Gian truân
NGHỀ BÁO NGHIỆP VĂN
Chân dung văn
Tôi
& tôi
(Thay lời
mở sách)
Trước
hết, về tác giả cuôn sách này.
Tôi về nhận việc tại Đài Tiếng nói Việt
Nam, theo quyết định tiếp nhận số 156 TC/ĐFT ngày mồng 7 tháng 10 năm 1987, do
Tổng biên tập Trần Lâm ký. Dịp ấy, tôi chỉ là một trong số 5 người được Đài tuyển
dụng, cùng đó, có Nguyễn Trọng Huân, Lê Vũ Huyền My, Nguyễn Điệp Anh và Nguyễn
thị Thu Liên. Trước đấy, tôi đã có gần 7 năm làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện
Tri Tôn, tỉnh An Giang (cũ) theo chuyên môn được đào tạo, kỹ sư nông nghiệp. Do
phải vào tận An Giang làm thủ tục giấy tờ chuyển công tác nên tôi là người nhận
viêc sau cùng, về Ban Thính giả, cùng Nguyễn thị Thu Liên, ái nữ của nhà
thơ Nguyễn Bùi Vợi.
Năm ấy, bối cảnh nhà Đài có sự
thay đổi căn bản. Trước đó, mô hình tổ chức quản lý ngành phát thanh truyền
hình ở ta, cao nhất là Ủy ban phát thanh truyền hình Việt Nam. Ủy
ban này có nhiệm vụ quản lý nhà nước hai
đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN) và Đài Truyền hình Việt Nam,
(Đài THVN) cùng các đài phát thanh truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Ủy ban này bị giải thể vào giữa năm 1987, thay vào đó, Bộ Thông tin
được thành lập để quản lý nhà nước ngành phát thanh truyền hình và báo chí nói
chung. Vậy là, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam độc lập nhau
cùng chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Thông tin. Nhà báo Trần Lâm, trước là Chủ
nhiệm Ủy ban phát thanh truyền hình Việt Nam, kiêm Tổng biên tập Đài Tiếng nói
Việt Nam, chỉ còn giữ chức Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam mà thôi. Bộ
Thông tin thì nhạc sĩ Trần Hoàn làm bộ trưởng, nhà báo nhà văn Phan Quang làm
thứ trưởng, có trụ sở chung với Đài Tiếng nói Việt Nam ở 58 Quán Sứ, Hà Nội.
Hơn một năm sau, khoảng cuối năm 1988, ông Trần Lâm nghỉ hưu, ông Phan Quang được
điều động và bổ nhiệm từ Thứ trưởng Bộ Thông tin làm Tổng giám đốc Đài Tiếng
nói Việt Nam. Bộ Thông tin rời khỏi 58 Quán Sứ chuyển trụ sở về nhập chung với
Bộ Văn hóa trên phố Ngô Quyrnf, Hà Nội.
Thời điểm đó, Ban Thính giả ,
Đài TNVN mới được thành lập, nghe đâu, quyết định thành lập ký ngày 13 tháng 8
năm 1987, nên sau này Ban bị giải tán, anh em trong ban vui miệng nói đùa, rằng
lập ban vào “tháng tám ngày ba” thì làm sao mà bền được. Lãnh đạo Ban là
nhà báo Đặng Quang Tình, trưởng ban và nhà báo Trần Đức Nuôi (Vĩnh Trà) là cấp
phó giúp việc. Sau khoảng dăm năm tồn tại, Ban Thính giả bị giải tán,
nhà báo Đặng Quang Tình được điều chuyển làm Trưởng ban Ban Phát thanh Dân tộc
mới được lập. Các phòng chức năng của Ban Thính giả chuyển về Ban Thư
ký biên tập, lúc này do nhà báo Trần Đức Nuôi làm trưởng ban.
Năm 1994, Ban Chuyên đề
tách làm đôi, Ban Văn hóa xã hội và Ban Kinh tế & Khoa học công
nghệ. Phòng phát thanh Tiếp chuyện bạn nghe đài chuyển từ Ban Thư
ký biên tập sang Ban Văn hóa xã hội.
Riêng tôi không ở lại phòng cũ mà được phân công về Phòng Tạp chí
truyền thanh & Du lịch, rồi sau đó là Phòng Diễn đàn các vấn đề xã hội
cùng thuộc ban này. Đầu năm 2001, tôi được bổ nhiệm Phó trưởng ban Văn hóa xã hội,
giúp việc cho nhà báo, nhà thơ Nguyễn Huy Dung, trưởng ban. Đến đầu năm 2008,
tôi được điều động và bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ quan thường trú khu vực miền
Trung, Đài TNVN có văn phòng tại Đà Nẵng. Hai năm sau, năm 2010, tôi được điều
động trở lại Hà Mội với cương vị Chánh Văn phòng Đài TNVN. Đầu năm 2012, tôi được
bổ nhiệm Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ Đài TNVN. Từ tháng 8 năm 2016 tôi về lại
chức danh Chánh Văn phòng Đài cho đến lúc nghỉ hưu, tháng 11 năm 2017.
Như vậy, tôi có tròn 30
năm công tác tại Đài TNVN và hân hạnh được
làm việc dưới trướng của các Tổng giám đốc, Trần Lâm, Phan Quang, Trần Mai Hạnh,
Vũ Văn Hiền, Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Thế Kỷ. Riêng Tổng giám đốc đương nhiệm Đỗ
Tiến Sỹ, tôi chỉ được tiếp xúc trong một số cuộc gặp mặt của lãnh đạo Đài TNVN
với các cán bộ nghỉ hưu nhân các dịp lễ tết.
Tập
sách “Gian truân nghề báo nghiệp văn” mà bạn đọc có trên tay là dầu
sách thứ 29 của tôi. Ở đây, tập hợp các bài viết về những người từng làm việc ở
Đài Tiếng nói Việt Nam qua các thời kỳ, ấy là các nhà báo có sản phẩm văn
chương và các nhà văn, nhà thơ thành danh sống bằng nghề báo. Về cương vị công
tác tại Đài, có người là lãnh đạo các cấp, có người là phóng viên, biên tập
viên bình thường. Mọi nhân vật trong cuốn sách này đều bình đẳng, nên thứ tự
các bài viết tôi xếp theo thông lệ A, B, C…
Sẽ có bạn đọc,
từng làm việc ở Đài hay bạn đọc bên ngoài đặt ra câu hỏi, tại sao lại là những
nhân vật này mà không phải là những người khác, thậm chí, người này đáng để viết
hơn người kia? … Xin thưa, với mấy ngàn con người từng làm việc ở Đài (VOV) thì
tác giả có cố gắng đến bao nhiêu để viết cũng không đặng. Hơn nữa, ở mức độ nào
đó cũng có sự chọn lựa, bởi để khắc họa chân dung ai đó thì tác giả phải có đủ
độ hiểu biết, đủ tư liệu về con người và tác phẩm của người được khắc họa và
quan trọng hơn, phải đủ cả độ thấm, độ thẩm để có thể chuyển hóa tư liệu thành
hồn cốt nhân vật,…
Với những lý
do đó, xin bạn đọc tạm bằng lòng cùng tác giả về những nhân vật có mặt trong cuốn
sách này. Hy vọng, khi có đủ điều kiện, thời gian tới, tác giả sẽ tiếp tục khắc
họa chân dung các nhân vật khác, những con người dưới bóng mái nhà chung Đài Tiếng
nói Việt Nam mà tác giả hằng kính trọng, yêu quý!...
Thêm nữa, tại
sao tít bài viết thay cho lời mở sách này lại là “Tôi & tôi”?
Xin thưa, danh
xưng Tôi đầu là cái tôi – tác giả cuốn sách, đồng thời cũng là người
dẫn chuyện trong từng bài viết của cuốn sách. Còn danh xưng tôi sau
là cái tôi – nhân vật, có nghĩa là tác giả là nhân vật của chính mình,
cùng tham gia vào câu chuyện của người được khắc họa trong mỗi bài viết.
Sau cùng, dù nỗ
lực thì vốn tư liệu và sự hiểu biết của tác giả cũng có hạn, nên ai đó cho rằng
còn chưa đầy đủ, khiếm khuyết này nọ, hoặc
có sơ suất gì, thì xin được lượng thứ. Tác giả luôn cầu thị và sẵn sàng tiếp
thu để chính sửa cho chuẩn chỉ.
Kính bút!
Bố bản Đặng Quang
Tình
Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo Đặng
Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.
Sở dĩ vậy, là
bởi, nhà báo Đặng Quang Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc
và từng là Trưởng ban Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được
thành lập. Hơn nữa, còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người
đã có nhiều năm sống và làm việc với người
dân tộc thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở
xứ ta am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam cả
lĩnh vực báo chí và văn chương. Bằng chứng, trong quá khứ, khi còn sung sức, Đặng
Quang Tình đã từng bốn lần đoạt giải cao trong các cuộc thi văn chương danh giá
ở xứ ta với ba lần ở thể loại truyện ngắn và một lần ở thể loại bút ký mà nội
dung các sáng tác này của ông đều về đề tài miền núi dân tộc thiểu số...
1.
Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,
Mặc dù cho đến
thời điểm hiện tại, Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội
viên của bất kỳ một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi
nghỉ hưu tại Đài Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người
cầm bút như ông, đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội
Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chẳng hạn. Nghe nói, lâu lắm rồi,
Đặng Quang Tình từng có đơn gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam và hiện hồ sơ công
tác hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ lý lịch trích ngang của
ông. Song hằng năm, mỗi đợt kết nạp, người ta dường như đã quên tên ông thì phải?...
Đặng Quang
Tình không hài lòng về việc này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay
tiếng bấc tiếng chì trách cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực,
viết được gì thì viết thôi. Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có
duy nhất một tập truyện ngắn là Hoa rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và một số truyện ngắn, bút ký in trong các
tuyển tập của một số nhà xuất bản Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao
động và Hà Nội... cùng những sáng tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người
Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh v.v...
Sau khi nghỉ
hưu, Đặng Quang Tình cho xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn
trở (Nxb Lao động, 2001), và
rồi bất ngờ ông tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các
tiểu thuyết Hướng về Đông (Nxb Lao
Đông 2009). Những cánh chim bạt gió (Nxb
Hội Nhà văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động 2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết
còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng
ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có
trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và
bút pháp văn phong một nhà văn đã được
khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải,
đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có, những
đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác phẩm, thì
quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của ông lại khá
đậm nét...
Cuộc thi truyện
ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975),
là cuộc thi viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,
vậy mà Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó
xảy ra cuộc chiến trang biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, Đặng
Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc
thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước
ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật là người
Mông, người sống ở vùng rùng núi nước ta. Dù trong thời kỳ nào, làm cách mạng,
kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế, chống giặc
là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và người các
dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh vững vàng,
hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước. Ở mảng đề
tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở trường của
mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính
cối” giành giải Ba cuộc thi truyện
ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(1983).
Có thể nói, ở
thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về
dân tộc và miền núi, Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và
là một tên tuổi không thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được
nhiều thành công ở mảng văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống,
sự hiểu biết sâu rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi
phía Bắc dù ở quân ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm
lý và phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải
rất yêu con người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách
chân thực và lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến
một thuận lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.
Ông quê Vụ Bản, Nam Định, nhưng gia
đình ông sống ở Lào, ông được sinh năm 1934 tại Viên-chăn. Khi về nước, ông
tham gia quân đội, nhiều năm sống ở vùng miền núi phía Bắc. Chuyển nghề làm
báo, ông có nhiều năm là phóng viên của Đài phát thanh Tây Bắc (khi đó thuộc khu tự trị Thái Mèo) đóng
tại Sơn La. Khi đài phát thanh này được sáp nhập vào Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV) thì Đặng Quang Tình tiếp tục theo dõi và quản lý màng nội dung về miền
núi, dân tộc thiểu. Việc am tường về một mảng nội dung, cộng thêm sự sâu sát địa
bàn, chất nhanh nhậy của một người làm báo, không những giúp cho ông làm tốt
công tác quản lý, biên tập mà thêm lần nữa, làm nên thành công trong sáng tác
văn học. Nhà văn Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhì cuộc thi viết ký do Hội Nhà
báo và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức năm 1995 với bút ký Ba lần lên Sa Dung, thêm phần khẳng định
sự sát giải (cứ dự thi là đoạt giải)
của ông).
Thời còn công
tác, Đặng Quang Tình viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và
mãi nhiều năm sau, khi đã về nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của
mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001).
Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm, ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu
sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông
(NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt
gió (NXB Hội Nhà văn, 2011) và Âm thầm
(NXB Lao Động, 2015), và tập truyện Một
thời giông bão (NXB Hội Nhà văn, 2010).
Ào ạt với một
sê-ri tiểu thuyết như vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu
không muốn nói là lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều
này, có vài ba lý do...
Trước hết, tự
thân, sáng tác các tiểu thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một
nhu cầu giải tỏa bản thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn
có. Sự thôi thúc viết ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà
như thể, nếu ngần ngại hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt
trên đời... Càm giác ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống,
đã trải qua, từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư
liệu mình có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân,
không giới thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra
cho mình,...
Góc độ khách
quan, thời kỳ này, đã có sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng
tác văn học nước nhà. Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã
tác động mạnh đến thị trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu
đọc sách của công chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học
công nghệ, văn hóa nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át
sách văn học. Và riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được
tái bản tràn lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật
không dễ, vì ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các
chiêu trò PR này nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng
Quang Tình bị lút chìm là đương nhiên.
Còn một lý do
nữa, theo tôi, sở trường của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông
chặt chẽ, dồn nén trong việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình
và ngôn ngữ hội thoại sắc sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được
sang tiểu thuyết,...
2. Đặng Quang Tình, nhà báo – bố bản,
Tháng 10 năm
1987, tôi cầm quyết định về làm biên tập
viên của Ban Thính giả Đài Tiếng
nói Việt Nam (VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không
lâu, ban biên tập Thính giả được
thành lập vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời
điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào
thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc
đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dân và Đài Tiếng
nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu
này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp nước,
qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu, khiếu
nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công dân
hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự hiểu
biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống bức
thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy thỏa
mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ nổi
nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp thính
giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích là sẽ chuyển nội dung
đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu không
được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều năm
làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban luôn
nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời ăn tiếng
nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một tuần nên
thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn định
trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên Trưởng
ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác. Ấy là
trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ thể đưa
vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả lời công
văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thế, hiệu quá công việc khá cao. Tôi không thể nhớ
nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải quyết bằng cách này trong những
tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo
nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy
năm, rồi được xem xét lại. và được thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ
thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn
gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau,
khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo
tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm
báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ
hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình
bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.
Sau một thời
gian ở Ban Thính giả, một ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được
điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết
và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng
ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc nghỉ hưu. Từ ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản, thì người nhà Đài hẩu như ai
cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.
3. Chuyện vào Hội Nhà văn.
Nhà văn Đặng
Quang Tình có đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam từ thời ông còn làm việc và nổi
danh làng văn ta với mấy giải thưởng liên tiếp về truyện ngắn. Nhưng không hiểu
sao, danh sách hội viên được kết nạp vào Hội hàng năm không có tên ông. Mỗi khi
có ai đó nói với ông về chuyện này, ông đều cười bảo “Nếu không là hội viên mà không viết được văn thì tớ mới buồn... chứ
không là hội viên mà tớ vẫn viết đều thì có gì mà buồn...”. Nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, trong lòng, ít
nhiều vẫn gợn lên những suy nghĩ .... Là tôi cứ nghĩ thế, bởi cái tâm trạng “cuời như thầy khóa hỏng thi” vốn thâm
căn trong con người ta, nhất là các quốc gia châu Á có bề dày khoa bảng như
Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và xứ Việt mình,... Miếng giữa làng kia mà!...
Khi nhà văn Đặng
Quang Tình nghỉ hưu, chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng,
mùa kết nạp hội viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem
ông có vào Hội hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn
kia, rằng cái tay ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt
này.... Vậy đấy!...
Lâu rồi không
ai nhắc đến ông nữa, xem như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi
chẳng mấy ai nhớ đến ông thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam!...
Số là, cách
đây dăm bảy năm, khi nhà thơ Trần Đăng Khoa tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy
Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam,
đôi ba lần trong câu chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn
tên Đặng Quang Tình với nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công
tác lâu năm ở Đài này, xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần
Đăng Khoa gật gù công nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên
(2017, 2018), ông có nhắc đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên,
trong cuộc họp của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng
Khoa còn nhắc đến các trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Trần Ngọc Thụ, nhà
thơ Nguyễn Huy Dung (cùng người nhà Đài), đã mất, mà đáng ra họ xứng đáng được
kết nạp vào Hội khi còn sống...
Có lẽ vậy, mùa
kết nạp năm 2019, nhà văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công
nhận là hội viên của Hội bằng quyết định số...
nhưng nhầm tưởng ông đã mất.
Cuối năm 2020,
Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại
hội, có tập NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà
văn Đăng Quang Tình, khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm
tưởng ông đã mất. Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết
đâu đấy, nếu biết chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...
Một hôm ông gọi điện cho tôi với tâm trạng vui
vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để làm gì, nhưng thế cũng là sự
ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời mình, cậu ạ”. Rồi ông nói
về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất khi công nhận ông là hội viên
Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến
trăm tuổi!...”
Nhưng rồi ông cũng rời cõi tạm trước
ngưỡng cửa chin mươi ./.
ĐẢO CHÌM CỦA TRẦN
ĐĂNG KHOA
CHUYỆN NGOÀI TRUYỆN
I. Những nhân vật của tiểu
thuyết Đảo Chìm ngoài đời.
Những
chuyện tôi kể sau đây, bắt đầu từ chuyện trên một trang mạng xã hội, Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net) vào đầu năm 2011.
Khi ấy, tôi (Nguyễn Chu Nhạc, tác giả bài viết này) lập
trang cá nhân trên BlogTiếng Việt có
tên Ngẫm
& Viết. Bài đăng đều đều với phần cảm nhận (comment) của nhiều cư
dân mạng. Chẳng có gì đáng nói, đến một ngày (27/2/2011), tôi đăng bài nói về một
bài thơ ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa thời học trò có tên “Sắp
mưa” theo thể Đường luật, thất
ngôn bát cú. Người cảm nhận đông lắm, khen chê đủ kiểu, trong đó có ý kiến khía
vào chuyện bài thơ này luật bằng trắc chưa thật chỉnh. Ý chê là đúng. Trong rất
nhiều ý kiến ấy, tôi thực sự chú ý đến Bạn đọc (chỉ người không phải là blogger, tức là không lập trang cá nhân với tư
cách là bloger) có tên Trần Trọng
Trí. Xin trích nguyên văn: “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]
Thật bất ngờ
và vui. Bởi từ ý kiến bày tỏ quan điểm về thi ca rất chi là hiện đại và tiến bộ,
Trần Trọng Trí còn cho biết ông từng công tác, có mối quen biết cũ với nhà thơ
Trần Đăng Khoa, đặc biệt là thơ ứng tác của Khoa đầy thú vị. Tôi khoe ông rằng
nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có trang cá nhân trên Blog này, có tên Lão
Khoa, ông có thể vào đọc, tha hồ nhắn nhe nhau, đồng thời tôi cũng mách
với Trần Đăng Khoa về chuyện thuyền Trường Trần Trọng Trí nhắn gửi. Nhà thơ nhớ ngay người quen cũ, lập tức trả lời:
“Bình luận từ: Trần
Đăng Khoa [Bạn đọc]
Từ bất ngờ này
dẫn đến bất ngờ khác, một cựu lính hải quân, cấp dưới của thuyền trưởng Trần Trọng
Trí đã nhận ra thủ trưởng cũ của mình: “Bình luận từ:
Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc]
Điều thú vị nữa,
trong phần cảm nhận của bài viết này, nhiều bậc văn-thi sĩ, nhà phê bình văn học
và các bậc cao nhân đều vào bàn góp, nhất là kể những giai thoại về tài ứng tác
của nhà thơ Trần Đăng Khoa như Nhật Tuấn, Vu Gia, Đỗ Hoàng, Vũ Cao Đàm,... và
có cả những bạn thơ văn thuở thiếu thời của Trần Đăng Khoa là Chu Hống Quý,
Nguyễn Việt An cũng nhảy vào đàm luận....
Thấp thoáng
bóng dáng vài ba nhân vật của tiểu tuyết Đảo Chìm, thuyền trưởng Trần Trọng
Trí, lính thủy Nguyễn Văn Tròn và còn nữa...
Lẽ dĩ nhiên, tướng Giáp Văn Cương, vị Tư lệnh binh chủng Hải Quân, một
nhân vật trung tâm, ông là người tên tuổi nổi tiếng, nhưng tôi không nhắc ở bài
viết này, bởi trong tiểu thuyết Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa đã dành cả
chương để khắc họa chân dung ông, vả lại ông đã khuất bóng lâu rồi nên hãy để
ông yên giấc ngàn thu cùng những huyền thoại xung quanh mình. Ở đây, tôi muốn
dành để nói về các nguyên mẫu khác mà nhiều người còn chưa biết họ ngoài đời.
Tôi thấy, cũng cần có đôi lời thưa cùng quý bạn đọc, những phần trích từ các
nguyên mẫu nhân vật được tôi dẫn trong bài viết này, có thể làm ai đó không hài
lòng bởi ngôn từ họ dùng để giao lưu với nhau là thứ ngôn từ đời thường, ít nhiều
chất bụi bặm lính tráng, song chúng chân thực đến xót xa và tươi rói sắc màu cuộc
sống, nên tôi tôn trọng giữ nguyên... Những mong được bạn đọc thứ lỗi.
Và những câu
chuyện ngoài truyện của Đảo Chìm bắt đầu từ đây,...
II. Đảo Chìm, chuyện ngoài truyện.
Câu chuyện của
thuyền trường Tàu HQ 05 Trường Sa, Trần Trọng Trí và những người lính thuộc cấp
của mình một thời còn tiếp diễn. Song trước khi nói về tiểu thuyết ĐẢO CHÌM của
nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng những chuyện ngoài truyện, tôi muốn kể thêm về vị
thuyền trưởng tàu HQ 05, Trần Trọng Trí và những người lính ngày ấy của ông (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v...), bởi
đó là những nguyên mẫu mà nhà thơ Trần Đăng Khoa dựng thành các nhân vật chính
trong cuốn sách của mình: Chính trị viên Thuận, Tư Xồm... Âu cũng là cách để bạn
đọc biết thêm về các chuyện thực ngoài dời của các nhân vật tiểu thuyết, mà cụ
thể ở đây là xứ ĐẢO CHÌM.
Vẫn trong phần ghi cảm nhận bài viết
của tôi về thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa, một người lính hải quân khác xuất hiện
khi anh chàng này được bạn mình-cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn mách bảo: “Bình luận
từ: LÊ VĂN KHÁNH [Bạn đọc]
Chưa hết,
trong các cảm nhận vào bài viết của tôi, thầy trò Trí-Tròn còn đối đáp nhau nhiều: Bình luận
từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]
“Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc]
Trong cảm nhận này, Nguyễn Văn Tròn
có nhắc đến một chuyện, ấy là cựu thuyền trưởng, đại ta Trần Trọng Trí xuýt được
phong Anh hùng (danh hiệu AHLLVT). Về điều này, tôi tìm hiểu, được biết, khi
xem xét hồ sơ để phong tặng danh hiệu cho Trần Trọng Trí thì có vấn đề về lí lịch
nhân thân (nghe nói, ông vướng thành phần
gia đình đia chủ trong CCRĐ, lại dính
thêm chuyện mê tín dị đoan vì ông cụ thân sinh biết nghề thày cúng nên thi thoảng
làng xóm có việc nhờ cúng giùm). Chẳng rõ hư thực ra sao?
Hồn thơ lính trong cõi lòng vị cựu
thuyền trường Trường Sa ngày nào như sống dây, khi tôi đăng bài thơ Xuân mưa.
“Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]
Sau những ngày
đầu đầy xúc động, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã kiềm chế cảm xúc của
mình, tỏ ra điềm tĩnh, sâu lắng, thì chàng cựu lính Nguyễn Văn Tròn vẫn tràn đầy
năng lượng, như phát rồ, bắn liên thanh bằng những cảm nhận gây xốc: ”Bình
luận từ: Nguyễn văn Tròn [Bạn đọc]
Hình như, cảm
thấy ngại khi dùng ngôn ngữ đầy chất lính tráng, anh chàng Nguyễn Văn Tròn có vẻ
khách khí. Tôi bèn thưa lại vì thực lòng muốn mọi người cứ tự nhiên như cũ: “Bình
luận từ: nguyenchunhac [Blogger]
Rất vui được hầu trà thuốc điếu đóm, cả rượu thịt chó nữa, để bồi tiếp mọi người.
Kính”.
Việc giao lưu ảo
trên mạng xã hội, nhất là khi vào trang cá nhân của tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Trần
Đăng Khoa, rồi gặp các lính cựu Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh.... khiến cựu
thuyền trưởng Trần Trọng Trí bị hấp dẫn đến nỗi không cưỡng nổi, cho đến một
hôm, ông thông báo với tôi và cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt: ”Bình luận từ:
Trần Trọng Trí [Bạn đọc]
Nhưng, khi còn chưa kịp chuyện Trường
Sa thì có một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa Trần Trọng Trí với nữ thi sĩ
Chử Thu Hằng và Nguyễn Việt An (một người
bạn học, bạn văn chương của Tôi và Trần Đăng Khoa từ thời học phổ thông, hiện
sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh). Tôi không đưa vào bài viết này, song về phần
mình, tôi nhận ra sự hóm hỉnh và thông minh, đầy tài hoa trong việc ứng biến
thơ của Trần Trọng Trí, nên nhắn ông: “nguyenchunhac [Blogger]
Quả thật, Trần Trọng Trí sắc lẻm như
dao cau, mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà,
tình yêu, tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và
trong người tồn dư tính láu cá nông dân… Ông là vậy, và những người lính biển
thuộc cấp của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng
từ ông, cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém (Nguyễn
Văn Tròn, Lê Văn Khánh,...).
Cho đến ngày 26/3/2011,
tôi đăng bài viết của mình có tên “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian
truyện” bàn về tiểu thuyết “Đảo Chìm” của nhà thơ của Trần Đăng
Khoa thì mọi chuyện mới thật xôm trò. Rất nhiều người vào đọc và bình luận. Xin
trích đăng một số cảm nhận để cùng tham khảo:
Bình luận từ: Người qua đường [Bạn đọc]
Bình luận từ: Chử Thu Hằng (nhà thơ) [Blogger]
Bình luận từ: Minh Tâm (PGS.TS,) [Bạn
đọc]
Bình luận từ: Khách [Bạn đọc]
Bình luận từ: Vũ Trọng Trường [Bạn đọc]
Còn nhiều lời
bình khác của bạn đọc, trong nước, Việt kiều định cứ ở nước ngoài, một số nhà
văn, nhà nghiên cứu văn học, nhân sĩ yêu nước bày tỏ sự quan tâm và ủng hộ chủ
quyền biển đảo Việt Nam.
Rồi PGS.TS
Minh Tâm còn dẫn dụ, giới thiệu một bài viết khác bình cuốn Đảo Chìm
(bài viết của nhà báo Nguyễn Lương Phán –
VOV) để mọi ngươi cùng tham khảo thêm: “Bình luận từ: PGS. TS Minh Tâm
[Bạn đọc]
Song có lẽ, cảm
nhận khiến tôi suy nghĩ nhất, chính là của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí,
nguyên mẫu của nhân vật chính trị viên Thuận trong tiểu thuyết Đảo
chìm: “Trần
Trọng Trí [Bạn đọc] 19.03.11@22:14
@ Nhà văn, nhà thơ Chu Nhạc. Bữa rày, ông Khoa đưa lại
cái Đảo Chìm lên, tôi đọc lại và ngơ
ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách
này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến một dòng,
cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng
bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với người khác
trùng tên mà viết nhạt toẹt... . Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nôi, có lên
thăm ông Nhạc ông Khoa. Con bé (nhưng cũng là gái xề rồi), là nguyên mẫu, mà
trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương, nó cứ trách sao chú ấy ghét
gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú Khoa. Bữa nay chỉ mong được chụp
ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc
với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan.
Sáng mai tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi
thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn
chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó
trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.
Đọc cảm nhận của
Trần Trọng Trí, tôi cứ thẫn thờ với một linh cảm mơ hồ... Lại càng không ngờ, đấy
có thể là những dòng cuối cùng ông để lại cho cộng đồng mạng Blog Tiếng
Việt, và cũng là những dòng cuối cùng của ông trên cõi đời này... Bặt
đi cả tháng trời, không thấy Trần Trọng Trí và các đàn em của ông (Tròn, Khánh) xuât hiện trên mạng. Tôi
nghĩ, chắc mấy thấy trò gặp nhau, mảng vui sau bao ngày xa cách, nên có ý chờ đợi
những câu chuyện của họ sau chuyến đi đầy vui thú này. Song không hiểu sao, sự
vắng bóng của họ cứ khiến tôi phấp phỏng chẳng yên, và mơ hồ cảm thấy một điều
gì đó không hay?...
Quả nhiên, thật
đột ngột, một buổi vào mạng Blog Tiếng Việt, tôi sững sờ không
tin vào mắt mình khi đọc mấy dòng cảm nhận của người con gái ông, nguyên mẫu của
Mộng Tương tiểu thư trong tiểu thuyết Đảo Chìm: “Bình luận từ: Trần Thu
Hà [Bạn đọc]
Cả mạng Blog
Tiếng Việt xôn xao, mọi người vào cảm nhận, bày tỏ sự thương tiếc
ông và chia buồn với Trần Thu Hà cùng
gia đình ông. Tôi chỉ trích ra đây vài ba cảm nhận...: “Trần Đăng Khoa [Bạn đọc]
Chú thực sự sửng sốt trước tin của bố cháu và chú Tròn, anh chàng Tư Xồm của
chú. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có
một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn
hay qua Xóm Lá và có những cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất
vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm lá sinh
động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc
cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một
chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị. Vậy mà
ai ngờ... Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau
thương này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn
được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với
cháu và gia đình”.
Còn đây là
cảm nhận của tôi: “nguyenchunhac [Bạn đọc] http://blogtiengviet.net/nguyenchunhac 24.04.11@07:23@ Trần
Thu Hà/Trước hết, cho chú được chia buồn cùng cháu và gia đình, cùng bên gia
đình chú Tròn. Chú rất đột ngột khi biêt tin này. Nhớ cách đây chừng hơn tháng.
Bố cháu có tin cho chú là lên Hà Nội và vào thăm VOV nhưng chú lại đi công tác
và chú Khoa cũng không đến cơ quan (vì ngày nghỉ). Bố cháu còn thông báo là đi
Lào với Tròn chơi rồi về dọn nhà lên Yên Bái ở với gia đình nhà cháu. Vậy
mà,... Chú và chú Khoa, và cả làng blog Tiếng Việt này, sẽ rất buồn vì bố cháu
đã ra đi đột ngột. Mọi người sẽ không quên những dòng cảm nhận, những bài thơ
sâu sắc và vui của bố cháu. Đối với Tròn cũng vậy. Có lẽ, chỉ có một an ủi duy
nhất, bố cháu và chú Tròn, họ đã sống bên nhau những ngày gian khó ở Trường Sa,
bây giờ họ lại đi cùng nhau. Có lẽ, họ luôn cần nhau, cháu ạ... Hà có thể cho
chú hoặc chú Khoa biết điện thoại liên hệ, để khi có điều kiện, chú và chú Khoa
cùng mọi người đến thắp cho bố cháu nén hương tưởng nhớ...”.
Ngày 25/4/2011, tôi viết bài viết “Tưởng
nhớ thuyền trưởng Trần Trọng Trí” trên trang cá nhân của mình. Hầu hết
bạn bè trong Blog Tiếng Việt đều ghi cảm nhận, thương tiếc ông và
người lính của ông, cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn (Tròn Lùn), nhân vật Tư Xồm
trong Đảo Chìm. Xin trích vài cảm nhận: Nhà thơ Bùi Thị Binh Bình
luận từ: buithibinh [Blogger]
Ai những tưởng, gặp nhau ngoài đời
nào có khó gì đâu, khi đã giao lưu mạng ảo,
khi biết địa chỉ và cách nhau cũng không xa. Song không, như người đời vẫn bảo
“vạn sự tùy duyên” hẳn không sai, trời
không cho duyên gặp thì tưởng gặp nhau trong gang tấc, hóa vẫn không. Bằng chứng,
Trần Trọng Trí đã hai lần đến cơ quan chúng tôi (Đài Tiếng nói Việt Nam), ở
đây, ông gặp người này người nọ, nhưng cả hai lần, những người ông muốn gặp (Trần Đăng Khoa và tôi) thì cả hai chúng
tôi đều công tác vắng. Kể cả vậy, ông vẫn tự tin là gặp nhau không khó, định bụng
sau chuyến ông vào Quảng Bình thăm Tròn Lùn và các đồng đội khác và sang Lào
chơi, thì ông Giời lại bắt ông đi luôn một mach, đi mãi sang thế giới khác....
Cái “những tưởng” ấy cũng có trong suy nghĩ của nhà văn Trần Hồng Giang,
một người phải ngồi xe lăn, đi lại khó khăn, người cùng sống ở quê Nghĩa Hưng (
Cả tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều
nhắn trên trang của mình ở mạng Blog Tiếng Việt, mong một ngày
nào đó Trần Thu Hà, cô con gái rượu của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đọc được,
để lại lời nhắn, hay số điện thoại liên lạc, hay địa chỉ nhà cô để chúng tôi có
manh mối tìm gặp. Song không, cho đến nay đã hơn chục năm trôi qua, hai chúng
tôi vẫn không biết Trần Thu Hà hiện ở đâu. Chỉ có chút manh mối, ấy là trước
khi đi Quảng Bình và Lào cùng Nguyễn Văn Tròn, Trần Trọng Trí đã hé lộ chút ít,
ấy là dự dịnh của vợ chồng ông sẽ thu dọn rời Nghĩa Hưng lên Yên Bái sống chung
với cô con gái rượu của họ. Thế nhưng, Yên Bái rộng bao la, ở đâu cụ thể nào ai
biết. Hay chăng, thử về thị trấn Liễu Đề (Nghĩa
Hưng, Nam Đinh) hỏi dò dân ở đấy xem gia đình ông, vị đại tá, cựu thuyền
trưởng tàu HQ 05 Trưởng Sa, ông thợ cắt tóc phố huyện, còn sống ở đấy, hay đã
chuyển đi đâu, có lên Yên bái không và cụ thể địa chỉ nhà, số điện thoại liên lạc?...
May ra, hy vọng. Song thú thực, việc này thì giờ này chúng tôi vẫn chưa làm được,...
Thật có lỗi với ông.
Có nhiều đồ đoán về nguyên nhân vụ
tai nạn ô tô của họ khi Tròn Lùn tự lái xe của mình đưa thủ trưởng cũ qua Lào
sang Thái Lan chơi. Song cá nhân, tôi đã
từng ngồi xe hơi đi trên đất Thái Lan nên biết luật giao thông của họ giống kiểu
Anh, Hồng-kông, Nhật bản, khác phần lớn các quốc gia khác là ngược lại, đi trái
về phải, do đó người lá xe tay lái thuận, nếu không quen sẽ nhãng quên lao sang
làn đường ngược chiều. Đấy là suy luận vậy thôi. Có một sự thật, mạng Blog
Tiếng Việt sau khi họ vắng bóng thì kém sôi động, trầm lắng hẳn đi, và
mấy năm sau, do trục trặc kỹ thuật, nền
tảng lưu trữ kém, các bloger bị mất bài, rời bỏ đi nơi khác. Blog Tiếng
Việt vắng như chùa Bà Đanh. Giờ nền tảng kỹ thuật mạng này có khá lên,
song không khí thì vắng lặng. Thời vàng son đã qua, khó bề cứu vãn. May mắn
thay, phần bài viết và những cảm nhận liên quan đến cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí và cánh lính của ông vẫn còn, để giờ đây tôi có thể tra cứu, trích dẫn, lưu
giữ,...
Những gì họ để lại trên trang blog của
tôi, thì đã trích nêu trong phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang
cá nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là còn nhiều, nhưng trong cuốn sách Đảo
Chìm - Trường Sa của
mình, nhà thơ chỉ trích chút ít. Tôi cũng trích lại đây cảm nhận (comment) của Trần Trọng Trí, xem như cái
cớ đề bàn thêm về ông và các đồng đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai lỳ. Tôi hay
vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay đọc lại cuốn
sách về Trường Sa, tôi đã khóc. Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần
Thị Thu Hà mà ông Khoa gọi là Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm
đó), có hai con gái. Cháu ngoại tôi đã học
lớp 12, cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó không biết đấy là
chuyện bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này mà không biết tìm ở
đâu. Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải mở máy tính. Tôi
lên Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên trang của nhà văn
Xuân Đức... Tôi sẽ đến thăm ông Nhạc (Nguyễn
Chu Nhạc-Đài Tiếng nói Việt nam), ông
Khoa. Lâu rồi, không gặp”...
Tâm thế trong cảm nhận này của Trần
Trọng Trí, thực ra, cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của
tôi, khác chăng ở một vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại
các cảm nhận của Trần Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng
mị, sa lầy trong mớ hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc
của mọi người, đặc biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế
bào thần kinh trong con người vị đại tá (lương
tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một thời, đã về vườn, trong vai
ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những ẩn ức một thời bùng phát,
tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ thôi. Trần Trọng Trí như
người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra, hay đúng hơn là không muốn
thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí ông...
Tôi xin lỗi đã kể hơi dài về Thuyền
trưởng Trí, bởi ông là một nhân vật chính của cuốn Đảo chìm, chúng
ta cũng nên biết kỹ về ông ở ngoài đời thực. Sở dĩ, ngày ấy, Thày trò
Trí -Tròn nổi bật như nhân vật trung tâm của mạng xã hội Blog Tiếng Việt,
là bởi họ gắn với một chủ đề nóng bỏng, ấy là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển
đảo của Việt
Ta cùng thử hình dung, Đảo
Chìm như một tác phẩm Sân khấu
thì sẽ thế nào nhỉ?
Song trước khi nhìn tiểu thuyết Đảo
Chìm như một Sân khấu lớn, xin trở lại với không gian tiểu thuyết mà tôi đã nhận thức và nêu ra trong bài viết
có tên Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ở đó, tôi phát
hiện sự tài tình của tác giả trong việc tạo dựng nên ba không gian đồng thời để
kể câu chuyện của mình. Ấy là không gian
hữu hạn. bao gồm “cái lều bạt” chung chiêng trên thềm san hô, là con tàu
loanh quanh trong khu vực của mình, được xem là hòn đảo nổi; ấy còn là không gian vô hạn với mênh mông trời nước,
lúc hiền dịu mộng mơ, lúc lặng thinh bí hiểm, lúc cuồng điên dữ dội đầy bất trắc;
và nữa, một không gian tâm tưởng chỉ
tồn tại trong ý nghĩ của mỗi nhân vật. Ba không gian ấy khi tách bạch, khi xâm
lấn nhau, khi đồng dạng phối cảnh,... Và trong bối cảnh như vậy, tất thảy nhân
vật, con người (từ chàng lính quèn đến vị
Tư lệnh), con vật (chim biển, cá mập,
con lợn), vật dụng (lều bạt, tư trang
quần áo, cuốc xẻng, lưới câu, vũ khi, con tàu...) đều sống động, có hồn,
suy nghĩ, hành xử theo logic của mình.... Chính nhờ tạo dựng một không gian nghệ
thuật như vậy nên mọi ý nghĩ, hành động, tính cách nhân vật, tình huống, tình
tiết truyện (có khi phi lý) đều chấp
nhận được và trở nên có lý có tình,... Một sự hỗn mang như mê sảng. Chim biển,
cá mập thì như người, như ma quái, con lợn cũng như người, lại như yêu tinh;
còn con người thì “nhanh chóng mất hơi
người”, có lúc như chim, như cá, lại có khi như lợn, như người nguyên thủy (nhân vật Hai Ùm hay cởi truồng)... và
có khi chỉ là “một chiếc linh hồn nhỏ”
(phần kết, Hai Ùm chết, hồn như nhập vào
một con chim biển khổng lồ, dáng gù gù trong lều bạt, khiến đồng đội vừa mừng vừa
sợ tưởng anh sống lại).... Và cũng chính việc tạo dựng nên một không gian
nghệ thuật như vậy, mà tác phẩm Đảo Chìm không giống hiện sinh kiều
phương Tây, cũng chẳng “hiện thực huyền ảo”
kiểu Mỹ-la-tinh, mà nó là hiện thực lãng mạn pha chút “Liêu trai” phương Đông...
