Bảy núi, mùa lễ hội
Hàng
năm cứ vào dịp trung tuần tháng tư dương lịch, khi thời tiết phương Bắc chuyển mùa xuân sang hạ ẩm
thấp, oi nồng, tôi thường bâng khuâng nhớ về phương Nam với âm hưởng tiếng
trống lăm thôn rộn rã và tiếng hát của những chàng trai Khmer Nam Bộ tha thiết
thâu đêm gọi bạn tình, hiểu theo tiếng Việt đại ý là: “Em ơi… cây đào lộn hột cành lá sum suê, đang mùa hoa nở đẹp… Tết Chol
chnam Thmay phum sóc ta mở hội. Đêm nay, em có cùng anh đi hội lăm thôn? Anh
đợi ngoài hàng rào những ba đêm rồi mà sao chẳng thấy em? Hay là em đã ưng
chàng trai khác?!...”
Theo
lịch Khmer; tết Chol chnam Thmay ở vào giữa tháng Chết (khoảng trung tuần tháng Tư công
lịch), cùng là vào giao điểm của thời tiết, lúc chuyển mùa vụ. Khi đó, thời
tiết Nam Bộ chuyển từ mùa khô sang mùa sa mưa, sau tết bắt đầu cho một mùa làm
ăn mới. Người Khmer theo Phật Giáo Tiểu Thừa, nên tết cũng bao hàm những nghi
lễ xã hội, tôn giáo đánh dấu một tiết đoạn thời gian, song ý nghĩa cuộc sống
đích thực mạnh hơn những hình thức vui chơi nhẹ nhàng, mang tính chất giải trí.
Hồi
ấy, tôi đang tuổi tráng niên chưa lập gia đình, khi vào Nam công tác để lại
người yêu ngoài Bắc. Mỗi khi nghe Chau Vol, người
dân tộc Khmer làm cùng cơ quan í ớ hát bằng tiếng dân tộc mình, lúc đầu nghe
tuy không hiểu nhưng nhạc điệu bài dân ca da diết ấy làm lòng tôi nao nao. Sau
khi nghe cậu ta dịch nghĩa, nghiệm thấy, trai gái dân tộc nào và ở đâu cũng
vậy, với tình yêu trong mùa lễ hội đều có tâm trạng na ná nhau… Dạo mới quen,
Chau Vol còn kể nhiều chuyện về lễ hội tết của dân tộc mình và nài tôi về nhà
cậu ta ăn tết. Từ năm sau trở đi, hễ cứ gần đến tết Chol chnam Thmay (Tết năm mới hay là Tết chịu tuổi) là Chau Vol lại cất lên bài ca rồi toét miệng cười, nháy
mắt với tôi, gọi theo cách gọi thứ của phương Nam: “Anh út ơi, về nhà tui ăn
tết nghe”.
Nhà Chau Vol ở xã Núi Tô, nằm
ngay dưới chân núi Tôn (tức Phụng Hoàng Sơn) – một trong bảy ngọn núi của vùng
Thất Sơn, nổi tiếng với đồi Tức Dụp là căn cứ địa cách mạng của ta trong thời
kỳ Mỹ Ngụy trước giải phóng. Nghe nói, vào năm 1970-1971 địch đã huy động một
sư đoàn chủ lực cộng thêm lữ đoàn Cọp Đen gồm toàn lính đánh thuê sừng sỏ tấn
công ròng rã nhiều ngày đêm với một khối lượng vũ khí trị giá hai triệu rưởi
đô-la mà không tài nào đánh nổi. Chau Vol đến cơ quan đón tôi, và chúng tôi làm
một cuốc xe ngựa tuyến từ thị trấn huyện lỵ Tri Tôn đi Núi Tô cách đó chừng 5
ki-lô-mét. Ngựa chạy nước kiệu, lên đồi xuống dốc gập ghềnh khiến tôi liên
tưởng mình đang ngồi trên cỗ xe chiến của thần Krishna trong bộ sử thi
Mahabharata của Ấn Độ. Suốt mấy ngày tết, tôi được Chau Vol đưa đi xem những
trò chơi dân gian ở phum sóc mình.
