Cúi đầu nhớ cố hương,


1. Bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch.
Hầu như, những ai yêu thơ Đường, hay đơn giản mang chút máu giang hồ, thích lang thang đây đó, đều có lúc chạnh lòng, mà "cúi đầu nhớ cố hương". Còn hết thảy những ai tha phương, rời quê đi lập nghiệp nơi khác, thì hẳn nỗi nhớ quê hương thường trực trong người.

          Từ gần một ngàn năm trăm năm trước, Thi Tiên-Lý Bạch đời Đường đã nói hộ cõi lòng những kẻ tha hương : "Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/Cúi đầu nhớ cố hương".

          Các thi nhân, hình như ai cũng hơn một lần trong thơ bộc lộ nỗi niềm thương nhớ quê hương bản quán. Có biết bao tuyệt bút về chủ đề này, tự cổ chí kim, từ đông sang tây. Xứ Việt mình cũng vậy. Chỉ riêng với Chế Lan Viên, thi sĩ này cũng có những câu thơ rất hay, và không những thế, quê hương và tình yêu quê hương còn được mở rộng ra, với mảnh đất mà ta đã sinh sống một khoảng thời gian nào đó:

"… Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương…"

Trở lại với Lý Bạch và bài thơ nổi tiếng của ông - Tĩnh dạ tưBài thơ này thuộc thể Ngũ ngôn tuyệt cú. Ngôn từ chắt lọc, hàm súc, song tình ý lại mênh mông, vô bờ bến.

@ Nguyên tác:

靜夜思
床前 明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。
Bản âm Hán Việt :

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa :
Đầu giường thấy ánh trăng sáng
Ngỡ là sương phủ đầy
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.

Bản dịch  thơ của Tương Như:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

          Hiện có nhiều bản dịch thơ, song bản dịch của Tường Như được nhiều người nhớ, bởi 2 câu kết rất hay “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/Cúi đầu nhớ cố hương".

          Bài thơ Tĩnh dạ tư này, có một chi tiết cần nói thêm. Đó là một từ trong câu thơ đầu : "Sàng tiền MINH nguyệt quang". Bản chữ Hán và Hán Việt sách Đường Thi của Trần Trọng Kim, thay vì từ MINH ( sáng ), là từ KHÁN ( xem, nhìn ). Còn các bản khác ở sách " Đường thi tam bách thủ " của Hành Đường Thoái Sĩ và " Thơ Lý Bạch " do Ngô Văn Phú sưu tầm, biên soạn, dịch thơ - thì đều chép là MINH..

Đã có nhiều người kiến giải khác nhau về sự khác biệt này. Ở đây, tôi không sa đà vào việc đi tìm từ này hoặc từ kia là đúng với nguyên bản, mà chỉ nêu ra để mọi người cùng biết và suy ngẫm thôi.

2. Một số bản dịch khác của người yêu thơ Đường :

Đầu giường thấy trăng tỏ
Ngỡ ngập tràn sương buông
Ngẩng lên vầng trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương...
( Đặng Đình Nguyễn dịch )

Đầu giường sáng ánh trăng soi
Hay là sương phủ chơi vơi đất bằng
Ngẩng đầu vọng ngắm bóng trăng
Cúi đầu da diết nặng oằn nỗi quê
( Yên Ba Ngô Đình Miên dịch )

Đầu giường muôn sắc nguyệt buông
Bao la mặt đất màn sương phủ dầy
Ngẩng mặt lên trăng sáng đầy
Bâng khuâng quê cũ đâu đây nao lòng
( Nguyễn Vĩnh Tuyền dịch ).

2009

Nhận xét

  1. Lang thang trên mạng ngẫu nhiên gặp lại bài viết này của đại huynh Chu Nhạc .Cũng cảnh tha hương vì mưu cầu cuộc sống nên LB đọc với 1 tâm thức cộng hưởng . Cảm xúc chung là rất thú vị !
    Cũng nhân dịp ngẫu hứng xin phép đại huynh cho đc góp vui vài ý xung quanh bài thơ rất nổi tiếng này của "Thánh Thi" Lý Bạch .
    Trong bài thơ trên, câu: “Sàng tiền minh nguyệt quang. Nghi thị địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng sáng, ngỡ là sương trên mặt đất) thì chữ “Sàng” (床) ở đây bị hiểu lầm thành “giường ngủ”.
    Thực tế, điều đó hoàn toàn không phải như vậy. Căn cứ theo khảo chứng của nhiều học giả, chữ “床 – Giường” có tới 5 kiểu giải thích:
    1. Là nói về “Đài giếng” (井台), tức là mặt bệ thành giếng.
    2. Là nói về Thành giếng (井栏). Thời cổ đại thành giếng còn được gọi là “Ngân giường” (银床). Căn cứ theo phát hiện của các nhà khảo cổ học, vào thời Trung Quốc cổ đại, khi đào giếng nước, người ta thường dùng gỗ để ghép lại làm thành giếng. Hơn nữa, thành giếng được làm cao hơn 1 mét, giống như một cái tủ gỗ hình vuông vây quanh miệng giếng, đề phòng không may có người ngã xuống. Ngoài ra về cách thiết kế thành giếng này cũng có phần giống với giường ngủ đương thời. Chính vì vậy mà nó còn được gọi là “Ngân giường”.
    3. Là một cách gọi thông thường để chỉ “Cửa sổ” (窗).
    4. Là cách gọi của “Chõng tre” (坐卧).
    5. Là cách gọi của “Hồ sàng” (胡床), một loại ghế ngồi có thể gấp lại thời xưa. Nó còn một tên gọi khác nữa là “Giao sàng” (交床) hay “Giao kỷ” (交椅). Cho đến tận thời nhà Đường chữ “床 – Giường” vẫn được mọi người hiểu là “Hồ sàng” (胡床).
    Do vậy, đa số các học giả đều nhận định chữ “床 – Giường” trong thơ Lý Bạch nên hiểu là “Mặt thành giếng”. Vậy nên, ý nghĩa chính xác của câu thơ này là trong một đêm trăng thu sáng tỏ, thi nhân đứng bên giếng nước ngẩng đầu ngắm ánh trăng, tức cảnh sinh tình viết ý thơ.

    Trả lờiXóa
  2. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  3. Ý kiến này của LUBIM khá thú vị và mở ra một cách hiểu khác vi bài thơ này. Nếu hiểu theo nghĩa này của từ "Sàng" thì cầu đầu có thể dịch: Thành giếng ánh trăng sáng/... tuy vị trí có khác, nhưng 3 câu sau vẫn nguyên và ý của bài thơ vẫn không thay đổi.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét