ra hơn trăm năm trước. Học Tổng hợp văn, về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo sau khi tốt nghiệp đại học, yêu văn chương và làm thơ khá sớm, nhưng hình như Nguyễn Huy Dung không là hội viên của một hội văn chương nào. Tôi biết là ông đã xuất bản dăm tập thơ nhưng tôi không mấy thuộc thơ ông, ngay cả nhớ tên các tập thơ của ông cho chính xác cũng không nốt. Sao vậy nhỉ, tôi tự hỏi mình mà chưa lý giải được. Hy vọng là bài viết này, phác họa chân dung ông, tôi vỡ vạc điều gì chăng?

        Vậy là tôi đành nhờ công cụ tìm kiếm nhưng kết quả chỉ cho ra một người trùng danh tính, vị giáo sư tiến sĩ, thày thuốc nhân dân Nguyễn Huy Dung, ông này có làm thơ. Có lẽ, rất ít người viết về nhà báo nhà thơ Nguyễn Huy Dung, đồng nghiệp của tôi, hoặc giả có thì cũng không đưa lên mạng xã hội nên chẳng thể tìm được thông tin gì. Đành phác thảo chân dung ông theo trí nhớ của mình thôi.

         Thực ra, về Đài TNVN vài năm, tôi đã biết đến ông. Khi đó Nguyễn Huy Dung là trưởng phòng phát thanh “Dành cho dồng bào xa tổ quốc” mà dân nhà Đài (VOV) quen gọi tắt là Phòng phát thanh Việt Kiều. Tôi yêu văn chương, tập tọng làm thơ viết truyện nên cùng cơ quan có ai sáng tác văn thơ là lân la làm quen. Với các bậc đàn anh văn chương lừng lững ở Ban Văn nghệ thì e ngại vì nhìn các vị ấy cao vời vợi, nên tôi mon men bắt quen với các cây bút ở các ban biên tập khác, như Nguyễn Huy Dung (Ban Thời sự), Trần Ngọc Thụ, Nguyễn Hiếu, Nguyễn Quang Huy (Ban Chuyên đề)... Trong số ấy, Nguyễn Hiếu tếu táo hài hước và Nguyễn Huy Dung nhỏ nhẹ gần gũi nên dễ làm quen. Ngày ấy ai cũng nghèo, đâu quán xá gì. Đến phòng làm việc của nhau, chén nước trà vài câu chuyện phiếm thôi. Tôi chuyển qua vài ban biên tập khác nhau rồi về Ban Văn hóa xã hội thành thuộc cấp của Nguyễn Huy Dung. Thời điểm ấy, Nguyễn Huy Dung được đề bạt từ Trưởng phòng phát thanh Việt Kiều lên Phó trưởng ban biên tập Văn hóa xã hội, giúp việc cho Trưởng ban, nhà báo Nguyễn Đình Lương. Vậy là tôi có mười mấy năm làm việc cùng ban biên tập với ông,...

         Dáng vẻ ngoài, Nguyễn Huy Dung hiền lành giản dị, ông đi chậm, nói khẽ, rành rẽ từng câu từ, nói theo dân làm báo là không cần biên tập. Nguyễn Huy Dung là người cẩn trọng, kỹ tính trong cả nghề làm báo và nghiệp thơ. Tiếng là làm thời sự, nhưng dành cho Việt kiều nên không phải cái gì cũng vội, sốt sột kiểu “nóng hổi bừ thổi vừa ăn”, nói ngay ra mà phải làm cho nguột bớt đi và đợi chín rồi mới nói. Tính cách người và tính chất việc ngấm vào mà nên định dạng ông chăng? Trước nữa, Nguyễn Huy Dung chuyên theo dõi mảng giáo dục nên sau về làm lĩnh vực Văn hóa xã hội thật hợp với ông. Đây la thời gian Nguyễn Huy Dung thoải mái, sảng khoái nhất, đủng đỉnh báo và thơ cho đến lúc nghỉ hưu.

        Nguyễn Huy Dung đủng đỉnh làm thơ, đăng báo thơ chơi với bạn bè, với đời, chẳng có gì phải sốt ruột cả, đủ bài thì in tập, cả đời thơ ông đâu có ba bốn tập (Nguyệt cầm trong bão, Sau mưa, Ẩn trong cây và tập dự kiến xuất bản là Phố có người còn nhớ). Trong mấy tập thơ đã xuất bản thì Ẩn trong cây là chín nhất, bởi ở đó Nguyễn Huy Dung dằm về cấu tứ và ngôn từ, nhiều bài thơ được bạn bè và bạn đọc nhớ, như: “Một lát nữa mùa thu sẽ đến”, “Bản xô-nát thất lạc”, “Phố Khúc Hạo có người còn nhớ”, “Ý nghĩ trước mùa lá đổ”, “Chợ mai”, “Hoa đại núi Thày”, “Cô gái có đôi giày đỏ” ...

         Ngoài đời, hiếm khi Nguyễn Huy Dung to tiếng, cứ nhỏ nhẹ, rủ rỉ, cốt sao được việc. Với ông, người sao thơ chiêm bào làm vậy. Thơ Nguyễn Huy Dung như sự tự nhủ mình, những suy tư rẩm riu trong lòng, những nỗi niềm khó nói ra được, nói chung nó như một âm bản của cuộc sống sôi động bên ngoài.... Đời sống xao động bao nhiêu đi chăng nữa khi thẩm thấu vào thơ Nguyễn Huy Dung lại nhẹ nhàng êm ả bấy nhiêu. Cảm giác lăng kính cuộc đời của ông như chiếc rây bột để lại trên rây những hạt to và thô, chỉ lọc lấy những bụi mịn li ti,...

         Có lẽ, “Một lát nữa mùa thu sẽ đến” là bài thơ của Nguyễn Huy Dung được nhiều bạn thơ biết và thích hơn cả: “Không có tín hiệu nào của thiên nhiên/ Nói mùa thu nhiều gió/ Không bờ sông, không lối cỏ/ Không hoa cúc vàng, không cánh bướm tiên tri/ Không có gì/ nói mùa thu sẽ lại/ Dưới vòm trời của cây khế nhiều tuổi/ Chỉ em ngồi và đếm rất lặng im/ Hoa tím rơi trên vạt áo vô tình/ Mà không biết vì sao bấy giờ anh lại nói/ - Chỉ lát nữa mùa thu sẽ đến/ Chỉ em ngồi đến giọt tím hoa rơi/ Thời gian trôi/ Lặng im và chậm/ Điệp khúc môi anh vẫn chỉ bấy nhiêu lời/ Một lát nữa mùa thu sẽ đến,...” Bạn thơ của ông có người còn đùa vui Nguyễn Huy Dung là ông-“một lát nữa mùa thu sẽ đến”. Bị trêu vậy ông cười típ mắt đón nhận như một phần thưởng, vì có được một biệt danh như vậy với người làm thơ thật không phải dễ, bởi có nhiều người làm thơ cả đời mà người ta không nhớ nổi một bài thậm chí một câu nào.

         Cảm thức thời gian bốn mùa luân chuyển rõ nét trong thơ Nguyễn Huy Dung: “Phố Khúc Hạo có người còn nhớ/ Dạ lan hương đuổi bắt suốt đêm hè/ Phố Khúc Hạo có người còn nhớ/ Hạt cốm mềm thành câu đố mùa thu” (Phố Khúc Hạo có người còn nhớ); “Em cầm mùa hạ trên tay/ Bông sen đỏ buổi mai ngày mới lên/ Phải chăng năm tháng ưu phiền/ Lòng còn gắng giữ mùa sen giữa bùn?” (Mùa Hạ); “Tôi đứng trên cao, ngôi nhà cuối phố/ nhìn xuống lòng đường/ những trận gió mùa đông cũ/ đan g quét đi từng trận lá vàng/ Trong gió thổi dọc ngang/ những cơn lốc lá vàng quay tít/ Hàng cây rung lộc biếc/ trong rộn ràng tiếng chim/ Có gì không yên,...” (Ý nghĩ trước mùa lá đổ) v.v... Thực ra, Nguyễn Huy Dung mượn sắc thái mùa, những biến đổi thiên nhiên lúc giao mùa là để trang trải cõi lòng mình cùng thế thái nhân tình. Có điều, cảm giác là ông chỉ nói cho có chuyện thôi chứ thực ra chưa chạm đến độ da diết, khắc khoải hay đau đáu với nỗi đời,... Thơ ông âm bản là vậy chăng?

         Vùng quê của Nguyễn Huy Dung chân núi Sài Sơn, nơi gần ngàn năm trước thiền sư Từ Đạo Hạnh chọn làm nơi tu hành và đắc đạo, nay dấu tích vẫn còn đó, hang Thánh hóa, đường lên giời đường xuống địa phủ,... chân núi có chùa Thày tọa lạc, điển hình văn hóa xứ Đoài, cũng có thể xem là vùng đất văn vật của đồng bằng Bắc Bộ, nên ít nhiều ảnh hưởng đến thơ ông. Quả là hồn vía đất Quốc Oai, Sơn Tây, xứ Đoài thấp thoáng ẩn chứa đâu dó trong những câu thơ bình dị của Nguyễn Huy Dung: “Chợ gọi theo tên làng/ mùa nào hoa quả nấy/ dẫu nắng hạn mưa dông/ chợ không hề vắng buổi/ Sớm mai đi chợ Mai/ ngỡ là câu nói lối,...” (Chợ Mai); “Thị xã nhiều phố đất không tên/ mấy phố chính đi một lần đã nhớ/ nhà lợp toàn mái gianh mái cọ/ chúng mình vẫn đùa cửa ngõ trung du,...” (Sơn Tây); “Đồi xanh xanh, bờ bãi xa mờ/ Trẻ thả bò hát đồng dao rồng rắn/ Chất giọng Hương Sơn cái thời ta bế ẵm/ Giờ trở về gặp lại thấy yêu hơn” (Mẹ ở Hương Sơn); “Thân cây gày guộc già nua/ Rút từ ruột đá nắng mưa nhọc nhằn/ Nở hoa hương sắc nồng nàn/ Hương thơm cho đến lúc tàn vẫn thơm” (Hoa đại núi Thày”,...

        Thơ Nguyễn Huy Dung không có gì nổi trội nhưng người ta cảm nhận được sư ấm áp chân tình, thứ mà chính những người làm thơ nhận thấy và cần để giao du đàm đạo với nhau chăng? Nhóm bạn thơ thân thiết của ông, những Quang Khải, Nguyễn Hoàng Sơn, Vũ Từ Trang, ... trên nữa là nhà thơ Trần Lê Văn, nhà văn Băng Sơn...cũng cho thấy điều ấy. Bài thơ “Nghệ thuật” của ông, tôi xem như một quan niệm về nghệ thuật nói chung và về thơ của Nguyễn Huy Dung. Ông mượn hình tượng một chàng gù yêu một cô nàng xinh đẹp cùng phố (kiểu như chàng gù nhà thờ Dức Bà Paris si mê cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp Exmeranda của văn hào Victor Huygo) vì yêu nàng mà chàng vẽ tranh và làm thơ để ca ngợi sắc đẹp của nang nhưng không được nàng đáp lại, rồi một ngày nàng lên xe hoa cùng một tay tỉ phú nọ, bỏ lại chàng gù vẫn vẽ tranh, làm thơ... Nghệ thuật là thế đó, say mê nghệ thuật, thi ca là thế đó: “Chàng gù vẫn vẽ tranh, chàng gù vẫn làm thơ/ Chàng không tin chuyện này có thật/ Chỉ ảo ảnh ngang qua rồi vụt mất/ Chàng chỉ tin trái tim không lầm chỗ bao giờ/ Trong hạnh phúc âm thầm chàng vẽ tranh, làm thơ...”. Thi ca, với Nguyễn Huy Dung như vậy là đủ, dù một chiề u, yêu thì theo, bất cần sự đáp lại thế nào?...

        Tôi nhớ, khi tuổi dần cao, thi lực giảm đi nhiều, có lần ông tâm sự, rằng mắt kém nhiều khi không nhận ra người quen nên không chào hỏi lại bị trách là khinh người. Thôi đành vậy, biết thanh minh thế nào. Nhưng mà cũng có cái hay, nhìn người không rõ nét mặt, nên phụ nữ, ai cũng thấy xinh, được nhiều hơn mất, Nguyễn Huy Dung cười rõ tươi. Chẳng bù những năm tháng trai trẻ sung sức, đạp xe kẽo kẹt qua ngày qua tháng đi về giữa Hà Nội và Sài Sơn, Quốc Oai thăm vợ con ở quê, rồi cả những chuyến đi cả tháng trời dọc miền Trung nắng gió vào tận Cẩm Xuyên Hà Tĩnh để viết về giáo dục. Vừa đạp xe người đẫm mồ hôi, đèo lỉnh kỉnh vật dụng, vừa nhẩm câu thơ trong đầu, lấy đó làm động lực. Yêu thơ và làm thơ là thế đó.
        Nguyễn Huy Dung, học chuyên ngành văn Đại học Tổng hợp, rồi làm báo, làm thơ. Yêu thơ mà đeo đuổi nó, đâu vì trở thành nhà này nhà nọ ở hội này hội kia. Thế nhưng, bạn bè giao du với mình đều vào hội cả rồi thì mình cũng nên vào cho vui. Nhưng không hiểu sao, qua nhiều mùa kết nạp vẫn chưa thấy tên ông. Đã có lần trong lúc trà dư tửu hậu tôi ướm hỏi, ông bảo, à có nhà thơ đàn anh nọ có vai trò quan trong trong hội đồng vốn không ưa ông, bởi nhà thơ đàn anh ấy nghe ai đó nói rằng ông chê thơ ông ta, vậy nên... Nghe vậy thì biết vậy thôi.
         Tiếng là nhà thơ thì quan trọng nhất là làm ra thơ hay, nhưng không vào hội như bạn thơ cùng trang lứa, với Nguyễn Huy Dung, nó cứ sao sao ấy... Những năm gần tuổi nghỉ hưu, mỗi mùa kết nạp hội viên, Nguyễn Huy Dung vẫn có ý mong chờ, tôi biết thế... Nhưng không.
        Có lẽ, với Nguyễn Huy Dung, đời báo nghiệp thơ, thì đây là chút còn chưa toại nguyện của ông chăng?...
       Mà cần chi đâu, chỉ biết là, hễ nhắc đến nhà thơ Nguyễn Huy Dung, bạn yêu thơ lại nhơ câu thơ: “Một lát nữa mùa thu sẽ đến”.
      Thế là đủ!?...

 

 

 

NGUYỄN TRỌNG HUÂN

          viết như người rong chơi...

 

Tôi và Nguyễn Trọng Huân cùng trang lứa với nhau, về tuổi đời và tuổi văn. Cả hai lại chung một lò đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, mặc dù tôi chuẩn bị tốt nghiệp ra trường thì Nguyễn Trọng Huân mới nhập học. Chẳng hiểu duyên số thế nào, tôi và Huân lại về mái nhà chung, Đài Tiếng nói Việt Nam trong một đợt Đài tuyển phóng viên vào năm 1987. Tôi và Huân là 2 trong số 5 người được Đài tuyển dụng đợt ấy. Tuy là cùng cơ quan, nhưng tôi ở Bam Thính giả, còn Nguyễn Trọng Huân ở Ban Chuyên đề. Biết mặt đấy song không chơi với nhau.

Thời bao cấp vất vả lắm, nên ngoài công việc chuyên môn ở cơ quan, chúng tôi còn ham viết báo vặt, gửi đăng báo đây đó để có thêm khoản nhuận bút. Khi đó báo viết khá thịnh hành, nhuận bút cũng được nên cả tôi và Huân đều ham lắm. Tôi có dăm truyện ngắn, vài ba bài thơ đăng rải các báo thì Nguyễn Trọng Huân lại thiên về bút ký, phóng sự, câu chuyện truyền thanh,... Cứ vậy, cả hai lặng lẽ tích lũy vốn nghề, tích cóp vốn liếng tiền bạc đặng lập gia đình, nuôi con cái... Cho  đến khi có thể “ngẩng mặt lên” với mọi người thì chúng tôi mới thân nhau, như cái lẽ phải thế!... Có lẽ nghề báo gắn với nghiệp văn, cả hai lặng lẽ ganh đua ngầm, dần khiến chùng tôi xích lại gần nhau hơn và trở thành bạn tâm giao. Giờ thì cái gọi là “gia tài văn chương  của cả hai cũng không đến nỗi nào,...

Năm 2009, khi đó, tôi đang đi luân chuyển tại văn phòng VOV Miền Trung (Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại khu vực miền Trung) đóng ở Đà Nẵng, Nguyễn Trọng Huân gọi điện vào, bảo đã lập cho tôi một trang riêng trên một mạng xã hội (Blog Tiềng Việt) và giục tôi tham gia. Tôi ngại không dùng, bỏ đấy một thời gian, cho đế lúc Nguyễn Trọng Huân gửi cho tôi địa chỉ trang blog của anh. Tôi mở xem, thấy thú vị và ngay sau đó gia nhập ngay mạng xã hội này. Vậy điều gì hấp dẫn tôi, khiến tôi không thể cưỡng lại? Đơn giản, trang cá nhân của Nguyễn Trọng Huân, lấy đề từ “Viết như người rong chơi”. Hay quá, gợi quá,... vậy tại sao tôi lại không tham gia cơ chứ? Viết như người rong chơi cơ mà. Như thế thì hà cớ chi, tôi lại không rong chơi mà viết...        

          Quả vậy, Nguyễn Trọng Huân coi nghiệp cầm bút, viết văn của mình như một cuộc rong chơi, rong chơi dài dài, thích đâu dừng đấy, chẳng áp lực gì, không cần hội nay hội nọ,... Hứng thì viết, không hứng thì làm việc khác, như vẽ tranh, nặn tượng chẳng hạn,... Lẽ dĩ nhiên, với anh, viết vẫn là chính, là thế mạnh của anh.

          Thoạt kỳ thủy là những bài báo, phóng sự, rồi dăm ba truyện ngắn đăng tải các báo, Nguyễn Trọng Huân dài hơi với truyện ký Bui vết tháng năm về cuộc đời mình từ tuổi hoa niên ở quê đến những năm tháng học đại học và đi làm. Chưa có gì đáng nói, chỉ là sự vỡ vạc nghề văn, cho đến khi xuất bản tập truyện ngắn Người con gái năm Ất Dậu thì Nguyễn Trọng Huân mới khẳng định là một cây bút truyện ngắn. Tiếp nối, cứ vài ba năm cho ra đời một tập truyện ngắn, Nguyễn Trọng Huân đã là một  cây bút chững chạc về thể loại này trong làng văn. Truyện của anh có sự, giàu chi tiết, tốc độ nhanh, giọng điệu khá hài hước, chút buông thả, song ngôn ngữ còn chưa mấy trau chuốt. Hình như, anh không mấy quan tâm điều này? Cảm giác, Nguyễn Trọng Huân chẳng cần cân nhắc gì, có chuyện là mần, cứ đều đều viết ra, đăng báo, và lâu lâu tập hợp lại đủ cuốn là xuất bản. Tự nhiên như vậy, không quan xiêm chi, quả đúng với quan niệm của mình, viết như một sự rong chơi, viết như người rong chơi mà thôi,...

          Cai sự “viết như người rong chơi” ở Nguyễn Trọng Huân còn biểu hiện ở cái cách anh đi thực tế. Kể cả khi còn công tác ở Đài TNVN và sau này đã nghỉ hưu, Nguyễn Trọng Huân hay du hí một mình. Anh chọn một vùng quê nào đó, tỷ như Tây Nam Bộ, hay Tây Nguyên mà theo mình cần tìm hiểu kỹ hơn, hoặc mục đích khám phá, để thỏa mãn ý thích, hay để viết, thế là khoác ba-lô lên đường. Một mình, chẳng vướng bận ai, phiền nhiễu đến ai, thích ăn ngủ đâu thì dừng ở đó. Nguyễn Trọng Huân không e ngại, có thể làm cái việc “khất thực” một cách tự nhiên thoải mái. Anh có thể tạ vào một nhà nào đó ven đường, uống nước, cà kê chuyện vãn và vui vẻ dùng bữa cụng ly với chủ nhà. Kiểu cách vậy, hóng được ối chuyện, để sau đó những tình tiết câu chuyện vào tác phẩm của mình, cũng tự nhiên như cái cách khất thực. Nguyễn Trọng Huân kể lại những chuyện đó cho tôi, cười khờ khờ đầy vẻ khoái trá. Tính cách Nguyễn Trọng Huân là vậy, xuề xòa đễ dãi bỏ qua những tiểu tiết trong đời thường, sẵn lòng bệnh vực và bao dung những gì mình cho là phải dù việc đó có thể bị cộng đồng chê trách này nọ. Khi cần thiết, anh nổi tính gàn, sẵn sàng đấu khẩu đến cùng cả ngoài đời thực hay qua mạng xã hội và hầu như chẳng thua bao giờ,... Cái tính cách ấy dường như nhiễm cả vào các nhân vật truyện của anh.

          Trở lại các sáng tác của Nguyễn Trọng Huân. Với chừng trăm truyện ngắn, truyện hay (vào tuyển truyện chọn lọc), truyện thường, Nguyễn Trọng Huân xác lập cho một giọng điệu riêng. Người viết văn, tạo được giọng điệu riêng xem như thành công rồi, bởi điều ấy không dễ chút nào. Thực tế cho thấy, nhiều người cầm bút cả đời mà chẳng có được giọng điệu riêng nữa là. Vậy nên, cái chất văn khẩu ngữ, tưng tửng, hài hước, châm biếm trong các sáng tác của anh dồn hết vào và được đảy lên ở tiểu thuyết Con người máy.

          Trước hết, tôi thấy, Con người máy của Nguyễn Trọng Huân đích thị là tiểu thuyết đúng nghĩa. Nói vậy là có lý do của nó. Lại thực tế cho thấy vài chục năm gần đây, ở ta mỗi năm, các nhà xuất bản cho ra hàng trăm tiểu thuyết. Các cây bút không chuyên nghiệp, nhà văn chuyên nghiệp, thậm chí cả  nhà văn đã thành danh thi nhau ra tiểu thuyết, Phần lớn trong hàng trăm tiểu thuyết ấy là những câu chuyện đời mình của chính tác giả hoặc chuyện của người thân, kể hết chuyện là xong tiểu thuyết, tuồn tuột, nhạt nhẽo, không giọng điệu, cũng chẳng thông điệp gì. Cái gọi là “tiểu thuyết” ấy đầy dãy, vì người ta tự in, rồi mang cho tặng lẫn nhau mà không mấy ai đọc, được mỗi việc ấy là thỏa mãn thói hư danh của người sản xuất ra nó. Mất tiền in rồi lại mất tiền thuê người đọc và giới thiệu, hoặc tổ chức ra mắt sách rầm rộ, đổi lấy vài bài viết dăm câu ba điều tung hô trên báo vặt, nhưng vẫn mất tăm mất dạng như chưa hề tôn tại. Hiện trạng văn xuôi nói chung và tiểu thuyết xứ ta là vậy, nên Con người máy được xem tiểu thuyết dích thực đã là một thành công rồi. Song Con người máy không chỉ vậy, có chuyện, có giọng điệu riêng và thông điệp rõ ràng. Trong thời đại 4.0 công nghệ phát triển vũ bão, trái tuệ nhân tạo (AI) tham gia vào nhiều lĩnh vực khoa học, sản xuất, xã hội và văn học nghệ thuật, tạo ra những hệ lụy đa chiều cho nhân loại. tiểu thuyết Con người máy phản ánh được điều này. Thông điệp mà Nguyễn Trọng Huân gửi gắm vào cuốn sách của mình, ấy là sống trong xã hội loài người thời đại khoa học công nghệ phát triển, trí tuệ nhân tạo và người máy thành thông dụng, sẽ tạo nên một xã hội mà ở đó, người máy nhiễm tính người tốt và xấu,ngược lại, con người thì lệ thuộc dần sơ cứng suy nghĩ và hành xử như người máy. Điều này, chẳng phải xa xôi gì, nó đang hiển hiển nhãn tiền trong xã hội loài người rồi đó.

          Có lẽ, Nguyễn Trọng Huân là người “tiểu thuyết hóa” đầu tiên về người máy ở Việt Nam, nhưng vấn đề này, đi tiên phong ở xứ ta chính là Lưu Quang Vũ. Mấy chục năm trước, khi đang sung sức, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã “sân khấu hóa” chuyên người máy rồi. Vở kịch “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”, Lưu Quang Vũ đã đề cập mối tương quan giữa người thậtngười máy.  Tôi thích vở kịch đó và với tôi, thêm “Hôn Trường Ba da hàng thịt” là hai vở xuất săc nhất trong toàn bộ sự nghiệp sân khấu của ông. Mặc dù thông điệp của vở kịch không nhằm vào mối tương quan này nhưng trong quá trình gửi gắm thông điệp về việc đi tìm hạnh phúc đich thực của con người, tác giả đã đưa con người máy vào kịch để giải quyết quan hệ thật - giả và sự lệ thuộc khuôn mẫu một cách máy móc của con người.  Gần đây, tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa  đã thử nghiệm trí tuệ AI trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung. Với một câu lệnh chi tiết một chút, nagy lập tức, AI cho ra sản phẩm (bài báo, câu chuyện, bài thơ, bài bình lập, phê bình, bản nhạc hay bức tranh...) không đến nỗi nào, thậm chí khá hơn những nhà chuyên nghiệp. Duy có thơ, AI còn non kém, phải chăng đây là một thể loại thần bí mà trời đất ban tăng cho loài người nên thuật toán của AI chịu thua chăng? Nhà thơ Trần Đăng Khoa cười khoan khoái, phán một câu xanh rờn “vậy là các nhà phải viết thật quái để AI khó bắt chươc được”. Vậy trí tuệ nhân tạo là gì và như thế nào. Tôi nghĩ, loài người hãy cảnh giác. May thay, điều này, Nguyễn Trọng Huân ít nhiều nói hộ chúng ta trong tiểu thuyết “Con người máy” của mình.