Còn về ngôn ngữ tiểu thuyết Đảo
Chìm. Nếu tác giả tài tình bao nhiêu trong tạo dựng không gian truyện
thì tài tình và điêu luyện bấy nhiêu trong ngôn ngữ kể chuyện. Là nhà thơ, tác
giả Trần Đăng Khoa đã dùng thế mạnh của mình, ngôn ngữ thơ, để kể chuyện và khắc
họa nhân vật. Mỗi chương của tiểu thuyết như một bài thơ văn xuôi vậy. Có thể
thấy, tác giả rất kiệm lời, chắt lọc đến từng chữ một. Cảm giác chung, cả tiểu
thuyết, không có câu độn từ thừa. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, gây ấn tượng
và rất gợi,... Ví như, cảnh hoàng hôn trên đảo:“Chiều xuống dần. Mặt trời đã chìm khuất sau một bầu nước rùng rùng tím
ngắt. Nhưng những đám mây vẫn còn bắt nắng, đi lững thững trên đầu, rừng rực
như những đám cháy lớn. Bầy chim biển đi kiếm ăn về. Chúng kêu toang toác quanh
lều Tiếng kêu hoang vu và tanh lợm mùi
cá...” (chương III-Chim biển); Hay đêm trăng lên biển đảo:”Sương xuống tê tê. Phía sau lều bạt, biển bục
lên một đám cháy lớn. Trăng đang mọc. Vài con ó biển giật mình, tiếng kêu oang
oác trên thinh không mông lung mờ mịt.” (chương VII-Cô tiên trên đảo); Và
đây, một sự kiện đặc biệt, lợn đẻ trên đảo: “Hàng chục ngọn đuốc rần rật bùng lên. Lửa réo ù ù trong gió biển. Con
tàu túc tắc được nhổ neo, lượn ba vòng xung quanh Đảo Chìm. Sau đuôi tàu, biển
rực lên một vùng lân tinh sáng chóa. Trong đêm, nom nó quái dị và kỳ vĩ như một
dải Ngân hà đang cháy.” (chương IX-Tiếng còi tàu đột ngột); Đây nữa, biển đảo
sau bão tố: “Vùng đảo hoang lanh một màu
khai thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền
trời xám đục những rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá voi khổng
lồ đã bị rỉa hết thịt.” (chương XV-Biển mặn)..v.v... Còn nhiều nữa những đoạn
văn giàu chất thơ, gây ấn tượng mạnh và đấy sức gợi như vậy. Tôi trích ra đây để
phần nào minh chứng cho ngôn ngữ đặc sắc của tiểu thuyết Đảo Chìm,...
Giờ thì ta cùng nhìn nhận Đào
Chìm ở phương diện sân khấu với các màn chính kịch, màn phụ theo lớp lang của nó. Dĩ nhiên, người chính
trị viên tên Thuận, các thủy thủ tên gọi Hai Ùm, Tư Xồm cùng các đồng ngũ của
mình trên con tàu HQ và trên đảo, thêm vị Tư lênh binh chủng nữa, đều là những
nhân vật chính. Tác giả cuốn sách, nhà
thơ Trần Đăng Khoa là người dẫn chuyện. Vậy là đủ vai? Không. Còn thiếu một
vai, ấy là vai Hề, con lợn An-ta-ra-mê-na. Chớ quên, chỉ là vai phụ thôi, nhưng
vai diễn này vô cùng quan trọng
Thiết nghĩ, hãy khoan bàn về con lợn
An-ta-ra-mê-na với tư cách vai Hề, trước hết, xem vai trò của Hề trong sân khấu
truyền thống ra sao? Với góc nhìn từ vai Hề ở sân khấu chèo (có thể mở rộng cho vai Hề trên sân khấu truyền
thống nói chung), nói đến vai Hề, người
ta thường nghĩ đến một nhân vật luôn mang lại tiếng cười cho người xem. Dù chỉ
là một vai diễn mang tính chất phụ họa cho những lớp bối cảnh chính, nhưng
không thể phủ nhận tầm quan trọng và đặc biệt là cái hồn của vai diễn, bởi
trong tiếng cười chính là sự sâu lắng, phản ánh rõ nét nhất cuộc sống qua tạo
hình đặc biệt của một vai diễn trên sân khấu.
Khái niệm là vậy, giờ ta thử lấy lăng
kính Hề sân khấu soi chiếu vào con lợn An-ta-ra-mê-na trong Đảo
Chìm xem sao? Con lợn tinh ranh, bắng nhắng, hay làm trò cho lính cười.
Ả ta (lợn cái) được mọi người quan tâm, cho diện váy áo mớ ba mớ bảy lòe loẹt
trong khi các chàng lính mình thì trần như nhộng đóng mỗi chiếc quần cộc, thậm
chí chẳng mặc gì; đến thứ quý nhất là nước ngọt thì tiêu chuẩn hàng ngày của ả
ta cũng gấp đôi của lính. Bi hài nhất, là mỗi khi đến chu kỳ động dục, ả ta
tăng động, ngoe nguẩy chìa bộ phận giống cái ướt nhẹp đỏ hỏn của mình vào mặt
đám lính thủy... Chẳng thế mà, từng có một nữ nhà văn tầm cỡ, trong một lần mạn
đàm với nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ ý định táo bạo, rằng nếu cô ấy là tác
giả thì sẽ đảy chi tiết này đến tận cùng (nghĩa
là cho đám lính thủy trong cơn khát thèm đàn bà lâu ngày, không kiềm chế nổi bản
thể, làm cái chuyện đực cái với nàng lợn An-ta-ra-mê-na). Tất nhiên nhà thơ
rất tỉnh táo, chẳng bao giờ nghe ai đó “xui dại” như thế. Ông chỉ bảo, ý nghĩ của
người đời kinh thật.
Song quả thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa
ít nhiều cũng băn khoăn về số phần của vai Hề này, từng tự hỏi, mình có nên chỉnh
sửa đôi chút phần kết của tác phẩm Đảo Chìm, khi có độc giả bày tỏ thắc
mắc, rằng liệu tác giả có bỏ quên con lợn An-ta-na-mê-ra hay không, mà cuối
truyện chẳng thấy nó đâu,... Vậy thì nó biến đi đâu mất, số phận nó ra sao sau
cái chết của Hai Ùm?
Tôi nghĩ, bạn đọc đòi hỏi không sai,
song cũng không cần phải giải quyết chi cả, bởi nó là vai Hề cơ mà. Hề chỉ là
vai phụ, Hề xuất hiện để kết nối và sâu chuỗi các phần chính kịch với nhau
thành một chỉnh thể lo-gic, xét về cấu trúc; còn về biểu hiện thì sự ra mắt của
Hề là để làm trò, gây cười, dù là cười vui vẻ sảng khoái, cười chảy nước mắt,
hay cười để nuốt nỗi buồn đau vào tận đáy lòng,...và hơn nữa, thâm chí để nói
những điều mà tác giả không thể nói được trong vai trò người dẫn chuyện, mà
cũng không thể gửi gắm vào các nhân vật chính kịch. Hoàn thành các việc này, là
Hề tròn vai, hết chuyện, cần chi đẩy số
phận vai phụ đến tận cùng. Lẽ di nhiên, trong câu chuyện và văn cảnh cụ thể, Hề
ta có số phận thì cũng hay.
Ở đây, còn bởi, cái kết của tác phẩm Đảo
Chìm rất đắt, rất đắc địa rồi, đó là cái chết của nhân vật Hai Ùm, ám ảnh
và lay động tâm can, lay động trời biển. Chẳng ai có thể quên nổi, hình ảnh con
chim biển khổng lồ đứng trước cửa lều bạt dáng gù gù hệt Hai Ùm vì như hồn
chàng lính thủy này nhập vào, khiến đồng đội vửa sợ vừa mừng tưởng anh sống lại
...
Một cái kết bi tráng, cô đọng, giàu
biểu đạt như đúc tượng vậy, thử hỏi còn có gì tuyệt hơn, cần chi mà phải bàn
thêm về số phận con lợn Hề cho dài dòng văn tư. Ta cùng đọc lại mấy dòng kết
này để thấm nỗi bi tráng: “Thế là lại
thêm một người lính nữa chết ở Đảo Chìm, người đó tại sao không phải tôi, mà lại
là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được thấy
cánh chim hải âu”. (Ở
đây, tôi xin được mở ngoặc, bởi đó là
chi tiết rất đắt. Hải Âu thường chỉ bay ở ven bờ, cách đất liền chừng hơn trăm
cây số. Ngoài đại dương không có Hải Âu. Vì thế với lính biển, Hải Âu là tín hiệu
báo đất liên. Và trước đó Trần Đăng Khoa cũng đã bàn về cái chết dữ dội của những
người lính biển. Dù chết vẫn không được yên. Dẫu chỉ còn một mảnh xương tàn thì
mảnh xương đó vẫn đêm ngày phải vật lộn với sóng gió. Cho nên, chi tiết ước gì
trước khi nước khép mặt Hai được nhìn thấy bóng chim Hải Âu, ấy là niềm ước vọng
mong manh có thể mảnh xương của mình sẽ được sóng đẩy vào đất liên). Bởi thế: “Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ lấy vai
tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt,
phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chất.
Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ
không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như máu...”.
Hàm súc, ấn tượng như một triết lý,
dư ba, mà gợi mở ra vô tận,...
Nhân đây, bạn đọc nên biết một bí mật
về ả lợn Hề An-ta-ra-mê-na này. Thực tế, ngày ấy, ngoài Trường Sa, đặc biệt là
Đảo Chìm, chẳng có một chú lợn nào cả. Tác giả, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã hư cấu,
tạo nên một ả lợn bắng nhắng vui nhộn làm trò cười cho lính, trên cơ sở một con
chó khoang có thật. Theo cánh lính Trường Sa commen kể lại, và theo dõi cuộc
trò chuyện trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt (đã trích ở phần trước) giữa nhà thơ Trần Đăng Khoa với cựu thuyền
trưởng Trần Trọng Trí (nguyên mẫu nhân vật
chính trị viên Thuận) cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, (nguyên mẫu Tư Xồm), Lê Văn Khánh, thì
lúc ấy ở đảo, họ có nuôi một con chó khoang được goi tên Ái Vân (cánh lính đảo thích lấy tên của
một nữ ca sĩ xinh đẹp nổi tiếng một thời đặt tên cho con chó của họ. Đây là sự
trân trọng yêu mến thực sự của cánh lính đảo, chứ không phải giễu cợt hay thóa
mạ), và rồi trong lần đón tiếp vị Tư lệnh binh chủng thị sát đảo, họ đã lấy
cớ thiết đãi ông rồi làm thịt. Và nếu như, chỉ có thế thôi thì quả là “chó chết hết chuyện”, nên nhà thơ đã rất
sáng tạo khi chế ra một ả lợn tên gọi
An-ta-ra-mê-na quyền năng như phù thủy, tinh ranh như yêu tinh, hoạt náo vui nhộn
như tên Hề sân khấu. Chó khôn và tình nghĩa là đương nhiên (“khuyển mã chi
tình”), nhưng lợn khôn mới khó và lạ chứ (người
đời vẫn quen bảo “ngu như lợn”mà). Ấy vậy, ả lợn An-ta-ra-mê-na này lại tinh khôn
đến bất ngờ, có cá tính hẳn hoi, và như thế nó xứng đáng là một “nhân vật đặc biệt”. Bí mật của vai Hề này là thế đó. Và theo tôi,
ả lơn này không những góp phần tạo bầu không khí sinh động cho câu chuyện của
những người lính biển, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng làm nên chất
uy-mua và bi tráng cho cả thiên truyện.
Có điều này, mỗi khi nghĩ về tiểu thuyết Đảo
Chìm của Trần Đăng Khoa, tôi lại nghĩ đến hai tiểu thuyết ngắn khác, đó
là “Ông già và biển cả” của Ernest
Hemingway và “Trên mảnh đất người đời”
của Anatoli Stepanovich Ivanov. Theo tôi, ba tiểu thuyết ngắn này ít nhiều có độ
tương đồng, về số lượng từ, về độ hàm súc của ngôn ngữ và tính biểu đạt hình tượng. Nếu như, ở “Ông già và biển cả” người ta thấy được sự cô đơn của con người giữa
thiên nhiên và dù con người có cố gắng đến mức nào cũng nhiều khi trở nên vô
nghĩa; Và ở “Trên mảnh đất người dời”
người ta nhận ra một chân lý khác, ấy là dù có bị vây hãm trong tình yêu, sự dượt
đuổi của người trả thù giấu mặt trong sự kinh hãi của kẻ chạy trốn, sự ghê tởm
và lòng hận thù tột độ thì đến một lúc nào đó lại có thể tha thứ và coi đấy là
cách trả thù còn kinh khủng hơn,... Về không gian tiểu thuyết, hai cuốn này đơn
tuyến, nặng về chất tự sự, giàu nội tâm...
Còn ở Đảo Chìm, không gian truyện
phức tạp hơn nhiều, dù lượng chữ rất mỏng, con người ta sống trong một trật tự
tưởng vô cùng nghiêm ngặt song lại như một thế giới tự do tự tại, nhưng ngặt
thay, là con người tự khép mình trong sự cố kết bởi ý thức trách nhiệm và niềm
tự hào vì một tương lai mù mịt vời vợi phía chân trời... Với nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng
của Đảo
Chìm mà tác giả đã lựa chọn, là rất thích hợp và độc đáo.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Lê Lựu,
một người rất khó tính về nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là thần bút.
Còn tôi thì coi đó là một kiệt tác...
ĐI TÌM THI PHÁP THƠ TRẦN
ĐĂNG KHOA
Thực ra, từ
hơn chục năm trước, tôi đã ý thức muốn tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần
Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên
Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc
sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và
sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất
thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định,
không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác
khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần
Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu
nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của
mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người đã trưởng thành,
dù ở lứa tuổi nhỏ, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại...
Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, cũng đều nhất
quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác...
Tôi cũng
đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ
mờ rằng thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau
lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay
tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng
sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông
về đọc kỹ hộ tôi, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào đấy và cho
tôi biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ?”.
Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng chưa nói lại với ông...
Cho đến một
lần, đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ khá dày. Khi ký
sách tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được
cho ông. Tôi nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự
một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi
nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội
trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn lôi ra đọc.
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến
Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi
còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng
nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ mồn một,
từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung, mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ
này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh
dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất.
Hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá
lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua...
Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa thuộc dạng thức quan hệ
sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian cho mỗi
bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học,
hầu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đều theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch,
hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng
cả hai cách trong một bài.
Ngay trong
bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực -
áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vàng/
bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/
em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả
thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con
bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy câu kết này, bài thơ chuyển
thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Nó là chuyện về con bướm đấy. Cũng là
chuyện về tuổi thơ. Tuổi thơ đến rồi đi. Có nhìn theo, đuổi theo, cũng không
níu được. Không vươn tới được. Nó là chuyện của Khoa, cũng là chuyện của tất cả
mọi người. Cái tuổi thơ thực đấy mà ảo đấy. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại
liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà
Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng
manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức cảnh
sinh tình mà làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/
rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất
tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa
rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đám dân
chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần thần thất
kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức, vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu
bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,... nhưng hai
câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm
thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô
tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ
bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình
thay, song người bình còn tài tình hơn.
Bài thơ Chiếc
ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần như cả bài thơ là
sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ vài câu thơ, mở
đầu “Chiếc ngõ nhỏ/ thở trong đêm/ ông
trăng lên/ cười trong lá”là động. Đấy là những câu thơ trực diện tả cái ngõ
cụ thể. Rồi sau đó là cả cuộc kháng chiến cứu nước đi qua cái ngõ nhỏ này. Người
vá đường, Người đẩy xe. Bộ đội hành quân. Xe tăng, xe kéo pháo. Cả nước lên đường
ra trận. và câu kết, rất bất ngờ: “Chiếc
ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, chỉ có cái ngõ ở lại. Hai câu kết, với 6 chữ rất mong
manh, mà nâng được cả bài thơ dậy.
Bài thơ Gà
con liếp nhiếp cũng theo phép thực-ảo. Ảo mà lại không ảo. Tác giả tả cảnh
đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời
mưa
phùn ướt cánh, ướt đầu…Đấy là điều hiển nhiên. Chả có gì đáng bàn. Thậm chí còn
có câu tự nhiên, thật thà dễ dãi theo kiểu nhà quê “Mưa mỗi lúc một to sau rồi đâm ra tạnh” Nếu chỉ vậy thì đơn thuần
là một bài văn tả cảnh thực, kiểu học trò, lũ gà mải bắt sâu đến quên rũ lông,
lại thêm một câu thật thà hiển nhiên: “Nhưng
nắng to chú vẫn khô đầu”. nhưng tài tình thay, tất cả những câu chữ hiển
nhiên để chuẩn bị cho câu kết: “Đôi mắt tròn trong như hai giọt nước/ hai giọt
nước không bao giờ khô được” thì bài
thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo diệu và rất bất ngờ, ám ảnh. Ám ảnh mà lại hồn
nhiên.
Bài thơ Chọc
ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thực - ảo, lại
hóm hỉnh mà cũng đầy bất ngờ: “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm
ran suốt cả buổi chiều/ Tiện mồm em cũng hát theo một bài.”
Hay như
bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã
thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương là bài thơ ông không thể nào viết lại được.
Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thực-ảo. Tác giả chỉ đặc tả trăng. Không tả
trực tiếp trăng như bài Trăng ơi từ
đâu đến. Mà lấy cây vườn, như chuối và cau, con vật như chim và sâu.
Cau cao, chuối thấp, tương tự chim trên cây, sâu dưới đất. Vẫn là chuyện cao và
thấp. Và cái sân là trung tâm. Không có người. Vậy mà thành vũ hội thiên nhiên.
Câu thơ đảo đi đảo lại, lặp đi lặp lại mà không trùng. Trăng lồng lộng ngự trị,
ôm trùm cả trời đất. Chỉ có là người ở nông thôn, thấm đẵm cảnh sắc văn hóa
thôn quê mới khắc họa được một bức tranh sinh động như vậy. Vừa thực vừa ảo. Vừa
động vừa tĩnh. Đúng là một bài thơ rất khó viết mà viết nhẹ nhàng như xoay quân
đomino. Rất tài tình!
Bài thơ Nửa
đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo.
Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không
có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe
tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi
uống sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”,
và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không
rõ/ xôn xao cả đất trời”. Đó là hai câu hay nhất trong bài. Trần Đăng Khoa
thường dụng công ở câu kết. Nó như chân đế, giá đỡ, có sức nâng cả bài thơ dậy.
Hay nữa,
bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là
quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu
trong bóng chiều , cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai
câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm nhỏ bé/ Biết bay về nơi
đâu?”...
Bài thơ Đêm
Côn Sơn, người ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”.
Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song
“Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu
ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại
trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...”.
Thực đấy mà vẫn như ảo. Câu thơ kéo xưa về thực tại, lại có không khí thời đại.
Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh,
thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh.
Bài thơ Đồng
chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời
chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt như là khói bay/ Đất trời cách một gang
mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh
vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau
lên rồi lan tỏa mênh mang, thực đấy mà ảo đấy. Đó là sự ảo diệu của đồng quê,
làng mạc!
Thêm nữa,
bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan lóng mốt,
làm nên một quang cảnh làng quê rất mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ Mây
hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ Trâu ai no cỏ
thả rông bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt
người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ Sương
buông cho đống hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/ Bâng khuâng nhớ
lúa đậu vào vai em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực thì câu tám ảo,
và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào.
Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường
ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế!...
Còn nhiều
lắm bài thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim
kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đến,
Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa
bưởi ...v.v... Và những bài thơ
sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi
Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng,
Thơ tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua
Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova, mùa đông năm 1990, Uống rượu với người
bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi, Ở
nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…). Hay mới đây, bài
thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: Về quê: “Mẹ cha
thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ Bây giờ bầu bạn cùng
ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà ngoài hiên” cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn
vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các mối quan hệ lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ,
anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua.
Có một điều
không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng
thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng
giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là
người rất giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài
năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ
thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ buổi đầu sáng
tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng
mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ
vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải,
tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc bằng
âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy, đọc bằng
mắt thì phẳng lì, dẹt mỏng nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không
có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là đám xác chữ, không
hồn vía, như xác chết vậy.
Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của
ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không đơn thuần xuất phát
từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa như kể một câu chuyện, như có cốt truyện vậy, hoặc
nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không
gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy,
người ta thấy được các nhân vật trữ tình, con vật, đồ vật cây cối trong thơ Trần
Đăng Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất
truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để các bài
thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên
mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn được bạn đọc
yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục
được tái bản và vẫn bán rất chạy...
Thi pháp
ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có
các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài
thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng
Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia sông
Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả, nhà thơ Quang Dũng với Tây
Tiến ; sau nữa, ít nhiều,
là nhà thơ Trần Nhuận Minh (thơ thế sự, nhân v ật). Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng Khoa
là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự
nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca dài. Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện
thưc mà ảo diệu và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn
ngữ thơ trong không gian truyện”.
*
Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là
phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn
Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/
Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Ở
đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương đồng
thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường, thậm chí là tầm thường. Thủ
pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức
liên tưởng...
Hay đâu,
trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ
pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”. Đúng
ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình
thường, thậm chí là tầm thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị
làm sao. Cũng như một câu thơ trong bài thơ viết về Mạc Thị Bười (Em đang
cô một vòng hoa): Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao.
Nếu Lúa chiêm chín rực… thì câu thơ lười quá. Ở đây ta thấy
được sự linh diệu của thủ pháp hoán dụ trong thơ Trần Đăng Khoa có vai trò quan
trọng như thế nào.
Cũng vậy, lối đồng dao, vận dụng ca
dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa, khá phổ biến trong thơ Trần
Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, biến
những vật vô tri vô giác mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức
kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con
người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển...
( các bài Con chim hay hót, Máy cày xình xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam
cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Nói chuyện với
con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv... ).
Bài thơ Kể cho bé nghe
là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở lại,
thú vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay hỏi
đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/ hay múa xập
xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa
lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị
cũ...
Bài thơ Em kể chuyện này,
lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như hót đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa
đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh
đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/
những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau
khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân
làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này.
Bài thơ Em dâng cô một vòng
hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/ Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe
qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vận dụng ca dao thì câu
tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom
phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường
cho xe qua. Những đêm trăng suông như thế, người làm đường không cần phải đèn
đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng không thể phát hiện được mục tiêu bên dưới mà đánh
phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại kết gắn
chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến
tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.
Ở bài thơ Hạt gạo làng ta,
có câu thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn
pháo súng bắn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về
hình thể, màu sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của
chiến tranh, hủy diệt, chết chóc, một
bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình, sự sống, ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói
giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc
cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong
ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/
vàng như lúa đồng,” nhưng mấy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu
diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”.
Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ
lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ !
*
Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn
dịch
Những câu
thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt
toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù
giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất thần,
như chắp cánh cho cả bài sống động hẳn, bài thơ như vỗ cánh mà bay lên, thoát
khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy...
Ví như,
bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ
chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/
đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...
Hay như,
bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi
bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ Ò ó o...Ò ó o…” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng
để lại gì.
Bài thơ Mưa
cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời
mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài thơ. Hình ảnh người nông dân chống
chọi với thiên nhiên mới thật lẫm liệt.
Bài thơ Tiếng
chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có
tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu
“Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe/ xa xa từ một ngọn
tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa,
mà là cái sự cảm, nên có sức gợi. Đặc biệt câu thơ giản đơn như không mà lại rất
tài: “Bao nhiêu cái mũ lắng nghe”….
Bài thơ Thôn
xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn
thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ Nhuộm vàng cả trời cao”.
Hay nữa,
bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức
chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy thôi,
cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều
em cắm/ bên bờ hố bom...”. Chưa đầy
chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,...
Bài thơ Buổi
sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách điếu đi cày/ Mẹ em tát nước nắng
đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài.
Bài thơ Em
lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây
cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài.
Bài thơ Trận
địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài
tình này “Em nhìn đáy nước trong veo/ Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà/ Thảo
nào các chú đã xa / Thằng giặc chẳng dám bay qua nơi này”.
Bài thơ Cánh đồng làng Điền
Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/Bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ
là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng không, là có dụng ý. Cả bài
thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì
câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài thơ như cựa quậy,
sống động hẳn lên, v.v...
Ở bài thơ Gửi
bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vẫn chú dế mèn
vuốt râu” giản dị, tinh tế mà làm
nên một vóc dáng, khí thế Việt
Hay ở bài
thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời
mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.
Rồi bài thơ Tiếng võng kêu,
chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ rất gợi. Tôi
nghĩ, mấy câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng đến suốt đời...
Rất nhiều,
rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ
đến trưởng thành và cho đến tận bây giờ. Những câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng
bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo logic
khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa.
Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ, rốt cuộc, cô đọng, chốt
lại ở phần kết như thế. Ở một số bài thơ, câu thơ-luận điểm được nêu ngay ở đầu
bài, để sau đó tác giả diễn giải những điều gan ruột.
Nếu như
trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn
dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc
hát người anh hùng, Trần Đăng Khoa lại rất ý thức và nhất quán trong
quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể
chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sử dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi
khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta
phải suy ngẫm, vừa là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh
thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi
tiết tấu, từ giọng điệu kể nhanh làm chậm lại, bớt nhàm, mà lắng đọng, suy ngẫm,...
Ví như, một số khúc tôi dẫn ra đây
“Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng
chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/
Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.
“Sự lặng im hát rằng: Lặng
im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai nát với cỏ cây/
Hồn kêu thành gió những ngày bão giông”
“Lửa hát rằng: Quê
tôi-những cánh rừng hoang/ Chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi
trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi”
“Mái nhà gianh hát rằng:
Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự
Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”.
“Đêm hát rằng: ... Người
ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng vặc
sáng. Hoặc heo hút tàn”
“Cái cánh cửa hát rằng:
Ngày mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình
sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi
vơi đầy/ Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”
“Cái bậc cửa hát rằng: Ngày
mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì
còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”
“Chiến dịch lớn hát
rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc trời trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao dời/ Lại
nghe trong đất máu người ngân vang”
Thiết tưởng, cái kết cho Khúc
hát người anh hùng, ở khúc Vô cùng, chằng cần chi phải
triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mái
gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả
ngang vườn/ Lá tre gió vẫn thổi vương
ngõ ngoài...”,
Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một
chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, những khúc hát ấy đều là những câu thơ
hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang
theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng của Trần Đăng Khoa.
*
Nhà thơ Trần
Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập,
sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Ngay thơ mình, cho đến giờ, một số bài thơ làm từ ngày nhỏ,
ông vẫn nhuận sắc khi lựa chọn được cách diễn đạt hay hơn, bởi nhiều bài thơ
trước đây có không gian mở. Hầu như, mỗi
lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu
khác với văn bản cũ,...
Thú vị, tôi từng được nghe Trần Đăng
Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong
bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy,
đã dám vứt đi hàng loạt bài mà mình tự cho là dở, để có tập “Góc sân và
khoảng trời” tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, mạnh tay thì cũng có
thể bỏ đi một số bài, và ông cũng đã bỏ trong tập tinh tuyển mới đây, có bài từng
được một nhà thơ lớn đánh giá cao, ông cũng loại bỏ, hoặc lược bớt thì mới đạt
tới độ tinh túy. Nhưng mà, tôi nghĩ, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không
thể tùy tiện được,..
*
Là bạn học
với Trần Đăng Khoa, cùng Trần Đăng Khoa tập tọng làm thơ ở thời ấu thơ, lại
cũng chơi với ông khi về già tôi muốn kể thêm vài chuyện ngoài lề mà không phải
ai cũng biết.
Trần Đăng
Khoa là một người khá đặc biệt. Ông có khả năng ứng tác thơ. Điều này hình
thành từ khi còn nhỏ. Do nhiều người không tin, hoặc cũng có thể tò mò, người
ta hay ra đề cho ông làm. Yêu cầu viết gì, ông viết cái đó. Rất nhanh. Có bài
thành kiệt tác, có mặt trong các tuyển tập. Ông viết theo yêu cầu hay tự nguyện
sáng tác đều như nhau. Đây cũng là cái tài của ông, quả thật cũng là hiếm có.
Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi
tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ thật,
nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại
chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tài thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú, từ cây cối,
đồ vật, con vật, tình huống này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra làm đề tài.
Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt hàng của báo
này, báo nọ, ông nọ bà kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn em, Sao không về Vàng
ơi, Cái sân, Cây dừa... là những bài như thế. Rồi sau này là cả
tập Chân dung & Đối thoại,
rồi Đảo chìm, Hầu chuyện Thượng
đế cũng vậy.
Đấy là
chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ đùa ứng tác, kiểu xuất khẩu
thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau ở Lớp bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh
Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc (trước ngày giải phóng miền Nam), tôi lần
đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa khi nhóm học sinh chúng tôi trêu
đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay một
bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu đúng y
với yêu cầu đề ra, mà thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi còn thuộc
bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Vì bài này chứa nhiều bí mật nội
bộ của nhóm nhất quỷ nhì ma chúng
tôi. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu đùa,
bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dư tửu hậu, phiếm đàm nơi công sở.
Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào
đó, ông nổi hứng gom lại thành tập, kể cũng thú vị đấy, khéo còn bán chạy hơn cả
Góc sân và khoảng trời, Chân dung và Đối thoại. Tôi chỉ xin dẫn một
bài. Chuyện là, Đài TNVN họp cộng tác viên ở Bình Định. Các phóng viên nữ Sơn
La uống rượu như cọp. Các em đề nghị nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng làm thơ tặng. Mừng
nhờ Khoa cứu nguy. Khoa viết ngay vào giấy ăn bài thơ về rượu, chếnh choáng
ngay từ câu đầu đến câu cuối. Đúng là ma men, dù Khoa không biết uống tượu: Biển và trời Bình Định/ Sóng sánh màu Sơn La/
Ngổn ngang bao ngọn núi/ Ngả nghiêng trong xó nhà/ Ánh trăng vàng Ghềnh Ráng/
Tan trên đỉnh Chót Pài/ Chỉ còn thần với thánh/ Bồng bềnh dưới đít chai/ Thế là
bao đau khổ/ Chẳng còn là khổ đau/ Kìa biển trời chếnh choáng/ Ngắm chúng mình
…uống nhau. Viết ngay tắp lự mà viết được như thế là tài lắm chứ. Trẻ
con thần đồng. Già nua thần lão. Thì cũng vẫn Khoa cả thôi!
LÂM HUY NHUẬN,
chàng thi sĩ
lãng tử
Tôi
biết đến cái tên Lâm Huy Nhuận bắt đầu từ bài thơ Thung lũng tiếng chim đoạt giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ khi cuộc chiến tranh chống Mỹ Ngụy chưa kết thúc, cùng với người bạn thơ mặc
áo lính với anh là Hoàng Nhuận Cầm. Văn kỳ
thanh bất kiến kỳ hình, mãi cho đến quãng năm 1978 tôi mới biết mặt Lâm Huy
Nhuận, khi đó đang là sinh viên Hán Nôm khóa 22 của Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số
là, tôi có mấy người bạn học cùng khoa với anh, hay rủ tôi sang chơi vào dịp cuối
tuần nhân thể dự đêm thơ của trường ấy. Ở vào thời điểm đó, Khoa Văn Đại học Tổng
hợp hay tổ chức đêm thơ ở khu giảng đường Thanh Xuân, Hà Nội. Người đọc thơ thì
nhiều, sinh viên có và cả những nhà thơ bên ngoài cũng có, song nổi bật nhất thì
chỉ có hai, ấy là Hoàng Nhuận Cầm và Lâm Huy Nhuận. Giảng đường chật ních những
người, đa số là dân Tổng hợp, cũng có sinh viên của một số trường đại học khác ở
Hà Nội mò đến dự, kiểu như mấy đứa chúng tôi. Tôi nhớ, khi Hoàng Nhuận Cầm đọc
thơ, anh như người nhập đồng. Đám cử tọa nữ sinh bên dưới nhiều đứa lén chấm nước
mắt. Còn Lâm Huy Nhuận thi khác, thơ anh không êm dịu, ru rín lấy nước mắt như
thơ Hoàng Nhuận Cầm, mà câu chữ có gì đó rổn rảng, tinh xảo. Thực ra, anh trình
diễn thơ, giọng khỏe, điệu bộ chân tay như diễn đạt ý tưởng. Nghe rồi, tôi thầm
so sánh. Hoàng Nhuận Cầm, lời thơ bộc trực, ý lộ, như chuyện kể giàu nhạc điệu,
nên hiệu quả tức thì, dễ lay động tuổi mới lớn đang yêu. Trái lại, Lâm Huy Nhuận
chắt lọc, ẩn ý, câu chữ ấn tượng nên dễ át người nghe, thoáng qua thì khó hiểu,
sau xem lại bằng mắt mới thấy từ, thấy tứ. Chính vì sự khác hẳn nhau, nên khi cả
hai cũng xuất hiện trên diễn đàn, đều nổi bật tuy hiệu lực trái nhau...
Bẵng đi, mãi năm
1987, tôi về nhận công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, đã thấy bóng dáng Lâm
Huy Nhuận vật vờ đâu đó trong sân trụ sở 58 Quán Sứ. Thì ra, anh đã trở thành
biên tập viên của Ban Văn nghệ nhà đài mấy năm rồi.
Với Lâm Huy
Nhuận, để chơi được thì trước hết người đó phải ôn hòa và có sức chịu đựng, hoặc
không thì tính cách dữ dội cỡ tương đương.
Điều này, có lẽ nhiều người trong làng văn thơ, làng họa và cả những người quen
biết anh còn hiểu hơn tôi. Tôi chơi được với anh là nhờ chọn cách ôn hòa, và dù
nhiều khi có thể nói là chịu đựng, song cũng là phù hợp với tính cách tôi.
Lâm Huy Nhuận
là người đa tài, chí ít trong bốn lĩnh vực: thơ- họa- bốc phệ và xem mạch bốc thuốc đông y.
Với thơ, đấy là
duyên nghiệp của anh. Lâm Huy Nhuận được bạn đọc, công chúng biết đến trước hết
là nhờ thơ. Thân sinh ra anh là thi sĩ Yến Lan, con kỳ lân của nhóm Tứ Linh đất
Bình Định từ thời tiền chiến (Hàn Mặc Tử-Chế
Lan Viên- Yến Lan- Quách Tấn). Có lẽ Lâm Huy Nhuận chỉ thừa hưởng ở cha mình
cái gen thơ phú lãng tử, còn lại anh tự lập ngôn. Sớm nổi tiếng với giải cao cuộc
thi thơ của Báo Văn nghệ khi còn là lính chiến với bài thơ Thung lũng tiếng chim, song nếu chỉ có vậy, sẽ chẳng là gì cả. Sau
khi phục viên, học ngành Hán Nôm -Tổng hợp Văn Hà Nội, rồi về Đài TNVN, Lâm Huy
Nhuận nhũng nhẵng làm thơ. Nói vậy bởi anh không bỏ mà cũng chẳng ham. Khi đọc
thơ thì trong đêm thơ sinh viên hàng mấy trăm người, đọc cho dăm ba người xung
quanh nghe, hoặc lúc say rượu chỉ đọc cho người bạn đối ẩm, anh đều bốc như
nhau. Đọc thơ thì vậy nhưng làm thơ không vậy, không bốc đồng và cũng chẳng hề
sốt ruột. Mặc ai đó thiên hạ làm thơ đăng báo và in tập như điên, để rồi thành
nhà này nhà nọ. Anh thì không. Chỉ làm khi có tứ, có cảm xúc thật. Câu chữ , ý
tứ chắt lọc lắm thay. Rồi ra cũng chẳng cần đăng báo. Thích thì đọc bạn bè nghe
chơi. Ai đó thấy thích bảo đăng thì đăng. Cứ nhũng nhẵng thế hàng chục năm trời,
đến nỗi bạn bè anh em sốt ruột hộ, và nghe nói cả Hội Nhà văn cũng sốt ruột lây
cho anh. Quy chế hội là chí ít phải ra tập, mà Lâm Huy Nhuận chẳng chịu ra cho.
Hội thì cứ chờ ra tập rồi mới giới thiệu kết nạp hội viên. Mãi thì chuyện gì đến
cũng phải đến, anh xuất bản tập thơ đầu tay "Chiều
có thật " ( NXB Văn học, 1999 ), và sau đó trở thành hội viên Hội nhà
văn. Với anh, chẳng có gì khác trước, sống vẫn vậy và viết cũng vậy, thất thường,
nhũng nhẵng và dai dẳng !...
Với những người
không biết Lâm Huy Nhuận, quả là cầm tập thơ Chiều có thật mỏng mảnh với 62 bài, phần nhiều là thơ ngắn, sẽ chẳng
thể cảm sức nặng của nó. Bìa sách màu nâu nhạt do họa sĩ Phan Cẩm Thượng, bạn
anh, bỏ công vẽ, thoạt nhìn sơ sài, phải ngắm kỹ mới thấy sự độc đáo. Song sự độc
đáo chính lại ở ruột của của tập thơ. Đọc qua thấy bài nào cũng được. Đọc nhẩn
nha, rồi ngẫm nghĩ, thấy lạ và hay. Hầu như, bài nào cũng có cái được, khi ở cấu
tứ, khi ở câu chữ , lúc là nhịp điệu, mạch thơ ... Có những bài hay như : Tự xông đất, Chiều thu, Mặt hồ, Váng sương, Và đôi lúc
...Song khi bảo phải chọn một bài thôi, thì thật khó. Nhìn chung, thơ Lâm Huy
Nhuận ngôn từ sắc lẻm và táo bạo, kiệm chữ, mà không gian vẫn hư ảo. Đọc rồi, ưng
hay không là tùy ở người, song bao giờ cũng đọng lại một cái gì đấy. Tôi nghĩ,
thơ Lâm Huy Nhuận được, và có chăng hơn ai đó, là nhờ đấy.
Tuy thơ làm nên
tên tuổi Lâm Huy Nhuận, song với anh thơ chỉ là non nửa, nếu không đả động gì đến
những cái tài khác.
Họa chẳng hạn.
Cũng như thơ, Lâm Huy Nhuận đều đối xử bạc bẽo như thế. Anh chơi với nhiều họa
sĩ, chẳng học họa ngày nào, thấy người vẽ
thì anh cũng vẽ. Khoái lên, điên điên lên thì vẽ. Anh chọn chất liệu bột
màu giấy dó là chính. Anh vẽ phố, vẽ người, vẽ con vật... Vẽ xong, xếp đồng giấu
sau tủ. Lâu lâu tự lôi ra ngắm, hoặc sau trận nhậu, tây tây lên, lôi bạn bè đàn
em về nhà và lôi tranh ra khoe. Vẽ thế, song xem tranh anh người ta thấy lạ, thấy
quái, rồi thì tìm thấy sự hợp lý trong cái lạ, cái quái, mà thích. Chơi họa
nghiệp dư song làng tranh gán gọi anh là ông " tôm ôm đá, cá trên mái nhà, đàn bà một vú, hổ tứ đuôi ". Vậy cũng
đủ thấy tranh của Lâm Huy Nhuận không thường chút nào. Lý giải cho cái sự không
học mà vẽ của mình, hơn một lần Lâm Huy Nhuận tuyên bố rằng : " Có triết ở trong đầu, tự sẽ thấy bố cục, cấu
tứ , mảng màu ... mà thành tranh ". Phải chăng đấy là tuyên ngôn nghệ
thuật của anh ? Dân họa chịu anh đến đâu thì có trời biết ...
Mặc dù lối sống
hơi bụi bặm, song tự trong máu, Lâm
Huy Nhuận là một người thấm đậm chất phương Đông, nho sĩ. Nhưng anh là nho sĩ của
thời đại mới. Chẳng thế mà một lần đến chơi thăm Tào Mạt, sau vài giờ đồng hồ đàm
đạo văn chương, kê đơn thuốc tiêu ung cho Tào Mạt, đường về, anh phán một câu
xanh rờn: " Ông này có chất nho sĩ,
nhưng mà là hủ nho ". Khoan bàn về việc đúng sai khi nhận định Tào Mạt
như vậy, song rõ ràng ở đây, Lâm Huy Nhuận nhận thấy anh và Tào Mạt có nhiều điểm
giống nhau, duy chỉ có điều, ông ôn nhu và kém lãng tử hơn anh. Thực ra, Tào Mạt
là người yêư nghệ thuật chèo và đã từng khởi xướng việc cách tân chèo thì hẳn ông
không phải là người cổ hủ. Có chăng, ông luôn biết giữ sự mực thước mà thôi.
