Tập Tiểu luận & chân dung văn học
@@@
NHỮNG CÂU THƠ CẤT CÁNH
Tiểu
liaan & chân dung văn học
Nguyễn Chu Nhạc
Bố bản Đặng Quang Tình
( Chân dung nhà văn Đặng Quang Tình )
Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo
Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.
Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang
Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban
Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa,
còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người đã có nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc
thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta
am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt
1.
Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,
Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại,
Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ
một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu tại Đài
Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông,
đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội,
hội viên Hội Nhà văn Việt
Đặng Quang Tình không hài lòng về việc
này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách
cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi.
Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn
là Hoa
rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986)
và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản
Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng
tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
v.v...
Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho
xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông
tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng
về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những
cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà
văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động
2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết
còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng
ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có
trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và
bút pháp văn phong một nhà văn đã được
khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải,
đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có,
những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác
phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của
ông lại khá đậm nét...
Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi
viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vậy mà
Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Trên vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó
xảy ra cuộc chiến trang biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc,
Đặng Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc
thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước
ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật là
người Mông, người sống ở vùng rùng núi nước ta. Dù trong thời kỳ nào, làm cách
mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế,
chống giặc là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và
người các dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh
vững vàng, hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước.
Ở mảng đề tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở
trường của mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính cối” giành giải Ba cuộc
thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (1983).
Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn
trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi,
Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không
thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng
văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống, sự hiểu biết sâu
rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân
ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục,
tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con
người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và
lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến một thuận
lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.
Ông quê Vụ Bản, Nam Định, nhưng gia đình ông sống ở
Lào, ông được sinh năm 1934 tại Viên-chăn. Khi về nước, ông tham gia quân đội,
nhiều năm sống ở vùng miền núi phía Bắc. Chuyển nghề làm báo, ông có nhiều năm
là phóng viên của Đài phát thanh Tây Bắc (khi
đó thuộc khu tự trị Thái Mèo) đóng tại Sơn La. Khi đài phát thanh này được
sáp nhập vào Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thì Đặng Quang Tình tiếp tục theo dõi
và quản lý màng nội dung về miền núi, dân tộc thiểu. Việc am tường về một mảng
nội dung, cộng thêm sự sâu sát địa bàn, chất nhanh nhậy của một người làm báo,
không những giúp cho ông làm tốt công tác quản lý, biên tập mà thêm lần nữa,
làm nên thành công trong sáng tác văn học. Nhà văn Đặng Quang Tình đã đoạt giải
Nhì cuộc thi viết ký do Hội Nhà báo và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức
năm 1995 với bút ký Ba lần lên Sa Dung,
thêm phần khẳng định sự sát giải (cứ
dự thi là đoạt giải) của ông.
Thời còn công tác, Đặng Quang Tình
viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và mãi nhiều năm sau, khi đã về
nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001). Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm,
ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông (NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt gió (NXB Hội Nhà
văn, 2011) và Âm thầm (NXB Lao Động,
2015), và tập truyện Một thời giông bão
(NXB Hội Nhà văn, 2010).
Ào ạt với một sê-ri tiểu thuyết như
vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu không muốn nói là
lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều này, có vài ba
lý do...
Trước hết, tự thân, sáng tác các tiểu
thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một nhu cầu giải tỏa bản
thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn có. Sự thôi thúc viết
ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà như thể, nếu ngần ngại
hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời... Càm giác
ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống, đã trải qua,
từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư liệu mình
có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân, không giới
thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra cho
mình,...
Góc độ khách quan, thời kỳ này, đã có
sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng tác văn học nước nhà.
Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã tác động mạnh đến thị
trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu đọc sách của công
chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa
nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át sách văn học. Và
riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được tái bản tràn
lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật không dễ, vì
ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các chiêu trò PR này
nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng Quang Tình bị lút
chìm là đương nhiên.
Còn một lý do nữa, theo tôi, sở trường
của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông chặt chẽ, dồn nén trong
việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình và ngôn ngữ hội thoại sắc
sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được sang tiểu thuyết,...
2. Đặng
Quang Tình, nhà báo – bố bản,
Tháng 10 năm 1987, tôi cầm quyết định
về làm biên tập viên của Ban Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không lâu, ban biên tập Thính giả được thành lập
vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời
điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào
thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc
đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dân và Đài Tiếng
nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu
cầu này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp
nước, qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu,
khiếu nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công
dân hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự
hiểu biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống
bức thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy
thỏa mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ
nổi nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp
thính giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích sê là chuyển nội
dung đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu
không được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều
năm làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban
luôn nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời
ăn tiếng nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một
tuần nên thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện
mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn
định trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên
Trưởng ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác.
Ấy là trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ
thể đưa vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả
lời công văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thê, hiệu quá công việc
khá cao. Tôi không thể nhớ nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải
quyết bằng cách này trong những tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi
nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ
thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy năm, rồi được xem xét lại. và được thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ
thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn
gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau,
khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo
tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm
báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ
hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình
bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.
Sau một thời gian ở Ban Thính giả, một
ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát
thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan
thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền
núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố
thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc
nghỉ hưu. Tù ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản,
thì người nhà Đài hẩu như ai cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.
3. Chuyện
vào Hội Nhà văn.
Nhà văn Đặng Quang Tình có đơn xin vào
Hội Nhà văn Việt Nam từ thời ông còn làm việc và nổi danh làng văn ta với mấy
giải thưởng liên tiếp về truyện ngắn. Nhưng không hiểu sao, danh sách hội viên
được kết nạp vào Hội hàng năm không có tên ông. Mỗi khi có ai đó nói với ông về
chuyện này, ông đều cười bảo “Nếu không
là hội viên mà không viết được văn thì tớ mới buồn... chứ không là hội viên mà
tớ vẫn viết đều thì có gì mà buồn...”.
Nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, trong lòng, ít nhiều vẫn gợn lên những suy
nghĩ .... Là tôi cứ nghĩ thế, bời cái tâm trạng “cuời như thầy khóa hỏng thi” vốn thâm căn trong con người ta, nhất
là các quốc gia châu Á có bề dày khoa bảng như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên
và xứ Việt mình,... Miếng giữa làng kia mà!...
Khi nhà văn Đặng Quang Tình nghỉ hưu,
chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng, mùa kết nạp hội
viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem ông có vào Hội
hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn kia, rằng cái tay
ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt này.... Vậy đấy!...
Lâu rồi không ai nhắc đến ông nữa, xem
như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi chẳng mấy ai nhớ đến ông
thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam!...
Số là, cách đây dăm năm, khi nhà thơ
Trần Đăng Khoa còn tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam,
kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam, đôi ba lần trong câu
chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn tên Đặng Quang Tình với
nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công tác lâu năm ở Đài này,
xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Đăng Khoa gật gù công
nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên (2017, 2018), ông có nhắc
đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên, trong cuộc họp của Ban
thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa còn nhắc đến các
trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Th, nhà thơ D, đã mất, mà đáng ra họ xứng
đáng được kết nạp vào Hội khi còn sống...
Có lẽ vậy, mùa kết nạp năm 2019, nhà
văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công nhận là hội viên của
Hội bằng quyết định số... nhưng nhầm
tưởng ông đã mất.
Cuối năm 2020, Đại hội Hội Nhà văn
Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại hội, có tập NHÀ VĂN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà văn Đăng Quang
Tình, khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm tưởng ông đã
mất. Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết đâu đấy, nếu
biết chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...
Một hôm ông gọi
điện cho tôi với tâm trạng vui vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để
làm gì, nhưng thế cũng là sự ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời
mình, cậu ạ”. Rồi ông nói về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất
khi công nhần ông là hội viên Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là
sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa
tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến trăm tuổi!...” ./.
Có một nhà thơ,
ngơ
ngác như thằng mất trâu,...
Người ấy là nhà thơ Ma Bích,
Còn thơ Ma Bích thì tôi chỉ nhớ mỗi
câu “Đồi xưa
bẻ lá em nằm/Nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu,”...
Ma Bích tên thật là Hà Hồng Vanh, dân
tộc Mường, quê xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Thông tin này,
tôi lấy theo nguồn của nhà thơ Trương Thị Mầu, hội viên Hội Văn học nghệ thuật
dân tộc thiểu số Việt Nam, Bác sĩ Ưu tú, giám đốc Phòng khám đa khoa Lương
Điền, Bá Thước, Thanh Hóa.
Tôi biết nhà thơ Ma Bích từ ngót chục
năm nay, tại cuộc gặp gỡ, giao lưu thơ văn đầu xuân hằng năm tại gia nhà văn
Trịnh Tuyên ờ Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Những lần như thế, Ma Bích theo xe của nhà
thơ Trương Thị Mầu xuống Cẩm Thủy. Thú thật, trong những cuộc vui như vậy, thơ
văn hòa rượu tuôn ào ào, tôi không thuộc nổi câu thơ nào của Ma Bích, ngoài
việc thuộc tên nhớ mặt nhau. Ấn tượng của tôi về ông kể từ ngày đầu gặp gõ, ấy
là cách nói năng và những bài thơ ngắn ngẫu hứng đọc tại chỗ có giọng điệu đúng
chất người dân tộc thiểu số...
Cho đến mùa hạ năm 2019, nhóm chúng
tôi có nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh
Kính và một vài bạn hữu vào Bá Thước, rồi cùng Trương Thị Mầu, Ma Bích và vào
bạn hữu du ngoạn Pù Luông, ngủ đêm lại đó trong nhà sàn homstay, tôi mới có
điều kiện trò chuyện và nghe Ma Bích đọc nhiều thơ của ông.
Chuyến ấy, theo lời mời từ mấy năm
trước còn chưa thực hiện được của nhà thơ Trương Thị Mầu, chúng tôi đến thẳng
Phòng khám đa khoa Lương Điền. Đây là phòng khám chữa bệnh Đa khoa do Trương
Thị Mầu lập sau khi cô nghỉ hưu với chức danh giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
Bá Thước. Khi còn làm việc, nữ nhà thơ này được phong Bác sĩ ưu tú, cô là một người giỏi chuyên môn và quản lý, sớm có y
định xây dựng một trung tâm y tế nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho người
dân địa phương bới đây là một huyện miền núi biên giới điều kiện giao thông khó
khăn. Bữa đó, Mầu làm thịt cả một con lợn cắp nách để đãi bạn văn chương thủ
đô. Lên mâm, chỉ thấy có Mầu và mấy nữ nhân viên y tế, tôi nhìn quanh. Mầu hiểu
ý cười: “Các anh yên trí, em đã mời anh
Ma Bíchm anh ấy nhận lời rồi”. Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vui đùa “Đến Bá Thước mà thiếu bạn thơ Ma Bích thì
coi như vắng một nửa”. Dứt lời, đã thấy ngay Ma Bích xuất hiện ngoài cửa
tay cầm chai rượu thuốc tự ngâm.
Theo chương trình xếp trước, chiều ấy
tất cả đi Pù Luông. Xe dừng ngoài ngõ để
Ma Bích tranh thủ ghé nhà báo cáo vợ và lấy thêm tư trang vì đoàn ngủ qua đêm ở
Pù Luông. Đường lên Pù Luông quanh co những dốc, trong xe chuyện thơ văn rôm
rả. Nhiều thửa ruông bậc thang của đồng bào Mường đã bắt đầu gặt Chốc chốc,
dừng xe để mọi người chụp ảnh check in,
nhất là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vốn say món tự sướng. Ma Bích chỉ cười hiền ngắm bạn thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền
txoay chóng cả mặt. Khi rẽ vào Bản Đôn
thuộc xã Thành Lâm chiêm ngưỡng ruộng bậc thang thì trời cơn giông kéo lên đen
ngòm, rồi mưa như trút. Mưa sầm sầm, trắng cả đất trời, khiến các đoàn xe của
khách du lịch dồn ử cả đống. Cả vùng ruộng bậc thang mờ mịt trong mưa, nên
chúng tôi chỉ có thể ngồi yên trong xe chụp ảnh qua cửa kính. Lúc quay ra, mấy
cái đập tràn nước đã dâng lên nhanh mấp mé, may mà xe còn qua được. Khi lên đến
khu nhà sàn homestay thì trời tạnh hẳn, mây quang quẻ, hửng chút nắng hoàng hôn
rất đẹp,... Ma Bích ngắm hoàng hôn, miệng lẩm bẩm gì đó, hinh như nhẩm thơ...
Tiệc tối, món ăn theo phong cách cơm
Mường địa phương, hấp dẫn với món thịt vịt Cổ Lũng béo mềm và ốc đá hấp lá
gừng, cá suối rán giòn. Rau thì toàn món rau rừng chúng tôi không rõ tên. Rượu
nhắm cũng là thứ rượu ngâm trái rừng rất đặc biệt không đâu có. Rượu vào lời
ra, Nguyễn Vĩnh Tuyền và Ma Bích thay nhau đọc thơ. Mâm bên có cặp vợ chồng trẻ
người Mỹ cũng bị lôi vào cuộc... Đêm, khách ngủ chiếu sàn gỗ. Tôi thao thức mãi
không ngủ được, phần vì lạ cảnh, vì tách cà phê đen lúc chiều và phần vì bên
cạnh, Ma Bích ngủ ngáy khá to. Thêm nữa, tiêng nước suối đâu đó tạo thác đổ ầm
ào suốt đêm. Tôi thiếp đi mộng mị. Trờ dậy tảng sáng, nhóm của Trương Thị Mầu
và Ma Bích chào vội để về thị trấn Bá Thước vì Mầu phải dự một cuộc họp gì
đó...
Năm 2020, dịch covid bùng phát, lỗi
hẹn với xứ Thanh, đợi qua năm 2021. Lần
này, vào Thanh đã chớp chới hè. Chúng tôi tả qua Cẩm Thúy thăm nhà văn Trịnh
Tuyên rồi cùng anh ngược Bá Thước. Vẫn một Truong Thị Mầu ân tình và chu đáo,
một Ma Bích hiền hòa ấm áp. Mọi người du ngoạn Duồng Cốc, một vùng hồ nước đúng
chất sơn thủy hữu tình ẩn sâu trong rừng núi Bá Thước ít người biết. Bữa cơm
tối tại đây theo kiểu cơm Mường, cá nướng măng tươi xôi nếp nương. Trần ngập
rượu và thơ, ngẫu hứng thì đũa gõ bát làm nhịp mà hát/ Ma Bích đọc thơ, nhưng
tồi chỉ nhớ mỗi câu thơ “Đồi xưa bẻ lá em nằm/nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu”
vì thấy thú vị. Sự thú vị ở đây là cái
cách ví von giữa việc mất người yêu như việc mất trâu. Thoáng qua tưởng ví thế
là thô. Nhưng với người dân tộc thiếu số, con trâu to lắm, gần như là thứ của
cải lớn nhất trong nhà, nên mất trâu coi như mất cơ nghiệp, tiếc lắm chứ. Vậy
mà, mất người yêu từ ngày còn trẻ, đến giờ thăm lại nơi tình tự ngày xưa vẫn “ngơ ngác như thằng mất trâu”, thì thử
hỏi. ngày xưa đau đớn đến thế nào?... Cách diễn đạt như vậy, thật thà mà hài
hước, đúng nếp nghĩ và lối diễn đạt của người dân tộc thiểu số. Ngẫm kỹ, rồi
đem so sánh với trường hợp giả ngô ngọng
thật thà mách qué trong một bài thơ về cái sự chửi vừa được trao giải cao,
mà thấy buồn cười....
Không ngờ, cái
đêm giao lưu thơ nhạc ấy, là lần cuối cùng tất cả chúng tôi gặp Ma Bích. Non
tháng sau, ngày 13.4. 2021, Ma Bích đột ngột ra đi vĩnh viễn sau một cơn đột
quỵ khi đang khỏe mạnh bình thường, bời ngay trước đó, ông còn đi xe máy chở vợ
đi khám bệnh ở Bênh viện đa khoa huyện và ngủ lại bệnh việc chăm vợ...
Đọc tin báo và
bài viết vội của nhà thơ Trương Thị Mầu về Ma Bích, mới thấy cái tình, người và
thơ của ông để lại trong lòng và tâm trí những người thân thiết, không hề nhỏ
!...
***
Tôi lần giở lại
toàn bộ trang cá nhân của Ma Bích trên Facebook, cả thông tin va bài viết không
nhiều. Thơ cũng vậy. Ông cho thấy không phải là người thạo công nghệ, nên gặp
khó khăn trong việc đăng bài viết và thơ phú của mình. Thế nhưng. với ngần ấy
thôi, thêm hồi tưởng về những lần gặp gỡ Ma Bích, cũng đủ cho tôi phác thảo nên
một người thơ Ma Bịch,...
Có lẽ, Trương Thị
Mầu là người cùng dân tộc Mường, lại là bạn thơ lâu năm thân thiết với Ma Bích,
nên chị hiểu và thích thơ ông hơn chăng? Ngôn ngữ Mường cổ và cách diễn đạt rất
Mường. Còn cảm tính, ấy là hồn vía Mường, không chỉ nằm trong ý tứ, câu chữ bài
thơ mà ở cả trong cái cách ứng xử, trong biểu cảm khi Ma Bích đọc thơ và diễn
giải nguồn gốc từ ngữ bắt nguồn từ phong tục dân tộc mình,...
Cũng theo nhà thơ
Trương Thị Mầu thì Ma Bích làm thơ muộn, khi đã lớn tuổi. Song cũng không vì
thế mà sốt ruột, ào ạt cho nhanh, mà rỉ rả kể chuyện mình, chuyện phong tục dân
tộc mình, trước hết cho chính minh, rồi ra có cái để mà chơi với thiên hạ. Với
ý thức đó, ông không vội vàng là thế, chỉ lấy thơ nói hộ lòng mình khi cần phải
vậy, nên số lượng thơ ông không nhiều, nhưng cũng vì thế mà thơ Ma Bích không
đểnh đoàng, khá chắt lọc và quan trọng là có giọng điệu riêng. Cái chất Mường
trong thơ Ma Bích cũng không giống chất Mường trong thơ của một vài nhà thơ
người dân tộc Mường khác. Nó là của riêng ông. Ví như, bài thơ Lóng
la, thì cùng với việc nói cái tình riêng, Ma Bích còn lục kho ngôn ngữ,
lôi ra, đặng gột rửa cụm từ Mường cổ lóng
la. Theo nhà thơ Trương Thị Mầu, trong tiếng Mường “lóng” là cây chuối rừng, nhưng “la”
thì là một từ không cụ thể, song khi kết hợp thành “lóng la” thì người ta hiểu ấy là ngàn rừng, một khái niệm rộng lớn
hơn nhưng không rõ ràng. Trở lại bài thơ:
“Tôi về thăm Lóng La/ Mưa hoàng hôn tất
tưởi/ Gió San mười chạm với/ Tìm mường hoa Lóng La/ Tìm vệt trăng bay xa/ Em
xòe tay khung cửi/ Trập trùng hoa cỏ núi/ Thắm biếc tình hai ta/ Rồi hẹn không
gặp hẹn’ Rồi thương gặp lũ ngàn/ Ta Lóng La trắc trở/ Nhịp cồng chùng lâu san/
Con chim kêu khản tiếng/ Sao bạn tình không lên/ Anh ở miền gió lửa/ Ôm vú cồng
thức đêm/ Nhớ nhau Lóng La nhé/ Gọi nhau Lóng La ơi/ Cây chày anh lỡ nhịp/ Cối
nương em đầy vơi...”
Vậy là, Ma Bích đã biến cụm từ lóng la thành địa danh, một nơi vữa xa vừa gần, nửa thật nửa ảo, mà
ở đó, người thơ có cái tình với mộr bóng hình nào đó, trắc trở, không nên ngãi,
để bây giờ nên nhớ thương, day dứt.
Hay như, bài thơ Tặc ven em cùng dạng thức như vậy:
“Lâu rồi không
gọi tặc ven/ Nỗi nhớ quên theo ngày tháng/ Dây rừng - chạng vạng/ Xập xoè tặc
ven.../ Đừng đau tặc ven ơi/ Nếu như ngàn năm không gặp lại/ Đá lở non mòn,
ruộng sâu đồng bãi/ Cha mẹ đi ta vẫy Tặc ven đi”.
Cũng theo ý nhà thơ Trương Thị Mầu, “tặc-ven” là một khái niệm không cụ thể
trong tiếng Mường cổ, mà chỉ cho người ta hình dung là đám cỏ bợ, dây rợ lằng
nhằng ven bờ, góc ruộng, xó rừng... Đưa “tặc
ven” vào thơ, Ma Bích muốn gòi thành tên, đặng nhắc nhở mọi người, nhất là
giới trẻ chớ quên từng có một xứ Mường nguyên bản, không pha tạp, và cho dù
theo xu thế phát triển chung của thời đại mới. càng cần thiết gìn giữ bản sắc
Mường trong đa dạng văn hóa Việt Nam.
Dường như, ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa
Muờng thường trực trong con người Ma Bích, nên thơ tình cũng là cái tình Mường
của riêng ông: “Anh
bây giờ không nhớ cả tên anh/ không biết mình năm nay bao nhiêu tuổi/ Mường nọ
chòm kia mấy sông mấy suối.../còn mấy vần thơ gác bếp lửa hong phơi/ anh buộc
lá Làn Ai gửi cho người tri kỷ/ Đá dựng thành lời, lá bay thành ý/ Ta mây bạc
trắng trời lãng đãng phiêu du...” (Phiêu
du). Hay như: “Sợ say ta trốn vào
nhau/ Sợ câu xường lạc truông vầu không lên/ Xin đừng gọi vía kêu tên/ Mà đau
võng bạc tre đền Mường Ai/ Chát nồng ăn lá giêng hai/ Neo trong suối lũ thung
dài tìm xưa” (Tìm Xưa”... Ma Bích
từng có gần chục năm sống ở Tây Nguyên, ông dần hòa nhập vào đời sống trên vùng
đất mới, nhưng nỗi nhớ Mường vẫn canh cánh trong lòng: “Mẹ gùi câu khặp theo cha/ Đi làm người mường khác/ Câu Xường cũ sấm rền
rung cuối thác/ Con nhặt về buộc lại vía ngày xa... (Thư gửi con) .
Ma Bích tạo được giọng điệu
riêng, nên thơ ông làn về đề tài rừng có nhiều người đã làm, thi ông vẫn có cái
của riêng mình, để không lẫn vào người khác:
Chiều nay qua Thành Nhà Hồ
Nhìn tan nát một cơ đồ mà đau!
Sân rồng ngập vết chân trâu
Đâu vườn Thượng Uyển, đâu cầu vua qua
Ngai vàng nắng táp mưa sa
Triều đình còn lại một ta giữa đường...
Liêu xiêu leo dốc ngược mường
Qua truông ra gặp người thương không chào...
(Qua thành Nhà Hồ)
Đến
rồi đang giữa tháng ba
Sao
mà ngồi nhớ người ta thế này
Nhớ
mái tóc nhớ bàn tay
Và
đôi ánh mắt những ngày còn xưa...
Xa
xưa lay lá lay mưa
Người
còn lên lại Pha Dùa hay thôi
Miền
biên viễn nở hoa rồi
Sáo
ai hổn hển đất trời đang yêu
Một
mình ôm chiếc khăn piêu
Đùm
cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?
(Tháng Ba)
Theo tôi, đây là những bài
tho hay của Ma Bích. Bởi lẽ, nếu là
người khác mà không phải là người Mường-Ma Bích, thì dễ gì có những câu kiểu
này: “Triều đình còn lại một ta giữa
đường.../ Liêu xiêu leo dốc ngược mường/ Qua truông ra gặp người thương không
chào...”(Qua thành Nhà Hồ); Hay
như: “Xa xưa lay lá lay mưa/ Người còn
lên lại Pha Dùa hay thôi/ Miền biên viễn nở hoa rồi/ Sáo ai hổn hển đất trời
đang yêu/ Một mình ôm chiếc khăn piêu/ Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm
buông?” (Tháng Ba), ...
Như một tiền định, mới gần
đây thôi, ngày 20.11.2020, ngày Nhà giáo Việt Nam, Ma Bích làm thơ nhớ thầy
giáo cũ, người ngày xưa từng dạy ông lúc còn đi học, ông đã viết: “Thầy giáo đi rồi còn lại mình em/ Lớp học
ngày xưa không còn ai nhớ nữa/ Mái lá
sàn tre rét run cánh cửa/ Em tìm về
cách biệt âm dương.../ Chúng em lớn lên đứa lấy vợ gả chồng / Nay tóc trắng như tóc thầy ngày ấy/ Mỗi lần gặp nhau khi nào cũng vậy/ Hay nhắc về thầy, thầy có nghe không./ Còn riêng em thích luyện bút văn phong/ Ghét kẻ bất lương thương người nghèo khó/
Rồi một ngày kia em sẽ về dưới cỏ/ Lại
đến tìm thầy xin đọc để Người nghe”. (Thầy
giáo).Ma Bích mong rằng, đến một ngày kia nào đó, ở thế giới bên kia,
ông được đọc thơ cho thầy giáo cũ của mình nghe...
Giờ thì Ma Bích đã toại
nguyện, ông được “về dưới cỏ” để rồi “lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe” !...
./.
TẢN MẠN VỀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
(
Đi tìm thi pháp thơ Trần Đăng Khoa )
Từ quãng thời gian tôi làm biên tập trang Web của Hội
Nhà văn Việt Nam (Vanvn.net) đến sau
này làm biên tập viên ở Tạp chí Nhà văn
& cuộc sống, do nhà thơ Trần Đăng Khoa làm Tổng biên tập, tôi hay lai
vãng phòng làm việc riêng của ông ở trụ sở Hội Nhà văn tại số 9 Nguyễn Đình
Chiểu. Ở đây, tôi thường chứng kiến các cuộc đàm thoại văn chương của Trần Đăng
Khoa với các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học khác. Song thú vị nhất vẫn
là các cuộc chuyện trò tay đôi giữa ông với nhà thơ Vũ Quần Phương. Đã nhiều lần, tôi nghe hai ông bàn về thơ Tố
Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,... và về thơ của chính các
ông. Tôi nhớ, có lần, hai người bàn rất say sưa về thơ Tố Hữu, đặc biệt về nhạc
điệu, ngôn ngữ hình ảnh trong một số bài thơ (Khi con tu hú gọi bầy, Việt
Bắc, Nước non ngàn dặm...) Song qua những gì hai
ông bàn, tôi hình dung ra Tố Hữu-một nhà thơ tài hoa, nhưng đáng tiếc, nhà thơ
chưa chắt lọc khi sử dụng thơ ca mình cho những mục đích khác nên sự nghiệp thơ
ca và cả sự đóng góp cho tiến trình phát triển
thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, chưa đạt tới đỉnh cao nghệ thuật...
Khi nói về thơ mình,
Trần Đăng Khoa hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương: “Bác thấy thơ em thế nào? Đến giờ còn lại được bao nhiêu bài?...”. Nhà thơ Vũ Quần
Phương ngẫm nghĩ một hồi rồi kể tên một số bài... Trần Đăng Khoa gật gù tán
đồng, rồi ông bảo: “Nhiều bài trong số bác kể, em
có thể viết lại được,... nhưng riêng bài thơ Trăng sáng sân nhà em, thì chịu không thể nào viết được như thế
nữa”. Ngẫm ngợi,
Trần Đăng Khoa bảo: “Cả bài thơ những
tưởng chẳng có gì, mà lại có gì,...vô cùng vô tận, trải ra mênh mông từ những
cái gần gặn...”. Nhà thơ Vũ Quần Phương ra chiều tán thưởng...Tôi nghe
chuyện các ông, mà ngẫm nghĩ ra nhiều điều. Đặc biệt, khi soi chiếu vào những
bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tôi biết từ mấy chục năm qua...
*
Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý
thức tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về
thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông
thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập
thơ Góc sân và khoảng trời cùng một
số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách
chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB
Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa
sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài
thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không
phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với
lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người lớn,
về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có
nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, là một sự nhất quán về ý nghĩa tư
tưởng và phương pháp sáng tác...
Tôi cũng đã nghĩ
về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng
thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng
nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập
thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần
Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc
kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào đấy và cho tôi
biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ?”.
Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng không nói lại với ông...
Cho đến một lần,
đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ. Khi ký sách
tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho
ông. Tội nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một
hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe
các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội
trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn lôi ra đọc. Một ý nghĩ
lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển
thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ
khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi
bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ
mồn một, từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung, mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ
này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua
ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất. Hết ngày dự hội nghị hôm ấy,
tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều
năm qua...
Ngày hôm sau, đến
cơ quan, tôi tìm đến phòng làm việc của Trần Đăng Khoa, hùng hồn, liền một mạch
cho ông nghe hết thảy những gì tôi vừa mới phát hiện ra về thơ ông, về phương
pháp sáng tác thơ của ông, hay nói cách khác như các nhà lý luận phê bình văn
học thường dùng, ấy là thi pháp thơ
ông. Trần Đăng Khoa lắng nghe. Ông tỏ ra vui mừng và tán thưởng, công nhận
những điều tôi vừa nói về thơ ông và giục tôi sớm viết những điều ấy. Tôi hứa.
*
Tự thân, tôi cũng muốn sớm viết ra những
điều ấy, thậm chí ngay tắp lự. Nhưng ôi thôi, nói thì dễ nhưng làm thì không dễ
chút nào. Bận công việc, ngần ngại này nọ, lẫn lữa mãi, việc chưa thành. Khác
với sáng tác, có ý tưởng ngẫu hứng là thành, phê bình văn học là một công việc
khoa học, đòi hỏi sự chặt chẽ về luận cứ, sự tỉ mỉ tìm tòi trong chứng minh, lý
giải... Vậy nên, đã đôi ba lần tôi nhắc lại với Trần Đăng Khoa những luận điểm
của mình về thi pháp thơ ông mà vẫn chưa viết ra nổi.
