@@@
Chiếu chèo sân đình
Nhân ngày giỗ
cha tôi, mấy anh chị em họ của tôi từ quê ra ăn giỗ. Buổi tối, cơm nước xong,
tôi bật ti vi để mọi người xem thì một người chị họ của tôi bảo: “Cậu bật đài đi, tối nay trên đài có sân khấu
truyền thanh. Hôm nay có chèo đấy… Tưởng cậu làm ở đài thì phải biết chứ?...
Hay là cậu không thích chèo?...”. Tôi chiều khách và bật đài. Đài tiếng nói
Việt Nam đang phát sóng một vở chèo cổ. Tôi thú thực với họ rằng, tuy làm việc ở
Đài nhưng do bận công việc nên thường chỉ nghe thời sự của Đài chứ ít thời gian
nghe sân khấu truyền thanh. Lúc mọi người đang say sưa nghe và thỉnh thoảng
bình phẩm với nhau thì cậu con trai của tôi đang chơi ở ngoài chạy về, vớ ngay
lấy chiếc điều khiển bật ti vi đúng cái kênh ở đấy đang có hoạt hình. Tiếng
chèo ngọt ngào bị những âm thanh bốp chát huỵch toẹt của phim hoạt hình phá rối.
Những người lớn lặng đưa mặt nhìn nhau. Tôi đành lựa lời bảo: “Con để cho các bác nghe chèo chứ. Lúc khác
xem hoạt hình cũng được cơ mà..”. Cậu con tôi xịu mặt phụng phịu: “Nhưng mà con thích xem hoạt hình cơ!”.
Tôi đành chọn giải pháp dung hòa bằng việc mang chiếu và xách đài, lễ phép mời
các bậc huynh trưởng của tôi lên gác cao nhất để các vị nghe chèo, thỏa mãn cả
đôi bên…
Thật lòng, tôi
không thích nghe chèo có đề tài hiện đại, song chèo cổ thì tôi thích. Ngày nhỏ,
lúc mới từ thành phố về hẳn ở quê, tôi còn chưa biết chèo và cũng không mấy
thích. Nhưng rồi, cuộc sống ở thôn quê, cùng với những vở chèo được nghe qua
đài hay xem trực tiếp, cứ ngày một ngày hai thấm vào và tôi mê nó từ bao giờ chẳng
biết. Làng quê khi ấy còn nghèo lắm, ngày lao động vất vả, tối về nghe đài, đặc
biệt những tối thứ bảy hàng tuần có kể chuyện cảnh giác và sân khấu truyền
thanh thì mọi người tụ họp ở những nhà có đài để nghe chung và bình phẩm cùng
nhau. Thi thoảng một hai năm mới có dịp đoàn chèo trung ương về biểu diễn. Những
ngày ấy làng như có hội, người lớn trẻ con nô nức mang chiếu vào bãi giữ chỗ từ
chập tối. Đoàn rút đi nơi khác bà con còn bàn tán, bình phẩm về các tình tiết
câu chuyện và diễn viên đến nửa tháng sau chưa hết. Niềm khao khát được xem văn
công của bà con thật lớn và chẳng thể thỏa mãn nổi. Thôi thì không có văn công,
bà con mình tự hát cho nhau nghe vậy. Hình thức chiếu chèo sân đình từ xa xưa
được phục hồi. Cứ vào dịp nông nhàn từ tháng một chạp trở đi, kéo đến qua tết
Nguyên Đán sang giêng hai khi các hội làng mở. Mỗi thôn xóm, thậm chí đội sản
xuất đều có hội chèo riêng của mình. Đêm biểu diễn, chỉ cần lấy mấy chiếc chiếu
hoa trải ra làm sân khấu, một chiếc đèn măng sông hay đèn bão là đủ sáng. Cũng
đủ cả nhạc cụ đệm như sáo trúc, nhị, đàn bầu, thanh la hẳn hoi. Khổ nỗi những đợt
máy bay Mỹ còn bắn phá ác liệt, đèn đóm phải che chắn tứ bề vì sợ trở thành mục
tiêu bắn phá của lũ giặc trời. Có đêm, trích đoạn chèo đang tới độ chín, độ say
thì nghe vọng ầm ì tiếng máy bay từ đâu đó, đành vội vàng hò nhau tắt đèn, đàn
sáo cũng im bặt, cả diễn viên và người xem tìm nơi trú ẩn. Lặng tiếng máy bay,
đèn lại sáng và đêm diễn lại tiếp nối… Cứ thế, những đoạn trích chèo cổ trong
các vở Quan âm Thị Kính, Trương Viên, Bạch Viên Tôn Các, Kim Nham, Tống Trân –
Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Lưu Bình – Dương Lễ được đem ra biểu diễn tuốt. Cảnh
cây nhà lá vườn, già trẻ gái trai, ai biết hát thì tham gia, người biết nhiều
chỉ bảo người biết ít, mấy vị trong phường bát âm đảm nhiệm phần đệm đàn. Mình
diễn cho bà con mình xem, có sao diễn vậy, đâu sợ ai chê cười, miễn là bà con
dân làng được vui, xua đi được mệt mỏi, tạm quên những lo toan, ám ảnh thường
nhật, phấn chấn tinh thần và còn là cái cớ cho trai gái nên duyên… Nhiều người
thuộc lòng các tình tiết, hoặc hát được từng khúc điệu, những lúc làm đồng,
chia hai bên í ới hát đối với làm vui… Cũng có lẽ vậy, người dân làng quê tôi
như được tiếp thêm sức lực để mà vượt qua những năm tháng chiến tranh, gian khổ,
đói nghèo vì thiên tai bão lũ liên miên mà vẫn chắt chiu sẵn lòng vì chiến trường…
Những năm
tháng ấy, những làn điệu chèo, những đêm diễn sân đình còn chưa xa xôi gì lại
trở thành chuyện cổ tích khi khắp chốn cùng quê lao ra làm việc làm giàu, và
khi các phương tiện thông tin đại chúng bùng phát. Hôm đó, nhân chuyện nghe
chèo, tôi đã hỏi thăm các anh chị họ mình, thì được biết, sau dăm bảy năm cắm đầu
chúi mũi lo làm kinh tế, khi nhà cửa đã khang trang, phương tiện tàm tạm, có
chút dư dật trong nhà, mọi người mới cảm thấy, quãng thời gian qua, hình như
làng xóm thiếu hụt cái gì đó thì phải?!... Rõ ràng là nhà to đẹp lên mà cửa dường
hẹp lại, vật chất có phần dày thêm bầu không khí sao lạnh hẳn đi, còn con người
như là đánh mất tính giao hòa, rường mối cộng đồng làng xóm sao mà lỏng lẻo làm
vậy… Và một khi mọi người đã ngộ ra điều ấy thì mọi chuyện nhanh chóng đổi
khác. Bầu không khí ấm áp của làng quê bắt gặp luồng gió mới thổi về. Giờ thì sự
giàu có chỉ là một phần trong những tiêu chí của làng văn hóa… Các đội chèo
thôn xóm thêm một lần nữa hồi sinh!...
Lúc tiễn các
anh chị họ tôi về quê, người chị cao niên của tôi, vừa bỏm bẻm nhai trầu, cầm
tay tôi mời dặn: “Thi thoảng cậu vẫn về
quê giỗ tổ, như thế thực là quý lắm rồi. Nhưng mà tết này, cậu cố về quê đón
xuân với bà con chúng tôi. Nhớ cho cả thằng cu cháu về cùng. Hội làng mở, lại
có chèo sân đình đấy cậu ạ!...”.
Đấy là chuyện
của hơn hai mươi năm trước,…
Giờ thì mọi
chuyện đã khác đi nhiều lắm. Mạng xã hội bùng nổ đã thay đổi diện mạo thế giới.
Con người ta, nhất là những người trẻ tuổi có biết bao vui thú và sự lựa chọn
khác. Chèo sân khấu được dàn dựng hầu như chỉ để tham gia hội diễn. Còn như để
đến được công chúng thì phải lên Youtube, Tictok,…Dẫu thế, vẫn còn hơn không.
Chiếu chèo sân
đình, còn đâu đó trong các hội làng vùng Bắc bộ,…
Tôi lại nhớ và
mơ về mỗi hội làng !...


Nhận xét
Đăng nhận xét