ĂN TẾT VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐỐT THAN

 


@@@

Ăn tết với những người đốt than

               Cách đây vài năm, tôi có đi cùng đoàn cán bộ của ngành Hải quan thị sát tình hình chống buôn lậu ở biên giới Tây Nam. Hôm đến cửa khẩu Tịnh Biên, chiều đã muộn. Đỉnh núi Cấm lên hơi nước mờ mịt. Khói lam từ bếp lửa các lán trại chủ vườn su su trên sườn núi nghi ngút thơm nồng, lan tỏa trong bầu không khí se se thường thấy mỗi chiều hôm của vùng núi. Đã tiết Lập thu, lũ còn cao, mênh mông một trời nước, nên có cảm giác những quả núi nổi lập lờ như đám bánh trôi đang độ chín. Núi Dài nối với núi Cấm trải mình xuôi về phía kinh Vĩnh Tết chấm đuôi là núi Tượng. Cả một dải đất sườn bên kia là Tri Tôn… Thấy tôi cứ ngửa mặt núi, nhìn trời, anh bạn nhà báo đi cùng như đồng cảm ra đứng cạnh, rồi anh bật lửa châm thuốc lá, rít một hơi phả khói và cất lên câu hát: “Nhớ nhà châm điếu thuốc. Khói huyền bay lên cây…”. Sự quấy động của anh bạn làm cho tôi cởi mở. Tôi bảo với anh rằng, mười mấy năm về trước, tôi đã sống ở đây, bạn lắng nghe rồi chợt cười to và trâu: “Thảo nào… Tôi hiểu rồi, ông có định đi thăm, chia kẹo cho đám con rơi con vãi của ông không?”. Và giây lát, anh ứng khẩu đọc một câu thơ theo kiểu Bút Tre đùa tôi: “Tri Tôn ơi hỡi Tri Tôn/ Ra đi nhớ mãi cái nón của em”. Hai thằng cùng cười nôn ruột. Cười chán chê, tôi lại bùi ngùi. Xe đưa cả đoàn về lại Châu Đốc mà tôi cứ nhoài ra khỏi cửa kính nhìn mãi về phía sau, nơi con đường độc đạo những dốc cùng đèo hun hút phía thị trấn Tri Tôn…

Thời gian ở Tri Tôn, có thân với hai gia đình, kiểu chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc. Anh Tư Chọn trước làm ở Bộ lương thực, vợ quê Hà Tây và anh Sáu Tươi làm ở Cục cơ khí, Bộ Nông Nghiệp, vợ quê Hưng Yên. Hai nhà rất quý tôi, là nơi tôi thường xuyên qua lại tìm hơi ấm gia đình. Với gia đình anh Tư Chọn, tôi đã nhắc nhiều trong bài tạp văn Lên núi tầm mai, còn gia đình anh Sáu Tươi thì chưa. Vậy mà tôi đã có một cái Tết hết sức đáng nhớ cùng gia đình anh…