Đã có lần Trần
Đăng Khoa khích tôi rằng “Phát hiện thì
tinh đấy...cũng như phát hiện về thi pháp Đảo
chìm,rất khác người.. có điều, ông chẳng chịu dấn tới, nên thành nửa vời...”.
Ồng không nỡ nói hết câu... chắc sợ tôi phật ý, song tôi hiểu ý ông, và cũng
hiểu việc mình cần làm lúc này là gì,...
Có thể nói,
phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa như sau: Mối
quan hệ Động-Tĩnh, Thực-Ảo, sử dụng thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh, phép
nhân cách hóa, tạo dựng không gian truyện cho mỗi bài thơ và cuối cùng
là có những câu thơ cất cánh.
Còn theo phương pháp khoa học, hầu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đều theo
phép quy
nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách
này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách trong một bài.
Ngay trong bài
thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực - áo rất rõ: “Con bướm
vàng/ Con bướm vàng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó
vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây,
những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy
câu kết này, bài thơ chuyển thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Mỗi khi đọc
bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện
rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần,
thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió
cuốn bay đi mất, đã tức cảnh làm thơ “Một
cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ
xanh/ bay mất tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một
đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống
như đám dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần
thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức thì vị quan ấy thẽ
thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba
bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,...
nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay
mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm
tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp
cánh cho bài thơ bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người
làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn.
Bài thơ Chiếc
ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần như bài thơ là sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức
tranh tĩnh vật, nhưng chỉ vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/ thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá” và câu
kết “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, vậy
thôi mà các bức tranh tĩnh vật sống dậy, hoạt động, như con người. Ở đây, tác
giả còn dùng phép nhân cách hóa.
Bài thơ Gà
con liếp nhiếp là một bài thơ thực-ảo.
Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn không
ướt cánh, ướt đầu…Nếu chỉ vậy thôi thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực,
nhưng tài tình thay, hai câu kết “Đôi mắt
tròn trong như hai giọt nước/ hai giọt nước
không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo
diệu và rất chi ám ảnh.
Bài thơ Chọc
ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thực - ảo, chỉ
bởi hai câu “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran tỏa một buổi chiều”
Hay như bài thơ Trăng
sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ
Vũ Quần Phương như tôi đã nói ở phần đầu, là chẳng thể nào viết lại được như
thế. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh,
thực-ảo. Tác giả không tả trăng sáng
đẹp như thế nào, mà chuyển quan sát sang những vật thể trong ánh trăng như cái
sân, cái cây, con chim, con sâu...Câu thơ được lặp đi lặp lại “Ơi ông trăng sáng tỏ/ Soi rõ sân nhà em…” khiến cảnh sắc tĩnh mà động, thực mà
ảo, không có gì mà lại có gì... Tài tình là vậy!
Bài thơ Nửa
đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một
bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ
chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương
đọng mật”, “há miệng đòi uống sương”,
“loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc
biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn
xao cả đất trời” làm bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh sống động
cảnh nông thôn bình thường mà nâng tầm lên một cái gì đó to lớn hơn, trải ra
mênh mông, khiến người ta phải mường tượng, liên tưởng, nghĩ mãi không thôi.
Hay nữa, bài thơ Bên
sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài
là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông
câu, cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến
người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm bé
nhỏ/ biết bay về nơi đâu?”...
Bài thơ Đêm
Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”.
Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song
“Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng
xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như
hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...”.
Thực đấy mà vẫn như ảo. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển
trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm
nữa có câu thơ cất cánh.
Bài thơ Đồng
chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt
như là khói bay/ Đất trời cách một gang mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa
hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương
vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, chẳng rõ
thực ảo. Sự ảo diệu của thi ca là đây!
Nữa, bài thơ Đồng
quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang
cảnh làng quê mộng mị: “Làng quê lúa gặt
xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/
Trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu
đã chạm mặt người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi tăm/
Sương buông cho đồng hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/ Buâng
khuâng nhớ lúa đậu vào áo em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực thì
câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ
một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không
biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế!...
Còn nhiều lắm bài
thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng
chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe,
Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đến, Mưa,
Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con
mắt, Cơn dông, Hoa bưởi
...v.v... Và những bài thơ sau này ở
thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa
và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ
tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva, Qua
Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova,
mùa đông năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa
Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với
bạn, Đỉnh núi, Ở nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…).
Hay đâu, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022:
“Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm
lại chiến trường thẳm xa/ Bây giờ bầu bạn cùng ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà
ngoài hiên” (Về quê) cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà
thơ nói được hành trạng các mối quan hệ
lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ
trôi qua.
Có một điều không
khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo
làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung
mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất
giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này
trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo
chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ
buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian
của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể
chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này
cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ,
khi nghe đọc bằng âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên
mặt giấy, đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt đe đe, nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút
gì, là bởi nó không có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là
đám xác chữ, không hồn vía, như chết vậy.
Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông
cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ
cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa đều kể một câu chuyện, có cốt truyện
vậy, hoặc nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ
nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống
như vậy, người ta thầy được các nhân vật, con vật, đồ vật trong thơ Trần Đăng
Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất
truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để các bài
thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên
mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn được bạn đọc
yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên
tục được tái bản và hiện bán rất chạy...
Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của
truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng
tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả;
sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng
Khoa là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên
suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca. Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa
hiện thưc mà ảo diệu và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện”.
*
Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần
Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ
pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn
Sơn/ Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”.
Ở đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương
đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường. Thủ pháp hoán
vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức
liên tưởng...
Hay đâu, trong
bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ
pháp hoán vị này, khi viết “Cánh
đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình
thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị làm sao.
Cũng vậy, lối đồng dao, vận
dụng ca dao, tục ngữ, ví von,
so sánh và phép nhân cách hóa,
khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ
đều được nhân cách hóa, mang tính
cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép,
xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật
phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con chim hay hót, Máy
cày xình xịch, Đám ma bác giun, Đánh
tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Con
trâu đen lông mượt, Nói chuyện với con gà mái, Sao
không về vàng ơi, vv ).
Bài thơ Kể cho bé nghe là bài
điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở lại, thú
vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói
ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là
cậu chích chòe/ hay mua xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau,
Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời
cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ...
Bài thơ Em kể chuyện này, lại là
bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa
đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi
xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các
bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ
nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức
nặng nhất trong bài thơ khá dài này.
Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa,
câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/
Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ
vận dụng ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để
tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng
suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đêm trời như thế, người làm đường
không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng
thể phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ
này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị
Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân
của Mỹ.
Ở bài thơ Hạt gạo làng ta, có câu
thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những
năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn pháo súng bắn
máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về hình thể, màu
sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của chiến tranh chết
chóc, một bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói
giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc
cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong
ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/ vàng nhứ lúa đồng,” nhưng mấy năm gần
đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”.
Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc.
Mong là các ca sĩ lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và
nhạc sĩ nhờ !
*
Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn
dịch
Những
câu thơ cất cánh chỉ là
cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng
Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện,
thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho
cả bài sống động hắn, như vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi
nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy...
Ví như, bài thơ Tiếng
chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết
này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như
lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...
Hay như, bài thơ Ò ó o,
cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ ò ó o...” thì bài thơ dễ bị chuội
đi, chẳng để lại gì.
Bài thơ Mưa
cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/
đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài
thơ.
Bài thơ Tiếng
chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có
tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu
“Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe// xa xa từ một ngọn
tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa
rồi, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi...
Bài thơ Thôn
xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn
thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ nhuộm vàng cả trời cao”.
Hay nữa, bài thơ Thả
diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức chơi diều như thế
nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy,
nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.
Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay
đi mất,...
Bài thơ Buổi
sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em
xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa
khóa mở ra cả bài.
Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời
bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài.
Một người là “bà
đỡ văn chương”,...
Người ấy là nhà báo Trịnh Bá Ninh, nguyên Phó Tổng
biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam.
Tôi từng có bài viết về ông, bài“P16 Thụy Khê có một căn phòng”
in trong tập bút ký, ký sự “Nơi tận cùng xứ sở” (NXB Hội Nhà
văn, 2018). Ở bài viết đó, tôi đã kể tên hàng loạt nhà văn, nhà thơ, cây bút,
có cả những người rất nổi tiếng, một thời
bao cấp khốn khó từng lui tới, ta túc tại căn phòng rộng 9 m2 của nhà
báo Trịnh Bá Ninh tại khu tập thể Bộ Nông nghiệp ở P16 phố Thụy Khuê, Hà Nội.
Giờ xin phép không nhắc lại chuyện cũ đó, tuy nhiên, theo thiển nghĩ của tôi,
việc đó chứng tỏ một điều, nhà báo Trịnh Bá Ninh và vợ ông (bà Trần Thị Mai)
không khác gì việc đỡ đầu cho nhiều tác phẩm văn học của các nhà ấy thai nghén
và ra đời,...
Thực ra, cách ví này chưa chuẩn. Khi
ấy, nhà báo TRịnh Bá Ninh chỉ là phóng viên đơn thuần, mà đời sống xã hội lại
cực kỳ thiếu thốn, làm được như vậy
cũng thật đáng nể trọng bởi không dễ mấy
ai làm nổi. Về sau, khi nhà báo Trịnh Bá Ninh giữ cượng vị Phó Tổng biên tập
báo Nông nghiệp Việt Nam chuyên
trách mảng nội dunng, ông đã làm người
thúc đẩy và có thể nói là đỡ đầu cho
nhiều tác phẩm văn học có giá trị của một số nhà văn ra đời, đến với công chúng . ...
Trước hết, với nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Với thần đồng thơ nổi tiếng này, lại là bạn học cùng trường phổ thông ở quê,
sau cùng đội tuyển học sinh giỏi văn tỉnh Hải Hưng, ở thời điểm đầu những năm
chín mươi của thế kỷ trước, gia tài văn chương, ngoài tập thơ Góc
sân và khoảng trời, cùng một số bài thơ sáng tác thời tham gia chiến
tranh biên giới Tây Nam và bộ đội Hải quân ra Trường Sa, thì Trần Đăng Khoa vẫn
chưa có gì nhiều đẻ làm dày dặn thêm gia
tài của mình. Chỉ đến khi, xuất bản tập phê bình văn học, Chân
dung và đối thoại, thêm làn nừa nữa tên tuổi Trần Đăng Khoa nổi như
cồn. Tập sách này, cùng một số chân dung văn học được Trần Đăng Khoa viết khi
làm việc ở Tạp chí Văn Nghệ quân đội,
giữ chuyên mục Đối thoại tháng, thì
nhiều bài viết khác do Trịnh Bá Ninh gợi ý và đặt hàng, chẳng hạn như những bài
viết về các nhà văn Phù Thăng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường... Đây thực sự là những chân dung văn học hay,
trước hết là về người được khắc họa, tính cách và sự đóng góp của người đó cho
văn học. Thứ đến, là bút pháp, phong cách, giọng điệu “rất Trần Đăng Khoa” về
thể loại chân dung văn học. Theo tôi, những chân dung văn học của Trần Đăng
Khoa mà Trịnh Bá Ninh gợi ý đặt hàng là những bài viết hay, góp phần làm nên
thành công cho tập Chân dung và đối thoại, tiêu biểu về thể loại chân dung văn học trong tiến trình phát riển văn học Việt Nam hiện đại.
Riêng với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp,
trước hết, nhà báo Trịnh Bá Ninh biết đến với tư cách là một đọc giả yêu thích
truyện ngắn của tác giả này. Tôi nhớ, hồi Nguuyễn Huy Thiệp mới nổi sau những
truyện ngắn xuất sắc đăng trên Báo Văn
Nghệ, đã có lần, Trịnh Bá Ninh rủ tôi tìm đến nhà ông này ở Khương Hạ,
Thanh Trì, Hà Nội. Hôm ấy, Nguyễn Huy THiệp vắng nhà nên chúng tôi chỉ ngó
nghiêng quanh quất khu nhà vườn tuềnh toàng và chuyện xã giao dăm ba câu với
người vợ của ông. Quan trọng là, từ sự yêu thích văn chương và ngưỡng mộ con
người nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sau này, khi có cơ hội, Trịnh Bá Ninh đã dám
làm và có công trong việc đăng các truyện ngắn của ông.
Ngày Nguyễn Huy Thiệp mất (tháng 4.2021), trong một bài viết ngắn
vĩnh biệt nhà văn đăng trên trang cá nhân, nhà báo Trịnh Bá Ninh đã kể lại chuyện ông và các đồng nghiệp ở Báo Nông nghiệp Việt Nam tìm cách cho xuất
hiện lại truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Số là sau khi đăng hàng loạt truyện ngắn
lấy đề tài lịch sử, người ta cho rằng ông “hạ
bệ thần tượng”, rồi cơ quan quản lý sờ đến, cho ý kiến nọ kia,... Thế là,
các tờ bao9s ngán ngẩm, engaij, thậm chí từ chối đăng truyện của ông. Cứ thế,
mấy năm liền văn đài vắng bóng truyện Nguyễn Hu Thiệp, như ông “mất tích” đâu
đó.
Rồi đến một mùa xuân, trong vô vàn báo
tết báo xuân, bạn đọc bỗng thấy truyện ngắn Thiên văn của Nguyễn Huy
Thiệp xuất hiện trên số tết báo Nông
nghiệp Việt Nam. Chuyện là, trước tết năm ấy, Trịnh Bá Ninh với cương vị
Phó Tổng biên tập, cùng phong viên-nhà văn Văn Chinh tìm đến tận nhà ông đặt
bài xin truyện. Chính Nguyễn Huy Thiệp
cũng không tin cũng không tin là tờ báo này dám phợt lờ lệnh trên mà đăng
truyện của mình. Trịnh Bá Ninh kể rằng, ông và đồng nghiệp cũng dè chừng, rất
có thể sẽ có chuyện chẳng lành và nghĩ cách phòng thủ, bóc bài khi cần
thiết. Ấy là việc in truyện của Nguyễn Huy Thiệp thành một tay báo
riêng, để khi có biến là gỡ bỏ thày truyện khác vào vẫn kịp phát hành trước
tết. May mà, mọi sự êm xuôi, lãnh đạo Bộ chủ quản còn khen báo tết hay, truyện cảu Nguyễn Huy Thiệp hay. Nghe
ngóng dư luaajun chung, cũng không thấy ban này bộ kia nhắc nhở chuyện ấy. Tòa soạn thở phào, nhưng có lẽ
mừng nhất, chẳng kém gì tác giả truyện, là Trịnh Bá Ninh, người đề xuất và sẵn
sàng nhận trách nhiệm nếu bị cho là sai
sót từ việc ấy. Kể từ đấy, nhiều tờ báo khác bắt đầu cho đăng các sáng tác mới
của Nguyễn Huy Thiệp. Đương nhiên, hầu như tết nào, Nguyễn Huy Thiệp cũng dành
riêng một tryện ngắn cho báo Nông nghiệp
Việt Nam., tờ báo ông quý trọng từ
nội dung đến nhân cách người làm báo. Cũng
vì thế, lúc còn sống, nhiều lúc Nguyễn Huy Thiệp cà phê Hàng Hành hay
bát phố cổ thi thoảng ghé Tòa soạn báo Nông
nghiệp Việt Nam uống trà chuyện phiếm cùng Trịnh Bá Ninh...
Nâng niu, chăm nhà cây bút thượng thặng là Trần Đăng Khoa và Nguyễn Huy
Thiệp, Trịnh Bá Ninh cùng các đồng nghiệp của mình ở báo Nông nghiệp Việt Nạ
cũng rất biết cách chiêu dung nhân tài, vì thế mà nhiều cây bút nổi tiêng xứ ta
như Mà Văn Kháng, Bảo Ninh, hay những cây bút nổi tiếng gai góc như Tạ Duy Anh,
Trần Huy Quang, Dạ Ngân ... đều góp mặt ở đây. Thời kỳ Trinhju Bá Ninh quản lý
nội dung tờ báo cùng là thời kỳ có nhiều nhà văn đầu quân làm phong viên bản
báo như Văn Chinh, Đỗ Bảo Châu, Vũ Hữu Sự, Thái Sinh,...
Báo Nông nghiệp
Việt Nam là một tờ nhật báo chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp, nội dung chính chủ
yếu các vấn đề về Tam nông (Nông
nghiệp, nông thôn, nông dân) nên Trịnh Bá Ninh và ban biên tập tờ báo chủ
trương bám sát các vấn đề thời sự về Tam
nông, lấy tiêu chí phục vụ cho các lợi ích của nông dân la hàng đầu, tuy
nhiên, khi ra các số báo nhân dịp lễ te4ets, kỷ niệm này nọ, có điều kiện làm
văn thì hàm lượng và chất lượng văn chương ở đây không kém một số tờ báo chuyên
về văn chương, thậm chí chất lượng bài còn cao hơn, theo đánh giá của bạn đọc,
bởi có nhiều bài viết hay, rất hay của các cây bút và nhà văn hàng đầu của Việt
Nam. Có một điều quan trọng nữa là, phong cách làm báo của ông, tôi tạm gọi là
là “phong cách báo Trịnh Bá Ninh” làn
truyền sang thế hệ đàn em và để lại dấu ấn đậm nét đến giờ, kể cả thái độ ứng xử, sự tôn trọng và độ tinh tế
văn chương.
Là dân làm báo với nhau, biết nhau, hiểu nhau cả, Làm
được như Trịnh Bá Ninh không dễ chút nào. Giờ nghỉ hưu, ông vẫn được một số kênh truyền thông mời tham gia tư vấn trực
tiếp về tam nông và nhiều vấn đề văn hóa xã hội khác.
Riêng về văn chương, không còn là những khát khao cháy bỏng thuở nào, mà là
độ đằm sâu đầy trách nhiệm.
Cùng với những bút ký đoạt giải các cuộc thi bút ký
văn hijc từ những năm 80-90 thế kỷ trước, nhà báo Trịnh Bá Ninh còa hàng trăm
bài thơ. Song đưa thơ mình ra với công chúng thế nào, là quyền của riêng ông
,..../.
Người rong chơi
cùng văn chương,
1. Khai mở
Đấy là Nguyễn Xuân Sinh, bút danh trên
các mạng xã hội (Blog Tiếng Việt và Facebook) là Việt An, Nguyễn Việt
An, và đây cũng là tên doanh nghiệp gia đình của anh. Việt An, quê ở Yên
Phụ, Kinh Môn, Hải Dương, là anh cả trong một gia đình đông con, có bố là giáo
viên. Hiện gia đình Việt An sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ở xứ ta, người yêu văn chương, thơ phú
nhiều vô kể, thậm chí, nói theo một cách của một nhà phê bình văn học "Nhà
nhà làm thơ/ người người làm thơ/ vè nhất định thắng...", song với
Việt An thì lại khác. Chí ít, từ cái xuất xứ văn chương của anh.
Ngày học phổ thông, Việt An là người học
giỏi toàn diện, vì có bố là giáo viên, nên anh được rèn rũa khá kỹ, học hành
nền nếp, nghiêm chình. Song môn Văn học trội hơn, nên được nhà
trường chọn đi thi học sinh giỏi môn học này năm lớp 10 (hệ 10/10), và trúng
tuyển vào Đội tuyển học sinh giỏi của tỉnh Hải Hưng (cũ) niên khóa 1974-1975,
để dự kỳ thi giỏi môn Văn toàn miền Bắc (khi ấy chưa giải phòng niền Nam
thống nhất đất nước). Đổi tuyển được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang (thị
xã Hải Dương) để bồi dường môn Văn, chừng 2 tháng, trong số đó có nhà thơ thần
đồng Trần Đăng Khoa, Trịnh Bá Ninh (sau này là Phó tổng biên tập Báo Nông
nghiệp Việt Nam), tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Việt An... Ngày ấy,
bồi dưỡng chúng tôi, Ty giáo dục Hải Hưng đã lựa chọn một số giáo viên được xem
là giáo viên giỏi môn Văn từ các trường cấp 3 trong tỉnh. Cùng với môn Văn,
chúng tôi vẫn phải học các môn khác, đặng theo kịp chương trình học, còn thi
tốt nghiệp phô thông nữa. Già nửa số thành viên trong đội tuyển (có tôi,
Trịnh Bá Ninh, Việt An...) học tốt cả Toán Lý, nên thời gian rảnh rồi, nhóm
này hay mang những bài toán khó (sưu tầm được, hoặc lấy từ Tạp chí Toán học
và Tuổi trẻ) thách đố nhau, hoặc chụm đầu cùng giải. Việt An thuộc diện khá
thông minh trong cách giải toán...
Thế rồi, kỳ thi giỏi văn toàn miền Bắc
năm ấy, Đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả Trần Đăng Khoa, lý do, đề
ra mở, khiến mọi người lúng túng không biết chọn thể loại nào để làm bài. Nhưng
chưa hết, khi thi vào đại học, không một ai trong chúng tôi chọn chuyên ngành
Tổng hợp Văn, hay Sư phạm Văn cả, mà phần lớn là ngành kỹ thuật (Xây dựng, Bách khoa), Sư phạm Toán,
Ngoại giao, Ngoại thương... Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt
An học cơ điện, riêng Trần Đăng Khoa nhập ngũ rồi học Trường sĩ quan lục
quân...
Trần Đăng Khoa vào bộ đội, tham gia huấn
luyện và đi học trường sĩ quan lục quân, rồi đi chiến trường Campuchia theo
quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Phnompenh, lật đổ chế độ Khmer Đỏ tàn bạo,
sau lại về Bộ Tư lệnh Hải Quân ra Trường Sa, trước khi về Hà Nội học ngoại ngữ
để sang Liên Xô (cũ) học khoa Sáng tác ở Đại học Gorky. Dù ở đâu, thì Trần Đăng
Khoa cũng vẫn là đi thực tế để sáng tác, và như vậy, gắn liền với môi trường
văn chương.
Trịnh Bá Ninh theo nghề làm báo chuyên
nghiệp ngay sau khi tốt nghiệp đại học, khi được nhận về làm phóng viên Báo
Nông nghiệp. Đây là điều kiện, để anh sớm có vài bài bút ký được trao
giải thưởng của một số cơ quan báo chí tổ chức thi thể loại bút ký. Cùng với
bút ký là sở trường, Trịnh Bá Ninh thi thoảng làm thơ, những không cho đăng ở
đâu, chỉ đọc chơi lúc cao hứng trà dư tửu hậu. Thơ anh giàu chất suy tưởng.
Quan trọng, Trịnh Bá Ninh nhanh chóng được đề bạt chức danh Phó tổng biên tập,
chuyên về nội dung, từ khi còn khá trẻ, và có thể nói, anh là một người làm báo
giỏi...
Còn Việt An, học ngành điện, vào bộ đội
và làm việc đúng với sở học của mình, ấy là chuyên về điện thuộc đại đội doanh
trại sân bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Vậy thì dính dáng gì đến văn chương, khi
nói anh là người rong chơi cùng văn chương ?
Hãy nghe anh tự bạch:
Việt An không cửa không nhà
Có người vui miệng gọi là “Việt gian”
Tuổi thơ nghèo khó, cơ hàn
Lớn lên đốc chứng dở gàn, dở ương
Quê nhà ở tận Hải Dương
Hà Nội đi xuống theo đường số 5
Nghề nghiệp đúng trăm phần trăm
Là nghề “điên nặng” hỏi thăm biết liền
Xấu trai, mốc cả mặt tiền
May trời chiếu cố, vợ hiền con ngoan
Tuổi đời Mậu Tuất không oan
Khôn đâu chẳng thấy, thấy toàn…dở hơi
Buồn vui một chút với đời
Câu thơ tếu táo nói lời tâm can !
2. Trần tình,
Sau khi đọc bài tản văn của tôi Thời
gian không trở lại, đăng trên blogtiengviet.net, Việt An đã trần tình:
“Các bạn của tôi ơi ,
thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy
thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn
Chu Nhạc)
Đúng vậy ! Thời gian không bao
giờ trở lại, chỉ có ký ức là mãi tươi nguyên. Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn
lên vào thời gian khó. Bây giờ kể lại, lớp trẻ sẽ cảm thấy như nghe như chuyện
cổ tích. Hình như một thời gian khó, làm người ta yêu quí nhau, và nhớ nhau
nhiều hơn thì phải ? Văn chương là cơ duyên, giúp cho chúng tôi trở thành bạn
học của nhau, dù mỗi người ở mỗi huyện, rải rác khắp tỉnh Hải Hưng cũ. Vào đời,
tôi chọn cho mình con đường đi không còn bóng dáng văn chương. Đã mấy chục năm,
tôi gần như không còn đọc các tác phẩm văn học. Cuối năm 2008, tình cờ khi lướt
web, tôi đặt chân đến làng Blogtiengviệt. Nơi tôi ghé thăm đầu tiên là blog của
Phạm Tâm An. Văn chương với tôi bây giờ, thực sự chỉ là những thoáng dạo chơi.
Tôi viết cảm nhận tếu táo, với vài bài mang tính giao lưu. Việc đó mang lại cho
tôi những người bạn mới, và cả những niềm vui nho nhỏ.
Tình cờ khi giao lưu blog, tôi
gặp lại bạn tôi- nhà báo Nguyễn Chu Nhạc. Nhưng, người làm tôi hiện diện trước
cộng đồng, lại là nhà báo Nguyễn Trọng Huân (người mà tôi cảm mến qua những bài
viết của anh), khi anh đã hơn một lần công khai nhắn tìm tôi trên blog, như
“tìm trẻ lạc”. Thế giới ảo xa mà gần. Đó là duyên cớ để tôi xuất hiện ở bài
viết này của Nguyễn Chu Nhạc. Những năm tuổi trẻ, có lẽ tôi và Chu Nhạc khá
long đong. Một chút sai lầm, đã làm việc học hành của tôi bị chia làm 2 khúc,
trước khi có được mảnh bằng đại học. Chu Nhạc có thuận hơn, nhưng ra trường lại
đi xa biệt, mãi vùng biên giới của tỉnh An giang. Lúc đó tôi đang trong quân
ngũ. Muốn vào khu vực đóng quân phải đi qua ít nhất 2 trạm gác được kiểm soát
khắt khe. Thật sự chúng tôi ít có dịp gặp nhau... kỷ niệm về những năm tháng đã
qua, vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 2004, tôi ra Hà Nội, đến nhà Trịnh Bá Ninh (hiện là Phó tổng biên tập
Báo Nông nghiệp Việt Nam). Ninh nhấc máy điện thoại thông báo cho các bạn, rồi
quay sang nói với tôi: “Bây giờ không còn thiếu thốn gì, nhưng tóm được
thằng bạn đến nhà nhậu cũng khó, vì ai cũng bận việc”. Ngoài trời rét đậm.
Mưa nặng hạt. Nhìn các bạn khoác áo mưa, đi cả chục km đến, tôi xúc động chẳng
biết nói gì. Hôm sau, chúng tôi tụ họp tại nhà hàng Rambo, đường Nguyễn Chí
Thanh, Hà Nội. Đang vui, bỗng nhà thơ Trần Đăng Khoa trầm ngâm: “Kinh thật !
Ba mươi năm rồi đấy!" Vâng, chính xác lúc đó là 29 năm, kể từ khi
chúng tôi rời ghế nhà trường phổ thông. Đến giờ (năm 2010) là 35 năm rồi ! 35
năm, mà như mới hôm qua. Nhớ lúc
Nguyễn Chu Nhạc xin được việc ở Đài TNVN, Trịnh Bá Ninh hấp háy bảo tôi : “Thấy
anh Nhạc về đài, các bà chưa chồng ngoài 40 mừng lắm ! Bà nào cũng nhủ thầm,
khéo lần này đến lượt mình !??” Dù rằng lúc đó Chu Nhạc mới chỉ 30 tuổi. Dân
văn chương vốn hóm hỉnh. Có vô vàn câu chuyện chọc ghẹo nhau tương tự.
Lại nhớ, Trịnh Bá Ninh là người
lấy vợ sớm hơn cả. Hai vợ chồng Ninh ở một phòng chỉ rộng 9m2, trên tầng 2, do
Báo Nông Nghiệp cho mượn, hay cấp chẳng rõ. Khi tôi đến, Ninh ngồi giữa nhà,
với tay lôi ra 1 bao lạc củ, miệng nói: “Quà “hối lộ” của nông trường , của hợp
tác xã nông nghiệp đấy, ông ạ”! Chúng tôi ngồi bóc lạc để rang. Lại với tay,
Ninh lôi từ gầm giường ra 1 cái bếp dầu, 1 can rượu trắng cùng mấy cái chén
nhỏ, rồi nói: “Ở nhà chật, sướng thế đấy. Mình ngồi giữa nhà, mà “điều hành” được
mọi việc” !? Căn phòng nhỏ của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh, là kỷ niệm
đáng nhớ một thời của không ít bạn bè, trong đó có Nguyễn Chu Nhạc. Nhạc và vài
người bạn nữa, từng lưu trú tại căn phòng đó nhiều ngày, trước khi xin được
việc làm. Tôi cứ thắc mắc, không biết tay Ninh “sáng tác” vào lúc “quái” nào,
trong khi mấy thằng bạn chưa vợ “nằm phục” ngay cạnh giường ? Vậy mà “hắn” vẫn
“sáng tác” được mới lạ !? Tác phẩm đầu tay là cậu con trai khôi ngô, tuấn tú,
hiện đang làm luận án Tiến sĩ tại Mỹ. Trong hoàn cảnh khó khăn lúc ấy, tôi thật
sự cảm phục tấm lòng của Mai (vợ anh Ninh), đối với mấy ông bạn “nửa văn thơ,
nửa báo chí” của chồng.