           Bàn tiếp, có cảm giác, ở tác phẩm Con người máy, Nguyễn Trọng Huân vơ tất cả những thói hư tật xấu của thiên hạ đem nhồi nhét phứa vào các nhân vật chính của mình (vợ chông ông chủ, con người máy, cụ trưởng ngõ) và cả đám nhân vật thấp thoáng xuất hiện tác giả cũng không tha. Tác giả trở thành người lắm chuyện, biết tuốt và ôm đồm hàng đống chi tiết nên giật dây điều khiển khá rối rắm. Chuyện kể cứ thật thật giả giả làm nên sắc thái riêng, sự khoái hoạt. Theo tôi đây là cái được của tiểu thuyết này. Có người chê, truyện viết không có văn vì thiếu chiều sâu, thiếu sự lắng đọng khiến người ta phải nghĩ ngợi, day dứt, cũng có lý. Kết cấu mảng miếng rời rạc, cứ như các mẩu chuyện vặt được lắp ghép vào nhau, Ngôn ngữ huỵch toẹt, trắng phớ, cứ như tác giả vừa viết vừa bình luận....Đại khái vậy. Song tôi lại nghĩ, tính khẩu ngữ, giàu chi tiết, lối dẫn chuyện tưng tửng, giọng châm biếm, khá hài hước làm nên chất văn riêng của Nguyễn Trọng Huân đấy chứ, trong các sáng tác nói chung và riêng đậm ở tiểu thuyết Con người máy. Chính những yếu tố này tạo nên bầu không khí đặng liên kết các mẩu chuyện rời rạc vào với nhau làm thành bộ khung mong manh giữ cho truyện đứng được, chung chiêng đấy nhưng không bị đổ. Điểm yếu chí cốt của tiểu thuyết này, theo tôi là chưa tạo dựng được không gian truyện phù hợp vì thế thiếu chiều sâu, lớp lang, nên thiếu dư ba. Khi đọc, người ta có thể thấy thú vị chi tiết này, câu bình nọ, mẩu thoại kia, cười vui đấy, nhưng qua rồi là nhạt đi ngay,... Văn chương khó là vậy !...

          May thay, như tôi đã bình, tính hoạt kê, châm biếm đồng thời làm nên chất văn Nguyễn Trọng Huân mà cũng cứu vãn và vực dậy tiểu thuyết Con người máy của anh. Để rồi, qua đó người ta nhận ra cái thông điệp quan trọng mà tác giả ký thác,...

          Sau Con người máy, Nguyễn Trọng Huân vẫn túc tắc viết truyện ngắn, nhưng chẳng có gì bàn thêm. Song có điều này, cảm giác, Nguyễn Trọng Huân dồn hết tâm huyết, vốn sống, trí não vào cuốn sách ấy nên kiệt sức, chuyển đam mê sang nghệ thuật, tỉ như nặn tượng và vẽ tranh màu nước. cũng có chút thành tựu ban đầu, mấy bưc tượng đất có hồn, vài bức tranh nên dáng. Nhưng rồi cũng chán và thôi cả,... Nghệ thuật vốn không đùa.

Giờ thì Nguyễn Trọng Huân chỉ vui với cô nàng Phây. Viết tút ngắn thời sự và luận chiến khi cần. Cũng thích du hí đấy những tốn tiền.  Chắc rồi lại viết thôi ?...

          Thì viết như người rong chơi kia mà!...

 

 

 

Nhàn tản Trương Hữu Lợi

 

 

          1. Độ khoảng mươi năm trước khi về nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi hay được anh em đồng nghiệp ở Đài TNVN nhắc đến nhiều. Song không phải vì công việc chuyên môn, cũng không phải vì chuyện văn chương, lại càng không phải do anh gây ra một xi-cang-đan nào, mà bởi về sự nhàn tản. Hễ cánh viết nhà đài chúng tôi ngồi với nhau, khi tách cà phê nóng buổi sáng, chén hoặc ly bia buổi chiều, loanh quanh thế nào rồi cũng nhắc đến Trương Hữu Lợi, cùng cái sự nhàn tản ở anh.

Khi về công tác ở Đài TNVN, tôi mới biết đến Trương Hữu Lợi. Ở thời điểm đó, tôi hay viết truyện cho thiếu nhi nên thi thoảng đáo qua gửi bài nơi phòng Văn học thiếu nhi  (thuộc Ban Văn học nghệ thuật) tại tầng 2 ngôi biệt thự cổ trong trụ sở 58 Quán Sứ (cũ). Khi ấy, Trương Hữu Lợi là Phó phòng biên tập và nhà thơ Lê Đình Cánh là Trưởng phòng.

Với nhà thơ Lê Đình Cánh, thì tôi đã biết đến tên tuổi anh thông qua bài thơ Mẹ ra Hà Nội được trao giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ, cùng với đó là những bài thơ lục bát nhuần nhuyễn, hóm hỉnh. Ấn tượng của tôi lần đầu gặp, Lê Đình Cánh vồn vã và khéo, còn Trương Hữu Lợi thủ thỉ,  thân thiện. Và không lâu sau lần gặp đầu tiên, tôi và Trương Hữu Lợi thành thân nhau. Anh sinh năm 1946, tuổi Bính Tuất ( lý lịch ghi sinh năm 1948 ), hơn tôi những 11 tuổi, nên tình bạn giữa anh và tôi kiểu tình bạn vong niên. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa đông người hay chỉ riêng hai anh em với nhau, anh đều goi tên và xưng mình với tôi.

Cùng làm việc trong ngôi nhà chung 58 Quán Sứ, nhưng lĩnh vực công việc của chúng tôi khác nhau xa. Trương Hữu Lợi làm biên tập mảng văn học nghệ thuật, sáng tác là nghề chính của anh, trong khi đó, tôi làm ở Ban Thính giả, hằng ngày phải tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư của thính giả, rồi soạn thảo văn bản gửi các bộ ngành, cơ quan hữu quan, trả lời lại cho thính giả, một công việc tỷ mẩn, dễ nảy sinh bực dọc, và chẳng dính gì đến văn chương cả. Song bù lại, tôi có điều kiện tiếp nhận, thấu hiểu thêm đời sống thực tế xã hội của mọi tầng lớp người dân lúc bấy giờ, thời kỳ manh nha chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế quản lý mới, mà khởi đầu là Chỉ thị 100 về khoán sản lượng trong nông nghiệp. Và chính vì thế, tôi đã viết được nhiều truyện ngắn lấy chất liệu từ đời sống xã hội đăng các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh v.v...

Tôi và Trương Hữu Lợi hay ăn trưa cùng nhau nơi quán cơm bình dân trên phố Quán Sứ, hoặc Tràng Thi. Thi thoảng có thêm nhà thơ Lâm Huy Nhuận  (biên tập viên Phòng Văn học, cùng Ban biên tập Văn học nghệ thuật với Trương Hữu Lợi), thì gọi thêm đôi ba chén rượu. Hễ hôm nào hơi quá chén là Lâm Huy Nhuận cũng cao hứng đọc thơ, đi vài động tác võ cổ truyền Bình Định quê anh, và quá thêm chút nữa thì quậy tưng bừng...

Những lúc đi riêng với nhau như thế, Trương Hữu Lợi hay thủ thỉ chuyện nghề báo ở Đài, rồi cả chuyện tình cảm lâm ly bi đát của anh... đặc biệt là câu chuyện của anh với một nữ họa sĩ hơn anh mấy tuổi. Sau này, chuyện tình cảm của họ đã qua đi, song họ vẫn coi trọng nhau, và đã có lần, tôi theo Trương Hữu Lợi đến thăm nhà người nữ họa sĩ ấy. Sau đó, tôi còn gặp nữ họa sĩ đó vài ba lần, không thấy chị nói gì đến chuyện ấy, song chị luôn giữ vẻ trìu mến mỗi khi nhắc đến tên anh. Câu chuyện giữa họ, tôi chỉ được nghe kể từ một phía. Đã có lần, tôi chơi nhà anh, Trương Hữu Lợi chỉ tay lên mấy bức họa trên tường mà khoe rằng, đấy quà quà tặng của chị cho anh. Hiện tôi vẫn nhớ mang máng hình ảnh mấy bức họa có bút tích của chị trong bộ tranh “Những tâm trạng nàng Kiều”. Chẳng hiểu, giờ còn được treo ở nhà anh nữa không ?...

Trương Hữu Lợi có lối sống giản dị, cách ăn mặc sạch sẽ song xuềnh xoàng. Nhìn dáng vể bên ngoài, thật khó ai biết được, anh là người có mấy thứ hết sức đặc biệt, mà không mấy ai có được.

Ấy là, khi còn học phổ thông tại quê nhà, Trường Cấp 2 Bắc Lý (nay là Trường THCS Bắc Lý), Lý Nhân, Hà Nam, anh là học sinh xuất sắc, từng được đại diện cho lứa học sinh đội viên thiếu niên tiền phong lên Hà Nội báo cáo thành tích với Bác Hồ.

Ấy là, anh đã từng học Đại học Lốt-di (Lodzi) Ba Lan, chuyên ngành văn học, và là một người nhẩy đầm (khiêu vũ)  khá giỏi, năm 1972 tốt nghiệp về nước, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và ở liền một mạch cho đến khi nghỉ hưu.

Ấy là, anh từng làm phóng viên chuyên mảng Nông nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam, nổi tiếng một thời với tư cách là tác giả của loạt phóng sự điều tra về  khoán chui” trong nông nghiệp miền Bắc thời bao cấp, góp phần vào việc Đảng và nhà nước ta điều chỉnh chính sách, ra đời Chỉ thị 100 và Nghị quyết trung ương 10 về thực hiện khoan hộ, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, khởi đầu thời kỳ đổi mới.

Ấy là, anh từng được đồng chí Trường Chinh, khi ấy đương chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, gọi lên gặp, hỏi chuyện hàng giờ đồng hồ, cho phép nói thật lòng suy nghĩ của mình về nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở ta ( “tam nông” ) ...

Quả là, mới chỉ liệt kê ngần ấy thôi, đã thấy Trương Hữu Lợi ẩn chứa nhiều điều thú vị trong vẻ ngoài hết sức bình dị ở anh...

Nhưng thôi, tôi chỉ kể những điều về Trương Hữu Lợi trong lĩnh vực nghề nghiệp làm báo, sáng tác văn thơ và mối quan hệ với đồng nghiệp, anh em, mà tôi biết hoặc chính anh nói cho nghe... 

 

2. Trước hết, là con người làm báo Trương Hữu Lợi. Mà nói đến anh với tư cách nhà báo, là gắn chặt với Đài Tiếng nói Việt Nam. Không rõ này đầu trở thành người nhà Đài (VOV), anh đã làm việc ở mảng nào, song mọi người ở Đài và giới làm báo ở ta biết đến tên tuổi anh, là khi anh trở thành phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, nhất là từ anh viết loạt phóng sự điều tra về “khoán chui “ trong nông nghiệp. Nói đến “khoán chui“ (thực chất là khoán hộ), thường người ta chỉ biết đến việc ông Kim Ngọc, khi làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú thí điểm thực hiện từ năm 1968, chứ ít người biết, việc này sau đó còn được nhiều địa phương khác bí mật làm theo như Vĩnh Bảo, Hải Phòng và một số xã, huyện thuộc Hà Nam Ninh cũ. Ở vào thời điểm ấy, trước luồng ý kiến chủ đạo là việc khoán hộ là phá vỡ HTX nông nghiệp, phá vỡ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quản lý tập trung ruộng đất dưới hình thức tập thể là HTX và nông trường quốc doanh, nhiều báo chí đã vào cuộc. Năm 1981, khi ấy, Trương Hữu Lợi là phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, được Đài phân công về huyện Xuân Thủy, tỉnh Hà Nam Ninh (cũ) tìm hiểu, viết phóng sự điều tra. Sau loạt bài đó, anh được đồng nghiệp nể trọng. Thêm nữa, sau khi anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh gọi lên hỏi chuyện, Trương Hữu Lợi được xem là phóng viên nông nghiệp giỏi. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, (thường gọi tắt là khoán 100); rồi tiếp theo là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI về nông nghiệp ban hành năm 1988 (khoán 10), thực chất là sự thừa nhận và nâng cấp của khoán hộ trước đây, Trương Hữu Lợi thực sự khẳng định vị trí vững chắc của mình với tư cách phóng viên chuyên nông nghiệp. Về đường hướng phát triển, khi ấy, anh là Bí thư Đoàn thanh niên của Ban Đối nội, một đơn vị chủ lực của Đài Tiếng nói Viêt Nam. Những tưởng vào bệ phóng như thế, anh sẽ phát triển nhanh chóng. Không ngờ, Trương Hữu Lợi lại rẽ ngang, chuyển sang làm biên tập viên mảng Văn học nghệ thuật. Sao vậy?

Vâng, tại sao Trương Hữu Lợi lại đột ngột rẽ ngang từ một phóng viên nông nghiệp nổi tiếng sang làm biên tập viên Văn nghệ, vốn không phải là sở trường của anh? Việc này diễn ra trước khi tôi bước chân về Đài Tiếng nói Việt Nam nên tôi không biết. Sau này, khi thân nhau, lúc trà dư tửu hậu, Trương Hữu Lợi rỉ rả kể, tuy đứt khúc, nhưng xâu chuỗi lại, tôi cũng hiểu được nguyên nhân sự việc, và qua đó hiểu thêm về anh, biết được đôi chút chuyện hậu trường nhà đài...

Số là, từng xảy ra mâu thuẫn trong công việc giữa Trương Hữu Lợi và một người đồng nghiệp cấp trên trực tiếp. Lời qua tiếng lại có, hiểu lầm có, mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Và một lần, giữa phòng làm việc, bất bình, nóng giận vì cảm thấy bị xúc phạm, anh đã vác cả chiếc ghế ngồi lao thẳng vào người đồng nghiệp cấp trên kia. May mà mấy đồng nghiệp khác xúm vào can ngăn, chứ không biết hậu quả sẽ khôn lường... Rồi sau đó, qua nhiều lần họp hành kiểm điểm nội bộ, Trương Hữu Lợi không phải là người có lỗi. Song le, bát nước hắt đi thì chẳng thể bù lại cho đầy, người đồng nghiệp cấp trên kia chuyển công tác qua vài cơ quan khác, tiếp tục giữ chức vụ cao hơn nữa. Còn Trương Hữu Lợi như quả bóng xi hơi, anh mất dần tính cách của một phóng viên nông nghiệp xông xáo, đầy chất phản biện. Từ chỗ, chỉ cộng tác với mảng văn học thiếu nhi làm vui vì lòng yêu trẻ, anh chuyển hẳn sang vị trí biên tập viên của Ban Văn nghệ Đài. Đây là bước chuyển quan trọng để biến một Trương Hữu Lợi nhà báo thành một Trương Hữu Lợi nhà thơ.

Trương Hữu Lợi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam khi tuổi cũng đã nhiều. Kể từ tập sách văn học thiếu nhi đầu tay “Mèo mắt xanh “ xuất bản 1986, đến tập sách cuối là “Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng“ xuất bản năm 2013, Trương Hữu Lợi có 8 đầu sách. Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam ở mảng văn học thiếu nhi, với 4 tập sách. Không chỉ có vậy, hễ nói đến mảng văn học thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam thì không thể không nhắc tên Trương Hữu Lợi. Anh khá giỏi trong việc dàn dựng chương trình văn học thiếu nhi, và đặc biệt có duyên khi tự dẫn chương trình hay trực tiếp kể chuyện cho các em. Khi nhà đài đổi mới khung chương trình, chuyên mục “Kể chuyện cổ tích & Hát ru cho bé“ là con đẻ của Trương Hữu Lợi.

Chuyên tâm với mảng văn học thiếu nhi, song Trương Hữu Lợi luôn  tự biết xoa dịu, thỏa mãn nỗi khát khao, nỗi niềm tâm sự của mình. Anh xuất bản 3 tập thơ, “Hoa lạnh“ (1990), “Cõi hoang“ (1994) và “Nhịp ngựa hoang“ (2009). Hơn thế, khi nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi còn kịp cho ra đời tiểu thuyết “Suối quên  (2009).

Tiểu thuyết “Suối quên“ là tiểu thuyết duy nhất của Trương Hữu Lợi, và ngay lần thử sức đầu tiên này, anh đã đẩy gần như toàn bộ hiện thực cuộc sống xã hội vào cõi ảo. Trong cõi ảo, anh mặc sức quấy đảo câu chuyện, tha hồ khắc họa tính cách nhân vật và đẩy các tình tiết lên đỉnh điểm, bất chấp phi lý, mà không sợ ai đó boăn khoăn, căn vặn thực hư ra sao. Ấy là cái mới, những cũng là điểm yếu của anh ở tiểu thuyết này.

Cùng sự thành công ở mảng văn học thiếu nhi, theo tôi, thơ Trương Hữu Lợi khá ấn tượng. Bản thân anh là người duy tình, sau này sống lặng lẽ, khiêm nhường, nên thơ anh nhìn chúng là âm tính, và khá nhất quán trong cách thể hiện. Khó tìm thấy trong thơ anh những câu thơ ồn ào, sống động, hay nhịp điệu gấp gáp, hào sảng. Trái lại, câu thơ lặng lẽ, ẩn ý, ẩn dụ, ngôn ngữ chắt lọc, kỹ càng, nhất là khi anh viết về bản năng, bản thể. Sự trăn trở trong anh cũng luôn có vỏ bọc. Hình như anh ngại nói trắng ra sự thật. Nhưng đọc chậm, đọc kỹ, lại thấy được sự khát khao nơi anh âm thầm trỗi dậy, sự hóm hỉnh, tinh nghịch cứ ẩn hiện, thấp thoảng đâu đó, khiến ta phải cười tủm...

Thơ Trương Hữu Lợi không phải là loại thơ đọc trên diễn đàn, nơi đông người hội họp, mà là thơ đọc thủ thỉ khi đàm đạo dăm ba người, hay riêng hai người với nhau...

 

3. Về nhà thơ Trương Hữu Lợi, cách chơi với đồng nghiệp, bạn bè văn chương với nhau, rất đáng nể. Thời anh còn trẻ, là phóng viên đầy nhiệt huyết và năng nổ thì tôi không được rõ, nên không lạm bàn. Khi tôi về đầu quân nhà Đài vào năm 1987, và gần như ngay sau đó, tôi làm quen và thân với Trương Hữu Lợi, anh đã thể hiện là một con người bình dị, khiêm nhường rồi. Kể từ đó cho đến lúc ra đi mãi mãi, trong cái nhìn của tôi, Trương Hữu Lợi là một người tử tế.

Vâng, chỉ hai từ “tử tế“ thôi, thiển nghĩ, không dễ chút nào. Trong công việc, với tư cách là biên tập viên, trong quản lý, tư cách một trưởng phòng, anh luôn mẫn cán, chu đáo, cẩn trọng và nhường nhịn. Trong quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, anh em với nhau, anh hiền lành, cảm thông, chia sẻ và hễ giúp ai được cái gì, kể cả tiền bạc, anh đều sẵn lòng, không hề tính toán thiệt hơn. Đều này, ngần ấy năm, lại gần nhau hàng ngày, tôi thấy, và hẳn nhiều người biết. Nhiều năm làm việc ở Ban Văn nghệ (sau là Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam), nơi nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng, và phần đông giàu cá tính, như : Hoàng Ngọc Anh, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Phương Trà, Trúc Thông, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh, Tuấn Vinh, Lâm Huy Nhuận, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Cầm Phong, Trần Chung, Vũ Thanh, Hồ Bắc, Thuận Yến, Thế Song, Văn Dung, Cát Vận, Lê Việt Hòa, Vũ Kim Dung, v.v... Trương Hữu Lợi vẫn luôn giữ được sự nể trọng của mọi người. Việc này, quả không dễ. Dưới quyền quản lý của anh, các phóng viên, biên tập viên trẻ mảng văn học nghệ thuật của VOV trưởng thành nhanh chóng, bởi anh rất tận tâm, tận tình trong việc hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm, khơi gợi cho họ phát huy sự sáng tạo cá nhân, hơn là áp đặt, ấy là, anh biết cách quản lý nhân viên theo kiểu “ đức trị “. 

Trước đây, tôi và Trương Hữu Lợi phiên chế ở hai ban khác nhau, Đầu năm 2008, hai đơn vị này nhập làm một, ấy là VOV2 (Hệ phát thanh Văn hóa-Đời sống- Khoa giáo), khi ấy, tôi đang là Phó Trưởng ban Ban biên tập Văn hóa xã hội, được điều đi làm Giám đốc Cơ quan thường trú VOV khu vực miền Trung. Nhiều lần, hai anh em ngồi với nhau, Trương Hữu Lợi cười hiền, chép miệng bảo: “Tiếc nhỉ, mình không được làm quân của Nhạc ngày nào cả ...”. Thực ra, vì quý mến tôi mà nên vậy thôi. Khi tôi  kết thúc nhiệm kỳ luân chuyển, quay về Hà Nội thì anh đã nghỉ hưu rồi. Vậy là hai chúng tôi không được làm việc chung ban với nhau dù chỉ một ngày...

Sao mọi người lại nhìn nhận anh sống nhàn tản. Công việc nhà đài thì lúc nào cũng bận, cứ chương trình nối tiếp chương trình, hết ngày này tháng khác, năm lại năm. Nhàn là sao đây? Trương Hữu Lợi nhàn là ở cái tâm. Người xưa dạy “Tri túc tâm thường lạc“ (nghĩa là, biết đủ thì lòng an vui), thì anh là người như vậy. Công việc luôn tận tâm, quyền lợi lại chẳng so đo, ganh tị với ai, nên không yên vui sao được. Thời gian rảnh rỗi, anh sáng tác và ngao du đây đó, mạn đàm văn chương với bạn bè. Trương Hữu Lợi có mấy sở thích, ấy là thuốc lá và trà thơm; không uống được rượu, vài ly nhỏ thì mặt đỏ nhừ, say cả chấy, nhưng bạn mời thì không chối từ, nâng lên đặt xuống làm vui, lấy cao hứng mà mạn đàm thôi. Ấy là thăm viếng chiêm bái cảnh chùa chiền, đền miếu gần xa.  Và, ấy là yêu...

Để ý nhiều năm, như thành chu kỳ vài ba năm một, Trương Hữu Lợi, đổi chu kỳ hết yêu lại muốn đi tu, rồi đó lại yêu. Lạ thế đấy. Tình yêu ở nơi anh, đồng nghĩa với cảm hứng sáng tác. Tôi hiểu vậy, song hay đùa anh, vờ chất vấn về cái sự này, anh chỉ cười hiền hiền, tội tội, như người có lỗi vậy. Anh không biết đi xe máy, cứ ngày ngày chiếc xe đạp ngoại cũ kỹ cà tàng. Thi thoảng, kết thúc giờ làm, anh khoe đi café hay đi ăn với bạn gái, rồi túi khoác lên vai, xuống gốc cây hè đường cổng cơ quan đợi bạn gái đi xe máy đến đón, và ngồi sau xe máy phụ nữ ngon ơ.

Trương Hữu Lợi có một giai đoạn ngắn sống khá vui vẻ thoải mái, ấy là sau khi nghỉ hưu, anh vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với con trai là kiến trúc sư công tác tại một đơn vị quân đội. Ở đấy, anh làm quen với Việt An, người bạn thân thuở học trò của tôi, rồi hai người lại làm quen với Trần Hồng Giang, một bloger của Blog Tiếng Việt khi đó cũng đang sống với người chị ở đấy. Bộ ba thường xuyên giao du, chuyện trò, văn chương, thơ phú, chữ nghĩa với nhau. Họ quý mến nhau, tôn trọng nhau lắm. Ở ngoài Hà Nội, tôi vui và thèm lây bầu không khí ấm áp đầy ắp tình người ấy của họ.

Một thời gian, Trần Hồng Giang ra lại quê ngoài Bắc, Nghĩa Hưng, Nam Định. Còn Trương Hữu Lợi thì phát hiện K phổi, ra Hà Nội khám chữa bệnh. Thế là bộ ba mỗi người một nơi. Tuy vẫn liên lạc với nhau qua mạng xã hội, qua điện thoại nhưng chẳng thể như trước nữa.

Trương Hữu Lợi nghiện thuốc là nặng. Khi biết mình K phổi, anh giảm hút nhưng không bỏ. Nhiều người khuyên anh nên bỏ, anh bảo: “ Mình K phổi có lẽ hậu quả của mấy chục năm nghiện thuốc lá. Giờ bỏ thuốc, cũng đâu có khỏi được bệnh. Thôi thì cứ thi thoảng làm vui, gọi là giải tỏa tâm trạng nặng nề, thêm can đảm mà chống chọi bệnh tật. Âu có ích hơn là bỏ. Chừng nào không hút được nữa thì thôi. Mới lại, chữa bệnh chứ đâu chữa được mệnh ...”.

Có một thời gian, anh khỏe hẳn lên. Đợt ấy, tôi rủ anh đi Hà Giang, cùng đi có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền. Chúng tôi tổ chức tọa đàm nghề nghiệp cùng với Hội Nhà báo và Đài phát thanh truyền hình tỉnh Hà Giang. Tại buổi tọa đàm ấy, Trương Hữu Lợi đăng đàn hơn giờ đồng hồ về chuyện anh viết loạt phóng sự điều tra về “khoán chui “ thế nào. Chuyến đi ấy, chúng tôi băng qua vùng núi đất phía tây Hà Giang, qua các huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần...Sáng chơi chợ Cốc-pài thị trấn Xín Mần, Trương Hữu Lợi vui lắm, anh nhăm nhăm tìm mua một chiếc áo cánh chẽn dân tộc Mông làm kỷ niệm.

Sau này, khi bệnh nặng thêm, đầu rụng hết tóc, phải đội tóc giả, thi thoảng anh vẫn ghé qua trụ sở 58 Quán Sứ, ngồi hàng giờ với tôi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện văn chương, vui vẻ ăn hết suất cơm ở căng-tin cơ quan, chuyện trò với nhiều đồng nghiệp cũ...

Vâng, quả là trời đền bù cho Trương Hữu Lợi ít nhiều, mùa thu năm 2013, Nhà xuất bản Kim Đồng lựa chọn xuất bản tập truyện cổ tích và đồng thoại “Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng“; Thi đàn Việt Nam tổ chức giới thiệu và giao lưu thơ Trương Hữu Lợi; và chuyên mục “Thơ & cuộc sống“ của VOV2 tọa đàm chủ đề “Trương Hữu Lợi và Khúc ru mình“.