Hầu
hết các lễ nghi tôn giáo và các hoạt động cộng đồng, trò chơi dân gian trong
dịp lễ tết đều diễn ra ở chùa. Gần như mỗi phum, sóc đều có ngôi chùa riêng của
mình. Tôi đã từng đọc những cuốn sách về văn hóa kiến trúc nên ít nhiều biết về
sự độc đáo trong kiến thức nghệ thuật của ngôi chùa Khmer. Theo chân Chau Vol
đến ngôi chùa của phum, biết rằng đây chỉ là ngôi chùa nhỏ kiểu như chùa làng ở
ngoài Bắc, song quả tình, tôi vẫn ngỡ ngàng trước vẻ nguy nga, đường bệ của nó.
Chùa được làm theo qui cách cổ truyền, ngôi chính điện ở giữa khuôn viên với ba
cấp mái và mỗi cấp lại chia ba lớp, lợp ngói men màu sặc sỡ. Đặc biệt là góc
mái đều có hoa văn cách điệu rồng uốn cong vút với đại bàng thân người đỡ mái.
Thấy tôi cứ lẩn thẩn ngắm nhìn những bảo tháp bốn mặt đều tạc tượng thần đội mũ
rải rác chung quanh, Chau Vol gọi tôi cười bảo: “Đi thôi anh, bữa nào rảnh, anh
xem cả ngày cho thỏa, bữa này ngày Vonbat là ngày đầu tiên trong ba ngày tết,
mình phải đi xem lễ và trò chơi”. Tôi và Chau Vol hòa vào đám đông quanh sân
chùa, thóc lúa được đắp thành đống cao, cả cát cũng vậy. Tôi không mấy hiểu,
song lờ mờ đoán ra ý nghĩa của tục lệ này. Chau Vol giải thích: “Đây là tục cầu
mùa, có nguồn gốc từ xa xưa theo truyền thuyết luân hồi nhân quả của đạo Phật,
nhằm tránh tiền oan nghiệp chướng và mong muốn sang năm mới mùa màng bội thu,
thóc lúa tài sản nhiều chất cao như núi…”
ữa
cỗ tết ở nhà Chau Vol, ăn theo phong tục của người
Khmer, ăn bằng đĩa và bốc tay. Vì có tôi, Chau Vol dặn vợ làm thêm vài món
ăn của người Việt. Lai rai rượu đế, thấy tôi bỡ ngỡ, ba của Chau Vol xởi lởi
gợi chuyện, ông nói tiếng Việt không thạo như Chau Vol, song tôi vẫn nghe đủ
hiểu. Loanh quanh với đôi ba lễ nghi, trò chơi dân gian ngày tết, tôi muốn biết
thêm về chiến trận núi Tô ngày nào, bèn hỏi: “Ngày đánh nhau to ở núi Tô, Chau
Vol bằng chừng nào?”. Chau Vol cười: “Ô, còn bé lắm. Ba tui đây nè, ngày đó ông
đi đưa cơm cho du kích đó. Anh cứ hỏi ba tui”. Rồi như thấy sự háo hức của tôi
và sự nài nỉ của Chau Vol, ông kể thủng thẳng, đứt đoạn: “Năm đó, Mỹ ngụy, đánh
phá đồi Tức Dụp dữ lắm. Căn cứ địa cách mạng của ta mà… Nghe đâu, ngày đó địch
có một sư đoàn, lại thêm tụi Cọp Đen Pác Chung Hy, pháo binh Tân đảo và biệt
kích rừng của Úc. Đạn pháo vang dội suốt mấy ngày đêm liền. Mấy ổng cách mạng
nhà mình gan dạ thiệt, quyết không chịu, chỉ tiểu liên, tạc đạn, lợi dụng hốc
đá, gốc cây chống trả. Cứ đêm xuống, lúc địch mệt mỏi ngưng nghỉ, mấy anh em cả
Khmer và Việt tụi tôi từ trong sóc, nhờ đêm tối và biết đường tắt, đường hẻm,
cơm nước và cả đạn mang tên tiếp tế. Kết thúc trận chiến, địch lui, bỏ mạng mấy
ngàn tên mà ta không thiệt hại mấy. Vậy mới tài!... Tui còn nghe đồn, sau đó
tướng Mỹ chỉ huy trận càn đó bị giáng chức cho về nước… Mọi người cười rộ vì
chuyện tướng Mỹ bị giáng chức. Vui miệng, rượi uống liền liền. Sợ tôi quá chén,
Chau Vol dặn: “Chớ xỉn, lát nữa anh em mình còn đi xem nhảy lăm thon và hát
Aday. Con gái Khmer sóc này đẹp và hát hay lắm đó!”.