Lại nhớ thời đi học “miếng
cháy to hơn điểm 10”. Nhớ thời đạp xe đạp tìm đến thăm nhau, khi Nguyễn Chu
Nhạc và Trịnh Bá Ninh còn học ở trường Đại học Nông Nghiệp I. Mỗi sáng dậy,
chen nhau hứng nước đánh răng. Bao nhiêu con người xúm vào cái vòi nước chảy
như thằn lắn đái. Câu “Nhất bát, nhì ca, thứ ba cà mèn” xuất phát từ đây.
Lại nhớ bài thơ đầu tay “Núi Đôi buổi sớm” của Nguyễn Chu Nhạc, đăng
trên báo Văn nghệ, khi anh còn là sinh viên, được lấy cảm hứng từ chuyến đi
cùng Ninh, đến vùng Núi Đôi thăm tôi…Lại nhớ, những lá thư viết bằng giấy học
trò của bạn bè, với những bao thư tự chế…
Có vô vàn điều để nhớ…đã giúp
chúng tôi luôn nhớ và biết sống một cách cố gắng. Tôi vui và tự hào về các bạn
của mình. Thay cho lời cảm ơn, một lần nữa, tôi xin mượn lời của Nguyễn Chu
Nhạc để kết lại cảm nhận này: “Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao
giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối
hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu
Nhạc)"...
3. Đối thoại văn
chương,
Ngày ấy, liền dăm năm
(2009-2013), Blog Tiếng Việt (BTV) hưng thịnh lắm, bởi xứ ta chưa biết đến
facebook, vả lại, BTV với cấu trúc, tính năng của mình rất phù hợp với văn
chương thơ phú, tính tương tác lại cao, nên dân văn chương chữ nghĩa biết chút
vi tính (IT) đều lập trang riêng ở đây. Việt An mầy mò vào đây đọc bài trước cả
tôi. Tuy nhiên, Việt An chủ trương không lập trang riêng mà chỉ vào đọc bài và
ghi cảm nhận khi thích với tư cách là bạn đọc. Anh không muốn phụ thuộc, bởi
nếu là blogger thì phải thường xuyên đăng bài, rồi trả lời cảm nhận của người
khác khi họ vào trang của mình, và cũng phải sang trang nhà họ chào hỏi cho
phải phép. Đại khái, khá mất thời giờ và phiền hà, đấy là chưa kể "tai
nạn" vì phát ngôn không khéo làm phật lòng người. Thích rong chơi với văn
chương mà lại không muốn "chịu trách
nhiệm", Việt An khôn ngoan chọn vai làm khách (bạn đọc). Trang cá nhân
ở BTV thì ngàn vạn, nhưng Việt An thường chỉ vào đọc một số trang cá nhân của
người quen, bạn bè mà anh quan tâm, quý mền như: nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà
văn Nguyễn Trọng Huân, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn
Vĩnh Tiến), nhà thơ Chử Thu Hằng, nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhà văn Nguyễn
Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa, nhà thơ Trần Hồng Giang ... và một số cây bút
khác như Phạm Tâm An, Phạm Thu Hà, Phạm Huy Việt, Phan Bích Thủy, Nhược Mộng,
Vũ Trọng Hoài, Nguyễn Tùng Quân, Văn Lâm An, Hoa Yến Lan, Thoại Lê v.v... Riêng
với tôi, bạn học cũ và thân nhau nên Việt An hầu như không bỏ sót bài nào. Và
một khi để lại bút tích, Việt An thấu đáo, sắc sảo lắm, chứ không phải khen đại
khái cho đẹp lòng nhau như mọi người hay
làm..
Chỉ bàn riêng trên trang của
tôi (Ngẫm & Viết), Việt An đã để lại nhiều cảm nhận, mà
thực ra nhiều trong số đó là những bài viết hay, cảm nhận văn chương cho thấy
sự am tường, sâu sắc, nhiều khi không hẳn cho bài viết cụ thể nào, mà chỉ mượn
cớ để rồi bàn về các vấn đề về văn hóa, văn học, lịch sử, khoa học thường thức,
lối sống xã hội, ẩm thực... Có thể, phân biệt những cảm nhận của Việt An thành
hai loại...
Thứ nhất, đối thoại về văn
hóa xã hội, và văn chương.
Chẳng hạn, khi tôi đăng loại ký
sự sau chuyến đi Nhật Bản, bàn về hội chứng ngại tiếp xúc xã hội của giới trẻ
Nhật hiện nay, Việt An bàn góp: "Khi xã hội phát triển luôn có những hệ lụy của nó. Con người
dường như lại cô đơn hơn trong xã hội hiện đại. Không chỉ ở Nhật, ngay ở Việt
Nam thôi, ngày xưa nhận được lá thư là mừng lắm. Tình người như hiện lên qua
nét chữ, màu mực. Bây giờ chỉ cần điện thoại, không mấy ai còn viết thư nữa. Có lúc
tôi lại thèm nhận một lá thư với cái phong bì tự chế ngày xưa đấy".
Hay như, tôi đăng bài luận Quần cư, Việt An
bình:"Bây giờ, con người ta vẫn sống quần cư. Chỉ khác, cái quần cư bây
giờ mang dáng dấp quần cư kiểu...đàn nhím. Những con nhím sống với nhau
luôn giữ khoảng cách. Nó không xa nhau quá, làm mất đi hơi ấm lúc Đông về. Nó
cũng không gần nhau quá. Khi quá gần nhau, gai con này có thể làm đau con kia,
và đau luôn chính mình. Quần cư kiểu đàn nhím, ngày càng rõ nét hơn trong
xã hội hiện đại. Hình như trong hôn nhân cũng có khá nhiều hạnh phúc kiểu...tổ
nhím!"...
Về văn chương, khi tôi đăng mấy truyện Hiên mưa, Ngõ trúc và Chúa
tể của núi tuyết, Việt
An nhận xét: "Đọc văn mỗi người có cảm xúc rất riêng. "Hiên mưa",
"Ngõ trúc" là cách viết tự sự , mang tính hoài niệm. Cảnh vật,
con người, không gian, thời gian, quá khứ, hiện tại đan xem. Mọi thứ như rõ
nét, lại như chìm đi, lãng đãng, mờ ảo, sương khói. Nhân vật chỉ thấp thoáng,
ẩn hiện, lúc có, lúc không. Kết cấu như là lỏng lẻo, mong manh, kết lại với
nhau chính bằng sự liên tưởng xuyên suốt. Sự liên tưởng ấy tạo nên cái lo-gic,
suy tư, thấm đẫm xúc cảm kỉ niệm của con người, khi tìm lại dấu chân xưa...Chất
thơ cũng phảng phất, ẩn giấu trong con chữ, mạch chuyện, tạo nên nét đẹp của
thẩm mỹ văn chương, cũng như nét lãng mạn riêng. Nói chung, NCN viết văn
giàu cảm xúc và chất thơ. "Hiên Mưa", hay "Chúa tể của
núi tuyết", có nhiều đoạn làm người đọc, như bị cuốn theo, thả hồn
cùng vẻ đẹp mộng mị của văn chương.... Đây là cách viết khó, thể
hiện tác giả (NCN) là người cầm bút chắc tay. Kiểu văn này là văn dành cho
"người đọc chậm". Cảm xúc người đọc chín dần cùng với sự ngẫm
ngợi và suy tư...".
Khi tôi đăng
bài thơ Nợ quê (30.12.2009), Việt An bình: "Tôi đã
nói, văn của tác giả là văn viết cho "người đọc chậm". Quả là thế, ẩn
chứa trong những con chữ là sự ngẫm ngợi và suy tư. Chất thơ, sự lãng mạn thấm
đẫm trong văn phong. Sự sâu lắng và lãng mạn bây giờ lại hiện diện trong thơ
NCN. Với ngôn từ giản dị, không cầu kỳ, không làm dáng, mà sự truyền cảm cứ len
vào lòng người đọc. Phạm Tâm An đã khá tinh, khi trích dẫn cặp lục bát rất
hay của bài thơ :"Đời người sao lắm bến mê/ Một đi, một đợi, một
quê, một tình!" Cuộc đời dù có bao nhiêu bến mê, thì quê hương
vẫn là tất cả những bến mê cộng lại."
Hay như, tôi
đăng bài thơ Cán Cấu chợ phiên (28.02.2010), Việt An bình:
"Bài thơ “Cán cấu chợ phiên”
của tác giả, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Chợ tết” nổi tiếng của Đoàn Văn
Cừ. Phiên “Chợ tết”, dưới ngòi bút của Đoàn Văn Cừ xưa hiện lên sống
động, đầy cuốn hút. Sinh hoạt bình thường của “Chợ tết” trở nên thơ… đến bất
ngờ :“Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha./ Thúng gạo nếp đong đầy như núi
tuyêt./ Con gà sống mào thâm như cục tiết,/ Một người mua cầm cẳng
dốc lên xem”(Đoàn Văn Cừ). Thơ “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ, mang nét
quen thuộc của một phiên chợ tết vùng xuôi. Bài “Cán cấu chợ phiên”
của NCN, mang đến một khám phá mới cho bạn đọc, về sinh hoạt chợ phiên, nguyên
bản của vùng cao. Đó là điều mới mẻ và thú vị. Hơn thế, bút pháp thể hiện của
tác giả (NCN) cũng khá lạ. Địa danh “Cán cấu” được lặp lại liên tục
trong suốt bài thơ, mà không có cảm giác đơn điệu. Cứ sau mỗi từ “Cán cấu”, lại là nét phác họa lạ lẫm,
mới mẻ về văn hóa chợ phiên vùng cao. Cách thể hiện này hay, nhưng khó. Nếu sự
khắc họa sau mỗi điệp ngữ không rõ nét, không đủ sức lôi cuốn, bài thơ sẽ giảm
sức hấp dẫn vì rơi vào cảm giác đơn điệu. Sự vững vàng trong cách thể hiện của
tác giả, đã biến cái khó, thành cái hay, thành nét độc đáo riêng của bài thơ... “Cán
cấu chợ phiên”, là hình ảnh sinh hoạt văn hóa tươi rói, lấp lánh sắc
màu, và đầy ắp sự kiện. Tôi thoáng chút bỡ ngỡ, như người đi lạc vào một thế
giới đầy mê hoặc:“Cán Cấu leng keng sứ sành đồng sắt/ Cán Cấu gà quác,
ngựa hý, chó sủa, lợn kêu/ Cán Cấu ngóc ngách tiếng cười rúc
rích/ Cán Cấu Tây- Tàu, Mông- Việt hả hê”... Phảng phất ở đó là nỗi
niềm riêng -vui, buồn riêng, tạo nên một khoảng lặng trong cái ồn ã náo nhiệt
đời thường “Cán Cấu, ai đó cúi gằm ngậm ngùi tình cũ/ Cô giáo Kinh
rơm rớm lén chùi nỗi nhớ xuôi/ Mẹ rồi con và ngựa đôi mỏi chờ mong ngóng
chủ/ Cán Cấu chợ phiên còn lại mỗi mình tôi”... Lắng lại trong khổ
thơ cuối là sự suy tư , như rõ nét, như mơ hồ…mở ra cho bạn đọc một khoảng mênh
mông của sự liên tưởng, về cái còn, cái mất, cái đậm nét, cái nhạt phai, của
văn hóa, của tâm hồn, và tình cảm trong mỗi con người."...
Hay như, nhân một lần bàn về thơ sinh viên, thơ tình,
Việt An viết lại mấy bài thơ của tôi và Trịnh Bá Ninh theo trí nhớ của mình, và
sau đó đã xảy ra một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa những người bạn với
nhau trong BTV (tên gọi vui là Xóm Lá) Trần Đăng Khoa,
Trần Hồng Giang, Chử Thu Hằng, và tôi. Việt An khơi mào: "Thơ Lục
bát dễ về vần điệu, nhưng viết được hay rất khó. Xem như cái "rất
khó" ấy đã được giải quyết bởi bài thơ "Tôi về lại xứ hoa Đào"
của NCN". Trần Đăng Khoa cũng khen bài thơ này,
thì Trần Hồng Giang tếu táo chọc phá, Việt An chen ngang: "Trần Đăng
Khoa khen Chu Nhạc là khen thật đấy. Dù Trần Đăng Khoa có là Thần Đồng thơ, thì
tới thời điểm Chu Nhạc viết bài thơ trên, TĐK chưa có bài thơ tình nào khả
dĩ. Không chỉ làm thơ tình yêu, mà việc biến thơ tình thành hành động
"cách mạng" trong tình yêu, CN vẫn hơn TĐK vài bậc. Khoa không khen
CN mới là lạ! Nói nhỏ, hồi đó TĐK, và cả Việt An còn rất i tờ trong tình yêu,
thì CN đã có "của ăn của để" rồì"... Trần Hồng Giang tiếp tục khiêu chiến: "Anh Việt An! Em có một anh bạn văn
chương, một lần tán chuyện về nhà thơ Trần Đăng Khoa, anh này bảo: "Thằng
cha này hầu như chả có bài thơ tình nào, mà có thì đọc cũng chả ra hồn, thế mà
lấy được cô vợ xinh thế chứ! Hóa ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ! ". Việt An hùa vào
chọc Trần Đăng Khoa: "Trần
Hông Giang! Công bằng mà nói, bài "Thư tình của người lính Biển",
rất đáng đồng tiền bát gạo. Bài đó được phổ nhạc và trở thành một trong những bài tình ca hay nhất về lính
biển. Không những thế, tụi "lính nhậu" cũng rất thích, vì nó được
"tái chế" rất vui nhộn: "Sau chia tay, anh ngồi trong quán
nhậu. Rượu 1 bên và bia 1 bên. Rượu nồng nàn, bia lại dịu êm. Anh như con tầu
lắc sóng cả 2 thứ. Rượu và bia...còn em thì quên". Nếu nói TĐK không
có bài thơ tình nào ra hồn, thì cũng chưa hẳn đúng. Với bài "Thơ tình
người lính biển", làm bạn đọc nghi ngờ: Có khi lão Khoa có cả kho thơ
tình chưa công bố cũng nên.".
Và Việt An lại mượn tôi trêu Khoa : "@Chu Nhạc! Tôi đang lấy bài
"Thư tình của người lính biển"
làm "lá chắn", che cái "gót chân Asin" của Lão Khoa, thì CN
lại "tố khổ" giúp Lão Khoa. Khoa viết rất ít thơ tình, mà
vẫn cứ lấy được vợ trẻ, đẹp. Đúng như anh bạn của Trần Hồng Giang nói:"Hóa
ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ!". Đến mức, Trần Đăng Khoa không nhịn nổi phải lên tiếng: "Bà
con Xóm Lá! Tôi rất
kính trọng bà con (không phải khen khéo hay khen đểu) vì sự thông minh lọc lõi
đến kinh hồn. Thế mà toàn những bậc tiên đế quái quỷ trong từng trải lại bị ông
đồ nỡm. Bài thơ này ông đồ mới làm, hoặc chỉnh lại từ cái khung cũ mờ nhạt hoặc
méo mó. Nếu Nhạc có bài thơ này thì chắc lão đã khoe và Lão Khốt cùng Việt An
biết ngay. Nếu Nhạc có bài này thì ngày xưa gái chết như rạ. Nhưng ngày ấy, Lão
Chu Nhạc yêu nhiều nhưng chả "tóm" được ai. Gái bay hết, chỉ có lão
héo hắt, sống dở chết dở. Thơ Lão ta hồi ấy như thơ ông cụ. Bây giờ lão mới nõn
nường đấy.". Việt
An đứng hẳn về tôi, bênh: "@Lão Khoa!Ừ nhỉ! Sao hồi đó Lão Chu Nhạc khoe bài thơ
nhỉ. Giống như Lão Khoa khoe tiểu thuyết "Bước chân thứ nhất" ấy. May mà lão Khoa khoe từ ngày ấy. Nếu
không, sau này mọi người bảo Lão Khoa nói dóc. Lão Nhạc không khoe, có thể
vì lão ấy ngượng ngùng. Mới tí tuổi đã viết thơ tình, cũng ngại chứ. (Thời đó,
con trai vừa mới lớn, mặt còn măng sữa, được "đứa" con gái nào đó gọi
bằng anh, là sướng tê, sướng tái rồi. Sướng thộn cả mặt ra ấy chứ). Vì ngại,
nên Lão Nhạc "biển thủ" thơ tình, để...đọc một mình. Bây giờ lão Nhạc
dắt "con" ra trình làng, cũng phải cho "con" ăn mặc tươm
tất một chút chứ. Miễn đúng là "con" lão Nhạc, sinh ra từ ngày ấy là
được."...
Đại khái vậy. Thực ra, bỏ qua các chi tiết đùa vui
tếu táo mang tính cá nhân, là những suy nghĩ nghiêm túc về văn thơ và mối tương
tác của nó với cuộc sống...
Thứ hai, Việt An làm thơ bông lơn, hoặc tiếp nối thơ của Chủ bút, hoặc
đối thoại thơ với một số blogger khác trong phần ghi cảm nhận của mình...
Ví như, bài tản văn ngắn của tôi nhân đọc entry của
blogger MTV (bài viết của Phạm Thu Hà)
về hương vị đầu thu Hà Nội, Việt An đùa: "Cháu lớn lên rồi - xinh quá
thôi/ Má hồng, mắt biếc - Thắm đôi môi/ Ước chi, chờ chú trăm năm
nữa/ Khi ấy cùng già... sẽ xứng đôi.".
Hay như, Việt An bông lơn cái bút danh của Nguyễn Vĩnh
Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến) là BẢO THƯ TUỆ NHÃN băng
cách lấy từng chữ ra thành thơ: "BẢO ở nhà thiền lại đến đây/ THƯ
phòng bỏ ngỏ nhện giăng mây/ TUỆ minh mấy chữ thơ thành phú/ NHÃN mãn
nhìn nhau rượu rót đầy...", cũng là ngầm chọc ngoáy cái bệnh la cà thi
phú của bậc đàn anh này...
Hay như, Việt An đùa Trần Đăng Khoa: "Một trong
những giai thoại "lùm xùm" nhất là chuyện TĐK lấy vợ. Chương
trình "Gặp nhau cuối tuần" của Truyền hình VN, làm hẳn
một buổi phát sóng về sự kiện này, theo cách nhìn hài hước. Khi TĐK có
con, báo An Ninh Thế Giới có hẳn một bài viết kín cả trang
báo. Kèm bài viết là bức hí họa, với hình ảnh TĐK vừa bế con, vừa quậy bột,
Ngón chân cắp cái bàn là (ủi), đang là (ủi) quần áo... dưới nền nhà (!?)Nhìn
cảnh huống đó, tôi bật cười, và táy máy ghi vào cạnh bức hí họa mấy câu: "Khoa
ơi lấy vợ sướng chưa Khoa?/ Khói bếp cay cay - nước mắt nhòa/ Tay bế con thơ, tay quậy bột/ Hỏi
rằng, có tiếc tháng ngày qua ?". Hỏi chơi vậy, tôi tin rằng TĐK luôn hạnh phúc với
tổ ấm của mình.",
Hay như, dịp xuân năm 2012, tôi đăng mấy bài thơ
xuân Giêng hai, Uống rượu ở Sơn La, vào
ghi cảm nhận, Việt An đã đối thơ với một nữ blogger ở Đà Nẵng-Mimosadn-đồng nghiệp với tôi. Lấy khổ
kết bài Uống rượu ở Sơn La "... mong thời
gian chớ qua mau/ nên câu thủ thỉ nên bầu tâm can/ kẻo đêm tỉnh giấc
mơ màng/ em thì chẳng thấy bẽ bàng riêng ta...", Việt An nối
vần "Quờ tay chạm phải vợ nhà/ Tiếc hùi hụi - rượu Sơn la nửa
chừng...!", Mimosadn đùa: "Rượu Sơn La uống nửa
chừng/ Uống vào rồi thấy... lừng khừng mới hay ...". Việt An
tiếp: "Rượu nào mà rượu chả cay/ Uống vào mới thấy rất hay,... khi
mà...". Mimosadn nối:" Hăng lên, hào mốt, chẳng
thà/ Năm xu, đỡ tốn, lại là... rất hay...".
Hay khi bàn vui với bài thơ Giêng hai của
tôi, Mimosadn khiêu khích: "Giêng hai anh thả bùa thơ/ Để cho các
chị nằm mơ ...giật mình!?", Việt An nhào vô, nối vần: "Riêng
em nhớ chè Cung đình/ Dạo Phố Đà nẵng... thình lình gặp mưa/ Hỏi
rằng, mưa ướt hết chưa/ Hay là chỉ ướt chỗ thưa... chỗ dầy?"...
Nhớ một dạo, BTV bị rớt mạng, lỗi hệ
thống, không hiển thị đến mấy tuần, mọi người nhắn tin cho nhau, thở ngắn than
dài vì buồn chán, vì mất đường giao lưu,... Việt An trêu mọi người, làm bài thơ
Tình
Blog
Tưởng đâu “bờ lốc – bờ leo”
Phen này chắc bị phăng teo mất rồi
Lão ông nhấp nhổm đứng ngồi
Lão bà thắc thỏm như hồi đang yêu
Mấy ngày mới tạm treo niêu
Xem ra các lão tiêu điều ngẩn ngơ
Lão ông mặt mũi bơ phờ
Tay ôm bình rượu, tay sờ…củ khoai
Lão bà chẳng biết nhớ ai ?
Nửa đêm mở máy, bấm hoài mà rên!
May mà hết rủi lại hên
Lão ông lại được…ở bên lão bà
Canh khuya lại được qua nhà
Cứ như…đi bắt trộm gà - thích ghê!
Dẫu cho chẳng hẹn, chẳng thề
Ai yêu “bờ lốc” thì về với nhau…
Đại khái, những cuộc bông lơn thơ phú kiểu như thế của
Việt An trên Xóm Lá ngày ấy rất nhiều,... Sau này, Việt An
tham gia Facebook, tôi để ý, Việt An vẫn sử dụng lối diễn đạt hài hước này,
phần lớn để châm biếm một cách sâu cay và hiệu quả những thói hư tật xấu và các
biểu hiện tiêu cực trong xã hội.... Âu cũng là hay!?...
4. Chút tình thơ văn.
Là bạn thân với nhau ngần ấy năm, tôi
biết, dù chủ trương không theo nghiệp bút nghiên, không bị bả văn chương quyến
rũ, nhưng thâm tâm, văn chương vẫn theo đuổi, ám ảnh Việt An trong tiềm
thức. Dù nén lòng, không bộc lộ, nhưng mỗi khi, vô tình hay hữu ý, tiếp
xúc với môi trường văn chương, thì cái mầm non văn chương thơ phú thuở học trò,
không lớn thành cây nhưng cũng không thui chột, nó lại cựa quậy trong lòng anh,
lớn lên một chút. Việc Việt An nhớ và thuộc nhiều bài thơ của tôi và Trịnh Bá
Ninh làm từ thời sinh viên, cả những bài thơ Trần Đăng Khoa xuất bản miệng lúc
bạn bè vui đùa (mà chúng tôi đã quên, hoặc chỉ nhớ lòm bõm), điều đó, vô
hình chung, tố cáo, rằng anh chưa bao giờ nguôi chuyện văn chương, mà chỉ cố
tình lờ đi thôi. Chính Việt An là người đã giúp tôi tìm lại được một số bài thơ
mà tôi sáng tác từ ngày trẻ trai, đặng nhuận sắc, đưa vào mấy tập thơ xuất
bản (Chút Thu-NXB Văn học 2011, Hiên Lan-NXB Văn học 2012).
Có lần, nhân bàn về thơ sinh viên, thơ tình, Việt An đã không cầm lòng
nổi, trình làng một bài thơ của mình.
Bài thơ Em có về quê
cũ?
Em có về quê cũ
không em ?
Tối đón trăng lên, nước về -
sông Đáy hát
Lúa con gái đang thì - xanh bát
ngát
Cánh đồng quê hương cỏ dại thơm
nồng
Bờ dâu xưa - ngày ấy mẹ trồng
Giờ đã biếc muôn ngàn con mắt lá
Nong tằm chín - sợi tơ vàng óng
ả
Sớm mai hồng chim hót ở trên
cao.
Đêm mùa hè - sông Đáy rụng đầy
sao
Em gánh nước - gánh sao về lấp
lánh
Đi cùng lối, gặp nhau - em khẽ
tránh
Miệng cười giòn, ánh mắt cứ đung
đưa
Không biết bây giờ em lấy chồng
chưa ?
Mà lâu quá không về thăm quê cũ…
Mái đình cong, cây đa già bóng rủ
Ngôi chùa Hà cờ ngũ sắc tung bay…
Mỗi dịp Xuân về trời đất như say
Người trảy hội nối nhau về bến
Đục
Có em không giữa dòng người nao
nức?
Mà anh tìm - anh chẳng thấy em
đâu ...
…Về đi em - Anh đón ở bên cầu
Bến xe khách vẫn ngay đầu phố
huyện
Về đi em - để một thời lưu luyến
Sẽ ấm lòng những lúc phải xa
quê…
Bài thơ nhẹ nhàng, duyên dáng,
song có phần dàn trải. Tôi nghĩ, đây không phải là cái tạng của Việt An. Phải
chăng, anh cố làm khác đi, như thể muốn nịnh ai đó, nên vờ nói khẽ cười duyên,
bởi Việt An là con người của lý trí, của sự súc tích và sâu sắc. Bằng chứng,
trước khi lộ diện bài thơ này, anh đã phi lộ bằng mấy câu thơ trong một bài thơ
nào đó của mình, như: "Một thời mái tóc em xanh/ Một thời sỏi đá
cũng thành ngẩn ngơ..." và "Một thời như lạ như quen/ Một
thời sóng sánh như men rượu nồng/ Ngày em cất bước theo chồng/ Nhớ em
như thể - mình không phải mình...".
Bản tính này đã từng được Việt An thể hiện trong thẩm và
bình luận văn chương, hay như trong dịch thơ Hán Nôm. Sau đây là mấy bản dịch
thơ Đường của Việt An:
Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
Hạc vàng người cưỡi
khuất xa rồi,
Hoàng Hạc lầu còn với
nắng thôi
Muôn nhớ hạc xưa nay
vắng bóng
Ngàn thương mây cũ vẫn
còn trôi
Hán Dương mây tạnh cây
soi bóng
Anh Vũ hương nồng cỏ tốt
tươi
Bóng đổ chiều buông quê
chợt nhớ
Sông buồn khói sóng dạ
đơn côi.
Hay như bài Hồi
hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương,
Đi xa từ nhỏ, già quay
về
Tóc bạc, vẫn nguyên chất giọng quê
Lũ trẻ đứng nhìn đâu có biết
Chào cười hỏi phải khách sơn khê ?
Hay như bài Đề
Đô thành Nam Trang của Thôi Hộ,
Nhà cũ, cài then, nay
vắng không
Nhớ ai gương mặt ánh đào
hồng
Ngẩn ngơ tự hỏi người đâu nhỉ ?
Chỉ thấy đào xưa cợt gió Đông.
Việt An là người có kiến văn phong phú.
Có lần, bàn luận về văn hóa ấm thực (Canh chua cá rô bông súng),
tôi kết bài viết: "Mà đã là văn hoá, thì dù có mệnh danh văn hoá
ẩm thực, cũng đâu phải chỉ là chuyện ăn uống đơn thuần, ở đó, còn có thổ ngơi,
phong tục, hồn cốt, tính cách con người một vùng đất hun đúc mà thành!...". Việt
An khoái quá, bàn thêm: "Kết rất hay. Văn hóa bắt đầu từ những gì giản
dị nhất. Đọc bài của bạn, tôi chợt nhớ đến món "mắm cáy" quê tôi. Mời
bạn "nếm thử" nhé : ...Mắm Cáy, được làm từ con cáy, tất nhiên
rồi, không được lẫn cua, hay cá trong đó. Cách làm mắm ngon là cả một nghệ
thuật dài dòng, nên tôi không nói đến ở đây. Tôi sẽ nói về chuyện thưởng thức
mắm cáy. Mắm Cáy ngon, bỏ vào đó một vài trái ớt chỉ thiên, vắt chanh vào,
dùng đũa quậy đều lên… Bạn nhớ quậy theo chiều kim đồng hồ nhé, nếu quậy ngược
lại, sẽ không ngon đâu !!?. Bạn dùng nước mắm này để chấm rau muống luộc, hoặc
ngồng cải luộc thì thật tuyệt vời. Rau muống ngon nhất, là rau hái sau một đêm
mưa rào. Còn ngồng cải, là lọai chưa kịp trổ hoa kìa, chứ loại “cải ngồng nhuộm
nắng chân đê”, nở hoa vàng rực rồi, không ăn được.
Mắm Cáy - món ăn dân dã,
không đơn thuần là món ăn, mà còn là văn hóa và triết lý sống. Chắc các bạn
cũng từng nghe những câu thành ngữ: “Nhát như cáy”, hoặc “Dùi đục
chấm mắm cáy”, hay như “Ăn cơm mắm cáy, ngáy o o. Ăn cơm với giò, lo
ngay ngáy”. Những câu thành ngữ ấy, đều có nguồn gốc từ…mắm Cáy.