Sáng ba mươi Tết năm ấy, anh Sáu Tươi sai con nhắn rủ tôi lên núi ăn Tết đón giao thừa cùng anh. Tôi nhận lời, khấp khởi mừng thầm, chưa biết đi thì có gì vui hơn, song chí ít mình cũng tạm thoát khỏi cái cảnh vò võ một mình đón xuân trong bầu không khí oi nóng, bí bách của mùa khô vùng cực Tây Nam, nên thu xếp cúng tất niên trước trong căn phòng tập thể của tôi. Bữa cơm trưa ấy, anh Sáu nói với tôi là anh đang đốt dở hầm than, không dám bỏ vì tiếc công tiếc của, nên đành khăn gói lên đón giao thừa trên lán trại chứ thực lòng ai chả muốn ăn tết ở nhà cùng vợ con. Thấy tôi một thân một mình xa quê nên mới dám rủ đi cùng cho vui. Tôi nóng lòng hỏi dò, anh chỉ tủm tỉm cười, bảo là cũng hay hay. Đầu buổi chiều, chị Sáu và đám trẻ lo thu xếp đồ nhậu cho hai anh em tôi lên chiếc xe bò kéo. Xe chuẩn bị đi, chị Sáu còn lấy vội thêm chiếc chăn chiên, dặn: “dịp này đêm trên núi thường lạnh, với lại sợ anh em vui quá chén, còn có cái mà đắp”. Anh Sáu nỡm vợ, ngồi trên xe vít cổ chị Sáu hôn đánh chụt vào má. Đám trẻ ê ê khiến chị đỏ bừng mặt vờ vùng vằng, mắng yêu chồng: “Nỡm ạ… có mặt chú Út đây chú cười cho… Mà này, nghe tôi dặn, lên trển chớ mà lớ xớ… kẻo chết với má con tui… Nhờ chú coi chừng anh Sáu giùm chị nghen!”…”. Chị liếc anh Sáu, cười với tôi, rồi quát lũ trẻ vô nhà. Nghe chị nói, giọng nửa Bắc nửa Nam tôi thấy ngồ ngộ, vui vui. Nghe đâu, ngày chị trẻ xinh và duyên lắm, lại hát chèo hay, từng thủ vai Thị Mầu trong chiếu chèo sân đình, và đã trúng tuyển đoàn văn công tỉnh, nhưng vì sớm mồ côi cha mẹ, đành ở nhà nuôi cậu em trai ăn học nên thôi, rồi qua mối mai lấy anh Sáu Tươi khi đó đã đứng tuổi. Anh Sáu ngỏ nghẻn: “Yên tâm đi… Má nó đẹp thế, lại chu đáo như vầy… tôi làm sao đi đâu nổi… Mới lại, ngộ nhỡ tui có ấm chỗ ở đâu đó, tui dẫn về xin với má nó, cho có chị có em…”. Rồi anh “ây dà” thật to, vung roi giục bò đi, bỏ lại sau lưng những lời mắng yên của vợ…