Khoảng một năm trước khi mất, anh hầu như chỉ chống chọi với bệnh tật, ít viết. Không thấy anh công bố tác phẩm nào mới, lâu lâu vẫn đăng đây đó những bài thơ cũ mà anh tâm đắc.

Tập thơ “Nhịp ngựa hoang“ (NXB Hội nhà văn, 2008 ), xem như thơ tuyển chọn Trương Hữu Lợi, thay cho đề từ, anh viết “ Hoa lạnh,Cõi hoang, Vuông cỏ rối/ Đáy Suối quên chới với trăng buồn/ Canh dài vần vụ mưa tuôn/ Cây gày bóng nghé bên cồn chơ vơ...”. Tôi nghĩ, anh muốn tổng kết sự nghiệp văn chương của mình trong mấy câu thơ ấy...

Trương Hữu Lợi cả đời gắn bó với Đài Tiếng nói Việt Nam. Tiếc là anh ra đi không lâu trước lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đài. Hẳn ở nơi xa xôi ấy, Trương Hữu Lợi đâu biết, trong không gian trưng bày truyền thống 70 năm xây dựng và trưởng thành của Đài TNVN tại trụ sở 58 Quán Sứ, trong số muôn vàn kỷ vật, có trưng bày bản thảo vài trang loạt phóng sự anh viết về khoán chui, và bài báo kể chuyện cuộc gặp gỡ, chuyện trò với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh về tam nông...

Giờ đây, anh chẳng còn phải bận lòng nhàn hay không nữa, khi đã là người của muôn năm cũ. Nhưng, với tất cả những gì Trương Hữu Lợi để lại, hẳn đồng nghiệp và bạn bè sẽ luôn nhớ về anh !...

 

 

PHAN QUANG

tài hoa và bền bỉ...

 

          Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng ông, của một người cầm bút, một đồng nghiệp báo chí, văn chương thuộc thế hệ sau.

          Ông là nhà báo, nhà văn Phan Quang; một nhà báo lão thành và lão luyện; một cây bút tài hoa và bền bỉ; một con người suốt đời miệt mài lao động chữ nghĩa;...

          Bởi thế, viết về ông thật khó, khi mà bản thân ông đã viết và xuất bản khoảng năm chục đầu sách và có hàng trăm bài viết về ông của các tác giả trong và ngoài nước,...

          Thế nhưng, trong cái nền chung ấy, tôi nghĩ, vẫn có góc nhìn của riêng mình qua những gì tôi biết và nghĩ về ông.

          Phan Quang quê Hải Lăng, Quảng Trị. Sinh ra trong một gia đình khoa bảng (có ông nội đỗ Cử nhân dưới triều Tự Đúc nhà Nguyễn)  nên ông được học hành. Ông sớm gia nhập phong trào thanh niên từ đầu năm 1945 và trong cách mạng Tháng Tám, Phan Quang tham gia cướp chính quyền ở Quảng Trị. Kể từ đấy ông tham gia hoạt động cách mạng, khi mới 20 tuổi, Phan Quang bước vào cuộc đời làm báo. Năm 1948, Phan Quang làm báo Cứu Quốc ở Quảng Trị, theo đó suốt cả cuộc đời cho đến tận bây giờ, ông miệt mài cùng sự nghiệp báo chí, văn chương, kinh qua nhiều chức vụ trọng yếu ở các cơ quan báo chí.

          Phan Quang viết được nhiều thể loại như phóng sự, điều tra, thời luận, tản văn, tùy bút, bút ký, truyện ngắn, biên khảo, nghiên cứu và dịch thuật. song phải đến khi ông dịch thuật tác phẩm “Nghìn lẻ một đêm” của tác giả Anoine Galland thì tên tuổi Phan Quang về lĩnh vực văn học mới nổi bật. Những tác phẩm văn học thuở ban đầu của ông tôi không có vinh hạnh được đọc nên không dám bàn, song tác phẩm khảo cứu “Đồng bằng sông Cửu Long” của ông thì tôi thực sự ấn tượng. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1981 tôi vào miềnTây Nam bộ trong vai trò một kỹ sư nông nghiệp tham gia khai phá đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã mang theo mình cuốn sách này của ông như một cẩm nang đặng đối chiếu và so sánh với thực địa, cùng với đống sách kỹ thuật nông nghiệp. Hy vọng và thất vọng đều  có, nhưng xin không bàn ở đây, chỉ biết là những gì ông viết trong đó đã mở mắt cho tôi nhiều điều. Qua bài viết này, tôi muốn bày tỏ sự biết ơn Phan Quang vi cuốn sách đó của ông!

          Tiếng tăm ông là thế nhưng phải khi về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) vào cuối năm 1987, tôi mới gặp mặt ông. Khi đó, vừa giải thể Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam để thành lập Bộ Thông tin, Bộ mới này được thành lập trên cơ sở của Ủy ban cũ, nên bộ máy quản lý của nó nằm chung trụ sở 58 Quán Sư, Hà Nội với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Nhà báo Phan Quang được bổ nhiệm Thứ trưởng bộ mới, giúp việc cho Bộ trưởng, nhạc sĩ Trần Hoàn.  Ban biên tập Thính giả của tôi nằm chung trụ sở này, nên hàng ngày đi làm hay chạm mặt Phan Quang. Chung chỗ, khác cơ quan, vả lại dáng vẻ ngoài ông nghiêm cẩn nên không dễ gần. Chạm mặt ông thì chào xã giao vậy thôi.

          Nhưng rồi, đâu đó vài năm, Bộ Thông tin sáp nhập vào Bộ Văn hóa rời về phố Ngô Quyền, nhà báo Phan Quang được điều động làm Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), ông trở thành thủ trưởng cao nhất cơ quan tôi. Trớ trêu thay, phòng làm việc của chương trình phát thanh Tiếp chuyện bạn nghe đài của chúng tôi ở tầng 3 ngay trên chính phòng làm việc của TGĐ Phan Quang ở tầng 2. Hàng ngày, gặp mặt chan chát ở cầu thang bộ. Mấy chị em nữ cùng phòng tôi bắt đầu biết ăn diện son phấn váy vó và giày cao gót đi lại lộp cộp lắm. Lâu lâu, anh cán bộ Ban biên tập lại cau mặt nhắn bảo dạy dỗ “Này mấy cô, đi lại nhẹ cái chân thôi, anh Phan Quang nhờ tôi nói lại giùm là các cô cứ gõ gót giày ầm xuống phòng của anh ấy, khó tập trung làm việc lắm... Anh ấy là người lịch sự tinh tế nên chỉ nhắn thế, chứ không mệnh lệnh đâu nhé”. Mỗi lần vậy, mấy chị em le lưỡi so vai bụm miệng cười bảo nhau nhẹ nhàng, nhưng rồi lại quên, đâu đóng đấy. Có là Tổng giám đốc thì cũng đành bấm bụng chịu thôi.

           Là lãnh đạo cao nhất của Đài TNVN, ông kiêm cả chức vụ Tổng thư ký rồi Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, đồng thời cũng là đại biểu Quốc hội mấy khóa liền, nên đi công tác trong và ngoài nước liên miên nhưng ông rất chu đáo quan tâm đến các việc nhỏ riêng của nhân viên thuộc cấp. Bằng chứng, có lân gặp, ông lưu tôi ở sảnh trước cửa phòng làm việc của ông, bảo: “Cậu chịu khó viết nhỉ. Tôi có đọc mấy truyện ngắn của cậu đăng trên báo. Được đấy. Đừng bỏ văn , văn và báo bổ trợ cho nhau cũng tốt mà”. Tôi hiểu ông khuyên tôi như cái cách ông đã làm, báo và văn song hành. Tôi nghe theo bởi thực tâm tôi thấy hợp lý. Khi cưới vợ, tôi băn khoăn việc đưa thiếp mời ông dự, tôi ngại không mời thì thất lễ mà mời thì ông bận bịu vậy chắc khó dự, nhưng rồi vẫn gửi thiếp mời. Quả nhiên, ông bận đi công tác nước ngoài song vẫn nhớ gửi thiếp qua thư ký riêng của mình đến tôi, chúc mừng hạnh phúc và cáo lỗi không dự được. Đủ thấy ông lịch thiệp và chu đáo thế nào. Nhưng thôi bởi ở đây, tôi muốn phác thảo con người văn chương của ông.

          Chỉ riêng lĩnh vực văn chương, Phan Quang viết khá sớm và  đều tay. Năm 1954 ông đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tay, rồi song hành cùng nghề làm báo, ông viết văn và dịch thuật (tiếng Pháp). Vì song hành báo-văn nên hai lĩnh vực này trong các tác phẩm của ông ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau, không hãm mà đôn nhau lên. Ông viết báo có chất văn, và viết văn lại thấy sự sắc sảo và tính thời luận của báo. Với nhiều người khác ở ta, kiểu nửa văn nửa báo thường là hãm nhau, làm giảm chất lượng chung, nhưng với Phan Quang thì không, ông là số ít, nếu không nói duy nhất thành công ở định dạng này. Tôi nghĩ, sở dĩ vậy, ông quá hiểu sự chông chênh đó mà vẫn lựa chọn phong cách này là bởi tính chất song hành của công việc bó buộc, còn thành công được là nhờ ông giỏi văn phạm, chữ nghĩa trau chuốt trên nền tảng của kiến thức uyên thâm. Vô hình chung, Phan Quang đã tạo dựng nên một phong cách văn-báo của riêng mình.

          Đọc Phan Quang, dù ngắn hay dài, chí ít người ta đều thu hái được thông tin hay thông điệp gì đây mà không thấy uổng công. Vậy thôi nhưng không dễ, bởi phải có tính chuyên nghiệp cao. Xin không bàn rộng, tôi lấy mấy bài bút ký của ông mà tôi rất ấn tượng để bàn luận đôi điều như một minh chứng cụ thể ...

          Ở bài viết về những suy nghĩ bên mộ vua Tần, Phan Quang mượn cớ chuyến ông viếng thăm khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc mà bàn rộng ra lịch sử và văn hóa Trung Hoa mấy ngàn năm; sự hình thành nền văn minh Hoa Hạ; sự hình thành các hệ tư tưởng (Bách gia chư tử); sự tạo dựng nhà nước phong kiến phân quyền và tập quyền; sự mâu thuẫn chính trị quyền lực, sắc tộc, tôn giáo trong xã hội Trung hoa cổ và trung đại ; sự xâm lăng và bị xâm lăng cùng tính hai mặt của chiến tranh v.v...

          Ở bài bút ký viết về nghĩa trang danh nhân ở Paris, Pháp – nghĩa trang Père-Lachaise, nơi yên nghỉ ngàn thu của người chết trong đó có nhiều danh nhân châu Âu và thế giới, được xem như  công viên cho dân Paris và khách thập phương du lịch, Phan Quang lại bộc lộ sự am tường về văn minh văn hóa phương Tây. Đọc bài viết của ông về nghĩa địa dành cho người chết là để cho người sống nghĩ về quá vãng, suy ngẫm hiện tại và chờ đợi tương lai. Tịch mịch mà không u ám, thú vị xen chút hoài niệm, ý thức về sự nhẹ nhàng của cái chết cùng sự vĩnh hằng của con người nên không thấy sợ... và quan trọng người ta ý thức được giá trị của sự sáng tạo cống hiến khi còn sống,... Khách tham quan như cảm nhận được anh linh  các danh nhân lừng danh một thời đang dạo chơi đâu đó trong vườn cây nghĩa trang, Honorre de Balzac, La Fontaine, Moliere, Colette, Ferèdẻic Chopun, Osca Wilde...

          Một bài viết nữa của ông về chuyến hành phương Bắc của một vị hoàng đế triều Nguyễn, từng đi qua và nghỉ đêm ở làng quê ông thuộc Hải Lăng, Quảng Trị. Gia đình ông là gia đình khoa bảng, khá giả nên cũng là chỗ nghỉ đêm cho đám tùy tùng của nhà vua. Câu chuyện ông thuật theo lời kể trong gia đình ông đã cho thấy phần nào diện mạo của triều chính nhà Nguyễn khi ấy và rộng ra là xã hội Việt Nam nghèo nàn lạc hậu trong bối cảnh thoái triều của nhà Nguyễn, đồng thời cũng thấp thoáng ánh lửa của sức mạnh nhân quần đòi quyền sống dưới sự cai trị của chế độ thực dân phong kiến,...

          Đương nhiên, ngoài mấy bài viết mà tôi dẫn ra minh chứng cho một phong cách văn-báo của Phan Quang, ông còn nhiều bài viết, cuốn sách khác hay và bổ ích. Tới nay, sau ngót 70 măm cầm bút, Phan Quang đã cho ra đời trên dưới năm chục đầu sách, điều đó cho thấy sức lao động cần mẫn và bền bỉ của ông. Có lẽ, trong làng báo làng văn xứ mình hiếm người đạt được những con số  ấy như ông?...

          Gặp mặt thấp thoáng ở cơ quan thì nhiều lắm, nhưng gặp riêng và chuyện lâu thì tôi hân hạnh tiếp kiến ông đôi ba lần. Ấy là vào dịp Đài (VOV) kỳ niệm 70 năm thành lập (07/9/2015), theo hẹn trước, Phan Quang đến phòng làm việc của tôi ở tầng 7 trụ sở 58 Quán Sứ. Tiếp riêng ông, tôi có phần ái ngại, đơn giản bởi phòng làm việc của tôi, cấp trưởng ban mà rộng gấp đôi và tiện nghi đầy đủ hiện đại hơn phòng làm việc của ông trước đây khi còn đưởng kim Tổng giám đốc Đài. Thấy ông vui vẻ bình thường, tôi bớt phần ái ngại. Thày trò rủ rỉ bao nhiêu chuyện, báo chí văn chương, quá khứ hiện tại... Hôm ấy trời mưa rả rích, tới trưa tôi giữ ông mời dùng bữa trưa tại căng-tin nhà đài nhưng ông nhẹ nhàng từ chối khéo bảo sáng đi đã hẹn vợ về ăn cơm. Còn lần sau vào đầu thu năm 2017, Phan Quang ra sách mới, tập bút ký “Từ nguồn Thạch Hãn đến bờ Hồ Gươm”, ông mượn phòng họp của Đài để làm nơi tổ chức  lễ ra mắt sách. Cả một buổi chiều, ngồi giúp ông ký tặng sách, lại rỉ rả hầu chuyện đỡ việc ông. Cảm giác thật gần gũi và ấm áp bên người đồng nghiệp lớn.

          Phan Quang từng kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau nên dù không định nhưng tôi vẫn muốn đưa ra nhận định theo góc nhìn của mình. Ở mỗi vị trí lãnh đạo, quản lý nhà nước hay chuyên môn, công tác Hội, Phan Quang đều làm tròn vai nhưng ông không phải là nhà quản lý giỏi. Có lẽ, tính nhân văn, lịch lãm pha chất hào hoa trong con người ông đã khiến ông khó có thể thể mạnh tay quyết đoán trong quản lý hay xử lý một ai đó liên quan đến thân phận con người. Theo tôi, ông có vai trò quan trọng việc góp phần đưa dòng chủ lưu báo chí nước nhà hòa nhập với báo chí thế giới qua tổ chức OIJ (Tổ chức Nhà báo Quốc tế). Thế nhưng, không phải ai cũng đánh giá cao, việc này từng bị một số đồng nghiệp phê phán là hữu khuynh. Riêng thời gian quản lý ở Đài TNVN, ông chủ trương tăng cường tính bình luận các vấn đề thời sự nóng bỏng, những vấn đề cần làm ngay (thời kỳ này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động “Những việc cần làm ngay” - N & L). Ông cũng bắt đầu nhận thấy lối phát thanh cũ (các chương trình đóng cứng, phát thanh ngăn kéo) tỏ ra không phù hợp với sự biến động và phát triển của xã hội nên cho thử nghiệm một số chương trính phát thanh mở (như “Tạp chí truyền thanh”, FM Tin tức và âm nhạc…).

          Phan Quang, tài hoa và bền bỉ. Giờ đây, ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa ngừng nghỉ. Và như thế, bạn đọc vẫn có quyền mong chờ những đầu sách mới của ông,..../.

           

         

 

THANH TÙNG, NGƯỜI HẦU CHUYỆN,...

 

Câu cửa miệng của ông, Thanh Tùng, người hầu chuyện. Thua các cụ, trong chương trình CLB Người cao tuổi hôm nay, Thanh Tùng xin được hầu chuyện,...

Các thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam, nhất là thính giả cao tuổi trong nhiều năm quen nghe thưa gửi này của nhà báo Thanh Tùng, biên tập viên Chương trình phát thanh Câu lạc bộ của những người cao tuổi trên sóng VOV2. Thính giả quen, các biên tập viên ở Đài cũng quen, đến mức nếu vì lý do nào đó, chương trình ấy do biên tập viên khác dẫn là cảm thấy thiêu thiếu nhơ nhớ,...Như thế, với người làm báo, nhất là báo phát thanh, là đạt tới đỉnh cao của nghề nghiệp rồi đấy!...

Tuy học hành dang dở, chưa có bằng đại học, nhưng Thanh Tùng là con nhà nòi của nghề cầm bút nên sớm theo nghiệp cha. Thân sinh của Thanh Tùng là nhà văn Hoài An, người gác cửa văn xuôi của Báo Văn Nghệ một thời Ông đưa người con trai cả ra vùng đất mở Quảng Ninh làm công nhân rồi sang nghề cầm bút. Bấy giờ, Quảng Ninh là vùng đất sôi động, là công trường lớn của miền Bắc XHCN nên các nhà văn hay chọn đi thực tế sáng tác. Tự thân vùng đất này cũng là vườm ươm những tài năng văn chương trẻ với các cây bút Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cương, Trần Nhuận Minh, Yên Đức, Sĩ Hồng... hợp thành dàn văn thơ trẻ nên Thanh Tùng lấy đó mà làm động lực theo nghề cầm bút. Song Thanh Tùng mới chỉ làm báo ở báo Quảng Ninh, chuyên viết tin bài tuyên truyền là chính, nuôi chút mộng văn chương mà thôi.

Rồi Thanh Tùng trở về Hà Nội, bỏ lại vùng đất nỏ sôi động với một mối tình dang dở, để rồi nó đeo đẳng cả đời ông đến mãi sau này. Thanh Tùng về Trung ương Đoàn làm phóng viên Phát thanh Thanh niên,một thời gian rồi chuyển sang Phòng phát thanh Công nghiệp và phân phối lưu thông. Năm 1987 khi tôi về làm phóng viên Đài TNVN (VOV) thì ông đang ở đây. Thời ấy, tôi nhìn Thanh Tùng đầy ngưỡng mộ, bởi kinh tế bao cấp khó khăn mà hàng ngày Thanh Tùng đi làm, áo sơ mi xơ vin quần trắng cưỡi con xe Vespa màu bạch kim nổ phành phạch lướt trên đường đầy vẻ trang nhã thanh lịch. Người ta bảo, vợ Thanh Tùng dạy nghề cắt may thu bộn tiền nên Thanh Tùng mới có xe sang vậy. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng rõ là nhà khá giả.  Lần nữa thế nào rồi Thanh Tùng chuyển sang Ban Văn hóa xã hội, làm trưởng phòng Phát thanh dành cho người cao tuổi. Không rõ trước đó Thanh Tùng viết báo hay dở thế nào nhưng từ khi ông làm phát thanh dành cho người cao tuổi thì Thanh Tùng nổi danh thành một thương hiệu khá đặc biệt của VOV. Thính giả yêu quý Thanh Tùng, gọi điện đến và gửi thư về nhà Đài khen ngợi Thanh Tùng nhiều lắm. Chương trình phát thanh Câu lạc bộ của những người cao tuổi do Thanh Tùng phụ trách, nhất là các buổi do Thanh Tùng trực tiếp thực hiện được đồng dảo thính giả yêu thích. Nói vậy, cũng có người chê này nọ, rằng Thanh Tùng dẫn mộc, nôm na, đọc thơ, ngâm thơ véo von trên sóng như vậy là tự “nhiên chủ nghĩa”. Thanh Tùng đã làm cái việc mà từ ngày khai sinh nghề báo phát thanh Việt Nam, chưa ai làm thế, mà người ta chỉ quen đọc văn bản, lệ thuộc vào văn bản với hàng đống chữ ký kiểm duyệt. Nhưng quan trọng là thính giả thích vì họ cảm thấy được tham gia vào câu chuyện của Thanh Tùng, được đối xử ân cần, thân mật, được chia sẻ nỗi niềm... Về chuyên môn, tôi thấy, tuy thoát ly văn bản đấy song người dẫn kiểm soát được, không sa đà quá trớn, và cái được nhất là thu hút được thính giả vào cuộc. Ấy là cái tài của người làm báo phát thanh. Thanh Tùng hãnh diện mà Ban VHXH chúng tôi cũng tự hào vì có chương trình này. Làm báo phát thanh hút thính giả hư vậy hỏi ai không sướng.

Thời gian ấy, tôi về cùng ban với Thanh Tùng, phụ trách chương trình phát thanh Diễn đàn các vấn đề xã hội, rồi lên làm Phó trưởng ban biên tập nên thành cấp trên trực tiếp của Thanh Tùng. Tuy là cấp trên nhưng tôi tôn trọng Thanh Tùng lắm bởi ông hơn tôi chục tuổi lại có tuổi nghề tuổi Đài cao hơn. Lúc này, Thanh Tùng vượng nghề và vượng cả nghiệp văn. Trong vòng dăm năm, ông cho ra mấy tập sách. Truyện ngắn, của Thanh Tùng viết có chuyện, có chi tiết, câu chữ chuẩn chỉ. Có điều văn chưa mấy hoạt, nặng về tả thực thiên chất ký. âu cũng là cái riêng của Thanh Tùng. Sau vài tập sách mỏng, dường như Thanh Tùng nản, xem như hết duyên văn chương, dần cạn vốn, chỉ còn chuyên tâm vào việc “hầu chuyện các cụ” mà thôi.

Thời gian này, tôi và Thanh Tùng khá thân nhau. Ông hay mang chuyện cũ, những chuyện thời trẻ ở Quảng Ninh, ông sống, yêu và viết báo ra sao. Có những buổi chiều, tôi ngồi chờ duyệt bài còn Thanh Tùng cũng xong công việc, anh em tôi ra bàn trà ngoài sảnh rỉ ra chuyện cả giờ đồng hồ về văn chương và chuyện đời nên tôi ít nhiều hiểu tâm sự của ông. Trong các mẩu chuyện vụn về vùng đất mỏ Đông Bắc thời trai trẻ, tôi cảm nhận từ nơi ông chút gì đó u hoài, qua vẻ mặt và những câu cảm thán hay tiếng thở dài nhè nhẹ như thầm trút ra nỗi niềm gì đó canh cánh trong lòng?...

Quả nhiên, một biến cố lớn đến với Thanh Tùng, hiển nhiên như một trò đùa của số phận,... Tôi đã đắn đo trong câu chuyện viết về ông, kể hay không, viết rồi lại xóa. Bởi chuyện đời và nghề của ông gắn liền với nhau, nên đành sơ lược vậy,…

Chuyên là, một hôm, cả ban biên tập đông người đang giờ làm việc, Chỉ có tiếng bàn phím lách chách. Thanh Tùng cũng gõ máy lóc cóc. Ông không dùng máy tính mà quen gõ chiếc máy chữ cũ. Chợt tiếng chuông điện thoại vang lên, cô biên tập viên trẻ nhấc máy nghe quen việc thính giả gọi tới phản ánh này nọ. Thính giả muốn gặp Thanh Tùng.  Ông nghe máy, đối đáp mấy câu với người gọi tới, hình như có một cuộc hẹn gặp giữa ông với người ấy. Một ai đó cất tiếng bông đùa “Nghe … cứ như… con rơi nhận bố thì phải?”. Cả ban biên tập cười ầm lên,đùa vui mỗi người một kiểu. Thanh Tùng đỏ bừng mặt, lúng túng thanh minh thanh nga gì đó. Mọi người càng đùa thêm. Ai dè, câu đùa ấy lại thành sự thật.

Ít hôm sau, như hẹn trước, Thanh Tùng có điện thoại từ bảo vệ cơ quan gọi ông xuổng cổng gặp người quen. Ông đi đâu đó chừng hơn tiếng rồi quay về cơ quan dắt theo một chàng trai trẻ chừng ngoài ba mươi tuổi, dàng dỏng cao, gương mặt sáng sủa. Mọi người ngạc nhiên và thầm đoán. Thanh Tùng vừa bẽn lễn vừa hồ hởi, giới thiệu với mọi người, đây là con trai ông, kết quả mối tình đầu của mình với một người đàn bà gôc Hải Dương thời ông làm báo ở Quảng Ninh hơn ba chục năm trước, Cả ban biên tập ồn lên vui vẻ, thôi thì muôn vẻ đùa. Chàng trai đầy vẻ tự tin, nói năng thưa gửi chững chạc lắm. Mừng và cũng lo lo cho hai cha con.

Chuyện dài dòng tiếp theo và qua đi một cách thuận lợi cho việc bố con Thanh Tùng nhận nhau và cả chuyện hai bên gia đình gặp nhau cũng suon sẻ. Thật may cho Thanh Tùng. Những ngày ấy, ông sống trong trang thái mất cân bằng nên việc công sở có phần chểnh mảng. Mọi người, ai cũng thông cảm và chia sẻ niềm vui với ông.

Dần dà, tôi được Thanh Tùng kể cho nghe để ngược thời gian biết về mối tình dang dở mà đơm hoa kết trái này của ông. Ngày ấy, Thanh Tùng làm phóng viên báo Quảng Ninh còn cô gái gốc Hải Dương này làm kỹ thuật trực máy tiếp song ở Trạm truyền thanh một huyện miền núi Quảng Ninh. Cô gái khá xinh và hiếu động nên thu hút nhiều chang trai chưa vợ… Họ yêu nhau thắm thiết. Sau này, tôi quen một nhà thơ, chuyện tình cờ biết ông cũng từng là vệ tinh của cô gái ấy ngày đó. Giờ mà ông nhà thơ này vẫn tỏ vẻ ghen tức Thanh Tùng may mắn có được cô gái ấy.. Thế đủ biết là chuyện tình anh chị xưa ghê thế nào.