Trai gái quê tôi, khi yêu
nhau, những nụ hôn mà thiếu mùi mắm Cáy, thì cứ như thiếu đi sự mặn nồng, thấy
nhàn nhạt làm sao ấy (!?). Bây giờ ở quê có internet rồi. Nghe đâu, dân làng
tôi bàn nhau đưa mắm Cáy lên mạng, xây dựng hẳn một trang web hoành tráng, có
tên miền là “Mắm Cáy chấm cơm” (Mamcay.com). Mong sao, mắm Cáy được đứng ngang
hàng với các loại mắm trên thế giới…mắm...".
Chuyện ẩm thực, bàn chơi vậy...
Bàn về thơ Việt
An, ngoài những câu thơ đùa vui tếu táo kiểu xướng họa, hẳn sẽ
không thấy một Việt An sâu lắng, chắt lọc. Gần đây, vô tình, tôi lượm được vài
bài thơ của anh, và nói kiểu vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên "Có thể
chứ, tiên sư anh Tào Tháo".
Vậy ta xem Việt
An sâu lắng ra sao:
Thoáng quê xưa
Mỗi lần về lại quê xưa
Thấy người quen cũ - cứ thưa vắng dần
Bông hoa cúc nở tần ngần
Sắc vàng ngơ ngác - tắt dần cuối thu
Đồng xa vẳng tiếng chim gù
Chuồn kim đá nước, ao tù rêu xanh
Hoe vàng một chút nắng hanh
Đàn gà xao xác bên mành giậu thưa
Quê nghèo cháy nắng, bạc mưa
Mới về, lại thấy - như chưa được về
Cải ngồng nhuộm nắng chân đê
Thoảng hương cốm mới bay về trong mơ...
( Mùa Thu 2007)
Bài thơ gam
buồn, thoảng như một tiếng thở dài nhè nhẹ, nhưng đọc lại, thì da diết làm sao.
Việt An thầm nhủ lòng mình mà như nói cho tôi, cho bạn, cho biết bao người từng
có thời đi học ở quê, lập thân xứ người, đi xa lâu ngày trở lại. thấy làng quê
thay đổi không cưỡng nổi, khi mà ký ức tuổi thơ vẫn tươi nguyên...
Và đây nữa. bài “
Gởi
nhớ về quê”
Cuối tuần em sẽ về quê
Thả hồn, tôi lại muốn về cùng em
Quê nghèo - chốn cũ - lạ quen
Chiều buông - khói tỏa - lửa nhen ấm
lòng
Gởi về một chút nhớ mong
Ngọn tre treo mảnh trăng cong cuối trời
Ao làng chín mọng sao rơi
Mái gianh nghiêng cả một thời ước mơ.
Gửi về một thoáng tuổi thơ
Bạn bè một thuở, bây giờ nơi đâu
Nước sông còn vỗ chân cầu
Lá sen, ai có đội đầu che mưa ?
Tiếng gà còn có gáy trưa
Em còn nhớ lối rào thưa sang nhà?
Gửi em chút nhớ làm quà
Cay cay khóe mắt, nhạt nhòa bóng quê.
(08/2008)
Hay như, bài thơ Có khi,
làm như đùa ai đó, lúc dỗi bõ nhau, nhưng ở đó, ta lại thấy chiều sâu tâm thức:
Có khi em rất dễ thương
Ngon như thể trái ổi ương đầu mùa
Có khi em nắng, em mưa
Đang bão táp, bỗng dạ thưa ngọt ngào
Có khi em, có khi nào,
Hai ta mụ mẫm lạc vào trong nhau?...
Đã có đôi lần,
lúc trà dư tửu hậu nhóm bạn thân với nhau, tôi đùa Việt An nhưng thật lòng "Ông
nên lục kho, đào bới mọi xó xỉnh, lôi hết của nả của mình ra, lựa chọn, nhuận
sắc, in một tập cho vui... Tôi sẽ viết lời Tựa
sách". Việt An ngỏn nghẻn, nụ cười khó trên gương mặt vốn khắc khổ,
nghiêm túc của anh: "Ờ... thì cũng khó... Tôi cũng đã từng nghĩ đến...
nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu?... Bởi thơ tôi, như mọi người bảo, cứ cho là
hóm hỉnh đi chăng nữa, song mỗi câu, mỗi bài đều gắn với cảnh huống của nó...".
Tôi thấu hiểu điều này, chia sẻ với Việt An: "Tôi
biết bắt đầu từ đâu rồi... Ông hãy cứ bắt đầu bằng ý tưởng về một cuốn sách của
mình... để tôi thử làm một phác thảo về ông cái đã ...".
Chẳng hay, rồi
Việt An có dính bả văn chương, thơ phú?
Ta hãy cùng nghe
Việt An giãi bày tâm can:
“Văn
chương nói chung và thơ ca nói riêng, vốn là một thế giới rộng lớn, mông lung,
mà sự sáng tạo ở đó là không giới hạn. Với người ngoại đạo như tôi, thì thế
giới ấy càng lạ lẫm. Riêng với thơ ca, đã có đủ cách định nghĩa, từ hàn lâm
huyền bí, đến bình dân, và cả những định nghĩa tếu táo về thơ; càng đọc, tôi
càng lơ mơ, không biết thực sự “Thơ là gì ?”. Đọc định nghĩa về thơ chưa đủ,
tôi đọc thơ. Và thế là tôi rơi vào cái biển chữ, mà chẳng biết đâu là bờ. Đang
loay hoay trong thế giới thơ, vừa hấp dẫn, vừa rối rắm ấy, tôi bắt gặp bài thơ
“Vảy vàng” của nhà thơ Triệu Nguyễn. (Triệu
Nguyễn, tên thật là Nguyễn Triệu,
sinh năm 1947, quê Hải Dương, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam).
Bài thơ giản dị như lời tâm sự, giãi bày về nghiệp thơ và về thơ.
Bây giờ không còn là thời đại của thơ ca, bởi con người hiện nay bận rộn, và có
nhiều điều cần quan tâm hơn. Nhưng, ngay cả khi người ta quan tâm tới thơ nhất,
cũng không mấy ai sống được bằng thơ. “Thôi, đừng huyễn hoặc nữa/ Làm thơ mà
làm gì?/ Thơ bày trong quán sách/ Bạn đọc nhìn … quay đi!”. Đó là thực trạng có
thật, khi thơ nay trở thành món ăn tinh
thần khó bán. “Tất cả giá đều tăng/ Chỉ có thơ là rẻ/ Nhà thơ sống bằng chi?/
Nhuận bút ư? - Nghỉ khoẻ!”. Phàm là nhà thơ, không mấy ai có đời sống khá giả.
Nếu có khá giả, cũng không phải khá giả từ thơ. Nhà thơ tinh tế trong con chữ,
nhạy cảm trong giao tiếp, nhưng lại không mấy ai nhạy bén trong công cuộc mưu
sinh. “Có nhà thơ đích thực/ Từng húp cháo cầm hơi/ Lênh đênh trên biển chữ/
Mung lung trong sự đời”. Thực tế đã chứng minh:“Dẫu đốt trăm thiên thạch/ Soi
mặt các nhà thơ/ Ai kẻ giàu, hiếm thấy/ Tự ngàn xưa đến giờ?”. Đọc đến đây, hẳn
bạn đọc không khỏi suy tư về nhà thơ, và nghiệp thơ của họ. Bài thơ “vảy vàng”
thoáng một chút gì đó, như là chua xót, như là hài hước, mang tính trào lộng,
cho sự trớ trêu của danh phận nhà thơ.
Nếu coi làm thơ là một nghề, thì đó là nghề mang tính duyên nợ, chứ không
hẳn là nghề kiếm sống. Tuy vậy, thơ cũng đã làm vinh danh nhiều người, dù cái
danh ấy không làm khá hơn đời sống vật chất của họ.Với một số người khác, thơ
trở thành cơ duyên giúp họ hanh thông trên đường đời, với những công việc, khác
với việc làm thơ. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, thơ trở thành cứu cánh, nâng
đỡ con người, giúp con người “vịn câu thơ mà đứng dậy”. Hiếm có nghề nào khốn khó,
và đa đoan như nghề thơ; Cũng hiếm có nghề nào mà sự lao động lại tự nguyện và
đam mê đến thế. “Ôi, cái nghiệp lạ lùng/ Đa đoan và khốn khó/ Đã vắt, vắt kiệt
mình/ Mà yêu không thể bỏ”. Trong một ý nghĩa nào đó, thì nghề thơ còn là nghề
của sự cô đơn. Thơ vốn dĩ không phải là sản phẩm của lao động tập thể. Dù hạnh
phúc, hay khổ đau, thì nhà thơ, luôn là người độc hành trên con đường của mình.
Thơ mang trong nó vẻ đẹp quyến rũ đến mê hoặc. Thơ ẩn chứa niềm vui, hạnh
phúc, nỗi đau, sự cô đơn của bao kiếp người; hòa vào trong đó là hương thơm của
hoa, mùi ngai ngái của cỏ dại, mùi nồng của mồ hôi, vị mặn mòi của nước mắt…Thơ
lấp lánh bình minh, dịu ngọt ánh
trăng, óng ánh bùn đất…Thơ còn đó, màu
mực của đêm, tiếng thét gào của bão tố. Thơ ôm trọn cõi nhân sinh và cả sự hỗn
mang của vũ trụ…Thơ là tinh túy của nghệ thuật ngôn từ. Có lẽ vì thế, mà nhiều
nhà thơ, yêu thơ đến quên mình, yêu đến ma mị – như là cái nghiệp đã vận vào
thân vậy.
Với đa số người yêu thơ, thì thơ là người bạn tâm tình, biết lắng nghe,
chia sẻ cảm xúc buồn vui…Thơ nâng giấc tâm hồn. Thơ lưu giữ cho nhau bóng hình
kỷ niệm. Có điều gì như là nghịch lý,
khi nói bây giờ không phải thời đại của thơ ca, trong khi số người làm thơ, và
số tập thơ in ra hàng năm, đạt mức kỷ lục. Theo thông tin báo chí, mỗi năm có
cả ngàn tập thơ được in ra. Đó là chưa kể thơ không in thành tập, được đăng
tràn ngập trên các trang web và blog cá nhân. Thơ vẫn như mạch nước ngầm, âm thầm chảy, hiến dâng cho đời.
Gần đây, có nhiều người tìm cách làm mới thơ. Điều đó là cần thiết.
Nhưng, không ít người, đã cố gắng “làm mới thơ” đến mức lập dị, thoát ly hoàn
toàn khỏi những giá trị truyền thống. Những câu thơ tắc tị, tối mò kiểu bí
hiểm, hoặc sáng choang, xoang xoảng như kèn đồng, có gây ra một chút tò mò ban
đầu, nhưng chẳng mấy chốc rơi vào quên lãng; Những con chữ vô hồn, chết còng
queo trên giấy trắng. Bây giờ người ta không chỉ đọc thơ, ngâm thơ, mà còn
trình diễn thơ, phá cách như lên đồng. Có một số người còn muốn thần thánh hóa
công việc làm thơ, để rồi tự huyễn hoặc mình. Họ biến thơ thành thần bí và rối
rắm, tự tạo cho mình một lối sống lập dị, cao ngạo một cách hoang đường…May mắn
thay, những người như thế không nhiều.
Với các nhà thơ, thơ như là máu
thịt, con tim, khối óc; thơ là đứa con tinh thần. Ở góc độ lao động, thì thơ là
sản phẩm của lao động thơ, mà người lao động
không định giá cho sản phẩm của
mình, và cũng không định được vòng đời của sản phẩm. Khi bước ra xã hội, thơ có
đời sống riêng. Người quyết định giá trị và số phận của tác phẩm thơ, lại thuộc về công chúng. Với thơ, nhà thơ chẳng
có gì để toan tính cho riêng mình. Thơ thanh tao và giản dị, đạm bạc mà cao
sang – Cái cao sang của cốt cách con người và giá trị nhân văn ẩn giấu trong
thơ. Thơ dường như thoát khỏi những tuyên ngôn mang tính hàn lâm, để cúi xuống
thật gần với thân phận con người. Thơ mang ý nghĩa của sự hiến dâng. “Thơ gần
với nước mắt hơn là tiếng cười, gần với khổ đau hơn là reo hát, gần với sẻ chia
hơn là chiếm đoạt”(Nguyễn Trọng Tạo). Lao động thơ cũng là lao động hiến dâng.
Nhà thơ “Như những người đãi quặng/ Chợt vảy vàng hiện ra/ Lại biếu không thiên
hạ/ - Ấy là thơ đó mà!”. Ngay cả trong những bài thơ, được coi là viết cho
riêng mình, nhà thơ cũng gửi vào đó, bao nỗi niềm trăn trở, riêng - chung.
Với cách lý giải giản dị, qua bài thơ “Vảy vàng”, tác giả đưa ra cách
nhìn gần gũi về nghiệp thơ, và về thơ. Trong cuộc sống đời thường, nhà thơ,
trước hết là một con người, với bao bề bộn lo toan của món nợ áo cơm. Nhà thơ
cũng bình thường như bao người khác; Có khác chăng, chỉ là khác, bởi đặc thù
riêng của nghiệp cầm bút. Nhà thơ, cả đời ám ảnh với những câu thơ, như một
người mắc nợ. Họ cần mẫn, đa đoan, nhọc nhằn “như những người đãi quặng”, chắt
lọc từng con chữ, để rồi dâng tặng cho đời cái tinh hoa của nghệ thuật - những
“vảy vàng” lấp lánh và khiêm nhường - ấy chính là thơ. Thơ không chỉ là tinh
hoa của nghệ thuật ngôn từ, chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn, mà hơn thế, thơ còn là tinh hoa của lao động
nghệ thuật, đầy hy sinh và dâng hiến.”
Vậy là đã rõ. Còn như, làm một tập sách
kiểu này, tôi nghĩ, chẳng qua vẫn chỉ là một thú rong chơi mà thôi !?...
Nguyễn Hiếu, nhà văn người
làng Chèm
1, Dấu ấn làng Chèm.
Nhà văn Nguyễn Hiếu
luôn tự hào là người làng Chèm.
Vậy cài làng Chèm
ấy là làng nào?
Làng Chèm có tên
chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu ngạn sông Hồng đoạn
đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào diện làng cổ Việt,
với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di sản văn hóa. Tương
truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến năm 866, Cao Biền,
quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và tạc tượng Lý Ông
Trọng (tên thật là Lý Thân), một vị
võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến công hiển hách,
và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này, Lý Ông Trọng được
người đời tôn như vị Thánh, thờ phụng ở
nhiều nơi cả Việt Nam và Trung Hoa. Đương nhiên, vì quê gốc Lý Ông Trọng ở làng
Chèm, nên được thờ phụng ở đình Chèm (nay gọi Đền Chèm) với tư
cách Thần Hoàng làng, và có ý nghĩa hơn bất kỳ nơi thờ phụng ông nào khác. Vùng
đất với bề dày trầm tích lịch sử văn hóa như vậy, Nguyễn Hiếu tự hào là người
con của làng Chèm cũng phải thôi.
Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê
nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ,
nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy,
rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn
cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà
văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu,
cười đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "Tay này, văn chương của hắn ngai ngái mùi
cỏ và hoai hoai vị phân trâu làng Chèm. Viết lách, hắn vơ víu, nhặt nhạnh, cấm
bỏ sót cái gì, từ bãi phân gà phân chó làng Chèm trở đi...". Nghe vậy,
Nguyễn Hiếu chỉ cười khì, không giận, bởi ông hiểu, ngoài sự tếu táo, đùa cợt
cửa miệng cho vui ấy, là một sự thật, ấy sự thấu hiểu ngọn ngành, chân tơ kẽ
tóc, từ lịch sử văn hóa đến phong tục tập quán và đời sống dân sinh của làng
Chèm, một làng mang tính điển hình cho làng quê Bắc bộ xưa nay. Và như thế, khác
nào việc thấu hiểu văn hóa làng quê Việt cổ truyền vậy ?...
Trong văn chương
của Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng
dễ bề bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên
làng Chiện. Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì
hầu như làng Chiện có cả, song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa
hẳn đã có. Vây nên, làng Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của
Nguyễn Hiếu mà thôi.
Thế là cái làng Chiện
ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày
biện các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất
hiện lẻ tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của
ông.
2.
Nguyễn Hiếu, phu chữ,
Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh
cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời
hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội
này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện
bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.
Trước khi điểm
những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành
viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ,
cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói
Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần,
Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường
là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu
sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng
tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá
lớn tác phẩm đã xuất bản.
Năm 1984, Nguyễn
Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi
khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhó một cách đầy tự hào,
rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và
nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích
hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những
người thích đùa, của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ,
Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà
Nội, dựng pa-nô quáng bá vẽ bìa cuốn sách này...
Sau tập sách đầu
tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu
thuyết “Người đàn bà quỷ ám”. Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn
Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ
tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy
trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển
toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án... Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc
quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn
Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi
thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết
và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải
thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi
đường và Tôi bán mình. Giải
thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ
Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng
nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo
Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan
trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết.
Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...
Sàu quãng thời
gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách.
Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản
văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ
luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật
(Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt
Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu, Hội Điện ảnh VIệt Nam).
Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích
dự các Trạo sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự
trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia.
Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác
để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch
covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại
Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với
nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày
nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết
song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc.
Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật
đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả
cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là
không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài
?!...
Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!
3. Chất hài, người và văn.
Ở xứ Việt
mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm
tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ,
là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà
văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn
này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố
(trong Việc làng), và nhà văn Nam
Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác
phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...
Lóp trước là
vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây
văn chương giàu yếu tố uy-mua như
Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết
nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong
cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta
lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu
này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên
như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...
Thường thì,
văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người,
trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi
là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có
người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói
năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con
người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ
quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi
đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng
ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ
khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ
ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em
Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán
để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh
mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại
là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc
cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì
Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm
trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa”
( chằng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản
xuất chương trình của nhà Đài)...
Đấy là con
người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của
Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là
truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra
tập hài nữa là “Cười dành cho tất
cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ hài. Tuy không chuyên tâm
viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết các tác phẩm của ông ở mọi
thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch phim, tiểu luận, phê
bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một thế mạnh của Nguyễn
Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dình vô cũng quan trọng giúp các tác
phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số tác phẩm về ý tưởng, hoặc kết cầu, còn non. Hài là yếu tố
đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh vốn có này, đã
chuyền dần sang địa hạt sâu khẫu và ông khá thành công. Kịch bản của ông không
những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng cao trong các
hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, nhan nhản chi
tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn học, cũng
thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hừng hài hước. Đợt dự trại sáng tác văn học
của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc trá dư
tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra nhiều
nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn xác, ngắn
gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...
4. Lãng đãng thơ
Làng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và
mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém
miềng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia,
song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ
quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca.
Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000
năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì
riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả
kịch thơ, trường ca.
Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài
viết dài bàn luận “Tính công dân trong
thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn
ngữ kịch đã làm nên tính công dân
trong thơ ông?
Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông.
Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như
vậy, thưởng tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông
hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài
dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết,
Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng,
Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết
văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái
vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng
đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu
thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn
đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận,
bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo
ra đấy, cần chi phài đọc hết cả bài cho mất công !?...
Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi
bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ, mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có
cái đọng lại để khen.
Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều
thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn
Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục
ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới,
đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được
cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận
được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa
chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt Nam. Xin viện dẫn:
Đầy
suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/
Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương
xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/
Tình một thủa ai quên?...” (Trở lại căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả bây giờ/ Ai đi qua
đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi thoi đụn nhà mái rạ/
Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái lùn đi vì gánh vì gồng/
Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng gày/ Con thuyền cũng
mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ
cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...” (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng
Bình-Vĩnh Linh)...
Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực
tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo
mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho
sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.
Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi,
trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/
Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn,
khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên
nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru
nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); “Một
thùa làng tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh
tư đã rời hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người
chập choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng
sâu...” và “Một thời làng tôi/ Đàn
ông vợi đi vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu
cứng mồm hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng
giường cọt kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/
Thóc giống cắn chuột trong bồ...” (Đàn
ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa
ấy thế/ Nước dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không
chua vị khế/ Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ
hát/ Dây quai thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng
ông chuếnh choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);
Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn
dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ
Rét ở Mường Khương, nỡm mọi
người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:“Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì
thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng
nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữa“Có
thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm
chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như
đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp
vào
Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lử/
Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..
Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn,
đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn
Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình... /.
NGUYỄN HUẤN, KỊCH SĨ GIỮA ĐỜI.
Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú
Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy
là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tịtại Huế vào một ngày đầu tháng
9 năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời....
Ở tuổi 66, không phải là trẻ nhưng cũng
chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười lăm
nắm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang ;ang thang đâu đó ở Huế rồi đột ngột ngột bị
đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định rồi mất vào chiều ngày mồng một tháng
chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn Huấn
đã sắp đặt cho sự ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, kh anh bỏ nhà lang
bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những năm
còn lại của mình, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là chuyện
thiên cơ huyền bí mà thôi,...
1. Cách đây khoảng 25 năm,
đó là năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn
Huấn, cùng Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là phóng viên
chương trình Tạp chí truyền thanh & Du lịch do nhà báo Thanh Lịch phụ
trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu
lưu tình ái của anh, tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cố gái xứ dừa Bến
Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”. Truyện in báo rồi vào
sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa
thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nôi máu
giang hồ, bỏ việc đi biệt tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền
Trumg. Nguyễn Huần cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao sống nhăn
răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một tứ thế kỷ, mặc
dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh
diễn cố cho xong!...
Nguyễn Huấn quê Kim Thái, Vụ bản, Nam
Định, sinh naw,1956 tuổi Bính Thân. Anh hay vui miệng khie, tuổi Con Khỉ nên
theo nghiệp diễn là đúng vai đúng số. Nghe đâu, sơ sinh, Nguyễn Huấn nặng tới
4,3 kg, là chuyện hiếm hồi ấy. Bố là công an, mẹ là cán bộ phụ nữ, thuộc thành
phần cơ bản, nhưng anh không theo nghiệp học hành mà sớm trở thành công nhân,
vì bố mất sớm. Nguyễn Huấn làm công nhân ở Khu gang thép Thái Nguyên với nghề
chính là láo xe goòng chở than và quảng. Sau này, những cuộc rượu vui, anh hay
đùa về thời kỳ ấy, rằng hàng ngày cứ phải cầm lái điều khiển cái đầu tàu kép
dăm toa xe chờ đầy than, quặng chạy đi chạy lại trên một đoạn đường cố định vài
trăm mét, không khác gì phải diễn một vai kịch phụ khô cứng và nhạt phèo. Có lẽ
vì chán nghề, không cam chịu, Nguyễn Huấn tìm niềm vui trong hoạt động văn nghệ
quần chúng. Anh có khiếu kẻ vẽ, cắt giấy, hát hò, diễn kịch nên trờ thành hạt nhân
văn nghệ quần chúng ở Khu gang thép Thép Thái Nguyên. Và tôi cớ hội đến, Nguyễn
Huấn được đơn vị mình cử đi dự tuyển đào tạo ở Trường Sân khấu Điện ảnh trung
ương. Được đào tạp chính quy ở ngôi trường danh giá tạo thủ đii, Nguyễn Huấn
bắt đầu làm quen và giao di với nhiều nhân vật có tiếng trong giối nghệ thuật
biểu diễn ở trung ương, nên khi tốt nghiệp, anh không muốn quay về chốn cũ, vì
như thế, nghĩa là anh chấp nhận vau diễn nhỏ, chẳng biết đến bao giờ mặt mũi
mới sủi tăm lên được. Nhưng không quay về cơ quan cũ, cũng đòng nghĩa với bỏ
việc chấp nhận cuộc sống tự do, tự lo công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, mà
thời bao cấp, những việc ấy còn quan trọng hơn cả sự nghiệp. Thế nhưng, Nguyễn
Huấn vẫn sẵn sàng chấp nhận, để đi tìm vai diễn lớn cho cuộc đời mình. Ạnh bước
chân vào ngưỡng cửa Nhà hát Tuổi trẻ khi đó có các tên tuổi lớn là Thùy Chi,
Phạm Thị Thành, Đức Trung và cùng với lứa diễn viên trẻ đầy tài năng như Lan
Hương, Chí Trung, Ngọc Huyền, Minh Hằng, Anh Tú, Lê Khanh vv...
Dường như, vận may chưa mỉm
cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vai quần chúng,
thậm chí không có vai mà chỉ làm cái việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông
cảnh, kéo phông màn,.. Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc rời Nhà hát Tuổi
trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian
này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNVN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng
cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài
các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật, kể
chuyện cảnh giác tối thứ bảy, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ
trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp,
Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc Việt Nam,.. Cứ loanh
quanh, đeo đuổi với ngần ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực
để Nguyễn Huấn theo nghiệp diễn, vì ở đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm
kịch sĩ nghiệp dư công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công,
Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,
Tôi lần đầu biết Nguyễn
Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu. Khi ấy tôi làm việc ở
Phòng Tiếp dân và xử lý đơn thư của Ban Thính giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng
Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Phòng làm việc cua
tôi thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay phóa dưới tòa biệt
thự kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Văn nghệ với các phòng Văn học, Sân
khấu và Văn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng
chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt
đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh
chàng to béo lảm nhảm đe dọa người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu
bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh
chàng béo. Người này khựng lại, vằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga:
Kto? *Mày là ai?. Miệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy,
biên tập viên Hồ Nhật Quang chạy đến kịp vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa
quát vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sau đó, tôi biết được chàng
béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn.Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài
lấy nhuận bít, rồi vui miệng rủ Vũ Hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ
nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô
xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huần thành
tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn
khi về chung phòng làm việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phục
thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh trí, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.
Lân la rồi chẳng hiểu sao,
Nguyễn Huấn xin được vào học việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà
nước và Pháp luật do nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là
Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao
dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra
chuyện gì đáng tiếng cả. Khi ấy, Đài đã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình
thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên
chính thức của nhà đài. Sau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ môn
ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển. Nhà báo Trần
Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì tiếc chất
giọng vàng của Nguyễn Huấn mà cho nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn Huấn đã
phát huy được chất giong tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình cho làn
sóng của Đài, không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm thêm,
diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nợ môn tiếng Nga là thế,
nhưng đã có lần, tôi chứng kiến, trong một chuyến công tác, khi cần giao lưu
với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ôm ghi ta hát bài Đôi Bờ bằng tiếng Nga khá
chuẩn xác, hay và đầty cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và
nhờ khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hay do anh gây nên để
thoát hiểm. Tội và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được.
THực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn
Huấn. Thời còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng và Trần Nhật
Minh, mỗi khi thấy Nguyễn Huấn giả lả nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện,
mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, tồi thì bỏ qua cho nhau
cả.
Kể chuyện Nguyễn Huấn mà
quên không nhắc chuyện “liên kết mậm giềng” của anh thì thật thiếu sót. Đây là
câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu tố hài hước như chuyện ở một sân khấu hài
kịch. Chuyện này lý giải đời Nguyễn Huấn chính thức ba đời vợ và mỗi thị sinh
cho anh một công chúa, hay như cách nói dân dã của anh là vịt giời hoặc chữ
nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời Nguyễn Huấn kể, tôi chấp nối lại thì
toàn cảnh thế thiếp của Nguyễn Huấn nhứ sau: Thời còn là công nhân lái tàu
goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy vợ và có con gái đầu lòng. Cô vợ này
sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn. Tiếp theo, lang bạt về quê, Nguyễn
Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì phải và kết cục của cuộc hôn nhân
thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này, khi đã là phóng viên nhà Đài,
trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ, Nguyễn Huấn tình cờ làm quen
với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy làm vợ rồi đưa theo về Hà
Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cô con gái nữa ra đời. Vậy là, liên doanh mậm diềng
của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn
một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách liên doanh tiếp với hy vọng
cho ra một mậm diềng (con trai) đặng có người nối dõi tông đường. Thế nhưng,
trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời chẳng gật. Trước tuổi nghỉ
hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ, nằm nhà cả năm trời. Dẫu
không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất toại thì cơ thể cũng chậm
chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà thôi. Đành nghỉ hưu trước
tuổi mầy năm, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi thiệt thòi lắm. Về chức vụ,
hàm phó vụ trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành
kịch phát thanh, huân chương Lao động hạng 3.
2. Nguyễn Huấn là người yêu thơ, là tác
giả của hàng trăm bài thơ, ...song chẳng mấy quan tâm. Hình như, ờ vào thời kỳ chiến
tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy thơ ca làm chỗ dựa tinh
thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huẫn cũng là người như vậy. Sau này
hình như Nguyễn Huấn có tập hợp in thành tập, nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn
bè, đồng nghiệp biết anh dính dáng thi ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm
nhận thtuwsc, thi ca không nuôi soongss bản thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng
tác kịch, diễn kịch phất thanh, rồi công tác tham gia các hội diễn văn nghệ
q2uaanf chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tuowi thóc thật để lấy cái ăn cho vào
miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ đã mất công sinh ra các
tiểu thư, công chúa cho mình.