Nho y lý số, xưa nay các bậc túc nho đều
có. Lâm Huy Nhuận không phải và sẽ chẳng bao giờ là bậc túc nho, song anh khá
tam tường về những lĩnh vực ấy. Anh có căn duyên với nghề thuốc. Lại cũng như họa,
không trường lớp, anh tìm thày theo học, rồi mầy mò tìm sách, vận dụng cái chất
triết, chất lý trong đầu và vốn chữ nghĩa Hán Nôm mà tự học thành nghề thày thuôc
Đông y, và cũng khá nổi tiếng. Đấy mới là cái nghề thực sự nuôi sống gia đình
anh. Chỉ thế thôi, anh đâu có ham tiền, ham làm giàu từ nghề thuốc, bởi không,
là trái với tính cách con người anh, trái với đạo nghề. Không những thế, Lâm
Huy Nhuận còn được nhiều người biết đến với tài bốc phệ, lấy quẻ tử vi, xem tứ
trụ. Nhiều lần anh giữ mục Thày thuốc
Đông y cho tờ báo này báo nọ. Rồi mỗi độ tết đến xuân về, bạn đọc lại thấy
những bài viết của anh dự đoán vận khí năm mới đó đây trên mặt báo. Còn với bạn
quen, người lạ, có lúc phải rợn người bởi lời phán về vận khí cá nhân mình khi
tình cờ gặp lúc anh nhập đồng. Đâu phải
với người khác, với chính bản thân mình, anh cũng vậy. Có một dạo, anh em cơ
quan và bạn bè thân quen bỗng thấy anh tuyên bố, rằng anh phải hành phương Nam thì mới hợp vận, hợp cách
của mình. Tưởng đùa vậy thôi, anh đùng đùng nộp đơn lên lãnh đạo xin vào công tác
ở văn phòng phía
Lữ hành cô độc là tên một truyện ngắn của
tôi lấy cảm hứng từ Lâm Huy Nhuận, viết cách đây mười mấy năm, được in trong tập
truyện đầu tay Đêm nguyệt thực. Bài
viết này về anh, tôi thích giữ nguyên cái tít ấy, bởi nó đúng với anh. Đa tài và
đa tình, song cô độc. Lâm Huy Nhuận sống ồn ào đấy, nhưng thực ra anh là người
lặng lẽ, thu mình, khó chia sẻ. Là gỗ quý nhưng vỏ nhựa độc, khó dùng. Tự thân
muốn làm gì thì làm, miễn là phải đạo. Cũng khá tự do, tự tại, ấy là sướmg,
song lại tự vây hãm mình. Cô độc là vì thế chăng ?
Ngẫm cho kỹ,
thực ra từ ngót hai mươi năm trước, Lâm Huy Nhuận đã tự họa mình, hình và bóng,
tâm tư và tính cách : " Tự mình xông đất cho mình/ Căn phòng vắng ngắt
lặng thinh suốt mùa/ Tự đốt pháo, tự giao thừa/ Bắt tay chúc tết như vừa thấy
nhau/ Giật mình hai mắt trũng sâu/ Người trong gương ấy còn đau hơn mình "
(Tự xông đất).
Cũng chẳng rõ,
khi nào Lâm Huy Nhuận cho ra tập thơ tiếp theo. Thơ thì vẫn làm, nhưng người ta
nhắc đến anh như một thày thuốc đông y và có tài bốc phệ nhiều hơn. Dường như,
với thơ, anh đang nén đợi một điều gì đấy ?!...
Và rồi, sau 23
năm ra tập thơ đầu, tập thơ thứ hai của Lâm Huy Nhuận đến tay bạn đọc. Tập thơ
“Mùi mưa sông mắt ướt” (NXB Hội Nhà văn , 2022) dày dăn với
132 bài. Vẫn nguyên tính cách Lâm Huy Nhuận, tên tập, tên bài là lạ. Thơ ngắn,
khá chắt lọc, ý tứ kín và giàu sức liên tưởng. Lâm Huy Nhuận không tiến mà cũng
chẳng lùi. Vẫn nguyên một cõi thơ của riêng mình.
NGUYỄN ĐĂNG TIẾN,
làm thơ để là
chính mình...
Có lần, lúc trà dư tử hậu, tôi hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, rằng câu lục
bát nào của Nguyễn Bính là hay nhất? Trần Đăng Khoa ngay tắp lự bảo, Nguyễn
Bính có nhiều bài thơ lục bát hay, câu lục bát thích, song khoái nhất câu này “Quê tôi có gió bốn mùa/ Có trăng giữa
tháng có chùa quanh năm”. Phàm làm thơ, kỵ nhất là nói những diều hiển
nhiên. Vậy mà, tài tình ở chỗ, câu thơ này của Nguyễn Bính toàn nói những điều
hiển nhiên ai cũng biết, nhưng cái suwj hiển nhiên ấy không hiển nhiên chút
nào, ở chỗ, đọc rồi sinh ám ảnh mãi. Ngẫm nghĩ, thấy Trần Đăng Khoa thật tinh
và có lý. Nguyễn Bính nói những điều hiển nhiên ấy một cách thản nhiên như
không lại khiến người ta tò mò sinh nghĩ ngợi và rồi gợi mở ra những thứ chẳng
phải hiển nhiên mà có,... Trò đời lắm lo-gic ngược là thế.
Văn chương, thơ phú, càng dụng công, nắn nót càng hỏng. Câu thơ hay là trời
cho thì được. Dông dài đôi chút là để trở lại với tập thơ của nhà báo Nguyễn
Đăng Tiến mà bạn đọc có trong tay,...
Nhà báo Nguyễn Đăng Tiến vốn là một kỹ sư ngành nông nghiệp, được chuyên
gia của Cộng hòa dân chủ Đức đào tạo trực tiếp theo chương trình hợp tác đào tạo
giữa nước bạn và ta, rồi sau đó chuyển sang làm công tác Đoàn. Từ trung ương
Đoàn ông được điều ra nước ngoài quản lý công tác Đảng đoàn người Việt Nam học
tập và lao động ở Đức. Về nước, ông quản
lý ở Nhà in Tạp chí Cộng Sản, rồi lần lượt
giữ các chức vụ Chánh Văn phòng và Phó
Tông biên tập Tạp chí Cộng Sản. Tiếp đó ông chuyển sang giữ chức Phỏ trưởng ban
Công tác đại biểu của Quốc hội Việt Nam và sau cùng về Đài Tiếng nói Việt Nam với
cương vị cao nhất, Tổng giám đốc Đài. Việc trải qua nhiều cương vị và lĩnh vực
công tác giúp cho ông có một vốn sống phong phú, sự từng trải dày dặn và sự
chiêm nghiệm sâu sắc, điều này là một lợi
thế cho người cầm bút và sáng tác thơ ca.
Phàm người làm công tác quản lý
lãnh đạo, nhiều khi phải nói những điều cần nói sao cho có lợi cho công tác quản
lý nói chung, chứ chưa hẳn là những điều mình nghĩ, mình tâm niệm. Thế nên, với
nhà báo Nguyễn Đăng Tiến, làm thơ là một cách để ông trải nỗi lòng, để được là
chính mình,... Phải chăng vậy mà ông lấy tên tập thơ của mình là CỖI RU?
Đây là tập thơ thứ hai của ông sau tập thơ đầu “Dư vị thời gian” (Nxb Văn
học, 2015). Thơ là tiếng của cõi lòng, xưa nay vẫn thế. để trang trải nỗi
niềm riêng, an ủi và xoa dịu chính mình,
để chia sẻ và cảm thông với đời,… Tôi ngĩ vậy.
Nhưng trước khi nói về Nguyễn Đăng Tiến với tập thơ mới “Cõi ru” của ông, tôi muốn bàn chút về những đóng góp của ông trong lĩnh vực quản
lý Đài Tiếng nói Việt Nam cho sự phát triển chung của nhà Đài trong nhiệm kỳ
ông giữ cương vị Tổng giám đốc (2011-2016). Trong khoảng thời gian này,
tôi là người giúp việc hàng ngày cho ông với tư cách Chánh Văn phòng rồi Trưởng
ban Ban Tổ chức cán bộ, kiêm Chủ tịch Liên chi hội Nhà báo Đài TNVN.
Trước hết, xin trân trọng đặt gần nửa thế kỷ hình thành và phát triển của
Đài TNVN từ ngày thành lập do Tổng biên tập Trần Lâm lãnh đạo (43 năm, từ
1945 đến 1988) ở phía trước, để các bậc tiền bối đàn anh nhận đỉnh, và sau
đó, các vị lãnh đạo kế nhiệm khi tôi đã nghỉ hưu nên không rõ, mà chỉ bàn đôi
chút về quãng thời gian khi mình trở thành một thành viên của mái nhà chung, trụ sở 58 Quán Sứ, Hà Nội, từ thời điểm nhà báo Phan Quang tiếp quản, và trải
qua thời kỳ các Tổng giám đốc Trần Mai Hạnh, Vũ Văn Hiền và Nguyễn Đăng Tiến
thay nhau quản lý.
Với nhà báo, nhà văn Phan Quang, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc
Đài TNVN, ông đã có một thời gian dài làm báo ở báo Nhân Dân với tư cách là một
cây bút bình luận có hạng, rồi sau đó ông lần lượt giữ chức vụ quản lý ở Ban
Tuyên giáo Trung ương (Vụ trưởng Vụ Báo chí) và Bộ Thông tin (Thứ trưởng). Về
Đài TNVN, ông chủ trương tăng cường tính bình luận các vấn đề thời sự nóng bỏng,
những vấn đề cần làm ngay (thời kỳ này, Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh
phát động “Những việc cần làm ngay” - N & L). Ông cũng bắt đầu nhận thấy
lối phát thanh cũ (các chương trình đóng cứng, phát thanh ngăn kéo) tỏ ra không
phù hợp với sự biến động và phát triển của xã hội nên cho thử nghiệm một số
chương trính phát thanh mở (như “Tạp chí truyền thanh”, FM Tin tức và
âm nhạc…). Đây còn là điều kiện và cơ hội để phát thanh truyền hình và báo
chí nói chung tiếp cận với báo chí thế giới qua tổ chức OIJ, đặc biệt là các quốc
gia Âu Mỹ có nền phát thanh truyền hình hiện đại. Đây cũng là thời kỳ nhiều
phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên ngành phát thanh truyền hình nước ta
được đưa ra nước ngoài đào tạo,… Bản thân, năm 1996, tôi là một trong số các
phóng viên nhà Đài được cử tham dự một khóa học về phát thanh hiện đại tại
Paris kéo dài gần 2 tháng theo học bổng của chính phủ Pháp mà Tổng giám đôc
Phan Quang nỗ lực mang lại.
Với nhà báo Trần Mai Hanh, trong khoảng thời gian gần 7 năm là Tổng giám
đốc, ông mạnh dạn và quyết liệt trong việc nâng cao chất lượng chương trình
phát thanh, tạo dựng nhiều chương trình mở, nhất là thể loại phóng sự điều tra.
Đây cũng là thời kỳ nhà Đài có nhiều phóng sự điều tra gây chấn động làng báo
và xã hội Việt Nam. Đặc biệt, đóng góp của ông
đặt nền móng cho Đài TNVN từ cơ quan phát thanh đơn thuần trở thành tập
đoàn truyền thông đa phương tiện, như mở báo in, báo Tiếng nói Việt Nam (1998)
và báo điện VOV.VN (1999),…
Tổng giám đốc Vũ Văn Hiền tiếp quản Đài, trên cơ sở sự khai mở của các
lãnh đạo tiền nhiệm, ông mở thêm báo hình (phát thanh có hình) để Đài
TNVN trở thành cơ quan truyền thông đầu tiên và duy nhất có đủ 4 loại hình báo
chí. Đặc biệt ông khai mở Kênh phát thanh Giao thông (VOV GT) ngay lập tức
thành công và phát huy hiệu quả tốt về báo chí, xã hội và kinh tế cho đến tận
bây giờ. Cùng với đó, đảy mạnh việc nghiên cứu khoa học và áp dụng kết quả vào
thực tiễn quản lý, điều hành,…
Về phần mình, Nguyễn Đăng Tiến khi đảm nhiệm cương vị cao nhất, nhà Đài
đã khá đầy đủ và toàn diện, đây là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn khi phải
chèo lái một con tàu đầy ắp nhưng dần trở nên nặng nề. Không chịu sức ì của tàu
đầy ắp, ông quan sát để tìm ra những gì cồng kềnh và những điểm chưa hợp lý, đặng tổ chức sắp xếp
lại cho gọn gàng, hay một cách hình tượng là tim ra những khe hẹp để lách mái
chèo ,… Trong nhiệm kỳ của mình, Nguyễn Đăng Tiến đã để lại dấu ấn khá đậm nét,
như việc rà soát để điều chỉnh lại mặt sóng cho hiệu quả hơn; tạo format mới và
bồi dưỡng các “cây bút” nhằm gây dựng thương hiệu để tăng nguồn thu; quan tâm và đầu tư chiến lược cho phát thanh
đa nền tảng, mở rông băng thông cho nền tảng số (vov.vn, giao ban trực tuyến…).
Cũng không vì con tàu VOV đã đầy ắp mà không dám chất thêm hàng, ông đã cho mở
thêm chương trình phát thanh tiếng Hàn Quốc (VOV5), các cơ quan thường trú
trong và ngoài nước (như khu vực Đông Bắc, văn phòng thường trú tại Cộng hòa
Séc và Đông Âu, đặt vấn đề mở thường trú tại Indonesia, Australia, Ấn Độ mà sau
đó Đài đã triển khai thành công và hiệu quả).
Trở lại với một Nguyễn Đăng Tiến – Thơ,
Tiếng là làm thơ để trải lòng nhưng Nguyễn Đăng Tiến không cho phép mình
tự nhiên, dễ dãi, thế nào cũng được. Đọc thơ ông, có gì đó là lạ, không giống
ai, ngẫm nghĩ thấy thú vị, nhiều bài ý tứ sâu xa... Người ta bảo, thơ có thể
hay hoặc chưa hay, nhưng trước tiên không được giống ai đó, ngay cả lặp lại
mình, còn như có được giọng điệu riêng thì khỏi phải bàn. Thơ Nguyễn Đăng Tiến
không giống ai. Trong thơ, Nguyễn Đăng Tiến trung thực với lòng mình, không làm
dáng và cũng chẳng uốn éo, điệu bộ. Ông cũng thích nói những điều hiển nhiên một
cách tự nhiên và cũng không e ngại cách diễn đạt khác người. Mình cảm nhận sao
thì nói vậy. Phàm với người làm thơ, rộng ra trong sáng tạo văn chương, nghệ
thuật nói chung, ấy là điểm mạnh, là cái cách để người ta thoát ra chuẩn mực
thông thường…
Tập thơ CÕI RU của Nguyễn Đăng Tiến với dung lượng
không nhiều, nếu bạn hứng thú thì đọc loáng một cái đã xong… Còn như bạn hứng
thú hơn mà dừng ở một câu, một bài nào đó, nhấn nhá một chút sẽ cảm nhận được ẩn
giấu trong đó là mạch chảy của sự chiêm nghiệm, chắt lọc giữa cái chung và cái
riêng; giữa cái bao la và cái hữu hạn, gần gũi của trời, của đất, của thiên hạ,
thế gian qua sự thăng hoa và lưu dấu hôn cốt của tác giả. Ở đấy cũng đọng lại đủ vị, cay, chua, mặn,
chát... ; rồi đủ cung bậc cao, thấp, sâu xa, đáo để và cả chút phiêu lãng của
cuộc đời,...
Giờ thì hãy trả Nguyễn Đăng Tiến
về với “Cõi Ru” của mình để ông “mượn
trời chút gió” mà rong ruổi cùng với biển…hay sa đà một chút xem sao: “Rượu là một cõi bao la/ thiên hạ uống rượu
còn ta uống nàng”!?...
Nguyễn Hiếu, nhà văn người làng Chèm
1, Dấu ấn làng Chèm.
Nhà văn Nguyễn Hiếu
luôn tự hào là người làng Chèm.
Vậy
cài làng Chèm ấy là làng nào?
Làng Chèm có tên chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu
ngạn sông Hồng đoạn đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào
diện làng cổ Việt, với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di
sản văn hóa. Tương truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến
năm 866, Cao Biền, quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và
tạc tượng Lý Ông Trọng (tên thật là Lý
Thân), một vị võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến
công hiển hách, và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này,
Lý Ông Trọng được người đời tôn như vị
Thánh, thờ phụng ở nhiều nơi cả Việt
Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê
nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ,
nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy,
rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn
cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà
văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu, cười
đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "
Trong văn chương của
Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng dễ bề
bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên làng Chiện.
Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì hầu như làng Chiện có cả,
song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa hẳn đã có. Vây nên, làng
Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của Nguyễn Hiếu mà thôi.
Thế là cái làng Chiện
ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày biện
các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất hiện lẻ
tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của ông.
2. Nguyễn Hiếu, phu chữ,
Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng
để chứng minh cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn
Việt Nam thời hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà
văn Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội
viên của ba hội này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức,
sáng tạo thể hiện bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi
hội.
Trước
khi điểm những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông
là thành viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông.
Tôi nhớ, cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài
Tiếng nói Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một
lần, Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường
là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu
sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng tốt.
Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá lớn
tác phẩm đã xuất bản.
Năm
1984, Nguyễn Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi
khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhớ một cách đầy tự hào, rằng
cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và nhà
văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn
Hiếu thấy thích hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những người thích đùa, của nhà
văn Thổ Nhĩ Kỳ, Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị
các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội, dựng pa-nô quảng bá vẽ bìa cuốn
sách này...
Sau
tập sách đầu tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình,
ấy là tiểu thuyết “Người đàn bà quỷ ám”. Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn
Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ
tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy
trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển
toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án... Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc
quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn
Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi thứ
đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết và
xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải thưởng
của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi đường
và Tôi bán mình. Giải thưởng truyện
ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội
cho truyện ngắn Nhãn lồng nhà Cả Đoạt,
và Giải truyên ngắn của Báo Văn nghệ
cho truyện ngắn Chuyện quan trọng của bà
Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn
Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết. Kể ra, làm được như vậy,
không dễ chút nào !...
Sau
quãng thời gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng
ra sách. Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết,
truyện, tản văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn
học, thồ luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học
nghệ thuật (Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà
văn Việt
Có điều này, Nguyễn Hiếu
rất ham thích dự các Trại sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở.
Có năm, ông dự trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối
năm với hội kia. Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ
dự Trại sáng tác để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa
các đợt dịch covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại
sáng tác ở Đại Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở
cùng phòng với nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm
thú, nhưng ngày nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng
lúc, ông viết song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc.
Sức viết của nhà văn
Nguyễn Hiếu thật đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm
tháng, và ngay cả cái sự “vơ bèo vạt tép”
(nghĩa là không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau
cụ Tô Hoài ?!...
Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi
nghĩ, sức viết như Nguyễn Hiếu, thật
đáng nể!
3. Chất hài, người và
văn.
Ở xứ Việt mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là
hiếm. Nhẩm tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng
tiên chỉ, là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công
Hoan, thì nhà văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm
của nhà văn này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn
Ngô Tất Tố (trong Việc làng), và nhà
văn Nam Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong
các tác phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...
Lóp trước là vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các
tác giả phương Tây văn chương giàu yếu tố uy-mua
như Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta
viết nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có
trong cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người
ta lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế
giễu này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái
tên như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...
Thường thì, văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống
nhau. Nhiều người, trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết
ra thì rất chi là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả.
Lại có người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói
năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con
người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ
quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi đến
tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng ria,
tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ khá
nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ ở cơ
quan... ( Ví như: Ban ta có một em Đ,/
cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán để
dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh mượn
chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại
là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc cả.
Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì Nguyễn
Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm trưởng
phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa” (chẳng
là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản xuất chương
trình của nhà Đài)...
Đấy là con người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện
đầu tay của Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi
nước” là truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra tập hài nữa là “Cười dành cho tất cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ
hài. Tuy không chuyên tâm viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết
các tác phẩm của ông ở mọi thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch
phim, tiểu luận, phê bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một
thế mạnh của Nguyễn Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dính vô cùng quan
trọng giúp các tác phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số
tác phẩm về ý tưởng, hoặc kết cầu, còn
non. Hài là yếu tố đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh
vốn có này, đã chuyền dần sang địa hạt sâu khấu và ông khá thành công. Kịch bản
của ông không những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng
cao trong các hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông,
nhan nhản chi tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn
học, cũng thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hứng hài hước. Đợt dự trại sáng tác
văn học của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc
trá dư tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra
nhiều nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn
xác, ngắn gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...
4. Lãng đãng thơ
Lãng đãng thơ, không có nghĩa là thơ
Nguyễn Hiếu ít và mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém miếng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch
tác gia, song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ
quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca.
Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000
năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì
riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả
kịch thơ, trường ca.
Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh
đã có hẳn một bài viết dài bàn luận “Tính
công dân trong thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm
báo và ngôn ngữ kịch đã làm nên tính công
dân trong thơ ông?
Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu
nói về thơ của ông. Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn
lắm. Những lúc như vậy, thường tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang,
chọc ngoáy, để ông hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu,
ngại vì dài dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những
cái tít: Nếu trái dất này không có các loại
bom, Có những con người là con số
không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng
yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công
đoàn Đoàn kết, Tay đã tự do không thể
đặt vào xiềng, Bài thơ có thể dùng
làm tư liệu để viết văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh...
Đại khái vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ
gì. Nhưng đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán,
từ tiểu thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều,
diễn đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận,
bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo
ra đấy, cần chi phải đọc hết cả bài cho mất công !?...
Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như
bày trận, nhưng rồi bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ, mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có
cái đọng lại để khen.
Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn
Hiếu đã ít nhiều thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường
như, Nguyễn Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng
ca dao, tục ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang
phong vị mới, đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận
dụng được cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp
nhận được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông
lựa chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt
Đầy suy tư: “...Trở lại
căn nhà xưa của mẹ/ Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn
rơi lặng/ Cành dương xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/
Giếng xưa nay đã lấp/ Tình một thủa ai quên?...” (Trở lại căn
nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả
bây giờ/ Ai đi qua đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi
thoi đụn nhà mái rạ/ Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái
lùn đi vì gánh vì gồng/ Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng
gày/ Con thuyền cũng mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng
ngân/ Ruộng cằn nụ cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...” (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh)...
Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/
Ruộng muống, vại cà/ Ngực tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú
mướp tồng tềnh quăng sau áo mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng
ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.
Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt
đã rơi/ Hai mươi, trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi
liềm trăng/ Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ
đàn bà/ Hay làm, nhường ăn, khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép
cong cau sáu/ Cười duyên nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no
không người tỏ/ Lời ru nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng
tôi); “Một thủa làng tôi/ Đàn
ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh tư đã rời hơi vợ/
Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người chập choạng bước
sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng sâu...” và “Một thời làng tôi/ Đàn ông vợi đi vô kể/ Tùng
tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu cứng mồm hô câu “vắt,
diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt/ Rô ron
rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/ Thóc giống cắn chuột
trong bồ...” (Đàn ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa ấy thế/ Nước
dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không chua vị khế/
Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ hát/ Dây quai
thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng ông chuếnh
choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);
Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của
đoàn Hội nhà văn dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ Rét ở
Mường Khương, nỡm mọi người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:“Hai
chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn
bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữa“Có thứ cũng được gọi là chân/ Không
có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ
chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ
Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp vào
Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/
Phọt ra ngọn lửa/ Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..
Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ
mình, chắt lọc hơn, đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có.
Giờ đọc thơ Nguyễn Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười
một mình....
Tiếc là Nguyễn Hiếu ra đi sau một cơn
đau tim đột ngột năm 2023. Nghe nói mấy
hôm trước đó, ông còn dự một hội thảo, phát biểu tham luận hăng lắm. Giờ lại nhớ
cái cười và những câu bông lơn tếu táo cửa miệng của ông. Ông lao đông văn
chương miệt mài không ngừng nghỉ, nếu còn ở cõi đời thì không biết danh sách
tác phẩm của ông sẽ dài đến đâu ?
NGUYỄN HUẤN,
KỊCH SĨ GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Vậy là.
Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu
cuộc đời, ấy là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tại Huế vào một ngày
đầu tháng 9 năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời....
Ở tuổi 66,
không phải là trẻ nhưng cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn
có thể thêm mươi, mười lăm năm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang lang thang đâu
đó ở Huế rồi đột ngột ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định, mất vào chiều
ngày mồng một tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực
ra, Nguyễn Huấn đã sắp đặt cho sự ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, khi
anh bỏ nhà lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách
sống những năm còn lại, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là
chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...
1. Cách
đây lâu rồi, đó là năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau,
tôi và Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là
phóng viên chương trình Tạp chí truyền thanh & Du lịch do nhà báo
Thanh Lịch phụ trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là
các cuộc phiêu lưu tình ái của anh, tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cố
gái xứ dừa Bến Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”.
Truyện in báo rồi vào sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ
trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy,
nhân vật chính nổi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai
nạn ở một tỉnh miền Trumg. Nguyễn Huấn cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ
đợi đấy, tao éo chết, sống nhăn răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn
Huấn đã sống thêm một phần tư thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài
vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh diễn cố cho xong!...
Nguyễn Huấn
quê Kim Thái, Vụ bản,
Dường như,
vận may chưa mỉm cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ,
vai quần chúng, thậm chí không có vai mà chỉ làm cái việc khiêng vác, bưng bê,
kê dọn phông cảnh, kéo phông màn,.. Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc rời
Nhà hát Tuổi trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng
thời gian này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNVN (VOV) để theo nghiệp
diễn bằng cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy,
ngoài các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội
sáng chủ nhật, kể chuyện cảnh giác tối thứ bảy, thì nhiều chương
trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện
truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ,
Đại gia đình các dân tộc Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi với ngần
ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp
diễn, vì ở đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân
Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,
Tôi lần đầu
biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu. Khi ấy tôi
làm việc ở Phòng Tiếp dân và xử lý đơn thư của Ban Thính giả Đài TNVN do
nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Phòng
làm việc cua tôi thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay dưới tòa
biệt thự kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Văn nghệ với các phòng Văn học,
Sân khấu và Văn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng
chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt
đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh
chàng to béo lảm nhảm đe dọa người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc
là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh
chàng béo. Người này khựng lại, vằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga:
Kto? *Mày là ai?. Miệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao,
vừa lúc ấy, biên tập viên Hồ Nhật Quang chạy đến kịp vòng tay ôm ngang ngươi
chàng béo, vừa quát vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sau đó, tôi
biết được chàng béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn. Bữa đó,
Nguyễn Huấn đến Đài lấy nhuận bút, rồi vui miệng rủ Vũ Hà và Hồ Nhật Quang đi
nhậu. Quá chén rủ nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế
là xảy ra xô xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn
Huấn thành tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của
Nguyễn Huấn khi về chung phòng làm việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người
phục thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh trí, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng
qua.
Lân la rồi
chẳng hiểu sao, Nguyễn Huấn xin được vào học việc ở một phòng phát thanh mới
thành lập là Nhà nước và Pháp luật do nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với
mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân
thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn
mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc cả. Khi ấy, Đài đã bắt đầu tổ chức tuyển
dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở
thành phóng viên chính thức của nhà đài. Sau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực
ra anh còn nợ môn ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển.
Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì
tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà cho nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn
Huấn đã phát huy được chất giong tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình
cho làn sóng của Đài, không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm
thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nợ môn tiếng Nga là thế,
nhưng đã có lần, tôi chứng kiến, trong một chuyến công tác, khi cần giao lưu với
cơ sở, anh ngà ngà say, đã ôm ghi ta hát bài Đôi Bờ bằng tiếng Nga khá
chuẩn xác, hay và đầy cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhờ
khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hay do anh gây nên để
thoát hiểm. Tội và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được.
Thực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn
Huấn. Thời còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng và Trần Nhật
Minh, mỗi khi thấy Nguyễn Huấn giả lả nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện,
mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, bỏ qua cho nhau cả.
Kể chuyện
Nguyễn Huấn mà quên không nhắc chuyện “liên kết mậm riềng” của anh thì
thật thiếu sót. Đây là câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu tố hài hước như chuyện
ở một sân khấu hài kịch. Chuyện này lý giải đời Nguyễn Huấn chính thức ba đời vợ
và mỗi thị sinh cho anh một công chúa, hay như cách nói dân dã của anh là vịt
giời hoặc chữ nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời Nguyễn Huấn kể, tôi
chắp nối lại thì toàn cảnh thê thiếp của Nguyễn Huấn nhứ sau: Thời còn là công
nhân lái tàu goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy vợ và có con gái đầu
lòng. Cô vợ này sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn. Tiếp theo, lang bạt về
quê, Nguyễn Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì phải và kết cục của cuộc
hôn nhân thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này, khi đã là phóng viên nhà
Đài, trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ, Nguyễn Huấn tình cờ làm
quen với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy làm vợ rồi đưa theo về
Hà Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cô con gái nữa ra đời. Vậy là, liên doanh mậm riềng
của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn
một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách liên doanh tiếp với hy vọng
cho ra một mậm riềng (con trai) đặng có người nối dõi tông đường. Thế
nhưng, trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời chẳng gật. Trước tuổi
nghỉ hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ, nằm nhà cả năm trời.
Dẫu không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất toại thì cơ thể cũng
chậm chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà thôi. Đành nghỉ hưu trước
tuổi, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi thiệt thòi lắm. Về chức vụ, hàm phó vụ
trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành kịch phát
thanh, huân chương Lao động hạng 3.
2. Nguyễn Huấn là người
yêu thơ, là tác giả của hàng trăm bài thơ, ... song chẳng mấy quan tâm. Hình
như, ờ vào thời kỳ chiến tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy
thơ ca làm chỗ dựa tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huấn cũng là
người như vậy. Sau này Nguyễn Huấn có tập
hợp in thành tập, ( tập Bóng đời, NXB Hội Nhà văn 2009) nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn bè, đồng
nghiệp biết anh dính dáng thi ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm nhận thức,
thi ca không nuôi nổi bản thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng tác kịch, diễn kịch
phất thanh, rồi công tác tham gia các hội diễn văn nghệ quần chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tươi thóc
thật để lấy cái ăn cho vào miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ
đã mất công sinh ra các tiểu thư, công chúa cho mình.
Tôi nhớ, trong nhiều
chuyến công tác đi các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn Huấn cao
hứng đọc thơ anh, thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc. Mục đích
làm gia vị cho các cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, ngà ngà say, Nguyễn
Huấn mượn rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê thơ, tôn thờ thơ
và cũng thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn đấy nhé. Ông là
dân văn xuôi thì cứ văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái và làm duyên với
đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huân cũng có lý. Nhưng mà, cái
gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính, song thơ túc tắc,
cũng dăm bảy tập rồi. Còn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ từ khi nghỉ hưu, nằm
khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên đường, dường như chỉ có
thơ (sau miếng ăn, cuộc nhâu) là giúp anh chuyên chở sự hưng phấn hay nôi cô
đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình, Nguyễn Huấn trải lòng bằng
những bài thơ... Ví nhuw “SócTrăng nhớ”
làm vào cuối năm 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai trẻ lang bạt kỳ hồ đây những
lỗi lầm: “Anh sẽ đưa em về/ Bến Nguyệt
Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề sang sông/ Dù đục và dù
trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day dứt khôn cùng/ Người ơi
!/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều cửa bể/ Mây nước buồn
nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/ Người xưa !/ Và sông xưa
!/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn Khmer/ Sông Trăng buồn sắt
se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/ Cô đơn một bóng thuyền/ Thế
mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tình”. Hay như bài thơ “Em và thu “ làm ngày 10.8.2021
không lâu trước ngày Nguyễn Huấn ra đi vĩnh viến cũng một tông như vậy:
“Có phải em/ MÙA
THU/ Lá
vàng lơi lơi/ đường
vắng/ Thu
lại mùa .../ em
vẫn em/ Hình
như/ câu
Thơ/ của
mùa Thu cũ/ Em
tít tắp xa/ nơi
miền xanh núi ngủ/ Từng
đêm.../ vòng
tay thả hững hờ/ Thu
cùng em/ câu
đợi, câu chờ/ Cúc
vườn nhà/ vàng
lên như nắng/ Hoa
hát em nghe/ lời
trống vắng/ Và
nói hộ lòng/ em
mãi mãi/ yêu
anh/ Ở
bên ni/ vẫn
bát ngát xanh/ Huế
giao mùa/ dòng
trong ngăn ngắt/ Bến
Sông Hương/ anh
đi tìm câu hát/ Thương
nhớ duềnh lên/ mỗi
độ Thu về/ Câu
thơ em ngân nga/ quấn
quýt níu chân đi/ Cúc
Quỳ vàng ruộm/ cho
ai cay mắt/ Lễ
giao mùa/ năm
nay Cô vít/ anh
nỏ về được mô ? Anh
không về/ Câu
Nam bình mượn Thu/ một
chút nồng nàn/ em
ru giấc/ Một
chút se se/ một
chút vàng/ Em
vẫn em/ Thu
vẫn/ Thu
sang ,..”
Dường như,
cái nghiệp diễn kịch thấm vào con người Nguyễn Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử
hằng ngày, cũng như trong nghề báo của anh. Và với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có
chút tính kịch, câu chữ lại càng rõ, chất hội họa thêm chút khoa trương kiểu diễn
viên thoại sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng.
Miễn sao Nguyễn Huấn thấy vui, hay yên lòng mình là được, bởi nhiều nhà thơ lớn
còn ối bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của
Nguyễn Huấn còn đậm chất khoa trương hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên
là bộ đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và Điện Biên nhân dịp kỷ niệm
50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp
thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ
tích/ Người lính trẻ trung theo đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực
làng quê/ Súng bom thù xé ngang trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu
hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”* người đI/ Hiền lành như bông lúa rễ tre /
Trong như giọt chuông/ chiều trong trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt
quê hương / son sắt lời thề / Điện Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào đồng
đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm phía
quân thù/ Chiến hào Him Lam/ nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao thiết
quá/ Có phải không cha: cánh hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh Điện
Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến thắng/
Cha về nhé - sớm nay - cùng nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/ Bài ca
hóa lửa vừng đông/Bóng cha xanh mướt cánh đồng Điện Biên”...
Thơ ca làng nhàng vậy
thôi, nhưng trong nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết
sức nghiêm túc. Cùng với các nghệ sĩ, đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà,
Nghi Xuyên, Nguyễn Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu
truyền thanh không những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ
thống phát thanh cả nước. Ghi nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh
hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thanh hoàn toàn xúng đáng.
Không nghững vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt nghệ thuật sử dụng
âm thanh, tiếng động trong nghề báo phát thanh và lĩch vực quảng cáo khá thành
công.... Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp chí truyền thanh cùng
với tôi và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh... là những năm tháng
Nguyễn Huấn say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy hết khả năng chất kịch trong
con người và kiến thức của mình để sáng tạo từ khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn
xuất của mình, để tạo nên những sản phẩm phát thanh chất lượng cao,...
3. Một
sáng chủ nhật (tháng 9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng
chút hơi thu mát mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì
thì điện thoại reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi
tôi có biết anh ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai.
Sau một hồi chất vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo
"Huấn đây. Nguyễn Huấn đây". Nguyễn Huấn thật sao? Thực lòng,
khi nghe máy, đầu óc tôi không hề nghĩ đến Nguyễn Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không sủi tăm" những dăm,
bảy năm nay rồi. Giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau
nói... Một hồi, Nguyễn Huấn trách:"Ông vào Fb chưa? Tôi gửi yêu cầu kết
bạn với ông rồi đấy". Quả là, lúc vừa vào mạng, tôi thấy mục xin kết bạn
nổi cái nick Nguyen Huan Hue, có ngó qua, nhưng avatar nhỏ quá, tôi nhìn không
rõ, nên chưa vội ok. Thói quen của tôi, hễ ai yêu cầu kết bạn, nếu không phải
là người quen cũ, thì tôi cũng phải vào trang đó xem họ là ai, viết thế nào, rồi
mới chấp nhận... Thì ra, anh bạn già lại kèm thêm cái tên của vợ vào, nên tôi
không nhận ra... Vậy là hai thằng í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần như
ngày nào tôi và Nguyễn Huân cùng alo cho nhau, này nọ. Tôi biết anh khỏe lại được
mấy tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần kinh chập mạch"
từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang đương chức Phó trưởng
ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV... An ủi, khi đó, anh đã
xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...
Nói căn bệnh
"thần kinh chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn
Huấn bị tai biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi
làm lại. Ai cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi
cũng vậy, nhưng cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười
thì sau chỉ còn ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã
hơn dăm năm nay. Cách đây 2 năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một
số anh em cơ quan đi viếng ở mãi Nam Định. Gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy...
Ai ngờ đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện
Quân đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại,
chập nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như hồi
nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới đầu
tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật mừng!
` Đúng hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi
làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn
đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ
là dứt ra, để không sai hẹn với người khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.
Nói theo
cách nói thông dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi
hại hơn xưa !...
Nhưng lợi
hại chẳng thấy đâu, Nguyễn Huấn trở lại cuộc sống nguyên tính cách xưa, ăn to
nói lớn, đi phăm phăm, làm linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa. Hinh như, Nguyễn
Huân sống bù cho gần chục năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi nhẹ nói khẽ. Có cảm
giác, Nguyễn Huấn hung hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên tiếp gặp gỡ lại các bạn
bè đồng nghiệp làng báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn Huấn rời Hà Nội, lang
thang đâu đó mãi miền Tây Nam bộ, rồi lên Tây Nguyên,...bỏ lại sau lưng người vợ
thứ ba, người đã sinh cho anh cô công chúa út.
Lần gặp cuối
cùng của tôi với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê
dịp tôi xây lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dốc chuyện, nhậu tưng bừng
và quậy cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm ỏ quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống
khá nhiều. Rạng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân
trên Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy
đúng ngày Quân đội nhân dân Việt
Sau lần ấy,
tôi chỉ còn thấy bóng dáng Nguyễn Huân thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc
dòng tin nhắn trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ
chút đỉnh về tài chính,... Lần theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn
Huân vẫn lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng
gió hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn
Huấn vẫn đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi,
biết giải thích sao đây,...? Dường như những ngày tháng cuối đời lang bạt này,
Nguyễn Huấn quên mất lời tự răn mình và khuyên nhủ bạn bè là chớ đắm mình vào
thơ mà khốn khổ, anh chỉ còn mấy mối quan tâm, ấy là miếng ăn vào miệng cho đỡ
xót lòng và cùng với đó là Em và Thơ. Trang cá nhân của Nguyễn Huấn nhan nhản
thơ tình,. Thơ về những vùng đất mà anh từng đặt chân đến...
Tôi không
rõ lá số Tử vi của Nguyễn Huấn cụ thể ra sao, nhưng cứ cuộc đời anh mà suy thì
hẳn cung Di và cung Nô của Nguyễn Huấn phải có sao tốt, nên chỉ khi nào Nguyễn
Huấn còn đi được ấy là Nguyễn Huấn tồn tại, và hình như đến đâu anh cũng gặp được
những người tử tế giúp đỡ, phò trợ ?... Thời bao cấp khốn khó, Nguyễn Huấn đã sớm
ý thức việc lưu giữ những hình ảnh ghi dấu chân mình. Anh có chiếc máy ảnh cơ
cũ kỹ nhưng vẫn chụp tốt, nên đến đâu cũng chụp dăm ba pô ảnh lưu niệm. Thời
phim ảnh dắt đỏ song Nguyễn Huấn không tiếc tiền, chụp xong về chọn hình rửa
thành ảnh hẳn hoi và mỗi khi trở lại nơi cũ, anh mang theo ảnh tặng lại cho chủ
nhà. Mỗi lần vậy, Nguyễn Huấn ranh ma
nháy mắt với tôi nói nhỏ:”Mỡ nó rán nó ấy
mà...”. Nhờ thế sau này, tôi lưu giữ trong album của mình nhiều hình ảnh về
Nguyễn Huấn và tôi cùng đồng nghiệp báo chí khác...
Và cho đến
một ngày (kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi,
vì biết anh quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép
lại rồi, chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những
cơn say, Nguyễn Huấn nhập đồng diễn, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè
ai đó có muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,
Nguyễn Huấn,
chàng kịch sĩ giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đồng nghiệp VOV và làng báo, chẳng
quên anh đâu !...
NGUYỄN HUY DUNG
đủng
đỉnh báo và thơ
Vậy là nhà báo nhà thơ Nguyễn
Huy Dung về cõi vĩnh hằng đã ngót chục năm rồi đấy. Tôi nhớ không nhầm thì ông
mất vào dịp cận tết năm 2015 sang 2016 thì phải. Tôi dự định viết một cuốn
sách, phác họa chân dung các văn nghệ sĩ từng làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), việc đầu tiên là điền tên các nhân vật định viết, thì Nguyễn Huy Dung là
cái tên sau cùng.
Thường là viết về ai thì phải thật
sự hiểu biết về người đó, hay chí ít cũng phải có một kỷ niệm nào sâu sắc với
người ấy. Với Nguyễn Huy Dung thì tôi không có cả hai, mặc dù tôi làm việc cùng
ban biên tập với Nguyễn Huy Dung và là thuộc cấp của ông là lâu nhất, khoảng 15
năm trời (1994 – 2008). Như thế kể cũng lạ ,...Đấy cũng là lý do tôi điền tên
ông sau cùng trong tập sách viết dở của mình.
Nguyễn Huy Dung quê cạnh Chùa
Thày, Quốc Oai thuộc xứ Đoài, nhưng ông bảo gốc gác dòng Nguyễn Huy thi thư chữ
nghĩa mãi trong Hà Tĩnh di ra hơn trăm năm trước. Học Tổng hợp văn, về Đài Tiếng
nói Việt Nam làm báo sau khi tốt nghiệp đại học, yêu văn chương và làm thơ khá
sớm, nhưng hình như Nguyễn Huy Dung không là hội viên của một hội văn chương
nào. Tôi biết là ông đã xuất bản dăm tập thơ nhưng tôi không mấy thuộc thơ ông,
ngay cả nhớ tên các tập thơ của ông cho chính xác cũng không nốt. Sao vậy nhỉ,
tôi tự hỏi mình mà chưa lý giải được. Hy vọng là bài viết này, phác họa chân
dung ông, tôi vỡ vạc điều gì chăng?