Theo lời kể của Thanh Tùng, mối tình đẹp như mơ ấy lại nhanh chóng rạn nứt và hai người chia tay nhau đúng vào thời điểm đâm hoa kết trái. Chàng về thủ đô còn nang ở lại và lấy chồng ngay đó. Thật hư ra sao thì chỉ họ biết với nhau? Chuyện gia đình Thanh Tùng chấp nhận người con riêng của ông thoạt đầu suôn sẻ, êm xuôi nhưng rồi mảy sinh trục trặc. Thanh Tùng nghỉ hưu, còn tôi đi nhận công tác ở Đã Nẵng phụ trách VOV MIền Trung nên không rõ chuyện. Chỉ biết việc không thành và sau đó sức khoe của ông yếu dần.

Sau này thi thoảng gặp Thanh Tùng cũng ngại không nỡ hỏi chuyện cũ, vì sợ đụng vào nỗi đâu của ông. Cũng chẳng thấy ông viết lách gì thêm nữa. Trước đây mơ hồ cảm tính, có cớ nhận nhau theo cách nói dân gian “cá vào ao ai người ấy được”, nay giấy trăng mực đen kết quả thử di truyền rõ ràng thế nên chẳng còn cớ gì để nhận nhau, gặp nhau nữa. Một kết cục không có hậu với ông và chàng trai kia. Lại nghe ai đó bảo, thấy đâu đó cậu chàng xuất hiện trên mạng xã hội, than ai là cha tôi, cha tôi ở đâu,... Nghĩ mà thương. Chuyện thật của Thanh Tùng thì tôi đã lấy cốt, bồi đắp thêm da thịt viết thành một truyện ngắn. Không nói lại ở đây.

Bằng đi mấy năm, tôi gặp lại ông trong một lần ban biên tập cũ mời các thành viên đã từng công tác và đã nghỉ hưu của Ban, Thanh Tùng già yếu tiều tụy đến mức vợ ông phải dìu ông đến. Chỗ đông người nên cũng chỉ gật đầu chào xã giao nhau mà chẳng chuyện được gì. Ông mất đã dăm năm nay.

Người thì thiên cổ những chuyện đời đâu có cũ. Vẫn còn đấy những câu hỏi trời hỏi đất vu vơ của anh chàng nọ?...

Và cũng còn đấy, như một huyền thoại nghề báo phát thanh của chúng tôi, Thanh Tùng, người hầu chuyện các cụ!...

 

 

THẤP THOÁNG TRÚC THÔNG

 

 

Mùa thu năm 1987, tôi bước chân vào ngôi nhà 58 Quán Sứ Hà Nội, bắt đầu cuộc đời làm báo chuyên nghiệp của mình. Khi ấy. Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam chiếm trọn ngôi biệt thự trong cùng, một trong ba ngôi biệt thự kiến trúc Pháp ở khu vực trụ sở Đài. Phòng làm việc của tôi thuộc Ban Thính giả, là vài căn phòng cấp 4 ngay bên dưới tòa biệt thự của Ban Văn nghệ. Hằng ngày, nhìn các anh chị của Ban Văn nghệ đi lại ngang qua, và nghe tiếng các vị từ tầng cao vọng xuống, mà ngưỡng mộ. Nhiều lần tôi đứng dưới ngước nhìn lên ô của sổ tầng trên biệt thự với những cánh cửa chớp mở ra, của kính khép hờ mà ước ao một ngày nào đó, mình được là biên tập viên văn học làm việc ở đấy. Thú thực, ngày ấy, với gia tài vỏn vẻn một bài thơ đăng báo Văn Nghệ từ năm 1978 lúc là sinh viên đại học năm thứ ba, thì ước vọng trở thành biên tập viên văn học nhà Đài thật viển vông...

Thế rồi, dịp tết năm ấy, biên tập viên Thu Liên, người cùng phòng với tôi, con gái của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, bảo : "Em nghe bố em nói, chương trình Tiếng thơ đêm ba mười tết này anh có một bài thơ được phát sóng đấy". Thật tình, tôi nghe mà không tin, Quả nhiên, bài thơ của tôi được đứng chung với các bài thơ của các tên tuổi làng thơ Việt trong chương trình Tiếng Thơ tết năm ấy. Nghe mà sướng run người vì không tin vào tai mình. Sở dĩ, tôi nhắc lại sự việc này là để nói tới một ban biên tập văn học thời  ấy của Đài Tiếng nói Việt Nam với các nhà thơ nhà văn, biên tập viên kỳ cựu. Cùng với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, còn có nhà thơ Trần Nhật Lam và vợ ông-biên tập viên Nông Thị Nhuận (một trong những biên tập viên thế hệ đầu của chương trình phát thanh Tiếng Thơ nổi tiếng), nhà thơ Trần Nguyên Vấn, nhà thơ Trần Mạnh Thường, nhà thơ Trúc Thông, nhà văn Tuấn Vinh, nhà thơ Lâm Huy Nhuận,...Để lọt qua các con mắt xanh, nhất là Trúc Thông thật không phải dễ.  Và đấy cũng là cái cớ để sau đó tôi lân la làm quen với các “nhà”, các “cây” của Ban Văn nghệ. Cùng với việc,năm 1978 khi còn là sinh viên, đã có thơ đăng báo Văn nghệ,  nay lại có thơ phát trong chương trình Tiếng Thơ  tết, tôi thêm phần tự tin để theo đòi mộng văn chương.

Thú thực ngày đó, dù yêu văn học nghệ thuật đến mấy, bảnthân đã có thơ và có truyện ngắn đăng báo Văn Nghệ, những tôi ngại bén mảng đến Phòng phát thanh Văn học, mà chỉ hay ghé Phòng phát thanh Văn học thiếu nhi, nơi nhà thơ Lê Đình Cánh và Trường Hữu Lợi phụ trách.

Khi ấy, Ban Văn học nghệ thuạt  (Đài TNVN)  cùng với Báo Văn nghệ, (Hội Nhà văn Việt Nam) Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (Bộ Quốc phòng) và Tạp chí Văn học (Viện Văn hiọc thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam) thực sự là Tứ trụ về lĩnh vực Văn học Việt Nam.  Có thể nói, ở đấy, chủ trương, quan điểm , sự chỉ đạo về văn  học nói riêng và văn hóa văn nghệ nói chung được thể hiện rõ nhất. Đó cũng chính là yếu tố cơ bản làm nên cái uy của những cơ quan này trong làng văn học nghệ thuật ở nước ta. Cũng vì lẽ ấy, các văn nghệ sĩ, nhà thơ nhà văn, các biên tập viên làm việc ở đấy được hưởng lây cái uy .

Với những ai đó oai thế nào thì tôi không rõ, song với văn nghệ sĩ người nhà Đài thì không. Trúc Thông không giống các đồng nghiệp như nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Nguyên Vấn, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh ở sự giản dị, dễ gần, mà cũng không thoải mái, cởi mở như nhà thơ Trương Hữu Lợi, Lâm Huy Nhuận,,, Ông nhẹ nhàng, lịch  thiệp đấy song không dễ gần. Thế nên, mỗi khi gặp hoặc tiếp xúc gần với ông, tôi đều giữ sự kiêng nể, cẩn trọng trong thái độ và lời ăn tiếng nói. Tôi cảm nhận từ ông, gần đấy mà xa ngay đấy, dễ chịu dấy nhưng khó tính ngay đấy,...

Với tư cách nhà thơ, Trúc Thông  có xuất bản vài tập tiểu luận phê bình văn học và bình thơ, song tôi nghĩ, sự nghiệp chính của ông vẫn ở thi ca. Mà chủ yếu là những tập thơ: Chầm chậm tới mình (1985), Maraton (1993), Một ngọn đèn xanh  (2000) và Vừa đi vừa ở (2005). Năm 2017, nhà thơ Trúc Thông được Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, là sự hgi nhận xứng đáng cho những đóng góp của ông trong lĩnh vực thi ca. nhất là sự tìm tòi không mệt mỏi trên hành trình đổi mới thơ Việt  thời kỳ hiện đại,...

Trước hết, Trúc Thông thuộc số các  nhà thơ theo đuổi chủ trương đổi mới thơ Việt. Ông cẩn trọng, kỹ lương và có gì đó cầu kỳ trong từng câu chữ, đến tít bài thơ và cả trong việc  đặt tên tập thơ. Tôi nghe một nhà thơ kể rằng, một nhà thơ đàn anh và là đồng nghiệp của Trúc Thông từng nhận xét về thơ ông, “Trúc Thông là người đau chữ đau câu,...”.  Không rõ thực hư sao, nhưng cứ lẽ mà suy thấy có lý. Trở lại với việc nhà thơ Trúc Thông đặt tít bài, têt sách thì biết. Nghe đâu, cũng như việc ông đặt tên cho con, các ái nữ của mình....

Nói có lý, còn bởi, đã có lần, trong lúc đàm đạo văn chương ở Ban Văn học nghệ thuật nhà đài, tôi nghe Trúc Thông cao hứng bày tỏ quan điểm của mình, rằng “Thơ khi in, trên báo hay vào sách, nên in khổ chữ to, để câu chữ nào lép không có chỗ ẩn nấp”. Thế này thì rõ là “đau chữ đâu câu” chứ đâu? Cứ theo quan điểm này của nhà thơ Trúc Thông, tôi thử suy luận, ông coi mỗi bài thơ như một bông lúa. Dĩ nhiên, hiếm có bông lúa nào toàn bộ hạt đều căng mẩy cả, thế nào chẳng có dăm ba hạt lép, thậm chí rất nhiều hạt lép. Thế nên, mỗi bài thơ, những câu chữ hay là nhưng hạt mẩy, còn câu chữ độn, câu như văn nói, hoặc ngô nghê là những hạt lép. Nhìn cả bông khó thấy hạt lép, cũng như đọc cả bài thơ, câu chữ dở, lép lẩn trong cả bài. Vậy mới phải tìm cách để câu chữ dở, lép không có nơi ẩn nấp, lộ diện ra,... Quả là ý tưởng đọc đáo, khác người. nhưng cũng không dễ làm chút nào.

Trở lại thơ Trúc Thông. Sau Chầm chậm tới mình (hẳn là nhà thơ tìm đường hướng,giọng điệu?), Ông tự tin,bắt đầu tăng tốc với Ma-ra-tông, rồi giữ nhịp ở Một ngọn đèn  xanh.  Và sau đó, có chút lắng lại, thoáng băn khoăn ở Vừa đi vừa ở. Khác với nhiều nhà thơ, lấy tên sách như một cách sáng tác, Trúc Thông chọn tên sách với nhãn quan phê bình, thể hiện quan điểm sáng tác của mình. Bao quát, thơ Trúc Thông, du vần điệu hay không, đều hàm súc, suy ngẫm, hình ảnh và giàu sức liên tưởng.

Ngày trước, khi tôi còn tham gia giữ mục cho một tờ báo nọ, tôi từng chon bài thơ “Lát sông quê” và “Nho nhỏ mùa thu “của Trúc Thông để bình. Liên tưởng đến minh triết “Chẳng một aai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, bài “Lát sông quê,” cùng cảnh tượng trước mắt, tác giả sống lại ký ức xa xưa với hỉnh  bóng bà cụ già, hình bóng người mẹ và câu bé cùng lũ trẻ suốt nửa thế kỷ trôi qua,... như nhau mà lại khác thế, để ngộ ra một sự thật đơn giản “vẫn sông Châu yên lặng thế thôi mà”. Nhưng bà cụ giờ đây rất có thể là con của bà cụ ngày xưa, còn cậu bé “tim loạn nhịp” ngày xưa là tác giả, nhà thơ đứng tuổi lịch lãm phong trần và người mẹ vội chợ ngày ấy giờ đã năm lại ở bờ sông lẫn với đám ngô mà “bờ sông vẫn gió  người không thấy về”.Tìm quy luận vận hành của cuộc sống luôn đau đáu và chẳng dễ với Trúc Thông. Tính ông vốn thế mà.

  bài thơ “Nho nhỏ mùa thu”, ngôn ngữ thơ văn xuôi, Trúc Thông tô màu bức tranh: “Đôi chim câu chân son mỏ đỏ, bên bờ con sông Sa Lung/ chim đi đâu đây?/ cúc cù cu chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi? Rồi chim bay vù.Một quãng đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù/ cỏ mùa thu xanh ngả đượm chút vàng. Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời thu rộng rãi, gió nhè nhẹ trải/ vợ chồng chim như hai anh em như hai bè bạn. Áo trắng ,mắt xườm, chân son, mỏ đỏ. Gật gù đi trong cỏ pha thu.” Nguyên bài thơ như vậy, đầy ắp sắc màu, hình ảnh, sống động, làm nên một bức  tranh thu thật đẹp. Sự cầu kỳ cũng đáng giá đấy chứ?

Bản chất của sự vật và hiện tượng cùng mối liên kết sâu xa của nó mới là mối quan tâm và làm ông bận lòng. Điều này có thể tháy ở một  số bài thơ, như; Cảnh quan, Múa cổ. Qua tháp Dương Long, Vũ nữ Trà Kiệu bước ra từ sa thạch, . Dặn bức tranh năm cô gái, Bài ca các em bé theo công trường,... Ví như, bài Múa cổEm múa điệu rông đô thời cổ/ bàn chân chắc nịch sau làn váy/ da đồng quê/ khăn mận chín vùng vẫy/ ngực căng/yếm sồi/ rông đô/ chân trần tiếp đất/ làng ta thế kỷ mười/ đất âm thầm tự do trong cầm giữ/ rông đô/ trống vỗ/ rông đô/ vai trần/ rông đô/ không biết mệt...  Cảm giác, Trúc Thông mải miết, không mệt mỏi đi tìm cách diễn đạt mới.

Nhưng thấp thoáng đó đây, lại thấy một Trúc Thông rất đỗi thật thà, chẳng hạn như bài thơ “Cao Bằng”:  Sau khi qua đèo Gió/ Ta lại vượt đèo Giang/ Lại vượt đèo Cao Bắc/ Thì ta tới Cao Bằng... Rồi đến chị rất thương/ Rồi đến em rất thảo/ Ông  lành như hạt gạo/ bà hiền như suối trong.../ Bạn ơi có thấy đâu/ Cao Bằng xa xa ấy’ Vì ta mà giữ lấy/ Một dải dài biên cương”. Lời thơ giản dị những tình cảm dạt dào. Có lẽ vậy mà các nhà giáo dục đã chọn đưa vào sách giáo khoa Tiềng Việt để giảng dạy cho học sinh bậc tiểu học.

Hay đâu, có một Trúc Thông nhuần nhị, thấm đẫm tình người, tình mẫu tử trong bài thơ “Bờ sông vẫn gió.” Theo tôi, đây không những là bài thơ toàn bích của Trúc Thông, mà còn là một trong những bài lục bát hay ở xứ ta. Hay về mọi nhẽ., ý tứ, ngôn từ, vần điệu,... Cùng câu mở rất gợi, lời thơ ra tựa lời cửa miệng nhẹ bẫng như không mà đằm nặng nghĩa tình ;“Xin người hãy trở về quê/ Một lần cuối... một lần về cuối thôi,Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ vương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi.

Còn  có một Trúc Thông thẩm thơ bằng “con mắt xanh”. Gần bốm chục năm làm biên tập thơ của chương trình Tiếng thơ, Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, ông đã đọc, đã chọn lựa, bình luận, phê bình hàng vạn bài thơ để giới thiệu cũng thình giả, công chúng. Đây là sự đòng ghóp khồng  nhỏ của Trúc Thông cho sự phát triển của thi ca Việt hiện đại. Cũng nhớ vốn tích luy và kinh nghiệm của ngần ấy năm mà nhà thơ Trúc Thông đã thêm vào gia tình tác phẩm của mình dày dặn.

Với riêng tôi, mấy chục năm công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau khi thưa, ông vẫn cứ thấp thoáng đâu đó, gần gũi đấy mà xa cách đấy, thân thiện đấy mà lành lạnh cách nhỡ đấy,... Về phần mình, tôi luôn kính nể ông, mỗi khi tiếp xuc mạn đàm về văn chương hay cuộc sống, tôi thường nghe ông nói, hơn là chia sẻ, giãi bày,...

Tiếc là, sau nhiều năm nằm bệnh sau đột quỵ, hoạt đông văn học của ông phần nào hạn chế. Song với những gì Trúc Thông để lại khi ông rời cõi tạm, bạn bè văn chương và người yêu thơ đát Việt chắc chắn sẽ nhớ đến ông không riêng chỉ “Bờ sông vẫn gió” và tên những tập thơ khác lạ !...

 

 

Thủng thẳng nhà thơ Trần Ngọc Thụ 

 

                                                                            

          1. Ngẫu cảm.                                                                           

            Vào tháng Trọng Xuân năm Giáp Thân (2004), nhà thơ Trần Ngọc Thụ làm một bài thơ chữ Hán viếng nhà thơ Ngô Linh Ngọc (Vãn thi gia Ngô Linh Ngọc), có câu : “Bát thập dư tại thế / Nhất triêu hoàn dĩ quy"  (tự ông dịch nghĩa là : Ở thế hơn tám chục/ Ra đi bỗng một ngày ...). Năm Ất Dậu (2005), cũng tháng Trọng Xuân, nhà thơ Trần Ngọc Thụ theo chân đàn anh Ngô Linh Ngọc, cũng "nhất triêu hoàn dĩ quy", có điều là ông kém bậc huynh trưởng, mới chỉ  Thất thập dư tại thế , mà thôi ! 

            Tôi là kẻ hậu sinh, về Đài sau, lại chưa từng làm cùng ban biên tập với nhà thơ Trần Ngọc Thụ bao giờ. Song khi biết tôi tập toẹ thơ văn, võ vẽ chữ Hán, nên ông đem lòng quý mến. Lâu lâu ông gọi điện, nhắn gọi, hoặc những lúc tôi tự ghé phòng làm việc của ông, ông trò chuyện thân tình và đọc cho tôi nghe những bài thơ mới của ông. Mỗi khi in được tập thơ nào, ông cũng đưa tặng tôi. Đáp lại thịnh tình ấy, tôi cũng hay có những điểm sách và bình một số bài thơ của ông mà tôi tâm đắc. Dù kém ông hơn hai chục tuổi, những ông luôn coi tôi là cậu em nhỏ, xưng hô tao mày thân mật. Cuối thu năm vừa rồi, một lần ông đến cơ quan, ghé thăm nơi làm việc của Ban VHXH chúng tôi. Ngồi uống nước trà với nhà thơ Nguyễn Huy Dung, anh Thanh Tùng và tôi, ông say sưa nói về thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi cao hứng khoe mấy bài thơ mới làm, trong đó có một bài thơ chữ Hán thể Ngũ ngôn tuyệt cú , tôi nghe qua thấy thích. Lúc vãn người, tôi lấy giấy bút đưa để ông chép lại cho tôi bài thơ ấy. Dù biết tôi cũng hiểu chữ Hán, song ông vẫn cắt nghĩa cho tôi nghe, dường như muốn tôi hiểu thêm tâm sự của ông. Bài thơ đề tên Ngẫu cảm  như sau :                

                                    Bần bệnh thân hữu sơ

                                    Trường đãi kỷ thời đáo

                                    Đối ngã tương vi ngu

                                    Tận nhật nhất miêu lão.

            Có thể hiểu nghĩa là : Khi ta nghèo và bệnh tật thì người thân, bạn hữu cũng thành ra sơ.  Cứ mong đợi mãi kẻ tri kỷ đến thăm chơi. Thôi thì đành tự mình làm vui với mình vậy. Quanh quẩn suốt ngày chỉ có con mèo già .   

            Bài thơ hàm súc mà lay động. Đọc kỹ rồi thấy như ông trách khéo mấy anh em chúng tôi, cứ tạm coi như đàn em  thơ văn của ông đi, ít đến thăm ông. Với riêng tôi, quả là khi nhà ông còn ở khu tập thể cơ quan tại Phương Liệt, thỉnh thoảng tôi có ghé thăm ông  nói chuyện thơ văn, chiêm ngưỡng và bàn luận quanh mấy bức thư pháp thơ chữ Hán do cụ Nguyễn Văn Bách viết tặng ông. Vài năm nay, từ khi ông dọn nhà lên Thuỵ Khuê, Tây Hồ thì tôi chưa đến thăm nhà mới của ông lần nào. Những lúc gọi điện đến thăm, ông bảo :"Chú mày, bảo thêm cả Huy Dung nữa, lên chơi trên tao, ăn trưa tại nhà với tao một bữa...". Thế rồi, anh em chúng tôi cứ bận mải công việc, lần lữa mãi mà chưa đến thăm ăn cùng ông bữa cơm tại gia...   

            Trước Tết Nguyên Đán  vừa rồi, có nghe nói ông phải vào viện, chủ yếu để theo dõi căn bệnh huyết áp thấp rồi lại ra viện ăn Tết tại nhà. Nghĩ là ông khỏe lại. Năm nay, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đài TNVN, Ban VHXH có tổ chức cuộc thi thơ Đương luật về Đài TNVN, chúng tôi dự định mời ông vào Ban giám khảo cuộc thi, chỉ còn đợi quyết định chính thức, thì đến nhà thăm và mời ông tham gia. Nghĩ là đợt này sẽ có điều kiện gặp ông thường xuyên hơn. Đột nhiên, nhận tin ông nhập viện, mà lần này là bệnh trọng. Anh em, bạn hữu cơ quan biết tin lác đác vào thăm ông. Hôm tôi cùng anh Huy Dung và chị Song Phương vào viện, đi trên khoảnh sân rộng bời bời lá vàng rụng khi gió mùa bấc về, tôi chợt nhớ đến bài thơ chữ Hán nọ, đọc lên cho mọi nguời cùng nghe. Có gì đó đượm buồn nơi mỗi chúng tôi. Nhà thơ Trần Ngọc Thụ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh. Thần sắc nhợt nhạt, hơi thở dốc khó khăn. Thực ra, căn bệnh ung thư thực quản  hay vòm họng chi đó hành hạ ông đã lâu. Thần trí ông tỉnh táo, mắt he hé nhìn, nói đứt đoạn vài từ ngắn đáp lại lời thăm hỏi của chúng tôi. Bác sĩ bảo khó lấy mạch lắm. Vậy là ông khó qua. Nghĩ vậy, nhìn nhau mà chẳng biết nói gì. Người nhà bảo là ông tỉnh táo hơn so với mấy ngày đầu nhập viện. Anh Huy Dung nắm tay anh bảo: "Anh ơi, anh cố qua, để lại đọc thơ cho bọn em nghe" . Còn tôi, tôi nghiêng xuống giường bệnh của ông khẽ đọc một câu :"Bần bệnh thân hữu sơ ...". Chỉ thấy ông thở dài, co duỗi một bên chân... Thì ra chỉ là chút bùng lên của ngọn lửa trước khi tắt lụi! Rạng sáng hôm sau ông ra đi !...                 

            Bài thơ ấy, tôi biết là một trong số ít những bài thơ chữ Hán cuối cùng của nhà thơ Trần Ngọc Thụ. Kính cẩn xin với vong linh ông, chúng tôi mấy đứa đàn em của ông, mạo muộn dịch nôm na bài thơ Ngẫu cảm thế này: 

                                    Nghèo, ốm nên ít bạn .

                                  Mong hoài  tri kỷ qua

                                    Đành tự mình vui vậy

                                    Quẩn quanh với mèo già..   

           

 

2. Vẫn như ngày xưa ấy... 

           

            Kể từ ngày đeo đẳng với nghiệp thơ khi còn trẻ, Trần Ngọc Thụ thủng thẳng làm thơ, thủng thẳng đăng tải trên các báo, mãi đến năm 1989, mới xuất bản tập thơ đầu tay là Em vẫn như ngày xưa. Rồi bài thơ được lấy làm tên tập ấy được nhạc sĩ Lê Đình Lực phổ thành bài hát, qua giọng hát Thanh Hoa ngày ngày vang trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, lại được biểu diễn trên sân khấu ca nhạc, Trần Ngọc Thụ thêm được đồng nghiệp và người yêu thơ chú ý.

            Thế rồi, như ngựa vía, Trần Ngọc Thụ không thủng thẳng nữa, ông  dư sức phi nước đại, một mạch dài, để lại đằng sau vết chân lỗ chỗ liên tiếp các tập thơ là: Hoa sữa (1991), Hai chiều ngày vui (1990), Cánh buồm xa (1990), Thoáng xưa (1993), Người không xa (1993), Mộng bình yên (1994), Quả trái mùa (in chung-1994), Gia bảo  (in chung-1595), Chớm thu (1998).

            Đến đấy, vẫn không dừng, song nhà thơ Trần Ngọc Thụ lại thủng thẳng như thời bắt đầu vào nghề, dành thời gian để nghỉ ngơi, để nghiên cứu thơ Đường-Tống, để viết bài cho mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và ngày ngày đưa đón cháu đi học.

            Trần Ngọc Thụ làm nhiều thơ, song tựu chung, có thể thấy thơ của ông thành hai vệt chính - thơ tình và thơ về nông thôn quê hương.

            Ông sinh năm 1934 ở quê nhà Nam Trực, Nam Định. Vùng đất phía nam kinh thành Thăng Long xưa, có những ba cái chợ Viềng nổi tiếng với mua bán cầu may họp một năm một lần sau Tết nguyên đán, ấy cũng là nơi nảy sinh những thi sĩ tài danh như Nguyễn Khuyến, Trần Bích San, Tú Xương, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, đã tạo cho thơ ông vẻ chất phác, nhuần nhị chất đồng quê Bắc Bộ, lại pha chút hóm hỉnh, uyên thâm thâm Nho học. Sinh ra và lớn lên ở quê, nên ông làm khá nhiều thơ về quê mình, về nông thôn đất Việt. Có cảm tưởng, hầu như mỗi lần Trần Ngọc Thụ về thăm quê mình, đến chơi quê bạn, hoặc trong cuộc đời làm báo của mình, khi đến miền quê nào, ông cũng có thơ. Thơ như thương trực trong ông, nên ông viết rất nhanh, không cầu toàn, khiến người quen có cảm giác ông ứng khẩu thành thi vậy. Thơ về thôn quê của ông thường giản dị và cũng khá dí dỏm : "Đường làng thon thả lượn bờ tre/ Vai tròn áo mỏng tươi màu gụ/ Giấu nụ cười duyên sau nón che ..." (Nét quê). "Rơm mới đường làng vướng gót/ Nhẹ  nhàng khói bếp thơm say/ Em má bùn lấm tấm/ Căng hồng cổ chân, cổ tay" (Ngày mùa). "Tháng ba là tiết gió nồm/ Bao nhiêu cây súng ồm ồm nở hoa/ Ao gần cho chí ruộng xa/ Ếch kêu ộp oạp bài ca gợi tình.../ ... Em ơi đi chợ tháng ba/ Em mùa chùm khế hay là chùm me " (Tháng ba)  v.v...