Tôi nhớ, trong nhiều chuyến công tác đi
các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn Huấn cao hứng đọc thơ anh,
thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc. Mục đích làm gia vị cho các
cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, lucd ngà ngà say, Nguyễn Huấn mượn
rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê thơ, tôn thờ thơ và cũng
thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn đấy nhé. Ông là
dân văn xuôi thì cứ văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái và làm duyên
với đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huân cũng có lý. Nhưng mà,
cái gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính, song thơ túc
tắc, cũng dăm bảy tập rồi. CÒn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ từ khi nghỉ
hưu, nằm khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên đường, dường như
chỉ có thơ (sau miếng ăn, cuộc nhâu) là giúp anh chuyên chở sự hưng phấn hay
nôi cô đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình, Nguyễn Huấn trải
lòng bằng những bài thơ... Ví nhuw “SócTrăng
nhớ” làm vào cuối naem 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai trẻ lang bạt kỳ
hồ đây những lỗi lầm: “Anh sẽ đưa em về/
Bến Nguyệt Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề sang sông/ Dù
đục và dù trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day dứt khôn
cùng/ Người ơi !/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều cửa bể/
Mây nước buồn nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/ Người xưa
!/ Và sông xưa !/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn Khmer/ Sông
Trăng buồn sắt se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/ Cô đơn một
bóng thuyền/ Thế mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tính”. Hay như bài thơ “Em và thu “ làm ngày 10.8.2021
không lâu trước ngày Nguyễn Huấn ra đi vĩnh viến cũng một tông như vậy:
“Có
phải em/ MÙA
THU/ Lá
vàng lơi lơi/ đường
vắng/ Thu
lại mùa .../ em
vẫn em/ Hình
như/ câu
Thơ/ của
mùa Thu cũ/ Em
tít tắp xa/ nơi
miền xanh núi ngủ/ Từng
đêm.../ vòng
tay thả hững hờ/ Thu
cùng em/ câu
đợi, câu chờ/ Cúc
vườn nhà/ vàng
lên như nắng/ Hoa
hát em nghe/ lời
trống vắng/ Và
nói hộ lòng/ em
mãi mãi/ yêu
anh/ Ở
bên ni/ vẫn
bát ngát xanh/ Huế
giao mùa/ dòng
trong ngăn ngắt/ Bến
Sông Hương/ anh
đi tìm câu hát/ Thương
nhớ duyềnh lên/ mỗi
độ Thu về/ Câu
thơ em ngân nga/ quấn
quýt níu chân đi/ Cúc
Quỳ vàng ruộm/ cho
ai cay mắt/ Lễ
giao mùa/ năm
nay Cô víc/ anh
nỏ về được mô ? Anh
không về/ Câu
Nam bình mượn Thu/ một
chút nồng nàn/ em
ru giấc/ Một
chút se se/ một
chút vàng/ Em
vẫn em/ Thu
vẫn
Thu
sang ,..”
Dường như, cái nghiệp diễn
kịch thấm vào con người Nguyễn Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử hằng ngày, cũng
như trong nghề báo của anh. Và với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có chút tính kịch,
câu chữ lại càng rõ, chất hội họa thêm chút khoa trương kiêu diễn viên thoại
sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng. Miễn sao
Nguyễn Huân thấy vui, hay yên lòng mình là được, bởi nhiều nhà thơ lớn con ối
bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của Nguyễn
Huấn còn đạm chất khoa trương hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên là bộ
đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và
Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi
trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ tích/ Người lính trẻ trung theo
đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực làng quê/ Súng bom thù xé ngang
trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”*
người đI/ Hiền lành như bông lúa rễ tre / Trong như giọt chuông/ chiều trong
trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt quê hương / son sắt lời thề / Điện
Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào đồng đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm
lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm phía quân thù/ Chiến hào Him Lam/
nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao thiết quá/ Có phải không cha: cánh
hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh Điện Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ
thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến thắng/ Cha về nhé - sớm nay - cùng
nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/ Bài ca hóa lửa vừng đông/Bóng cha
xanh mướt cánh đồng Điện Biên”...
Thơ ca làng nhàng vậy thôi, nhưng trong
nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết sywsc nghiêm túc.
Cùng với các nghệ sĩ, đạo diên sân khấu truyền thanh Vũ Hà, Nghi Xuyên, Nguyễn
Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu truyền thanh không
những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ thống phát thanh cả
nước. Gjui nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú
(NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thaf thanh hoàn toàn xúng đáng. Không nghững
vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt nghệ thuật sử dụng âm thanh,
tiếng động trong nghè báo phát mthanh và lịch vực quang cáo khá thành công....
Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp chí truyền thanh cùng với tôi
và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh... là những năm tháng Nguyễn Huấn
say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy hết khả năng chất kịch trong con người
và kiến thức của mình để sáng taojm từ khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn xuất
của mình, để tạo nên những sản phẩm phát thanh chất lượng cao,...
3. Một sáng chủ nhật (tháng
9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng chút hơi thu mát
mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì thì điện thoại
reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi tôi có biết anh
ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai. Sau một hồi chất
vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo "Huấn đây.
Nguyễn Huấn đây". Nguyễn Huấn thật sao? Thực lòng, khi nghe máy, đầu óc
tôi không hề nghĩ đến Nguyễn Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không sủi tăm" những dăm, bảy năm nay rồi. Giờ thì
không còn nghi ngờ gì nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau nói... Một hồi, Nguyễn
Huấn trách:"Ông vào Fb chưa? Tôi gửi yêu cầu kết bạn với ông rồi
đấy". Quả là, lúc vừa vào mạng, tôi thấy mục xin kết bạn nổi cái nick
Nguyen Huan Hue, có ngó qua, nhưng avatar nhỏ quá, tôi nhìn không rõ, nên chưa
vội ok. Thói quen của tôi, hễ ai yêu cầu kết bạn, nếu không phải là người quen
cũ, thì tôi cũng phải vào trang đó xem họ là ai, viết thế nào, rồi mới chấp
nhận... Thì ra, anh bạn già lại kèm thêm cái tên của vợ vào, nên tôi không nhận
ra... Vậy là hai thằng í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần như ngày nào
tôi và Nguyễn Huân cùng alo cho nhau, này nọ. Tôi biết anh khỏe lại được mấy
tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần kinh chập
mạch" từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang đương chức
Phó trưởng ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV... An ủi, khi
đó, anh đã xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...
Nói căn bệnh "thần kinh
chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn Huấn bị tai
biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi làm lại. Ai
cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi cũng vậy, nhưng
cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười thì sau chỉ còn
ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã hơn dăm năm nay.
Cách đây 2 năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một số anh em cơ quan
đi viếng ở mãi Nam Định. Gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy... Ai ngờ
đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện Quân
đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại, chập
nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như hồi
nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới đầu
tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật mừng!
` Đúng
hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều
muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui
đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ là dứt ra, để không sai hẹn với người
khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.
Nói theo cách nói thông
dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi hại hơn xưa
!...
Nhưng lợi hại chẳng thấy đâu, Nguyễn
Huân trở lại cuộc sống nguyên tính cách xưa, ăn to nói lớn, đi phăm phăm, làm
linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa. Hinh như, Nguyễn Huân sống bù cho gần chục
năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi nhẹ nói khẽ. Có cảm giác, Nguyễn Huấn hung
hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên tiếp gặp gơ lại các bạn bè đồng nghiệp làng
báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn Huấn rời Hà Nội, lang thang đâu đó mãi miền
Tây Nam bộ, rồi lên Tây Nguyên,...bỏ lại sau lưng người vợ thứ ba, người đã
sinh cho anh cô công chúa út.
Lần gặp cuối cùng của tôi
với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê dịp tôi xây
lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dốc chuyện, nhậu tưng bừng và quậy
cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm ỏ quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống khá
nhiều. Rạng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân trên
Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy đúng
ngày Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12. Anh dánh thức, dựng tôi dậy khi trời còn
chưa sáng, để đọc cho tôi nghe bài thơ anh vừa sáng tác (tôi đã trích ở phần
trước bài viết này)....
Sau lần ấy, tôi chỉ con
thấy bóng dáng Nguyễn Huân thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc dòng tin nhắn
trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ chút đỉnh về
tài chính,... Lần theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn Huân vẫn
lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng gió
hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn Huấn
vẫn đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi, biết
giải thích sao đây,...? Dường như những ngày tháng cuối đời lang bạt này,
Nguyễn Huấn quên mất lời tự răn mình và khuyên nhủ bạn bè là chớ đắm mình vào
thơ mà khốn khổ, anh chỉ còn mấy mối quan tâm, ấy là miếng ăn vào miệng cho đỡ
xót lòng và cùng với đó là Em và Thơ. Trân trang cá nhân của Nguyễn Huấn nhan
nhản thơ tình,. Thơ về những vùng đất mà anh từng đặt hân đến...
Tôi không rõ lá số Tử vi
của Nguyễn Huấn cụ thể ra sao, nhưng cứ cuộc đời anh mà suy thì hẳn cung Di và
cung Nô của Nguyễn Huấn phải có sao tốt, nên chỉ khi nào Nguyễn Huấn còn đi
được ấy là Nguyễn Huấn tồn tại, và hình như đến đâu anh cũng gặp được những
người tử tế giúp đỡ, phò trợ ?... Thời bao cấp khốn khó, Nguyễn Huấn đã sớm ý
thức việc lưu giữ những hình ảnh ghi dấu chân mình. Anh có chiếc máy ảnh cơ cũ
kỹ nhưng vẫn chụp tốt, nên đến đâu cũng chụp dăm ba pô ảnh lưu niệm. Thời phim
ảnh dắt đỏ song Nguyễn Huấn không tiếc tiền, chụp xong về chọn hình rửa thành
ảnh hẳn hoi và mỗi khi trở lại nơi cũ, anh mang theo ảnh tặng lại cho chủ nhà.
Mỗi lần vậy, Nguyễn Huấn ranh ma nháy
mắt với tôi nói nhỏ:”Mỡ nó rán nó ấy
mà...”. Nhờ thế sau này, tôi lưu giữ trong album của mình nhiều hình ảnh về
Nguyễn Huấn và tôi cùng đồng nghiệp báo chí khác...
Và cho đến một ngày (kỳ
nghỉ lễ Quốc khánh 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi, vì biết anh
quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép lại rồi,
chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những cơn say,
Nguyễn Huấn nhập đồng diễn, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè ai đó có
muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,
Nguyễn Huấn, chàng kịch sĩ
giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đồng nghiệp làng báo, chẳng quên anh đâu !...
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
người giăng lưới bắt chim
1.
Mệnh danh người
giăng lưới bắt chim.
Tôi muốn lấy tên một tập sách của ông để gắn vào tên
bài viết này, không phải vì chơi chữ, đơn thuần bởi nó đúng với tính cách con
người và ý đồ sáng tác của chính ông.
Ấy là Nguyễn Huy Thiệp !
Ông là ai ? Nhà đoản thiên tiểu thuyết, nhà tiểu
thuyết, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ ? Là tất cả các nhà ấy, theo tôi
đều xứng đáng cả. (mặc dù có thể chính
ông chẳng cần thế ).
Tôi muốn viết về ông, song khó quá. Khó bởi ông là một
người quá nổi tiếng, không riêng ở Việt Nam, mà cả ra thế giới. Khó nữa, bởi đã
có quá nhiều người viết về ông, nhất là Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ đất Việt
một thời và hiện người viết phê bình và chân dung văn học xuất sắc, đã lên
tiếng. Và lại càng hãi hơn khi Trần Đăng Khoa cùng Thọ muối ( nhà văn Nguyễn Văn Thọ ) đã có cả cuộc đàm đạo dài hơi.
Ở đấy, Trần Đăng Khoa loan tin rằng đã bắt mạch được Nguyễn Huy Thiệp, phát
hiện ra ông nhà văn này mắc căn bệnh nói
ngược, và còn xem đấy là ngón nghề của
ông ta, như vậy bệnh này thành thể mạn tính, có chữa cũng không khỏi
được, nên cách tốt nhất là không phải kê đơn gì sất, để mãi cơ thể tự miễn dịch
rồi khắc khỏi. Ha, thày lang băm này cũng tài ra phết.
Tôi nghĩ, mình có cách nhìn, cách hiểu của riêng mình.
Cũng như ký họa người vậy. Bắt được thần thái người được ký họa hay không, vả
lại khuôn mặt người ta, góc nhìn mỗi lúc mỗi khác chứ ? Rồi cũng con người ấy,
trong mắt thiên hạ, mỗi người mỗi khác Vậy thì cứ viết. Gọi là chân dung văn
học hay là gì gì cũng thế thôi.
Song trước tiên là cảm nhận về con người ông. Trong
mắt ông, tôi chẳng là ai cả, chắc chắn là thế. Còn với tôi, ông là một người
cầm bút đáng kính trọng ( tôi thích từ đáng
nể hơn ). Nói tôi biết ông, đơn
giản là tôi đã từng mò đến nhà ông ở Khương Trung cùng với nhà văn Văn Chinh và
mấy anh ở toà soạn báo Nông nghiêp Việt
Nam, khi ông mới nổi tiếng với dăm truyện ngắn gây chấn động văn đàn Việt
Nam. Tuy nhiên, lần ấy ông vắng nhà nên chúng tôi chỉ chuyện trò xã giao với vợ
ông và ngắm cơ ngơi vườn tược đơn sơ của ông. Và nó cho tôi cảm giác ông là một
hàn sĩ ẩn dật, song tài năng xuất chúng, nhất là khi ấy, người ta tò mò nói về
xuất thân hàn vi của ông, một anh giáo dạy môn phụ lịch sử ở đồng rừng Tây Bắc,
rồi bỏ về thủ đô làm "thợ vẽ"
ở Công ty Thiết bị và đồ dùng học sinh. Với làng văn Hà Thành dạo ấy, Nguyễn
Huy Thiệp như một loài hoa rừng, ví như hoa anh túc hay một loài hoa hoang dại
sặc sỡ và thơm hắc thế nào chưa rõ, nhưng lạ. Khác hẳn với lần ấy, sau này tôi
cũng đã gặp ông đôi ba lần, toàn vào dịp giáp Tết Nguyên đán khi Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức gặp mặt
các cộng tác viên trong năm, nhất là những tác giả có bài in trong số tết. Để
ý, trong mấy lần đó, giữa không khí ồn ào của bia ruợu, ông đều yên vị lẳng
lặng, thỉnh thoảng trả lời một vài câu hỏi của ai đó, điềm nhiên vô sự. Tôi
không phải là người nổi tiếng nên không biết cảm giác và sẽ ứng xử như thế nào
trước đám đông, song quan sát ông, tôi thấy hình như ông cũng không là người của đám đông thì phải. Ông như không
tồn tại ở những chỗ đó, còn tự cao tự đại, xa cách hay không phù hợp thì tôi
không rõ.
Tôi luôn có một cái nhìn về con người này, mà cảm nhận
đầu tiên đã chi phối suy nghĩ của tôi về ông và cả sự nghiệp văn chương của
ông, khi ông còn khuất lấp, chỉ qua một truyện ngắn tôi tình cờ đọc được trên
Báo Văn Nghệ từ lâu lắm rồi. Đó là truyện ngắn Huyền thoại phố phường. Ngày ấy, tôi rất chăm đọc báo Văn Nghệ,
nhất là văn xuôi, đơn giản chỉ bởi bản thân tôi cũng tập tọng viết được đôi ba
truyện ngắn, được đăng trên Báo Người Hà
Nội và phát trong chương trình Đọc
truyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Phàm là tôi đọc rất kỹ, để xem
xem cái mặt bằng văn xuôi, nhất là truyện ngắn Việt Nam mình cao thấp thế nào,
và thực ra, còn xem người ta viết gì, viết ra sao, có thể học lỏng học mót được
chút nào không. Thế đấy. Khi đọc Huyền
thoại phố phường, chỉ ít dòng đầu tôi đã như bị một thứ ma lực mê dụ. Tôi
đọc một mạch, bàng hoàng vì thích thú. Đọc chậm lại lần thứ hai. Vẫn thấy hay,
và lần này, tôi đã đủ bình tĩnh để nhìn nhận xem nó hay ở chỗ nào và vì lẽ gì.
Tôi nhìn tên tác giả. Nguyễn Huy Thiệp. Một cái tên lạ hoắc, rõ là mình chưa
thấy bao giờ. Tự hỏi, thằng cha này là ai nhỉ, tôi lại phỏng đoán, hay là một
ông đầu sỏi nào đó trong làng văn
xuôi đốc chứng lấy bút danh viết theo lối mới ? Nhưng rồi tôi lại tự gạt bỏ,
bởi dù mới chỉ tập tọng viết, song tôi cũng là con mọt sách từ nhỏ, tạp nham
đông tây kim cổ đọc đủ, nên hiểu rằng với mỗi nhà văn, việc thay đổi bút pháp
là không dễ chút nào. Thú thực, ngay lúc ấy tôi đã chợt nghĩ, không biết tay
này đã viết nhiều chưa, song viết thế này thì chẳng bao giờ mình theo kịp được.
Tôi buồn vui lẫn lộn. Vui vì làng văn mình xuất hiện một cây bút văn xuôi xuất
sắc. Còn buồn vì mình mới thập thò định chen chân vào làng văn mà trên đầu đã
có núi Thái Sơn như thế, có viết cả đời, lao lực với chữ nghĩa thì cũng chỉ lom
khom dưới chân núi mà thôi.
Sau này, khi tiếng tăm nổi như cồn với hàng loạt
truyện ngắn xuất sắc liên tục đăng đàn như :Tướng
về hưu, Con gái thuỷ thần, Trương Chi, Chảy đi sông ơi, Kiếm sắc, Vàng lửa,
Phẩm tiết, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Không có vua, Thương nhớ đồng
quê v.v... người ta hay nhắc đến
truyện ngắn được xem như là con dấu son chứng nhận cho tài năng Nguyễn Huy
Thiệp là Tướng về hưu, song với riêng
tôi, ấn tượng nguyên sơ chính lại là Huyền thoại phố phường. Quả là, Tướng về hưu xứng đáng là truyện ngắn
xuất sắc, cũng như Con gái thủy thần
sau đó vậy, nhưng nếu ai hỏi tôi thích nhất truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp,
tôi không ngần ngại mà trả lời, Không có
vua. Còn là những gì nữa, ấy là Những
người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê.
Nguyễn Huy Thiệp có biệt tài đóng dấu ấn của mình vào
các nhân vật lịch sử, qua hàng loạt truyện như Trương Chi, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết,
Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, cũng như một số truyện ngắn sau này lấy cảm
hứng từ người này, người kia ( Đưa sáo
sang sông, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt ... ) . Ông có biệt tài khắc họa
các nhân vật lịch sử từ góc nhìn khác, làm họ sống động hẳn lên, chứ không phải
là các bức tượng chết cứng, khiến họ vừa là thần thánh vừa kẻ đời thường trần
tục. Theo tôi cái khác người của Nguyễn Huy Thiệp là vậy.
Tôi xin không
bàn về lối kể chuyện, câu chữ, hội thoại của Nguyễn Huy Thiệp, bởi đã có quá
nhiều nhà phê bình viết về những điều đó rồi. Tôi thì tôi phục sát đất, vì có
chuyện hay không có chuyện, ông cũng phẩy vài nhát là ra ngay diện mạo, hơi
hướng. Đấy là cái tài trời cho, tôi nghĩ thế, bởi chẳng có học hành, kiến thức,
ai dạy dỗ mà thành thế được. Cái tài "
phảy " của ông lan sang cả tiểu luận, phê bình. Vì thế mới có chuyện,
Nguyễn Huy Thiệp phảy ra Đồng Đức
Bốn, Nguyễn Bảo Sinh, Lê Kim Giao... Lẽ dĩ nhiên, họ cũng phải có gì thực chất
của họ thì Nguyễn Huy Thiệp mới phảy
ra được. Có bột mới gột nên hồ mà.
Tôi chưa được đọc kịch của ông, ngoài vở kịch chui là Mổ nhà văn, được người người ta lấy từ mạng xuống, phô tô lem nhem . Cũng tài lắm thay. Nghe phong thanh,
thiên hạ cũng khen kịch của ông. lắm lắm.
Còn tiểu thuyết thì người ta lại chê nhiều. Tôi có đọc
cả hai tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu
và Tiểu long nữ., cũng đều từ mạng
internet. Không thật thích, song vẫn
sắc sảo lắm thay. Ngôn từ, lối thoại vẫn đặc sệt chất Nguyễn Huy Thiệp. Lại
nữa, ông vừa cho ra cuốn thứ ba, tôi đã thấy bày bán nhan nhan ở các quầy sách
hạ giá hè phố, với cái tên và tranh bìa sặc mùi ba xu, Gạ tình lấy điểm.Tôi không tò mò đến mức tìm đọc, bởi cái tiểu
thuyết ba xu ấy lấy cốt từ câu chuyện có thật xảy ra ở một đơn vị thuộc cơ quan
tôi nên tôi không lạ. Còn xem văn chương Nguyễn Huy Thiệp ư, tôi cũng cóc cần
vì cứ từ hai cuốn trước mà suy ra thôi. Nghe đâu, sách bán khá chạy. Báo chí
gặp gỡ, viết bài nói về sự thất bại của Nguyễn Huy Thiệp trong thể loại tiểu
thuyết và bù lu bù loa lên rằng, Nguyễn Huy Thiệp viết sách kiếm tiền. Nguyễn
Huy Thiệp không tranh luận,cũng không vì thế mà ái ngại. Đơn giản bởi ông chủ
trương vậy chăng? Tác phẩm nào cũng có đời sống của riêng nó, có thể sống dai
và cũng có thể yểu mệnh ngay đấy, hoặc giả gây ồn ã chút ít rồi chết dần chết
mòn. Không cần tất cả phải cùng được lưu danh muôn thuở. Đã từng có ức vạn bài
thơ thời Đường, nhưng sống được đến thời đại của chúng ta ngày nay để mọi người
ngợi ca cũng chỉ có ngần ấy thôi. Cũng như một cuộc chiến, để đi đến thắng lợi
cuối cùng, phải có ngàn vạn kẻ bỏ xác lại chiến trường rồi khuất dần vào quên
lãng mới có một chiến công rực rỡ ghi danh sử sách cho người này kẻ nọ. Ngay
như hiện giờ, cái ông nhà văn Mạc Ngôn ( Trung Quốc ) liên tục cho ra một seri
tiểu thuyết như Cây tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ, Tửu quốc, Sống đọa thác đầy,
Tổ tiên có màng chân, Thập tam bộ, và sẽ là những gì nữa, song
người ta chỉ còn nhắc tới vài tuyệt tác ban đầu của ông là Báu vật của đời ( Phong nhũ
phì đồn ), Đàn hương hình mà
thôi.
Tôi nghĩ không hề hấn gì, bởi Nguyễn Huy Thiệp có
những truyện ngắn như Không có vua, Tướng
về hưu, Những người thợ xẻ, Con gái thủy thân, Bài học nông thôn, Thương nhớ
đồng quê... mang sức vóc của tiểu thuyết. Tiểu thuyết đâu cứ phải nhiều
chữ.
Thú thật, dăm năm nay tôi ít đọc truyện ngắn trên báo.
Các tập truyện ngắn cũng vậy. Riêng với Nguyễn Huy Thiệp, tôi luôn để ý, và
dường như mỗi Tết nguyên đán, tôi thường mong chờ sáng tác mới của ông. Tôi
không ưu ái gì ông, và ông cũng không cần điều đó. Đơn giản, tôi chỉ muốn xem
xem giờ Nguyễn Huy Thiệp viết lách ra sao.
Giờ thì Nguyễn Huy Thiệp đang say với nghề mới, thợ
vẽ. Chán kinh doanh nhậu nhẹt thì sang vẽ. Không biết rồi đây ông sẽ còn giở
trò gì nữa? Tôi tin con người này chưa chịu yên vị . Chắc chắn là sẽ có thơ.
Nguyễn Huy Thiệp đã từng đe thiên hạ rằng, đến khúc cuối của chặng đường đời,
ông sẽ trình làng thơ, và khi ấy thì thây mặc thiên hạ bình phẩm, khen chê, bởi
chó chết hết chuyện .
Song từ nay đến đấy vẫn còn dài lắm !...
2.
Mấy dòng tiễn đưa Nguyễn Huy Thiệp theo
cánh hạc về trời
Ngày 24 tháng 3 năm 2021 là
ngày bạn bè văn chương và bạn đọc hâm mộ đưa tiễn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp theo
cánh hậc về trời,...
Trong số những bức chân
dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất một bức ảnh, không rõ ai chụp.
Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết
nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường ngày, nét hiếm thấy ở ông !?...
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời
cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH
PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019,
rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới
náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người
ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta
những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được
tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người
vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu
đáo,
Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà
tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay
cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà
bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác
hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn
bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả
trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu
văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng
của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
Tôi và mấy bạn văn chương
tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên
tập Tạp chí Nhà văn & cuộc sống
vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn,
khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm
cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ
trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội viết và đọc
trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm
tôn vinh cho cả người chết và người sống...
Có một điều, tôi để ý, nơi
sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người
gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn
chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được
bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời
gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến
đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi
đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới
mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn
nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám
ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà
ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến
người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
Trở về sau đám tang nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên
bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu
văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi,
rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày
đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi
bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phàm cái gì
thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu
thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là
để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm
mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua.
Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai
đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện
ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần,
Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã
nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay
vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng
nên?
Phê bình văn học của Nguyễn
Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chim.
Trò chuyện với hoa thủy tiên. Còn
tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ những ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở
đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi
tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện
đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự:
"Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy
Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo
trình tự thời gian xuất hiện của hai nhà văn tài danh này nà thôi. Tôi không
coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài
hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...
Rồi tôi và anh bạn Gia
Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách
thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng,
Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh
Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa...
Tạm dừng ở đấy chờ kể tiếp
!...
Và như thế, câu chuyện về
Nguyễn Huy Thiệp, người giăng lưới bắt
chim và các nhà văn đương thời vow3is ông vẫn còn ở phía sau,...
3. Triết lý
“dèn vàng,” trong “không
gian Nguyễn Huy Thiệp”
Đọc lại
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, với tôi là một sự ngẫu nhiên. Số là, đầu hè năm
nay (2022) tôi tham gia chuyến lên Sa-pa với cha con, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền
và nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến. Trước chuyến tôi đến ngủ đêm tại nhà họ để
sáng hôm sau lên đường sớm. Tối ấy, chuyện vãn mỏi miệng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh
Tuyền bảo tôi “Nghe nói chú thích văn Nguyễn Huy Thiệp,... có muốn nghe
lại không? ... Dạo này, tôi hay mất ngủ, những lúc như thế, tôi cứ vào
mạng, Youtube ấy, nghe đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, ... Hay lắm, mà lại
dễ ngủ. Ngủ lúc nào không biết...Cứ như Nguyễn Huy Thiệp ru mình vào một giấc
mộng khác ấy...”. Rồi nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền cho nghe truyện “Phẩm
Ttết, và “Vàng lửa”,... Và rồi chũng tôi thiếp đi trong
mộng mị,
Sáng hôm
sau, ngồi xe với cha con nhà thơ, nhạc sĩ, Nguyễn Vĩnh Tiến bật cho ca các ca
khúc của anh chàng. Tôi nghe nhạc đấy mà đâu óc cứ váng vất các truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã thức dậy trong tôi cảm xúc, tâm trạng những ngày xưa
còn chưa xa, khi hóng từng truyện ngắn của ông xuất hiện trên báo chí,...Nguyễn
Huy Thiệp mất vào cuối xuân năm 2021, thoáng chốc đã qua giỗ đầu ông
rồi,...
Sau
chuyến đi ấy, bẵng đi vài tháng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền gắn thẻ sang trang
Facebook của tôi đường link Youtube truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, như muốn
nhắc nhở tôi, hãy nghe lại đi, Tôi nghe lại truyện ‘Sống dễ lắm”,
rồi cúứ thế, liền mấy ngày, tôi lần lượt nghe đọc lại truyện Không
có vua, Những bài học nông thôn, Bài học tiếng Việt, Tội ác và trưng phạt,
Huyền thoại phố phường Chảy đi sông ơi, Muối của rừng, Quan âm chỉ lộ, Sang
sông, Mưa Nhã Nam, Ông Móng, Giọt máu, Con gái thủy thần, Những người thợ
xẻ, Như sương như khói bay .. hững truyện ngày trước tôi rất
thích, đọc đi đọc lại nhiều lần gần như thuộc, vậy mà giờ nghe lại thấy quen mà
lạ. Có lẽ, sau nhiều năm, đời sống xã hội thay đổi... nên cách nhìn nhận, đánh
giá cuộc sống của tôi cũng khác. Với lại, tâm trạng đọc cũng khác trước. Nếu
ngày trước, tôi háo hức đọc như nuối từng chữ từng câu rồi bị cuốn theo ma mặc
cho Nguyễn Huy Thiệp dẫn dắt, thì nay, tôi nghe người dọc diễn cảm với tâm
trạng muốn thẩm định lại,...Thấy quen thì rõ rồi, còn lạ là bởi chợt phát hiện
ra điều này điều kia, hám ý này hàm ý nọ trong câu chuyện cũ mà ngay trước mình
chưa từng ngộ,...
Tôi đặc
biết thích cái triết lý “đèn vàng” được Nguyễn Huy Thiệp nêu ra rồi kiến
giải trong truyện ngắn “Bài học tiếng Việt” mà ông lấy
nguyên mẫu từ cố nhà văn Vũ Trọng Phụng, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và xem
như hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Song trước khi bàn về cái
triết lý “đèn vàng” này, tôi muốn nói đến một phương thức đặc sắc
làm nên bản sắc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là nghệ thuật không
gian truyện, mà ở đây, tôi gọi là không gian Nguyễn Huy Thiệp.