Vậy là tôi đành nhờ công cụ tìm
kiếm nhưng kết quả chỉ cho ra một người trùng danh tính, vị giáo sư tiến sĩ,
thày thuốc nhân dân Nguyễn Huy Dung, ông này có làm thơ. Có lẽ, rất ít người viết
về nhà báo nhà thơ Nguyễn Huy Dung, đồng nghiệp của tôi, hoặc giả có thì cũng
không đưa lên mạng xã hội nên chẳng thể tìm được thông tin gì. Đành phác thảo
chân dung ông theo trí nhớ của mình thôi.
Thực ra, về Đài TNVN vài năm,
tôi đã biết đến ông. Khi đó Nguyễn Huy Dung là trưởng phòng phát thanh “Dành
cho dồng bào xa tổ quốc” mà dân nhà Đài (VOV) quen gọi tắt là Phòng phát
thanh Việt Kiều. Tôi yêu văn chương, tập tọng làm thơ viết truyện nên cùng cơ
quan có ai sáng tác văn thơ là lân la làm quen. Với các bậc đàn anh văn chương
lừng lững ở Ban Văn nghệ thì e ngại vì nhìn các vị ấy cao vời vợi, nên tôi mon
men bắt quen với các cây bút ở các ban biên tập khác, như Nguyễn Huy Dung (Ban
Thời sự), Trần Ngọc Thụ, Nguyễn Hiếu, Nguyễn Quang Huy (Ban Chuyên đề)... Trong
số ấy, Nguyễn Hiếu tếu táo hài hước và Nguyễn Huy Dung nhỏ nhẹ gần gũi nên dễ
làm quen. Ngày ấy ai cũng nghèo, đâu quán xá gì. Đến phòng làm việc của nhau,
chén nước trà vài câu chuyện phiếm thôi. Tôi chuyển qua vài ban biên tập khác
nhau rồi về Ban Văn hóa xã hội thành thuộc cấp của Nguyễn Huy Dung. Thời điểm ấy,
Nguyễn Huy Dung được đề bạt từ Trưởng phòng phát thanh Việt Kiều lên Phó trưởng
ban biên tập Văn hóa xã hội, giúp việc cho Trưởng ban, nhà báo Nguyễn Đình
Lương. Vậy là tôi có mười mấy năm làm việc cùng ban biên tập với ông,...
Dáng vẻ ngoài, Nguyễn Huy Dung
hiền lành giản dị, ông đi chậm, nói khẽ, rành rẽ từng câu từ, nói theo dân làm
báo là không cần biên tập. Nguyễn Huy Dung là người cẩn trọng, kỹ tính trong cả
nghề làm báo và nghiệp thơ. Tiếng là làm thời sự, nhưng dành cho Việt kiều nên
không phải cái gì cũng vội, sốt sột kiểu “nóng hổi bừ thổi vừa ăn”, nói
ngay ra mà phải làm cho nguột bớt đi và đợi chín rồi mới nói. Tính cách người
và tính chất việc ngấm vào mà nên định dạng ông chăng? Trước nữa, Nguyễn Huy
Dung chuyên theo dõi mảng giáo dục nên sau về làm lĩnh vực Văn hóa xã hội thật
hợp với ông. Đây la thời gian Nguyễn Huy Dung thoải mái, sảng khoái nhất, đủng
đỉnh báo và thơ cho đến lúc nghỉ hưu.
Nguyễn Huy Dung đủng đỉnh làm
thơ, đăng báo thơ chơi với bạn bè, với đời, chẳng có gì phải sốt ruột cả, đủ
bài thì in tập, cả đời thơ ông đâu có ba bốn tập (Nguyệt cầm trong bão,
Sau mưa, Ẩn trong cây và tập dự kiến xuất bản là Phố
có người còn nhớ). Trong mấy tập thơ đã xuất bản thì Ẩn trong cây
là chín nhất, bởi ở đó Nguyễn Huy Dung dằm về cấu tứ và ngôn từ, nhiều bài thơ
được bạn bè và bạn đọc nhớ, như: “Một lát nữa mùa thu sẽ đến”, “Bản xô-nát thất
lạc”, “Phố Khúc Hạo có người còn nhớ”, “Ý nghĩ trước mùa lá đổ”, “Chợ mai”, “Hoa
đại núi Thày”, “Cô gái có đôi giày đỏ” ...
Ngoài đời, hiếm khi Nguyễn Huy
Dung to tiếng, cứ nhỏ nhẹ, rủ rỉ, cốt sao được việc. Với ông, người sao thơ
chiêm bào làm vậy. Thơ Nguyễn Huy Dung như sự tự nhủ mình, những suy tư rẩm riu
trong lòng, những nỗi niềm khó nói ra được, nói chung nó như một âm bản của cuộc
sống sôi động bên ngoài.... Đời sống xao động bao nhiêu đi chăng nữa khi thẩm
thấu vào thơ Nguyễn Huy Dung lại nhẹ nhàng êm ả bấy nhiêu. Cảm giác lăng kính
cuộc đời của ông như chiếc rây bột để lại trên rây những hạt to và thô, chỉ lọc
lấy những bụi mịn li ti,...
Có lẽ, “Một lát nữa mùa thu sẽ đến”
là bài thơ của Nguyễn Huy Dung được nhiều bạn thơ biết và thích hơn cả: “Không
có tín hiệu nào của thiên nhiên/ Nói mùa thu nhiều gió/ Không bờ sông, không lối
cỏ/ Không hoa cúc vàng, không cánh bướm tiên tri/ Không có gì/ nói mùa thu sẽ lại/
Dưới vòm trời của cây khế nhiều tuổi/ Chỉ em ngồi và đếm rất lặng im/ Hoa tím
rơi trên vạt áo vô tình/ Mà không biết vì sao bấy giờ anh lại nói/ - Chỉ lát nữa
mùa thu sẽ đến/ Chỉ em ngồi đến giọt tím hoa rơi/ Thời gian trôi/ Lặng im và chậm/
Điệp khúc môi anh vẫn chỉ bấy nhiêu lời/ Một lát nữa mùa thu sẽ đến,...” Bạn
thơ của ông có người còn đùa vui Nguyễn Huy Dung là ông-“một lát nữa mùa thu
sẽ đến”. Bị trêu vậy ông cười típ mắt đón nhận như một phần thưởng, vì có
được một biệt danh như vậy với người làm thơ thật không phải dễ, bởi có nhiều
người làm thơ cả đời mà người ta không nhớ nổi một bài thậm chí một câu nào.
Cảm thức thời gian bốn mùa luân
chuyển rõ nét trong thơ Nguyễn Huy Dung: “Phố Khúc Hạo có người còn nhớ/ Dạ
lan hương đuổi bắt suốt đêm hè/ Phố Khúc Hạo có người còn nhớ/ Hạt cốm mềm
thành câu đố mùa thu” (Phố Khúc Hạo có người còn nhớ); “Em cầm mùa hạ
trên tay/ Bông sen đỏ buổi mai ngày mới lên/ Phải chăng năm tháng ưu phiền/
Lòng còn gắng giữ mùa sen giữa bùn?” (Mùa Hạ); “Tôi đứng trên cao, ngôi
nhà cuối phố/ nhìn xuống lòng đường/ những trận gió mùa đông cũ/ đan g quét đi
từng trận lá vàng/ Trong gió thổi dọc ngang/ những cơn lốc lá vàng quay tít/
Hàng cây rung lộc biếc/ trong rộn ràng tiếng chim/ Có gì không yên,...” (Ý
nghĩ trước mùa lá đổ) v.v... Thực ra, Nguyễn Huy Dung mượn sắc thái mùa, những
biến đổi thiên nhiên lúc giao mùa là để trang trải cõi lòng mình cùng thế thái
nhân tình. Có điều, cảm giác là ông chỉ nói cho có chuyện thôi chứ thực ra chưa
chạm đến độ da diết, khắc khoải hay đau đáu với nỗi đời,... Thơ ông âm bản là vậy
chăng?
Vùng quê của Nguyễn Huy Dung
chân núi Sài Sơn, nơi gần ngàn năm trước thiền sư Từ Đạo Hạnh chọn làm nơi tu
hành và đắc đạo, nay dấu tích vẫn còn đó, hang Thánh hóa, đường lên giời đường
xuống địa phủ,... chân núi có chùa Thày tọa lạc, điển hình văn hóa xứ Đoài,
cũng có thể xem là vùng đất văn vật của đồng bằng Bắc Bộ, nên ít nhiều ảnh hưởng
đến thơ ông. Quả là hồn vía đất Quốc Oai, Sơn Tây, xứ Đoài thấp thoáng ẩn chứa
đâu dó trong những câu thơ bình dị của Nguyễn Huy Dung: “Chợ gọi theo tên
làng/ mùa nào hoa quả nấy/ dẫu nắng hạn mưa dông/ chợ không hề vắng buổi/ Sớm
mai đi chợ Mai/ ngỡ là câu nói lối,...” (Chợ Mai); “Thị xã nhiều phố đất
không tên/ mấy phố chính đi một lần đã nhớ/ nhà lợp toàn mái gianh mái cọ/
chúng mình vẫn đùa cửa ngõ trung du,...” (Sơn Tây); “Đồi xanh xanh, bờ
bãi xa mờ/ Trẻ thả bò hát đồng dao rồng rắn/ Chất giọng Hương Sơn cái thời ta bế
ẵm/ Giờ trở về gặp lại thấy yêu hơn” (Mẹ ở Hương Sơn); “Thân cây gày guộc
già nua/ Rút từ ruột đá nắng mưa nhọc nhằn/ Nở hoa hương sắc nồng nàn/ Hương
thơm cho đến lúc tàn vẫn thơm” (Hoa đại núi Thày”,...
Thơ Nguyễn Huy Dung không có gì nổi
trội nhưng người ta cảm nhận được sư ấm áp chân tình, thứ mà chính những người
làm thơ nhận thấy và cần để giao du đàm đạo với nhau chăng? Nhóm bạn thơ thân
thiết của ông, những Quang Khải, Nguyễn Hoàng Sơn, Vũ Từ Trang, ... trên nữa là
nhà thơ Trần Lê Văn, nhà văn Băng Sơn...cũng cho thấy điều ấy. Bài thơ “Nghệ
thuật” của ông, tôi xem như một quan niệm về nghệ thuật nói chung và về thơ của
Nguyễn Huy Dung. Ông mượn hình tượng một chàng gù yêu một cô nàng xinh đẹp cùng
phố (kiểu như chàng gù nhà thờ Dức Bà Paris si mê cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp
Exmeranda của văn hào Victor Huygo) vì yêu nàng mà chàng vẽ tranh và làm
thơ để ca ngợi sắc đẹp của nang nhưng không được nàng đáp lại, rồi một ngày
nàng lên xe hoa cùng một tay tỉ phú nọ, bỏ lại chàng gù vẫn vẽ tranh, làm
thơ... Nghệ thuật là thế đó, say mê nghệ thuật, thi ca là thế đó: “Chàng gù
vẫn vẽ tranh, chàng gù vẫn làm thơ/ Chàng không tin chuyện này có thật/ Chỉ ảo ảnh
ngang qua rồi vụt mất/ Chàng chỉ tin trái tim không lầm chỗ bao giờ/ Trong hạnh
phúc âm thầm chàng vẽ tranh, làm thơ...”. Thi ca, với Nguyễn Huy Dung như vậy
là đủ, dù một chiề u, yêu thì theo, bất cần sự đáp lại thế nào?...
Tôi nhớ, khi tuổi dần cao, thi lực
giảm đi nhiều, có lần ông tâm sự, rằng mắt kém nhiều khi không nhận ra người
quen nên không chào hỏi lại bị trách là khinh người. Thôi đành vậy, biết thanh
minh thế nào. Nhưng mà cũng có cái hay, nhìn người không rõ nét mặt, nên phụ nữ,
ai cũng thấy xinh, được nhiều hơn mất, Nguyễn Huy Dung cười rõ tươi. Chẳng bù
những năm tháng trai trẻ sung sức, đạp xe kẽo kẹt qua ngày qua tháng đi về giữa
Hà Nội và Sài Sơn, Quốc Oai thăm vợ con ở quê, rồi cả những chuyến đi cả tháng
trời dọc miền Trung nắng gió vào tận Cẩm Xuyên Hà Tĩnh để viết về giáo dục. Vừa
đạp xe người đẫm mồ hôi, đèo lỉnh kỉnh vật dụng, vừa nhẩm câu thơ trong đầu, lấy
đó làm động lực. Yêu thơ và làm thơ là thế đó.
Nguyễn Huy Dung, học chuyên ngành
văn Đại học Tổng hợp, rồi làm báo, làm thơ. Yêu thơ mà đeo đuổi nó, đâu vì trở
thành nhà này nhà nọ ở hội này hội kia. Thế nhưng, bạn bè giao du với mình đều
vào hội cả rồi thì mình cũng nên vào cho vui. Nhưng không hiểu sao, qua nhiều
mùa kết nạp vẫn chưa thấy tên ông. Đã có lần trong lúc trà dư tửu hậu tôi ướm hỏi,
ông bảo, à có nhà thơ đàn anh nọ có vai trò quan trong trong hội đồng vốn không
ưa ông, bởi nhà thơ đàn anh ấy nghe ai đó nói rằng ông chê thơ ông ta, vậy
nên... Nghe vậy thì biết vậy thôi.
Tiếng là nhà thơ thì quan trọng
nhất là làm ra thơ hay, nhưng không vào hội như bạn thơ cùng trang lứa, với
Nguyễn Huy Dung, nó cứ sao sao ấy... Những năm gần tuổi nghỉ hưu, mỗi mùa kết nạp
hội viên, Nguyễn Huy Dung vẫn có ý mong chờ, tôi biết thế... Nhưng không.
Có lẽ, với Nguyễn Huy Dung, đời
báo nghiệp thơ, thì đây là chút còn chưa toại nguyện của ông chăng?...
Mà cần chi đâu, chỉ biết là, hễ nhắc
đến nhà thơ Nguyễn Huy Dung, bạn yêu thơ lại nhơ câu thơ: “Một lát nữa mùa
thu sẽ đến”.
Thế là đủ!?...
NGUYỄN TRỌNG HUÂN
viết như người
rong chơi...
Tôi và Nguyễn Trọng Huân cùng trang lứa
với nhau, về tuổi đời và tuổi văn. Cả hai lại chung một lò đào tạo, Học viện
Nông nghiệp Việt
Thời bao cấp vất vả lắm, nên ngoài
công việc chuyên môn ở cơ quan, chúng tôi còn ham viết báo vặt, gửi đăng báo
đây đó để có thêm khoản nhuận bút. Khi đó báo viết khá thịnh hành, nhuận bút
cũng được nên cả tôi và Huân đều ham lắm. Tôi có dăm truyện ngắn, vài ba bài
thơ đăng rải các báo thì Nguyễn Trọng Huân lại thiên về bút ký, phóng sự, câu
chuyện truyền thanh,... Cứ vậy, cả hai lặng lẽ tích lũy vốn nghề, tích cóp vốn
liếng tiền bạc đặng lập gia đình, nuôi con cái... Cho đến khi có thể “ngẩng mặt lên” với mọi
người thì chúng tôi mới thân nhau, như cái lẽ phải thế!... Có lẽ nghề báo gắn với
nghiệp văn, cả hai lặng lẽ ganh đua ngầm, dần khiến chùng tôi xích lại gần nhau
hơn và trở thành bạn tâm giao. Giờ thì cái gọi là “gia tài văn chương” của cả
hai cũng không đến nỗi nào,...
Năm 2009, khi đó, tôi đang đi luân
chuyển tại văn phòng VOV Miền Trung (Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt
Nam tại khu vực miền Trung) đóng ở Đà Nẵng, Nguyễn Trọng Huân gọi điện vào,
bảo đã lập cho tôi một trang riêng trên một mạng xã hội (Blog Tiềng Việt)
và giục tôi tham gia. Tôi ngại không dùng, bỏ đấy một thời gian, cho đế lúc
Nguyễn Trọng Huân gửi cho tôi địa chỉ trang blog của anh. Tôi mở xem, thấy thú
vị và ngay sau đó gia nhập ngay mạng xã hội này. Vậy điều gì hấp dẫn tôi, khiến
tôi không thể cưỡng lại? Đơn giản, trang cá nhân của Nguyễn Trọng Huân, lấy đề
từ “Viết
như người rong chơi”. Hay quá, gợi quá,... vậy tại sao tôi lại không
tham gia cơ chứ? Viết như người rong chơi cơ mà. Như thế thì hà cớ chi, tôi lại
không rong chơi mà viết...
Quả vậy, Nguyễn
Trọng Huân coi nghiệp cầm bút, viết văn của mình như một cuộc rong chơi, rong
chơi dài dài, thích đâu dừng đấy, chẳng áp lực gì, không cần hội nay hội nọ,...
Hứng thì viết, không hứng thì làm việc khác, như vẽ tranh, nặn tượng chẳng hạn,...
Lẽ dĩ nhiên, với anh, viết vẫn là chính, là thế mạnh của anh.
Thoạt kỳ thủy
là những bài báo, phóng sự, rồi dăm ba truyện ngắn đăng tải các báo, Nguyễn Trọng
Huân dài hơi với truyện ký Bui vết tháng năm về cuộc đời mình từ
tuổi hoa niên ở quê đến những năm tháng học đại học và đi làm. Chưa có gì đáng
nói, chỉ là sự vỡ vạc nghề văn, cho đến khi xuất bản tập truyện ngắn Người
con gái năm Ất Dậu thì Nguyễn Trọng Huân mới khẳng định là một cây bút
truyện ngắn. Tiếp nối, cứ vài ba năm cho ra đời một tập truyện ngắn, Nguyễn Trọng
Huân đã là một cây bút chững chạc về thể
loại này trong làng văn. Truyện của anh có sự, giàu chi tiết, tốc độ nhanh, giọng
điệu khá hài hước, chút buông thả, song ngôn ngữ còn chưa mấy trau chuốt. Hình
như, anh không mấy quan tâm điều này? Cảm giác, Nguyễn Trọng Huân chẳng cần cân
nhắc gì, có chuyện là mần, cứ đều đều viết ra, đăng báo, và lâu lâu tập hợp lại
đủ cuốn là xuất bản. Tự nhiên như vậy, không quan xiêm chi, quả đúng với quan
niệm của mình, viết như một sự rong chơi, viết như người rong chơi mà thôi,...
Cai sự “viết như người rong chơi” ở Nguyễn Trọng
Huân còn biểu hiện ở cái cách anh đi thực tế. Kể cả khi còn công tác ở Đài TNVN
và sau này đã nghỉ hưu, Nguyễn Trọng Huân hay du hí một mình. Anh chọn một vùng
quê nào đó, tỷ như Tây Nam Bộ, hay Tây Nguyên mà theo mình cần tìm hiểu kỹ hơn,
hoặc mục đích khám phá, để thỏa mãn ý thích, hay để viết, thế là khoác ba-lô
lên đường. Một mình, chẳng vướng bận ai, phiền nhiễu đến ai, thích ăn ngủ đâu
thì dừng ở đó. Nguyễn Trọng Huân không e ngại, có thể làm cái việc “khất thực”
một cách tự nhiên thoải mái. Anh có thể tạ vào một nhà nào đó ven đường, uống
nước, cà kê chuyện vãn và vui vẻ dùng bữa cụng ly với chủ nhà. Kiểu cách vậy,
hóng được ối chuyện, để sau đó những tình tiết câu chuyện vào tác phẩm của
mình, cũng tự nhiên như cái cách khất thực. Nguyễn Trọng Huân kể lại những chuyện
đó cho tôi, cười khờ khờ đầy vẻ khoái trá. Tính cách Nguyễn Trọng Huân là vậy,
xuề xòa đễ dãi bỏ qua những tiểu tiết trong đời thường, sẵn lòng bệnh vực và
bao dung những gì mình cho là phải dù việc đó có thể bị cộng đồng chê trách này
nọ. Khi cần thiết, anh nổi tính gàn, sẵn sàng đấu khẩu đến cùng cả ngoài đời thực
hay qua mạng xã hội và hầu như chẳng thua bao giờ,... Cái tính cách ấy dường
như nhiễm cả vào các nhân vật truyện của anh.
Trở lại các
sáng tác của Nguyễn Trọng Huân. Với chừng trăm truyện ngắn, truyện hay (vào tuyển truyện chọn lọc), truyện thường,
Nguyễn Trọng Huân xác lập cho một giọng điệu riêng. Người viết văn, tạo được giọng
điệu riêng xem như thành công rồi, bởi điều ấy không dễ chút nào. Thực tế cho
thấy, nhiều người cầm bút cả đời mà chẳng có được giọng điệu riêng nữa là. Vậy
nên, cái chất văn khẩu ngữ, tưng tửng, hài hước, châm biếm trong các sáng tác của
anh dồn hết vào và được đảy lên ở tiểu thuyết Con người máy.
Trước hết, tôi
thấy, Con người máy của Nguyễn Trọng Huân đích thị là tiểu thuyết
đúng nghĩa. Nói vậy là có lý do của nó. Lại thực tế cho thấy vài chục năm gần
đây, ở ta mỗi năm, các nhà xuất bản cho ra hàng trăm tiểu thuyết. Các cây bút
không chuyên nghiệp, nhà văn chuyên nghiệp, thậm chí cả nhà văn đã thành danh thi nhau ra tiểu thuyết,
Phần lớn trong hàng trăm tiểu thuyết ấy là những câu chuyện đời mình của chính
tác giả hoặc chuyện của người thân, kể hết chuyện là xong tiểu thuyết, tuồn tuột,
nhạt nhẽo, không giọng điệu, cũng chẳng thông điệp gì. Cái gọi là “tiểu thuyết” ấy đầy dãy, vì người ta tự
in, rồi mang cho tặng lẫn nhau mà không mấy ai đọc, được mỗi việc ấy là thỏa
mãn thói hư danh của người sản xuất ra nó. Mất tiền in rồi lại mất tiền thuê
người đọc và giới thiệu, hoặc tổ chức ra mắt sách rầm rộ, đổi lấy vài bài viết
dăm câu ba điều tung hô trên báo vặt, nhưng vẫn mất tăm mất dạng như chưa hề
tôn tại. Hiện trạng văn xuôi nói chung và tiểu thuyết xứ ta là vậy, nên Con
người máy được xem tiểu thuyết dích thực đã là một thành công rồi.
Song Con
người máy không chỉ vậy, có chuyện, có giọng điệu riêng và thông điệp
rõ ràng. Trong thời đại 4.0 công nghệ phát triển vũ bão, trái tuệ nhân tạo (AI)
tham gia vào nhiều lĩnh vực khoa học, sản xuất, xã hội và văn học nghệ thuật, tạo
ra những hệ lụy đa chiều cho nhân loại. tiểu thuyết Con người máy phản ánh được
điều này. Thông điệp mà Nguyễn Trọng Huân gửi gắm vào cuốn sách của mình, ấy là sống trong xã hội loài người thời đại
khoa học công nghệ phát triển, trí tuệ nhân tạo và người máy thành thông dụng,
sẽ tạo nên một xã hội mà ở đó, người máy nhiễm tính người tốt và xấu,ngược lại,
con người thì lệ thuộc dần sơ cứng suy nghĩ và hành xử như người máy. Điều
này, chẳng phải xa xôi gì, nó đang hiển hiển nhãn tiền trong xã hội loài người
rồi đó.
Có lẽ, Nguyễn
Trọng Huân là người “tiểu thuyết hóa”
đầu tiên về người máy ở Việt Nam,
nhưng vấn đề này, đi tiên phong ở xứ ta chính là Lưu Quang Vũ. Mấy chục năm trước,
khi đang sung sức, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã “sân khấu hóa” chuyên người máy rồi. Vở kịch “Hoa cúc xanh
trên đầm lầy”, Lưu Quang Vũ đã đề cập mối tương quan giữa người thật và người máy. Tôi thích vở kịch
đó và với tôi, thêm “Hôn Trường Ba da hàng thịt” là hai vở xuất săc nhất
trong toàn bộ sự nghiệp sân khấu của ông. Mặc dù thông điệp của vở kịch không
nhằm vào mối tương quan này nhưng trong quá trình gửi gắm thông điệp về việc đi
tìm hạnh phúc đich thực của con người, tác giả đã đưa con người máy vào kịch để
giải quyết quan hệ thật - giả và sự lệ thuộc khuôn mẫu một cách máy móc của con
người. Gần đây, tôi và nhà thơ Trần Đăng
Khoa đã thử nghiệm trí tuệ AI trong lĩnh
vực văn học nghệ thuật nói chung. Với một câu lệnh chi tiết một chút, nagy lập
tức, AI cho ra sản phẩm (bài báo, câu chuyện, bài thơ, bài bình lập, phê
bình, bản nhạc hay bức tranh...) không đến nỗi nào, thậm chí khá hơn những
nhà chuyên nghiệp. Duy có thơ, AI còn non kém, phải chăng đây là một thể loại
thần bí mà trời đất ban tăng cho loài người nên thuật toán của AI chịu thua
chăng? Nhà thơ Trần Đăng Khoa cười khoan khoái, phán một câu xanh rờn “vậy là các nhà phải viết thật quái để AI khó bắt chươc được”. Vậy
trí tuệ nhân tạo là gì và như thế nào. Tôi nghĩ, loài người hãy cảnh giác. May
thay, điều này, Nguyễn Trọng Huân ít nhiều nói hộ chúng ta trong tiểu thuyết “Con
người máy” của mình.
Bàn tiếp, có
cảm giác, ở tác phẩm Con người máy, Nguyễn Trọng Huân vơ
tất cả những thói hư tật xấu của thiên hạ đem nhồi nhét phứa vào các nhân vật
chính của mình (vợ chông ông chủ, con người
máy, cụ trưởng ngõ) và cả đám nhân vật thấp thoáng xuất hiện tác giả cũng
không tha. Tác giả trở thành người lắm chuyện, biết tuốt và ôm đồm hàng đống
chi tiết nên giật dây điều khiển khá rối rắm. Chuyện kể cứ thật thật giả giả
làm nên sắc thái riêng, sự khoái hoạt. Theo tôi đây là cái được của tiểu thuyết
này. Có người chê, truyện viết không có văn vì thiếu chiều sâu, thiếu sự lắng đọng
khiến người ta phải nghĩ ngợi, day dứt, cũng có lý. Kết cấu mảng miếng rời rạc,
cứ như các mẩu chuyện vặt được lắp ghép vào nhau, Ngôn ngữ huỵch toẹt, trắng phớ,
cứ như tác giả vừa viết vừa bình luận....Đại khái vậy. Song tôi lại nghĩ, tính
khẩu ngữ, giàu chi tiết, lối dẫn chuyện tưng tửng, giọng châm biếm, khá hài hước
làm nên chất văn riêng của Nguyễn Trọng Huân đấy chứ, trong các sáng tác nói
chung và riêng đậm ở tiểu thuyết Con người máy. Chính những yếu tố
này tạo nên bầu không khí đặng liên kết các mẩu chuyện rời rạc vào với nhau làm
thành bộ khung mong manh giữ cho truyện đứng được, chung chiêng đấy nhưng không
bị đổ. Điểm yếu chí cốt của tiểu thuyết này, theo tôi là chưa tạo dựng được
không gian truyện phù hợp vì thế thiếu chiều sâu, lớp lang, nên thiếu dư ba.
Khi đọc, người ta có thể thấy thú vị chi tiết này, câu bình nọ, mẩu thoại kia,
cười vui đấy, nhưng qua rồi là nhạt đi ngay,... Văn chương khó là vậy !...
May thay, như
tôi đã bình, tính hoạt kê, châm biếm đồng thời làm nên chất văn Nguyễn Trọng
Huân mà cũng cứu vãn và vực dậy tiểu thuyết Con người máy của anh. Để
rồi, qua đó người ta nhận ra cái thông điệp quan trọng mà tác giả ký thác,...
Sau Con
người máy, Nguyễn Trọng Huân vẫn túc tắc viết truyện ngắn, nhưng chẳng
có gì bàn thêm. Song có điều này, cảm giác, Nguyễn Trọng Huân dồn hết tâm huyết,
vốn sống, trí não vào cuốn sách ấy nên kiệt sức, chuyển đam mê sang nghệ thuật,
tỉ như nặn tượng và vẽ tranh màu nước. cũng có chút thành tựu ban đầu, mấy bưc
tượng đất có hồn, vài bức tranh nên dáng. Nhưng rồi cũng chán và thôi cả,...
Nghệ thuật vốn không đùa.
Giờ thì Nguyễn Trọng Huân chỉ vui với
cô nàng Phây. Viết tút ngắn thời sự và luận chiến khi cần. Cũng thích du hí đấy
những tốn tiền. Chắc rồi lại viết thôi
?...
Thì viết như
người rong chơi kia mà!...
Nhàn tản Trương Hữu Lợi
1. Độ khoảng mươi
năm trước khi về nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi hay được anh em đồng nghiệp ở Đài
TNVN nhắc đến nhiều. Song không phải vì công việc chuyên môn, cũng không phải vì
chuyện văn chương, lại càng không phải do anh gây ra một xi-cang-đan nào, mà bởi
về sự nhàn tản. Hễ cánh viết nhà đài chúng tôi ngồi với nhau, khi tách cà phê nóng
buổi sáng, chén hoặc ly bia buổi chiều, loanh quanh thế nào rồi cũng nhắc đến
Trương Hữu Lợi, cùng cái sự nhàn tản ở anh.
Khi về công tác ở Đài TNVN, tôi mới
biết đến Trương Hữu Lợi. Ở thời điểm đó, tôi hay viết truyện cho thiếu nhi nên
thi thoảng đáo qua gửi bài nơi phòng Văn học thiếu nhi (thuộc Ban Văn học nghệ thuật) tại tầng 2 ngôi
biệt thự cổ trong trụ sở 58 Quán Sứ (cũ). Khi ấy, Trương Hữu Lợi là Phó phòng
biên tập và nhà thơ Lê Đình Cánh là Trưởng phòng.
Với nhà thơ Lê Đình Cánh, thì tôi đã
biết đến tên tuổi anh thông qua bài thơ Mẹ
ra Hà Nội được trao giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ, cùng với đó là những bài thơ lục bát nhuần nhuyễn, hóm
hỉnh. Ấn tượng của tôi lần đầu gặp, Lê Đình Cánh vồn vã và khéo, còn Trương Hữu
Lợi thủ thỉ, thân thiện. Và không lâu
sau lần gặp đầu tiên, tôi và Trương Hữu Lợi thành thân nhau. Anh sinh năm 1946,
tuổi Bính Tuất ( lý lịch ghi sinh năm
1948 ), hơn tôi những 11 tuổi, nên tình bạn giữa anh và tôi kiểu tình bạn
vong niên. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa đông người hay chỉ riêng hai anh em
với nhau, anh đều goi tên và xưng mình với tôi.
Cùng làm việc trong ngôi nhà chung 58
Quán Sứ, nhưng lĩnh vực công việc của chúng tôi khác nhau xa. Trương Hữu Lợi làm
biên tập mảng văn học nghệ thuật, sáng tác là nghề chính của anh, trong khi đó,
tôi làm ở Ban Thính giả, hằng ngày phải tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư của thính
giả, rồi soạn thảo văn bản gửi các bộ ngành, cơ quan hữu quan, trả lời lại cho
thính giả, một công việc tỷ mẩn, dễ nảy sinh bực dọc, và chẳng dính gì đến văn
chương cả. Song bù lại, tôi có điều kiện tiếp nhận, thấu hiểu thêm đời sống thực
tế xã hội của mọi tầng lớp người dân lúc bấy giờ, thời kỳ manh nha chuyển đổi từ
bao cấp sang cơ chế quản lý mới, mà khởi đầu là Chỉ thị 100 về khoán sản lượng
trong nông nghiệp. Và chính vì thế, tôi đã viết được nhiều truyện ngắn lấy chất
liệu từ đời sống xã hội đăng các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, Văn
nghệ Tp.Hồ Chí Minh v.v...
Tôi và Trương Hữu Lợi hay ăn trưa
cùng nhau nơi quán cơm bình dân trên phố Quán Sứ, hoặc Tràng Thi. Thi thoảng có
thêm nhà thơ Lâm Huy Nhuận (biên tập
viên Phòng Văn học, cùng Ban biên tập Văn học nghệ thuật với Trương Hữu Lợi),
thì gọi thêm đôi ba chén rượu. Hễ hôm nào hơi quá chén là Lâm Huy Nhuận cũng
cao hứng đọc thơ, đi vài động tác võ cổ truyền Bình Định quê anh, và quá thêm
chút nữa thì quậy tưng bừng...
Những lúc đi riêng với nhau như thế,
Trương Hữu Lợi hay thủ thỉ chuyện nghề báo ở Đài, rồi cả chuyện tình cảm lâm ly
bi đát của anh... đặc biệt là câu chuyện của anh với một nữ họa sĩ hơn anh mấy
tuổi. Sau này, chuyện tình cảm của họ đã qua đi, song họ vẫn coi trọng nhau, và
đã có lần, tôi theo Trương Hữu Lợi đến thăm nhà người nữ họa sĩ ấy. Sau đó, tôi
còn gặp nữ họa sĩ đó vài ba lần, không thấy chị nói gì đến chuyện ấy, song chị
luôn giữ vẻ trìu mến mỗi khi nhắc đến tên anh. Câu chuyện giữa họ, tôi chỉ được
nghe kể từ một phía. Đã có lần, tôi chơi nhà anh, Trương Hữu Lợi chỉ tay lên mấy
bức họa trên tường mà khoe rằng, đấy quà quà tặng của chị cho anh. Hiện tôi vẫn
nhớ mang máng hình ảnh mấy bức họa có bút tích của chị trong bộ tranh “Những
tâm trạng nàng Kiều”. Chẳng hiểu, giờ còn được treo ở nhà anh nữa không
?...
Trương Hữu Lợi có lối sống giản dị,
cách ăn mặc sạch sẽ song xuềnh xoàng. Nhìn dáng vể bên ngoài, thật khó ai biết
được, anh là người có mấy thứ hết sức đặc biệt, mà không mấy ai có được.
Ấy là, khi còn học phổ thông tại quê
nhà, Trường Cấp 2 Bắc Lý (nay là Trường THCS Bắc Lý), Lý Nhân, Hà Nam, anh là học
sinh xuất sắc, từng được đại diện cho lứa học sinh đội viên thiếu niên tiền
phong lên Hà Nội báo cáo thành tích với Bác Hồ.
Ấy là, anh đã từng học Đại học Lốt-di
(Lodzi) Ba Lan, chuyên ngành văn học, và là một người nhẩy đầm (khiêu vũ) khá giỏi, năm 1972 tốt nghiệp về nước, công
tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và ở liền một mạch cho đến khi nghỉ hưu.
Ấy là, anh từng làm phóng viên chuyên
mảng Nông nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam, nổi tiếng một thời với tư cách là
tác giả của loạt phóng sự điều tra về “khoán
chui” trong nông nghiệp miền Bắc thời bao cấp, góp phần vào việc Đảng và
nhà nước ta điều chỉnh chính sách, ra đời Chỉ thị 100 và Nghị quyết trung ương
10 về thực hiện khoan hộ, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, khởi đầu thời kỳ đổi
mới.
Ấy là, anh từng được đồng chí Trường
Chinh, khi ấy đương chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, gọi lên gặp, hỏi chuyện
hàng giờ đồng hồ, cho phép nói thật lòng suy nghĩ của mình về nông nghiệp, nông
thôn, nông dân ở ta ( “tam nông” ) ...
Quả là, mới chỉ liệt kê ngần ấy thôi,
đã thấy Trương Hữu Lợi ẩn chứa nhiều điều thú vị trong vẻ ngoài hết sức bình dị
ở anh...
Nhưng thôi, tôi chỉ kể những điều về
Trương Hữu Lợi trong lĩnh vực nghề nghiệp làm báo, sáng tác văn thơ và mối quan
hệ với đồng nghiệp, anh em, mà tôi biết hoặc chính anh nói cho nghe...
2. Trước hết, là con người làm báo
Trương Hữu Lợi. Mà nói đến anh với tư cách nhà báo, là gắn chặt với Đài Tiếng
nói Việt
Vâng, tại sao Trương Hữu Lợi lại đột
ngột rẽ ngang từ một phóng viên nông nghiệp nổi tiếng sang làm biên tập viên
Văn nghệ, vốn không phải là sở trường của anh? Việc này diễn ra trước khi tôi
bước chân về Đài Tiếng nói Việt
Số là, từng xảy ra mâu thuẫn trong
công việc giữa Trương Hữu Lợi và một người đồng nghiệp cấp trên trực tiếp. Lời
qua tiếng lại có, hiểu lầm có, mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Và một lần, giữa
phòng làm việc, bất bình, nóng giận vì cảm thấy bị xúc phạm, anh đã vác cả chiếc
ghế ngồi lao thẳng vào người đồng nghiệp cấp trên kia. May mà mấy đồng nghiệp
khác xúm vào can ngăn, chứ không biết hậu quả sẽ khôn lường... Rồi sau đó, qua
nhiều lần họp hành kiểm điểm nội bộ, Trương Hữu Lợi không phải là người có lỗi.
Song le, bát nước hắt đi thì chẳng thể bù lại cho đầy, người đồng nghiệp cấp
trên kia chuyển công tác qua vài cơ quan khác, tiếp tục giữ chức vụ cao hơn nữa.
Còn Trương Hữu Lợi như quả bóng xi hơi, anh mất dần tính cách của một phóng
viên nông nghiệp xông xáo, đầy chất phản biện. Từ chỗ, chỉ cộng tác với mảng
văn học thiếu nhi làm vui vì lòng yêu trẻ, anh chuyển hẳn sang vị trí biên tập
viên của Ban Văn nghệ Đài. Đây là bước chuyển quan trọng để biến một Trương Hữu
Lợi nhà báo thành một Trương Hữu Lợi nhà thơ.
Trương Hữu Lợi trở thành hội viên Hội
Nhà văn Việt
Chuyên tâm với mảng văn học thiếu
nhi, song Trương Hữu Lợi luôn tự biết
xoa dịu, thỏa mãn nỗi khát khao, nỗi niềm tâm sự của mình. Anh xuất bản 3 tập
thơ, “Hoa lạnh“ (1990), “Cõi hoang“ (1994) và “Nhịp ngựa hoang“ (2009). Hơn thế, khi
nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi còn kịp cho ra đời tiểu thuyết “Suối quên“ (2009).
Tiểu thuyết “Suối quên“ là tiểu thuyết duy nhất của Trương Hữu Lợi, và ngay lần
thử sức đầu tiên này, anh đã đẩy gần như toàn bộ hiện thực cuộc sống xã hội vào
cõi ảo. Trong cõi ảo, anh mặc sức quấy đảo câu chuyện, tha hồ khắc họa tính
cách nhân vật và đẩy các tình tiết lên đỉnh điểm, bất chấp phi lý, mà không sợ
ai đó boăn khoăn, căn vặn thực hư ra sao. Ấy là cái mới, những cũng là điểm yếu
của anh ở tiểu thuyết này.
Cùng sự thành công ở mảng văn học thiếu
nhi, theo tôi, thơ Trương Hữu Lợi khá ấn tượng. Bản thân anh là người duy tình,
sau này sống lặng lẽ, khiêm nhường, nên thơ anh nhìn chúng là âm tính, và khá
nhất quán trong cách thể hiện. Khó tìm thấy trong thơ anh những câu thơ ồn ào,
sống động, hay nhịp điệu gấp gáp, hào sảng. Trái lại, câu thơ lặng lẽ, ẩn ý, ẩn
dụ, ngôn ngữ chắt lọc, kỹ càng, nhất là khi anh viết về bản năng, bản thể. Sự
trăn trở trong anh cũng luôn có vỏ bọc. Hình như anh ngại nói trắng ra sự thật.
Nhưng đọc chậm, đọc kỹ, lại thấy được sự khát khao nơi anh âm thầm trỗi dậy, sự
hóm hỉnh, tinh nghịch cứ ẩn hiện, thấp thoảng đâu đó, khiến ta phải cười tủm...
Thơ Trương Hữu Lợi không phải là loại
thơ đọc trên diễn đàn, nơi đông người hội họp, mà là thơ đọc thủ thỉ khi đàm đạo
dăm ba người, hay riêng hai người với nhau...
3. Về nhà thơ Trương Hữu Lợi, cách
chơi với đồng nghiệp, bạn bè văn chương với nhau, rất đáng nể. Thời anh còn trẻ,
là phóng viên đầy nhiệt huyết và năng nổ thì tôi không được rõ, nên không lạm
bàn. Khi tôi về đầu quân nhà Đài vào năm 1987, và gần như ngay sau đó, tôi làm
quen và thân với Trương Hữu Lợi, anh đã thể hiện là một con người bình dị,
khiêm nhường rồi. Kể từ đó cho đến lúc ra đi mãi mãi, trong cái nhìn của tôi,
Trương Hữu Lợi là một người tử tế.