Tối đó, vợ chồng Chau Vol ăn
vận trang phục dân tộc rất đẹp. Tôi theo họ ra bãi trống cuối sóc, nơi dành cho
các cuộc vui chơi sinh hoạt tập thể. Già trẻ, gái trai đều diện đẹp. Vòng nhảy lăm
thon đã hình thành, phần đông là đám trẻ. Các tay nhạc công tài tử chơi một
điệu nhạc lạ tai. Lát sau, nhạc lại chuyển sang điệu khác và vòng múa cũng thay
đổi. Tôi bị cuốn hút song thực chẳng hiểu gì, đành phải cậy nhờ Chau Vol. Cậu
ta kể tên vanh vách các điệu, nào romvông, rom saravan, chomvắc, lămlêu và
những gì nữa mà mỗi điệu đều theo một quy cách riêng, tôi nghe ù cả tai. Chợt Chau Vol khẽ bấm vai rồi ghé sát tôi thì thào: “Anh Út
nhìn xem, cô gái vừa len vào, đứng ngay cạnh vợ em kia… xinh đẹp nhất sóc đó.
Anh thấy xinh không? Cô ấy là Neang Sim, một cây hát Aday huê tình và vẫn chưa
có chồng. Anh ưng làm rể sóc em không, em làm mai cho. Chau Vol cười rúc rích.
Tôi cũng vui lây và cảm thấy mặt mình nóng bừng. Quả là cô gái rất xinh. Người
tầm thước, da nâu, vóc tròn lẳn trong bộ xarông bằng lụa tơ tằm có trang trí
hoa văn sặc sỡ rất khó tả, gương mặt sống động với đầu mũi cao, mắt to đen dưới
hàng mi cong dài. Đến màn hát huê tình, Neang Sim mới nhập cuộc, nhưng cô vẫn
nhường cho những cặp trai gái khác hát đối. Cô gái đứng đó mà dường như lòng dạ
bồn chồn đợi ai đó. Rồi Chau Vol lại bấm vai tôi, cười trêu: “Anh Út có đối thủ
rồi hà”. Khi đó, theo tay chỉ của Chau Vol tôi nhận thấy một chàng trai mới
xuất hiện. Từ lúc ấy, đám hát Aday thêm phần sôi động. Chàng trai vừa đến cất
lời hát và Chau Vol dịch lời cho tôi: “Anh đi tìm mỏi mắt. Anh tìm người anh yêu.
Và anh bắt được em. Ơi cô nàng duyên dáng”. Neang Sim cất lời đối và Chau
Vol lại dịch tôi nghe: “Người khen em nết
na, xinh đẹp. Lại có người chê kén khó lấy chồng. Chẳng qua yêu mà em không yêu
lại. Giận dỗi phao tin cho thỏa nỗi lòng…”. Tôi không thể nào nhớ nổi những
lời đối đáp tài tình của hai con át chủ bài trong cuộc vui hát huê tình đêm ấy.