Trong
những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, thì không gian truyện thật đặc biệt, dù
chỉ là không gian hẹp trong một chuyến đò ngang với thời gian mười phút
(như Sang sông), hay không gian
hiu quạnh trong túp nhà tuềnh toàng, xác xơ ven sông Đà mờ mịt khói sương
(trong Như sương như khói bay) , hay không gian
rộng lớn quốc gia, dân tộc, triều đại (như Kiếm sắc, Vàng
lửu, Phẩm tiết) hoặc không gian xuyên suốt hàng trăm năm qua bốn
đời của gia tộc họ Phạm (như Giọt máu),... Và trong không
gian nào thì cũng đủ để chứa câu chuyện, lớp lang với hàng tá khái niệm, hàng
mớ lý thuyết, hàng đống minh chúng mà tác giả cố tính nhét vào. Đó là cái tài
của riêng Nguyễn Huy Thiệp, bởi ở đấy, luôn chứ dựng những cập khái niệm đối
lập, như đao đức-vô luân, sáng tỏ-vô minh, văn minh-mông muội,ý thức-vô
thức, cao cả-hèn hạ, phúc thiện-tội ác,, tinh yêu-hận thù,... Cũng ở ái không
gian hỗn độn thực hư lẫn lộn ấy, cái có lý và sự vô lý đều có chỗ trong một
trật tự lo-gic theo khuôn phép của tác giả. Đó chính là giọng điệu kể
chuyện ma mị, ngôn ngữ hội thoại quỷ ám. Tôi nghĩ, bắng ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã
thực sự lám bạn đọc bị ám ảnh,...
Giờ thì
tôi nói về triết lý “đèn vàng” của ông. Trong truyện “Bài học
tiếng Việt”, sau khi đưa ra các trạng huống đền xanh, đền
đỏ, đấy là những tín hiệu dứt khoát một chiều, Nguyễn Huy Thiệp
đi sâu phân tích trạng thái “đèn vàng”, Đây là trạng thái lưỡng lự.
Ở trạng thái này, mỗi con người có sự lựa chọn khác nhau theo tính toán của
riêng mình, hoặc dấn tới vượt thật nhanh, hoặc dứt khoát dựng lại chờ
đợi, lại cũng có thể lưỡng lự giữa đi hay dừng, và như thế, mỗi sự lựa chọn sẽ
có những kết quả tương ứng, thuận lợi hay bất trắc tùy mayu rủi,... Trở
lại các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, hâu như các truyện, đều giăng mắc những
ngã tư đền vàng, ông đưa đẩy và dẫn dắt các nhân vật của mình đến
trạng thái đền vàng, để cho họ tự lựa chọn theo mạch chuyện, tâm lý nhân
vật và lo-gic tình tiết,... rồi cứ thế, tác giả tiện nước đẩy
thuyền, tha hồ đưa hàng lô triết luận của mình,...
Trạng
thái đên vàng được được trong không gian truyện ma mị
hư ảo mà ở đấy có cả thiên thần và ác quỷ, hiên đường và dịa ngục thì
đương nhiên, cả nhân vật và bạn đọc chúng ta dễ bị ám thị,...và khi ấy, mặc sức
thuân theo ý đồ c ủa nhà phù thủy,...
Một điểm
nữa, nhìn chung, không gian Nguyễn Huy Thiệp thường đượm buồn,
các cũng bậc và tâm trạng đem đến nỗi buồn, rồi lây lan sang người khác
như một thứ bệnh truyền nhiễm. Nhưng mà nó đẹp, đầy tính thẩm mỹ. Còn nó
có nguy hiểm hay không thì tùy mức thẩm thấu của mỗi người?...
Nguyễn
Huy Thiệp cũng hay nói đến tín ngưỡng, tôn giáo. Dường như, ông luôn đi tìm nó,
thú tín ngưỡng của riêng ông., m ở đấy, đánh thức được Lòng trắc ẩn-
qua đó giáo dục, giáo hóa đùng hơn, sự khai hóa lại thì phải?
Thêm nữa,
Nguyễn Huy Thiệp cũng hay tự mâu thuẫn với chính mình. Song có lẽ vậy, khi đọc truyện của ông, đến đâu
thích thú đến đó, rồi cứ thế sa vào bẫy của ông lúc bào không biết, đến hết truyện lại như mờ mịt chẳng có lối
ra và bỗng không hiểu ông đã nói
gì. Lối viết ấy là điểm mạnh của Nguyễn Huy Thiệp, nó gây ảnh hưởng, chi phối
nhiều cây bút văn xuôi khác., mà sau này, tôi nhận ra dấu vết ấy ở truyện ngắn
này truyện ngắn nọ ở cây bút nọ cây bút kia. Kể cả tác giả bài viết này, cũng
từng bị ảnh hưởng lối viết của Nguyễn Huy Thiệp.
Sau này,
đọc thêm diễn văn của Nguyễn Huy Thiệp khi ông nhận giải thưởng văn học
quốc tế ở Italia, giải Premio Nonino (2008) , tôi càng thám những điều
đó!... ./.
Nhà văn Nhật Tuấn, con chim biết chọn
hạt,
Con chim biết chọn hạt, ấy là tên một truyện vừa của nhà văn Nhật Tuấn, đã
được chuyển thể thành phim truyện, mà tôi từng đọc và xem. Ngày ấy, Nhật Tuấn
là một cây bút truyện ngắn sung sức, đáng chú ý... Thú thực, cùng Con
chim biết chọn hạt, thì Trang 17 và một số truyện của Nhật
Tuấn đăng tải ở báo chí văn chương tôi đã đọc ngày đó, thì tôi không được đọc
thêm các tác phẩm khác của ông, kể cả tiểu thuyết từng gây tiếng vang là Đi về
nơi hoang dã. Còn ngoài đời, tôi cũng chỉ gặp nhà văn Nhật Tuấn đôi
lần, lúc trà dư tửu hậu, nên có thể nói, là chưa mấy biết về ông, thì thử hỏi,
tôi viết chân dung ông thế nào đây?...
May mắn thay, tôi nghĩ vậy, tôi có duyên với nhà văn
Nhật Tuấn là nhờ mạng xã hội. Dạo ấy, chừng cuối năm 2010, Nhật Tuấn vào mạng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet,net) ghi cảm nhận cho một bài viết của tôi, dạng
khách đọc, dưới cái tên Người qua đường, và ngay lập tức,
ông đã gây ra sự chú ý của cộng đồng mạng. Ngày ấy, xứ ta chưa biết đến
Facebook, mà chỉ có một số mạng xã hội dạng Blog thôi, nên số người trở thành blogger và khách xem ở Blog này hay Blog
khác rất đông. Tôi đến với Blog Tiếng
Việt (BTV) như một sự ngẫu nghiên. Khi ấy, tôi đi luân chuyển công tác, làm
giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại khu vực miền Trung
(VOV-MT) có văn phòng ở Đà Nẵng. Một lần ra Hà Nội họp cơ quan, gặp nhà văn
Nguyễn Trọng Huân, một đồng nghiệp, giới thiệu với tôi về BTV và bảo tôi nên
lập trang cá nhân ở đấy để giao lưu cho vui. Thực lòng, tôi không mấy thích nên
ừ à cho qua. Nhưng rồi, một hôm, Nguyễn Trọng Huân gọi điện bảo là đã nhờ một
người biết IT lập trang cá nhân cho tôi rồi, địa chỉ mạng thế này, thế nọ. Tôi
cảm ơn xã giao nhưng cũng chẳng buồn vào. Rồi ngày đầu thu 2009, khởi đầu mùa
mưa miền Trung, tôi ngồi trong phòng làm việc nhìn mưa rơi tầm tã cả ngày, nhớ
ngoài Bắc, bỗng nảy tứ thơ, lúc ấy mới chợt nhớ ra mình cũng có blog, bèn lần
mò mở xem. Ở đấy, Nguyễn Trọng Huân đã chọn đăng liền mấy truyện ngắn của
tôi rồi. Cái duyên của tôi với blog như
thế đó...
Nhưng còn cái duyên của tôi với nhà văn Nhật Tuấn thì
sao ?
Đấy là nhờ BTV, kỹ thuật tin học hiện đại đã cho phép
tôi lưu giữ dấu tích đầu tiên Nhật Tuấn vào đọc trang blog của tôi và để lại
cảm nhận, ấy là lúc 18h33 ngày 01,3,2011. Đại khái, ông khen trang của tôi vui,
bảo rằng là qua tôi mà biết Trần Đăng Khoa cũng có blog ở đây, rồi ông phán là
trang của tôi, bình luận nghe xôm trò hơn văn chương, và hứa sẽ năng vào đọc.
Điều này cho thấy, ông đã đọc nhiều bài biết của tôi trước đó và các cảm nhận
cho mỗi bàn viết, nên mới đưa ra nhận định như vậy. Đặc biệt là trước đó, ngày
27.2.2011 tôi đăng bài giới thiệu một bài thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa từ hồi
1975, khi chung đội tuyển Học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng (cũ) tham dự kỳ thi học sinh giỏi toàn
miền Bắc, thì Nhật Tuấn mới thấy cần thiết phải xuất hiện (01.3,2911), tuy
nhiên, ông tránh không sa vào việc tranh luận mà ông cho là vô bổ đối với mình.
Số là, bài giới thiệu này của tôi có rất đông người đọc và ghi cảm nhận, tranh
luận, khen chê búa xua. xung quanh việc bài thơ ứng tác này của Trần Đăng Khoa
không tuân thủ luật bằng trắc của thơ Đường luật. Cứ thế, mọi người bàn qua bàn
tới sôi nổi lắm, cho đến khi chính Trần Đăng Khoa cũng phải ngỏ lời này nọ, còn
tôi thì lên tiếng thưa gửi cẩn trọng. Có lẽ vậy, nên Nhật Tuấn né việc tranh
luận chăng? Bởi chỉ ít lâu sau, ông bộc lộ sự chán chường với thi ca hiện tại,
trong những lời cảm nhận trang văn thơ của tôi, cùng như lời khuyên răn thẳng
thắn, chân tình,...
Ở thời điểm này, khi vào cảm nhận ở trang của tôi,
Trần Đăng Khoa và Nguyễn Trọng Huân cùng một số blogger khác, Nhật Tuấn không
xuất đầu lộ diện, ông đều đứng dưới cái nick Người qua đường. Có cảm
nhận ghi ở trang của tôi, ông lại chê sáng tác của người khác, tôi ái ngại việc
này nên để cảm nhận ấy ở chế độ ẩn. Ngay lập tức, Người qua đường phản ứng,
vì tưởng tôi xóa đi, bảo rằng, tôi có xóa thì vẫn cứ nói thẳng, rằng việc chê
văn người này người nọ, cũng được ghi bên trang của họ rồi, nên không việc gì
phải ngại, và nhắn rằng "Tôi không
phải kẻ phá đám đâu. Rất yêu các ông". Thẳng thắn và chân tình như vậy
đấy.
Dịp này, tôi có đăng liền 2 truyện ngắn của mình là Giải thoát và Người nổi tiếng, Trần Đăng Khoa đọc, khen chê này nọ, Người
qua đường vào ghi "Ý kiến
của Trần Đăng Khoa rất xác đáng. Rất tinh. Chỉ có vài chục chữ mà ra cả một vấn
đề. Cậu này làm biên tập rất chuẩn. Thảo nào hắn luôn được mời làm giám khảo các
cuộc thi văn chương từ trung ương đến địa phương....". Đọc cảm nhận
này, tôi cảm thấy ngay vị khách này phải thuộc hàng cao thủ văn chương thì mới
dám dùng lời lẽ vậy để nói về Trần Đăng Khoa. Và suy đoán này của tôi không
sai, khi chỉ sau đó một ngày, vị khách này lại vào ghi cảm nhận, lúc 22h49 ngày
15.3,2911: "Quả thật từ ngày có Lão
Khoa nhập hội, Quán lá Blog sinh động hẳn lên. Tôi cũng vì hay theo dõi lão
này, nên theo chân lão vào đây và không ngờ lại thấy rất nhiều văn nhân tài tử.
Nhiều tay bợm ra trò. Tôi uống rượu với Chu Nhạc hai lần. Một lần ngồi cùng
bàn, một lần ngồi cách bàn, nhưng hồi đó tôi không chú ý đến Chu Nhạc lắm, vì
trong chú rất thư sinh, và văn chương cũng mang đầy phong thái học trò. Bây giờ
thì khác. Chu Nhạc đi được một bước xa đấy. Tôi không quan tâm lắm đến thơ Chu
Nhạc đâu, đáy không phải thế mạnh của Chu Nhạc. Mà nhìn chung, thơ bây giờ đã
mất vị thế. Trừ một vài người có tài. Số này ít lắm, còn toàn ca dao hò vè
nhăng nhít. Đám truyền thống thì cũ mèm, lần thẩn. Đám cách tân thì bệnh hoạn.
Đều hỏng cả. Thời chiến tranh, người ta dùng ca dao hò vè để hô hào, cổ động,
động viên nên thơ còn có chỗ đứng. Bây giờ không cần hò lơ nữa nên thơ cũng mất
độc tôn. Nhạc nên dồn tâm sức cho văn xuôi và phê bình. Thế mạnh của chú ở đó.
Đừng phí sức vì thơ, để cho mấy anh vô công rồi nghề nó vầy nghịch. Vầy mãi tự
họ sẽ chán, chứ người đọc chẳng quan tâm.". Tôi đọc rồi vừa mừng vừa
lo. Mừng bởi vị khách này đã từng uống rượu với tôi đôi lần, vậy là người quen
rồi. Còn lo, bởi vị khách này thẳng toẹt chê thơ của thiên hạ. Thế nào cũng
sóng to gió lớn đây.
Quả nhiên, ngay lập tức, kế ngay cảm nhận của vị khách
khó tính, liền mấy cảm nhận khác bày tỏ sự bực bội, khó chịu với nhận xét chung
về thơ và người làm thơ ở xứ ta, theo sự đánh giá của Người qua dường. Không
những thế, họ còn bực lây sang tôi, và có người còn thẳng thắn khuyên tôi, chớ
có nhẹ dạ cả tin nghe theo cái nhận xét coi thường thi ca của vị khách nọ. Tôi
lúng túng chưa biết xử trí ra sao, may thay, Trần Đăng Khoa cứu tôi bằng cách
quăng cho tôi cái phao cứu sinh, ấy là danh tinh thật của vị khách khó tính
này.
Trần Đăng Khoa đến uống trà với tôi, ngỏn ngoẻn cười
duyên: "Đấy là nhà văn Nhật Tuấn,
ông ấy bỏ Hà Nội vào Sài gòn sống rồi".
Chẳng là, Trần Đăng Khoa vốn được xem là con ma xó của văn chương đất này, lại
thêm, lão ta là Trưởng ban Ban công tác hội của Hội Nhà văn Việt Nam khi ấy,
nên cái gì trong làng văn Việt cũng biết cả. Nghe vậy, tôi à lên sung sướng, và
liền có ngay lời kính thưa, để lọt tai Nhật Tuấn mà không mất lòng bạn bè, công
chúng mạng: "Chủ nhà xin có mấy lời
thưa cùng mọi người như thế này, mong tránh những hiểu lầm không cần thiết, vì
có thể làm mất bầu không khí vui vẻ của Làng Blog Tiếng Việt,...Thứ nhất, blog
là chỗ giao lưu vui vẻ, không phải là diễn đàn chính thức của hội này hội nọ,
mà nó như một gia đình lớn vậy. Chính thế, khi trò chuyện giao lưu, tùy tính
cách từng người và hoàn cảnh, nên lời nói cũng lúc căng, lúc trùng, lúc mặn lúc
nhạt, thế thôi...Thứ hai, riêng về vị khách Người qua đường (NQĐ), gần đây có vào thăm nhà của Lão Khoa và Chu
Nhạc tôi, với những lời góp ý thẳng thắn và chân tình về thơ văn của chúng tôi
và nhìn chung diễn đàn văn chương hiện nay, về cơ bản không có gì sai ...nên
hai chúng tôi rất tôn trọng ý kiến của bác ấy. Thêm nữa, về vị khách NQĐ, cả
tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân đều biết. Riêng tôi, đã
uống rượu với bác ấy đôi lần rồi cơ mà... Tôi biết rõ bác ấy, vốn nhà một nhà
văn chuyên nghiệp, xuất hiện trên văn đàn gần bốn mươi năm nay, có nhiều tác phẩm
văn xuôi (tiểu thuyết và truyện ngắn) được giải cao, được dựng thành phim. Từ
lâu nay, bác ấy luôn là niềm kính trọng của tôi (và cả với TĐK nữa). Chính vì
thế, khi bác ấy vào nhà Khoa hay nhà tôi, đều đưa ra lời nhận xét thẳng tưng
của một nhà văn lão làng với góc độ của nhà phê bình nghiêm ngặt, nên về phương
diện cá nhân, tôi chấp nhận một cách vui vẻ, và xem như lời khuyên của một bậc
huynh trưởng với em út. Còn như, nếu trong lời bàn với tôi (và Khoa nữa) có gì
đó khiến mọi người chạnh lòng này nọ, thì cũng xem như là bác ấy chỉ nói với
riêng tôi, và phần lỗi, là thuộc về Nguyễn Chu Nhạc tôi cả. Kính mong mọi người
hiểu, và mong mọi người vẫn ghé thăm, trò chuyện vui vẻ như cũ. Gọi là có mấy
lời trần tình. Kính.". Quả nhiên, lời trần tình của tôi có hiệu lực
tức thì, bạn bè và người quên trên mạng vui vẻ bỏ qua, Xóm Lá (tên gọi thân mật của
BTV) yên ổn trở lại...
Còn Nhật Tuấn, cũng thấy bùi tai, ông phúc đáp: "Cám ơn chú Chu Nhạc đã rất hiểu tôi. Tôi cảm
nhận vào trang chú với chú Khoa, chú Huân cũng vì quý ba chú. Chứ tôi đọc Blog
nhiều lắm. Những tiếng nói thật bây giờ, phần lớn ở Blog, nhưng vào rồi ra,
không để lại một dấu vết nào, vì cũng không có gì để nói... Văn chương lại là
chốn rất nghiêm túc. Chú có chút tài, nên tôi hy vọng chú thành một tác giả
đích thực. Chỉ tiếc chú chưa thực sự ý thức về điều này, dù đã ra đến cả chục
tập sách. Vì vậy, mà tôi nhắc chú thôi, nếu gặp chú thì tôi nói miệng, chẳng
viết làm gì, Nhưng hiện tôi ở xa, mãi Thủ Đức, mà chú thì ở Hà Nội, thành thử
mới phải nhắn qua bức thư ngỏ, với cái tên rất hiện đại là cảm nhận. Chúc chú
thành công.". (lúc 08h48, ngày 17.3.2011).
Khi đã biết vị khách Người qua đường là nhà
văn Nhật Tuấn, thì mọi sự với tôi đều sáng tỏ. Tôi nhớ lại, từ vài chục năm
trước, khi tôi theo đòi nghiệp văn chương thơ phú, thì Nhật Tuấn đã vang danh
rồi. Ngày ấy, nhờ truyện ngắn Trang 17 của ông mà tôi hiểu tại
sao, tất cả các cuốn sách trong hệ thống thư viện nói chung, để ấn định bất kỳ
một bản sách nào thuộc quyền sở hữu của thư viện nào đó, người ta lại đóng con
dấu của thư viện đó vào chân trang sách số 17, đơn giản bởi trong kỹ thuật in
sách, mỗi tay sách gồm 16 trang, nên trang số 17 là trang đầu của tay sách thứ
2 trong văn bản sách đó. Mặc nhiên, đấy là quy định chung của ngành thư viện
trên khắp thế giới. Cũng chính vì vỡ nhẽ điều này, sau đó, tôi bắt chước, khắc
một con dấu gỗ tên mình để đóng vào trang 17 toàn bộ sách trong thư viện mi-ni
của mình. Ngay truyện vừa Con chim biết chọn hạt của Nhật
Tuấn, ông cũng cho bạn đọc hiểu một việc mà rất ít người biết, ấy là sự ứng
dụng mang tính sáng tạo của ngành thư viện, lưu trữ văn bản nước ta, trong việc
sử dụng phiếu đục lỗ cho việc lưu trữ, tìm kiếm, tra cứu tài liệu văn bản tiện
lợi dễ dàng hơn. Sau này, tin học phát triển, tôi nghĩ, phải chăng, việc sử
dụng phiếu đục lỗ ngày đó, chính là một dạng ứng tin học đơn giản trong thực tế
đời sống?
Và rồi, tôi cũng nhanh chóng biết được, Nhật Tuấn có
người anh ruột là nhà văn hải ngoại Nhật Tiến, và việc này cũng ít nhiều gây
phiền hà cho ông. Bạn bè văn chương cũng gửi cho tôi đọc những bài phê bình văn
học của ông, với bút danh Trần Ngọc Lãng. Ở đó, ông thẳng tưng
đánh giá sự nghiệp sáng tác, cùng mức độ đóng góp của một số tác gia thuộc hàng
đầu làng văn chương xứ Việt thời hiện đại, cho sự phát triển chung của nền văn
học nghệ thuật nước nhà. Đọc rồi, ngẫm nghĩ, so sánh này nọ, mới thấy cái dũng
khí và năng lực phê bình ở ông không nhỏ chút nào,... Vậy nên, việc ông ghi cảm
nhận này nọ trong Blog Tiếng Việt, vẫn
một tâm thế và giọng điệu Trần Ngọc Lãng, thì chỉ như cái khẽ gảy móng tay của
Nhật Tuấn mà thôi. Nghĩ thế, tôi thấy mình may mắn vì được ông đoái hoài, nhận
xét và khuyên răn này nọ.
Và cũng mừng, mình đã đôi lần uống rượu với Nhật Tuấn.
Nhớ lại, khi ấy nơi làm việc của tôi và nhà văn Nguyễn Hiếu, Nguyễn Trọng Huân
ở 41-43-45 Bà Triệu, cũng gần nơi làm việc của Nhật Tuấn là Nhà xuất bản Văn học ở góc phố Hàng
Bài-Trần Hưng Đạo, liền kề với Trụ sở
Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam- 51 Trần Hưng Đạo. Tháng vài
ba lần, ba anh em chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm bụi buổi trưa, và quán cơm bình
dân Anh Đào ở gần góc phố Hàng Bài-Hàm Long là nơi chúng tôi hay chọn ăn. Ở
quán này, chúng tôi thường chạm mặt dân báo chí, văn chương Hà thành. Một lần,
đang ăn ở đây thì Nguyễn Hiếu chợt nhận thấy Nhật Tuấn ngồi ăn cách một bàn,
bèn mang chén rượu sang cụng ly với Nhật Tuấn và thực khách bên ấy, rồi Nguyễn
Hiếu lôi Nhật Tuấn về bàn mình, giới thiệu ông với chúng tôi và ngược lại. Ấy
là lần đầu tiên tôi giáp mặt Nhật Tuấn. Lần sau, cũng tại quán cơm đó, chúng
tôi đến sau, thấy Nhật Tuấn và bạn ông đã ngồi ăn và Nguyễn Hiếu liền ghép vào
chúng tôi vào chung một bàn. Cụng ly dăm bận, rượu vào lời ra, chuyện làng văn
rôm rả. Tôi mạnh dạn thưa với nhà văn đàn anh rằng tôi đã đọc Trang 17 và Con chim biết chọn hạt, cùng một số truyện ngắn của ông trên báo
chí. Ông lúc gật gù, lúc sảng khoái, bảo là có biết tên và cũng đã đọc mấy
truyện ngắn và tản văn của tôi trên báo, này nọ khen chê đôi chút. Ngày ấy, tôi
sung sức và chịu khó cày báo chí văn chương này nọ đặng kiếm nhuận bút thêm
thắt nuôi con nhỏ, nên truyện và tản văn của tôi đăng khá đều trên các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Hà Nội mới cuối
tuần,Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Pháp Luật cuối tháng... Lần gặp ấy, ông để
lại trong tôi thiện cảm về tính bộc trực và sự gần gũi, thân thiện của nhà văn
đàn anh. Vậy mà, bẵng đi dăm bảy năm, trong khi tôi không mấy nhớ, thì Nhật
Tuấn vẫn nhớ và nhắc lại chi tiết. Thực lòng, tôi cảm thấy gì đó như có lỗi với
ông...
Khi tôi đăng bài viết "Đào Chìm & nghệ thuật xây
dựng không gian truyện" trên trang cá nhân, mọi người ào ào vào
ghi cảm nhận, chủ yếu là khen bài viết tốt, trong đó có các cao thủ như PGS.TS
Minh Tâm, một số nhà văn hải ngoại như Vũ Thư Hiên, Vũ Trọng Trường và đặc biệt
Vũ Hoàng Địch (con của nhà thơ Vũ Hoàng
Chương), Đại tá Trần Trọng Trí, vị cựu thuyền trưởng tàu HQ05-nguyên mẫu
của chính trị viên Thuận trong Đảo Chìm,
cùng các thùy thủ thuộc quyền một thời của ông và nhiều bạn đọc khác. Tựu
chung, mọi người khen bài viết gọn gàng, súc tích, có sử dụng thi pháp khá
nhuần nhuyễn, và quan trọng làm sáng tỏ và tôn trọng giá trị đích thực của tác
phẩm này. Trần Đăng Khoa lấy đó làm vui, và đương nhiên, không thể thiếu nhận
xét của Nhật Tuấn, ông viết: "Tôi
cũng đã đọc Đảo chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa
viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể
loại khác. Nhưng đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui
vui, như chơi, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã
nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc
hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người
chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc cũng rất mới, cũng là một phát hiện, mà không
phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không
ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Nhạc. Tiếc
là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay.
Tôi vẫn nói Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài,
dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy".
Thực lòng, tôi vui vì nhận xét của các bậc cao thủ văn
chương, nhưng vui nhất là nhận xét của Nhật Tuấn, bời vượt qua sự nhận xét
thông thường, ông còn chỉ ra những điểm mạnh yếu của tôi và có lời khuyên chân
tình. Riêng về lời khuyên của Nhật Tuấn và các bậc đàn anh văn chương, đẩy bài
viết này lên thành một nghiên cứu về thi pháp tiểu thuyết của Trần Đăng Khoa,
thì tôi nghe làm vui thôi, bởi tự thân, tôi không có ý dấn thân vào lĩnh vực lý
luận phê bình, mà xem đó như một thú rong chơi thôi. Thể loại yêu thích của tôi
vẫn là truyện ngắn và tản văn...
Tôi đăng bài thơ Đón đợi, viết từ gần hai chục năm
trước, Nhật Tuấn cảm nhận: "Chú
Nhạc. Tôi không bàn về bài thơ này của chú đâu, dù trong đó cũng có đoạn được,
thậm chí có thể gọi là hay, như cái đoạn đợi chờ, trời đất vắng hết, ngẩng lên
chỉ còn mỗi vầng trăng thôi. Nhưng đó cũng vẫn là cái hay ở dạng nhàng
nhàng.Tất nhiên thơ in trên báo Văn nghệ, trên tạp chí Nhà Văn, thậm chí trên
cả một tạp chí chuyên biệt giành riêng cho thơ là tạp chí Thơ cũng chẳng hơn
thơ chú đấu, nhiều bài còn thua xa thơ chú. Gần đây, nhà phê bình X, nhà văn Y
cũng nhảy sang làm thơ là thế giới thi ca ngậu xị rồi... Có thể lảy thơ Ông Cụ
: Nhà nhà làm thơ/ Người người làm thơ/
Vè nhất định thắng/ Thơ nhất định thua... Thế thì chú còn xông vào cái sa
tràng bại trận "nhất định thua" đó làm gì. Tôi vẫn thấy chú rất mạnh
ở mảng văn xuôi và phê bình. Bài nào cũng có một cái gì đó lấp lánh. Cái độ lấp
lánh này mật độ không dày và không chuyên nghiệp như thằng Khoa, nhưng rất khá,
và có điểm chú còn chói hơn Khoa. Nhưng
Khoa hơn chú vì nó chuyên tâm và có ý thức vì điều đó, vì thế, nó mới thành nó.
Còn chú thì cho đến giờ phút này vẫn đếch thành cái gì cả. Tôi tiếc cho chú mà
nhắc chú thôi, vì chú có tài. Tôi rất quý những thằng có tài, nên cứ nói. Đấy
cũng có khi là bệnh của người già. (Tôi
đã hơn 70 rồi). Mặc dù nói thế này, có thể những người hâm mộ chú thái quá
có thể lại chửi tôi, nhưng vì quý chú mà tôi cứ nói. Hôm vừa rồi, tôi ra Hà
Nội, có đến thăm chú và thằng Khoa, nhưng cả hai thằng đều đi vắng. Tôi có nhìn
thấy cậu Huân, nhưng tôi không làm phiền cậu ấy. Từ ngày có chú và thằng Khoa
tham gia Blog, nhất là khi có sự xuất hiện của Khoa, giới Blog rất sinh động và
có sinh khí, hay hẳn. Thế mới lạ chứ. Khoa đưa ra trò độc, thiên hạ cũng chiềng
ra toàn của độc, chất văn chương thì họ không bằng Khoa, nhưng tài có chỗ cũng
không kém Khoa đâu. Nhiều chiêu độc ở cái Xóm
lá này, đáng nể lắm. Tôi thực sự bái phục đấy.". (17.04.11@07:26).
Tôi mừng, vì Nhật Tuấn tuy vẫn tỏ ra khó chịu với thơ
ca hiện nay, song ông cũng phải thừa nhận, nhiều người tham gia mạng Blog Tiếng Việt thực tài, khiến ông
phải bái phục.