            Nhiều lúc ông lại dụng công trau chuốt, chơi chữ : "Gieo tơ mơ xe tre thôn/ Mây lang thang mang tâm hồn sang thu" (Mây sông Ninh). "Chuông hồi thánh thót vang ngân/ Lúa thu gánh đổ dầy sân nắng chiều". (Làng ngoại ô). "Cầu tre lắt lẻo vai gầy/ Đường xa mỏi bước gánh đầy chợ đông"   (Cầu tre )... Những câu thơ kiểu như vậy làm bài thơ làng nhàng bỗng trở nên sống động lung linh hơn.

            Có lẽ, bài thơ được nhiều người biết đến nhất là bài Con đường hàng tỉnh :                      

                                    Con đương hàng tỉnh tôi đi

                                    Ba mươi năm có những gì đổi thay ?

                                    Nhà mái rạ tường đã xây

                                    Ven đường đã lớn hàng cây xà cừ

                                    Ông lão dong trâu đi bừa

                                    Là con ông lão ngày xưa đi cày .

            Bốn câu đầu tả thực, về sự đổi thay của làng quê qua quang cảnh hai bên con đường hàng tỉnh trong ba mươi năm qua, sẽ là kể chuyện thường nếu như không làm phông nền cho hai câu kết đặc sắc : "Ông lão dong trâu đi bừa/ Là con ông lão ngày xưa đi cày". Bài thơ được nâng tầm hẳn lên. Thật mà lại ảo. Có gì đó sâu xa buồn. Cuộc đời năm tháng đằng dẵng bỗng thành thoáng chốc, nhưng sao vẫn quẩn quanh thế thôi ư ? Phải chăng, đấy còn là phong tục tập quán, là văn hóa với những giá trị riêng của nó ?!

            Bài thơ được ông viết vào cuối năm 1989. Trần Ngọc Thụ sinh ra và lớn lên ở quê. Ông đi theo cách mạng rồi làm cán bộ thôn xã. Rồi nữa mới rời làng quê về thành phố học hành thành tài và trở thành nhà báo. Ba mươi năm đi trên con đường hàng tỉnh, tuy làng quê đã ít nhiều đổi thay song những người nông dân vẫn khổ. Ngẫm ra, làm gì mà không khổ. Ba mươi năm ấy là những giặc giã liên miên, bao nhiêu sức người sức của đổ hết ra mặt trận, với những ngày tháng "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", ở lại hậu phương, làng quê toàn là người già, đàn bà, trẻ con. Thêm vào đó là thiên tai, vừa nắng hạn khô nứt nẻ mặt ruộng, chốc đã mưa bão ngập lụt nước trắng đất trắng trời. Nghĩ về làng quê ông, lại nhớ về làng quê mình. Ấy là đêm đêm mùa gặt chầu trực ở sân kho hợp tác xã chứng kiến cảnh chia thóc ngày đó. Những đống thóc ướt sũng lên mộng mạ nồng nồng mùi men rượu vơi nhanh chóng trong ánh đèn dầu hỏa đỏ quạch ám khói đen, khi mà danh sách được chia thóc trên tay ông đội trưởn dài dằng dặc... Đến khi đất nước bình yên thì cơ chế quan liêu bao cấp ngần ấy năm lại đè nặng nền sản xuất và đời sống xã hội. Với một bầu không khí như vậy, người nông dân mòn mỏi, khổ ải là phải thôi. May mà công cuộc đổi mới từ đầu những năm chín mươi đã làm đất nước khởi sắc. Cũng bắt đầu từ nông nghiệp-nông thôn-nông dân với cơ chế khoán 100, rồi khoán 10. Và chỉ khoảng chục năm sau, Trần Ngọc Thụ trong bài Cầu tre đã viết : "Làng quê nay hết lối mòn/ Đường ngang ngõ dọc cầu vòm mới xây/ Còi xe nhộn nhịp đêm ngày/ Gác cao nhà rộng sum vầy cháu con/ Mẹ cha khuất bóng không còn/ Khổ đau ngày ấy dài hơn kiếp người ...".

            Về bài thơ Con đường hàng tỉnh, cơ quan Đài Tiếng nói Việt Nam của ông còn truyền nhau một giai thoại, ấy là chuyện có một cậu bé đã sửa thơ ông, lại đúng vào hai câu hay nhất của bài thơ. Chuyện là, cậu bé con một chị phóng viên cấp dưới của ông được mẹ cho lên cơ quan. Chẳng hiểu sao, cậu bé học sinh tiểu học ấy tình cơ đọc được bài thơ này, nó lẩm bẩm rồi bảo với mẹ nó , đại loại là trong bài thơ của bác Thụ, hai câu thơ Ông lão dong trâu đi bừa / Là con ông lão ngày xưa đi cày, có thể đổi là Ông lão ngày xưa đi cày/ Là cha ông lão ngày nay đi bừa.. Chuyện vui là vậy thôi. Nhà thơ Trần Ngọc Thụ rất lấy làm khoái với chuyện đó.

            Thế còn thơ tình, không thể không nhắc tới bài thơ Em vẫn như ngày xưa , bài thơ đã làm nên tên tuổi Trần Ngọc Thụ. Người quen hay ngân nga mấy câu : "Dù thời gian chia phôi/ Dù đường dài xa xôi/ Em vẫn như ngày xưa/ Mến yêu anh trọn đời ... Em vẫn như ngày xưa/ Mắt đen nhìn đung đưa/ Nét cười sau vai áo/ Tay mềm thon búp thơ ...". Nhẹ nhàng, duyên dáng, lời thơ quyện với âm nhạc nên được tôn lên rất nhiều. Riêng tôi, tôi lại thích những bài thơ tình khác của Trần Ngọc Thụ . Chẳng hạn như bài Bướm trắng : "Thèm mong khát đợi yêu chờ/ Ríu chân muốn ngã bên bờ chiêm bao/ Quờ tay vịn gốc cây đào/ Bóng con bướm trắng trôi vào mắt thơ...". Thích nhất cái câu cuối : "Cưỡi lưng bướm trắng mà lên đỉnh trời". Chẳng giống ai từ cổ chí kim, người ta toàn cưỡi rồng, cưỡi phượng, cùng lắm là cưỡi ngựa thần, cá chép thần mà lên trời, chứ có ai cưỡi bướm đâu. Ây vậy, cưỡi bướm mà lên đỉnh trời thì chỉ có nhà thơ Trần Ngọc Thụ.

            Hay như bài Chớp giật : "Lùi trăng đùn kéo mây xa/ Mây không che được lòng ta nhớ người/ Tiếng gì như hạt mưa rơi/ Hai con chớp giật cuối trời gọi nhau". Hàm súc và ám ảnh. Hay như bài Đơn sơ : "Không nhiều ham hố chẳng kiêng khem/ Chẳng dám khinh khi chẳng khát thèm/ Chỉ mong đêm một giấc mơ nhỏ/ Sớm một chút thơ, chiều chút em". Khốn nỗi, đơn sơ vậy song thực khó lắm thay !

            Có một bài thơ được bạn bè và đồng nghiệp hay nhắc đến, mang ra đùa vui lúc chuyện phiếm, đó là bài Vui xuống cấp :

                        Trông xa tưởng bác đã già

                        Đến gần mới biết chỉ là chú thôi

                        Cầm tay đích thị em rồi

                        Ngả lưng nằm xuống là tôi với mình.

            Đúng là gừng càng già càng cay. Tinh nghịch, hóm hỉnh và cũng chí lý thay. Cái sự tinh ranh, dí dỏm này luôn có sẵn trong Trần Ngọc Thụ, lâu lâu ông lại tung ra một chưởng, như : "Cánh buồm tím cánh buồm xanh/ Để làm chi lắm cho anh một buồm ". (Áo phông) ; "Chờ em hôm kia hôm qua/ Hôm nay em đến thì hoa đã tàn/ Nắng rồi sương giá đã tan/ Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi" (Hoa tàn) ; "Vua khen thằng đấu có tài/ Văn chương khúc ngắn khúc dài đều hay/ Rượu tình uống mãi không say/ Ngất ngư chỉ một cái này mà thôi" (Khen thằng đấu).

            Trần Ngọc Thụ tinh ranh và hóm hỉnh trong thơ, như ông tinh ranh, hóm hỉnh trong đời sống, công việc vậy. Với ông, có cảm giác, chẳng có gì là quan trọng cả. Việc gì khó đến mấy  rồi ra cũng có cách giải quyết. Thủng thẳng và hài hước mà tới. Duờng như ông đã tự tìm cho mình một triết lý sống. Như ông Tự đùa với chính mình, và cho mọi người biết :

                        Ừ già ừ vẫn trẻ

                        Sớm trưa khề khà trà

                        Cây cảnh mảnh khảnh cảnh

                        Giò hoa la đà hoa

                        Khôn không khôn nói năng nói

                        Chuyện tếu táo thơ lơm chơm

                        Cơm ba bát thuốc vài điếu

                        Yêu người đẹp uống chè thơm .

           

 

            3. Chí kim thiên tải văn dư hương

 

            Với nhà thơ Trần Ngọc Thụ, nôm na và hóm hỉnh bao nhiêu với thơ ca Việt ta, thì ông lại thâm trầm bấy nhiêu với thơ ca chữ Hán, đặc biệt  với thơ Đường.

            Ngày nhỏ ở quê, tuy ở vào thời điểm ấy, nền khoa bảng Nho học đã suy tàn, ông vẫn được học chữ Hán, ê a dăm câu Tam tự kinh. Và với vốn chữ Hán ít ỏi ban đầu ấy, sau này do yêu thích thứ ngôn ngữ giàu tính tượng hình, hội ý ấy, ông tự bồi bổ và đã có thể đọc dịch thơ Đường -Tống từ nguyên bản, rồi cùng với người anh trai của mình là nhà thơ đồng quê Trần Huy Tạc, soạn chung một tập thơ, gồm những bài dịch thơ Đường-Tống và thơ chữ Hán theo Đường luật.

            Chính sự am hiểu thơ Đường và biết làm thơ chữ Hán- Đường luật, đã làm nên một góc riêng con người và thi ca Trần Ngọc Thụ.

            Trong tập thơ Chớm thu (NXB Thanh niên-1998), Trần Ngọc Thụ dành riêng phần cuối cho bản dịch 14 bài thơ Đường và một bài thơ chữ Hán-Đường luật của Tam nguyên Trần Bích San, triều Nguyễn -Tự Đức, người quê Nam Định.

            Trong lời tựa cho phần này, Trần Ngọc Thụ đã viện dẫn câu thơ Lý Bạch: "Chí kim thiên tải văn dư hương" với lời dịch của nhà thơ Chu Mạnh Trinh : "Nghìn năm sau còn nhặt phấn hương thừa", chỉ để bộc lộ cảm xúc của mình khi bị mê hoặc, quyến rũ bởi thơ Đường.Và nữa, cũng là cái cớ để ông đặt tên riêng cho phần thơ dịch này trong tập là Hương thừa.

            Thực ra, câu thơ ấy trong bài thơ Ký viễn  (Gửi phương xa) của Lý Bạch là : "Chí kim tam tải văn dư hương". Bài thơ này được Trần Ngọc Thụ dịch theo thể lục bát như sau : 

                        Người còn hoa thắm đầy nhà

                        Người đi nhà vắng giường hoa ai nằm

                        Chăn hoa xếp để ba năm

                        Ba năm hương cũ vẫn đằm đê mê

                        Hương còn người mãi không về

                        Nhớ thương rụng lá đầm đìa sương rêu.

            Yêu và dịch thơ Đường, lại chỉ chọn dịch ít bài nổi tiếng, Trần Ngọc Thụ phải đối mặt với khó khăn, đó là bản dịch trước của các cao thủ trong làng túc nho , những người vốn am tường thơ Đường.

            Bài Trúc lý quán (Quán Trúc lý)  của Vương Duy là một ví dụ. Nguyên bản âm Hán Việt là :

                        Độc tọa u hoàng lý

                        Đàn cầm phục trường khiếu

                        Thâm lâm nhân bất tri

                        Minh nguyệt lai tương chiếu.

            Đây là bài thơ ngắn, hàm súc nên rất khó dịch nếu bám sát nguyên bản theo thể ngũ ngôn tuyệt cú.Trần Ngọc Thụ chuyển dịch thành lục bát, khá  nhuyễn mà vẫn sát ý :

                        Ngồi trong đám trúc một mình

                        Gảy đàn rồi lại hứng tình huýt môi

                        Rừng sâu vắng vẻ nào ai

                        Vầng trăng trong đến soi người tri âm .

            Bài thơ Giang tuyết  (Tuyết sông) của Liễu Tông Nguyên, nguyên bản Hán Việt là :

                        Thiên sơn điểu phi tuyệt

                        Vạn kính nhân tung diệt

                        Cô chu toạ nạp ông

                        Độc điếu hàn giang tuyết .

            Trần Ngọc Thụ dịch sát theo thể ngũ ngôn. Theo tôi, đây là bài dịch thành công nhất  trong số những bản dịch thơ Đường của ông :

                        Ngàn núi bóng chim bặt

                        Vạn nẻo dấu người không

                        Thuyền lẻ ông tơi nón

                        Một mình câu tuyết sông .

            Lời hay, độc đáo, sát nghĩa, lại giữ được phong vị Đường thi . So với bản dịch của Trần Trọng Kim thì đạt hơn. Học giả Trần Trọng Kim chuyển thành lục bát nên bị loãng, giảm phong vị . Xin được nêu ra đây để tiện cho việc tham khảo :

                        Nghìn non chim hết vẫy vùng

                        Vắng tanh muôn nẻo tuyêt không dấu người

                        Áo tơi, nón lá, ông chài

                        Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu.

            Bài thơ Ẩm tửu khán mẫu đơn (Uống rượu ngắm hoa mẫu đơn) của Lưu Vũ Tích , nguyên bản Hán Việt là :

                        Kim nhật hoa tiền ẩm

                        Cam tâm túy sổ bôi

                        Đãn sầu hoa hữu ngữ

                        Bất vị lão nhân khai .

            Trần Ngọc Thụ chọn cách dịch đúng thể, sát nghĩa (khác cách dịch của học giả Trần Trọng Kim theo thể lục bát), và theo tôi đây là một bản dịch giữ được phong vị :

                        Trước hoa ngồi uống rượu

                        Muốn vài chén say sưa

                        Chỉ buồn hoa sẽ nói

                        Không nở cho người già.

            Bài thơ Kim Lũ y (Áo thêu vàng) của Đỗ Thu Nương, một tác giả nữ hiếm hoi trong số các tác gia Đường thi, nguyên bản thể tứ tuyệt :

                        Khuyến quân mạc tích kim lũ y

                        Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì

                        Hoa khai kham chiết trực tu chiết

                        Mạc đãi vô hoa không chiết chi.

            Không chuyển sang đúng thể tứ tuyệt theo lệ thường thấy khi dịch thể thơ này, mà Trần Ngọc Thụ lại cố gắng chắt lọc, kiệm từ hơn, chọn thể ngũ ngôn. Âu cũng là sự thử sức mình :

                        Xin đừng tiếc áo đẹp

                        Hãy tiếc lấy ngày xanh

                        Hoa đang tươi kíp hái

                        Đừng để lúc trơ cành .

            Vì kiệm từ, bản dịch chỉ cốt lấy ý mà bỏ bớt lời, nên thiếu toàn vẹn. Song với thể ngũ ngôn, dịch được như vậy cũng là hay.

            Bài thơ Bạc tần hoài (Đỗ bến Tần Hoài) của Đỗ Mục, nguyên bản Hán Việt thể tứ tuyệt :

                        Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa

                        Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia

                        Thương nữ bất tri vong quốc hận

                        Cách giang do xướng Hậu đình hoa.

            Bài thơ này vốn đã nhiều người dịch. Cũng không vì thế mà Trần Ngọc Thụ không thử sức mình :

                        Khói mờ sông lạnh trăng soi bãi

                        Đỗ bến Tần Hoài cạnh tửu gia

                        Mất nước gái ca không biết hận

                        Bên sông còn hát Hậu đình hoa .

            Bài thơ Hoài thượng biệt cố nhân  (Tiễn bạn trên sông Hoài) của Trịnh Cốc, nguyên bản Hán Việt thể tứ tuyệt, nhịp điệu êm ái :

                        Dương tử giang đầu dương liễu xuân

                        Dương hoa sầu sát độ giang nhân

                        Sổ thanh phong địch ly đình vãn

                        Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.

            Vừa thích thú, vừa không yên tâm nếu như chỉ chọn một cách dịch bài thơ này, Trần Ngọc Thụ thử sức ở cả hai thể khác nhau :

            Bản 1: Dương tử đầu sông dương liễu biếc

                         Hoa dương buồn chết khách qua sông

                         Sáo chiều ly biệt đôi làn vẳng

                         Tôi trở về Tần anh sang đông .

           

            Bản 2: Liễu xanh biêng biếc bên sông

                         Khách qua sông chết cõi lòng hoa bay

                         Biệt ly tiếng sáo đâu đây

                         Anh sang đất Sở tôi quay về Tần.

            Theo tôi, cả hai bản dịch đều đạt. Bản dịch đầu giữ nguyên thể và phong vị, song bản dịch sau nhuyễn hơn mà lại thấm đậm nỗi sầu thương .

            Bài thơ Tống Linh Triệt (Tiễn nhà sư Linh Triệt) của Lưu Trường Khanh, nguyên thể thất ngôn tuyệt cú, rất hàm súc :

                        Thương thương Trúc Lâm tự

                        Diểu diểu chung thanh vãn

                        Hà lạp đái tà dương

                        Thanh sơn độc quy viễn.

            Ở bài này, Trần Ngọc Thụ đau đáu cả với hai sự lựa chọn :

            Bản 1:  Xanh xanh Trúc Lâm chùa

                          Văng vẳng chuông chiều đưa

                          Nón lá sen bóng xế

                          Một mình về núi xa .

           

            Bản 2:  Xanh xanh chùa cổ mơ màng

                          Chuông chiều văng vẳng nghe càng buồn thêm

                          Bóng tà soi nón lá sen

                          Một mình lủi thủi về miền núi xa .

            Xét thấy, bản dịch đầu giữ nguyên thể, ngôn từ chắt lọc mà hàm ý sâu xa, mang phong vị Thiền, có dáng dấp một bài kệ Phật giáo. Còn bản dịch sau, đời hơn, nên vì thế cũng buồn và cô quạnh hơn, lại thêm nhịp điệu man mác, du dương.

            Không cần dẫn hết phần dịch thơ Đường của Trần Ngọc Thụ, bởi chỉ ngần ấy thôi cũng đủ thấy cái cảm, cái tường của ông về thơ Đường đạt tới độ nào. Phần thơ của ông làm theo các thể Đường luật, thiết nghĩ sẽ làm rõ hơn tài thơ chữ Hán củaTrần Ngọc Thụ. Không biết cho đến lúc mất, ông đã làm bao nhiêu bài thơ chữ Hán. Vì quý mến kẻ vãn sinh là tôi, mỗi dịp gặp, Trần Ngọc Thụ đều nói chuyện và khoe thơ chữ Hán ông làm. Chính vì vậy tôi đồ rằng số bài thơ chữ Hán của ông không ít, song trong tay tôi chỉ có ba bài, và mỗi bài đều được chính tay ông viết nguyên bản chữ Hán. Ngoài bài thơ Ngẫu cảm mà tôi đã nêu ở phần đầu là không có phần dịch sang tiếng Việt, hai bài còn lại đều được ông chép đủ bằng nguyên chữ Hán rồi  âm Hán Việt và tiếng Việt. Trong bài viết này, tôi chỉ nêu bản Hán Việt và tiếng Việt mà thôi .

            Bài thơ : Tân xuân tân gia tức sự

                          Thụy đường huy ánh tân quang thái

                          Xuân thụ hàm dương mãn điểm hoa

                          Thu tứ thu tình thi hứng khởi

                          Nam hòa khuê phát hạo bình ca.

            Bản dịch của chính Trần Ngọc Thụ như sau :

                          Phong quang vẻ thụy nếp nhà ta

                          Khí tốt trùm cây tươi sắc hoa

                          Ý đượm tình sâu thi hứng nổi

                          Êm đềm ngọc sáng tiếng vui ca .

            Bài thơ này được ông cao hứng vịnh vào xuân Ngâm Ngọ (2002). Có thể nói, đây là thời kỳ khá viên mãn của ông. Lúc ấy, ông đã nghỉ hưu được mấy năm, ở chung với gia đình con trai là Trần Nam Bình trong căn nhà to mới mua  trên phố Thụy Khuê gần Hồ Tây. Lại thêm, vợ ông, nhà thơ Lệ Thu từ Bình Định lâu lâu ra Hà Nội ở cùng. Sức khỏe tốt, đọc nhiều, có thời gian để tâm nghiên cứu thơ Đường- Tống, và hẳn làm nhiều thơ chữ Hán. Khi đọc cho tôi nghe bài thơ này, ông còn hứng khởi khoe rằng, trong bài thơ  ông đã vận dụng kê tên hầu hết những thành viên gia đình ông và cả nơi ở vào đấy : Thụ-Thu-Nam Bình- Thụy Khuê...

            Bài thơ Vãn thi gia Ngô Linh Ngọc thì được ông làm vào mùa xuân Giáp Thân (2004) , cảm đề khi nhà thơ Ngô Linh Ngọc qua đời :

                                    Nhu kiều như ái tỷ

                                    Khoan trí tự tôn sư

                                    Bát thập dư tại thế

                                    Nhất triêu hoàn dĩ qui

                                    Thạch trung lai ẩn ngọc

                                    Yên thuỷ vọng tâm ti  (tư)

                                    Thư giản doanh lâu các

                                    Đãi văn kim thị thuỳ ?

            Ông tự dịch là :

                                    Đẹp và hiền như chị

                                    Trí và khoan như thầy

                                    Ở thế hơn tám chục

                                    Ra đi bỗng một ngày

                                    Ngọc lại về trong đá

                                    Hồn thơ để nước mây

                                    Lầu văn chất đầy sách             

                                    Đợi khách giờ ai đây ?

            Với nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc, ông chơi với tư cách đàn em trọng bậc đàn anh, lại kính như thầy. Kính về tuổi tác và nhân cách, nể trọng về kiến thức uyên thâm. Trần Ngọc Thụ tâm đắc với việc đưa được câu vinh danh Ngô Linh Ngọc mà bạn tri âm đã tặng "Thạch trung ẩn ngọc"  (ngọc ẩn trong đá), vào bài thơ thành câu "Thạch trung lai ẩn ngọc". Khi sống thì như ngọc quý ẩn trong đá, lúc thác chẳng qua là ngọc lại về trong đá mà thôi. Hay mà hợp với con người Ngô Linh Ngọc.

            Tiếc là không có đầy đủ phần thơ chữ Hán của Trần Ngọc Thụ, để  qua đó thấy rõ vóc dáng ông . Cả đời làm báo, luôn phải sống, phải sôi động và gấp gáp cùng các sự kiện-vấn đề lớn nhỏ mà cuộc sống đặt ra, song Trần Ngọc Thụ luôn biết cách tìm cho mình những phút giấy để phiêu diêu cùng thiên nhiên, tình ái, tình người, để lắng mình vào thế giới cổ sơ mà kiếm tìm những thứ quý giá của văn hóa nhân loại.

Đến năm 2025 này, ông đã đi xa ghai mươi năm rồi đấy!

Nhớ Trần Ngọc Thụ, nhớ về thơ phú của ông. Nhớ sự nghiêm túc và đầy trải nghiệm của ông trong công việc. Nhớ nếp sống giản dị, tác phong xuề xòa. Nhớ cả cái cuời chun mũi ! …

                         

 

 

TRẦN MAI HẠNH

truân chuyên nghề báo nghiệp văn

 

          Suy nghĩ về cuộc đời nhà báo Trần Mai Hạnh, nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi, không biết ông có lá số tử vi không nhỉ. Sở dĩ, muốn thử chiêm nghiệm và đối chiếu giữa lá số với thực tế cuộc đời ông bởi sự truân chuyên quá thể. Nói theo ngôn ngữ dân gian, cuộc đời ông những “lên voi xuống ,... “.

          Giờ thì Trần Mai Hạnh đã về miền mây trắng. Là tôi muốn dùng cụm từ “về miền mây trắng” chỉ sự giã từ cuộc đời trần thế của ông là ý muốn đặt ông trên một phông nền trắng tinh để bạn bè, đồng nghiệp, người đời nhìn nhận, bình phẩm về ông một cách sòng phẳng, không e ngại này nọ,...

          Và cả tôi cũng vậy, nghĩ gì về ông trong bài viết này?...

          Thực ra, cái tít bài viết này đã nói lên tất cả. Có điều, sự truân chuyên nghề  báo nghiệp văn của Trần Mai Hạnh minh bạch ra sao đâu cần sự nhìn nhận của cá nhân tôi. Người đời, mỗi người đều có cách nhìn nhận và đánh giá của riêng mình, chẳng ai chịu ai đâu. Chỉ là tôi muốn bày tỏ góc nhìn của riêng mình về ông mà thôi.