Cách nhà dăm cây số, xe bò rẽ vào đường hẻm, xe bò rẽ vào đường hẻm, cứ men chân núi Dài đi miết, chừng vài cây số nữa đến một hẻm núi, nhìn bên trên cây cối rậm rạm, chân núi lác đác mấy nếp nhà. Xe dừng bánh trước vườn một nếp nhà, anh Sáu bảo là đã đến chỗ tập kết, giờ phải gửi xe bò ở nhà người quen rồi lội bộ lên rãy ở ngang chừng núi. Ông chủ nhà cỡ tuổi anh Sáu, để râu chòm, vận đồ bà ba đen, đầu vấn khăn rằn, miệng ngậm điếu thuốc rê to, khụ lên khói khét lẹt. Khách chủ chào nhau kiểu suồng sã, thân mật. Anh Sáu giới thiệu tôi và chỉ người đàn ông bảo: “Đây là anh Bảy, biệt danh Bảy Than, một tay đốt than cừ khôi đó, nhưng giờ bỏ nghề vì mua được mấy công đất rãy tốt, chỉ mần rãy đã khỏe re… Quên mất thuở hàn vi chưa hả Bảy ơi?... Bảy Than còn là một cao thủ săn thú… Có săn được con gì ăn Tết không?”. Anh Bảy cười bảo: “Anh Sáu lại rủa thằng Bảy này rồi, quên sao nổi!... Còn thú rừng hả? Có chớ… nếu không thì hổ danh Bảy Than này quá. Trăn có… mà này một chú nhím bự, cỡ mười lăm ký sa bẫy mì… Đêm nay, cúng tất niên với bà xã xong, tui sẽ lên núi vui cùng anh Sáu và chú đây, anh em mình lai rai bậy bạ mấy ly, ca đôi câu vọng cổ…”. Rời nhà anh Bảy Than, hai anh em tôi lễ mễ tay xách nách mang lên tới lán rẫy thì trời đã quá chiều. Anh Sáu chỉ tôi vào lán nghỉ đỡ mệt, còn anh ra thăm hầm than, chào các lán quen, và mời họ đêm nay mỗi nhà cúng giao thừa ở lán mình xong thì tụ hội cả ở lán của anh nhậu vui đón năm mới. Anh đi rồi, rồi tôi chui ra khỏi lán, ngắm quanh quất. cao thấp, phải trái đều có các lán trại. Phía xa hơn, đó đây khói lên nghi ngút, chắc là các hầm than. Cứ như lời anh Sáu thì toàn dân nghèo hoặc gặp phải cảnh ngộ éo le chi đó mới lên đây. Lát sau, anh Sáu quay lại, lục giỏ xách mang theo dọn ra mấy món nhậu  kiểu Nam Bộ và chai rượu đế, bày lên chiếc nệm cỏ bàng, bảo là anh em ăn qua quýt cho cầm cự đợi bữa tiệc đêm giao thừa. Sau khi nhấp đôi ba ngụm, thấy anh Sáu vẫn lầm lỳ, tôi gợi chuyện, hỏi về nghề đốt than, anh Sáu thủng thẳng: “Cực chẳng đã… chứ làm cái nghề đốt than này cực lắm Út ơi… Chủ vựa than thì giàu còn thợ làm than nuôi nổi vợ con và đủ nhậu lai rai là cùng…”. Rồi bằng chất giọng trầm, đều đều, anh Sáu nói về nghề đốt than. Nghề này, vừa cực nhọc như thợ đấu lại vừa tinh tế như chưng cất rượu. Cực nhọc ở chỗ phải chặt cây, cưa thành từng khúc; hoặc nhân mùa nước lặn ngụp nơi đồng tràm, lay nhổ gốc rễ tràm sâu trong bùn sặc phèn, vớt lên thuyền, chở lên bờ cao đợi nắng cho khô kiệt; rồi phải đào đất dựng hầm, xếp củi khô vào đấy… Còn tinh tế ở chỗ, phải biết dựa loại cây nào gỗ chắc, không quá to, quá nhỏ; khi xếp vào hầm phải biết cách sao cho khi đốt củi gỗ cháy đều, âm âm, không quá đượm, và quan trọng nhất là biết cách tính thời gian, biết nhìn ngọn lửa để chọn đúng thời điểm đánh sập hầm dập tắt lửa sao cho củi cháy âm vừa đủ độ chín. Có vậy, than mới dôi và được than, than không bị sống, nghĩa là không còn phần gỗ chưa cháy hết, và không bị xác, nghĩa là không bị quá lửa, khi đem dùng, than cháy hồng, đượm, lên lửa xanh, sức nóng mạnh… Đấy, gói gọn trong chừng ấy mà người làm than phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt hàng đời người mà chưa chắc thành nghề. Vậy mà, thu nhập của người làm than cũng có đáng là bao, bởi phần đông người làm than đều phải qua tay các chủ vựa than mới tới người dùng. Một hầm than, trừ phần than vụn là xấu, bán đi chỉ đủ mua vài chục giạ lúa, mà làm than chỉ có mùa khô thôi, một nhà làm than thử hỏi đốt được mấy hầm than một mùa, đấy là chưa kể nhiều người chưa thành nghề, phải trả công thầy tính thời gian và xem lửa để sập hầm…? Kể rồi, anh Sáu chép miệng: “Vầy… đến giỏi nghề như Bảy Than khi có cơ hội là bỏ nghề liền hà…”. Tôi hỏi: “Này… Sao người dân vùng mình đây không dùng củi thô, rơm rạ?”. Anh Sáu mủm mỉm cười: “Vầy là chú Út còn chưa mấy hiểu dân Nam Bộ chúng tôi heng… Bà con quen tập quán sống từ thuở chúa Nguyễn Hoàng mở đất, hoang vu sông nước cá tôm, sống nay đây mai đó, ở lâu một chỗ không thích là dọn lều xuống xuồng chở đi nơi khác cất lại… Đấy là chưa kể dân thương hồ chỉ sống trên ghe xuồng, chỉ cần một cái bếp là ổn rồi… Thế mới có chuyện dùng than tàu chớ. Vừa không khói lại tiện lợi đủ đường…”. Khi tôi bày tỏ nỗi lo, nếu mọi nhà đều dùng than như vậy thì mấy mà cây rừng sạch bách, rồi thì môi trường sẽ ra sao, anh Sáu gật gù, đồng tình: “Chuyện đó thì đúng… thế nên mới phải trồng lại rừng tràm, trồng rừng trên núi… như chú thấy tui đã làm từ lúc còn ở lâm trường huyện đến bây giờ vẫn làm đó…”. Câu chuyện bên chén rượu chiều cuối năm của anh em tôi chưa dứt thì bên ngoài lán có tiếng con gái gọi: “Bác Sáu ơi, bác Sáu à...”. Anh Sáu thưa rồi bảo tôi: “Con Hai Mến, con thím Neang Mai đó”. Cô gái vận đồ bà da đen, ghé người vào lán, thấy tôi và anh Sáu ngồi bên mâm nhậu, cô kêu lên: “Ủa.. con hổng biết bác Sáu có khách… Thế mà khi nãy không thấy bác Sáu nói trước… Em chào anh Hai…”. Giọng cô nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi lí nhí chào lại. Anh Sáu hồ hởi giới thiệu tôi với Hai Mến, rồi bảo tôi là con út và còn chua thêm là trai tơ chưa vợ. Hai Mến thoáng đỏ mặt, cô nói là má cô bảo cô sang xem anh Sáu có cần chi thì để cô giúp dọn dẹp lán và phụ nấu món ăn chuẩn bị cho bữa tiệc giao thừa lớn cả khu lán rẫy than. Anh Sáu bảo khỏi cần, chỉ cần bữa nhậu đêm nay hai má con cô có mặt cho vui là đủ. Lúc tôi và anh Sáu tiễn cô về, ngoài lán trời còn sáng, khi ấy tôi mới thấy hết vẻ xinh xắn của cô gái nơi hẻm núi cô quạnh này. Nhân lúc anh Sáu không để ý, cô xáp lại gần tôi hỏi nhỏ: “Anh Út là kỹ sư kia đấy. Nói đừng cười, từ trước tới nay em vẫn nghĩ kỹ sư phải khác kia!...”. Thấy cô tự nhiên, tôi mạnh dạn đùa lại: “Hẳn Hai Mến nghĩ là kỹ sư phải có ba đầu sáu tay?”. Cô che miệng cười giòn tay. Rồi chào tôi và anh Sáu về.