Vâng, chỉ hai từ “tử tế“ thôi, thiển
nghĩ, không dễ chút nào. Trong công việc, với tư cách là biên tập viên, trong
quản lý, tư cách một trưởng phòng, anh luôn mẫn cán, chu đáo, cẩn trọng và nhường
nhịn. Trong quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, anh em với nhau, anh hiền lành, cảm
thông, chia sẻ và hễ giúp ai được cái gì, kể cả tiền bạc, anh đều sẵn lòng,
không hề tính toán thiệt hơn. Đều này, ngần ấy năm, lại gần nhau hàng ngày, tôi
thấy, và hẳn nhiều người biết. Nhiều năm làm việc ở Ban Văn nghệ (sau là Ban Văn
học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam), nơi nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ,
nghệ sĩ nổi tiếng, và phần đông giàu cá tính, như : Hoàng Ngọc Anh, Nguyễn Bùi
Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Phương Trà, Trúc Thông, Trần Mạnh Thường, Lê Đình
Cánh, Tuấn Vinh, Lâm Huy Nhuận, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Cầm Phong, Trần Chung, Vũ
Thanh, Hồ Bắc, Thuận Yến, Thế Song, Văn Dung, Cát Vận, Lê Việt Hòa, Vũ Kim
Dung, v.v... Trương Hữu Lợi vẫn luôn giữ được sự nể trọng của mọi người. Việc
này, quả không dễ. Dưới quyền quản lý của anh, các phóng viên, biên tập viên trẻ
mảng văn học nghệ thuật của VOV trưởng thành nhanh chóng, bởi anh rất tận tâm,
tận tình trong việc hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm, khơi gợi cho họ phát huy sự
sáng tạo cá nhân, hơn là áp đặt, ấy là, anh biết cách quản lý nhân viên theo kiểu
“ đức trị “.
Trước đây, tôi và Trương Hữu Lợi
phiên chế ở hai ban khác nhau, Đầu năm 2008, hai đơn vị này nhập làm một, ấy là
VOV2 (Hệ phát thanh Văn hóa-Đời sống-
Khoa giáo), khi ấy, tôi đang là Phó Trưởng ban Ban biên tập Văn hóa xã hội,
được điều đi làm Giám đốc Cơ quan thường trú VOV khu vực miền Trung. Nhiều lần,
hai anh em ngồi với nhau, Trương Hữu Lợi cười hiền, chép miệng bảo: “Tiếc nhỉ, mình không được làm quân của Nhạc
ngày nào cả ...”. Thực ra, vì quý mến tôi mà nên vậy thôi. Khi tôi kết thúc nhiệm kỳ luân chuyển, quay về Hà Nội
thì anh đã nghỉ hưu rồi. Vậy là hai chúng tôi không được làm việc chung ban với
nhau dù chỉ một ngày...
Sao mọi người lại nhìn nhận anh sống
nhàn tản. Công việc nhà đài thì lúc nào cũng bận, cứ chương trình nối tiếp
chương trình, hết ngày này tháng khác, năm lại năm. Nhàn là sao đây? Trương Hữu
Lợi nhàn là ở cái tâm. Người xưa dạy “Tri túc tâm thường lạc“ (nghĩa là, biết đủ thì lòng an vui), thì anh là người
như vậy. Công việc luôn tận tâm, quyền lợi lại chẳng so đo, ganh tị với ai, nên
không yên vui sao được. Thời gian rảnh rỗi, anh sáng tác và ngao du đây đó, mạn
đàm văn chương với bạn bè. Trương Hữu Lợi có mấy sở thích, ấy là thuốc lá và
trà thơm; không uống được rượu, vài ly nhỏ thì mặt đỏ nhừ, say cả chấy, nhưng bạn
mời thì không chối từ, nâng lên đặt xuống làm vui, lấy cao hứng mà mạn đàm
thôi. Ấy là thăm viếng chiêm bái cảnh chùa chiền, đền miếu gần xa. Và, ấy là yêu...
Để ý nhiều năm, như thành chu kỳ vài
ba năm một, Trương Hữu Lợi, đổi chu kỳ hết yêu lại muốn đi tu, rồi đó lại yêu.
Lạ thế đấy. Tình yêu ở nơi anh, đồng nghĩa với cảm hứng sáng tác. Tôi hiểu vậy,
song hay đùa anh, vờ chất vấn về cái sự này, anh chỉ cười hiền hiền, tội tội,
như người có lỗi vậy. Anh không biết đi xe máy, cứ ngày ngày chiếc xe đạp ngoại
cũ kỹ cà tàng. Thi thoảng, kết thúc giờ làm, anh khoe đi café hay đi ăn với bạn
gái, rồi túi khoác lên vai, xuống gốc cây hè đường cổng cơ quan đợi bạn gái đi
xe máy đến đón, và ngồi sau xe máy phụ nữ ngon ơ.
Trương Hữu Lợi có một giai đoạn ngắn
sống khá vui vẻ thoải mái, ấy là sau khi nghỉ hưu, anh vào Thành phố Hồ Chí
Minh sống với con trai là kiến trúc sư công tác tại một đơn vị quân đội. Ở đấy,
anh làm quen với Việt An, người bạn thân thuở học trò của tôi, rồi hai người lại
làm quen với Trần Hồng Giang, một bloger của Blog Tiếng Việt khi đó cũng đang sống
với người chị ở đấy. Bộ ba thường xuyên giao du, chuyện trò, văn chương, thơ
phú, chữ nghĩa với nhau. Họ quý mến nhau, tôn trọng nhau lắm. Ở ngoài Hà Nội, tôi
vui và thèm lây bầu không khí ấm áp đầy ắp tình người ấy của họ.
Một thời gian, Trần Hồng Giang ra lại
quê ngoài Bắc, Nghĩa Hưng, Nam Định. Còn Trương Hữu Lợi thì phát hiện K phổi,
ra Hà Nội khám chữa bệnh. Thế là bộ ba mỗi người một nơi. Tuy vẫn liên lạc với
nhau qua mạng xã hội, qua điện thoại nhưng chẳng thể như trước nữa.
Trương Hữu Lợi nghiện thuốc là nặng.
Khi biết mình K phổi, anh giảm hút nhưng không bỏ. Nhiều người khuyên anh nên bỏ,
anh bảo: “ Mình K phổi có lẽ hậu quả của
mấy chục năm nghiện thuốc lá. Giờ bỏ thuốc, cũng đâu có khỏi được bệnh. Thôi
thì cứ thi thoảng làm vui, gọi là giải tỏa tâm trạng nặng nề, thêm can đảm mà
chống chọi bệnh tật. Âu có ích hơn là bỏ. Chừng nào không hút được nữa thì
thôi. Mới lại, chữa bệnh chứ đâu chữa được mệnh ...”.
Có một thời gian, anh khỏe hẳn lên. Đợt
ấy, tôi rủ anh đi Hà Giang, cùng đi có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn
Vĩnh Tuyền. Chúng tôi tổ chức tọa đàm nghề nghiệp cùng với Hội Nhà báo và Đài
phát thanh truyền hình tỉnh Hà Giang. Tại buổi tọa đàm ấy, Trương Hữu Lợi đăng
đàn hơn giờ đồng hồ về chuyện anh viết loạt phóng sự điều tra về “khoán chui “
thế nào. Chuyến đi ấy, chúng tôi băng qua vùng núi đất phía tây Hà Giang, qua
các huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần...Sáng chơi chợ Cốc-pài thị trấn
Xín Mần, Trương Hữu Lợi vui lắm, anh nhăm nhăm tìm mua một chiếc áo cánh chẽn
dân tộc Mông làm kỷ niệm.
Sau này, khi bệnh nặng thêm, đầu rụng
hết tóc, phải đội tóc giả, thi thoảng anh vẫn ghé qua trụ sở 58 Quán Sứ, ngồi
hàng giờ với tôi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện văn chương, vui vẻ ăn hết suất
cơm ở căng-tin cơ quan, chuyện trò với nhiều đồng nghiệp cũ...
Vâng, quả là trời đền bù cho Trương Hữu
Lợi ít nhiều, mùa thu năm 2013, Nhà xuất bản Kim Đồng lựa chọn xuất bản tập
truyện cổ tích và đồng thoại “Ngôi sao nhỏ
đi tìm ánh sáng“; Thi đàn Việt Nam tổ chức giới thiệu và giao lưu thơ
Trương Hữu Lợi; và chuyên mục “Thơ & cuộc sống“ của VOV2 tọa
đàm chủ đề “Trương Hữu Lợi và Khúc ru
mình“.
Khoảng một năm trước khi mất, anh hầu
như chỉ chống chọi với bệnh tật, ít viết. Không thấy anh công bố tác phẩm nào mới,
lâu lâu vẫn đăng đây đó những bài thơ cũ mà anh tâm đắc.
Tập thơ “Nhịp ngựa hoang“ (NXB Hội nhà văn, 2008 ), xem như thơ tuyển chọn
Trương Hữu Lợi, thay cho đề từ, anh viết “
Hoa lạnh,Cõi hoang, Vuông cỏ rối/ Đáy Suối quên chới với trăng buồn/ Canh dài vần
vụ mưa tuôn/ Cây gày bóng nghé bên cồn chơ vơ...”. Tôi nghĩ, anh muốn tổng
kết sự nghiệp văn chương của mình trong mấy câu thơ ấy...
Trương Hữu Lợi cả đời gắn bó với Đài
Tiếng nói Việt
Giờ đây, anh chẳng còn phải bận lòng
nhàn hay không nữa, khi đã là người của muôn năm cũ. Nhưng, với tất cả những gì
Trương Hữu Lợi để lại, hẳn đồng nghiệp và bạn bè sẽ luôn nhớ về anh !...
PHAN QUANG
tài hoa và bền bỉ...
Trước hết, tôi
xin được bày tỏ lòng kính trọng ông, của một người cầm bút, một đồng nghiệp báo
chí, văn chương thuộc thế hệ sau.
Ông là nhà báo, nhà văn Phan Quang; một
nhà báo lão thành và lão luyện; một cây bút tài hoa và bền bỉ; một con người suốt
đời miệt mài lao động chữ nghĩa;...
Bởi thế, viết
về ông thật khó, khi mà bản thân ông đã viết và xuất bản khoảng năm chục đầu
sách và có hàng trăm bài viết về ông của các tác giả trong và ngoài nước,...
Thế nhưng,
trong cái nền chung ấy, tôi nghĩ, vẫn có góc nhìn của riêng mình qua những gì
tôi biết và nghĩ về ông.
Phan Quang quê
Hải Lăng, Quảng Trị. Sinh ra trong một gia đình khoa bảng (có ông nội đỗ Cử nhân dưới triều Tự Đúc nhà Nguyễn) nên ông được học hành. Ông sớm gia nhập phong
trào thanh niên từ đầu năm 1945 và trong cách mạng Tháng Tám, Phan Quang tham
gia cướp chính quyền ở Quảng Trị. Kể từ đấy ông tham gia hoạt động cách mạng,
khi mới 20 tuổi, Phan Quang bước vào cuộc đời làm báo. Năm 1948, Phan Quang làm
báo Cứu
Quốc ở Quảng Trị, theo đó suốt cả cuộc đời cho đến tận bây giờ, ông miệt
mài cùng sự nghiệp báo chí, văn chương, kinh qua nhiều chức vụ trọng yếu ở các
cơ quan báo chí.
Phan Quang viết
được nhiều thể loại như phóng sự, điều tra, thời luận, tản văn, tùy bút, bút
ký, truyện ngắn, biên khảo, nghiên cứu và dịch thuật. song phải đến khi ông dịch
thuật tác phẩm “Nghìn lẻ một đêm” của tác giả Anoine Galland thì tên tuổi Phan
Quang về lĩnh vực văn học mới nổi bật. Những tác phẩm văn học thuở ban đầu của
ông tôi không có vinh hạnh được đọc nên không dám bàn, song tác phẩm khảo cứu “Đồng bằng sông Cửu Long” của ông thì tôi
thực sự ấn tượng. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1981 tôi vào
miềnTây Nam bộ trong vai trò một kỹ sư nông nghiệp tham gia khai phá đồng bằng
sông Cửu Long, tôi đã mang theo mình cuốn sách này của ông như một cẩm nang đặng
đối chiếu và so sánh với thực địa, cùng với đống sách kỹ thuật nông nghiệp. Hy
vọng và thất vọng đều có, nhưng xin
không bàn ở đây, chỉ biết là những gì ông viết trong đó đã mở mắt cho tôi nhiều
điều. Qua bài viết này, tôi muốn bày tỏ sự biết ơn Phan Quang vi cuốn sách đó của
ông!
Tiếng tăm ông
là thế nhưng phải khi về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) vào cuối
năm 1987, tôi mới gặp mặt ông. Khi đó, vừa giải thể Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam để thành lập Bộ Thông tin, Bộ mới này được thành lập
trên cơ sở của Ủy ban cũ, nên bộ máy quản lý của nó nằm chung trụ sở 58 Quán
Sư, Hà Nội với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Nhà báo Phan Quang được bổ nhiệm
Thứ trưởng bộ mới, giúp việc cho Bộ trưởng, nhạc sĩ Trần Hoàn. Ban biên tập Thính giả của tôi nằm
chung trụ sở này, nên hàng ngày đi làm hay chạm mặt Phan Quang. Chung chỗ, khác
cơ quan, vả lại dáng vẻ ngoài ông nghiêm cẩn nên không dễ gần. Chạm mặt ông thì
chào xã giao vậy thôi.
Nhưng rồi, đâu
đó vài năm, Bộ Thông tin sáp nhập vào Bộ Văn hóa rời về phố Ngô Quyền, nhà
báo Phan Quang được điều động làm Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), ông trở thành thủ trưởng cao nhất cơ
quan tôi. Trớ trêu thay, phòng làm việc của chương trình phát thanh Tiếp chuyện bạn nghe đài của chúng tôi ở
tầng 3 ngay trên chính phòng làm việc của TGĐ Phan Quang ở tầng 2. Hàng ngày, gặp
mặt chan chát ở cầu thang bộ. Mấy chị em nữ cùng phòng tôi bắt đầu biết ăn diện
son phấn váy vó và giày cao gót đi lại lộp cộp lắm. Lâu lâu, anh cán bộ Ban
biên tập lại cau mặt nhắn bảo dạy dỗ “Này
mấy cô, đi lại nhẹ cái chân thôi, anh Phan Quang nhờ tôi nói lại giùm là các cô
cứ gõ gót giày ầm xuống phòng của anh ấy, khó tập trung làm việc lắm... Anh ấy
là người lịch sự tinh tế nên chỉ nhắn thế, chứ không mệnh lệnh đâu nhé”. Mỗi
lần vậy, mấy chị em le lưỡi so vai bụm miệng cười bảo nhau nhẹ nhàng, nhưng rồi
lại quên, đâu đóng đấy. Có là Tổng giám đốc thì cũng đành bấm bụng chịu thôi.
Là lãnh đạo cao nhất của Đài TNVN, ông kiêm cả
chức vụ Tổng thư ký rồi Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, đồng thời cũng là đại biểu
Quốc hội mấy khóa liền, nên đi công tác trong và ngoài nước liên miên nhưng ông
rất chu đáo quan tâm đến các việc nhỏ riêng của nhân viên thuộc cấp. Bằng chứng,
có lân gặp, ông lưu tôi ở sảnh trước cửa phòng làm việc của ông, bảo: “Cậu chịu khó viết nhỉ. Tôi có đọc mấy truyện
ngắn của cậu đăng trên báo. Được đấy. Đừng bỏ văn , văn và báo bổ trợ cho nhau
cũng tốt mà”. Tôi hiểu ông khuyên tôi như cái cách ông đã làm, báo và văn
song hành. Tôi nghe theo bởi thực tâm tôi thấy hợp lý. Khi cưới vợ, tôi băn
khoăn việc đưa thiếp mời ông dự, tôi ngại không mời thì thất lễ mà mời thì ông
bận bịu vậy chắc khó dự, nhưng rồi vẫn gửi thiếp mời. Quả nhiên, ông bận đi
công tác nước ngoài song vẫn nhớ gửi thiếp qua thư ký riêng của mình đến tôi,
chúc mừng hạnh phúc và cáo lỗi không dự được. Đủ thấy ông lịch thiệp và chu đáo
thế nào. Nhưng thôi bởi ở đây, tôi muốn phác thảo con người văn chương của ông.
Chỉ riêng lĩnh
vực văn chương, Phan Quang viết khá sớm và
đều tay. Năm 1954 ông đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tay, rồi song hành
cùng nghề làm báo, ông viết văn và dịch thuật (tiếng Pháp). Vì song hành
báo-văn nên hai lĩnh vực này trong các tác phẩm của ông ảnh hưởng và chi phối lẫn
nhau, không hãm mà đôn nhau lên. Ông viết báo có chất văn, và viết văn lại thấy
sự sắc sảo và tính thời luận của báo. Với nhiều người khác ở ta, kiểu nửa văn nửa
báo thường là hãm nhau, làm giảm chất lượng chung, nhưng với Phan Quang thì
không, ông là số ít, nếu không nói duy nhất thành công ở định dạng này. Tôi
nghĩ, sở dĩ vậy, ông quá hiểu sự chông chênh đó mà vẫn lựa chọn phong cách này
là bởi tính chất song hành của công việc bó buộc, còn thành công được là nhờ
ông giỏi văn phạm, chữ nghĩa trau chuốt trên nền tảng của kiến thức uyên thâm.
Vô hình chung, Phan Quang đã tạo dựng nên một phong cách văn-báo của riêng mình.
Đọc Phan
Quang, dù ngắn hay dài, chí ít người ta đều thu hái được thông tin hay thông điệp
gì đây mà không thấy uổng công. Vậy thôi nhưng không dễ, bởi phải có tính
chuyên nghiệp cao. Xin không bàn rộng, tôi lấy mấy bài bút ký của ông mà tôi rất
ấn tượng để bàn luận đôi điều như một minh chứng cụ thể ...
Ở bài viết về
những suy nghĩ bên mộ vua Tần, Phan Quang mượn cớ chuyến ông viếng thăm khu
lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc mà bàn rộng ra lịch sử
và văn hóa Trung Hoa mấy ngàn năm; sự hình thành nền văn minh Hoa Hạ; sự hình
thành các hệ tư tưởng (Bách gia chư tử);
sự tạo dựng nhà nước phong kiến phân quyền và tập quyền; sự mâu thuẫn chính trị
quyền lực, sắc tộc, tôn giáo trong xã hội Trung hoa cổ và trung đại ; sự xâm
lăng và bị xâm lăng cùng tính hai mặt của chiến tranh v.v...
Ở bài bút ký
viết về nghĩa trang danh nhân ở Paris, Pháp – nghĩa trang Père-Lachaise, nơi
yên nghỉ ngàn thu của người chết trong đó có nhiều danh nhân châu Âu và thế giới,
được xem như công viên cho dân Paris và
khách thập phương du lịch, Phan Quang lại bộc lộ sự am tường về văn minh văn
hóa phương Tây. Đọc bài viết của ông về nghĩa địa dành cho người chết là để cho
người sống nghĩ về quá vãng, suy ngẫm hiện tại và chờ đợi tương lai. Tịch mịch
mà không u ám, thú vị xen chút hoài niệm, ý thức về sự nhẹ nhàng của cái chết
cùng sự vĩnh hằng của con người nên không thấy sợ... và quan trọng người ta ý
thức được giá trị của sự sáng tạo cống hiến khi còn sống,... Khách tham quan
như cảm nhận được anh linh các danh nhân
lừng danh một thời đang dạo chơi đâu đó trong vườn cây nghĩa trang, Honorre de
Balzac, La Fontaine, Moliere, Colette, Ferèdẻic Chopun, Osca Wilde...
Một bài viết nữa
của ông về chuyến hành phương Bắc của một vị hoàng đế triều Nguyễn, từng đi qua
và nghỉ đêm ở làng quê ông thuộc Hải Lăng, Quảng Trị. Gia đình ông là gia đình
khoa bảng, khá giả nên cũng là chỗ nghỉ đêm cho đám tùy tùng của nhà vua. Câu
chuyện ông thuật theo lời kể trong gia đình ông đã cho thấy phần nào diện mạo của
triều chính nhà Nguyễn khi ấy và rộng ra là xã hội Việt Nam nghèo nàn lạc hậu
trong bối cảnh thoái triều của nhà Nguyễn, đồng thời cũng thấp thoáng ánh lửa của
sức mạnh nhân quần đòi quyền sống dưới sự cai trị của chế độ thực dân phong kiến,...
Đương nhiên,
ngoài mấy bài viết mà tôi dẫn ra minh chứng cho một phong cách văn-báo của Phan
Quang, ông còn nhiều bài viết, cuốn sách khác hay và bổ ích. Tới nay, sau ngót
70 măm cầm bút, Phan Quang đã cho ra đời trên dưới năm chục đầu sách, điều đó
cho thấy sức lao động cần mẫn và bền bỉ của ông. Có lẽ, trong làng báo làng văn
xứ mình hiếm người đạt được những con số
ấy như ông?...
Gặp mặt thấp
thoáng ở cơ quan thì nhiều lắm, nhưng gặp riêng và chuyện lâu thì tôi hân hạnh
tiếp kiến ông đôi ba lần. Ấy là vào dịp Đài (VOV) kỳ niệm 70 năm thành lập
(07/9/2015), theo hẹn trước, Phan Quang đến phòng làm việc của tôi ở tầng 7 trụ
sở 58 Quán Sứ. Tiếp riêng ông, tôi có phần ái ngại, đơn giản bởi phòng làm việc
của tôi, cấp trưởng ban mà rộng gấp đôi và tiện nghi đầy đủ hiện đại hơn phòng
làm việc của ông trước đây khi còn đưởng kim Tổng giám đốc Đài. Thấy ông vui vẻ
bình thường, tôi bớt phần ái ngại. Thày trò rủ rỉ bao nhiêu chuyện, báo chí văn
chương, quá khứ hiện tại... Hôm ấy trời mưa rả rích, tới trưa tôi giữ ông mời
dùng bữa trưa tại căng-tin nhà đài nhưng ông nhẹ nhàng từ chối khéo bảo sáng đi
đã hẹn vợ về ăn cơm. Còn lần sau vào đầu thu năm 2017, Phan Quang ra sách mới,
tập bút ký “Từ nguồn Thạch Hãn đến bờ Hồ
Gươm”, ông mượn phòng họp của Đài để làm nơi tổ chức lễ ra mắt sách. Cả một buổi chiều, ngồi giúp
ông ký tặng sách, lại rỉ rả hầu chuyện đỡ việc ông. Cảm giác thật gần gũi và ấm
áp bên người đồng nghiệp lớn.
Phan Quang từng
kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau nên dù không định nhưng tôi vẫn muốn
đưa ra nhận định theo góc nhìn của mình. Ở mỗi vị trí lãnh đạo, quản lý nhà nước
hay chuyên môn, công tác Hội, Phan Quang đều làm tròn vai nhưng ông không phải
là nhà quản lý giỏi. Có lẽ, tính nhân văn, lịch lãm pha chất hào hoa trong con
người ông đã khiến ông khó có thể thể mạnh tay quyết đoán trong quản lý hay xử
lý một ai đó liên quan đến thân phận con người. Theo tôi, ông có vai trò quan
trọng việc góp phần đưa dòng chủ lưu báo chí nước nhà hòa nhập với báo chí thế
giới qua tổ chức OIJ (Tổ chức Nhà báo Quốc
tế). Thế nhưng, không phải ai cũng đánh giá cao, việc này từng bị một số đồng
nghiệp phê phán là hữu khuynh. Riêng thời gian quản lý ở Đài TNVN, ông chủ trương tăng cường tính bình luận các vấn đề thời sự
nóng bỏng, những vấn đề cần làm ngay (thời kỳ này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh phát động “Những việc cần làm ngay” - N & L). Ông cũng bắt đầu nhận
thấy lối phát thanh cũ (các chương trình đóng cứng, phát thanh ngăn kéo) tỏ ra
không phù hợp với sự biến động và phát triển của xã hội nên cho thử nghiệm một
số chương trính phát thanh mở (như “Tạp chí truyền thanh”, FM Tin tức
và âm nhạc…).
Phan Quang,
tài hoa và bền bỉ. Giờ đây, ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa ngừng nghỉ.
Và như thế, bạn đọc vẫn có quyền mong chờ những đầu sách mới của ông,..../.
THANH TÙNG, NGƯỜI HẦU
CHUYỆN,...
Câu cửa miệng của ông, Thanh Tùng, người hầu chuyện. Thua các cụ,
trong chương trình CLB Người cao tuổi hôm nay, Thanh Tùng xin được hầu chuyện,...
Các thính giả của Đài Tiếng nói Việt
Nam, nhất là thính giả cao tuổi trong nhiều năm quen nghe thưa gửi này của nhà
báo Thanh Tùng, biên tập viên Chương
trình phát thanh Câu lạc bộ của những
người cao tuổi trên sóng VOV2. Thính giả quen, các biên tập viên ở Đài
cũng quen, đến mức nếu vì lý do nào đó, chương trình ấy do biên tập viên khác dẫn
là cảm thấy thiêu thiếu nhơ nhớ,...Như thế, với người làm báo, nhất là báo phát
thanh, là đạt tới đỉnh cao của nghề nghiệp rồi đấy!...
Tuy học hành dang dở, chưa có bằng đại
học, nhưng Thanh Tùng là con nhà nòi của nghề cầm bút nên sớm theo nghiệp cha.
Thân sinh của Thanh Tùng là nhà văn Hoài An, người gác cửa văn xuôi của Báo Văn Nghệ một thời Ông đưa người con
trai cả ra vùng đất mở Quảng Ninh làm công nhân rồi sang nghề cầm bút. Bấy giờ,
Quảng Ninh là vùng đất sôi động, là công trường lớn của miền Bắc XHCN nên các
nhà văn hay chọn đi thực tế sáng tác. Tự thân vùng đất này cũng là vườm ươm những
tài năng văn chương trẻ với các cây bút Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cương, Trần Nhuận
Minh, Yên Đức, Sĩ Hồng... hợp thành dàn văn thơ trẻ nên Thanh Tùng lấy đó mà
làm động lực theo nghề cầm bút. Song Thanh Tùng mới chỉ làm báo ở báo Quảng
Ninh, chuyên viết tin bài tuyên truyền là chính, nuôi chút mộng văn chương mà
thôi.
Rồi Thanh Tùng trở về Hà Nội, bỏ lại
vùng đất nỏ sôi động với một mối tình dang dở, để rồi nó đeo đẳng cả đời ông đến
mãi sau này. Thanh Tùng về Trung ương Đoàn làm phóng viên Phát thanh Thanh niên,một thời gian rồi chuyển sang Phòng phát thanh Công nghiệp và phân phối
lưu thông. Năm 1987 khi tôi về làm phóng viên Đài TNVN (VOV) thì ông đang ở
đây. Thời ấy, tôi nhìn Thanh Tùng đầy ngưỡng mộ, bởi kinh tế bao cấp khó khăn
mà hàng ngày Thanh Tùng đi làm, áo sơ mi xơ vin quần trắng cưỡi con xe Vespa
màu bạch kim nổ phành phạch lướt trên đường đầy vẻ trang nhã thanh lịch. Người
ta bảo, vợ Thanh Tùng dạy nghề cắt may thu bộn tiền nên Thanh Tùng mới có xe
sang vậy. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng rõ là nhà khá giả. Lần nữa thế nào rồi Thanh Tùng chuyển sang
Ban Văn hóa xã hội, làm trưởng phòng Phát thanh dành cho người cao tuổi. Không
rõ trước đó Thanh Tùng viết báo hay dở thế nào nhưng từ khi ông làm phát thanh
dành cho người cao tuổi thì Thanh Tùng nổi danh thành một thương hiệu khá đặc
biệt của VOV. Thính giả yêu quý Thanh Tùng, gọi điện đến và gửi thư về nhà Đài
khen ngợi Thanh Tùng nhiều lắm. Chương trình phát thanh Câu lạc bộ của những người cao tuổi do Thanh Tùng phụ trách, nhất
là các buổi do Thanh Tùng trực tiếp thực hiện được đồng dảo thính giả yêu
thích. Nói vậy, cũng có người chê này nọ, rằng Thanh Tùng dẫn mộc, nôm na, đọc
thơ, ngâm thơ véo von trên sóng như vậy là tự “nhiên chủ nghĩa”. Thanh Tùng đã làm cái việc mà từ ngày khai sinh
nghề báo phát thanh Việt
Thời gian ấy, tôi về cùng ban với
Thanh Tùng, phụ trách chương trình phát thanh Diễn đàn các vấn đề xã hội, rồi lên làm Phó trưởng ban biên tập nên
thành cấp trên trực tiếp của Thanh Tùng. Tuy là cấp trên nhưng tôi tôn trọng
Thanh Tùng lắm bởi ông hơn tôi chục tuổi lại có tuổi nghề tuổi Đài cao hơn. Lúc
này, Thanh Tùng vượng nghề và vượng cả nghiệp văn. Trong vòng dăm năm, ông cho
ra mấy tập sách. Truyện ngắn, của Thanh Tùng viết có chuyện, có chi tiết, câu
chữ chuẩn chỉ. Có điều văn chưa mấy hoạt, nặng về tả thực thiên chất ký. âu
cũng là cái riêng của Thanh Tùng. Sau vài tập sách mỏng, dường như Thanh Tùng nản,
xem như hết duyên văn chương, dần cạn vốn, chỉ còn chuyên tâm vào việc “hầu chuyện các cụ” mà thôi.
Thời gian này, tôi và Thanh Tùng khá
thân nhau. Ông hay mang chuyện cũ, những chuyện thời trẻ ở Quảng Ninh, ông sống,
yêu và viết báo ra sao. Có những buổi chiều, tôi ngồi chờ duyệt bài còn Thanh
Tùng cũng xong công việc, anh em tôi ra bàn trà ngoài sảnh rỉ ra chuyện cả giờ
đồng hồ về văn chương và chuyện đời nên tôi ít nhiều hiểu tâm sự của ông. Trong
các mẩu chuyện vụn về vùng đất mỏ Đông Bắc thời trai trẻ, tôi cảm nhận từ nơi
ông chút gì đó u hoài, qua vẻ mặt và những câu cảm thán hay tiếng thở dài nhè nhẹ
như thầm trút ra nỗi niềm gì đó canh cánh trong lòng?...
Quả nhiên, một biến cố lớn đến với
Thanh Tùng, hiển nhiên như một trò đùa của số phận,... Tôi đã đắn đo trong câu
chuyện viết về ông, kể hay không, viết rồi lại xóa. Bởi chuyện đời và nghề của
ông gắn liền với nhau, nên đành sơ lược vậy,…
Chuyên là, một hôm, cả ban biên tập
đông người đang giờ làm việc, Chỉ có tiếng bàn phím lách chách. Thanh Tùng cũng
gõ máy lóc cóc. Ông không dùng máy tính mà quen gõ chiếc máy chữ cũ. Chợt tiếng
chuông điện thoại vang lên, cô biên tập viên trẻ nhấc máy nghe quen việc thính
giả gọi tới phản ánh này nọ. Thính giả muốn gặp Thanh Tùng. Ông nghe máy, đối đáp mấy câu với người gọi tới,
hình như có một cuộc hẹn gặp giữa ông với người ấy. Một ai đó cất tiếng bông
đùa “Nghe … cứ như… con rơi nhận bố thì
phải?”. Cả ban biên tập cười ầm lên,đùa vui mỗi người một kiểu. Thanh Tùng
đỏ bừng mặt, lúng túng thanh minh thanh nga gì đó. Mọi người càng đùa thêm. Ai
dè, câu đùa ấy lại thành sự thật.
Ít hôm sau, như hẹn trước, Thanh Tùng
có điện thoại từ bảo vệ cơ quan gọi ông xuổng cổng gặp người quen. Ông đi đâu
đó chừng hơn tiếng rồi quay về cơ quan dắt theo một chàng trai trẻ chừng ngoài
ba mươi tuổi, dàng dỏng cao, gương mặt sáng sủa. Mọi người ngạc nhiên và thầm
đoán. Thanh Tùng vừa bẽn lễn vừa hồ hởi, giới thiệu với mọi người, đây là con
trai ông, kết quả mối tình đầu của mình với một người đàn bà gôc Hải Dương thời
ông làm báo ở Quảng Ninh hơn ba chục năm trước, Cả ban biên tập ồn lên vui vẻ,
thôi thì muôn vẻ đùa. Chàng trai đầy vẻ tự tin, nói năng thưa gửi chững chạc lắm.
Mừng và cũng lo lo cho hai cha con.
Chuyện dài dòng tiếp theo và qua đi một
cách thuận lợi cho việc bố con Thanh Tùng nhận nhau và cả chuyện hai bên gia
đình gặp nhau cũng suon sẻ. Thật may cho Thanh Tùng. Những ngày ấy, ông sống
trong trang thái mất cân bằng nên việc công sở có phần chểnh mảng. Mọi người,
ai cũng thông cảm và chia sẻ niềm vui với ông.
Dần dà, tôi được Thanh Tùng kể cho
nghe để ngược thời gian biết về mối tình dang dở mà đơm hoa kết trái này của
ông. Ngày ấy, Thanh Tùng làm phóng viên báo Quảng Ninh còn cô gái gốc Hải Dương
này làm kỹ thuật trực máy tiếp song ở Trạm truyền thanh một huyện miền núi Quảng
Ninh. Cô gái khá xinh và hiếu động nên thu hút nhiều chang trai chưa vợ… Họ yêu
nhau thắm thiết. Sau này, tôi quen một nhà thơ, chuyện tình cờ biết ông cũng từng
là vệ tinh của cô gái ấy ngày đó. Giờ mà ông nhà thơ này vẫn tỏ vẻ ghen tức Thanh
Tùng may mắn có được cô gái ấy.. Thế đủ biết là chuyện tình anh chị xưa ghê thế
nào.
Theo lời kể của Thanh Tùng, mối tình
đẹp như mơ ấy lại nhanh chóng rạn nứt và hai người chia tay nhau đúng vào thời
điểm đâm hoa kết trái. Chàng về thủ đô còn nang ở lại và lấy chồng ngay đó. Thật
hư ra sao thì chỉ họ biết với nhau? Chuyện gia đình Thanh Tùng chấp nhận người
con riêng của ông thoạt đầu suôn sẻ, êm xuôi nhưng rồi mảy sinh trục trặc.
Thanh Tùng nghỉ hưu, còn tôi đi nhận công tác ở Đã Nẵng phụ trách VOV MIền
Trung nên không rõ chuyện. Chỉ biết việc không thành và sau đó sức khoe của ông
yếu dần.
Sau này thi thoảng gặp Thanh Tùng
cũng ngại không nỡ hỏi chuyện cũ, vì sợ đụng vào nỗi đâu của ông. Cũng chẳng thấy
ông viết lách gì thêm nữa. Trước đây mơ hồ cảm tính, có cớ nhận nhau theo cách
nói dân gian “cá vào ao ai người ấy được”, nay giấy trăng mực đen kết quả thử
di truyền rõ ràng thế nên chẳng còn cớ gì để nhận nhau, gặp nhau nữa. Một kết cục
không có hậu với ông và chàng trai kia. Lại nghe ai đó bảo, thấy đâu đó cậu
chàng xuất hiện trên mạng xã hội, than ai là cha tôi, cha tôi ở đâu,... Nghĩ mà
thương. Chuyện thật của Thanh Tùng thì tôi đã lấy cốt, bồi đắp thêm da thịt viết
thành một truyện ngắn. Không nói lại ở đây.
Bằng đi mấy năm, tôi gặp lại ông
trong một lần ban biên tập cũ mời các thành viên đã từng công tác và đã nghỉ
hưu của Ban, Thanh Tùng già yếu tiều tụy đến mức vợ ông phải dìu ông đến. Chỗ
đông người nên cũng chỉ gật đầu chào xã giao nhau mà chẳng chuyện được gì. Ông
mất đã dăm năm nay.
Người thì thiên cổ những chuyện đời
đâu có cũ. Vẫn còn đấy những câu hỏi trời hỏi đất vu vơ của anh chàng nọ?...
Và cũng còn đấy, như một huyền thoại
nghề báo phát thanh của chúng tôi, Thanh
Tùng, người hầu chuyện các cụ!...
THẤP THOÁNG TRÚC THÔNG
Mùa thu
năm 1987, tôi bước chân vào ngôi nhà 58 Quán Sứ Hà Nội, bắt đầu cuộc đời làm
báo chuyên nghiệp của mình. Khi ấy. Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt
Thế rồi, dịp
tết năm ấy, biên tập viên Thu Liên, người cùng phòng với tôi, con gái của nhà
thơ Nguyễn Bùi Vợi, bảo : "Em nghe bố
em nói, chương trình Tiếng thơ đêm ba mười tết này anh có một bài thơ được phát
sóng đấy". Thật tình, tôi nghe mà không tin, Quả nhiên, bài thơ của tôi được đứng chung với các bài thơ của các
tên tuổi làng thơ Việt trong chương trình Tiếng Thơ tết năm ấy. Nghe mà sướng
run người vì không tin vào tai mình. Sở dĩ, tôi nhắc lại sự việc này là để nói
tới một ban biên tập văn học thời ấy của
Đài Tiếng nói Việt Nam với các nhà thơ nhà văn, biên tập viên kỳ cựu. Cùng với
nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, còn có nhà thơ Trần Nhật Lam và vợ ông-biên tập viên
Nông Thị Nhuận (một trong những biên tập
viên thế hệ đầu của chương trình phát thanh Tiếng Thơ nổi tiếng), nhà thơ Trần Nguyên Vấn, nhà thơ Trần Mạnh
Thường, nhà thơ Trúc Thông, nhà văn Tuấn Vinh, nhà thơ Lâm Huy Nhuận,...Để lọt
qua các con mắt xanh, nhất là Trúc Thông thật không phải dễ. Và đấy cũng là cái cớ để sau đó tôi lân la
làm quen với các “nhà”, các “cây” của Ban Văn nghệ. Cùng với việc,năm 1978 khi
còn là sinh viên, đã có thơ đăng báo Văn
nghệ, nay lại có thơ phát trong
chương trình Tiếng Thơ tết, tôi thêm phần
tự tin để theo đòi mộng văn chương.
Thú thực
ngày đó, dù yêu văn học nghệ thuật đến mấy, bảnthân đã có thơ và có truyện ngắn
đăng báo Văn Nghệ, những tôi ngại bén mảng đến Phòng phát thanh Văn học,
mà chỉ hay ghé Phòng phát thanh Văn học thiếu nhi, nơi nhà thơ Lê Đình Cánh và
Trường Hữu Lợi phụ trách.
Khi ấy, Ban Văn học nghệ thuạt (Đài TNVN)
cùng với Báo Văn nghệ, (Hội
Nhà văn Việt Nam) Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, (Bộ Quốc phòng) và Tạp chí Văn
học (Viện Văn hiọc thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam) thực sự là Tứ trụ về lĩnh vực Văn học Việt Nam. Có thể nói, ở đấy, chủ trương, quan điểm , sự
chỉ đạo về văn học nói riêng và văn hóa
văn nghệ nói chung được thể hiện rõ nhất. Đó cũng chính là yếu tố cơ bản làm
nên cái uy của những cơ quan này trong làng văn học nghệ thuật ở nước ta. Cũng
vì lẽ ấy, các văn nghệ sĩ, nhà thơ nhà văn, các biên tập viên làm việc ở đấy được
hưởng lây cái uy .
Với những
ai đó oai thế nào thì tôi không rõ, song với văn nghệ sĩ người nhà Đài thì
không. Trúc Thông không giống các đồng nghiệp như nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Trần
Nhật Lam, Trần Nguyên Vấn, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh ở sự giản dị, dễ gần,
mà cũng không thoải mái, cởi mở như nhà thơ Trương Hữu Lợi, Lâm Huy Nhuận,,,
Ông nhẹ nhàng, lịch thiệp đấy song không
dễ gần. Thế nên, mỗi khi gặp hoặc tiếp xúc gần với ông, tôi đều giữ sự kiêng nể,
cẩn trọng trong thái độ và lời ăn tiếng nói. Tôi cảm nhận từ ông, gần đấy mà xa
ngay đấy, dễ chịu dấy nhưng khó tính ngay đấy,...
Với tư
cách nhà thơ, Trúc Thông có xuất bản vài
tập tiểu luận phê bình văn học và bình thơ, song tôi nghĩ, sự nghiệp chính của
ông vẫn ở thi ca. Mà chủ yếu là những tập thơ: Chầm chậm tới mình (1985),
Maraton
(1993), Một ngọn đèn xanh (2000)
và Vừa
đi vừa ở (2005). Năm 2017, nhà thơ Trúc Thông được Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, là sự hgi nhận xứng
đáng cho những đóng góp của ông trong lĩnh vực thi ca. nhất là sự tìm tòi không
mệt mỏi trên hành trình đổi mới thơ Việt
thời kỳ hiện đại,...