          Tôi biết đến tên tuổi nhà báo Trần Mai Hạnh từ khi tôi bước vào đời làm báo chuyên nghiệp, năm 1987 khi về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Khi ấy, Trần Mai Hạnh đã là một nhà báo kỳ cựu của làng báo xứ Bắc và ông đang giữ chức trưởng, phó ban gì đấy ở Thông tấm xã Việt Nam (TTXVN). Thời điểm từ khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát động “Những việc cần làm ngay” với chuyên mục “Nói và làm” (N & L) thì Trần Mai Hạnh nổi lên với tư cách một cây bút phóng sự điều tra thiện chiến và sắc bén. Nhiều vụ việc tiêu cực được vạch trần trên công luận với sự tham gia của ông và các đồng nghiệp báo chí. Như vậy, có thể nói, Trần Mai Hạnh đã xác lập tên tuổi mình trong làng báo xứ ta thời kỳ đổi mới. Ông tham gia vào ban lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của tổ chúc này.

          Đâu quãng năm 1995, Trần Mai Hạnh được bổ nhiệm chức vụ Tồng Giám đôc Đài Tiếng nói VIệt Nam (Đài TNVN-VOV) kế nhiệm nhà báo Phan Quang chuyển sang chuyên trách công tác Hội Nhà báo.Ở thời điểm ấy, có thể nói, báo phát thanh sa sút, vào cơn bĩ cực, bởi những  nguyên nhân chủ quan và khách quan; về chủ quan, lối phát thanh “ngăn kéo” – khung chương trình định giờ thu trước do phát thanh viên đọc, từng phát huy tác dụng suốt một thời gian dài vẫn nguyên cũ; trong khi, về khách quan, báo hình lên ngôi và báo điện tử mới ra đời song đã báo hiệu tính ưu việt và lợi thế phát triển nhanh chóng của mình. Trần Mai Hạnh, với tư cách vị tổng tư lệnh ngành báo phát thanh đã cùng một lúc làm hai việc. Về phát thanh, ra các chương trình mới, tăng tính trực tiếp, đảy các phóng viên, biên tập viên lên sóng, “nói hoá” các văn bản phát thanh, lập thêm các cơ quan thường trú khu vực trong nước và nước ngoài, làm cơ sở để tăng nguồn tin. Ông đặc biệt quan tâm đến thể loại phóng sự điều tra, nên đây cũng là thời kỳ Đài TNVN có nhiều phóng sự điều tra rung chuyển làng báo và xã hội lúc bấy giờ. Điều đó cho kết quả là cùng nhiệm vụ tuyên truyền, Đài gia tăng “chất báo” theo đúng nghĩa  chức năng báo chí nói chung.  Cùng với đó, về loại hình báo chí, lập thêm tờ báo in (Báo Đài TNVN, nay là báo TNVN) Và đặc biệt là mở báo Điện tử Đài TNVN, (VOV.VN) kịp theo xu hướng số hoá của thế giới. Có thể nói, với tư cách Tồng giám đôc Đài TNVN (VOV), nhà báo Trần Mai Hạnh đã có những đóng góp tích cực xây dựng nền móng đa phương tiện, đa nền tảng cho VOV để các vị lãnh đạo kế nhiệm tiếp tục phát triển Đài hơn nữa…

           Vê văn chương, Trần Mai Hạnh chạm đất văn khá sơm nhưng do bận mải nghề báo nên ông chưa có gì nổi bật trong địa hạt này. Phải sau kiếp nạn lao lý, ông mới thấy văn chương như cái nghiệp, là nơi chốn  đặng vực dậy ý chí và lắng lại lòng mình sau bao sóng gió bão táp cuộc đời ập đến. Năm 2015, tác phẩm tư liệu “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” được xuất bản và ngay năm đó tác phẩm này được giải thưởng hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam (sau đó còn được nhận giải thưởng văn học ASEAN và ra tiếp bản tiếng Anh) thì Trần Mai Hạnh nổi tiếng với tư cách một nhà văn. Sau tác phẩm này, tuy vẫn túc tắc làm báo nhưng ông chuyên tâm theo văn học và cho đến lúc mất, ông xuất bản thêm 2 tác phẩm nữa, đó là “Thời tôi sống” (tập truyện ký, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2018) và “Sống đến bình minh” (tự truyện,  NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2024).

          Văn của Trần Mai Hạnh là văn thông tấn, nhiều thông tin, giàu chi tiết, sắp xếp hợp lý, khoa học,  tốc độ nhanh và luôn có những góc nhìn đa chiều, sắc sảo của báo chí. Về thể loại nửa văn nửa báo mà thành công, có lẽ ông chỉ đứng ngay sau bậc đàn anh đồng nghiệp là nhà báo nhà văn Phan Quang mà thôi.

          Viết về nhà báo nhà văn Trần Mai Hạnh mà không đả động gì đến sự truân chuyên trong nghề báo của ông sẽ là thiếu sót. Thật hiếm người trong làng báo ở ta truân chuyên như Trần Mai Hạnh. Thời trẻ trung sung sức và giàu hoài bão, là phóng viên Thông tấn xã Việt Nam vào chiến trường ác liệt nhất, Trung Trung bộ, liên khu 5, vùng đất mà nhiều văn nghệ sĩ đã hi sinh (Dương thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Mỹ, Hồng Chinh Hiền…) và nhiều cây bút trưởng thanh như Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trí Huân…; thời bình, nổi tiếng với nhiều phóng sự điều tra rung động xã hội; bị tai nạn giao thông  nặng;  làm quản lý báo chí cấp cao (ủy viên trung ương Đảng, Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam, Tổng giám độc Đài TNVN; vướng vòng lao lý vài ba năm; ra tù, viết văn và nổi tiếng với tác phẩm được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và giải thưởng văn học ASEAN … Và cả cái chết cũng khác người, trên đường vào đến Sài Gòn trong một hành trình tử Bắc (Hà Nội) chí Nam (Sài Gòn-Tp Hồ Chí Minh) khi làm nhân chứng và người dẫn chuyện cho một phim tài liệu về chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước cho dịp 50 năm kỷ niệm sự kiên trọng đại này.

          Phương diện cá nhân, bỏ qua những thị phi về chuyện Trần Mai Hạnh dính vòng lao lý, tôi nể trọng ông về nghề báo, thích phong cách sống giản dị và có phần xuề xòa của ông. Là lãnh đạo cao nhất ở cơ quan nên chẳng dễ gặp riêng ông để trò chuyện dù là đơn thuần nghề nghiệp, tôi có mấy cuộc gặp riêng ông. Lần đầu là vào khoảng năm 2001, khi ấy tôi mới được bổ nhiệm làm Phó trưởng ban biên tập Văn hóa xã hội. Tôi được giao việc đến xin ý kiến ông về một dự án truyền thông phối hợp với Bộ Y tế. Mặc dù trước đó không lâu, ông là người ký quyết định bổ nhiệm tôi nhưng ông không thuộc mặt tôi nên vẫn nhầm tôi với một biên tập viên khác cùng ban. Khi tôi đính chính xưng danh, nhân đó nói lời cảm ơn ông đã tin tưởng bổ nhiệm, ông à lên cười bảo: “Mình bổ nhiệm cậu là nghe ý kiến đề xuất của chị Kim Cúc, Phó tổng giám đốc, cũng nghe anh em cơ quan khen cậu giỏi chuyên môn,… lại cũng biết tên cậu qua mấy cái truyện đăng báo…”. Đại khái vậy, để thấy quan hệ dồng nghiệp trên dưới là vô tư trong sáng, tuyệt không tư túi cá nhân gì. Khi ông gặp nạn vướng lao lý, tôi và vài ba đồng nghiệp cùng ban biên tập tình cờ tác nghiệp một hội nghị đúng nơi ông bị giam giữ, chúng tôi đề nghị được thăm ông. Cuộc gặp chừng hơn nửa tiếng thôi, buồn vui chộn rộn bao tâm trạng, lúc tiễn ông trở vào nơi giam giữ, tôi có hỏi ông có viết được gì không, ông lắc đầu bảo “Viết  làm sao được hả em. Lòng dạ nào…”. Hẳn là ông thật lòng. Dù điều kiện giam giữ có riêng biệt đấy nhưng tâm trang nào, long dạ nào that. Song nhất định đấy là quãng thời gian ông nung nấu để sau này trút hết gan ruột , vốn sống, nỗi đau đời vào ba tác phẩm để đời của mình?...

          Tôi còn có mấy cuộc gặp riêng ông nữa, khi thì tôi và ông ngồi cạnh nhau trên máy bay từ Hà Nội vào Tp. Hồ Chí Minh, khi thì ở phòng làm việc riêng của tôi. Nhờ thế mà tôi biết thêm về cuộc đời làm báo “ba chìm bảy nổi” của ông

          Khi thời gian đã lùi xa, đủ để mọi sự lắng lại, người ta cũng bàn ít nhiều về mức độ đúng sai về vụ án khiến ông “ngã ngựa”, nhưng cũng chẳng để làm gì. Điều quan trọng nhất là ông đã vượt qua tất cả, để tiếp tục cầm bút, cho ra những tác phẩm có giá trị về tư liệu lịch sử và sự chiêm nghiệm cuộc đời.

          Vậy là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh đã tự điền nốt những chỗ còn trống thiếu trong biên bản cuộc đời mình.

          Tôi tin thế !...

 

 

TRẦN MẠNH THƯỜNG

và những tùy bút đêm giao thừa

 

 

          Khi tôi về làm phóng viên nhà Đài (VOV) thì nhà thơ Trần Mạnh Thường đã như ông Hộ pháp trấn giữ ở Phòng Văn học thuộc Ban Văn nghệ (Văn học nghệ thuật và âm nhạc). Thời điểm ấy, biên tập viên văn học toàn những cây bút tên tuổi là Hoàng Ngọc Anh, Trần Nhật Lam, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Mạnh Thường, Trần Nguyên Vấn, Trúc Thông, Tuấn Vinh, Lâm, Huy Nhuận, Lê Đình Cánh, Trương Hữu Lợi,... Còn nhà thơ Vũ Quần Phương thì nghe đâu rời khỏi Đài trươc đó ít lâu.

          Hàng ngày, thấp thoáng bóng dáng to đậm của nhà thơ Trần Mạnh Thường với cặp kính cận dày cộm, dắt chiếc xe đạp cà tàng. Có lần tôi chào ông thì ông giữ lại bảo: “Nghe nói cậu cũng viết văn, có cái gì, bút ký hay truyện ngắn gửi lên chỗ mình, được là cho phát sóng chương trình văn nghệ”. Ông chân tình thế, tôi chỉ biết nghe theo. Thú thật, trước đó, viết được dăm ba cái nhưng ngại không dám gửi, hoặc nếu có thì chỉ dám đưa qua nhà thơ Trần Nguyên Vấn, người tôi quen biết từ hồi chưa về Đài với lời dặn cấn thận: “Anh xem giúp em cái này, nếu thấy được thì anh hãy chuyển Phòng duyệt xem có dùng được không ạ”. Đại khái thế. Giờ nhà thơ Trần Mạnh Thường, cán bộ Ban biên tập mở lời, với tôi, đùng là được lời như cởi tấm lòng.

          Trần Mạnh Thường tính thẳng thắn, bộc trực, không quanh co bao giờ, khác hẳn chất khéo léo có chút hoa hàng kẻ chợ vốn có của của dân thành Nam, mặc dù ông chính gốc họ Trần ở Lộc Vượng, Mỹ Lộc, Nam Định, nơi tọa lạc cung Trùng Hoa  Phủ Đệ tứ thuộc Hành cung Tức Mặc phủ Thiên Trường của Vương triều Trần xưa. Sau này thành quen thân, thi thoảng lúc vui chuyện, tôi bỡn ông vậy, ông chỉ cười. Có lần tôi đùa bảo: “Tên anh, Trần Mạnh... em ngỡ sẽ là Hùng, Dũng hay gì gì đấy, nhưng anh lại Thường...Mạnh mà thường thì còn gì là mạnh.”. Ông nheo mắt kính, xuề xòa:Cái thằng...”. Với đàn em, thân tình, quý mến rồi, ông xưng hô mày tao, bỏ qua sự trịnh trọng trên dưới không cần thiết.

          Chuyện vui về con người Trần Mạnh Thường là vậy. Giờ tôi phác thảo một Trần Mạnh Thường với tử cách nhà thơ, người gác cửa đên văn chương nhà Đài một thời gian dài (ông giữ cương vị Phó trưởng ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam cùng với nhà thơ Trần Nhật Lam, Trưởng ban và sau đó làm Trưởng ban khi Trần Nhật Lam nghỉ hưu).    

          Trần Mạnh Thường viết chậm và kỹ, không sốt ruột tập này tập kia như nhiều nhà thơ cùng thời. Ông tập trung vào công việc của một phóng viên, biên tập viên văn nghệ và cả khi giữ cương vị lãnh đạo. Người làm biên tập viên thơ có cái hay và cũng có cái không hay; hay là được tiếp xúc với nhiều giọng điệu thơ khác nhau đặng phong phú thêm hiểu biết cho mình và qua đó có thể học hỏi thêm ở người; lại không hay ở cái dễ chai lỳ cảm xúc, lâu thành trơ và không khéo lại bị ảnh hưởng của ai đó mà không thoát ra được. Đọc thơ Trần Mạnh Thường tôi cảm nhận trạng thái này ở ông, may là ông tự tìm lối thoát ra được.

          Bài thơ “Năm hòa bình trên xe qua khu bốn  sau rút tít gọn thành”Năm hòa bình” có mặt ở nhiều tuyển thơ khác nhau. Có lẽ, Trần Mạnh Thường tâm đắc với bài thơ nửa chiến tranh nửa hòa bình này của mình. Hòa bình rồi mà chiến tranh vẫn hiện hình váng vất trong ý nghĩ người ta khi băng qua mảnh đất khói lửa khu bốn: “... Những xóm làng vút qua hối hả/ Hệt như đang chạy tìm tôi/ Lấy cái im lặng thay lời/ Để nói một điều gì hệ trong/ -Đằng trước có bom nổ chậm/ Ngày xưa tôi đã nghe/ Câu ấy không ai nói nhỏ bao giờ...Tất cả có chung khuôn mặt/ Lặng lẽ vụt qua/ và hiện lên phía trước/ Như có điều gì muốn nói cùng tôi/ Thành phố đã đi sơ tán cả rồi... / Quên sao được những hầm sâu Quảng Trạch/ Bao vướng víu dọc đường em đã gỡ cho tôi/ Những trái bom nổ chậm cũng gỡ cả rồi/ Cầu đã thông xe/ xe tôi về thành phố/ Một giờ sáu mươi cay số/ Mưa nắng mơ hồ sau tấm kính thời gian...

          Thơ Trần Mạnh Thường nặng những suy tư, cả khi ông viết về hoa tầm xuân: “Nhọc nhắn kết nụ/ Nhọc nhằn nở/ Gày guộc âm thần/ CHẳng mong chi được cắm trong bình/ Lặng lẽ giữ một chút hồng dầu dãi/ Một chút hương cho hoa bớt dại/ Dọc những lối mòn/ Suôt đời đi tìm mùa xuân” (Hoa tầm xuân). Phàm những người viết chậm và kỹ, nếu không tìm được ý tứ thì không viết, song khi có tứ rồi thì chỉ nhăm nhăm biểu đạt cái ý của mình mà quên đi giai điệu, nên câu chữ hay bị gò. Hiếm người được cả ý tứ, câu chữ và giai điệu như nhà thơ Chinh Hữu (Tập thơ “Đầu súng trăng treo). Nhận định vậy, không có nghĩa là tôi nói riêng về thơ Trần Mạnh Thường mà điều này dường như phổ quát rồi.

          Bài thơ |”Cái cò lặn lội” là một bài thơ được Trần Mạnh Thương nâng niu và khác cái tông của ông. Tôi biết nài này ông viết riêng cho vợ con mình mà vô tình nói hộ bao người. Thời bao cấp khôn khó, vợ ông phải đi lao đông xuất khẩu lao động ở Liên Xô, đảy ông vào cảnh “gà trống nuôi con” mấy năm trời chóng mặt chăm hai con nhỏ: “Cái cò lặn lội tuyết trắng mênh mông/ Lạnh buốt dong sông cành mềm gió đập/ Hạt gao lăn qua biết mấy vòm trời/ Lặng lẽ tơi giữ lòng mặt chát/ ... Bao giờ mẹ về từ trời cao thẳm/ Nơi có chòm sao như hình chiếc gàu sòng/ Bao giờ mẹ về bát cơm ủ ấm/ Chỉ nhìm con ăn cũng thấy no lòng/ Cài cò lăn lội tuyết trắng mênh mông”. Tôi nói khác tông với ông như thường thấy, ở đây là sự trải lòng, nói cho chính mình, chứ không phải là sự gắng gượng nói những điều mà người khác hay nói, vẫn nói, cần mình nói để thể hiện tính công dân này nọ.

          Trần Mạnh Thường có viết trường ca. Tập “Thơ và Trường ca” (NXB Hội Nhà văn, 1997), cùng một số bài thơ lẻm Trần Mạnh Thường in trọn trường ca “Lời chào” sau chuyến ông đi thực tế Côn Đảỏ. Hòn đảo chơi vơi ngoài đại dương sóng gió, thành địa ngục trần gian do thực dân Pháp và Mỹ Ngụy biến làm nơi giam giữ những chiến sĩ cách mạng, những người Việt Nam yêu nước, dễ khơi gợi cho người cầm bút. Đã có nhiều người viết và Trần Mạnh Thường cũng muốn thử sức mình ở thể loại trường ca nên ông đã chọn. Và ông đã hoàn thành ý đồ là kể câu chuyện mình muốn kể, nhưng quả thật, gia tài thơ văn của ông dày dặn hơn và phong phú thêm vì có trường ca, như nhiều nhà thơ cùng thời (Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Anh Ngọc...), song về phương diện nghệ thuật, ngôn ngữ thi ca thì hầu như không có đóng góp gì đáng kể.

          Là nhà thơ nhưng Trần Mạnh Thương có một thứ có xem là “đặc sản” của nhà Đài (VOV), ấy là tùy bút đêm giao thừa. Ngày ấy, theo thông lệ, chương trình phát thanh đón giao thừa (Tết Nguyên đán) hằng năm của nhà Đài bao giờ cũng có phần văn nghệ mà ở đó nhất thiết phải có tùy bút, được giao cho Ban biên tập Văn học nghệ thuật đảm trách. Thế là Trần Mạnh Thường được lựa chọn thực hiện, có đặt bài người  khác nhưng phần lớn do ông phóng bút. Bài tùy bút nửa văn nữa báo này phải ngắn gọn súc tích, đủ tâm đủ tầm, bao quát được dòng sự kiện chủ lưu có điểm nhấn của năm trước và cả dự cảm tương lai. Đại loại thế. Trần Mạnh Thường làm rất tốt việc khó khăn này và dần trở thành thế mạnh của ông, theo đó cũng làm nên uy tín của ông trong con mắt đồng nghiệp báo chí. Còn là thương hiệu của Trần Mạnh Thường, bởi không ít bạn bè đồng nghiệp gọi yui ông là “Ông tùy bút giao thưa

          Chuyện nghề là thế, là nhà thơ đâu phải chỉ chuyên tâm sáng tác và biên tập thơ, còn phải làm đủ thứ theo yêu cầu của ban biên tập. Chuyện vui, có lần tôi gửi Trần Mạnh Thường một bài bút ký tôi viết về vùng Bảy Núi, An Giang sau chuyến trở lại vùng đất này nơi tôi từng công tác hai mươi năm trước. Trong bài ký có trích câu thơ mà nhà báo Nguyễn Huấn, bạn đồng hành, nỡm tôi “Tri Tôn ơi hỡi Tri Tôn/ Ra đi anh nhớ cái ... nón của em”. Ít hôm sau, tình cờ gặp Trần Mạnh Thường ở sảnh cơ quan, ông gọi giật tôi lại, nheo nheo sau cặp mắt kính cận dày, toét miệng cười bảo: “Này, bài bút ký của mày phát sóng cuối tuần này nhớ... Nhưng tao cắt bỏ cấu thơ tếu của thằng Nguyễn Huấn... Lếu láo quá, chúng mày định chơi xỏ tao đấy à?...”. Tôi cười càu tài: “Là em thử tài biên tập của anh đấy... Xem anh có đọc duyệt kỹ không... hay là cứ ký đại?”. Ông cười: “Mấy thằng nỡm”. Còn một chuyện nữa, tôi muốn nêu ra đây. Trần Mạnh Thường trở thành nhà báo, nhà thơ vào đúng thời kỳ ác liệt của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông có nhiều bài viết và sáng tác thơ văn về chủ đề này. Sau này, kết thúc chiến tranh, Việt Nam phát triển và hội nhập thế giới, quan hệ VIệt-Mỹ được cải thiện. Con gái của Trần Mạnh Thường làm quen và kết duyên với một chàng trai người Mỹ làm việc cho một tổ chức thuộc Liên hiệp quốc tại Việt Nam. Mọi người lại có cớ đùa ông: “Bác ngày trước chống Mỹ kịch liệt nhỉ... giờ lại chọn một ông Mỹ con làm rể nhi”. Ông chỉ nheo mắt cười: “Thì thời thế nó thế... nên thế thôi”... Chuyện vui là vậy, đặng thêm một góc nhìn về nhà thơ Trần Mạnh Thường.

          Tôi để ý, Trần Mạnh Thường hầu như không có thơ tình. Trong đời sống ông xuề xòa thoải mái, không thấy tán tỉnh hay trêu đàu đông nghiệp nữ, ngỡ ông khô khan. Nhưng không. Một lần lãnh đạo Đài tổ chức cấp trưởng, phó các ban biên tập nghe đài tập thể đặng lấy ý kiếm nhằm cải tiến chương trình phát thanh nói chung. Mày ngày cuối tuần, kéo quân lân một resort ở Mộc Châu, Sơn La. Tôi và Trần Mạnh Thường ở chung một phòng khách sạn. Tiết đầu thu, thảo nguyên se lạnh và sương khói, dương như tác động đến tâm trạng con người. Sau bữa cơm tôi có hơi men, hai anh em tôi tán gẫu. Chuyện nọ dọ chuyện kia, Trần Mạnh Thường bông nhiên cởi mở. Ông kể chuyện thời sinh viên cảm một cô bạn cùng lớp, xinh và hiền lắm. Cô bạn ấy cũng có cảm tình với Trần Mạnh Thường và nhận biết tình cảm người bạn trai dành cho mình. Những rồi không ai thổ lọ, chỉ lặng thầm dành cho nhau tình thương mến. Ra trường, chia đôi ngả, cô bạn được phân công lên Tây Bắc dạy học. Tình duyên thầm  kín chẳng nên chuyện gì, vẫn phong trong tâm tưởng mỗi người. Nói theo người xưa, có duyên mà không có phận. Không rõ cô bạn gái kia thế nào, còn Trần Mạnh Thường thì chắc không phai hình bóng cũ, bởi ông vẫn dõi theo để biết cô bạn ấy truân chuyên đường gia thất và cả công việc sau này... Tôi hỏi ông: “Bác lãng mạn phết chứ không khô khan như em vẫn nghĩ... Chỉ lạ, hình như bác không có thơ tình nhỉ?”. Ông cươi trừ, ậm ừ cho qua chuyện,...

          Khi nghỉ hưu, Trần Mạnh Thường vẫn say việc nhà Đài, ông giữ chân kiểm thính mảng văn hóa xã hôi và văn học nghệ thuật, cho đến lúc mất đột ngột sau một cơn đột quỵ. Ông rời xa cõi tạm chừng mươi năm rồi đấy,...

          Giờ nhớ lại chuyện cũ và viết về nhà thơ Trần Mạnh Thường, bỗng tôi thèm được đọc một bài, hay vài ba câu thơ tình của ông?!...

 

Trần Nguyên Vấn,

cần mẫn và ân tình

 

Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm biết vì chúng tôi cùng lứa học phổ thông và cùng nhau đứng trong đội tuyển giỏi Văn của tỉnh Hải Hưng tham gia kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Băc vào tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn là người tôi biết mặt đầu tiên. Tính từ lần đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm 1982, 1983 gì đó, đến nay đã ngót bốn mươi năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi viết gì về ông, tôi vẫn phân vân về danh xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn đo vậy thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi mặc định cách gọi, nhà văn thì Trần Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà. Đương nhiên, ông viết đều cả hai thì gọi thế nào chẳng được...

Trở lại buổi ban đầu quen biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm đúng công việc của một anh kỹ sư canh nông, ở tít mãi vùng biên giới Tây Nam, Bảy Núi, An Giang. Chẳng là, tốt nghiệp đại học khi thống nhất đất nước mới dăm năm, nên phần đông lứa kỹ sư nông nghiệp trẻ chúng tôi được lùa vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi mệnh danh là vựa lúa khổng lồ. Khi ấy, bà con ở đấy vẫn quen với lối canh tác quảng canh nên khó áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Thời gian rảnh nhiểu, tôi tập tọng viết báo, viết văn, làm thơ. Cứ viết đại, gửi đại đến các tòa soạn báo qua đường bưu điện thế thôi. May thay, người bạn thân phổ thông và cả đại học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh khi ấy là phóng viên Báo Nông nghiệp, chỉ dẫn thêm. Nhở vậy, những bài báo của tôi được đăng rải rác trên báo Nông nghiệp và Nhân dân, rồi nữa, được phát sóng trong các chương trình phát thanh Đại gia đình các dân tộc Việt Nam và Phụ nữ của Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN-VOV). Thế nhưng, văn chương thì lại khác, các bút ký và truyện ngắn tôi gửi cho Báo Văn nghệ thì chẳng tăm hơi. Trịnh Bá Ninh mách tôi, anh quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn làm biên tập ở Ban Văn nghệ Đài TNVN, và khuyên tôi hãy gửi bài viết nhờ ông thẩm định, góp ý. Tôi làm theo và sau đó, Trịnh Bá Ninh thông báo lại cho tôi ý kiến nhận xét của nhà văn Trần Nguyên Vấn. Tôi viết lại và may mắn sao, bút ký Mênh mông đồng tràm được phát sóng trong chương trình Văn nghệ của nhà đài. Tôi mứng vui khôn xiết!...