Sau giao thừa chừng non nửa giờ đồng hồ, mọi người lục tục kéo đến lán của anh Sáu. Mỗi nhà đều mang theo một vài món nhậu của mình. Má con Hai Mến đến chậm hơn chút ít. Cô gái đã thay bộ bà ba đen lúc chiều bằng bộ đồ màu đỏ sậm, cộng thêm ánh lửa đêm huyền ảo khiến tôi thấy Hai Mến xinh gấp bội. Lúc chập tối, anh Sáu đã cho tôi biết khá nhiều về gia cảnh của cô. Ba của Hai Mến vốn người cùng ấp và là bạn chăn bò thuở nhỏ với anh Sáu. Lớn lên hai người đều tham gia du kích chống Pháp. Năm 1954 anh Sáu tập kết ra Bắc, ba của Hai Mến ở lại quê, mãi sau mới lấy một cô gái người Khmer là Neang Mai, má cô bây giờ. Khi Hai Mến chừng ba bốn tuổi thì ba cô hy sinh ở đồng tràm trong một trận chống càn Mỹ ngụy. Sau Giải Phóng, má cô có đi bước nữa song cuộc hôn nhân sau cũng chẳng ra gì, nên hai má con bỏ về sống nơi hẻm núi này làm rẫy, cộng thêm với khoản trợ cấp liệt sĩ cũng đủ để má con sinh sống. Bản thân Hai Mến học hết bậc Tiểu học rồi thôi. Hai má con thương yêu nhau và rất chịu khó, luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác nên được bà con khu lán rẫy này và xóm ấp nơi chân núi rất quý mến, giúp lại.