Tâm phục khẩu phục, song cẩn trọng không thừa, tôi
phúc đáp: "Kính bác. Em luôn lắng
nghe bác. Và có thể nói, tự thâm tâm, luôn mong đợi những lời góp ý của bác. Em
thấy bác nói đúng (về em, về Khoa và nói chung văn học hiện nay) . Em cũng nghe
Khoa nói về những bài viết của bác về văn học. Điều đó, càng khiến em nể trọng
bác. Tuy nhiên, khi tham gia blog, ngoài chuyện văn chương, còn mang nhiều yếu
tố giao du vui vẻ, cho nên "món ăn trên mâm cơm blog" cũng cần có
nhiều món. Vả lại, với thơ, từ trước đến nay, em (và chắc nhiều người khác)
cũng chỉ xem như sự giải tỏa thôi... Với riêng em, thơ chưa bao giờ là một sự
nghiệp cả. Thế nên, việc có in tập hay không thì chỉ là chuyện "cả
làng cùng vui". Thêm nữa, em tự biết
mình, cái mạnh không phải là thơ, có chăng ít nhiều ở văn xuôi và phê bình,
chân dung văn học... Hơn nữa, blog chưa phải là phản ánh đầy đủ mình, bởi nhiều
cái đưa lên đây không tiện, bác ạ. Tiếc là hôm em và Khoa vào Sài Gòn, biết bác
ở Thủ Đức, song không biết cụ thể ở đâu nên khó liên lạc, vả lại, bác cũng lại
ra Hà Nội. Nếu có thể, bác cho em (hoặc Khoa) biết số điện thoại liên lạc, để
khi có điều kiện thì alô đến thăm bác. Cả em và Khoa đều hay đi Sài gòn. Mong
bác vào blog của em thường xuyên, và cứ nhận xét thẳng tưng. Em thích vậy, bác
ạ. Xóm Lá này cũng rất đáng nể trọng
và đáng yêu lắm đấy. Nhiều người có tài và có tâm, như bác thấy và đã nhận
xét...".
Vậy là, tôi và nhà văn Nhật Tuấn đã hiểu nhau hơn, và
có thể, mọi người trong Xóm Lá cũng thông cảm, mà không phản ứng thái quá với
những nhận xét khó nghe của ông.
Ngày 27.4.2011, tôi đăng bài thơ Chiêm bao, Nhật Tuấn vào
cảm nhận: "Chú Nhạc. Tôi vừa đọc một bài viết hay, rất cảm
động bên chú Khoa, sang chú lại gặp chú vày thơ. Tôi định không đọc. Nhưng tò
mò xem thế nào thì thấy hay. Đây là bài hay nhất của thơ chú mà tôi được đọc.
Chú nên chữa một câu kết thì thành một bài thơ hoàn chỉnh. Chú thay chữ "ngỡ" thành chữ "thấy", khẳng định, và thay chữ "đâu" thành chữ "đang". Chiêm bao khi đang tỉnh mới tuyệt.
"Tiếng động nào hiên ngoài chênh
chao/ Sực tỉnh thấy mình đang chiêm bao...". Tuyệt vời chú Nhạc ạ."
. (30.04.11@22:53)
Phải nói, tôi mừng, vì rốt cuộc, ông nhà văn kiêm nhà
phê bình khó tính này, cũng phải buột miệng khen thơ. Ngay sau đó, Trần Đăng
Khoa vào cuộc: "Đồng ý với đại ca,
bài thơ lênh phênh chênh chao này là bài hay nhất của Nhạc. Hay vì nó
lạ, giai điệu lạ, thoát khỏi cái thông thường. Bác tinh đấy, không phải chỉ
trong văn xuôi mà cả thơ nữa. Mấy góp ý của bác rất chuẩn. Cao thủ. Tất nhiên ý
Nhạc cũng như ý bác thôi, vẫn là chiêm bao trong lúc tỉnh, nhưng thay hai chữ,
diễn đạt như bác thì câu thơ sáng hơn, cao thủ hơn. Nhưng ý thì vẫn là một.
Nhạc viết bài này là ứng tác, nhân đọc một bài thơ của bạn rồi viết ngay một
bài theo tư duy khác hẳn. Vì ứng tác, nên câu chữ không thể chuẩn ngay được.
Trong bếp núc sáng tạo, nhiều khi rất thú vị như thế đấy. Viết đùa, viết chơi
thì lại hay, thậm chí có những câu lóe sáng bất ngờ, còn cứ gò gẫm, có ý thức
làm một tác phẩm để đời thì có khi tác phẩm lại hỏng, những con chữ còng queo
chết ngay khi vừa nhô ra khỏi ngòi bút hay bàn phím. Thú vị thật!".
(01.05.11@11:10).
Nhật Tuấn đang hăng, tiếp đã đàm luận văn chương: "@TĐK. Chú nói đúng. Trong sáng tạo,
cần tự do. Tự do lớn nhất vẫn là tự do trước chính mình. Nhiều thi sĩ nổi
tiếng, đùa hoặc ký tên nhắng thì rất hay, ký tên mình và cố gò gẫm theo kiểu
"thôi - xao" thì dở ẹt. Chứ tự do không phải là chuyện o ép của chính
quyền như một số anh cứ lu loa. Chả có thời nào bị bóp nghẹt và mất tự do như
thời phong kiến, mà sao vẫn có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương. Bây giờ
thì tự do đấy, ai cấm ai đâu, viết xong là tự xuất bản, đưa lên Blog, đi toàn
cầu, có cha còn tự dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, in song ngữ, cũng như cái
cậu gì ấy tự phong thần đồng, mà sao vẫn không mọc mũi sủi tăm lên được. Tôi
nghĩ thời này là thời rất hay. Không đổ lỗi cho ai được. Có tài thì sẽ nổi danh
ngay" (01.05.11@21:51)
Cái hay, cái thích ở đây, là hai cao thủ Nhật Tuấn và
Trần Đăng Khoa mượn cớ bài thơ Chiêm bao của tôi để bàn về lý luận
thi ca nói chung, súc tích mà dể hiểu. Quan trọng nữa, Nhật Tuấn đã khảng khái
đưa ra nhận định về tài năng văn chương, điểm chính yếu để làm nên tên tuổi tác
phẩm-tác giả, chứ không vìn vào này nọ, hoặc đổ lỗi cho thời cuộc như nhiều nhà
văn, nhà thơ khác. Thấm luận điểm này của Nhật Tuấn trong văn chương xứ ta, tôi
lại nhớ đến cái truyện hài hước Giá không có ruồi của nhà văn
người Thổ Nhĩ Kỳ là Azit Nê-xin...
Ngay sau đó, tôi chỉnh sửa bài thơ Chiêm
bao theo như góp ý của Nhật Tuấn, nghĩ thế thôi, không ngờ ông vào xem
và không quên động viên: "@Chú Nhạc.
Đọc lại bài chỉnh của chú rồi. Chuẩn. Gửi cho báo Văn nghệ hoặc Tạp chí Thơ Hội
Nhà văn nó in cho. Tôi cũng có đọc bài này của chú cho mấy thằng nghe rồi,
chúng đều khen cả. Không có gì giống Bích Khê và Xuân Diệu cả, dù họ cũng làm
thơ theo kiểu độc vận và dùng toàn âm bằng. Chú là một dạng khác hẳn. Tôi cũng
đã vào đọc cái bài khơi nguồn cho chú. Nhưng thấy nó chẳng ra cái lý cố gì cả.
Nhạt toẹt. Mừng chú". (01.05.11@21:39). Mặc dù chỉ là động viên cho
phải phép, khi đàn em nghe lời mình, nhưng Nhật Tuấn vẫn không quên cài thêm ý
kiến phê bình của mình về thơ ca nói chung. Có cảm giác, Nhật Tuấn đang ở vào
thời kỳ sung mãn về lý luận, phê bình, nên mọi cảm quan của ông về lĩnh vực này
tràn ứ, cứ muốn ứa ra mỗi khi ai đụng đến ông hay ông va quệt vào ai vậy?...
Bẵng đi một dạo, không thấy ông xuất hiện nơi Xóm Lá, cho đến khi tôi đăng bài thơ Mưa
Ngâu, Trần Đăng Khoa ghi cảm nhận, khen: "Ai hiểu đời tư Chu Nhạc sẽ thấy bài thơ này rất hay. Mình tin một cô
giáo mà Nhạc cứ lo em cóng lạnh đôi tay trên bục giảng khi mùa ngâu về ấy, chắc
sẽ khóc khi đọc lại những trang kỷ niệm này. Có một vài chữ, mình tin ông vi
tính sai, chứ một con cáo già trong văn chương như Chu Nhạc không thể ngớ ngẩn
như vậy. Có mấy câu mình thích:"Nước mắt nở những chùm hoa ngâu/ thơm
lặng thầm như ai nhớ thương nhau."
Hay . "Mưa ngâu ướt lạnh cây vườn/ hoa ngâu thơm cả ngoài hiên trong
nhà/ mà người thì vẫn mãi xa,"
(17.06.11@06:51). Dường như chưa thỏa mãn, Trần Đăng Khoa bồi tiếp: "@CN. Nói thêm một chút nữa. Hai câu
này rất hay và rất tinh tế: "Nước mắt nở những chùm hoa ngâu/ thơm lặng
thầm như ai nhớ thương nhau". Bốn câu cuối đổ lục bát cũng rất đắc địa.
Trong và xót. Có lẽ vì tránh lặp chữ "thì" mà Nhạc dùng chữ "cho", nhưng chữ ấy lại quá quen. Có thể tránh chữ "thì" ở bên trên được không? "Mưa
ngâu ướt lạnh cây vườn/ hoa ngâu thơm/ cả ngoài hiên trong nhà/ mà người vẫn
mịt mù xa,/ đến khi bạc tóc thì ta gặp mình...".
Rất hay Nhạc ạ. À báo cho bạn bè Xóm lá biết, Lão Chu Nhạc động rồ sắp ra một
tập thơ khoảng 100 bài hay đến khủng khiếp. Nhiều chị em sẽ khóc như mưa. Lão
Khoa đang đọc và viết tựa"- Trần Đăng Khoa tếu táo.
Thấy đừng chẳng đặng, Nhật Tuấn cảm nhận: "@TĐK. Chú Khoa rất tinh nghề. Bài thơ
của Nhạc hay. Tôi rút lại ý kiến là Nhạc chỉ nên dồn sức cho văn xuôi. Chờ đọc
tập thơ mới của chú ".
Mặc dù, tự thâm tâm, tôi chưa từng nghĩ, thơ là sự
nghiệp trong nghề cầm bút của mình, song tôi yêu nó. Từ những ngày tập tọng làm
thơ lúc còn đi học, là tôi noi theo, bắt chước Trần Đăng Khoa, nghĩ mình làm
thơ cho vui, vì mơ ước của tôi khi ấy là nghề kiến trúc sư, đặng theo nghề của
cha tôi. Song cuộc đời có những khúc ngoặt không ngờ tới, ấy là việc tôi thì
không đõ và trường Kiến trúc, và sau đó theo học Đại học nông nghiệp. Những năm
tháng lang bạt kỳ hồ ở miền Tây Nam bộ, thời gian rảnh rỗi, tôi viết báo nghiệp
dư, đặng học nghề báo và gây chút tên tuổi với mong ước trở thành người làm báo
chuyên nghiệp. Làm báo, tức là cầm bút, thế là chút mầm mống thi ca văn chương
này từ thời đi học, ngỡ thui chột, bất ngờ sống lại, tươi mới và đầy khát vọng
lớn thành cây. Lại thơ, lại truyện ngắn, bút ký, tản văn, hầu như tôi không nề
hà và đều thử sức mình ở các thể loại. Khi đã trở thành người làm báo chuyên
nghiệp, lại được làm việc ở Đài Tiếng nói
Việt Nam (VOV), thì mầm cây văn chương trong tôi nhanh chóng bật lớn. Song hành
với nghề làm báo, nghề chính kiếm cơm. đặng nuôi thân và gia đình, thì văn
chương thơ phú là gia vị bổ trợ, cho mình rèn rũa ý tứ, câu chữ, tâm tính, là
chỗ dựa tinh thần... Và rồi, văn chương nó ám vào mình lúc nào không biết, để
thành nghiệp. Mà một khi đã thành nghiệp, thì có đánh đến chết cũng không từ bỏ
được, còn hơn cả kẻ nghiện ma túy vậy!... Kim cổ đông tây, đã từng cho thấy,
biết bao kẻ kiệt quệ về thân xác, ngẩn ngơ về tinh thần là vì văn chương thơ
phú đó sao?!...
Vậy nên, tôi vui vì Nhật Tuấn đã rút lại lời khuyên
tôi bỏ thơ, chỉ tập trung trí lực và văn xuôi và phê bình, không những thế, ông
còn chờ mong tôi xuất bản thơ nữa kia. Tôi tin là Nhật Tuấn thật lòng, bởi đơn
giản, tôi chỉ là chú em nhỏ của ông thôi, chẳng việc gì ông phải nói lấy lòng,
trong khi, bằng khả năng phê bình sắc sảo và trực tính của mình, ông đã từng hạ
bệ, nếu không muốn nói mạnh là lật nhào, nhiều tượng đài tên tuổi của làng văn
chương đất Việt hiện đại là gì !?... Ngày ấy, khi làm việc tại Văn phòng phía
Nam của Nhà xuất bản Văn học, Nhật Tuấn đã bày tỏ thái độ đồng tình với nhà thơ
Xuân Sách khi xuất bản tập Chân dung nhà văn, mà ở đó, theo Nhật Tuấn, không
chỉ là chân dung đơn thuần một cách
hài hước, ấy là chân tướng của các
vị...
Sau cảm nhận vào bài thơ Mưa ngâu, Nhật Tuấn mất
tăm, không để lại dấu tích gì thêm trên trang cá nhân của tôi, nhưng theo Trần
Đăng Khoa, thi thoảng ông vẫn vào ghi cảm nhận đâu đó trên trang Lão
Khoa (tên trang cá nhân của nhà
thơ Trần Đăng Khoa ở Blog Tiếng Việt). Tôi nghĩ, có thể Nhật Tuấn vẫn vào
xem, nhưng thấy không cần thiết ý kiến ý cò gì thêm nữa, hoặc giả, ông chán
chường với thứ mà ông cho là khen chê cho phải phép, lấy lòng nhau trên không
gian ảo này rồi ?...
Bẵng đi, thảng tôi vẫn nhớ Nhật Tuấn và thèm được đọc
những cảm nhận mang chất gây sự của ông, cho đến một hôm, vào đầu giờ làm việc
một ngày thu tháng mười, Trần Đăng Khoa gõ của vào phòng làm việc của tôi, vừa
bước vào, buồn buồn thông báo: "Nhạc
à, Nhật Tuấn vừa mới mất...". Tôi lặng người đi. Tôi và Trần Đăng
Khoa, chén trà trên tay mà chẳng biết tiếp câu chuyện thư thế nào. Tự dưng, ký
ức về Nhật Tuấn ùa về. Ông mất đột ngột vì chứng viêm cấp hành tá tràng vào
ngày mồng 6 tháng 10 năm 2015, và ngẫu nhiên, trùng với sinh nhật lần thứ 58
của tôi. Chuyện về Nhật Tuấn, chúng tôi nói về các sáng tác chính của ông, đặc
biệt là loạt bài phê bình đánh giá lại một số tên tuổi văn chương Việt hiện
đại, và không quên nhắc chuyện ông từng
quấy động Xóm Lá ngày nào. Trần Đăng Khoa bảo, với trọng trách, tình cảm cá
nhân và lòng kính trọng dành cho Nhật Tuấn, sẽ bay vào Nam để cùng gia đình và
Hội Nhà văn tổ chức tang lễ cho ông...
Giờ đây, lần giở từng trang mục của mình trên Blog Tiếng Việt, bao chuyện cũ sống
lại, và trong đó, hình bóng của hai con người, chỉ là khách vãng lai trên các
trang mục blog của tôi, ấy là đại tá Trần Trọng Trí, cựu thuyền trưởng tàu HQ05
Hải quân Trường Sa và nhà văn Nhật Tuấn là đậm nét nhất. Thâm tâm, tôi kính
trọng và yêu quý hai con người này, dù người trước người sau, đã cùng vân du về
cõi thiên thu...
Tôi đã viết chân dung đại tá Trần Trọng Trí (Người thơ tôi chưa từng gặp mặt-Tập chân
dung Trời
đất thu hay lòng ta thu-Nxb Dân trí 2016), và với riêng tôi, Trần Trọng
Trí mãi là Người thơ của biển. Nay ký họa chân nhà văn Nhật Tuấn, như một
sự tri ân với người đàn anh văn chương, với bậc đại ca (như cách gọi vui mà tôi từng thưa gửi với
Nhật Tuấn), mặc dù, ông không cần và cũng chẳng biết điều đó. Với tôi, Nhật
Tuấn xứng đáng là Con chim biết chọn hạt trong lĩnh vực phê bình văn học, như ý
đồ ông đã định ra từ hơn ba mươi năm trước. Nhân đây, tôi có đôi điều thưa với
đại ca Nhật Tuấn rằng,...
Thứ nhất, tôi vẫn sáng tác đều, các thể loại mà tôi thấy mình
có thể, tuy nhiên, bới bản tính ngại quan hệ tiếp xúc này nọ, nên mặc dù có đến
vài chục cuốn sách xuất bản, vẫn xem như chưa thành danh và sự nghiệp gì... Vậy
nên chăng, đại ca ơi?
Thứ hai, chuyện xứ ta, nhà nhà làm thơ, người người làm thơ,
âu cũng là một sự đặc biệt của xứ sở này, mà chẳng nơi đâu trên trái đất này có
được... Chẳng hay lắm sao?! Với lại, người dân Việt mình yêu thơ, thích làm thơ
là mang tính truyền thống đất chứ? Người làm thơ nói chung, đa phần, chẳng màng
chuyện thành danh hay nên sự nghiệp gì, mà là để giải tỏa nỗi lòng, để giao lưu
bạn bè, để dưỡng dục tinh thần mình, đặng trụ vững trên mảnh đất chiến tranh
liên miên và đầy rẫy bất trắc... Thêm nữa, trong cái vườn thi ca toàn dân trăm
hoa đua nở này, có nhiều loại hoa quý, hương sắc lạ, mà dễ gì giới văn thơ
chuyên nghiệp có được, đại ca nhỉ?!...
Nữ bác sĩ mê văn chương
( Chân dung văn học bác sĩ Trương Thị
Mầu )
Vào chiều muộn ngày 30 tháng 4 năm 2020, trên trang
Facebook cá nhân, nữ bác sĩ người dân tộc Mường-Trương Thị Mầu, Giám đốc Phòng
khám đa khoa Lương Điền, huyện Bá Thước, tinh Thanh Hóa đã viết một tâm sự ngắn
như sau:
Lại một ngày như thế.
Lẽ ra hôm nay là ngày vui vẻ (30/4) gia
đình cũng tổ chức một bữa tiệc mừng ngày đất nước thống nhất. Kết thúc buổi
chiều chuẩn bị tắm gội và nghỉ ngơi thì “Bác ơi có bệnh nhân cấp cứu”-
một thanh niên bế một cô gái máu me bê bết đầy quần áo, mặt trắng bệch. Chợt
nghĩ hay bệnh nhân chửa ngoài tử cung. Siêu âm kỹ không phải, cô gái cam đoan
cháu không thể có bầu đâu bác ạ. Chắc là cháu xuống kinh nhiều nên choáng thôi,
Huyết áp tụt. Với trực giác có gì không ổn, “Để
bác khám sản cho cháu nhé”. “Cháu
không khám đâu, cũng không thể truyền dịch được vì lâu quá, cháu phải về vì chỉ
xin phép bố mẹ đi chơi một ngày thôi, cho cháu xin đơn thuốc về điều trị”. Mình cho tiêm trợ lực, cô ta vào nhà vệ
sinh bị xỉu luôn, cậu con trai bảo cứ truyền dịch cho cô ấy bác ạ. Đúng như tôi
dự đoán, cô bé bị chấn thương đường sinh dục rất phức tạp. Cậu con trai ấp úng “Chúng
cháu... lần đầu.. Bác ơi, bây giờ phải
chuyển tuyến hay làm sao bây giờ. Chúng cháu sợ quá”/ ”Bác sẽ khâu cho cháu, vì chuyển tuyến chỉ cần chảy thêm chút nữa
là kiệt máu chết đấy, bác sẽ tiêm giảm đau, tất nhiên vẫn đau nhưng chịu được.
Cháu có thể suýt xoa, khóc nhưng không được giãy giụa nghe chưa”. Vừa hồi sức vừa đánh vật, khẩu trang, mồ
hôi, kính mờ, mắt cay, hẹp, ánh sáng nhập nhoè, mình già thật rồi, gần 2h ba
bác cháu tôi mới hoàn thành ca phẫu thuật. Truyền gần 3 chai dịch, uống bịch
sữa cô ấy dần tỉnh táo trở lại, nhưng rất mệt mỏi, tôi lấy 2 lát sâm ngâm mật
ong cho cô ấy nhai rồi hỏi chuyện/ “Bác ơi có ảnh hưởng gì tới chuyện có
con sau này không”/ “Không, nhưng về
tâm lý thì cậu phải vượt qua một số chuyện”.
Thì ra cô ấy, 23 tuổi, tốt nghiệp đại học sư phạm văn, đang chờ việc, đi chơi
với người yêu. Mình bảo cô giáo gì mà bé thế, cô ấy bảo tại dạo này cháu bị áp
lực lo lắng xin việc, lo thi công chức, cô ấy sút 7kg từ 50kg còn 43kg. Lần đầu tiên đi
chơi xa với người yêu, hẹn cuối năm cưới.. Cậu
là người có học, lại học khoa văn mà thiếu kiến thức về kỹ năng sống thế sao.
Cả việc stress do chưa xin được việc nữa, mới 23 tuổi đầu. Rất nhiều người học
đại học đi xuất khẩu lao động, vào làm việc trong các công ty cậu biết không .
Trong lúc theo đuổi mục tiêu chính cậu cần phải trải nghiệm trong cuộc sống,
Thử làm bất việc gì miễn là kiếm ra tiền, đừng phạm pháp là được, thất bại cũng
không sao, cuộc sống sẽ dạy ta phải làm gì để tồn tai. “Bác nói chuyện thật thú vị”, cô ấy cười, cũng xinh. Rồi cô ấy nói: “ước gì cháu mạnh mẽ được
như bác. Hôm nay bác không chỉ cứu mạng cháu mà bác còn cho cháu hiểu ra nhiều
điều. Cám ơn bác rất nhiều”/”Điện
thoại của bác đây, cần gì hỏi sau, truyền xong chai dịch có thể về, không cần
cám ơn, đừng làm phiền bác, bác mệt rũ ra rồi”. Nhớ lại cách đây 3 năm cũng dịp 30/4 mình cũng xử lý một trường hợp
tương tự, chỉ có điều cô bé mới học lớp 11, còn hôm nay là một cô giáo. Buồn. Những ngày 30/4
không vui nhưng cũng không hề dễ quên chút nào..”.
Tôi
mở đầu câu chuyện về một bác sĩ mê văn chương lại bằng chính câu chuyện của
người bác sĩ đó về một chuyện không liên quan gì đến văn chương cả. Song tôi
nghĩ, ai đó đọc câu chuyện bác sĩ Trương Thị Mầu vừa kể đây, sẽ hiểu ý nghĩa và
giá trị nhân văn của nó, mà theo tôi, lý tưởng nghề nghiệp này đã khởi nguồn và
dẫn dắt nữ bác sĩ theo đuổi con đường văn chương như một phép tu thân dưỡng
tâm, tích đức, gột rửa tinh thần ?...
1. Bác sĩ, nhà thơ Trương Thị Mầu.
Sinh năm
1958, tuổi Mậu Tuất tại xứ Mường, chòm
Măng, Lương Ngoại, Bá Thước Thanh Hóa, Trương Thị Mầu những mong ước học hành
trở thành bác sĩ, để chữa bệnh cho bà con dân tộc Mường của mình. Theo học Y Khoa
Thái Bình, tốt nghiệp, nữ bác sĩ trẻ người Mường giữ đúng lời hứa với lòng
mình, trở về xứ Mường quê mình công tác. Năm tháng trôi qua, tận tụy công việc,
Trương Thị Mầu trở thành giám đốc Bệnh viên đa khoa Bá Thước và được phong danh
hiệu Bác sĩ ưu tú. Không an phận,
thấu hiểu việc chăm sóc sức khỏa cho người dân vùng núi xa xôi hẻo lánh là cần
thiết, khi nghir hưu, Trương Thị Mầu thành lập Phòng khám đa khoa Lương Điền
tại quê, tự mình làm giám đốc và bác sĩ trưởng, tiếp tục sự nghiệp khám chữa
bệnh cho người dân quê mình.
Sinh ra trong chiếc nôi văn hóa Mường,
thấm đãm bản sắc văn hóa dân tộc minh, Trương Thị Mầu yêu văn học và sáng tác
thơ văn, xem văn chương như thuốc dưỡng tâm, dưỡng đức cho nghề y và cuộc sống
của mình. Viết truyện, làm thơ như một cach ghi nhật ký. Cứ vậy, lâu ngày, tích
lại nên gia tài nho nhỏ và hơn thế, Trương Thị Mầu trở thành nhà thơ của xứ
Mường. Chị là hội viên Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Thanh Hóa, hội viên Hội
Liên hiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy có viết một
số truyện ngắn, truyện ký, song Trương Thị Mầu là một nhà thơ đúng nghĩa. Đến
nay, chị là tác giả của 5 tập thơ: Nghiêng (2006). Bóng núi (2007), Mùa
dậy sấm (2009), Người dưng (2012) và gần đây là Nương
bóng nhà sàn,
Đọc thơ Trương Thị Mầu, thấy sự nhất
quán, điều này có nghĩa, xuất thân và nghề nghiệp để dấu ấn đậm nét trong tho
ca,
2. Dấu ấn
nghề y trong thơ văn Trương Thị Mầu,
Mầu
chuyện tôi trích ở phần đầu bài viết này chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện
hàng ngày mà Trương Thị Mầu ghi chép lại. Trên cơ sở những câu chuyện có thật
rất chi sinh động ấy, chị chỉ cần lựa chọn, đẩy lên, gia công là thành truyện
ký, truyện ngắn. Khi cảm xúc dâng trào,
thì thành thơ.
Một, hai, ba...cố lên, tim đã hồi!
Nhanh nữa lên, một hai ba: thở rồi
Thở đi em, sâu vào, mạnh nữa
Cho không khí ùa vào bầu phổi...
Máu cỉa em đang hồng trở lại
Đôi môi em thắm dần thôi tím tái
Và mắt em chớp chớp mở choàng
Bài thơ “Thở đi em”nữ bác sĩ kể chuyện, Thấy
rõ, niềm vui vỡ òa sau một ca cấp cứu thành công, trào dâng thành câu chữ vần
điệu. Mộc mac như câu nói thường tình nhưng đầy cảm xúc. Nhung rồi, đâu có được
nghỉ ngơi để tận hưởng niềm vui:
Thày thuôc
nắm tay nhau cười... ứa lệ
Bình tĩnh lại đi tiếp tục ca mổ nhé,
Còn một sinh linh đang đợi chào đời...
Ngay
đó, người bác sĩ lại lao vào ca mới:
“Hãy đón lấy
đây, mooyj bé gái/ Nhanh nhanh lên lại ấn thở, bóp tim/ Thở đi con,/ Kìa,/Thở
đi con gái,/ Tiếng oa/ Vỡ òa.../ Thành ánh bình mình !”.
Lúc ấy, người bác sĩ mới cảm nhận được niềm hạnh phúc
vô bờ khi mình vừa đem sự sống đến cho người khác:
Hạnh phúc nào
hơn người thầy thuốc
như những
thiên thần được chắp cánh bay lên,
Để có những tâm sự nặng nỗi niềm nghề nghiệp trong thơ
văn của mình, Trương Thị Mầu đã gửi gắm ước mơ xanh từ ngày còn là sinh viên
trường y cùng thày bạn, trên giảng đường. khi thực tập va cả buổi đầu cuộc đời
bác sĩ của mình.
Chẳng
thể nào quên ca mổ đầu tiên
Thiếu
thuốc mê, thiếu người phụ mổ
Bệnh
nhân đau đứt đoạn từng hơi thở
Qua
khỏi rồi thầy thuốc khóc rồi...run.
Có
một thời dịch dã liên miên
Thầy
thuốc bệnh nhân sắt se nghèo đói
Mái
nhà tranh ánh đèn dầu le lói
Lửa
bập bùng xua lạnh lẽo đêm đông.
Dẫu có thế, đâu ngại khó ngại khổ, một
khi đã thề cả cuộc đời theo nghề y nặng lời thể Hypocrat:
Ai
nhớ ai quên một thời đã sống
Nước
sông đục ngầu đánh phèn, lọc, lặng
Pha
dịch truyền bằng muối biển đường ăn.
Mối
tình đầu rồi cũng lãng quên
Cuộc
sống ngặt nghèo lo âu toan tính,
Với
nghề y tôi là người lính
Mỗi
chặng qua rồi, tiếp tục hành quân.