Hàng năm, mỗi lần đi phép ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn tôi cùng đây đó, nhớ thế mà tôi gặp và quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi từ ông, tôi biết thêm các bạn văn của ông, nhà văn Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Thái Vận, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Ngô Quân Miện,... Cũng qua ông, lần đầu tôi bước chân ngó nghiêng ngôi nhà văn học của Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết mặt những tên tuổi mà bấy lâu tôi từng đọc và nghe những tác phẩm của họ như: Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Mạnh Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...

Cho đến khi, cầm quyết định về nhận công tác tại Đài TNVN vào tháng 10/1987, thì ngoài những người cùng đơn vị với mình ở Ban Thính giả, người tôi hay lui tới chính là Trần Nguyên Vấn. Dù hơn tôi hai chục tuổi (ông sinh năm 1937). Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của mình. Tôi cũng hay đến chơi thăm ông tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, và sau đó ông rời sang khu tập thể ở phố Tông Đản... Thành đàn em của ông, rỉ rả tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở, ngỡ thuận buồm xuôi gió, nhưng không phải vậy,...

 1, Hành trình trở thành nhà văn,

Trần Nguyên Vấn sinh ở quê, làng Trúc Lâm thuộc thành phố Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ trường Trung học Khải Đinh (Quốc học Huê), đậu bằng trung học đệ nhất, tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin ra Bắc tiếp tục đi học, trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây là ngôi trường nổi tiếng mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học sinh và trưởng thành từ đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to tháng 9 năm 1954 do vỡ đê sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt tuyến không có học bổng phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa năm 1956 mới có học bổng. Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961) khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân văn Giai phẩm nên việc vào khoa văn rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh chỉ lấy 24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm Thị Hồng Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm gồm Lê Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần Nguyên Vấn, tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các thành viên trong nhóm tham gia viết truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến chống Pháp của Thành Đội Hà Nội. Trần Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể của một số chiến sĩ. Bài ký này cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia Nùng... được Thành đội Hà Nội tập hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội, do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như vậy, có thể nói, con đường sáng tác văn học của Trần Nguyên Vấn khởi đầu thuận lợi, báo hiệu sự hanh thông trong sự nghiệp văn chương...

Nhưng rồi, một sự hanh thông khác lại mở ra, năm 1961, tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai cử nhân văn trẻ là Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực nhận quyết định phân công về Bộ Ngoại giao công tác, Tương lai trở thành một nhà ngoại giao mở ra, song dường như đinh mệnh an bài Trần Nguyên Vấn phải theo nghiệp cầm bút văn chương thơ phú, nên chàng cử nhân văn khoa này lại không hài lòng với nghề ngoại giao mà nhiều người mong chẳng được. Người bạn cùng lớp là Nông Thị Nhuân được phân công về làm biên tập ở mục Đọc truyện dêm khuya thuộc Phòng Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng thơ của Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên Vấn báo cáo Bộ Ngoại giao rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương lai trở thành người biên tập thơ...

Trần Nguyên Vấn bước chân vao môi trường làm báo chuyên nghiệp, vào mái nhà chung 58 Quán Sứ, trụ sở Đài TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ đấy, ông gắn bó với địa chỉ này cho đến lúc nghỉ hưu, tuy quãng giữa chặng đường dài này nhiều biến cố, trắc trờ....

Thời gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài công việc biên tập, Trần Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của công việc, đặc biệt là phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển sang Phòng miền Nam làm ở Tổ thời sự để học thêm cách làm tin, sử dụng tin tham khảo và viết các câu chuyện thời sự, sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi chiến trường. Trần Nguyên Vấn còn hăng hái đến mức, đã tìm gặp một số cán bộ của tỉnh Thừa Thiên mới từ chiến trường ra để bày tỏ nguyện vọng muốn được vào chiến trường. Tuy nhiên, ông vẫn phải chờ đợi đến tháng 4.1967 mới được đáp ứng, sau khi trở lại làm việc ở mục Tiếng thơ. Trần Nguyên Vấn đi B cùng đợt với nhà báo Nguyễn Thành (sau này, nhà báo Nguyễn Thành làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam) và nhà thơ Bùi Minh Quốc. Sau khi huấn luyện, Trần Nguyên Vấn lên đường đi chiến trường Thừa Thiên vào tháng 5.1967. Lúc ấy, vợ ông đang mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Trần Nguyên Vấn làm báo Cờ Giải phóng của Thành ủy Huế, và từ đây, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, ông lấy bút danh là Trần Phương Trà, Thời gian làm phóng viên ở địa bàn Trị Thiên Huế, Trần Nguyên Vấn cùng làm việc với nhà tho Thanh Hải, nhạc sĩ Trần Hoàn, thiếu tường Lê Chưởng... Chiến dịch Mậu Thân 1968, Trần Nguyên Vấn về Huế được mấy ngày. Theo dự tính, nếu chiến dịch thắng lợi, ta chiếm được Đài địch ở Huế thi ông sẽ là một trong những người tiếp quản, sử dụng, nhưng việc không thành, ông trở lại rừng tiếp tục công tác. Lần trở về Huế ấy, Trần Nguyên Vấn được gặp lại má của mình, còn vui mừng báo cho má biết việc vợ ông ở Bắc đã sinh con trai, đặt tên là... mà bằng mật ước nào đó, qua việc nghe chương trình Tiếng thơ và Ca nhạc của Đài TNVN, các bạn bè ở Ban Văn nghệ Đài đã báo tin để ông nhận biết. Việc này, hơn một lần tôi nghe ông vui kể. xem như chuyện “làm ở Đài ăn lộc nhờ đài”...

Năm 1969 chi hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế được thành lập. Trần Nguyên Vấn được bầu vào Ban Chấp hành Chi hội do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chi hội trưởng, nhà thơ Thanh Hải là Chi hội phó kiêm Tổng Thư ký, còn ông làm Tạp chí Sinh hoạt văn nghệ của Chi hội. Thôi thi mặc sức mà viết, truyên ngắn, bút ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong trào kháng chiến. Truyện ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra dự thi truyên ngắn báo Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông hăng hái xuống đồng bằng, ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra cho Đài phát thanh Giải phóng. Đài TNVN và Tiểu ban văn nghệ miền Nam do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách. Đến 8.1973, Trần Nguyên Vấn được đưa ra Bắc chữa bệnh viêm gan do nhiều năm bị các trận sốt rét tàn phá.., Thời gian này, ông thuộc quyền quản lý của Ban Thống nhất miền Nam.

Nhân đây, tôi thấy cần nói thêm về Đài Phát thanh Gải phóng, nơi nhà văn Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960, theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuẩn bị mọi việc để thành lập Đài Phát thanh Giải phóng. Và ngày 01/02/1962, tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc Chiến khu Đ, Đài Phát thanh Giải phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức phát sóng buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của báo chí cách mạng trên chiến trường miền Nam. Đài Phát thanh Giải phóng đã phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa và Khmer, với lời xướng kiêu hãnh: “Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.” Đài Phát thanh Giải phóng phải thay đổi địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và có điểm phát là cơ quan tuyệt mật ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng Tham mưu, C55 và CP90... Đài Phát thanh Giải phóng chấm dứt hoạt động vào ngày 31.8.1976, hoàn thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước thống nhất Bắc Nam một nhà.

Sau giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn trở về Đài Phát thanh Giải phóng, làm Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài Phát thanh giải phóng chấm dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan Đài tại phía Nam, và mãi năm 1980 ông mới ra Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với cương vị Chủ nhiệm chương trình phát thanh Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1983. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.

Hành trình để trở thành nhà văn của Trần Nguyên Vấn là hành trình dấn thân đầy gian khổ nơi chiến trường bom đạn ác liệt; là hành trình viết tạp mọi thể loại để phục vụ thông tin tuyên truyền thời chiến, để có sự lắng động, chắt lọc mà thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so sánh, nếu như Trần Nguyên Vấn không đổi nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì sao nhỉ? Tất nhiên, là nhà ngoại giao mà có lòng say mê văn chương, hoàn toàn có thể trở thành nhà văn, song ông đã không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã chọn cho mình con đường cầm bút chuyên nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, ông đã tình nguyện dấn thân vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống và lý tưởng văn chương hun đúc, cùng hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng, vào mặt trận, rất có thể một ngày nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng nghiệp Tô Chức, hay như các bạn văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,... và bao chiến sĩ khâc,

May thay, ông đã bình an đi qua chiến tranh để trở thành nhà văn, nhà thơ. Hơn thế, ông là một nhà báo, một chiến sĩ !

 2. Thơ văn Trần Nguyên Vấn,

Đến nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản các tập sách:Trở về Hà Nội (truyện ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa trái (thơ, 2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân dung văn nghê, 2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn, 2017), Về giữa lòng quê (Ký, 2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay mai.

Biết ông nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi hiểu, Trần Nguyên Vấn không hẳn là một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát ra ngoài. Trong nhóm văn chương ba người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa, hóm hỉnh; còn Nguyễn Thái Vận. lãng mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn, cẩn trọng, chu toàn. Có lẽ, những đức tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn kết, thân thiết, quý mến nhau. Giờ thì Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo cánh hạc về trời, còn lại mình Trần Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và quảng giao, Trần Nguyên Vấn luôn biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu bạn, Ông đặc biệt say mê việc làm sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn, đến in ấn phát hành... và đương nhiên, vẫn rỉ rả viết. Ông là người ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ mọi sự việc thấy cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư liệu lớn. Tôi đã từng ngó xem những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá đẹp, chú thích và thư mục đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng nể, Tôi biết, ông có những bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ Việt Nam nói chung, xứng đấng được lưu giữ trong bảo tàng.

Trần Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam. Ông vốn ghi chép cẩn thận, lại thêm trí nhớ tốt. Chỉ vậy thôi, đã là một lợi thế không hề nhỏ để ông viết chân dung văn hay chuyện văn nghệ sĩ. Khi có cảm hứng, ông đã thành thơ, như bài Trong đêm vui cuối cùng với nhà văn Nguyễn Tuân,  và  bài Câu thơ cuối cùng về nhà thơ Thanh Tịnh... Thực lòng, tôi mong nhiều hơn thế ở ông !...

Tôi nhớ, cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho tư liệu phong phú của ông, tôi đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao bác chưa chuyển hóa chúng thành tác phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng được bao nhiêu đâu?...”. Trần Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình cũng đang dùng dần đấy....”. Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này tập nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại không dám hỏi lại. Dường như, có gì đó chưa thông suốt trong ông thì phải? Những năm gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm sách, nhất là sách về trường Quốc học Huế và Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Miễn sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã ở độ tuổi ngoại tám mươi.

Tôi vẫn có ý chở. Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư liệu, đặc biệt là tư liệu ghi chép về chiến tranh của ông.

 3. Cần mẫn và ân tình Trần Nguyên Vấn,

Bút danh Trần Phương Trà thay cho tên thật Trần Nguyên Vấn chỉ có khi ông vào chiến trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng bí mật thời chiến. Như vậy, bút danh này chủ yếu được dùng thời kỳ ông làm việc ở báo Cờ Giải phòng và Đài Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà một. Sau này, ông ký tên thật là chính, song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu mến gọi ông bằng bút danh, như một cách để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ đã qua.

Bản tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cởi mở và đầy nhiệt tình với mọi người. Gặp nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí nhớ rất tốt, có thể nhắc lại những chuyện cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn và cách sống ân tình, là bản chất của ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội khó khăn, thiếu thốn, căn nhà của ông (ở khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà Nội), là nơi lui tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng nghiệp cùng cơ quan Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ xứ Huế mỗi khi ra Hà Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày, thậm chí cả tuần thay vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi danh của xứ Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Hải Bằng, ... Thế nên, Trần Nguyên Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban liên lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có kinh nghiệm tổ chức các hoạt động chung.

Tôi có anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng là đàn em báo chí thân thiết với Trần Nguyên Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi, đại khái, Trần Nguyên Vấn sinh năm 1937, tuổi Đinh Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế thôi, nhưng là người nghịch ngầm, khá bướng bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết liệt, định làm việc gì là gắng bằng được. Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ hanh thông nhẹ nhàng song  thực lại hay trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông chưa tương xứng với sự cống hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.

Trần Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong việc làm sách. Trong số ấy, phần lớn là tập hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư liệu của các tập thể, riêng có 2 cuốn về cá nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008).

Nhà thơ Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính trọng của nhóm “Văn nghệ sĩ Ong” thân nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đính Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm văn nghệ sĩ, thời bao cấp, thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết bài, sáng tác thơ văn về nghề nuôi ong).

Còn Tuân Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là nhà báo, nhà thơ đàn anh, biên tập viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN, nơi Trần Nguyên Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề biên tập thơ. Đây xem như cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng hương xứ Huế, đồng nghiệp cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với nhau. Nhân đây, nói thêm vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên với Trần Nguyên Vấn,

Tuân Nguyễn (tên thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, là nhà báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng làm việc ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân Nguyễn tốt nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời kháng chiến chống Pháp từng tham gia Vệ quốc đoàn, sau hòa bình xuất ngũ, theo học khóa 1 Văn khoa  Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, làm giáo viên dạy ở Trường học sinh miền Nam tại Hà Đông, một thời gian, trước khi về Đài TNVN làm biên tập thơ.  Tuân Nguyễn không may bị quy là “có ý tưởng đi ngược với đường lối chính sách” và bị bắt giam vào tháng 10. 1964, do một số cán bộ cực đoan suy diễn, nghi ngờ, Gần 10 năm chịu giam giữ cải tạo, năm 1973, Tuân Nguyễn được trả về cuộc sống bình thường, nhưng không thể trở lại cơ qian cũ, mà lao động tự do. Ông lập gia đình với nhà thơ Phương Thúy, một giáo viên dạy đàn dân tộc ở Nhạc viện Hà Nội, và là con gái của nhà phê bình văn học Hoài Chân (người đòng tác giả với Hoài Thanh viết cuốn Thi nhân Việt Nam). Năm 1976, vợ chồng ông chuyển vào Tp. Hồ Chí Minh sinh sống. Tuân Nguyễn sống bằng việc dạy học và dịch sách. Còn vợ ông bán sách báo qua ngày. Tác phẩm Bim trắng tai đen nổi tiếng của nhà văn người Nga là G.Troyepolsky, Tuân Nguyễn là dịch giả. Năm 1983, ông mất vì một tai nạn giao thông.

Những tưởng câu chuyện về một con người có tài có tâm nhưng không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng sẽ chìm vào dĩ vãng, thì giờ đây, những người yêu văn chương và bạn đọc biết đến tên tuổi Tuân Nguyễn. Trước hết, phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng Quán, người đã viết một chân dung Tuân Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba phút sự thật của ông. Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm bản thảo, biên soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét thêm. Ở đó tập hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng nghiệp, người quen của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng Sơn, Thái Vũ, Dương Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân Đài, Vũ Từ Trang v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ của Tuân Nguyễn được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng nghiệp, thậm chí cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc hiểu đúng về con người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã trải qua, cũng xem như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi oan khuất ma ông mắc phải!?...

Để làm được việc này, Trần Nguyên Vấn, người em xứ Huế, người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn phải có tâm lăm lắm và bỏ nhiều công sức, cần mẫn, tận tụy mới làm nổi,

Thay lời kết cho bài biết này, tôi kể một câu chuyện, thêm phần minh chứng cho mối lương duyên giữa hai người con của Thừa Thiên Huế, Tuân Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm 2011, nhà thơ Phương Thúy, vợ của Tuân Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không nơi nương tựa ở Tp. Hồ Chí Minh. vì ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải pháp tốt nhất là làm sao đưa bà Phương Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lão. Để làm được việc này không đơn giản, phải lập hồ sơ giấy tờ phiền hà. Trần Nguyên Vấn lại đứng ra lo một phần giấy tờ thủ tục. Khi ấy, tôi đang là Chánh văn phòng Đàu TNVN, nên có điều kiện giúp Trần Nguyên Vấn phần giấy tờ liên quan đến Đài với tư cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của nhà thơ Tuân Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương Thúy được an cư ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,...

 Với vợ chồng nhà thơ Tuân Nguyễn, lo toan như thế, tôi nghĩ, Trần Nguyên Vấn đã bỏ bao công sức. Ông thật trọn tình vẹn nghĩa. ./.

 

 

TRẦN NHẬT LAM

mỗi ngày sau một ngày

 

          Nhắc đến nhà thơ Trần Nhật Lam, ngươi ta nhớ ngay đến bài thơ “Miền Nam nhớ mãi ơn người” được nhạc sĩ Lưu Cầu phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, hay và cảm động; cùng với đó là bài thơ “Con chim câu bay xa” được chọn in trong nhiều tuyển thơ Việt Nam.

        Mùa thu năm 1987, tôi từ An Giang về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), ở ngay trụ sở 58 Quán Sứ, thì phòng biên tập của tôi liền dưới tòa biệt thự kiến truc Pháp, nơi Ban biên tập Văn nghệ đóng mà nhà thơ Trần Nhật Lam là lãnh đạo ban này rồi. Ít lâu sau, Ban này tách đôi thành Ban Văn học nghệ thuậtBan Âm nhạc, nhà thơ Trần Nhật Lam lên Trưởng ban Văn học nghệ thuật, rời sang ngôi biệt thự khác vẫn trong trụ sở 58 Quán Sứ. Ngày làm việc, gặp ông thì chào xã giao, chẳng dám ho he gì vì xem ông hàng  cây đa cây đề làng văn nghệ rồi. chỉ le ve giao du với mấy đàn anh là Lâm Huy Nhuận, Trương Hữu Lợi thôi. Quả vậy, sau này đọc bài viết “Những cuộc trá trên căn gác cũ” của nhà báo Trần Nhật Minh, con trai ông, thêm rõ, khách chơi nhà thưởng trà và đàm đạo thơ văn ở căn gác trong ngôi nhà cũ trên phố Bát Sứ, Hà Nội của nhà thơ Trần Nhật Lam toàn những tên tuổi làng văn nghệ xứ mình như: Xuân Diệu, Nguyễn Bùi Vợi, Trúc Thông, Lê Đình Cánh, Vũ Quần Phương, Ngô Văn Phú, Ngô Quân Miện, Trần Lê Văn, Vân Long, Thanh Hào, Đỗ Văn Hỷ,... Làm người gác cổng một kênh văn học nghệ thuật quan trọng của nước nhà, quan hệ và giao du rộng là cần thiết, cũng là niềm vui công việc và cuộc sống của nhà thơ Trần Nhật Lam. Bản tính ông kín đáo và cẩn trọng, cốt cách nho nhã lịch sự của người Hà thành làm nên phong thái Trần Nhật Lam.

        Vốn tính cẩn trọng nên ông viết cũng vậy, chậm và kỹ, không xô bồ phóng bút. Sau bốn mươi năm tập thơ đầu tiên (“Đất tôi yêu” in năm 1973), Trần Nhật Lam mới xuất bản tập thơ thứ hai của mình. Câu thơ Trần Nhật Lam lấy làm đề từ cho tập thơ “Mỗi ngày sau một ngày” (NXB Hội Nhà văn, 2013), “Mỗi ngày sau một ngày/ Ta nắm bàn tay năm tháng,/ Như nắm bàn tay người thương/ Ngón kề ngón đan bện nhau ấm nóng.../ Ta đan bện ta với cuộc đời”, phần nào thể hiện quan niệm của mình về cuộc đời và thi ca nữa. Giản dị, không lạ hóa ngôn từ, cũng chẳng tuyên ngôn, đại ngôn, Trần Nhật Lam lặng lẽ đổi mới thơ. Cốt ở ý, câu chữ trau chuốt, không câu nệ vần vèo, giữ mạch ngầm, nên đọc và thuộc thơ ông không dễ. Thơ Trần Nhật Lam, lý tinh át chất trữ tình: “Con chim câu đậu mái nhà sáng rực/ Chiếc tổ êm từng chịu bão giông nhiều/ Ngày mới mọc từ ánh gươm chiến trận/ Em chính là em của thuở ấy Thăng Long/ Của đêm hịch của mặt người sạm lửa/ Của khói tan, của ụ súng đầu ô/ Em chính là em ngang từng khung cửa/ Bay đưa nhành lá ước mơ,... Nhưng em phải là em, con chim câu bay xa/ Mắt lóng lánh như nghìn năm chuốt ngọc/ Bầu trời mở những trang xanh em đọc/ Suốt một đời dang cánh chiếm bao la” (Con chim câu bay xa).

        Lý tính hầu như ngự trị trong thơ Trần Nhật Lam. Dường như, ông chủ định thoát khỏi sự ru rín của vần điệu để nói một điều gì đấy: “Đeo nhẫn cưới vào tay/ Vàng bạc nói/ Hay trái tim ta nói?.../ Núi non xếp nếp nhăn trái đất/ Vầng trán xếp nếp nhăn đời người,... Vườn thu xin nhẹ chân/ Giọng hát cũng thì thầm/ Kéo trái kia sớm rụng” (Vô đề); Với lục bát, cũng rất chi lý tính: “Bãi kia mía ngọt dâu lành/ Phải bao máu thắm cho lành đất ươm/ Bến sao lại gọi bến Thương/ Non sao non Cội em thường ngóng trông” (Qua vùng Quan họ); Và cả khi nới với người thương cũng vậy: “Anh được em tin yêu/ Ta đi bên nhau suốt đời/ Cùng bước qua bao dọc ngang hỗn tạp/ Bàn chân được đặt cạnh bàn chân/ Được lắng nghe linh cảm trái tim/ Em bảo/ Nhờ thế mà trở nên ấm áp/ Trong một thế giới còn đó đây giá lạnh/ Anh được vươn thở ngực mình/ Được ngẩng đầu cho đất nước vươn cao...” (Nói với người thương); Về một Hồ Tây sương khói: “Vẫn đấy một Hồ Tây/ Sớm nhòa sương khói, trưa vàng nắng/ Đêm trăng mới thấy tuyệt vời trăng? Vẫn đấy một Hồ Tây/ Rì rầm/ Chỉ long ta nghe thấy/ Tiếng tận nghìn xưa sóng vọng về/ Gươm mài ánh lửa sôi lời hịch/ Đúc đồng giã giấy rộn làng ven/ Chuông chùa thuở ấy nghe hòa tiếng/ Cả đất trời vươn sải dáng rồng bay” (Vẫn đấy một Hồ Tây),... Cứ vậy, đọc thơ Trần Nhật Lam, mọi thứ căng lên như dây đàn, bỗng dưng tôi lại thèm được thấy ông bớt cứng cỏi đi hay yếu đuối một chút cũng được, là để trở về sự bình dị đời thường?...

        Với dáng vẻ bề ngoài nghiêm cẩn mô phạm nên dễ cám giác khó gần nhưng thực ra nói chuyện với ông lại thấy ông dễ gần, hóm hỉnh ngầm và thú vị. Tôi nhớ, có lần đàm thoại văn chương, Trần Nhật Lam hỏi tôi: “Chu Nhạc viết văn xuôi và cũng làm thơ... mình muốn biết, cậu thấy, được một tập truyện hay và tập thơ hay, cái nào khó hơn?”. Tôi cười bảo: “Bác hỏi khó em rồi ạ... Viết gì thì cũng muốn, cũng thèm được hay, nhưng mà khó ạ. Cứ phải có tài cái đã. Em nghĩ, truyện thì tập trung cao độ có thể được tập khá,... chứ còn thơ, càng cố càng dụng công, không khéo xôi hỏng bỏng không, có khi cả đời thơ chẳng đến đâu ạ”. Ông chỉ gật gù, cười nhẹ ra chiều tán đồng.

        Nhà thơ Trần Nhật Lam là người khiêm nhường, hiếm thấy ông to tiếng cả trong công việc quản lý và đời sống hàng ngày. Vợ ông, biên tập viên văn học Nông Thị Nhuận, một trong những người làm biên tập  đầu tiên ở chương trình phát thanh Đọc chuyện đêm khuya hay Tiếng thơ của Đài TNVN (VOV). Bà học Tổng hợp Văn Hà Nội cùng thời với nhà văn Ngô Văn Phú, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Trần Nguên Vấn, nhà văn Nguyễn Gia Nùng ... Ông bà sống thuận hòa, các con là Trần Thùy Dương, Trần Nhật Minh và con rể, con dâu đều làm việc trong lĩnh vực báo chí, văn học nghệ thuật. Nhớ thời ông bà còn đi làm, hàng ngày, ông đèo bà bằng xe đạp, chiếc Phượng hoàng xích hộp. Có lần, nhà báo-kịch sĩ Nguyễn Huấn cười đùa vui ông bà rằng “Ông Lam đèo bà Nhuận, ông gày bà béo, nặng bồng nhẹ tếch, bánh trước xe cứ như bị nhấc lên khỏi mặt đường, nên ông Lam phải rướn người đạp pê-đan tay ghì ghi-đông đè nó xuống,...”. Quả là thế, tuy hơi ngoa chút, chuyện vui ấy mà.

        Sau khi nhà thơ Trần Nhật Lam nghỉ hưu, thi thoảng gặp ông mỗi lần ban biên tập Văn hóa xã hội mời các thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên từng công tác tai Ban đến dự cuộc gặp mặt nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đài (07/9) hằng năm. Biết ông khỏe và có thêm niềm vui mới, ấy là cầm cọ vẽ tranh thử sức ở lĩnh vực hội họa. Với người nghệ sĩ, có cảm hứng sáng tạo thì ở bất cứ loại hình nào đều quý cả.

        Vài năm gần đây, tôi về làm biên tập ở tờ tạp chí Nhà văn & cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Trần Nhật Lam có gửi đăng thơ chùm, thơ báo tết. Cảm nhận, sau nhiều năm, ông vẫn nguyên chất lý tính xưa. Đấy là sự lựa chọn của ông. Ở ngưỡng cửa chín mươi xuân, nhà thơ Trần Nhật Lam vẫn bản lĩnh, cứng cỏi như ngày nào,…./.

         

         

Tủm tỉm Lê Đình Cánh.

          

          1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát

Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt Nam thời nay, mà tôi xin được trải ra, để mời mấy nhà thơ vào ngồi, mỗi người một góc, mà ở đó có nhà thơ Lê Đình Cánh.

          Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.

          Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ, mà cụ thể lại là Thơ lục bát. 

          Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc, trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất lành do NXB Thanh Niên ấn hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).

          Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“ (bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt Nam hiện đại...

          Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca Việt Nam hiện đại, phải cần nhiều “đinh” hơn thế. Chẳng qua, mấy bài thơ,  câu thơ nọ, là dấu ấn đầu tiên khiến người ta bắt đầu nhận diện ra riêng một Lê Đình Cánh, trong số rất nhiều nhà thơ và người làm thơ ở xứ ta mà thôi.

          Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ lục bát...

          Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc, song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc chở đầy ước mong”.

Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ, lập ý rõ ràng

Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng, têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.

Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu, câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...

          Vậy là, khi mang những nhận định trên mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi, Trăng nở nụ cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông Chùy, Cõi xưa,  Bến quê, Trở lại Ba Lòng, Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...

          Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ, dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.

Xin được viện dẫn, như :

                                         Mải lo cơm đủ áo lành

Còn đâu lúc rỗi để thành vọng phu

( Gió đất )

Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già

( Em đi )

Tình yêu như thể chơi đề
           Đợi con độc đắc lại về trắng tay...

... Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

( Chợ tình )

Chốn quê vẹo cột vênh kèo

Ốc cam phận ốc lại đèo kiếp rêu.

( Chợ người )

Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

Xế tà tháp lặn vào mây

Vầng trăng chính sử hao gày hoàng hôn

( Lời xưa )

Sau già là cõi xa xăm

Nén hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.

( Hỏi đất )

Giếng làng mưa bão vẫn trong

Chợ quê rớt già vẫn đong đếm đầy

( Thú quê )

Đao đình cong nỗi phế hưng

Một thời lá rụng dửng dưng sân chùa

( Phận rùa )

Tuổi già như thể nắng hanh

Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều

( Về hưu )

Ơi người áo mũ cân đai

Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành

( Tiểu sành )

Nắm tay củ ấu vẫn tròn

Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi

( Chợ Mơ )

Giả vờ có ngủ được đâu

Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi

( Ngủ nhờ )

Ngày xưa xe lộn về Bần

Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu

( Về Phố Hiến )

Nẻo đường bồ bịch cong cong

Vừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...

( Nẻo đường cong cong )

Bắt chồng em có chọn anh

Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu

Như là đồng đất chọn trâu

Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày

Chọn anh như cối chọn chày

Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô

( Bắt chồng )

Thân cò trở lại nghề nông

Rời cây súng biết tay không có gì

Mấy đồng hưu trí thấm chi

Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người

( Anh lại đi cày )

Nứa mai thưng hở vách lều

Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy

Mưa bay như thể sương dầy

Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay

( Gặp ở Mường Tè )...

Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...

Chẳng hạn, như:

Thế cờ nghiêng về đâu

Pháo mã thành vô dụng

Sĩ tượng thành thất sủng

Tốt đen cười sang sông

( Nắng Hàm Tân )

Ai biết được ma nào ăn cỗ

Ai dại gì công bố chuyện đi đêm

( Vợ Ba )

Gặp bạn tình lòng đã thấy no

Rượu chưa nhắp lời đà có lửa

Trưa đứng nắng bồn chồn vó ngựa

Chợ lim rim một nửa sang chiều.

( Chợ Bắc Hà )

Đường một chiều cứ thế tôi đi

Tôi biết dại làm người nhụt chí

Cái đáng vứt lại cất làm của quý

Cái phải chôn đi lại để trưng bày

( Đường Bà Triệu )

Đâu đá lát lên đền Tam Tổng

Lạnh khói hương thông thốc giữa trời

Hai hộ pháp vẫn muôn đời gác cổng

Ông Ác cười! Ông Thiện toát mồ hôi...

... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo

Thời gian như nước ngầm băng hoại

Trái tim tôi càng sống càng nghèo

( Quê ngoại )

Mùa khô Đồng Văn trơ gió

Gió khê lời đá thở dài

Gió như tiền vào nhà khó

Một đời gió thổi trần ai

( Mùa khô Đồng Văn )

 v.v..

Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này. Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên, Phố Làng v.v...:

Ví như :

Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh

Để êm đỡ trẻ. Để anh đỡ già

( Hát Karaoke )

Phố làng xóa sổ nông dân

Quán quê lai ghép công nhân nửa mùa

Lượn lờ chào bán gọi mua

Dật dờ chai cốc được thua với đề

( Phố Làng )

Mảnh bằng bán tận châu Phi

Tiền lương đếm lại nhiều khi mủi lòng

Ước mơ xé lẻ từng đồng

Thương con liệt sĩ lấy chồng thương binh,

Vết thương như kẻ vô tình

Tấy lên những lúc gia đình ăn vay.

( Vàng xám ) v.v...

Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông, thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ lục bát cổ truyền, riêng có của xứ ta !...

Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...

 

         2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.

Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ, đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015, con số đã là 7.

Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật, nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...

Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa, uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...

Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh. Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông  từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến chủ thành khách, còn mình từ khách thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia tăng hàm lượng văn chương cho bài biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút chuyên ký sự khác cùng thời...

Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết dạng này, khá thành công, như: Hoa sen, Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...

Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...

Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông, quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này, tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...

Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể loại bút ký, ký sự văn học !...

 

3.    Tủm tỉm Lê Đình Cánh.    

Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu, nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV), tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở 58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phải  hàng năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng). Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân độiTạp chí Văn học (Viện Văn học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên, thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát sóng, để sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.

          Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên, đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học thiếu nhi nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Và nhờ tham gia Trại viết đó, tôi được gặp gỡ, làm quen với một số cây bút trong lĩnh vực này như Thai Sắc, Thái Vĩnh Linh, Hoài Khánh, Lê Minh Hoài và Phong Điệp khi đó còn rất trẻ... Hơn thế, tôi còn được tiếp xúc, được nghe nói chuyện, và trao đổi với các nhà văn mà tôi vốn kính nể là Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Phạm Hổ, v.v... Tôi đã viết về chuyện này trong chân dung văn học “Phạm Hổ, người thắp lửa”, nên không nhắc lại ở đây. Thành thật, tất cả những gì mà nhà thơ Lê Đình Cánh từng ưu ái dành cho tôi, ngày ấy, bây giờ, tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về hết thẩy!...

          Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông, trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi, việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ... Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân gian.  Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều, chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người được đồng hóa, gán với  nhân vật Trạng Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt, Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng khư khướu nhưng viết ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...

          Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ) Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa miệng thì vẫn đấy....

          Sau những xã giao thông thường, bập vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa, vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm, được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác từ thời là người của nhà Đài (VOV), cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống chung với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.

Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là, mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với gia đình, với cuộc đời này !...

Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây ?...

 

 

VĨNH TRÀ,

mải miết viết sử nhà Đài

 

          Khi tôi bắt đầu viết về nhà báo, nhà văn Vĩnh Trà (tên thật là Trần Đức Nuôi), tình cờ trên trang Facebook của ông, thông báo ra mắt tập bút ký “Đi dọc thời gian” mà ông là tác giả. Đây là tập bút ký mới nhất của Vĩnh Trà kề chuyện nhà Đài, cũng có thể xem là cuốn sử Đài (Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV). Đơn giản bởi tập ký này sẽ cho bạn dọc biết những thông tin bổ ích về quá trình thành lập và phát triển của nhà Đài.

          Vĩnh Trà, tuổi Bính Tuất, sinh năm 1946, quê ở bờ Bắc sông Bến Hải, Vĩnh Linh Quảng Trị, học Tổng hợp Văn cùng với các nhà văn Nguyễn Hiếu, Trần Bảo Hưng, Lê Thành Nghị, Nguyễn Ngọc Ký, Lê Quang Trang v.v.... Tốt nghiệp, ông về công tác ở Đài Tiếng nói VIệt Nam, làm ở bộ phận Đài Phát thanh Giải phóng, sau năm 1975 chuyển qua nhiều ban biên tập khác nhau, từng giữ các cương vị Trưởng ban Thư ký biên tập, Trưởng ban Kinh tế và khoa học công nghệ, cho đến ngày nghỉ hưu. Khi còn làm việc, Vĩnh Trà chuyên tâm làm báo, nghề báo phát thanh mà ông theo nó cả đời. Đến khi được nghỉ ngơi, Vĩnh Trà mới bắt đầu viết sách. Ông viết đủ loại, báo chí, truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết, nhưng theo tôi, Vĩnh Trà mạnh nhất ở thể Ký (hồi ký, bút ký, truyện ký).

          Trước hết, Vĩnh Trà là một nhà báo. Tốt nghiệp Tổng hợp văn Hà Nội, ông được điều về làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), cùng lứa Tổng hợp văn với ông về đây rất đông, có Phạm Thanh Trà (vợ ông), Nguyễn Thị Kim Cúc (sau là Phó tổng giám đốc Đài TNVN), nhà báo Lương Kỳ, nhà văn Nguyễn Hiếu v.v… Mặc dù Vĩnh Trà được điều động qua qua nhiều đơn vị khác nhau nhưng đều do Đài TNVN biệt phái, nên sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở  mỗi đơn vị thì ông trở lại nhà Đài. Những năm chiến tranh chống Mỹ cửu nước ác liệt, Vĩnh Trà là quân của CP 90 thuộc Đài Phát thanh Giải phóng, từng vào chiến trường Trị Thiên. Đây là những tháng năm gian khổ hy sinh để ông rèn luyện và thử thách bản lĩnh người làm báo, còn là nơi ông tích lũy tư liệu, vốn sống để sau này đưa vào các tác phẩm của mình,… Nghe nói, ông còn có thời gian đi thực tế làm quản lý cấp huyện ở Ba Chẽ, Quảng Ninh nên sau này có truyện ký “Ngược rừng Ba Chẽ”. Gì cũng trải qua, ấy là sự may mắn trong cuộc đời làm báo viết văn của ông.

          Năm 1987, tôi về nhận công tác tại Đài TNVN thì Ban biên tập Thính giả mới được thành lập trước đó vài tháng. Ban này do nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Khi đó, nhà báo Vĩnh Trà là Ủy viên ban biên tập (dạng Phó trưởng ban tập sự). Ban có ba phòng chức năng: Phòng phát thanh “Tiếp chuyện bạn nghe đâì” do nhà báo Phạm Xuân phụ trách, phòng “Tiếp dân và xử lý thư thính giả” do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và phòng “Điều tra dư luận thình giả” do nhà báo Trần Quý Tuyên phụ trách.. Như vậy, cùng với Trưởng ban Đặng Quang Tình, Vĩnh Trà là ủy viên ban được phép duyệt ký phát sóng. Trước đấy, Vĩnh Trà thuộc phòng phát thanh “Công nghiệp” thuộc Ban Đối nội rồi đi học lớp Lý luận chính trị cao cấp. Nghe nói, cùng lớp chính trị cao cấp với Vĩnh Trà ngày đó có người sau này thăng tiến đến hang tứ trụ. Sau khóa học, ông được bổ nhiệm sang biên tập khác với chức vụ cao hơn. Ở Ban Thính giả, trưởng ban Đặng Quang Tình kiệm lời và nghiêm cẩn thì trái lại, Vĩnh Trà lại cởi mở, hòa nhã, hóm hỉnh nên dễ tiếp cận để học nghề.

          Có chút may mắn, khi về Đài, ở Ban biên tập Thình giả, tôi có ba người để học nghề làm báo phát thanh. Người trực tiếp quản lý cấp phòng lầ nhà báo Hòng Đồng, tôi đã học ở ông những kỹ năng cơ bản, như thu thanh và sử dụng âm thanh, cách kết cấu một chương trình chuyên đề sao cho hợp lý. Với nhà báo Đặng Quang Tình, tôi học từ ông cách nhìn nhận tìm góc tiếp cận vấn đề và tính luận chiến của một bài báo. Riêng về nhà báo Vĩnh Trà, tôi học ở ông cách tìm điểm nhấn nổi nật và lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt phù hợp với nội dung và tính chất cho mỗi bài viết. Với Vĩnh Trà, ông là người có trí nhớ tốt và chịu khó tích lũy tư liệu từ chuyên môn đến những sự kiện quan trọng và cả chuyện bên lề. Đó là điều kiện thuận lợi để sau này ông viết sách, nhất là những gì liên quan đến sự hình thành và phát triển của Đài TNVN qua các thời kỳ.

          Tôi có chút kỷ niệm riêng với Vĩnh Trà. Ấy mùa hè năm 1988, tôi tháp tùng ông chuyến công tác dài ngày từ Hà Nội vào Huế. Cùng đi còn có nhà báo Trần Quý Tuyên và “cán bộ đường lối” Đồng Văn An điều khiển chiếc com-măng-ca đít tròn cà tang chở theo mấy cạn xăng nhiên liệu dự phòng, lọc xọc như xe ngựa đường đá. Điểm dừng đầu tiên là Thanh Hóa, rồi lần lượt Nghệ Tĩnh, và Bình Trị Thiên. Lúc ấy tỉnh to, Bình Trị Thiên nên lộ trình phải ngắt thành các chặng Quảng Bình, Quảng Trị và sau cùng là Thừa Thiên Huế. Chúng tôi dừng lâu ở Quảng Trị bởi Vĩnh Trà quê ở Vĩnh Linh và còn bởi đây là vùng đất có nhiều di tích lịch sử như cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cửa Tùng, địa đạo Vịnh Mốc, Cồn Tiên Dốc Miếu, sông Thạch Hãn, thành cổ Quảng Trị… Lâu rồi nhưng giờ tôi vẫn nhớ cảm xúc mạnh khi ấy trước mỗi chứng tích chiến tranh. Ở Huế, nhờ sự giúp đỡ của các nhà báo Phước Túc, Nguyễn Trương Đàn, chúng tôi tìm hiểu nhóm doanh nhân-doanh nghiệp “ 4L” (tên có chữ cái L) nổi bất của đất cố đô khi ấy. Ấn tượng nhất là chuyến băng ngang phá Tam Giang mênh mong để tìm hiếu mấy làng chài mép biển. Nhờ đó, tôi viết được mấy ký sự cho cuốn sách của mình,… Chuyên đí ấy, tôi quan sát và học được từ Vĩnh Trà nhiều điều, từ cách ngoại giao, đặt vấn đề công việc, đến cách giải quyết các tình huống bất ngờ nảy sinh … Không có sự hiểu biết và từng trải như Vĩnh Trà thì không thể có chuyến đi dài ngày vất vả lại suôn sẻ và hiệu quả đến vậy.

Cho đến nay, nhà báo, nhà văn Vĩnh Trà đã xuất bản trên dưới ba chục đầu sách các loại.  Sách của Vĩnh Trà, tôi quyến có quyển không, và cũng chỉ nhớ được một số tên sách như: Nghề không hưu (bút ký), Mưa chiều đất cuối (truyện), Thằng khùng chợ đầu mối (tiểu thuyết), Mùng ba (ký), Đi dọc thời gian (bút ký)... Vĩnh Trà viết đều tay, năm một vài cuốn, viết xong thì xuất bản, hầu như không gửi đăng báo, nên không mấy phổ biến, chỉ bạn bè và dồng nghiệp biết. Hình như với ông, việc ấy không quan trọng bằng viết thành sách. Ấy cũng là một cách. May là giờ có mạng xã hội nên bài viết chỉ cần đăng trên trang cá nhân Facebook là đến được nhiều bạn đọc rồi, có khi còn hơn đăng báo viết, vả lại có ngay sự phản hồi từ phía người đọc thông qia các comment. Hay dở chưa bàn, vậy là tác phẩm cua mình có đời sống xã hội của nó rồi.

Viết về nhà báo, nhà văn Vĩnh Trà mà không nhắc đến sự say mê và những đóng góp của ông cho ‘sử Đài” (sự hình thành và phát triển của Đài Tiếng nói Việt Nam) thì sẽ là thiếu sót lớn.  Tự thân, sự yêu thích, tìm tòi, tích lũy đầy trách nhiệm, vô hình chung, khiến ông trở thành người hàng đầu thông thạo sử nhà Đài (Đài TNVN). Chính vì thế, từ sách chung nhiều tác giả đến sách riêng, những gì liên quan đến sử Đài, Vĩnh Trà luôn là người tham góp đấy tin cậy. Trước hết, phải nhắc đến cuốn sách được xem như “sử Đài” là cuốn “70 năm Đài Tiếng nói Việt Nam (1945-2015)”(NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2015) thì Vĩnh Trà cũng là chủ chốt. Ông được phân công chấp bút phần đầu, thời Đài TNVN hình thành và thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp. Tôi may mắn được chọn tham gia, chấp bút phần thời kỳ đổi mới và chuyển đổi đa phương tiện,  cùng ông và mấy nhà báo chắp bút chính  (Lê Đình Đạo, Dương Quang Minh, Vũ Hải, Nguyễn Vũ Duy)… Tổng thể, phần đầu do Vĩnh Trà đảm nhiệm là khó nhất, bởi thời gian qua đã lâu và phần đông các nhân chứng lịch sử đã qua đời, hoặc già yếu, suy giảm trí nhớ, lại nữa, tài liệu ghi ghép về các sự kiện thời ấy cũng ít ỏi, sơ sài, thất lạc… Không nói quá, nếu không phải là Vĩnh Trà thì phần khởi đầu này sẽ kém, không đầy đủ và có sức thuyết phục như cuốn sách hiện có. Cho dù sau này, lịch sự phát triển nhà Đài có dài thêm nữa thì cuốn sách này vẫn là căn cốt để các thế hệ mai sau lấy làm cơ sở để tiếp nối, bồi đắp. Riêng ông, trong hành trình cầm bút của mình, dù viết nhiều và đa dạng thể loại nhưng Vĩnh Trà không hề xao nhãng những gì liên quan đến Đài TNVN từ quá khứ đến hiện tại. Cũng đúng thôi, bởi đây là chiếc nôi dung dưỡng hai vợ chồng ông suốt cuộc đời làm báo viết văn. Viết về Đài TNVN, với ông luôn như một sự bày tỏ lòng biết ơn!...

Giờ ở độ tuổi tám mươi, Vĩnh Trà tlại vừa ra mắt tiểu thuyết “Nước mắt cười” (NXB Văn học, 2025), đầu sách thứ ba mươi của ông. Với sức lao động miệt mài không ngừng, chắc bạn đọc còn được đón nhận các tác phẩm mới của ông!...

         

 

VŨ HÀ, “GÃ ĐẦU BẠC” VUI TÍNH

 

         

Dân nhà Đài (VOV) và nhiều bạn bè thân thiết của nhà báo-đạo diễn kịch truyền thanh Vũ Hà quen gọi đùa ông là ‘gã đầu bạc”. Vũ Hà không những không giận mà còn hùa theo tếu táo cho xôm. Sở dĩ mọi người gọi ông như vậy là bởi mái đầu bạc sớm như cước của ông và còn bởi ông có ngoại hình và diện mạo hao hao với nhân vật “gã đầu bạc”- viên tình báo Hoa Nam trong bộ phim truyền hình nổi tiếng một thời, “Ván bài lật ngửa” của Nguyễn Trương Thiên Lý. Cứ thế đùa quen, thành biệt hiệu của Vũ Hà.

Năm 1987, tôi về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) là biết đến ông ngay bởi ngoại hình đặc biệt này. Phòng làm việc của tôi gần với phòng Sân khâu truyền thanh nên ngày nào cũng thấy ông ngang qua dần thành quen thuộc.

Tôi và chắc hẳn nhiều thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) sớm biết đến cái tên Vũ Hà, bởi nó gắn liền với chương trình Sân khấu truyền thanh vào mỗi tối thứ bảy hằng tuần. Ngày ấy, cùng với chương trình này, các chương trình phát thanh khác như Tiếng thơ, Kể chuyện cảnh giácVăn nghệ quân đội vào mỗi dịp cuối tuần thì hầu như ai cũng thích. Thế nên, cái tên Vũ Hà cùng Đoàn kịch Hồng Hà trở thành thương hiệu nổi tiếng, cùng đó là vài ba cái tên khác, như Nghĩ Xuyên (Kể chuyện cảnh giác tối thứ bảy) và Văn Ngải (Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật).

Khi chưa về đầu quân nhà Đài,  mỗi khi nghe biên tập viên Vũ Hà giới thiệu vở nọ vở kia do Đoàn kịch Hồng Hà trình diên thì tôi cứ mường tượng cái đoàn kịch có tên Hồng Hà ấy là một đoàn kịch riêng, kiểu như Đoàn kịch nói Hà Nội, Đoàn kịch nói Hải Phòng, Đoàn kịch nói Trung ương... Sau này mới biết, té ra chẳng có một đoàn kịch nào có cái tên ấy thật, mà là một nhóm diễn viên cộng tác, họ ở các đơn vị nghệ thuật khác nhau, được nhà Đài mời đến để diễn một vở kịch truyền thanh cụ thể nào đó. Để tiện nhiều việc, bèn đặt cho nó một cái tên, nghe vừa oai vừa sang lại vẻ chuyên nghiệp. Cái trò đó, nghe nói là sáng kiến của đạo diễn-biên tập viên Vũ Hà. Đoàn kịch Hồng Hà kia mà, nghe vừa oách vừa đầy tin cậy. Vậy là cùng với tên tuổi cá nhân, Vũ Hà đã có công tạo nên một thương hiệu nghề nghiệp. Nhà Đài (VOV) ghi nhận ở ông sự sáng tạo đó.

Chuyện nghề nói chung là thế. Giờ thì bàn riêng chuyện đời về “gã đầu bạc” Vũ Hà,...

Từ ngày vào nghề cho đến khi nghỉ hưu, không rõ Vũ Hà đã viết kịch bản, biên tập, đạo diễn, tổ chức thu thanh và giới thiệu bao nhiêu vở kịch truyền thanh? Hiện giờ, các sản phẩm ấy còn được lưu giữ tại kho bang, kho lưu trữ tư liệu của nhà Đài, nhưng chẳng ai đi thống kê, trừ các nhân Vũ Hà. Nhưng ông thì đã nằm sâu dưới ba thước đất mấy chục năm rồi. Mà thôi, thống kê cũng chẳng để làm gì. Chỉ biết mấy chục năm trời say mê và miệt mài theo đuổi nghiệp kịch truyền thanh, Vũ Hà đã để lại dấu ấn của riêng mình khiến thính giả nhiều thế hệ còn nhắc đến ông.

Chuyện “gã đầu bạc” Vũ Hà yêu nghề, say nghề thì nhiều vô kể, thú vị đấy nhưng cũng cười ra nước mắt đấy. Làm cái nghề như ông cũng là “làm dâu trăm họ”, không thể làm hài lòng tất cả mọi người được. Đôi khi dựng vở kịch bản của người này  mà bỏ người kia, rôi mời diễn viên này mà không mời diễn viên khác cũng gây nên bất hòa, ganh tị, đỗ kỵ lẫn nhau. Mà ngày ấy, bao cấp, thiếu thôn trăm bề, với các kịch sĩ và diễn viên nghèo, được dựng vở, có vai diễn không chỉ là hãnh diện nghề mà còn vì mưu sinh kiếm đồng nhuận bút nhuận miệng còi thêm đồng rau muối nuôi gia đình. Thôi thì đủ thứ lo, nên không khéo lại mang tiếng này nọ cũng nên. Vũ Hà không phải là ngoại lệ, đôi khi cũng bị điều ong tiếng ve. Thế mới có chuyện diễn viên Nguyễn Huấn thời còn chưa đầu quân về làm người nhà Đài đã có lần quá chén say mèm cầm kéo rượt Vũ Hà chạy quanh ngay trong sân nhà Đài ở trụ sở 58 Quán Sứ. Lúc tỉnh rượu anh em lại ôm nhau cười xòa xin lỗi lẫn nhau...

Vũ Hà yêu nghề va cũng yêu rượu. Hầu như ngày nào ông cũng phải đưa cay tí chút. Tôi cũng từng dăm lần lang thang đây đó và đưa cay cùng ông và bạn diễn của ông. Tôi nhớ và ấn tượng nhất quán rượu vỉa hè trên phố Nguyễn Du gần cổng cơ quan Tổng cục Bưu chính viễn thông. Rượu thảo mộc, thức nhậu chỉ tóp mỡ và dưa chuột chấm muối ớt khô. Khách nhậu phần lớn là các văn nghệ sĩ nghèo, ghế gỗ thấp chân, mẹt nhậu đơn giản, quây quần dăm ba vị rỉ rả đủ thứ chuyện làm vui, tan cuộc tiền nhậu chả đáng bao nhiêu.... Vui và thú vị đấy song những cuộc như thế nhiều khi đưa cay quá chén, tếu táo quá lời mà sinh chuyện cãi cọ. Vũ Hà mang điều tiếng gì cũng từ đấy mà ra cả.

Gì thì gì. Vũ Hà là một người tâm huyết với nghề và là người giỏi nghề. Cùng bộ phận chuyên kịch truyền thanh với ông ở Đài còn  mấy người khác, nhưng có lẽ  chỉ riêng ông tạo được thương hiệu với đông đảo thính giả cả nước. Theo tôi, đấy là thời kỳ hoàng kim của sân khấu truyền thanh. Không chỉ các vở do chính nhà đài tổ chức dàn dựng thu thanh mà nhiều vở lớn nổi tiếng của sân khấu biểu diễn ở rạp cũng được thu thanh phát trên làn sóng phát thanh phục vụ thính giả cả nước. Đó là nhờ sự tận tụy của Vũ Hà và các đồng nghiệp làm sân khấu truyền thanh nhà Đài một thời. Giờ nghĩ lại ngày ấy, như một giấc mơ,...

Giờ sân khấu truyền thanh dường như hết đất sống, nhường không gian cho các câu chuyện hài ngắn trên nền tảng tiktok, hoặc chuyện hài trên Youtube hay các nền tảng số khác... Ai cũng có thể làm video, clip, tấu hài mua vui cho thiên hạ mà lại kiếm bộn tiền... Gì cũng chỉ có thời của nó. Trí tuệ nhân tạo (AI) phá đám làm thế giới điên đảo, thật giả lẫn lộn. Nhớ về một thời vậy thôi chứ xu thế thì không thể đảo ngược được.

May mà, “gã đầu bạc” vui tính Vũ Hà sớm về thế giới bên kia để khỏi phải chạnh lòng chứng kiến một thế giới “thực hư lân lộn”như bây giờ, khi mà ông còn chưa thành ký ức xa mờ!...

 

 

 

 

 

         

 

 

 

 

 

 

 


Nhận xét