Trước hết,
Trúc Thông thuộc số các nhà thơ theo đuổi
chủ trương đổi mới thơ Việt. Ông cẩn trọng, kỹ lương và có gì đó cầu kỳ trong từng
câu chữ, đến tít bài thơ và cả trong việc
đặt tên tập thơ. Tôi nghe một nhà thơ kể rằng, một nhà thơ đàn anh và là
đồng nghiệp của Trúc Thông từng nhận xét về thơ ông, “Trúc Thông là người đau chữ đau
câu,...”. Không rõ thực hư sao,
nhưng cứ lẽ mà suy thấy có lý. Trở lại với việc nhà thơ Trúc Thông đặt tít bài,
têt sách thì biết. Nghe đâu, cũng như việc ông đặt tên cho con, các ái nữ của
mình....
Nói có lý,
còn bởi, đã có lần, trong lúc đàm đạo văn chương ở Ban Văn học nghệ thuật nhà
đài, tôi nghe Trúc Thông cao hứng bày tỏ quan điểm của mình, rằng “Thơ khi in, trên báo hay vào sách, nên in khổ
chữ to, để câu chữ nào lép không có
chỗ ẩn nấp”. Thế này thì rõ là “đau chữ đâu câu” chứ đâu? Cứ theo
quan điểm này của nhà thơ Trúc Thông, tôi thử suy luận, ông coi mỗi bài thơ như
một bông lúa. Dĩ nhiên, hiếm có bông lúa nào toàn bộ hạt đều căng mẩy cả, thế
nào chẳng có dăm ba hạt lép, thậm chí rất nhiều hạt lép. Thế nên, mỗi bài thơ,
những câu chữ hay là nhưng hạt mẩy, còn câu chữ độn, câu như văn nói, hoặc ngô
nghê là những hạt lép. Nhìn cả bông khó thấy hạt lép, cũng như đọc cả bài thơ,
câu chữ dở, lép lẩn trong cả bài. Vậy mới phải tìm cách để câu chữ dở, lép
không có nơi ẩn nấp, lộ diện ra,... Quả là ý tưởng đọc đáo, khác người. nhưng
cũng không dễ làm chút nào.
Trở lại
thơ Trúc Thông. Sau Chầm chậm tới mình (hẳn
là nhà thơ tìm đường hướng,giọng điệu?), Ông tự tin,bắt đầu tăng tốc với Ma-ra-tông,
rồi giữ nhịp ở Một ngọn đèn xanh. Và sau đó, có chút lắng lại, thoáng băn khoăn
ở Vừa
đi vừa ở. Khác với nhiều nhà thơ, lấy tên sách như một cách sáng tác,
Trúc Thông chọn tên sách với nhãn quan phê bình, thể hiện quan điểm sáng tác của
mình. Bao quát, thơ Trúc Thông, du vần điệu hay không, đều hàm súc, suy ngẫm,
hình ảnh và giàu sức liên tưởng.
Ngày trước,
khi tôi còn tham gia giữ mục cho một tờ báo nọ, tôi từng chon bài thơ “Lát
sông quê” và “Nho nhỏ mùa thu “của Trúc Thông để
bình. Liên tưởng đến minh triết “Chẳng một
aai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, bài “Lát sông quê,” cùng cảnh
tượng trước mắt, tác giả sống lại ký ức xa xưa với hỉnh bóng bà cụ già, hình bóng người mẹ và câu bé
cùng lũ trẻ suốt nửa thế kỷ trôi qua,... như nhau mà lại khác thế, để ngộ ra một
sự thật đơn giản “vẫn sông Châu yên lặng
thế thôi mà”. Nhưng bà cụ giờ đây rất có thể là con của bà cụ ngày xưa, còn
cậu bé “tim loạn nhịp” ngày xưa là tác giả, nhà thơ đứng tuổi lịch lãm phong trần
và người mẹ vội chợ ngày ấy giờ đã năm lại ở bờ sông lẫn với đám ngô mà “bờ sông vẫn gió người không thấy về”.Tìm quy luận vận
hành của cuộc sống luôn đau đáu và chẳng dễ với Trúc Thông. Tính ông vốn thế
mà.
Ở bài thơ “Nho nhỏ mùa thu”, ngôn ngữ thơ văn
xuôi, Trúc Thông tô màu bức tranh: “Đôi
chim câu chân son mỏ đỏ, bên bờ con sông Sa Lung/ chim đi đâu đây?/ cúc cù cu
chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi? Rồi chim bay vù.Một quãng
đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù/ cỏ mùa thu xanh ngả đượm chút vàng.
Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời thu rộng rãi, gió nhè nhẹ trải/ vợ
chồng chim như hai anh em như hai bè bạn. Áo trắng ,mắt xườm, chân son, mỏ đỏ.
Gật gù đi trong cỏ pha thu.” Nguyên bài thơ như vậy, đầy ắp sắc màu, hình ảnh,
sống động, làm nên một bức tranh thu thật
đẹp. Sự cầu kỳ cũng đáng giá đấy chứ?
Bản chất của
sự vật và hiện tượng cùng mối liên kết sâu xa của nó mới là mối quan tâm và làm
ông bận lòng. Điều này có thể tháy ở một
số bài thơ, như; Cảnh quan, Múa cổ. Qua
tháp Dương Long, Vũ nữ Trà Kiệu bước ra từ sa thạch, . Dặn
bức tranh năm cô gái, Bài ca các em bé theo công trường,...
Ví như, bài Múa cổ“ Em múa điệu rông
đô thời cổ/ bàn chân chắc nịch sau làn váy/ da đồng quê/ khăn mận chín vùng vẫy/
ngực căng/yếm sồi/ rông đô/ chân trần tiếp đất/ làng ta thế kỷ mười/ đất âm thầm
tự do trong cầm giữ/ rông đô/ trống vỗ/ rông đô/ vai trần/ rông đô/ không biết
mệt...” Cảm giác, Trúc Thông mải miết,
không mệt mỏi đi tìm cách diễn đạt mới.
Nhưng thấp
thoáng đó đây, lại thấy một Trúc Thông rất đỗi thật thà, chẳng hạn như bài thơ
“Cao
Bằng”: “Sau khi qua đèo Gió/ Ta lại vượt đèo Giang/ Lại vượt đèo Cao Bắc/ Thì
ta tới Cao Bằng... Rồi đến chị rất thương/ Rồi đến em rất thảo/ Ông lành như hạt
gạo/ bà hiền như suối trong.../ Bạn
ơi có thấy đâu/ Cao Bằng xa xa ấy’ Vì ta mà giữ lấy/ Một dải dài biên cương”.
Lời thơ giản dị những tình cảm dạt dào. Có lẽ vậy mà các nhà giáo dục đã chọn
đưa vào sách giáo khoa Tiềng Việt để
giảng dạy cho học sinh bậc tiểu học.
Hay đâu,
có một Trúc Thông nhuần nhị, thấm đẫm tình người, tình mẫu tử trong bài thơ “Bờ
sông vẫn gió.” Theo tôi, đây không những là bài thơ toàn bích của Trúc
Thông, mà còn là một trong những bài lục bát hay ở xứ ta. Hay về mọi nhẽ., ý tứ,
ngôn từ, vần điệu,... Cùng câu mở rất gợi, lời thơ ra tựa lời cửa miệng nhẹ bẫng
như không mà đằm nặng nghĩa tình ;“Xin
người hãy trở về quê/ Một lần cuối... một lần về cuối thôi,Về thương lại bến
sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần
mộ mẹ vương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa
một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi. “
Còn có một Trúc Thông thẩm thơ bằng “con mắt xanh”. Gần bốm chục năm làm biên
tập thơ của chương trình Tiếng thơ, Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, ông đã đọc, đã
chọn lựa, bình luận, phê bình hàng vạn bài thơ để giới thiệu cũng thình giả,
công chúng. Đây là sự đòng ghóp khồng nhỏ
của Trúc Thông cho sự phát triển của thi ca Việt hiện đại. Cũng nhớ vốn tích
luy và kinh nghiệm của ngần ấy năm mà nhà thơ Trúc Thông đã thêm vào gia tình
tác phẩm của mình dày dặn.
Với riêng
tôi, mấy chục năm công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau
khi thưa, ông vẫn cứ thấp thoáng đâu đó, gần gũi đấy mà xa cách đấy, thân thiện
đấy mà lành lạnh cách nhỡ đấy,... Về phần mình, tôi luôn kính nể ông, mỗi khi
tiếp xuc mạn đàm về văn chương hay cuộc sống, tôi thường nghe ông nói, hơn là
chia sẻ, giãi bày,...
Tiếc là,
sau nhiều năm nằm bệnh sau đột quỵ, hoạt đông văn học của ông phần nào hạn chế.
Song với những gì Trúc Thông để lại khi ông rời cõi tạm, bạn bè văn chương và
người yêu thơ đát Việt chắc chắn sẽ nhớ đến ông không riêng chỉ “Bờ
sông vẫn gió” và tên những tập thơ khác lạ !...
Thủng thẳng
nhà thơ Trần Ngọc Thụ
1. Ngẫu cảm.
Vào tháng Trọng Xuân năm Giáp Thân (2004), nhà thơ Trần
Ngọc Thụ làm một bài thơ chữ Hán viếng nhà thơ Ngô Linh Ngọc (Vãn thi gia
Ngô Linh Ngọc), có câu : “Bát thập dư tại thế / Nhất triêu hoàn dĩ
quy" (tự ông dịch nghĩa là : Ở
thế hơn tám chục/ Ra đi bỗng một ngày ...). Năm Ất Dậu (2005), cũng tháng
Trọng Xuân, nhà thơ Trần Ngọc Thụ theo chân đàn anh Ngô Linh Ngọc, cũng "nhất
triêu hoàn dĩ quy", có điều là ông kém bậc huynh trưởng, mới chỉ Thất thập dư tại thế , mà thôi !
Tôi
là kẻ hậu sinh, về Đài sau, lại chưa từng làm cùng ban biên tập với nhà thơ Trần
Ngọc Thụ bao giờ. Song khi biết tôi tập toẹ thơ văn, võ vẽ chữ Hán, nên ông đem
lòng quý mến. Lâu lâu ông gọi điện, nhắn gọi, hoặc những lúc tôi tự ghé phòng
làm việc của ông, ông trò chuyện thân tình và đọc cho tôi nghe những bài thơ mới
của ông. Mỗi khi in được tập thơ nào, ông cũng đưa tặng tôi. Đáp lại thịnh tình
ấy, tôi cũng hay có những điểm sách và bình một số bài thơ của ông mà tôi tâm đắc.
Dù kém ông hơn hai chục tuổi, những ông luôn coi tôi là cậu em nhỏ, xưng hô tao
mày thân mật. Cuối thu năm vừa rồi, một lần ông đến cơ quan, ghé thăm nơi làm
việc của Ban VHXH chúng tôi. Ngồi uống nước trà với nhà thơ Nguyễn Huy Dung,
anh Thanh Tùng và tôi, ông say sưa nói về thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
rồi cao hứng khoe mấy bài thơ mới làm, trong đó có một bài thơ chữ Hán thể Ngũ
ngôn tuyệt cú , tôi nghe qua thấy thích. Lúc vãn người, tôi lấy giấy bút đưa để
ông chép lại cho tôi bài thơ ấy. Dù biết tôi cũng hiểu chữ Hán, song ông vẫn cắt
nghĩa cho tôi nghe, dường như muốn tôi hiểu thêm tâm sự của ông. Bài thơ đề tên
Ngẫu
cảm như sau :
Bần
bệnh thân hữu sơ
Trường đãi kỷ thời đáo
Đối ngã tương vi ngu
Tận nhật nhất miêu lão.
Có thể hiểu nghĩa là : Khi ta nghèo và bệnh tật
thì người thân, bạn hữu cũng thành ra sơ.
Cứ mong đợi mãi kẻ tri kỷ đến thăm chơi. Thôi thì đành tự mình làm vui với
mình vậy. Quanh quẩn suốt ngày chỉ có con mèo già .
Bài
thơ hàm súc mà lay động. Đọc kỹ rồi thấy như ông trách khéo mấy anh em chúng
tôi, cứ tạm coi như đàn em thơ văn của
ông đi, ít đến thăm ông. Với riêng tôi, quả là khi nhà ông còn ở khu tập thể cơ
quan tại Phương Liệt, thỉnh thoảng tôi có ghé thăm ông nói chuyện thơ văn, chiêm ngưỡng và bàn luận
quanh mấy bức thư pháp thơ chữ Hán do cụ Nguyễn Văn Bách viết tặng ông. Vài năm
nay, từ khi ông dọn nhà lên Thuỵ Khuê, Tây Hồ thì tôi chưa đến thăm nhà mới của
ông lần nào. Những lúc gọi điện đến thăm, ông bảo :"Chú mày, bảo thêm cả
Huy Dung nữa, lên chơi trên tao, ăn trưa tại nhà với tao một bữa...".
Thế rồi, anh em chúng tôi cứ bận mải công việc, lần lữa mãi mà chưa đến thăm ăn
cùng ông bữa cơm tại gia...
Trước
Tết Nguyên Đán vừa rồi, có nghe nói ông
phải vào viện, chủ yếu để theo dõi căn bệnh huyết áp thấp rồi lại ra viện ăn Tết
tại nhà. Nghĩ là ông khỏe lại. Năm nay, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đài
TNVN, Ban VHXH có tổ chức cuộc thi thơ Đương luật về Đài TNVN, chúng tôi dự định
mời ông vào Ban giám khảo cuộc thi, chỉ còn đợi quyết định chính thức, thì đến
nhà thăm và mời ông tham gia. Nghĩ là đợt này sẽ có điều kiện gặp ông thường
xuyên hơn. Đột nhiên, nhận tin ông nhập viện, mà lần này là bệnh trọng. Anh em,
bạn hữu cơ quan biết tin lác đác vào thăm ông. Hôm tôi cùng anh Huy Dung và chị
Song Phương vào viện, đi trên khoảnh sân rộng bời bời lá vàng rụng khi gió mùa bấc
về, tôi chợt nhớ đến bài thơ chữ Hán nọ, đọc lên cho mọi nguời cùng nghe. Có gì
đó đượm buồn nơi mỗi chúng tôi. Nhà thơ Trần Ngọc Thụ nằm thiêm thiếp trên giường
bệnh. Thần sắc nhợt nhạt, hơi thở dốc khó khăn. Thực ra, căn bệnh ung thư thực
quản hay vòm họng chi đó hành hạ ông đã
lâu. Thần trí ông tỉnh táo, mắt he hé nhìn, nói đứt đoạn vài từ ngắn đáp lại lời
thăm hỏi của chúng tôi. Bác sĩ bảo khó lấy mạch lắm. Vậy là ông khó qua. Nghĩ vậy,
nhìn nhau mà chẳng biết nói gì. Người nhà bảo là ông tỉnh táo hơn so với mấy
ngày đầu nhập viện. Anh Huy Dung nắm tay anh bảo: "Anh ơi, anh cố qua, để
lại đọc thơ cho bọn em nghe" . Còn tôi, tôi nghiêng xuống giường bệnh
của ông khẽ đọc một câu :"Bần bệnh thân hữu sơ ...". Chỉ thấy
ông thở dài, co duỗi một bên chân... Thì ra chỉ là chút bùng lên của ngọn lửa
trước khi tắt lụi! Rạng sáng hôm sau ông ra đi !...
Bài
thơ ấy, tôi biết là một trong số ít những bài thơ chữ Hán cuối cùng của nhà thơ
Trần Ngọc Thụ. Kính cẩn xin với vong linh ông, chúng tôi mấy đứa đàn em của ông,
mạo muộn dịch nôm na bài thơ Ngẫu cảm thế này:
Nghèo,
ốm nên ít bạn .
Mong hoài tri kỷ qua
Đành tự mình vui vậy
Quẩn quanh với mèo già..
2. Vẫn như ngày xưa ấy...
Kể từ ngày đeo đẳng với nghiệp
thơ khi còn trẻ, Trần Ngọc Thụ thủng thẳng làm thơ, thủng thẳng đăng tải trên
các báo, mãi đến năm 1989, mới xuất bản tập thơ đầu tay là Em vẫn như ngày xưa. Rồi
bài thơ được lấy làm tên tập ấy được nhạc sĩ Lê Đình Lực phổ thành bài hát, qua
giọng hát Thanh Hoa ngày ngày vang trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, lại được
biểu diễn trên sân khấu ca nhạc, Trần Ngọc Thụ thêm được đồng nghiệp và người
yêu thơ chú ý.
Thế rồi,
như ngựa vía, Trần Ngọc Thụ không thủng thẳng nữa, ông dư sức phi nước đại, một mạch dài, để lại đằng
sau vết chân lỗ chỗ liên tiếp các tập thơ là: Hoa sữa (1991), Hai chiều ngày
vui (1990), Cánh buồm xa (1990), Thoáng xưa (1993), Người không xa (1993), Mộng
bình yên (1994), Quả trái mùa (in chung-1994), Gia bảo (in chung-1595), Chớm thu (1998).
Đến đấy,
vẫn không dừng, song nhà thơ Trần Ngọc Thụ lại thủng thẳng như thời bắt đầu vào
nghề, dành thời gian để nghỉ ngơi, để nghiên cứu thơ Đường-Tống, để viết bài
cho mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt và ngày ngày đưa đón cháu đi học.
Trần
Ngọc Thụ làm nhiều thơ, song tựu chung, có thể thấy thơ của ông thành hai vệt
chính - thơ tình và thơ về nông thôn quê hương.
Ông
sinh năm 1934 ở quê nhà Nam Trực, Nam Định. Vùng đất phía nam kinh thành Thăng
Long xưa, có những ba cái chợ Viềng nổi tiếng với mua bán cầu may họp một năm một
lần sau Tết nguyên đán, ấy cũng là nơi nảy sinh những thi sĩ tài danh như Nguyễn
Khuyến, Trần Bích San, Tú Xương, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, đã tạo cho thơ ông vẻ
chất phác, nhuần nhị chất đồng quê Bắc Bộ, lại pha chút hóm hỉnh, uyên thâm
thâm Nho học. Sinh ra và lớn lên ở quê, nên ông làm khá nhiều thơ về quê mình,
về nông thôn đất Việt. Có cảm tưởng, hầu như mỗi lần Trần Ngọc Thụ về thăm quê
mình, đến chơi quê bạn, hoặc trong cuộc đời làm báo của mình, khi đến miền quê
nào, ông cũng có thơ. Thơ như thương trực trong ông, nên ông viết rất nhanh,
không cầu toàn, khiến người quen có cảm giác ông ứng khẩu thành thi vậy. Thơ về
thôn quê của ông thường giản dị và cũng khá dí dỏm : "Đường làng thon thả lượn bờ tre/ Vai tròn áo mỏng tươi màu gụ/ Giấu nụ
cười duyên sau nón che ..." (Nét quê). "Rơm mới đường làng vướng gót/ Nhẹ
nhàng khói bếp thơm say/ Em má bùn lấm tấm/ Căng hồng cổ chân, cổ tay"
(Ngày
mùa). "Tháng ba là tiết gió
nồm/ Bao nhiêu cây súng ồm ồm nở hoa/ Ao gần cho chí ruộng xa/ Ếch kêu ộp oạp
bài ca gợi tình.../ ... Em ơi đi chợ tháng ba/ Em mùa chùm khế hay là chùm me "
(Tháng
ba) v.v...
Nhiều
lúc ông lại dụng công trau chuốt, chơi chữ : "Gieo tơ mơ xe tre thôn/ Mây lang thang mang tâm hồn sang thu"
(Mây
sông Ninh). "Chuông hồi
thánh thót vang ngân/ Lúa thu gánh đổ dầy sân nắng chiều". (Làng
ngoại ô). "Cầu tre lắt lẻo
vai gầy/ Đường xa mỏi bước gánh đầy chợ đông" (Cầu
tre )... Những câu thơ kiểu
như vậy làm bài thơ làng nhàng bỗng trở nên sống động lung linh hơn.
Có lẽ,
bài thơ được nhiều người biết đến nhất là bài Con đường hàng tỉnh :
Con đương hàng tỉnh tôi đi
Ba mươi năm
có những gì đổi thay ?
Nhà mái rạ
tường đã xây
Ven đường đã
lớn hàng cây xà cừ
Ông lão dong
trâu đi bừa
Là con ông
lão ngày xưa đi cày .
Bốn câu đầu tả thực, về sự đổi thay của làng quê qua
quang cảnh hai bên con đường hàng tỉnh trong ba mươi năm qua, sẽ là kể chuyện
thường nếu như không làm phông nền cho hai câu kết đặc sắc : "Ông lão dong trâu đi bừa/ Là con ông lão
ngày xưa đi cày". Bài thơ được nâng tầm hẳn lên. Thật mà lại ảo. Có gì
đó sâu xa buồn. Cuộc đời năm tháng đằng dẵng bỗng thành thoáng chốc, nhưng sao
vẫn quẩn quanh thế thôi ư ? Phải chăng, đấy còn là phong tục tập quán, là văn
hóa với những giá trị riêng của nó ?!
Bài
thơ được ông viết vào cuối năm 1989. Trần Ngọc Thụ sinh ra và lớn lên ở quê.
Ông đi theo cách mạng rồi làm cán bộ thôn xã. Rồi nữa mới rời làng quê về thành
phố học hành thành tài và trở thành nhà báo. Ba mươi năm đi trên con đường hàng
tỉnh, tuy làng quê đã ít nhiều đổi thay song những người nông dân vẫn khổ. Ngẫm
ra, làm gì mà không khổ. Ba mươi năm ấy là những giặc giã liên miên, bao nhiêu
sức người sức của đổ hết ra mặt trận, với những ngày tháng "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người", ở lại hậu phương, làng quê toàn là người già, đàn bà, trẻ con.
Thêm vào đó là thiên tai, vừa nắng hạn khô nứt nẻ mặt ruộng, chốc đã mưa bão ngập
lụt nước trắng đất trắng trời. Nghĩ về làng quê ông, lại nhớ về làng quê mình. Ấy
là đêm đêm mùa gặt chầu trực ở sân kho hợp tác xã chứng kiến cảnh chia thóc
ngày đó. Những đống thóc ướt sũng lên mộng mạ nồng nồng mùi men rượu vơi nhanh
chóng trong ánh đèn dầu hỏa đỏ quạch ám khói đen, khi mà danh sách được chia
thóc trên tay ông đội trưởn dài dằng dặc... Đến khi đất nước bình yên thì cơ chế
quan liêu bao cấp ngần ấy năm lại đè nặng nền sản xuất và đời sống xã hội. Với
một bầu không khí như vậy, người nông dân mòn mỏi, khổ ải là phải thôi. May mà
công cuộc đổi mới từ đầu những năm chín mươi đã làm đất nước khởi sắc. Cũng bắt
đầu từ nông nghiệp-nông thôn-nông dân với cơ chế khoán 100, rồi khoán 10.
Và chỉ khoảng chục năm sau, Trần Ngọc Thụ trong bài Cầu tre đã viết : "Làng quê nay hết lối mòn/ Đường ngang ngõ dọc
cầu vòm mới xây/ Còi xe nhộn nhịp đêm ngày/ Gác cao nhà rộng sum vầy cháu con/
Mẹ cha khuất bóng không còn/ Khổ đau ngày ấy dài hơn kiếp người ...".
Về
bài thơ Con đường hàng tỉnh, cơ quan Đài Tiếng nói Việt Nam của ông còn
truyền nhau một giai thoại, ấy là chuyện có một cậu bé đã sửa thơ ông, lại đúng
vào hai câu hay nhất của bài thơ. Chuyện là, cậu bé con một chị phóng viên cấp
dưới của ông được mẹ cho lên cơ quan. Chẳng hiểu sao, cậu bé học sinh tiểu học ấy
tình cơ đọc được bài thơ này, nó lẩm bẩm rồi bảo với mẹ nó , đại loại là trong
bài thơ của bác Thụ, hai câu thơ Ông lão
dong trâu đi bừa / Là con ông lão ngày xưa đi cày, có thể đổi là Ông lão ngày xưa đi cày/ Là cha ông lão ngày
nay đi bừa.. Chuyện vui là vậy
thôi. Nhà thơ Trần Ngọc Thụ rất lấy làm khoái với chuyện đó.
Thế
còn thơ tình, không thể không nhắc tới bài thơ Em vẫn như ngày xưa , bài
thơ đã làm nên tên tuổi Trần Ngọc Thụ. Người quen hay ngân nga mấy câu : "Dù thời gian chia phôi/ Dù đường dài xa xôi/
Em vẫn như ngày xưa/ Mến yêu anh trọn đời ... Em vẫn như ngày xưa/ Mắt đen nhìn
đung đưa/ Nét cười sau vai áo/ Tay mềm thon búp thơ ...". Nhẹ nhàng,
duyên dáng, lời thơ quyện với âm nhạc nên được tôn lên rất nhiều. Riêng tôi,
tôi lại thích những bài thơ tình khác của Trần Ngọc Thụ . Chẳng hạn như bài Bướm
trắng : "Thèm mong khát đợi
yêu chờ/ Ríu chân muốn ngã bên bờ chiêm bao/ Quờ tay vịn gốc cây đào/ Bóng con
bướm trắng trôi vào mắt thơ...". Thích nhất cái câu cuối : "Cưỡi lưng bướm trắng mà lên đỉnh trời".
Chẳng giống ai từ cổ chí kim, người ta toàn cưỡi rồng, cưỡi phượng, cùng lắm là
cưỡi ngựa thần, cá chép thần mà lên trời, chứ có ai cưỡi bướm đâu. Ây vậy, cưỡi
bướm mà lên đỉnh trời thì chỉ có nhà thơ Trần Ngọc Thụ.
Hay
như bài Chớp giật : "Lùi
trăng đùn kéo mây xa/ Mây không che được lòng ta nhớ người/ Tiếng gì như hạt
mưa rơi/ Hai con chớp giật cuối trời gọi nhau". Hàm súc và ám ảnh. Hay
như bài Đơn sơ : "Không nhiều
ham hố chẳng kiêng khem/ Chẳng dám khinh khi chẳng khát thèm/ Chỉ mong đêm một
giấc mơ nhỏ/ Sớm một chút thơ, chiều chút em". Khốn nỗi, đơn sơ vậy
song thực khó lắm thay !
Có một
bài thơ được bạn bè và đồng nghiệp hay nhắc đến, mang ra đùa vui lúc chuyện phiếm,
đó là bài Vui xuống cấp :
Trông xa tưởng bác đã già
Đến gần mới biết chỉ là
chú thôi
Cầm tay đích thị em rồi
Ngả lưng nằm xuống là
tôi với mình.
Đúng
là gừng càng già càng cay. Tinh nghịch, hóm hỉnh và cũng chí lý thay. Cái sự
tinh ranh, dí dỏm này luôn có sẵn trong Trần Ngọc Thụ, lâu lâu ông lại tung ra
một chưởng, như : "Cánh buồm tím
cánh buồm xanh/ Để làm chi lắm cho anh một buồm ". (Áo
phông) ; "Chờ em hôm kia hôm
qua/ Hôm nay em đến thì hoa đã tàn/ Nắng rồi sương giá đã tan/ Hay gì vầy cánh
hoa tàn mà chơi" (Hoa tàn) ; "Vua khen thằng đấu có tài/ Văn chương khúc
ngắn khúc dài đều hay/ Rượu tình uống mãi không say/ Ngất ngư chỉ một cái này
mà thôi" (Khen thằng đấu).
Trần
Ngọc Thụ tinh ranh và hóm hỉnh trong thơ, như ông tinh ranh, hóm hỉnh trong đời
sống, công việc vậy. Với ông, có cảm giác, chẳng có gì là quan trọng cả. Việc
gì khó đến mấy rồi ra cũng có cách giải
quyết. Thủng thẳng và hài hước mà tới. Duờng như ông đã tự tìm cho mình một triết
lý sống. Như ông Tự đùa với chính mình, và cho mọi người biết :
Ừ già ừ vẫn trẻ
Sớm trưa khề khà trà
Cây cảnh mảnh khảnh cảnh
Giò hoa la đà hoa
Khôn không khôn nói năng
nói
Chuyện tếu táo thơ lơm
chơm
Cơm ba bát thuốc vài điếu
Yêu người đẹp uống chè
thơm .
3. Chí kim thiên tải văn dư hương
Với nhà thơ Trần
Ngọc Thụ, nôm na và hóm hỉnh bao nhiêu với thơ ca Việt ta, thì ông lại thâm trầm
bấy nhiêu với thơ ca chữ Hán, đặc biệt với
thơ Đường.
Ngày
nhỏ ở quê, tuy ở vào thời điểm ấy, nền khoa bảng Nho học đã suy tàn, ông vẫn được
học chữ Hán, ê a dăm câu Tam tự kinh.
Và với vốn chữ Hán ít ỏi ban đầu ấy, sau này do yêu thích thứ ngôn ngữ giàu
tính tượng hình, hội ý ấy, ông tự bồi bổ và đã có thể đọc dịch thơ Đường -Tống
từ nguyên bản, rồi cùng với người anh trai của mình là nhà thơ đồng quê Trần
Huy Tạc, soạn chung một tập thơ, gồm những bài dịch thơ Đường-Tống và thơ chữ
Hán theo Đường luật.
Chính
sự am hiểu thơ Đường và biết làm thơ chữ Hán- Đường luật, đã làm nên một góc
riêng con người và thi ca Trần Ngọc Thụ.
Trong
tập thơ Chớm thu (NXB Thanh
niên-1998), Trần Ngọc Thụ dành riêng phần cuối cho bản dịch 14 bài thơ Đường
và một bài thơ chữ Hán-Đường luật của Tam nguyên Trần Bích San, triều Nguyễn -Tự
Đức, người quê Nam Định.
Trong
lời tựa cho phần này, Trần Ngọc Thụ đã viện dẫn câu thơ Lý Bạch: "Chí kim thiên tải văn dư hương" với
lời dịch của nhà thơ Chu Mạnh Trinh : "Nghìn
năm sau còn nhặt phấn hương thừa", chỉ để bộc lộ cảm xúc của mình khi
bị mê hoặc, quyến rũ bởi thơ Đường.Và nữa, cũng là cái cớ để ông đặt tên riêng
cho phần thơ dịch này trong tập là Hương thừa.
Thực
ra, câu thơ ấy trong bài thơ Ký viễn (Gửi phương xa) của Lý Bạch
là : "Chí kim tam tải văn dư hương".
Bài thơ này được Trần Ngọc Thụ dịch theo thể lục bát như sau :
Người
còn hoa thắm đầy nhà
Người đi
nhà vắng giường hoa ai nằm
Chăn hoa xếp
để ba năm
Ba năm
hương cũ vẫn đằm đê mê
Hương còn
người mãi không về
Nhớ thương
rụng lá đầm đìa sương rêu.
Yêu
và dịch thơ Đường, lại chỉ chọn dịch ít bài nổi tiếng, Trần Ngọc Thụ phải đối mặt
với khó khăn, đó là bản dịch trước của các cao thủ trong làng túc nho , những
người vốn am tường thơ Đường.
Bài
Trúc
lý quán (Quán Trúc lý) của Vương Duy là một ví dụ. Nguyên bản âm Hán
Việt là :
Độc
tọa u hoàng lý
Đàn
cầm phục trường khiếu
Thâm
lâm nhân bất tri
Minh
nguyệt lai tương chiếu.
Đây là bài thơ ngắn, hàm súc nên rất khó dịch
nếu bám sát nguyên bản theo thể ngũ ngôn tuyệt cú.Trần Ngọc Thụ chuyển dịch
thành lục bát, khá nhuyễn mà vẫn sát ý :
Ngồi
trong đám trúc một mình
Gảy đàn rồi
lại hứng tình huýt môi
Rừng sâu vắng
vẻ nào ai
Vầng trăng
trong đến soi người tri âm .
Bài
thơ Giang
tuyết (Tuyết sông) của Liễu Tông Nguyên, nguyên bản Hán Việt là :
Thiên
sơn điểu phi tuyệt
Vạn
kính nhân tung diệt
Cô
chu toạ nạp ông
Độc
điếu hàn giang tuyết .
Trần
Ngọc Thụ dịch sát theo thể ngũ ngôn. Theo tôi, đây là bài dịch thành công nhất trong số những bản dịch thơ Đường của ông :
Ngàn núi bóng chim bặt
Vạn nẻo dấu
người không
Thuyền lẻ
ông tơi nón
Một mình
câu tuyết sông .
Lời
hay, độc đáo, sát nghĩa, lại giữ được phong vị Đường thi . So với bản dịch của
Trần Trọng Kim thì đạt hơn. Học giả Trần Trọng Kim chuyển thành lục bát nên bị
loãng, giảm phong vị . Xin được nêu ra đây để tiện cho việc tham khảo :
Nghìn non chim hết vẫy vùng
Vắng tanh
muôn nẻo tuyêt không dấu người
Áo tơi,
nón lá, ông chài
Con thuyền
giữa tuyết ngồi hoài buông câu.
Bài
thơ Ẩm
tửu khán mẫu đơn (Uống rượu ngắm
hoa mẫu đơn) của Lưu Vũ Tích , nguyên bản Hán Việt là :
Kim
nhật hoa tiền ẩm
Cam
tâm túy sổ bôi
Đãn
sầu hoa hữu ngữ
Bất
vị lão nhân khai .
Trần
Ngọc Thụ chọn cách dịch đúng thể, sát nghĩa (khác cách dịch của học giả Trần Trọng Kim theo thể lục bát), và
theo tôi đây là một bản dịch giữ được phong vị :
Trước hoa ngồi uống rượu
Muốn vài
chén say sưa
Chỉ buồn
hoa sẽ nói
Không nở
cho người già.
Bài
thơ Kim
Lũ y (Áo thêu vàng) của Đỗ
Thu Nương, một tác giả nữ hiếm hoi trong số các tác gia Đường thi, nguyên bản
thể tứ tuyệt :
Khuyến
quân mạc tích kim lũ y
Khuyến
quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa
khai kham chiết trực tu chiết
Mạc
đãi vô hoa không chiết chi.
Không
chuyển sang đúng thể tứ tuyệt theo lệ thường thấy khi dịch thể thơ này, mà Trần
Ngọc Thụ lại cố gắng chắt lọc, kiệm từ hơn, chọn thể ngũ ngôn. Âu cũng là sự thử
sức mình :
Xin đừng tiếc áo đẹp
Hãy tiếc lấy
ngày xanh
Hoa đang
tươi kíp hái
Đừng để
lúc trơ cành .
Vì
kiệm từ, bản dịch chỉ cốt lấy ý mà bỏ bớt lời, nên thiếu toàn vẹn. Song với thể
ngũ ngôn, dịch được như vậy cũng là hay.
Bài
thơ Bạc
tần hoài (Đỗ bến Tần Hoài) của
Đỗ Mục, nguyên bản Hán Việt thể tứ tuyệt :
Yên
lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ
bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương
nữ bất tri vong quốc hận
Cách
giang do xướng Hậu đình hoa.
Bài
thơ này vốn đã nhiều người dịch. Cũng không vì thế mà Trần Ngọc Thụ không thử sức
mình :
Khói mờ sông lạnh trăng soi bãi
Đỗ bến Tần
Hoài cạnh tửu gia
Mất nước
gái ca không biết hận
Bên sông
còn hát Hậu đình hoa .
Bài
thơ Hoài
thượng biệt cố nhân (Tiễn bạn trên sông Hoài) của Trịnh Cốc,
nguyên bản Hán Việt thể tứ tuyệt, nhịp điệu êm ái :
Dương
tử giang đầu dương liễu xuân
Dương
hoa sầu sát độ giang nhân
Sổ
thanh phong địch ly đình vãn
Quân
hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.
Vừa
thích thú, vừa không yên tâm nếu như chỉ chọn một cách dịch bài thơ này, Trần
Ngọc Thụ thử sức ở cả hai thể khác nhau :
Bản 1: Dương tử đầu sông dương liễu biếc
Hoa dương buồn chết khách qua sông
Sáo chiều ly biệt đôi làn vẳng
Tôi trở về Tần anh sang đông .
Bản 2: Liễu xanh biêng
biếc bên sông
Khách qua sông chết cõi lòng hoa bay
Biệt ly tiếng sáo đâu đây
Anh sang đất Sở tôi quay về Tần.
Theo tôi, cả hai bản
dịch đều đạt. Bản dịch đầu giữ nguyên thể và phong vị, song bản dịch sau nhuyễn
hơn mà lại thấm đậm nỗi sầu thương .
Bài
thơ Tống
Linh Triệt (Tiễn nhà sư Linh Triệt)
của Lưu Trường Khanh, nguyên thể thất ngôn tuyệt cú, rất hàm súc :
Thương
thương Trúc Lâm tự
Diểu
diểu chung thanh vãn
Hà
lạp đái tà dương
Thanh
sơn độc quy viễn.
Ở
bài này, Trần Ngọc Thụ đau đáu cả với hai sự lựa chọn :
Bản 1:
Xanh xanh Trúc Lâm chùa
Văng vẳng chuông chiều đưa
Nón lá sen bóng xế
Một mình về núi xa .
Bản 2: Xanh xanh chùa cổ mơ màng
Chuông chiều văng vẳng nghe càng buồn thêm
Bóng tà soi nón lá sen
Một mình lủi thủi về miền núi xa .
Xét thấy, bản dịch
đầu giữ nguyên thể, ngôn từ chắt lọc mà hàm ý sâu xa, mang phong vị Thiền, có
dáng dấp một bài kệ Phật giáo. Còn bản dịch sau, đời hơn, nên vì thế cũng buồn
và cô quạnh hơn, lại thêm nhịp điệu man mác, du dương.
Không
cần dẫn hết phần dịch thơ Đường của Trần Ngọc Thụ, bởi chỉ ngần ấy thôi cũng đủ
thấy cái cảm, cái tường của ông về thơ Đường đạt tới độ nào. Phần thơ của ông
làm theo các thể Đường luật, thiết nghĩ sẽ làm rõ hơn tài thơ chữ Hán củaTrần
Ngọc Thụ. Không biết cho đến lúc mất, ông đã làm bao nhiêu bài thơ chữ Hán. Vì
quý mến kẻ vãn sinh là tôi, mỗi dịp gặp, Trần Ngọc Thụ đều nói chuyện và khoe
thơ chữ Hán ông làm. Chính vì vậy tôi đồ rằng số bài thơ chữ Hán của ông không
ít, song trong tay tôi chỉ có ba bài, và mỗi bài đều được chính tay ông viết
nguyên bản chữ Hán. Ngoài bài thơ Ngẫu cảm mà tôi đã nêu ở phần đầu là
không có phần dịch sang tiếng Việt, hai bài còn lại đều được ông chép đủ bằng
nguyên chữ Hán rồi âm Hán Việt và tiếng
Việt. Trong bài viết này, tôi chỉ nêu bản Hán Việt và tiếng Việt mà thôi .
Bài
thơ : Tân xuân tân gia tức sự
Thụy đường huy ánh tân quang thái
Xuân thụ hàm dương mãn điểm hoa
Thu tứ thu tình thi hứng khởi
Nam hòa khuê phát hạo bình ca.
Bản
dịch của chính Trần Ngọc Thụ như sau :
Phong quang vẻ thụy nếp nhà ta
Khí tốt trùm cây tươi sắc hoa
Ý đượm tình sâu thi hứng nổi
Êm đềm ngọc sáng tiếng vui ca .
Bài
thơ này được ông cao hứng vịnh vào xuân Ngâm Ngọ (2002). Có thể nói, đây là thời
kỳ khá viên mãn của ông. Lúc ấy, ông đã nghỉ hưu được mấy năm, ở chung với gia
đình con trai là Trần Nam Bình trong căn nhà to mới mua trên phố Thụy Khuê gần Hồ Tây. Lại thêm, vợ
ông, nhà thơ Lệ Thu từ Bình Định lâu lâu ra Hà Nội ở cùng. Sức khỏe tốt, đọc
nhiều, có thời gian để tâm nghiên cứu thơ Đường- Tống, và hẳn làm nhiều thơ chữ
Hán. Khi đọc cho tôi nghe bài thơ này, ông còn hứng khởi khoe rằng, trong bài
thơ ông đã vận dụng kê tên hầu hết những
thành viên gia đình ông và cả nơi ở vào đấy : Thụ-Thu-Nam Bình- Thụy Khuê...
Bài
thơ Vãn
thi gia Ngô Linh Ngọc thì được ông làm vào mùa xuân Giáp Thân (2004) ,
cảm đề khi nhà thơ Ngô Linh Ngọc qua đời :
Nhu
kiều như ái tỷ
Khoan
trí tự tôn sư
Bát
thập dư tại thế
Nhất
triêu hoàn dĩ qui
Thạch
trung lai ẩn ngọc
Yên
thuỷ vọng tâm ti (tư)
Thư
giản doanh lâu các
Đãi
văn kim thị thuỳ ?
Ông tự dịch là :
Đẹp và hiền như chị
Trí
và khoan như thầy
Ở
thế hơn tám chục
Ra
đi bỗng một ngày
Ngọc
lại về trong đá
Hồn
thơ để nước mây
Lầu
văn chất đầy sách
Đợi
khách giờ ai đây ?
Với
nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc, ông chơi với tư cách đàn em trọng bậc đàn anh, lại
kính như thầy. Kính về tuổi tác và nhân cách, nể trọng về kiến thức uyên thâm.