Tiệc bắt đầu, anh Sáu có vài lời cho phải phép, rồi giới thiệu tôi với mọi người, khi anh còn chưa dứt lời thì nghe thấy giọng Bảy Than oang oang ngoài lán: “Không đợi tui à… Không là tui giận bỏ liền à…”. Anh Sáu đợi cho Bảy Than bày hết đồ nhậu của mình ra và tìm chỗ ngồi xong, mới thủng thẳng: “Năm mới không nói lời không hay kẻo rông cả năm… bà con tha cho Bảy Than tội đến trễ đó!”. Bảy Than cười: “Tui tiếu lâm đó mà… đâu có dám trách… Tại mụ Bảy nhà tui biết tui lên núi… mà thím Neang Mai lại quá mặn mà, duyên dáng… Thế nên mới…”. Bảy Than cố giấu nụ cười trong bộ râu quai nón sum suê của mình. Thím Neang Mai cười ngượng nghịu. Hai Mến hùa vô: “Chú Bảy ơi, nhà con thiếu đàn ông như nhà không có cột, như rẫy gặp hạn… Nếu chú Bảy có lòng thì may mắn cho má con con quá… nhân đầu năm mới, có bà con cô bác ở đây làm chứng cho lời của con… Nhưng mà, con chỉ e… chuyện đến tai thím Bảy, thím lại cho đánh cái xích tướng giữ chân chú Bảy thì dân làm than mất nhờ…”. Mọi người phá lên cười nghiêng ngả cả lán. Tiếng cười dội vào vách núi vọng lại uôm uôm ang ang, xua đi vẻ cô quạnh của hẻm núi, và như muốn nói với thiên nhiên rằng, mùa xuân bao giờ cũng nhân hậu, không nỡ bỏ rơi một ai, mùa xuân là của hết thảy mọi người!..

Đêm thăm thẳm. Bữa tiệc càng sâu càng nồng. Chuyện nhà của ruộng rẫy, hầm than, rồi chuyện yêu đương, hôn nhân của lớp trẻ, cả chuyện ghen tuông, dỗi bõ, cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, xem lẫn đôi ba câu triết lý, thế thái nhân tình. Tôi nhận lời chúc của mọi người, đã quá chén, đầu óc bay bổng đâu đâu… Tôi lờ mờ song vẫn nhận biết được cánh tay tròn lẳn mềm ấm và mùi sả thơm từ mái tóc của Hai Mến khi em dìu tôi lúc ngà say ra nằm nghỉ nơi sạp tre góc lán. Tôi hết mơ màng rồi chìm đắm trong men nồng của rượu và hơi xuân nơi đất trời. Rồi tôi lại thấy đâu đó như mình đang ở nhà mình ngoài Bắc ăn bữa bún chả tất niên với mẹ và chị tôi trong tiết mưa xuân lành lạnh…

Mở mắt, cựa mình, hít thở thật sâu, khoan khoái tận hưởng hơi xuân, lắng nghe không gian, tôi hiểu bữa tiệc đêm giao thừa đã tàn và ngày đầu tiên của năm mới bắt đầu. Chưa xa mà đã bâng khuân nhớ lại những gì của ngày hôm qua, những Bảy Than, Neang Mai, và bao người nữa và đặc biệt là Hai Mến đâu cả rồi?... Vừa lúc ấy thì anh Sáu trở về lán, anh đùa tôi mấy câu rồi bảo: “Vui quá… Xong việc rồi, Bảy Than vừa xem giùm than chín tới độ, đã đánh sập hầm rồi. Giờ chú Út dậy, ăn chi đó lót dạ, thu xếp đợi tui đi quanh quất chào bà con về rồi anh em mình xuống núi”. Anh Sáu đi rồi, tôi làm theo. Lúc thu dọn đồ đạc trong lán, tôi chợt thấy trong góc lán có một cành mai nhỏ. Tôi cầm xem, nhành mai thế tự nhiên, lác đác bông nở, nhiều nụ và lộc nõn. Một mảnh giấy gài trên đó. Tôi giở xem. Chữ con gái to cộ nguệch ngoạc bằng bút bi “Hai Mến chọn một cành mai núi tặng anh Út chơi Tết. Chúc anh năm mới mạnh giỏi, công tác tốt. Hẹn ngày tái ngộ. Kính thơ”. Tôi bần thần, quên cả dọn đồ.

Lúc ngồi trên xe bò rời nhà anh Bảy Than, anh Sáu vừa đánh xe vừa ấm ơ đôi câu vọng cổ. Tôi xoay mặt về phía sau nhìn mãi lên hẻm núi thấp thoáng lán trại. Đó đây những làn khói lan nhẹ lởn vởn trên những vòm cây rừng. Tự hỏi, không biết giờ này Hai Mến đang làm gì, tôi khư khư ôm nhành mai núi vào lòng trong làn bụi đường mùa khô và tiếng lại xạo đều đều của bánh xe quay…

 


Nhận xét