Men rượi cộng thêm sự náo nhiệt khiến tôi mệt bã người, đành về trước. Chau Vol
thu xếp chỗ ngủ cho tôi rồi vội vàng quay lại đám vui, nơi vợ cậu ta vẫn còn
chờ ở đấy. Tôi đoán thế nào cậu ta cũng nhảy vào đám hát. Và tôi ngủ thiếp đi
trong tiếng đàn hát vọng lại, thấp thoáng đâu đó hình bóng, gương mặt xinh đẹp
của Neang Sim…
Sáng
hôm sau, dù còn mệt vì dư vị của hơi men song tôi vẫn theo Chau Vol đi xem đua
bò được tổ chức ở sóc bên. Hội đua rất náo nhiệt bởi đông người xem và mang
tính ganh đua giữa sóc nọ với sóc kia, phum này với phum khác. Ngoài ý nghĩa là
một trò chơi dân gian hàm chứa tinh thần khuyến nông, đây còn là dịp để các bậc
cao niên giữa các phum sóc gặp gỡ, trao đổi với nhau từ chuyện đời, chuyện đạo,
chuyện sản xuất đến đời sống hàng ngày, và đặc biệt để trai gái các phum sóc có
cớ làm quen, nên duyên chồng vợ. Phàm những ai đã có vợ hoặc chồng rồi thì
thường phải đi cả đôi, chứ ít khi đi lẻ. Phum sóc nào có cặp bò dự thi thì
người của phum sóc đó đi rất đông để cổ vũ. Đường đi băng qua cánh đồng sau mùa
gặt, lại vào cuối mùa khô nên ruộng nứt nẻ, gốc rạ và đất cứng đâm vào chân
khiến người không quen không thể đi chân trần. Biết vậy, song tôi vẫn tuột dép
cầm tay, bấm bụng chịu đau đi chân không, để được tiếp đất, bởi trên đầu là bầu
trời châu thổ cao xanh, và xa xa vài chục cây số đất liền là biển Tây. Tự nhiên,
khi ấy, có cảm giác mình hòa với đất trời miệt châu thổ phương Nam, và nơi mình
đang bước đây không biết mấy nghìn năm trước còn là biển? Cứ chân trần như vậy,
tôi dẫm bừa lên những khoảng đất bị than củi đốt cháy đen. Một vài lần như vậy,
tôi để ý thấy Chau Vol bao giờ cũng đi tránh những chỗ như thế, và tôi cũng bắt
chước cậu ta. Sau tôi mới biết, những khoảnh đất cháy xám đen lẫn tàn tro củi
ấy là nơi bà con Khmer làm lễ hỏa táng những người thân của mình khi họ khuất
núi. Tro di hài được đưa vào lọ sành gửi nơi bảo tháp trong chùa. Đấy là phong
tục của người Khmer theo Phật giáo Tiểu Thừa. Cuộc đua bò hôm ấy, cặp bò của
của sóc Chau Vol về nhất. Người điều khiển cặp bò thắng cuộc được trao phần
thưởng gồm một đôi chăn krama, một
sămpốt, một xarông, và một cà-om gra-thnốt (một vò rượu lên men từ nước
thốt nốt). Sau cuộc đua bò, tôi chia tay Chau Vol về cơ quan bởi có công việc,
không dự đủ ba ngày tết.
Sau
này, tôi còn có nhiều dịp dự tết Chol chnam Thmay ở các phum sóc khác vùng Bảy
Núi, tôi cũng đã thưởng thức khá đủ các hình thức sân khấu cổ truyền của người
Khmer Nam Bộ như Rôbăm (kịch múa), Yukê và Lakhon Bassac (kịch hát), nhưng
chẳng có lần nào để lại trong tôi ấn tượng tốt đẹp như lần ấy. Lại nhớ câu
người xưa dạy: “Đi một bước đàng học một sàng khôn”. Đất nước của mình một dải,
với 54 dân tộc anh em cùng chung sống, vẫn biết rằng mỗi dân tộc chứa đựng cả
một kho tàng văn hóa, vậy mà đến giờ mình hiểu chẳng được bao nhiêu về văn hóa
các dân tộc anh em!?.. Tôi vẫn thầm nhắc nhủ lòng mình như thế!...


Nhận xét
Đăng nhận xét