Trần Ngọc Thụ tâm đắc với việc đưa được câu vinh danh Ngô Linh Ngọc mà bạn tri
âm đã tặng "Thạch trung ẩn ngọc"
(ngọc
ẩn trong đá), vào bài thơ thành câu "Thạch trung lai ẩn ngọc". Khi sống thì như ngọc quý ẩn trong
đá, lúc thác chẳng qua là ngọc lại về trong đá mà thôi. Hay mà hợp với con người
Ngô Linh Ngọc.
Tiếc
là không có đầy đủ phần thơ chữ Hán của Trần Ngọc Thụ, để qua đó thấy rõ vóc dáng ông . Cả đời làm báo,
luôn phải sống, phải sôi động và gấp gáp cùng các sự kiện-vấn đề lớn nhỏ mà cuộc
sống đặt ra, song Trần Ngọc Thụ luôn biết cách tìm cho mình những phút giấy để
phiêu diêu cùng thiên nhiên, tình ái, tình người, để lắng mình vào thế giới cổ
sơ mà kiếm tìm những thứ quý giá của văn hóa nhân loại.
Đến năm 2025
này, ông đã đi xa ghai mươi năm rồi đấy!
Nhớ Trần Ngọc
Thụ, nhớ về thơ phú của ông. Nhớ sự nghiêm túc và đầy trải nghiệm của ông trong
công việc. Nhớ nếp sống giản dị, tác phong xuề xòa. Nhớ cả cái cuời chun mũi ! …
TRẦN MAI HẠNH
truân chuyên nghề báo
nghiệp văn
Suy nghĩ về cuộc
đời nhà báo Trần Mai Hạnh, nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi, không biết ông có lá
số tử vi không nhỉ. Sở dĩ, muốn thử chiêm nghiệm và đối chiếu giữa lá số với thực
tế cuộc đời ông bởi sự truân chuyên quá thể. Nói theo ngôn ngữ dân gian, cuộc đời
ông những “lên voi xuống ,... “.
Giờ thì Trần
Mai Hạnh đã về miền mây trắng. Là tôi muốn dùng cụm từ “về miền mây trắng” chỉ sự giã từ cuộc đời trần thế của ông là ý muốn
đặt ông trên một phông nền trắng tinh để bạn bè, đồng nghiệp, người đời nhìn nhận,
bình phẩm về ông một cách sòng phẳng, không e ngại này nọ,...
Và cả tôi cũng
vậy, nghĩ gì về ông trong bài viết này?...
Thực ra, cái
tít bài viết này đã nói lên tất cả. Có điều, sự truân chuyên nghề báo nghiệp văn của Trần Mai Hạnh minh bạch ra
sao đâu cần sự nhìn nhận của cá nhân tôi. Người đời, mỗi người đều có cách nhìn
nhận và đánh giá của riêng mình, chẳng ai chịu ai đâu. Chỉ là tôi muốn bày tỏ
góc nhìn của riêng mình về ông mà thôi.
Tôi biết đến
tên tuổi nhà báo Trần Mai Hạnh từ khi tôi bước vào đời làm báo chuyên nghiệp,
năm 1987 khi về làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Khi ấy, Trần Mai Hạnh
đã là một nhà báo kỳ cựu của làng báo xứ Bắc và ông đang giữ chức trưởng, phó
ban gì đấy ở Thông tấm xã Việt Nam (TTXVN). Thời điểm từ khi Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh phát động “Những việc cần làm
ngay” với chuyên mục “Nói và làm”
(N & L) thì Trần Mai Hạnh nổi lên với tư cách một cây bút phóng sự điều tra
thiện chiến và sắc bén. Nhiều vụ việc tiêu cực được vạch trần trên công luận với
sự tham gia của ông và các đồng nghiệp báo chí. Như vậy, có thể nói, Trần Mai Hạnh
đã xác lập tên tuổi mình trong làng báo xứ ta thời kỳ đổi mới. Ông tham gia vào
ban lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển
của tổ chúc này.
Đâu quãng năm
1995, Trần Mai Hạnh được bổ nhiệm chức vụ Tồng Giám đôc Đài Tiếng nói VIệt Nam
(Đài TNVN-VOV) kế nhiệm nhà báo Phan Quang chuyển sang chuyên trách công tác Hội
Nhà báo.Ở thời điểm ấy, có thể nói, báo phát thanh sa sút, vào cơn bĩ cực, bởi
những nguyên nhân chủ quan và khách
quan; về chủ quan, lối phát thanh “ngăn kéo” – khung chương trình định giờ thu
trước do phát thanh viên đọc, từng phát huy tác dụng suốt một thời gian dài vẫn
nguyên cũ; trong khi, về khách quan, báo hình lên ngôi và báo điện tử mới ra đời
song đã báo hiệu tính ưu việt và lợi thế phát triển nhanh chóng của mình. Trần
Mai Hạnh, với tư cách vị tổng tư lệnh ngành báo phát thanh đã cùng một lúc làm
hai việc. Về phát thanh, ra các chương trình mới, tăng tính trực tiếp, đảy các
phóng viên, biên tập viên lên sóng, “nói hoá” các văn bản phát thanh, lập thêm
các cơ quan thường trú khu vực trong nước và nước ngoài, làm cơ sở để tăng nguồn
tin. Ông đặc biệt quan tâm đến thể loại phóng sự điều tra, nên đây cũng là thời
kỳ Đài TNVN có nhiều phóng sự điều tra rung chuyển làng báo và xã hội lúc bấy
giờ. Điều đó cho kết quả là cùng nhiệm vụ tuyên truyền, Đài gia tăng “chất
báo” theo đúng nghĩa chức năng báo
chí nói chung. Cùng với đó, về loại hình
báo chí, lập thêm tờ báo in (Báo Đài TNVN, nay là báo TNVN) Và đặc biệt là mở
báo Điện tử Đài TNVN, (VOV.VN) kịp theo xu hướng số hoá của thế giới. Có thể
nói, với tư cách Tồng giám đôc Đài TNVN (VOV), nhà báo Trần Mai Hạnh đã có những
đóng góp tích cực xây dựng nền móng đa phương tiện, đa nền tảng cho VOV để các
vị lãnh đạo kế nhiệm tiếp tục phát triển Đài hơn nữa…
Vê văn chương, Trần Mai Hạnh chạm đất văn khá
sơm nhưng do bận mải nghề báo nên ông chưa có gì nổi bật trong địa hạt này. Phải
sau kiếp nạn lao lý, ông mới thấy văn chương như cái nghiệp, là nơi chốn đặng vực dậy ý chí và lắng lại lòng mình sau
bao sóng gió bão táp cuộc đời ập đến. Năm 2015, tác phẩm tư liệu “Biên bản
chiến tranh 1-2-3-4.75” được xuất bản và ngay năm đó tác phẩm này được
giải thưởng hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam (sau đó còn được nhận giải thưởng
văn học ASEAN và ra tiếp bản tiếng Anh) thì Trần Mai Hạnh nổi tiếng với tư
cách một nhà văn. Sau tác phẩm này, tuy vẫn túc tắc làm báo nhưng ông chuyên
tâm theo văn học và cho đến lúc mất, ông xuất bản thêm 2 tác phẩm nữa, đó là “Thời
tôi sống” (tập truyện ký, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2018)
và “Sống đến bình minh” (tự truyện, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2024).
Văn của Trần
Mai Hạnh là văn thông tấn, nhiều thông tin, giàu chi tiết, sắp xếp hợp lý, khoa
học, tốc độ nhanh và luôn có những góc
nhìn đa chiều, sắc sảo của báo chí. Về thể loại nửa văn nửa báo mà thành công,
có lẽ ông chỉ đứng ngay sau bậc đàn anh đồng nghiệp là nhà báo nhà văn Phan
Quang mà thôi.
Viết về nhà
báo nhà văn Trần Mai Hạnh mà không đả động gì đến sự truân chuyên trong nghề
báo của ông sẽ là thiếu sót. Thật hiếm người trong làng báo ở ta truân chuyên
như Trần Mai Hạnh. Thời trẻ trung sung sức và giàu hoài bão, là phóng viên
Thông tấn xã Việt Nam vào chiến trường ác liệt nhất, Trung Trung bộ, liên khu
5, vùng đất mà nhiều văn nghệ sĩ đã hi sinh (Dương thị Xuân Quý, Chu Cẩm
Phong, Nguyễn Mỹ, Hồng Chinh Hiền…) và nhiều cây bút trưởng thanh như
Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trí Huân…; thời bình, nổi tiếng với nhiều
phóng sự điều tra rung động xã hội; bị tai nạn giao thông nặng;
làm quản lý báo chí cấp cao (ủy viên trung ương Đảng, Tổng thư ký Hội
nhà báo Việt Nam, Tổng giám độc Đài TNVN; vướng vòng lao lý vài ba năm; ra tù,
viết văn và nổi tiếng với tác phẩm được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và
giải thưởng văn học ASEAN … Và cả cái chết cũng khác người, trên đường vào đến
Sài Gòn trong một hành trình tử Bắc (Hà Nội) chí Nam (Sài Gòn-Tp Hồ Chí Minh)
khi làm nhân chứng và người dẫn chuyện cho một phim tài liệu về chiến tranh giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước cho dịp 50 năm kỷ niệm sự kiên trọng đại
này.
Phương diện cá
nhân, bỏ qua những thị phi về chuyện Trần Mai Hạnh dính vòng lao lý, tôi nể trọng
ông về nghề báo, thích phong cách sống giản dị và có phần xuề xòa của ông. Là
lãnh đạo cao nhất ở cơ quan nên chẳng dễ gặp riêng ông để trò chuyện dù là đơn
thuần nghề nghiệp, tôi có mấy cuộc gặp riêng ông. Lần đầu là vào khoảng năm
2001, khi ấy tôi mới được bổ nhiệm làm Phó trưởng ban biên tập Văn hóa xã hội.
Tôi được giao việc đến xin ý kiến ông về một dự án truyền thông phối hợp với Bộ
Y tế. Mặc dù trước đó không lâu, ông là người ký quyết định bổ nhiệm tôi nhưng
ông không thuộc mặt tôi nên vẫn nhầm tôi với một biên tập viên khác cùng ban.
Khi tôi đính chính xưng danh, nhân đó nói lời cảm ơn ông đã tin tưởng bổ nhiệm,
ông à lên cười bảo: “Mình bổ nhiệm cậu là nghe ý kiến đề xuất của chị Kim
Cúc, Phó tổng giám đốc, cũng nghe anh em cơ quan khen cậu giỏi chuyên môn,… lại
cũng biết tên cậu qua mấy cái truyện đăng báo…”. Đại khái vậy, để thấy quan
hệ dồng nghiệp trên dưới là vô tư trong sáng, tuyệt không tư túi cá nhân gì. Khi
ông gặp nạn vướng lao lý, tôi và vài ba đồng nghiệp cùng ban biên tập tình cờ
tác nghiệp một hội nghị đúng nơi ông bị giam giữ, chúng tôi đề nghị được thăm
ông. Cuộc gặp chừng hơn nửa tiếng thôi, buồn vui chộn rộn bao tâm trạng, lúc tiễn
ông trở vào nơi giam giữ, tôi có hỏi ông có viết được gì không, ông lắc đầu bảo
“Viết làm sao được hả em. Lòng dạ nào…”.
Hẳn là ông thật lòng. Dù điều kiện giam giữ có riêng biệt đấy nhưng tâm trang
nào, long dạ nào that. Song nhất định đấy là quãng thời gian ông nung nấu để
sau này trút hết gan ruột , vốn sống, nỗi đau đời vào ba tác phẩm để đời của
mình?...
Tôi còn có mấy
cuộc gặp riêng ông nữa, khi thì tôi và ông ngồi cạnh nhau trên máy bay từ Hà Nội
vào Tp. Hồ Chí Minh, khi thì ở phòng làm việc riêng của tôi. Nhờ thế mà tôi biết
thêm về cuộc đời làm báo “ba chìm bảy nổi” của ông
Khi thời gian
đã lùi xa, đủ để mọi sự lắng lại, người ta cũng bàn ít nhiều về mức độ đúng sai
về vụ án khiến ông “ngã ngựa”, nhưng cũng chẳng để làm gì. Điều quan trọng nhất
là ông đã vượt qua tất cả, để tiếp tục cầm bút, cho ra những tác phẩm có giá trị
về tư liệu lịch sử và sự chiêm nghiệm cuộc đời.
Vậy là nhà
báo, nhà văn Trần Mai Hạnh đã tự điền nốt những chỗ còn trống thiếu trong biên
bản cuộc đời mình.
Tôi tin thế
!...
TRẦN MẠNH THƯỜNG
và những tùy bút đêm
giao thừa
Khi tôi về làm
phóng viên nhà Đài (VOV) thì nhà thơ Trần Mạnh Thường đã như ông Hộ pháp trấn
giữ ở Phòng Văn học thuộc Ban Văn nghệ (Văn
học nghệ thuật và âm nhạc). Thời điểm ấy, biên tập viên văn học toàn những
cây bút tên tuổi là Hoàng Ngọc Anh, Trần Nhật Lam, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Mạnh
Thường, Trần Nguyên Vấn, Trúc Thông, Tuấn Vinh, Lâm, Huy Nhuận, Lê Đình Cánh,
Trương Hữu Lợi,... Còn nhà thơ Vũ Quần Phương thì nghe đâu rời khỏi Đài trươc
đó ít lâu.
Hàng ngày, thấp
thoáng bóng dáng to đậm của nhà thơ Trần Mạnh Thường với cặp kính cận dày cộm,
dắt chiếc xe đạp cà tàng. Có lần tôi chào ông thì ông giữ lại bảo: “Nghe nói cậu cũng viết văn, có cái gì,
bút ký hay truyện ngắn gửi lên chỗ mình, được là cho phát sóng chương trình văn
nghệ”. Ông chân tình thế, tôi chỉ biết nghe theo. Thú thật, trước đó, viết
được dăm ba cái nhưng ngại không dám gửi, hoặc nếu có thì chỉ dám đưa qua nhà
thơ Trần Nguyên Vấn, người tôi quen biết từ hồi chưa về Đài với lời dặn cấn thận:
“Anh xem giúp em cái này, nếu thấy được
thì anh hãy chuyển Phòng duyệt xem có dùng được không ạ”. Đại khái thế. Giờ
nhà thơ Trần Mạnh Thường, cán bộ Ban biên tập mở lời, với tôi, đùng là được lời
như cởi tấm lòng.
Trần Mạnh Thường
tính thẳng thắn, bộc trực, không quanh co bao giờ, khác hẳn chất khéo léo có
chút hoa hàng kẻ chợ vốn có của của dân thành Nam, mặc dù ông chính gốc họ Trần
ở Lộc Vượng, Mỹ Lộc, Nam Định, nơi tọa lạc cung Trùng Hoa Phủ Đệ tứ thuộc Hành cung Tức Mặc phủ Thiên
Trường của Vương triều Trần xưa. Sau này thành quen thân, thi thoảng lúc vui
chuyện, tôi bỡn ông vậy, ông chỉ cười. Có lần tôi đùa bảo: “Tên anh, Trần Mạnh... em ngỡ sẽ là Hùng,
Dũng hay gì gì đấy, nhưng anh lại Thường...Mạnh mà thường thì còn gì là mạnh.”.
Ông nheo mắt kính, xuề xòa: “Cái thằng...”. Với đàn em, thân tình,
quý mến rồi, ông xưng hô mày tao, bỏ qua sự trịnh trọng trên dưới không cần thiết.
Chuyện vui về
con người Trần Mạnh Thường là vậy. Giờ tôi phác thảo một Trần Mạnh Thường với tử
cách nhà thơ, người gác cửa đên văn chương nhà Đài một thời gian dài (ông giữ cương vị Phó trưởng ban Văn học nghệ
thuật Đài Tiếng nói Việt Nam cùng với nhà thơ Trần Nhật Lam, Trưởng ban và sau
đó làm Trưởng ban khi Trần Nhật Lam nghỉ hưu).
Trần Mạnh Thường
viết chậm và kỹ, không sốt ruột tập này tập kia như nhiều nhà thơ cùng thời.
Ông tập trung vào công việc của một phóng viên, biên tập viên văn nghệ và cả
khi giữ cương vị lãnh đạo. Người làm biên tập viên thơ có cái hay và cũng có
cái không hay; hay là được tiếp xúc với nhiều giọng điệu thơ khác nhau đặng
phong phú thêm hiểu biết cho mình và qua đó có thể học hỏi thêm ở người; lại
không hay ở cái dễ chai lỳ cảm xúc, lâu thành trơ và không khéo lại bị ảnh hưởng
của ai đó mà không thoát ra được. Đọc thơ Trần Mạnh Thường tôi cảm nhận trạng
thái này ở ông, may là ông tự tìm lối thoát ra được.
Bài thơ “Năm
hòa bình trên xe qua khu bốn”
sau rút tít gọn thành”Năm hòa bình” có mặt ở nhiều tuyển
thơ khác nhau. Có lẽ, Trần Mạnh Thường tâm đắc với bài thơ nửa chiến tranh nửa
hòa bình này của mình. Hòa bình rồi mà chiến tranh vẫn hiện hình váng vất trong
ý nghĩ người ta khi băng qua mảnh đất khói lửa khu bốn: “... Những xóm làng vút qua hối hả/ Hệt như đang chạy tìm tôi/ Lấy cái
im lặng thay lời/ Để nói một điều gì hệ trong/ -Đằng trước có bom nổ chậm/ Ngày
xưa tôi đã nghe/ Câu ấy không ai nói nhỏ bao giờ...Tất cả có chung khuôn mặt/ Lặng
lẽ vụt qua/ và hiện lên phía trước/ Như có điều gì muốn nói cùng tôi/ Thành phố
đã đi sơ tán cả rồi... / Quên sao được những hầm sâu Quảng Trạch/ Bao vướng víu
dọc đường em đã gỡ cho tôi/ Những trái bom nổ chậm cũng gỡ cả rồi/ Cầu đã thông
xe/ xe tôi về thành phố/ Một giờ sáu mươi cay số/ Mưa nắng mơ hồ sau tấm kính
thời gian...”
Thơ Trần Mạnh
Thường nặng những suy tư, cả khi ông viết về hoa tầm xuân: “Nhọc nhắn kết nụ/ Nhọc nhằn nở/ Gày guộc âm
thần/ CHẳng mong chi được cắm trong bình/ Lặng lẽ giữ một chút hồng dầu dãi/ Một
chút hương cho hoa bớt dại/ Dọc những lối mòn/ Suôt đời đi tìm mùa xuân” (Hoa tầm
xuân). Phàm những người viết chậm và kỹ, nếu không tìm được ý tứ thì
không viết, song khi có tứ rồi thì chỉ nhăm nhăm biểu đạt cái ý của mình mà
quên đi giai điệu, nên câu chữ hay bị gò. Hiếm người được cả ý tứ, câu chữ và
giai điệu như nhà thơ Chinh Hữu (Tập thơ
“Đầu súng trăng treo”). Nhận định
vậy, không có nghĩa là tôi nói riêng về thơ Trần Mạnh Thường mà điều này dường
như phổ quát rồi.
Bài thơ |”Cái
cò lặn lội” là một bài thơ được Trần Mạnh Thương nâng niu và khác cái
tông của ông. Tôi biết nài này ông viết riêng cho vợ con mình mà vô tình nói hộ
bao người. Thời bao cấp khôn khó, vợ ông phải đi lao đông xuất khẩu lao động ở
Liên Xô, đảy ông vào cảnh “gà trống nuôi
con” mấy năm trời chóng mặt chăm hai con nhỏ: “Cái cò lặn lội tuyết trắng mênh mông/ Lạnh buốt dong sông cành mềm gió
đập/ Hạt gao lăn qua biết mấy vòm trời/ Lặng lẽ tơi giữ lòng mặt chát/ ... Bao
giờ mẹ về từ trời cao thẳm/ Nơi có chòm sao như hình chiếc gàu sòng/ Bao giờ mẹ
về bát cơm ủ ấm/ Chỉ nhìm con ăn cũng thấy no lòng/ Cài cò lăn lội tuyết trắng
mênh mông”. Tôi nói khác tông với ông như thường thấy, ở đây là sự trải
lòng, nói cho chính mình, chứ không phải là sự gắng gượng nói những điều mà người
khác hay nói, vẫn nói, cần mình nói để thể hiện tính công dân này nọ.
Trần Mạnh Thường
có viết trường ca. Tập “Thơ và Trường ca”
(NXB Hội Nhà văn, 1997), cùng một số bài thơ lẻm Trần Mạnh Thường in trọn trường
ca “Lời
chào” sau chuyến ông đi thực tế Côn Đảỏ. Hòn đảo chơi vơi ngoài đại
dương sóng gió, thành địa ngục trần gian do thực dân Pháp và Mỹ Ngụy biến làm
nơi giam giữ những chiến sĩ cách mạng, những người Việt Nam yêu nước, dễ khơi gợi
cho người cầm bút. Đã có nhiều người viết và Trần Mạnh Thường cũng muốn thử sức
mình ở thể loại trường ca nên ông đã chọn. Và ông đã hoàn thành ý đồ là kể câu
chuyện mình muốn kể, nhưng quả thật, gia tài thơ văn của ông dày dặn hơn và
phong phú thêm vì có trường ca, như nhiều nhà thơ cùng thời (Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Anh Ngọc...),
song về phương diện nghệ thuật, ngôn ngữ thi ca thì hầu như không có đóng góp
gì đáng kể.
Là nhà thơ
nhưng Trần Mạnh Thương có một thứ có xem là “đặc sản” của nhà Đài (VOV), ấy là
tùy bút đêm giao thừa. Ngày ấy, theo thông lệ, chương trình phát thanh đón giao
thừa (Tết Nguyên đán) hằng năm của nhà Đài bao giờ cũng có phần văn nghệ mà ở
đó nhất thiết phải có tùy bút, được giao cho Ban biên tập Văn học nghệ thuật đảm
trách. Thế là Trần Mạnh Thường được lựa chọn thực hiện, có đặt bài người khác nhưng phần lớn do ông phóng bút. Bài tùy
bút nửa văn nữa báo này phải ngắn gọn súc tích, đủ tâm đủ tầm, bao quát được
dòng sự kiện chủ lưu có điểm nhấn của năm trước và cả dự cảm tương lai. Đại loại
thế. Trần Mạnh Thường làm rất tốt việc khó khăn này và dần trở thành thế mạnh của
ông, theo đó cũng làm nên uy tín của ông trong con mắt đồng nghiệp báo chí. Còn
là thương hiệu của Trần Mạnh Thường, bởi không ít bạn bè đồng nghiệp gọi yui
ông là “Ông tùy bút giao thưa”
Chuyện nghề là
thế, là nhà thơ đâu phải chỉ chuyên tâm sáng tác và biên tập thơ, còn phải làm
đủ thứ theo yêu cầu của ban biên tập. Chuyện vui, có lần tôi gửi Trần Mạnh Thường
một bài bút ký tôi viết về vùng Bảy Núi, An Giang sau chuyến trở lại vùng đất
này nơi tôi từng công tác hai mươi năm trước. Trong bài ký có trích câu thơ mà
nhà báo Nguyễn Huấn, bạn đồng hành, nỡm tôi “Tri Tôn ơi hỡi Tri Tôn/ Ra đi anh nhớ cái ... nón của em”. Ít hôm sau,
tình cờ gặp Trần Mạnh Thường ở sảnh cơ quan, ông gọi giật tôi lại, nheo nheo
sau cặp mắt kính cận dày, toét miệng cười bảo: “Này, bài bút ký của mày phát sóng cuối tuần này nhớ... Nhưng tao cắt bỏ
cấu thơ tếu của thằng Nguyễn Huấn... Lếu láo quá, chúng mày định chơi xỏ tao đấy
à?...”. Tôi cười càu tài: “Là em thử
tài biên tập của anh đấy... Xem anh có đọc duyệt kỹ không... hay là cứ ký đại?”.
Ông cười: “Mấy thằng nỡm”. Còn một
chuyện nữa, tôi muốn nêu ra đây. Trần Mạnh Thường trở thành nhà báo, nhà thơ
vào đúng thời kỳ ác liệt của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền
Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông có nhiều bài viết và sáng
tác thơ văn về chủ đề này. Sau này, kết thúc chiến tranh, Việt
Tôi để ý, Trần
Mạnh Thường hầu như không có thơ tình. Trong đời sống ông xuề xòa thoải mái,
không thấy tán tỉnh hay trêu đàu đông nghiệp nữ, ngỡ ông khô khan. Nhưng không.
Một lần lãnh đạo Đài tổ chức cấp trưởng, phó các ban biên tập nghe đài tập thể
đặng lấy ý kiếm nhằm cải tiến chương trình phát thanh nói chung. Mày ngày cuối
tuần, kéo quân lân một resort ở Mộc Châu, Sơn La. Tôi và Trần Mạnh Thường ở
chung một phòng khách sạn. Tiết đầu thu, thảo nguyên se lạnh và sương khói,
dương như tác động đến tâm trạng con người. Sau bữa cơm tôi có hơi men, hai anh
em tôi tán gẫu. Chuyện nọ dọ chuyện kia, Trần Mạnh Thường bông nhiên cởi mở.
Ông kể chuyện thời sinh viên cảm một cô bạn cùng lớp, xinh và hiền lắm. Cô bạn ấy
cũng có cảm tình với Trần Mạnh Thường và nhận biết tình cảm người bạn trai dành
cho mình. Những rồi không ai thổ lọ, chỉ lặng thầm dành cho nhau tình thương mến.
Ra trường, chia đôi ngả, cô bạn được phân công lên Tây Bắc dạy học. Tình duyên
thầm kín chẳng nên chuyện gì, vẫn phong
trong tâm tưởng mỗi người. Nói theo người xưa, có duyên mà không có phận. Không
rõ cô bạn gái kia thế nào, còn Trần Mạnh Thường thì chắc không phai hình bóng
cũ, bởi ông vẫn dõi theo để biết cô bạn ấy truân chuyên đường gia thất và cả
công việc sau này... Tôi hỏi ông: “Bác lãng mạn phết chứ không khô khan như
em vẫn nghĩ... Chỉ lạ, hình như bác không có thơ tình nhỉ?”. Ông cươi trừ, ậm
ừ cho qua chuyện,...
Khi nghỉ hưu,
Trần Mạnh Thường vẫn say việc nhà Đài, ông giữ chân kiểm thính mảng văn hóa xã
hôi và văn học nghệ thuật, cho đến lúc mất đột ngột sau một cơn đột quỵ. Ông rời
xa cõi tạm chừng mươi năm rồi đấy,...
Giờ nhớ lại
chuyện cũ và viết về nhà thơ Trần Mạnh Thường, bỗng tôi thèm được đọc một bài,
hay vài ba câu thơ tình của ông?!...
Trần
Nguyên Vấn,
cần
mẫn và ân tình
Trong
số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm
biết vì chúng tôi cùng lứa học phổ thông và cùng nhau đứng trong đội tuyển giỏi
Văn của tỉnh Hải Hưng tham gia kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn
miền Băc vào tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn là người tôi biết mặt đầu tiên.
Tính từ lần đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm 1982, 1983 gì đó, đến nay đã
ngót bốn mươi năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi viết gì về ông, tôi vẫn phân
vân về danh xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn
đo vậy thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi mặc định cách gọi, nhà văn thì
Trần Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà. Đương nhiên, ông viết đều cả hai
thì gọi thế nào chẳng được...
Trở
lại buổi ban đầu quen biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm đúng công việc của một
anh kỹ sư canh nông, ở tít mãi vùng biên giới Tây
Hàng
năm, mỗi lần đi phép ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn tôi cùng đây đó, nhớ thế mà
tôi gặp và quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi từ ông, tôi biết thêm các bạn
văn của ông, nhà văn Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Thái Vận, nhà thơ Võ Văn
Trực, nhà thơ Ngô Quân Miện,... Cũng qua ông, lần đầu tôi bước chân ngó nghiêng
ngôi nhà văn học của Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết mặt những tên tuổi mà bấy
lâu tôi từng đọc và nghe những tác phẩm của họ như: Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật
Lam, Trần Mạnh Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...
Cho
đến khi, cầm quyết định về nhận công tác tại Đài TNVN vào tháng 10/1987, thì
ngoài những người cùng đơn vị với mình ở Ban Thính giả, người tôi hay lui tới
chính là Trần Nguyên Vấn. Dù hơn tôi hai chục tuổi (ông sinh năm 1937).
Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của mình. Tôi cũng hay đến chơi thăm ông
tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, và
sau đó ông rời sang khu tập thể ở phố Tông Đản... Thành đàn em của ông, rỉ rả
tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở, ngỡ thuận buồm xuôi gió, nhưng không
phải vậy,...
1,
Hành trình trở thành nhà văn,
Trần
Nguyên Vấn sinh ở quê, làng Trúc Lâm thuộc thành phố Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ
trường Trung học Khải Đinh (Quốc học Huê), đậu bằng trung học đệ nhất,
tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin ra Bắc tiếp tục đi học,
trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây là ngôi trường nổi tiếng
mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học sinh và trưởng thành từ
đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to tháng 9 năm 1954 do vỡ đê
sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt tuyến không có học bổng
phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa năm 1956 mới có học bổng.
Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961) khoa Ngữ văn trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân văn Giai
phẩm nên việc vào khoa văn rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh chỉ lấy
24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô Văn Phú,
Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm Thị Hồng
Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm gồm Lê
Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần Nguyên Vấn,
tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các thành viên trong nhóm tham gia viết
truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến chống Pháp của Thành Đội Hà Nội. Trần
Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể của một số
chiến sĩ. Bài ký này cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia Nùng... được
Thành đội Hà Nội tập hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội, do NXB
Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như vậy, có thể nói, con đường sáng tác văn
học của Trần Nguyên Vấn khởi đầu thuận lợi, báo hiệu sự hanh thông trong sự
nghiệp văn chương...
Nhưng
rồi, một sự hanh thông khác lại mở ra, năm 1961, tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai
cử nhân văn trẻ là Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực nhận quyết định phân công về
Bộ Ngoại giao công tác, Tương lai trở thành một nhà ngoại giao mở ra, song
dường như đinh mệnh an bài Trần Nguyên Vấn phải theo nghiệp cầm bút văn chương
thơ phú, nên chàng cử nhân văn khoa này lại không hài lòng với nghề ngoại giao
mà nhiều người mong chẳng được. Người bạn cùng lớp là Nông Thị Nhuân được phân
công về làm biên tập ở mục Đọc truyện dêm khuya thuộc Phòng
Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng thơ của
Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên Vấn báo cáo Bộ Ngoại giao
rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương lai trở thành người biên
tập thơ...
Trần
Nguyên Vấn bước chân vao môi trường làm báo chuyên nghiệp, vào mái nhà chung 58
Quán Sứ, trụ sở Đài TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ đấy, ông gắn bó với địa chỉ
này cho đến lúc nghỉ hưu, tuy quãng giữa chặng đường dài này nhiều biến cố,
trắc trờ....
Thời
gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài công việc biên tập, Trần
Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của công việc, đặc biệt là
phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển sang Phòng
miền Nam làm ở Tổ thời sự để học thêm cách làm
tin, sử dụng tin tham khảo và viết các câu chuyện thời sự, sẵn sàng nhận nhiệm
vụ đi chiến trường. Trần Nguyên Vấn còn hăng hái đến mức, đã tìm gặp một số cán
bộ của tỉnh Thừa Thiên mới từ chiến trường ra để bày tỏ nguyện vọng muốn được
vào chiến trường. Tuy nhiên, ông vẫn phải chờ đợi đến tháng 4.1967 mới được đáp
ứng, sau khi trở lại làm việc ở mục Tiếng thơ. Trần Nguyên Vấn đi B
cùng đợt với nhà báo Nguyễn Thành (sau này, nhà báo Nguyễn Thành làm Phó Chủ
nhiệm Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt
Năm
1969 chi hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế được thành lập. Trần Nguyên Vấn
được bầu vào Ban Chấp hành Chi hội do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chi hội trưởng, nhà
thơ Thanh Hải là Chi hội phó kiêm Tổng Thư ký, còn ông làm Tạp chí Sinh
hoạt văn nghệ của Chi hội. Thôi thi mặc sức mà viết, truyên ngắn, bút
ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong trào kháng chiến. Truyện
ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra dự thi truyên ngắn báo
Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông hăng hái xuống đồng bằng,
ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra cho Đài phát thanh Giải
phóng. Đài TNVN và Tiểu ban văn nghệ miền
Nhân
đây, tôi thấy cần nói thêm về Đài Phát thanh Gải phóng, nơi nhà văn
Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt. Khi Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960, theo sự chỉ đạo của Bộ Chính
trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuẩn bị mọi
việc để thành lập Đài Phát thanh Giải phóng. Và ngày 01/02/1962,
tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc Chiến khu Đ, Đài Phát thanh Giải
phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức
phát sóng buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của báo chí cách
mạng trên chiến trường miền Nam. Đài Phát thanh Giải phóng đã
phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa và Khmer, với lời
xướng kiêu hãnh: “Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất,
tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam.” Đài Phát thanh Giải phóng phải thay
đổi địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và có điểm phát là cơ quan tuyệt
mật ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng Tham mưu, C55 và CP90... Đài
Phát thanh Giải phóng chấm dứt hoạt động vào ngày 31.8.1976, hoàn
thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước thống nhất Bắc
Sau
giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn trở về Đài Phát thanh Giải phóng,
làm Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài Phát thanh giải phóng chấm
dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan
Đài tại phía Nam, và mãi năm 1980 ông mới ra Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng
Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với cương vị Chủ nhiệm chương trình phát thanh
Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trở thành hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam vào năm 1983. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.
Hành
trình để trở thành nhà văn của Trần Nguyên Vấn là hành trình dấn thân đầy gian
khổ nơi chiến trường bom đạn ác liệt; là hành trình viết tạp mọi thể loại để
phục vụ thông tin tuyên truyền thời chiến, để có sự lắng động, chắt lọc mà
thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so sánh, nếu như Trần Nguyên Vấn không đổi
nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì sao nhỉ? Tất nhiên, là nhà ngoại giao mà
có lòng say mê văn chương, hoàn toàn có thể trở thành nhà văn, song ông đã
không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã chọn cho mình con đường cầm bút chuyên
nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, ông đã tình nguyện dấn thân
vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống và lý tưởng văn chương hun đúc, cùng
hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng, vào mặt trận, rất có thể một ngày
nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng nghiệp Tô Chức, hay như các bạn
văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,... và bao chiến
sĩ khâc,
May
thay, ông đã bình an đi qua chiến tranh để trở thành nhà văn, nhà thơ. Hơn thế,
ông là một nhà báo, một chiến sĩ !
2.
Thơ văn Trần Nguyên Vấn,
Đến nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản các tập
sách:Trở về Hà Nội (truyện
ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm
vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa
trái (thơ, 2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu
tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên
soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân dung văn nghê,
2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn, 2017), Về
giữa lòng quê (Ký, 2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách
đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay mai.
Biết ông
nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi hiểu, Trần Nguyên Vấn không hẳn là
một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát ra ngoài. Trong nhóm văn chương ba
người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa, hóm hỉnh; còn Nguyễn Thái Vận. lãng
mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn, cẩn trọng, chu toàn. Có lẽ, những đức
tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn kết, thân thiết, quý mến nhau. Giờ thì
Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo cánh hạc về trời, còn lại mình Trần
Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và quảng giao, Trần Nguyên Vấn luôn
biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu bạn, Ông đặc biệt say mê việc làm
sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn, đến in ấn phát hành... và đương
nhiên, vẫn rỉ rả viết. Ông là người ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ mọi sự việc thấy
cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư liệu lớn. Tôi đã từng ngó xem
những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá đẹp, chú thích và thư mục
đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng nể, Tôi biết, ông có những
bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ Việt
Trần
Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Việt
Tôi nhớ,
cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho tư liệu phong phú của ông, tôi
đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao bác chưa chuyển hóa
chúng thành tác phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng được bao nhiêu đâu?...”.
Trần Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình cũng đang dùng dần đấy....”.
Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này tập nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục
hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại không dám hỏi lại. Dường như, có gì đó
chưa thông suốt trong ông thì phải? Những năm gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp
nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm sách, nhất là sách về trường Quốc
học Huế và Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Miễn
sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã ở độ tuổi ngoại tám mươi.
Tôi vẫn
có ý chở. Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư liệu, đặc biệt là tư liệu ghi chép
về chiến tranh của ông.
3.
Cần mẫn và ân tình Trần Nguyên Vấn,
Bút
danh Trần Phương Trà thay cho tên thật Trần Nguyên Vấn chỉ có
khi ông vào chiến trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo
yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng bí mật thời
chiến. Như vậy, bút danh này chủ yếu được dùng thời kỳ ông làm việc ở báo Cờ
Giải phòng và Đài Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn
bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà một. Sau này, ông ký tên thật là chính,
song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu mến gọi ông bằng bút danh, như một cách
để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ đã qua.
Bản
tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cởi mở và đầy nhiệt tình với mọi người. Gặp
nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí nhớ rất tốt, có thể nhắc lại những chuyện
cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn và cách sống ân tình, là bản chất của
ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội khó khăn, thiếu thốn, căn nhà của
ông (ở khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà Nội),
là nơi lui tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng nghiệp cùng
cơ quan Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ xứ Huế mỗi
khi ra Hà Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày, thậm chí cả
tuần thay vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi danh của xứ
Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Hải Bằng, ... Thế nên,
Trần Nguyên Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban liên
lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có kinh nghiệm tổ chức
các hoạt động chung.
Tôi có
anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng là đàn em báo chí thân thiết với Trần Nguyên
Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi, đại khái, Trần Nguyên Vấn sinh năm 1937, tuổi Đinh
Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế thôi, nhưng là người nghịch ngầm, khá bướng
bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết liệt, định làm việc gì là gắng bằng được.
Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ hanh thông nhẹ nhàng song thực lại
hay trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông chưa tương xứng với sự
cống hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.
Trần
Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong việc làm sách. Trong số ấy, phần lớn là tập
hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư liệu của các tập thể, riêng có 2 cuốn về cá
nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu
tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên
soạn, 2008).
Nhà thơ
Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính trọng của nhóm “Văn nghệ sĩ Ong”
thân nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Thái Vận, Vũ
Đính Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm văn nghệ sĩ, thời bao cấp,
thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết bài, sáng tác thơ văn về
nghề nuôi ong).
Còn Tuân
Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là nhà báo, nhà thơ đàn anh, biên tập
viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN, nơi Trần
Nguyên Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề biên tập thơ. Đây
xem như cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng hương xứ Huế, đồng
nghiệp cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với nhau. Nhân đây,
nói thêm vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên với Trần
Nguyên Vấn,
Tuân
Nguyễn (tên thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở Phú Vang, Thừa
Thiên Huế, là nhà báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng làm việc ở
chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân Nguyễn tốt
nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời kháng chiến
chống Pháp từng tham gia Vệ quốc đoàn, sau hòa bình xuất ngũ, theo
học khóa 1 Văn khoa Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, làm giáo viên dạy
ở Trường học sinh miền
Những tưởng câu chuyện về một con người có tài có tâm nhưng
không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng sẽ chìm vào dĩ vãng, thì giờ đây,
những người yêu văn chương và bạn đọc biết đến tên tuổi Tuân Nguyễn. Trước hết,
phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng Quán, người đã viết một chân dung Tuân
Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba phút sự thật của ông.
Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB Hội Nhà văn
ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm bản thảo, biên
soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét thêm. Ở đó tập
hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng nghiệp, người quen
của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng Sơn, Thái Vũ, Dương
Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân Đài, Vũ Từ Trang
v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ của Tuân Nguyễn
được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng nghiệp, thậm chí
cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc hiểu đúng về con
người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã trải qua, cũng xem
như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi oan khuất ma ông
mắc phải!?...
Để làm được việc này, Trần Nguyên Vấn, người em xứ Huế,
người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn phải có tâm lăm lắm và bỏ nhiều công sức, cần
mẫn, tận tụy mới làm nổi,
Thay lời kết cho bài biết này, tôi kể một câu chuyện, thêm
phần minh chứng cho mối lương duyên giữa hai người con của Thừa Thiên Huế, Tuân
Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm 2011, nhà thơ Phương Thúy, vợ của Tuân
Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không nơi nương tựa ở Tp. Hồ Chí Minh. vì
ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải pháp tốt nhất là làm sao đưa bà Phương
Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lão. Để làm được việc này không đơn giản, phải lập hồ
sơ giấy tờ phiền hà. Trần Nguyên Vấn lại đứng ra lo một phần giấy tờ thủ tục.
Khi ấy, tôi đang là Chánh văn phòng Đàu TNVN, nên có điều kiện giúp Trần Nguyên
Vấn phần giấy tờ liên quan đến Đài với tư cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của
nhà thơ Tuân Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương
Thúy được an cư ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,...
Với vợ chồng nhà thơ
Tuân Nguyễn, lo toan như thế, tôi nghĩ, Trần Nguyên Vấn đã bỏ bao công sức. Ông
thật trọn tình vẹn nghĩa. ./.
TRẦN NHẬT LAM
mỗi ngày sau một ngày
Nhắc đến nhà thơ Trần Nhật Lam, ngươi
ta nhớ ngay đến bài thơ “Miền Nam nhớ mãi ơn người” được nhạc
sĩ Lưu Cầu phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, hay và cảm động; cùng với đó là bài
thơ “Con
chim câu bay xa” được chọn in trong nhiều tuyển thơ Việt Nam.
Mùa thu năm 1987, tôi từ An Giang về
làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), ở ngay trụ sở 58 Quán Sứ, thì
phòng biên tập của tôi liền dưới tòa biệt thự kiến truc Pháp, nơi Ban biên tập Văn nghệ đóng mà nhà thơ Trần Nhật Lam
là lãnh đạo ban này rồi. Ít lâu sau, Ban này tách đôi thành Ban Văn học nghệ thuật và Ban Âm nhạc, nhà thơ Trần Nhật Lam lên
Trưởng ban Văn học nghệ thuật, rời sang ngôi biệt thự khác vẫn trong trụ sở 58
Quán Sứ. Ngày làm việc, gặp ông thì chào xã giao, chẳng dám ho he gì vì xem ông
hàng cây đa cây đề làng văn nghệ rồi. chỉ
le ve giao du với mấy đàn anh là Lâm Huy Nhuận, Trương Hữu Lợi thôi. Quả vậy,
sau này đọc bài viết “Những cuộc trá trên
căn gác cũ” của nhà báo Trần Nhật Minh, con trai ông, thêm rõ, khách chơi
nhà thưởng trà và đàm đạo thơ văn ở căn gác trong ngôi nhà cũ trên phố Bát Sứ,
Hà Nội của nhà thơ Trần Nhật Lam toàn những tên tuổi làng văn nghệ xứ mình như:
Xuân Diệu, Nguyễn Bùi Vợi, Trúc Thông, Lê Đình Cánh, Vũ Quần Phương, Ngô Văn
Phú, Ngô Quân Miện, Trần Lê Văn, Vân Long, Thanh Hào, Đỗ Văn Hỷ,... Làm người
gác cổng một kênh văn học nghệ thuật quan trọng của nước nhà, quan hệ và giao
du rộng là cần thiết, cũng là niềm vui công việc và cuộc sống của nhà thơ Trần
Nhật Lam. Bản tính ông kín đáo và cẩn trọng, cốt cách nho nhã lịch sự của người
Hà thành làm nên phong thái Trần Nhật Lam.
Vốn tính cẩn trọng nên ông viết cũng vậy,
chậm và kỹ, không xô bồ phóng bút. Sau bốn mươi năm tập thơ đầu tiên (“Đất
tôi yêu” in năm 1973), Trần Nhật Lam mới xuất bản tập thơ thứ hai của
mình. Câu thơ Trần Nhật Lam lấy làm đề từ cho tập thơ “Mỗi ngày sau một ngày” (NXB Hội
Nhà văn, 2013), “Mỗi ngày sau một
ngày/ Ta nắm bàn tay năm tháng,/ Như nắm bàn tay người thương/ Ngón kề ngón đan
bện nhau ấm nóng.../ Ta đan bện ta với cuộc đời”, phần nào thể hiện quan niệm
của mình về cuộc đời và thi ca nữa. Giản dị, không lạ hóa ngôn từ, cũng chẳng
tuyên ngôn, đại ngôn, Trần Nhật Lam lặng lẽ đổi mới thơ. Cốt ở ý, câu chữ trau
chuốt, không câu nệ vần vèo, giữ mạch ngầm, nên đọc và thuộc thơ ông không dễ.
Thơ Trần Nhật Lam, lý tinh át chất trữ tình: “Con chim câu đậu mái nhà sáng rực/ Chiếc tổ êm từng chịu bão giông nhiều/
Ngày mới mọc từ ánh gươm chiến trận/ Em chính là em của thuở ấy Thăng Long/ Của
đêm hịch của mặt người sạm lửa/ Của khói tan, của ụ súng đầu ô/ Em chính là em
ngang từng khung cửa/ Bay đưa nhành lá ước mơ,... Nhưng em phải là em, con chim
câu bay xa/ Mắt lóng lánh như nghìn năm chuốt ngọc/ Bầu trời mở những trang
xanh em đọc/ Suốt một đời dang cánh chiếm bao la” (Con chim câu bay xa).
Lý tính hầu như ngự trị trong thơ Trần
Nhật Lam. Dường như, ông chủ định thoát khỏi sự ru rín của vần điệu để nói một
điều gì đấy: “Đeo nhẫn cưới vào tay/ Vàng
bạc nói/ Hay trái tim ta nói?.../ Núi non xếp nếp nhăn trái đất/ Vầng trán xếp
nếp nhăn đời người,... Vườn thu xin nhẹ chân/ Giọng hát cũng thì thầm/ Kéo trái
kia sớm rụng” (Vô đề); Với lục
bát, cũng rất chi lý tính: “Bãi kia mía
ngọt dâu lành/ Phải bao máu thắm cho lành đất ươm/ Bến sao lại gọi bến Thương/
Non sao non Cội em thường ngóng trông” (Qua vùng Quan họ); Và cả khi nới với người thương cũng vậy: “Anh được em tin yêu/ Ta đi bên nhau suốt đời/
Cùng bước qua bao dọc ngang hỗn tạp/ Bàn chân được đặt cạnh bàn chân/ Được lắng
nghe linh cảm trái tim/ Em bảo/ Nhờ thế mà trở nên ấm áp/ Trong một thế giới
còn đó đây giá lạnh/ Anh được vươn thở ngực mình/ Được ngẩng đầu cho đất nước
vươn cao...” (Nói với người thương);
Về một Hồ Tây sương khói: “Vẫn đấy một Hồ
Tây/ Sớm nhòa sương khói, trưa vàng nắng/ Đêm trăng mới thấy tuyệt vời trăng? Vẫn
đấy một Hồ Tây/ Rì rầm/ Chỉ long ta nghe thấy/ Tiếng tận nghìn xưa sóng vọng về/
Gươm mài ánh lửa sôi lời hịch/ Đúc đồng giã giấy rộn làng ven/ Chuông chùa thuở
ấy nghe hòa tiếng/ Cả đất trời vươn sải dáng rồng bay” (Vẫn đấy một Hồ Tây),... Cứ vậy, đọc thơ
Trần Nhật Lam, mọi thứ căng lên như dây đàn, bỗng dưng tôi lại thèm được thấy
ông bớt cứng cỏi đi hay yếu đuối một chút cũng được, là để trở về sự bình dị đời
thường?...
Với dáng vẻ bề ngoài nghiêm cẩn mô phạm
nên dễ cám giác khó gần nhưng thực ra nói chuyện với ông lại thấy ông dễ gần,
hóm hỉnh ngầm và thú vị. Tôi nhớ, có lần đàm thoại văn chương, Trần Nhật Lam hỏi
tôi: “
Nhà thơ Trần Nhật Lam là người khiêm
nhường, hiếm thấy ông to tiếng cả trong công việc quản lý và đời sống hàng
ngày. Vợ ông, biên tập viên văn học Nông Thị Nhuận, một trong những người làm
biên tập đầu tiên ở chương trình phát
thanh Đọc chuyện đêm khuya hay Tiếng thơ của Đài TNVN
(VOV). Bà học Tổng hợp Văn Hà Nội cùng thời với nhà văn Ngô Văn Phú, nhà thơ Võ
Văn Trực, nhà thơ Trần Nguên Vấn, nhà văn Nguyễn Gia Nùng ... Ông bà sống thuận
hòa, các con là Trần Thùy Dương, Trần Nhật Minh và con rể, con dâu đều làm việc
trong lĩnh vực báo chí, văn học nghệ thuật. Nhớ thời ông bà còn đi làm, hàng
ngày, ông đèo bà bằng xe đạp, chiếc Phượng hoàng xích hộp. Có lần, nhà báo-kịch
sĩ Nguyễn Huấn cười đùa vui ông bà rằng “Ông
Lam đèo bà Nhuận, ông gày bà béo, nặng bồng nhẹ tếch, bánh trước xe cứ như bị
nhấc lên khỏi mặt đường, nên ông Lam phải rướn người đạp pê-đan tay ghì
ghi-đông đè nó xuống,...”. Quả là thế, tuy hơi ngoa chút, chuyện vui ấy mà.
Sau khi nhà thơ Trần Nhật Lam nghỉ hưu,
thi thoảng gặp ông mỗi lần ban biên tập Văn hóa xã hội mời các thế hệ cán bộ,
phóng viên, biên tập viên từng công tác tai Ban đến dự cuộc gặp mặt nhân dịp kỷ
niệm ngày thành lập Đài (07/9) hằng năm. Biết ông khỏe và có thêm niềm vui mới,
ấy là cầm cọ vẽ tranh thử sức ở lĩnh vực hội họa. Với người nghệ sĩ, có cảm hứng
sáng tạo thì ở bất cứ loại hình nào đều quý cả.
Vài năm gần đây, tôi về làm biên tập ở
tờ tạp chí Nhà văn & cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Trần
Nhật Lam có gửi đăng thơ chùm, thơ báo tết. Cảm nhận, sau nhiều năm, ông vẫn
nguyên chất lý tính xưa. Đấy là sự lựa chọn của ông. Ở ngưỡng cửa chín mươi
xuân, nhà thơ Trần Nhật Lam vẫn bản lĩnh, cứng cỏi như ngày nào,…./.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát
Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt
Trong bài viết
Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà
thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu
thơ lục bát hiện tại xứ ta và mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng
Đức Bốn.
Nếu định danh
vậy, có nghĩa là, với Lê Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ, mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy,
cũng đồng nghĩa với việc, trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết
đến tư cách nhà thơ của Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng
số 11 tác phẩm in riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập
thơ đầu tay Đất lành do NXB Thanh
Niên ấn hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi,
biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc
thi thơ của Báo Văn Nghệ ( năm 1976 )
với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể
gặp ai cũng chào“ (bài Mẹ ra Hà Nội)
và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long
lanh sương sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên
cao nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến
Lê Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà
dư tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những
bài thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt
Theo tôi, một
khi xếp nhà thơ Lê Đình Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta,
thì có nghĩa, thơ thể lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình,
chứ đâu riêng chỉ vài ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn
chặt vào nền thi ca Việt
Vậy, cùng với
“Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh
còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục
bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ trong cái chiếu thơ lục bát thời nay,
chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh
với thơ lục bát. Người ta viết về ông với thể thơ này rất nhiều, những đánh
giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều,
ông đã thành công, đắc địa với thơ lục bát...
Mặc dù không
muốn nhắc lại bài này bài nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà
nhiều người khác đã nhắc, song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì,
tôi xin nhặt nhạnh theo cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người
đã nói, còn có các câu thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay”
và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò
dọc chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn
cấu tứ chặt chẽ, lập ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm,
cái tưng tửng, têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm,
kể cả những bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn
từ và nhịp điệu, câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi
mang những nhận định trên mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của
Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với
những bài thơ hay, từng được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một
mình anh đi, Trăng nở nụ cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai
mua chổi rơm, Lời thề cỏ xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày,
Sương sa trắng đầu, Đêm sông Chùy, Cõi xưa, Bến quê,
Trở lại Ba Lòng, Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị
Màu, v.v...
Cũng theo đó,
người ta có thể tìm thấy rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác
đâu đó ở các bài thơ, dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
Mải lo cơm đủ áo lành
Còn đâu lúc rỗi để thành vọng phu
( Gió đất )
Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già
( Em đi )
Tình yêu như thể chơi đề
Đợi con độc đắc lại về trắng
tay...
... Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu
( Chợ tình )
Chốn quê vẹo cột vênh
kèo
Ốc cam phận ốc lại đèo kiếp rêu.
( Chợ người )
Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu
Xế tà tháp lặn vào mây
Vầng trăng chính sử hao gày hoàng hôn
( Lời xưa )
Sau già là cõi xa xăm
Nén hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.
( Hỏi đất )
Giếng làng mưa bão vẫn trong
Chợ quê rớt già vẫn đong đếm đầy
( Thú quê )
Đao đình cong nỗi phế
hưng
Một thời lá rụng dửng dưng sân chùa
( Phận rùa )
Tuổi già như thể nắng
hanh
Vừa long lanh sớm. Đã
mong manh chiều
( Về hưu )
Ơi người áo mũ cân đai
Nắm xương có xếp vào
hai tiểu sành
( Tiểu sành )
Nắm tay củ ấu vẫn tròn
Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi
( Chợ Mơ )
Giả vờ có ngủ được đâu
Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi
( Ngủ nhờ )
Ngày xưa xe lộn về Bần
Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu
( Về Phố Hiến )
Nẻo đường bồ bịch cong cong
Vừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...
( Nẻo đường cong cong )
Bắt chồng em có chọn anh
Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu
Như là đồng đất chọn trâu
Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày
Chọn anh như cối chọn chày
Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô
( Bắt chồng )
Thân cò trở lại nghề nông
Rời cây súng biết tay không có gì
Mấy đồng hưu trí thấm chi
Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người
( Anh lại đi cày )
Nứa mai thưng hở vách lều
Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy
Mưa bay như thể sương dầy
Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay
( Gặp ở Mường Tè )...
Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ
thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc
đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn.
Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay
không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với
đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
Thế cờ nghiêng về đâu
Pháo mã thành vô dụng
Sĩ tượng thành thất sủng
Tốt đen cười sang sông
( Nắng Hàm Tân )
Ai biết được ma nào ăn cỗ
Ai dại gì công bố chuyện đi đêm
( Vợ Ba )
Gặp bạn tình lòng đã thấy no
Rượu chưa nhắp lời đà có lửa
Trưa đứng nắng bồn chồn vó ngựa
Chợ lim rim một nửa sang chiều.
( Chợ Bắc Hà )
Đường một chiều cứ thế tôi đi
Tôi biết dại làm người nhụt chí
Cái đáng vứt lại cất làm của quý
Cái phải chôn đi lại để trưng bày
( Đường Bà Triệu )
Đâu đá lát lên đền Tam Tổng
Lạnh khói hương thông thốc giữa trời
Hai hộ pháp vẫn muôn đời gác cổng
Ông Ác cười! Ông Thiện toát mồ hôi...
... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo
Thời gian như nước ngầm băng hoại
Trái tim tôi càng sống càng nghèo
( Quê ngoại )
Mùa khô Đồng Văn trơ gió
Gió khê lời đá thở dài
Gió như tiền vào nhà khó
Một đời gió thổi trần ai
( Mùa khô Đồng Văn )
v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều
giá trị phong tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc
chưa hình thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh
nhiều chuyện nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục
bát từng khiến ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về
chủ đề mới này. Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa máy lạnh, Hát Karaoke,
Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như :
Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh
Để êm đỡ trẻ. Để anh đỡ già
( Hát Karaoke )
Phố làng xóa sổ nông
dân
Quán quê lai ghép công nhân nửa mùa
Lượn lờ chào bán gọi mua
Dật dờ chai cốc được thua với đề
( Phố Làng )
Mảnh bằng bán tận châu Phi
Tiền lương đếm lại nhiều khi mủi lòng
Ước mơ xé lẻ từng đồng
Thương con liệt sĩ lấy chồng thương binh,
Vết thương như kẻ vô tình
Tấy lên những lúc gia đình ăn vay.
( Vàng xám ) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề
tài nào, thể thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên
thơ ông, thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã
có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có
thơ...
2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.
Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết
đến qua Thơ, đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam với tư cánh nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng
phòng, Phòng Văn học Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại
sung sức nhất của ông lại là bút ký-ký sự-tản
văn. Bằng chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến
nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015,
con số đã là 7.
Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định
viết dài, như tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ
sòn sòn, cứ vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học
nghệ thuật, nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê
Đình Cánh, với tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng
viên, ở nhà làm biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư
cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát
sóng), thì ông luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để
đáp ứng các yêu cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với
Thơ, loại hình văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác
bút ký, ký sự văn học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...
Mạo muội, tôi lần theo các trang văn
xuôi của ông. Dù chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi
nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình
Cánh viết bút ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay
khi đã nghỉ hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng
trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ
của Đài Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng
trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí
văn học khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe
các tác phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của
ông được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp
chí chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa,
uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không
riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít
nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...
Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi
Lê Đình Cánh.
Thứ nhất, chiếm
phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là bút ký, ký sự từ những chuyến
đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh. Thường là, phóng viên nhà Đài,
đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc theo lời mời của các cơ quan,
ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng nhóm phóng viên từ các cơ
quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình
Cánh, ông từng đi theo tất cả cách thức
vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên
ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác,
sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn
ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa
chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ,
tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến
chủ thành khách, còn mình từ khách thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động
trong thông tin, viết bài theo ý mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà,
không mô tả cứng nhắc như báo cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài
viết kiểu này, thấy được, Lê Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính
báo chí thông thường để gia tăng hàm lượng văn
chương cho bài biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ,
từ kiến thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất...
làm phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây
bút chuyên ký sự khác cùng thời...
Thứ hai, Lê
Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến thức, kiến văn của mình thông
qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo cứu, nhân một sự kiện hay hiện
tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc nhân câu chuyện đời sống xảy ra
thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết dạng này, khá thành công, như: Hoa sen, Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng
Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng gió Kênh Than, Vài cách đến, Có
một thể thơ , v.v...
Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến
thức uyên thâm của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội;
lập luận vấn đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ
ông điều gì đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách
chọn chi tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ,
phương ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình.
Theo tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...
Thứ ba, theo
cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh có khá nhiều tản văn, tạp bút được
viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông, quả là, quan tâm thì viết, thích
thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng
mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi
thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này, tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức,
song giọng văn lại không tung tảy như vốn dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm
phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức
trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài
hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa,
Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...
Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng
nào, nhà thơ Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện
đại ở thể loại bút ký, ký sự văn học !...
3.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình
Cánh đã lâu, nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV), tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở
chung, gần nơi làm việc của Ban Văn học
nghệ thuật tại trụ sở 58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu
năm 1987, song phải hàng năm sau, khi
làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng Văn học thiếu
nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng). Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ thuật Đài TNVN, cùng
với Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân đội và Tạp chí Văn học (Viện Văn học Việt Nam)
tạo thành tứ trụ vững chắc cho cả nền
văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ ước được làm việc
tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ phú, tuy cùng cơ
quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà thơ Trương Hữu Lợi
bước chân vào Phòng Văn học thiếu nhi,
tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên, thái độ cởi mở và cách nói
năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi cảm thấy thoải mái, tự tin
hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người trùng tên, một cây
bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu có sáng tác gì về
văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng xem, đặng sử dụng
phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau đó, tôi đã có một
số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát sóng, để sau này, tôi
đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công
cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn
hành năm 1999.
Đấy là những
gì Lê Đình Cánh dành cho tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện
ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba
tập truyện được xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút
có nhiều sáng tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa,
cũng đừng quên, đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng
cần văn học dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học
thiếu nhi nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn,
bảo lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu
nhi của Hội Nhà văn Việt
Như tôi đã định
tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà
thơ Lê Đình Cánh. Có thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm
lạc quan cho người khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm
giác, với ông, trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức
không thể làm nổi, việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế
nên, không việc gì phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông,
người ta thấy, sự lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả
trong khung cảnh thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là
chẳng bao giờ, thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất
thông minh, bản thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất
đất nước, thạo tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng.
Trong công việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với
người khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà
giải quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm
giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả
khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm
thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông
văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc chuyện
phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ tuyệt vời,
nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên
kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng bao nhiêu thứ,
khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ... Lê Đình Cánh
biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân gian. Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều, chịu khó
tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ lý thuyết
suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo nên, làm ra
các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên này sang ngạc
nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình Cánh vốn cùng
quê với Cống Quỳnh (người được đồng hóa,
gán với nhân vật Trạng Quỳnh trong giai
thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt, Lê Đình Cánh khi đàm thoại,
ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách minh triết, ứng biến linh hoạt,
diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi
đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà dứt ra được ... Người ta bảo, thường
ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và hình như trong văn chương cùng vậy; từng
thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ song khi viết lại đầy ma lực, lại có người,
tài nói năng khư khướu nhưng viết ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh
thì được cả đôi, ông đã mang được cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của
mình...
Vào một sáng
cuối tuần cuối xuân Đinh Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường
Trường Chinh, Hà Nội. Từ nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến
trúc Pháp cổ này, ngôi nhà do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ) Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của
Quân đội, huyền thoại một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh
chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại,
thấy ông gày đi và tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn,
cùng nụ cười nửa miệng thì vẫn đấy....
Sau những xã
giao thông thường, bập vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê
Đình Cánh ngày nào, như khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như
lạc vào mê trận mà ông giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn
chương, giữa hiện thực và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và
ông, và... Trí nhớ ông vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng
quên một thứ gì. Quan sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà
thư pháp Lê Xuân Hòa, vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc
xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm,
được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác
từ thời là người của nhà Đài (VOV),
cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống
chung với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi
tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.
Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh
xưa. Biết là, mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những
lo lắng về sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi
tinh thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận
nơi thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương,
với gia đình, với cuộc đời này !...
Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về
ông sao đây ?...
VĨNH TRÀ,
mải miết viết sử nhà Đài
Khi tôi bắt đầu viết về nhà báo, nhà
văn Vĩnh Trà (tên thật là Trần Đức Nuôi),
tình cờ trên trang Facebook của ông, thông báo ra mắt tập bút ký “Đi dọc
thời gian” mà ông là tác giả. Đây là tập bút ký mới nhất của Vĩnh Trà kề
chuyện nhà Đài, cũng có thể xem là cuốn sử Đài (Đài Tiếng nói Việt
Vĩnh Trà, tuổi
Bính Tuất, sinh năm 1946, quê ở bờ Bắc sông Bến Hải, Vĩnh Linh Quảng Trị, học Tổng
hợp Văn cùng với các nhà văn Nguyễn Hiếu, Trần Bảo Hưng, Lê Thành Nghị, Nguyễn
Ngọc Ký, Lê Quang Trang v.v.... Tốt nghiệp, ông về công tác ở Đài Tiếng nói VIệt
Nam, làm ở bộ phận Đài Phát thanh Giải
phóng, sau năm 1975 chuyển qua nhiều ban biên tập khác nhau, từng giữ các
cương vị Trưởng ban Thư ký biên tập, Trưởng ban Kinh tế và khoa học công nghệ,
cho đến ngày nghỉ hưu. Khi còn làm việc, Vĩnh Trà chuyên tâm làm báo, nghề báo
phát thanh mà ông theo nó cả đời. Đến khi được nghỉ ngơi, Vĩnh Trà mới bắt đầu
viết sách. Ông viết đủ loại, báo chí, truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết,
nhưng theo tôi, Vĩnh Trà mạnh nhất ở thể Ký (hồi ký, bút ký, truyện ký).
Trước hết,
Vĩnh Trà là một nhà báo. Tốt nghiệp Tổng hợp văn Hà Nội, ông được điều về làm
việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), cùng lứa Tổng hợp văn với ông về
đây rất đông, có Phạm Thanh Trà (vợ ông), Nguyễn Thị Kim Cúc (sau là Phó tổng
giám đốc Đài TNVN), nhà báo Lương Kỳ, nhà văn Nguyễn Hiếu v.v… Mặc dù Vĩnh Trà
được điều động qua qua nhiều đơn vị khác nhau nhưng đều do Đài TNVN biệt phái,
nên sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở mỗi
đơn vị thì ông trở lại nhà Đài. Những năm chiến tranh chống Mỹ cửu nước ác liệt,
Vĩnh Trà là quân của CP 90 thuộc Đài Phát thanh Giải phóng, từng vào chiến trường
Trị Thiên. Đây là những tháng năm gian khổ hy sinh để ông rèn luyện và thử
thách bản lĩnh người làm báo, còn là nơi ông tích lũy tư liệu, vốn sống để sau
này đưa vào các tác phẩm của mình,… Nghe nói, ông còn có thời gian đi thực tế
làm quản lý cấp huyện ở Ba Chẽ, Quảng Ninh nên sau này có truyện ký “Ngược rừng
Ba Chẽ”. Gì cũng trải qua, ấy là sự may mắn trong cuộc đời làm báo viết văn
của ông.
Năm 1987, tôi
về nhận công tác tại Đài TNVN thì Ban biên tập Thính giả mới được thành lập trước
đó vài tháng. Ban này do nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Khi
đó, nhà báo Vĩnh Trà là Ủy viên ban biên tập (dạng Phó trưởng ban tập sự). Ban
có ba phòng chức năng: Phòng phát thanh “Tiếp chuyện bạn nghe đâì” do
nhà báo Phạm Xuân phụ trách, phòng “Tiếp dân và xử lý thư thính giả” do
nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và phòng “Điều tra dư luận thình giả” do
nhà báo Trần Quý Tuyên phụ trách.. Như vậy, cùng với Trưởng ban Đặng Quang
Tình, Vĩnh Trà là ủy viên ban được phép duyệt ký phát sóng. Trước đấy, Vĩnh Trà
thuộc phòng phát thanh “Công nghiệp” thuộc Ban Đối nội rồi đi học lớp Lý luận
chính trị cao cấp. Nghe nói, cùng lớp chính trị cao cấp với Vĩnh Trà ngày đó có
người sau này thăng tiến đến hang tứ trụ. Sau khóa học, ông được bổ nhiệm sang
biên tập khác với chức vụ cao hơn. Ở Ban Thính giả, trưởng ban Đặng Quang Tình
kiệm lời và nghiêm cẩn thì trái lại, Vĩnh Trà lại cởi mở, hòa nhã, hóm hỉnh nên
dễ tiếp cận để học nghề.
Có chút may mắn,
khi về Đài, ở Ban biên tập Thình giả, tôi có ba người để học nghề làm báo phát
thanh. Người trực tiếp quản lý cấp phòng lầ nhà báo Hòng Đồng, tôi đã học ở ông
những kỹ năng cơ bản, như thu thanh và sử dụng âm thanh, cách kết cấu một
chương trình chuyên đề sao cho hợp lý. Với nhà báo Đặng Quang Tình, tôi học từ
ông cách nhìn nhận tìm góc tiếp cận vấn đề và tính luận chiến của một bài báo.
Riêng về nhà báo Vĩnh Trà, tôi học ở ông cách tìm điểm nhấn nổi nật và lựa chọn
ngôn ngữ diễn đạt phù hợp với nội dung và tính chất cho mỗi bài viết. Với Vĩnh
Trà, ông là người có trí nhớ tốt và chịu khó tích lũy tư liệu từ chuyên môn đến
những sự kiện quan trọng và cả chuyện bên lề. Đó là điều kiện thuận lợi để sau
này ông viết sách, nhất là những gì liên quan đến sự hình thành và phát triển của
Đài TNVN qua các thời kỳ.
Tôi có chút kỷ
niệm riêng với Vĩnh Trà. Ấy mùa hè năm 1988, tôi tháp tùng ông chuyến công tác
dài ngày từ Hà Nội vào Huế. Cùng đi còn có nhà báo Trần Quý Tuyên và “cán bộ đường
lối” Đồng Văn An điều khiển chiếc com-măng-ca đít tròn cà tang chở theo mấy cạn
xăng nhiên liệu dự phòng, lọc xọc như xe ngựa đường đá. Điểm dừng đầu tiên là
Thanh Hóa, rồi lần lượt Nghệ Tĩnh, và Bình Trị Thiên. Lúc ấy tỉnh to, Bình Trị
Thiên nên lộ trình phải ngắt thành các chặng Quảng Bình, Quảng Trị và sau cùng
là Thừa Thiên Huế. Chúng tôi dừng lâu ở Quảng Trị bởi Vĩnh Trà quê ở Vĩnh Linh
và còn bởi đây là vùng đất có nhiều di tích lịch sử như cầu Hiền Lương, sông Bến
Hải, cửa Tùng, địa đạo Vịnh Mốc, Cồn Tiên Dốc Miếu, sông Thạch Hãn, thành cổ Quảng
Trị… Lâu rồi nhưng giờ tôi vẫn nhớ cảm xúc mạnh khi ấy trước mỗi chứng tích chiến
tranh. Ở Huế, nhờ sự giúp đỡ của các nhà báo Phước Túc, Nguyễn Trương Đàn,
chúng tôi tìm hiểu nhóm doanh nhân-doanh nghiệp “ 4L” (tên có chữ cái L) nổi bất
của đất cố đô khi ấy. Ấn tượng nhất là chuyến băng ngang phá Tam Giang mênh
mong để tìm hiếu mấy làng chài mép biển. Nhờ đó, tôi viết được mấy ký sự cho cuốn
sách của mình,… Chuyên đí ấy, tôi quan sát và học được từ Vĩnh Trà nhiều điều,
từ cách ngoại giao, đặt vấn đề công việc, đến cách giải quyết các tình huống bất
ngờ nảy sinh … Không có sự hiểu biết và từng trải như Vĩnh Trà thì không thể có
chuyến đi dài ngày vất vả lại suôn sẻ và hiệu quả đến vậy.
Cho đến nay, nhà báo, nhà văn Vĩnh
Trà đã xuất bản trên dưới ba chục đầu sách các loại. Sách của Vĩnh Trà, tôi quyến có quyển không,
và cũng chỉ nhớ được một số tên sách như: Nghề không hưu (bút ký),
Mưa chiều đất cuối (truyện), Thằng khùng chợ đầu mối (tiểu thuyết),
Mùng
ba (ký), Đi dọc thời gian (bút ký)... Vĩnh Trà viết đều tay, năm một vài
cuốn, viết xong thì xuất bản, hầu như không gửi đăng báo, nên không mấy phổ biến,
chỉ bạn bè và dồng nghiệp biết. Hình như với ông, việc ấy không quan trọng bằng
viết thành sách. Ấy cũng là một cách. May là giờ có mạng xã hội nên bài viết chỉ
cần đăng trên trang cá nhân Facebook là đến được nhiều bạn đọc rồi, có khi còn
hơn đăng báo viết, vả lại có ngay sự phản hồi từ phía người đọc thông qia các
comment. Hay dở chưa bàn, vậy là tác phẩm cua mình có đời sống xã hội của nó rồi.
Viết về nhà báo, nhà văn Vĩnh Trà mà
không nhắc đến sự say mê và những đóng góp của ông cho ‘sử Đài” (sự
hình thành và phát triển của Đài Tiếng nói Việt Nam) thì sẽ là thiếu sót lớn. Tự thân, sự yêu thích, tìm tòi, tích lũy đầy
trách nhiệm, vô hình chung, khiến ông trở thành người hàng đầu thông thạo sử
nhà Đài (Đài TNVN). Chính vì thế, từ sách chung nhiều tác giả đến sách riêng,
những gì liên quan đến sử Đài, Vĩnh Trà luôn là người tham góp đấy tin cậy. Trước
hết, phải nhắc đến cuốn sách được xem như “sử Đài” là cuốn “70 năm Đài Tiếng
nói Việt Nam (1945-2015)”(NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2015) thì
Vĩnh Trà cũng là chủ chốt. Ông được phân công chấp bút phần đầu, thời Đài TNVN
hình thành và thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp. Tôi may mắn được chọn
tham gia, chấp bút phần thời kỳ đổi mới và chuyển đổi đa phương tiện, cùng ông và mấy nhà báo chắp bút chính (Lê Đình Đạo, Dương Quang Minh, Vũ Hải, Nguyễn
Vũ Duy)… Tổng thể, phần đầu do Vĩnh Trà đảm nhiệm là khó nhất, bởi thời gian
qua đã lâu và phần đông các nhân chứng lịch sử đã qua đời, hoặc già yếu, suy giảm
trí nhớ, lại nữa, tài liệu ghi ghép về các sự kiện thời ấy cũng ít ỏi, sơ sài,
thất lạc… Không nói quá, nếu không phải là Vĩnh Trà thì phần khởi đầu này sẽ
kém, không đầy đủ và có sức thuyết phục như cuốn sách hiện có. Cho dù sau này,
lịch sự phát triển nhà Đài có dài thêm nữa thì cuốn sách này vẫn là căn cốt để
các thế hệ mai sau lấy làm cơ sở để tiếp nối, bồi đắp. Riêng ông, trong hành
trình cầm bút của mình, dù viết nhiều và đa dạng thể loại nhưng Vĩnh Trà không
hề xao nhãng những gì liên quan đến Đài TNVN từ quá khứ đến hiện tại. Cũng đúng
thôi, bởi đây là chiếc nôi dung dưỡng hai vợ chồng ông suốt cuộc đời làm báo viết
văn. Viết về Đài TNVN, với ông luôn như một sự bày tỏ lòng biết ơn!...
Giờ ở độ tuổi tám mươi, Vĩnh Trà tlại
vừa ra mắt tiểu thuyết “Nước mắt cười” (NXB Văn học, 2025),
đầu sách thứ ba mươi của ông. Với sức lao động miệt mài không ngừng, chắc bạn đọc
còn được đón nhận các tác phẩm mới của ông!...
VŨ HÀ, “GÃ ĐẦU BẠC” VUI TÍNH
Dân nhà Đài (VOV) và nhiều bạn bè
thân thiết của nhà báo-đạo diễn kịch truyền thanh Vũ Hà quen gọi đùa ông là ‘gã đầu bạc”. Vũ Hà không những không giận
mà còn hùa theo tếu táo cho xôm. Sở dĩ mọi người gọi ông như vậy là bởi mái đầu
bạc sớm như cước của ông và còn bởi ông có ngoại hình và diện mạo hao hao với
nhân vật “gã đầu bạc”- viên tình báo
Hoa Nam trong bộ phim truyền hình nổi tiếng một thời, “Ván bài lật ngửa” của Nguyễn Trương Thiên Lý. Cứ thế đùa quen,
thành biệt hiệu của Vũ Hà.
Năm 1987, tôi về làm phóng viên Đài
Tiếng nói Việt Nam (VOV) là biết đến ông ngay bởi ngoại hình đặc biệt này.
Phòng làm việc của tôi gần với phòng Sân
khâu truyền thanh nên ngày nào cũng thấy ông ngang qua dần thành quen thuộc.
Tôi và chắc hẳn nhiều thính giả của
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) sớm biết đến cái tên Vũ Hà, bởi nó gắn liền với
chương trình Sân khấu truyền thanh
vào mỗi tối thứ bảy hằng tuần. Ngày ấy, cùng với chương trình này, các chương
trình phát thanh khác như Tiếng thơ,
Kể chuyện cảnh giác và Văn nghệ quân đội vào mỗi dịp cuối tuần
thì hầu như ai cũng thích. Thế nên, cái tên Vũ Hà cùng Đoàn kịch Hồng Hà trở thành thương hiệu nổi tiếng, cùng đó là vài
ba cái tên khác, như Nghĩ Xuyên (Kể chuyện
cảnh giác tối thứ bảy) và Văn Ngải (Văn
nghệ quân đội sáng chủ nhật).
Khi chưa về đầu quân nhà Đài, mỗi khi nghe biên tập viên Vũ Hà giới thiệu vở
nọ vở kia do Đoàn kịch Hồng Hà trình
diên thì tôi cứ mường tượng cái đoàn kịch có tên Hồng Hà ấy là một đoàn kịch
riêng, kiểu như Đoàn kịch nói Hà Nội,
Đoàn kịch nói Hải Phòng, Đoàn kịch
nói Trung ương... Sau này mới biết, té ra chẳng có một đoàn kịch nào có cái
tên ấy thật, mà là một nhóm diễn viên cộng tác, họ ở các đơn vị nghệ thuật khác
nhau, được nhà Đài mời đến để diễn một vở kịch truyền thanh cụ thể nào đó. Để
tiện nhiều việc, bèn đặt cho nó một cái tên, nghe vừa oai vừa sang lại vẻ
chuyên nghiệp. Cái trò đó, nghe nói là sáng kiến của đạo diễn-biên tập viên Vũ
Hà. Đoàn
kịch Hồng Hà kia mà, nghe vừa oách vừa đầy tin cậy. Vậy là cùng với tên
tuổi cá nhân, Vũ Hà đã có công tạo nên một thương
hiệu nghề nghiệp. Nhà Đài (VOV) ghi nhận ở ông sự sáng tạo đó.
Chuyện nghề nói chung là thế. Giờ thì
bàn riêng chuyện đời về “gã đầu bạc”
Vũ Hà,...
Từ ngày vào nghề cho đến khi nghỉ
hưu, không rõ Vũ Hà đã viết kịch bản, biên tập, đạo diễn, tổ chức thu thanh và
giới thiệu bao nhiêu vở kịch truyền thanh? Hiện giờ, các sản phẩm ấy còn được
lưu giữ tại kho bang, kho lưu trữ tư liệu của nhà Đài, nhưng chẳng ai đi thống
kê, trừ các nhân Vũ Hà. Nhưng ông thì đã nằm sâu dưới ba thước đất mấy chục năm
rồi. Mà thôi, thống kê cũng chẳng để làm gì. Chỉ biết mấy chục năm trời say mê
và miệt mài theo đuổi nghiệp kịch truyền thanh, Vũ Hà đã để lại dấu ấn của
riêng mình khiến thính giả nhiều thế hệ còn nhắc đến ông.
Chuyện “gã đầu bạc” Vũ Hà yêu nghề, say nghề thì nhiều vô kể, thú vị đấy
nhưng cũng cười ra nước mắt đấy. Làm cái nghề như ông cũng là “làm dâu trăm họ”, không thể làm hài lòng
tất cả mọi người được. Đôi khi dựng vở kịch bản của người này mà bỏ người kia, rôi mời diễn viên này mà
không mời diễn viên khác cũng gây nên bất hòa, ganh tị, đỗ kỵ lẫn nhau. Mà ngày
ấy, bao cấp, thiếu thôn trăm bề, với các kịch sĩ và diễn viên nghèo, được dựng
vở, có vai diễn không chỉ là hãnh diện nghề mà còn vì mưu sinh kiếm đồng nhuận
bút nhuận miệng còi thêm đồng rau muối nuôi gia đình. Thôi thì đủ thứ lo, nên
không khéo lại mang tiếng này nọ cũng nên. Vũ Hà không phải là ngoại lệ, đôi
khi cũng bị điều ong tiếng ve. Thế mới có chuyện diễn viên Nguyễn Huấn thời còn
chưa đầu quân về làm người nhà Đài đã có lần quá chén say mèm cầm kéo rượt Vũ
Hà chạy quanh ngay trong sân nhà Đài ở trụ sở 58 Quán Sứ. Lúc tỉnh rượu anh em
lại ôm nhau cười xòa xin lỗi lẫn nhau...
Vũ Hà yêu nghề va cũng yêu rượu. Hầu
như ngày nào ông cũng phải đưa cay tí chút. Tôi cũng từng dăm lần lang thang
đây đó và đưa cay cùng ông và bạn diễn của ông. Tôi nhớ và ấn tượng nhất quán
rượu vỉa hè trên phố Nguyễn Du gần cổng cơ quan Tổng cục Bưu chính viễn thông.
Rượu thảo mộc, thức nhậu chỉ tóp mỡ và dưa chuột chấm muối ớt khô. Khách nhậu
phần lớn là các văn nghệ sĩ nghèo, ghế gỗ thấp chân, mẹt nhậu đơn giản, quây quần
dăm ba vị rỉ rả đủ thứ chuyện làm vui, tan cuộc tiền nhậu chả đáng bao
nhiêu.... Vui và thú vị đấy song những cuộc như thế nhiều khi đưa cay quá chén,
tếu táo quá lời mà sinh chuyện cãi cọ. Vũ Hà mang điều tiếng gì cũng từ đấy mà
ra cả.
Gì thì gì. Vũ Hà là một người tâm huyết
với nghề và là người giỏi nghề. Cùng bộ phận chuyên kịch truyền thanh với ông ở
Đài còn mấy người khác, nhưng có lẽ chỉ riêng ông tạo được thương hiệu với đông đảo
thính giả cả nước. Theo tôi, đấy là thời kỳ hoàng kim của sân khấu truyền
thanh. Không chỉ các vở do chính nhà đài tổ chức dàn dựng thu thanh mà nhiều vở
lớn nổi tiếng của sân khấu biểu diễn ở rạp cũng được thu thanh phát trên làn
sóng phát thanh phục vụ thính giả cả nước. Đó là nhờ sự tận tụy của Vũ Hà và
các đồng nghiệp làm sân khấu truyền thanh nhà Đài một thời. Giờ nghĩ lại ngày ấy,
như một giấc mơ,...
Giờ sân khấu truyền thanh dường như hết
đất sống, nhường không gian cho các câu chuyện hài ngắn trên nền tảng tiktok,
hoặc chuyện hài trên Youtube hay các nền tảng số khác... Ai cũng có thể làm
video, clip, tấu hài mua vui cho thiên hạ mà lại kiếm bộn tiền... Gì cũng chỉ
có thời của nó. Trí tuệ nhân tạo (AI) phá đám làm thế giới điên đảo, thật giả lẫn
lộn. Nhớ về một thời vậy thôi chứ xu thế thì không thể đảo ngược được.
May mà, “gã đầu bạc” vui tính Vũ Hà sớm về thế giới bên kia để khỏi phải chạnh
lòng chứng kiến một thế giới “thực hư lân
lộn”như bây giờ, khi mà ông còn chưa thành ký ức xa mờ!...

Nhận xét
Đăng nhận xét