(Ước mơ xanh)
Tôi
rất thích những tản văn bắt nguồn từ các chuyện thật trong công việc
nghề y hàng ngày của Trương Thị Mầu, chân thực, ưu tư, cảm động và nặng nhân
văn... (nhu Niềm vui có thật, Day dứt, Nhìn cái chết....). Trong tản văn Duy dứt, chị tâm sự rằng, hết thày
công việc trong quá trình hành nghề y của mình, chị không nề hà gì, song vẫn
thấy nản nhất là phải tư vấn hoặc tự tay giải quyết các ca “vỡ kế hoạch” (có thai ngoài ý muốn). Ngại và nản,
không đơn thuần công việc chuyên môn, mà vì tính
chất công việc, là do ý nghĩ đang làm cái chuyện “giết người có chủ đích”
có sự thỏa thuận đôi bên, đối tương và bác sĩ hành nghê. Kết thúc tản văn, chị
kể câu chuyện “Tối qua lại có một cô bé
mới 22 tuổi chưa chồng, được mẹ đưa đến khám vì đau bụng, hai mẹ con cười nói
ồn ào, khi SA mình phát hiện cô bé đã có thai 4 tháng, được thông báo cả 2 mẹ
con tròn mắt ngạc nhiên, sau phút sững sờ người mẹ chửi con, người con cãi mẹ
chuyện om xòm. Người mẹ hỏi là của thằng nào, người con bảo không nhớ chắc là
do con say rượu. Thế đấy. Cô bé nằng nặc đòi bỏ thai, người mẹ nài nỉ. Mình
thấy chán chường và mệt mỏi quá không buồn tư vấn hay giải thích gì nữa. Chỉ
nói: nếu còn muốn sống thì đưa cô bé đến bệnh viện phụ sản ở đó người ta sẽ nói
nên làm gì. Thấy mình quát to 2 mẹ con thôi cãi nhau lẳng lặng lên xe ra về. Một
trận mưa rào đổ xuống, lòng mình ướt sũng như mưa!..”.
Còn hơn sự day dút, ấy là “nhìn cái chết” mà chẳng thể làm gì, ngoài sự bất lực. “Nói đến cái chết thì ai cũng sợ, nhưng thực
chất là sợ cái gì thì lại không rạch ròi được. Có lẽ là sự cô đơn, lạnh và
không chia sẻ được cùng ai.Rồi thì trách nhiệm, bổn phận chưa hoàn thành, nào
là nuối tiếc vân vân và vân vân. Nhưng cũng thật kỳ lạ phải nói là kỳ diệu mới
phải, bài điếu văn nào thì người chết cũng tỏa sáng lung linh, những câu chữ
tốt đẹp nhất giành ca ngợi người chết. Đặc biệt các nhà văn nhà thơ chỉ thật sự
nổi tiếng khi đã chết rồi. Có những bản thảo khi còn sống đã gõ cửa khắp nơi
chẳng ai buồn đăng khi chết rồi chợt thành cái rất hay ho. Nên cái chết nhìn về
khía cạnh nào đó cũng mang lại điều kỳ diệu. Mọi người cũng nói nhiều đến việc
sống hướng thiện chết bình thản. Nhưng có lẽ quan sát nhiều cái chết nhất là
các bác sỹ khoa hồi sức cấp cứu còn gọi là khoa điều trị tích cực. Mình cũng
không nhớ hết được đã cứu được bao nhiêu người khỏi tay thần chết nhưng cũng
không nhớ hết được đã vuốt mắt đưa tiễn bao nhiêu người sang thế giới bên
kia...”. Chị đã viết vậy trong tản văn “Nhìn cái chết”. Có nhiều lần bất lực “nhìn cái chết” nhu vậy, bác sĩ Trương Thị Mầu mới thấy niềm vui khi
cứu sống được bệnh nhân nó lớn lao thế nào. “Đã 5 ngày trôi qua kể từ khi cấp cứu thành công ca bệnh nhân TTĐ 50
tuổi bị ngừng tim ngừng thở mình vẫn không tin được là bệnh nhân có thể qua
khỏi, sống được và tỉnh táo trở lại, thật kỳ diệu lắm thay. sáng 1/11/2013
phòng khám tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng ngừng thở, da vàng ệch, nghe
không thấy nhịp tim, đồng tử giãn căng.... Bọn mình đã khẩn trương cấp cứu, chỉ
trong vòng 1 phút tất cả các thao tác vừa bóp bóng trợ thở có o xy, ép tim
ngoài lồng ngực, bơm trực tiếp Adrenalin vào buồng tim, các động tác nhịp nhàng
chính xác và ăn ý, 2 phút sau tim đập trở lại, 5 phút sau sắc mặt dần hồng lên,
đúng 15 phút sau bệnh nhân dã tự thở được, 30 phút sau các chỉ số sống đã tương
đối ổn định,...”. Ở tản văn, “Niềm vui có thật”, nữ bác sĩ mở đầu
bằng câu chuyện có thật tại bệnh viện mình phụ trách. Và chị kêt tiếp câu
chuyện, khi bệnh nhân cần chuyển tiếp lên tuyến trên hỗ trợ sau cấp cứu ban
đầu, đúng lúc bệnh viện thiếu phương tiện, chị đã dùng xe riêng của mình, và
cũng chỉ dám hy vọng bênh nhân sống sót nhưng có thể sẽ phải sống cuộc đời thực
vật phần đời còn lại, không ngở, bệnh nhân đã hồi phục sau mấy ngày điều trị
tích cực. Niềm vui lan tỏa, chị tâm sự “Mình
thấy vui quá chừng. Từ khi về hưu chỉ có chuyên tâm đọc sách và chữa bệnh mình
thấy bàn tay mình như có hồn, trái tim mình hòa đồng với nỗi đau của người
bệnh, mình thấy cuộc sống đáng yêu quá. Ai nói về hưu thì không vui. Niềm vui
có thật và thật sự là vui!...”
3. Dấu vấn văn hóa Mường,
Gái bản Mường, mấy từ ấy thật gần với dáng vẻ, cử chỉ và cách nói năng, ứng
xử chân thành, mộc mạc của Trương Thị Mầu. Như cái cách người ta hay dẫn câu
thơ của Hàn Mặc Tử “người thơ phong vận
như thơ ấy”, Trương Thị Mầu là người mang chất Mường bẩm sinh, và chị cũng
đã mang được nét văn hõa Mường vài thơ ca mình.
Khác nhà thơ lớn tuổi cùng
quê xứ Mường với mình là Ma Bích, Trương Thị Mầu chưa hẳn nhăm nhăm chủ trương
thể hiện và bảo vệ bản sắc Mường một cách quyết liệt, song chất Mường sẵn có ở
con người chị, nên biểu hiện trong thơ một cách vô thức và cả ý thức nữa. Là
người xuất thân ở xứ Mường, nhưng công việc hàng ngày làm chị thoát ra khỏi xứ
Mường của mình, thêm bản tính quàng giao, đã làm nên con người Trương Thị Mầu.
Chất Mường không thật sâu đậm, nhưng cứ phảng phất đâu đó trong thơ chị, khiến
người ta nhận ra và không thể quên được.
Chất Mường ở đây, chưa thật
rạch ròi, song trước hết trong ngôn từ, cách diễn đạt tự thân mà có, rồi sau là
ý thức tìm kiếm và chủ định biểu đạt, từ lời ăn tiếng nói đến phong tục tập
quán vào thi ca...
Bài thơ Ảo ảnh, Trương Thị Mầu kể chuyện
tình Mường, song có lẽ, chị mượn cớ vậy để đánh thức người con gái Mường trong chính bản thân mình:
Tôi
đi tìm em , cô gái Mường ơi
Đôi
mắt nâu ẩn hiện sau vòm lá
Tìm
về bến xưa nơi con đò già mơ ngủ
Đập
nước đã dâng đầy sóng đuổi sóng lao xao.
Một em gái bản Mường chính
hiệu “cô em gái khéo tay/ đánh cồng, dệt lụa, vá may thêu thùa..” mà từ lúc
còn nhỏ, rời bản đi học trường xa,
nhưng đã vượt khó :Thương nhau từng bữa
cơm nghèo/ Canh môn, rau sắn cheo leo bản Mường...” ước một ngày kia có
kiến thức cao, giúp bản ích đời,...
Bài thơ Thượng
du là một bài đậm nét Mường:
Nhớ
em ngược lại Cành Nàng
Nhớ
luồng Thiết Kế nhớ vàng Lũng Cao
Tìm
em em ở nơi nao
Có
thương chọn hộ cành Đào làng Son
Chọn
thêm đôi vịt phố Đòn
Mùa
Xuân trẩy hội tung còn Mường Khô
Nhớ
hè cùng tắm thác Mơ
Lưng
ong váy thắm bây giờ ở đâu.
Lung
linh bóng nước soi cầu
Nhớ
thuyền độc mộc nhớ câu phiền lòng
"Nhất Suội, nhì Cả, ba Long"
Nhớ
người năm cũ gò lưng chống bè
Xưa
rồi một bến sông quê
Bức
tranh cổ tích theo về mai sau...
Và bài thơ Mường Ống cũng là một bài
như vậy:
“Ngoảnh mặt lên Mường trên
Thấy bà Da Dần phân năm phân tháng
Bà gánh xường đi bán
Qua Mường Ống đứt quai
Qua Mường Ai đứt gánh
Để gái Mường trên giỏi xường
Trai
Mường dưới giỏi mo...
Về Mường Ống một lần đi anh
Cùng em tìm lại vết tích cây Chu đá
Có còn không những lá Chu đồng
Trên đồi Lai Li Lai Láng
Mây trắng ngút ngàn Pù Luông xanh...”
Kể
lể vậy, cũng chỉ để nuốn khoe xứ Mường quê mình”
“Chỉ muốn anh cảm nhận
Có một xứ Mường trăm mến ngàn thương...”
Còn trong bài thơ “Phố
huyện”, Trương Thị Mầu ý thúc trước sư nhạt phai chất Mường trong hiện
thực đời sống xã hội khi mà làng bản Mường mình đổi thay trong cơn lốc đô thị
hóa, diện mạo thì “nửa làng nửa phố”, còn con người thì “nửa tỉnh nửa quê”: “Cô kia gái
bản chưa chồng/ Nay đi trên phố tay bồng nách mang/ Con đường phố rộng thênh
thang/ Có còn nhớ bản nhớ làng suối xa?” Liệu có còn không cái tình cái nghĩa, và cách ứng xử chan hòa gần gũi
mộc mạc của dân tộc mình, khi mà cố niu giữ: “Sau nhà vẫn bụi trầu cay/ Trước hiên vẫn cái
điếu cày cây cau/ Mưu sinh còn lắm cơ cầu/Vẫn không quên nếp trước sau của
làng”?
Thương nhất, bài thơ Bà ơi, lá rụng về nguôn.
là lời tạ lỗi trước mộ bà, vì mình chẳng thể níu giữ Mường lại cho bà,
“Trời mênh mang nước mênh mông
Ngổn ngang con với cánh đồng tuổi thơ
Vẫn dòng sông của ngày xưa
Nấm mồ đằng đãi nắng mưa của bà
Tưởng như còn đó chưa xa
Bà đang
đánh chuyện Nàng Nga Nàng Ờm
Lom khom thổi cái nùn rơm
Nướng ngô lùi sắn đồ cơm xứ Mường
Lưng còng vác nước ống bương
Bờ sông dốc đứng con đường tuột trơn.
Khói hương tỏa bóng chập chờn
Con như một kẻ vô ơn với bà...:”
Chỉ cần để ý tên các tập thơ của Trương Thị Mầu thôi,
trong 5 tập đã xuất bản, thì có đến 3 tập (Bóng núi, Mùa dậy sấm và Níu bóng nhà sàn)
biểu hiện ý thức bảo tồn không gian văn hóa dân tộc của chị. Nếu như thời mới
làm thơ (Bóng núi, Mùa dậy sấm), dấu ấn văn hóa Mường còn chưa sâu đậm
và ít nhiều mang tính vô thức, thì đến Níu bóng nhà sàn, tâm thức hướng về
cội nguồn dân tộc và nỗi nềm một ngày kia, bản sắc văn hóa Mường trong cộng
đồng dần phai nhạt, đã dồn tụ, biều hiện thành ý tú, câu chữ, thông điệp...
Trước tiên là ký ức tuổi thơ ở bàn: “Trải
bao nắng sớm chiều tà/ Đất còn in dấu chân ta thuở nào /Khúc này xúc hến mò
nga/ oBờ kia nhặt lá ép vào trang thơ...” (Dòng sông tuổi thơ); Rồi đến thứ văn hóa vật thể là cái nhà
sàn Mường ở bản từng mấy đời gia đình chung sống nay sắp bị phá bỏ để xay cái
nhà lầu kiểu phố: “Trưa vóng Đông cha
ngồi đan lưới/ Chiều vóng Ngang mế ngồi dệt cửi,/ Đèn con vịt thơm thơm dầu
bưởi/ Tiếng thoi đều đều, tiếng mế nhẹ êm/ Bà Dạ Dần hiện trong giấc ngủ hằng
đêm....”(Níu bóng nhà sàn). Rồi trách cứ các em sống ở bản mà không giữ
nối căn nhà sàn của cha mẹ để lai “Giận
các em sao lại bán nhà sàn/ Xây nhà hai tầng dưới chân núi Khú/ Ngày khánh
thành đông hơn ngày họp họ/ Buồn một mình ký ức dở từng trang..: Cố mà
không giữ được, níu cũng chẳng thể, thì chỉ còn tự xoa dịu, an ủi lòng mình
bằng nỗi nhớ mà thôi ”Tôi lớn lên giữa
chiều rộng chiều dài/ Biển Bắc trời Nam, biển người, ngơ ngác/ Như con nai lạc
rừng xao xác/ Níu bóng nhà xưa tôi nhớ lối quay về...” (Níu
bóng nhà sàn)....
Tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ Trương Thị
Mầu, còn khá nhiều câu chữ, ý tứ mang chất Mường, nhưng chị không phải là người
nệ cổ, cứ khư khư níu giữ, hay đau đáu nỗi niềm về chất Mường phôi pha trong
đời sống xã hội hiện đại. Trương Thị Mầu là người có kiến thức và trải đời, nên
đã biết thoát ra, vươn đến những giá trị khác từ sự phát triển mang tính tất
yếu.
Có những điều bình thường giản dị, song
có khi người ta phải đi gần hết cõi con người mới nhận ra, Trương Thị Mầu cũng
vậy.
“Nhưng chắc chắn ta chính là sự sống
Con của mẹ mình cháu của ông ta
Là cha mẹ của con mình sinh ra
Là cụ kỵ của đời đời cháu chắt
Không thể khác chẳng bao giờ kết thúc.
Cội nguồn ơi xin một chốn đi về...” (Điều bất tử)
Hay như, trong các bài Nghỉ
hưu và Người đàn bà sáu mươi tuổi, Trương Thi Mầu ngộ ra rằng:
Ồ thảnh thơi
Qua
chặng đường khó nhọc
Buồn
gì đâu
Có
ai hát khải hoàn... ...
Từng
chặng một
Cứ
mải mê leo núi
Chiếu
nghỉ dài
Thôi
thả sức nghỉ chân.
Sau
lưng mình
Khép
lại những phù vân. (Nghỉ hưu)
“Người đàn bà sáu mươi tuổi tư duy bằng
trực giác
Thấy rõ ràng cái điều xưa học mãi không hiểu,
Trong vô thức có một ước mơ cưa quậy
Một con đường như lộ dần nét vẽ
Một niềm tin dồn nén sáu mươi năm
Một hiện sinh tự nó đã nảy mầm.
Người đàn bà sáu mươi lại quẩy gánh lên
vai
bước tiếp..” (Người đàn bà sáu mươi tuổi)
Điều ấy, khiến chị khác với nhà thơ Ma
Bích, một nhà thơ của bản làng đậm đặc chất Mường. Và cùng với Ma Bích, Trương
Thị Mầu đã thêm tiếng nói Mường, góp phần đưa chất Mường trong thi ca vượt ra
khỏi vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, làm nên sự phong phú nghệ thuật của các dân
tộc thiểu số Việt Nam. ./.
Phạm Duy Đức, chút tình thơ gửi lại.
Vậy là người thơ đã đi
xa.
Nhớ
lời người xưa bảo, "sống thì lâu, chết giỗ đầu nay mai...". Vừa mới
đọc tin nhà văn Trịnh Tuyên báo, Phạm Duy Đức mất vì ung thư, chớp mắt đã thấy
Trịnh Tuyên bảo, sắp 49 ngày Phạm Duy Đức rồi đấy... Cái hẹn với nhà văn Trịnh
Tuyên và Phạm Duy Đức, cùng bạn bè văn chương Xứ Thanh từ mùa xuân năm trước,
vậy mà sang xuân Kỷ Hợi này, còn chưa kịp vô Thanh thì ông đã xa rồi...
1. Rủm rỉm người thơ,
Tôi biết đến người thơ Phạm
Duy Đức đã ngót bảy năm nay, thông qua mạng xã hội là Blogtiengviet.net mà mọi
người quen gọi bằng cái tên dân dã thân thương là Xóm Lá...
Thoạt đầu, ông không để lại ấn
tượng gì nơi tôi. Đơn giản, bởi Xóm Lá ở thời điểm ấy có đã những tên tuổi lấy
lừng như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Lâm Cẩn ... hay những người
năng nổ, hoạt bát như Nguyễn Vĩnh Tuyền, Chử Thu Hằng, Nguyễn Cao Thâm, Lê Văn.
Lu Bim, Thúy Tím,... Ngay xứ Thanh, cùng quê với Phạm Duy Đức thì cũng đã
có Trịnh Tuyên, Đào Phan Toàn... là những người thơ văn đầy mình.
Khác với những nhà thơ nhà văn
chuyên nghiệp, là hội viên của Hội nọ Hội kia, thì có số đông người vì yêu văn
thơ mà lập blog cá nhân, để lấy cớ mà viết, để có chỗ mà giao lưu bè bạn với
nhau... Với riêng Phạm Duy Đức, đến với Xóm Lá là một người như vậy.
Đã dăm năm nay, nhóm blogger Hà Nội gồm có tôi (Nguyễn
Chu Nhac), nhà thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, Nguyễn
Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, nhạc sĩ Phạm Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh
Kính, cùng Nhà giáo nhân dân-Gs Nguyễn Lân Dũng, nhà báo Nguyễn Thịnh... hầu
như năm nào cũng làm một chuyến du xứ Thanh. Khi đủ bộ sậu, khi thiếu vắng
người này người nọ, song năm nào cũng vào dịp mùa xuân, sau tết Nguyên đán,
chúng tôi vô Thanh, điểm tụ hội là nhà riêng của nhà văn Trịnh Tuyên, tại Cẩm
Thủy. Nhóm blogger xứ Thanh đón khách văn chương Hà thành, ngoài chủ nhà Trịnh
Tuyên, thường có khá đông dân văn nghệ, chữ nghĩa quanh vùng là Ngô Xuân Tiếu,
Đào Phan Toàn, Trịnh Phú Đa, Nguyễn Trọng Nghĩa (giờ đã là cố nhân), nữ bác sĩ
Trương Thị Mầu, Phạm Mai, Phùng Hương Nhu, và Phạm Duy Đức v.v... Hằng năm,
cuộc hội ngộ văn chương ở xứ Thanh cũng ít khi đầy đủ, thường thiếu vắng người
này kẻ nọ, song Phạm Duy Đức thì không bao giờ vắng mặt. Cứ theo lời nhà văn
Trịnh Tuyên, cùng với ông là hạt nhân cho việc tổ chức các cuộc vui, thì luôn
có vài người thân thiết trợ giúp mình là Phạm Duy Đức và Trương Thị Mầu...
Tư gia nhà văn Trịnh Tuyên khá
rộng rãi, vườn tược, ao chuôm đủ cả, nên sản vật của nhà như gà vịt, cua cá,
rau cỏ thừa sức đãi khách. Tuy nhiên, hầu như năm nào cùng có những món ngon
thuộc hàng sản vật địa phương được bác sĩ Trương Thị Mầu mang từ Bá Thước xuống
và đặc biệt là món bánh răng bừa ngon nổi tiếng do Phạm Duy Đức thửa từ Cẩm Vân
quê ông mang sang góp vui, đãi bạn văn chương Thủ đô ... Đấy là cái ý, cái tình
của nhà thơ Phạm Duy Đức...
Cuộc vui, gặp gỡ năm một lần,
đều tưng bừng náo nhiệt. Các vị tên tuổi như Nguyễn Lân Dũng, Trần Đăng Khoa
thường là trung tâm của sự chú ý. Náo nhiệt có gia chủ Trịnh Tuyên và nhà thơ
Nguyễn Vĩnh Tuyền, thích ảnh ót chụp choẹt của phái nữ, hoặc chốc chốc cao hứng
chữ nghĩa của Nguyễn Trọng Nghĩa, Trịnh Phú Đa, thì trái ngược, Phạm Duy Đức
lẳng lặng kín tiếng, rủm rỉm thủng thẳng buông ra một câu hài hước khiến mọi
người bật cười. Ấy là cái duyên nói chuyện của ông...
Tiệc vui, đông người, rượu vào lời ra, khi cả hội chung một chuyện, lúc thì
từng nhóm vài ba người với nhau, mặc ai huyên náo thơ phú, riêng Phạm Duy Đức
vẫn rủm rỉm vậy. Nhiều lần quan sát, tôi thấy ông chăm chút rót rượu cho những
người kế bên, gắp món này món nọ, kèm theo lời giới thiệu từng món, từng vị
ngon quê Thanh cho bạn xa cùng thưởng thức... Ân cần, chu đáo, tinh tế, ngẫm
nghĩ để lâu lâu lại tung ra một câu hài... Phạm Duy Đức rất vui khi ai cũng khen
món bánh răng bừa Cẩm Vân quê ông, song ông cũng chỉ mủm mỉm, chứ không bao giờ
sảng khoái cười to...
Quả là, người làm sao, của chiêm
bao làm vậy. Ấy là cái duyên rủm rỉm của con người Phạm Duy Đức thấm cả
vào thơ ông...
2. Chút tình thơ
gửi lại,...
Hơn một lần, tôi bày tỏ suy
nghĩ của mình với Phạm Duy Đức như vậy. Ông nghe, mặt rạng lên, nhưng cái cười
nơi ông vẫn chỉ khúc khích mà thôi. Nhưng nhìn kỹ, thấy ánh mắt ông ánh lên sự
tinh nghịch, hóm hỉnh. Tôi đùa "Thơ anh mà mang ra tán gái là ăn lắm đó",
ông mủm mỉm "Thế à... vậy mà mình không biết đấy... Tiếc nhỉ?...".
Miệng nói vậy, song vẻ mặt tinh quái gian gian là. Tôi hiểu, ông ý thức điều
này...
Chuyện là thế, cửa miệng đùa vui lúc trà dư tửu hậu rồi thôi, nhưng nay, Phạm
Duy Đã đã là cố nhân, vân du về cõi ngàn thu, mới lần giở từng
trang blog của ông, đọc chậm và ngẫm nghĩ, càng thấy sự rủm rỉm duyên ngầm,
nhất mực đôn hậu đậm nét trong thơ ông...
Tính từ bài thơ đầu tiên
là Qua sông đăng ngày 18.8.2013 đến bài thơ cuối cùng là Đông
về đăng ngày 13.12,2018, tổng cộng 270 bài, toàn thơ. Không rõ, Phạm
Duy Đức còn bài thơ nào ngoài số này, và nếu không thì trong vòng hơn 5 năm,
với ngần ấy cũng là con số không nhỏ.
Có một điều, giờ đây xem lại thơ Phạm Duy Đức, thì ngay bài thơ đầu tiên, của
ngày đầu tham gia Blog Tiếng Việt, ông đã chọn đề tài về sự vĩnh hằng. Xin
trích ra đây "Chiều
nay anh qua sông trên một con thuyền/ Soi bóng mình giữa dòng nước
biếc/... Xa xa là những cánh đồng/ Mấy nghìn năm phận người như cánh
cò cánh vạc/ Dáng mẹ thân cò, dáng cha mình hạc/ Lại hiện về trong
những khúc ca dao/ Đất nước mình thân thiết biết bao/ Muôn kiếp người
hòa vào lòng đất/ Ta cứ sống với tâm hồn chân chất/ Một đời người mê
mãi một dòng sông..." 8/2013...
Rẩm riu, như một dự cảm về sự sớm ra đi, ngay từ lúc trình làng với tư cách là
một người làm thơ, Phạm Duy Đức đã luôn bị ám ảnh bởi đề tài này. Trong bài thơ
cuối cùng Đông về, mặc dù không u hoài như bài thơ đầu tiên, vẫn có
chút lạc quan, hóm hình câu chữ, song dự cảm vĩnh hằng vẫn ám ảnh nỗi lòng ông
"Đông
về cái lạnh nó tê tê/ Mỏi mắt trông em chẳng thấy về/ Con Sáo rủ nhau
tìm chỗ ẩn/ Bầy cò nhao nhác rúc bờ tre/ Đêm khuya thanh vắng cu gù
đợi/ Chạng vạng vừng đông gáy té te/ Tính đến mùa ni đà mấy
độ/Dòng còn hay cạn nẻ bờ khe". Hai câu kết của bài
thơ, như một sự tính sổ với cuộc đời. Hay đâu như bài thơ ngay trước đó, Chuyến
đò cuối cùng, ông viết câu mở "Người lái đò đưa chuyến cuối
cùng" thì câu kết buông xuôi "Mặc con đò trôi xuôi chưa
biết đậu bến nào...". Trong thơ của Phạm Duy Đức, dự cảm về sự
vĩnh hằng nhiều lắm, hoặc trong tứ thơ hoặc vài ba câu thơ, lại có khi ở ngay
tên bài... Ví như: "...Em là dòng sông suốt đời anh mơ ước/ Em lở
về đâu anh cũng chẳng cần bồi/ Hãy cho anh nhập dòng sông em nhé/ Đợi
đến một ngày anh sẽ bay hơi..." (Đến với dòng sông, 10,2017) . Và đây,
ông viết "...Những người xưa đã chết/ Chỉ vài chục năm
đầu/ Nhiều người giờ quên hết/ Nên có gửi gì đâu?/ Thôi thì đành
chịu vậy/ Có gì vĩnh cửu đâu/ Dẫu có là vua chúa/ Thời gian cũng
xóa nhàu..." (Tháng Bảy, Rằm tháng bảy 2016). Còn nữa, song thôi,
để trở về các đề tài khác trong thơ Phạm Duy Đức...
Mùa thu và Em, mảng đề tài này chiếm già
nửa thơ ông. Cũng đúng thôi, mùa thu là mùa của xúc cảm thi ca, và Em thì cùng
vậy, nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn. Trong thơ mình, Phạm Duy Đức thường
mượn cớ mùa thu để nói về em, để gửi gắm tình yêu thương vô bờ bến. Mùa thu và
Em nhập vào nhau, hòa quện, không thể tách rời. Có thể kể tên hàng loạt bài thơ
như thế: Vẫn đợi thu em, Thao thức, Em cứ hẹn, Một nửa, Hằng mong, Thu,
Đừng đợi em về, Đi bên mùa thu, Gió ngày xưa, Mùa thu và em, Không chăn, Mấy
nhịp cầu phao, Tình em, Ngủ đi em, Thêm một mùa thu.v.v...
Tôi nhặt
nhạnh một số câu thơ hay và gợi trong màng đề tài này, như "Trời thu thì dày/ Lá thu thì
mỏng/ Đường thu thì xa/ Chân em bé bỏng/ Thuyền em nhỏ
nhoi/ Hồ thu thì rộng/ Anh đi bên em/ Tình thu mơ
mộng.../ Em là tiếng lá/ Anh là tiếng gió / Ta cuốn trong
nhau/ Bay trong mùa thu..." (Đi bên mùa thu); "Em đi nắng dạt về chiều/ Hoàng
hôn rụng xuống lần theo gót người/ Lòng anh gió cuộn, mây vùi/ Con
tim nuốt nghẹn nói lời đơn côi/ Thôi đừng đi nữa người ơi/ Để anh mắc
cạn một đời sông em!" ( Mắc cạn); "Sét đánh từ lâu/ Không thể chết/ chính là
điều bất hạnh/ Em bỏ anh đi / khác gì sét đánh/ Lưỡi tầm sét em
nằm/ trong lồng ngực anh đây!" ( Sét đánh)... "; Theo gót ông Nghè Yên
Đổ đi câu/ Chỉ thấy lá vàng bay vèo trong gió/ Ô nhiễm môi trường,
suối sông ngầu đỏ/ Cá chết hết rồi, ta đi câu mùa thu" (Đi câu
mùa thu) ; "...Sáng sáng mình ta trở dậy/ Sân vườn hoa cỏ
xác xơ/ Chăn gối phồng như rơm rạ/ Xác những nỗi buồn đêm qua..."
(Thêm một mùa thu); "...Cái rét giêng hai, rét thì con
gái/ Nắng thì non non tựa phấn mầu/ Đêm hai đứa, hai phương trời gần
lại/ Ta mãi còn rét ngọt ở trong nhau..." (Rét ngọt); "...Cứ ngỡ lòng thành cuội trắng/ Trở về với bến
Hoàng Giang/ Tình xưa giờ thành quá vãng/ Người xưa đã chết vội
vàng/ Cứ ngỡ lòng thành hoa gạo/ Đỏ trong cái rét Nàng Bân/ Đã
qua những ngày ảo nảo'/ Tháng ba ngực núi xanh dần..." (Cứ ngỡ); "...Vần mờ - em gió heo may/ Vần sờ - sương khói mây
bay trắng lòng/ Vần bờ - duyên phận đèo bòng/ Vần hờ hững lắm chờ
mong chi nhiều..." (Lục bát chấm
com); "Ao đời giờ chẳng còn em/ Tôi như con ếch im lìm bóng
cây/ Bao giờ cho đến heo may/ Tôi chui vào lỗ đọa đầy qua đông..."
(Ao đời)...
Phạm Duy
Đức là người có khiếu hài hước, trong đời sống và trong thơ. Để ý, người xứ
Thanh, quê hương của Trạng Quỳnh, các văn nghệ sĩ như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh,
Định Ngọc Diệp, Trịnh Tuyên... ít nhiều đều có chất uy-mua trong mình. Đối diện
chuyện trò hay đọc thơ Phạm Duy Đức, cảm giác qua gương mặt tỉnh queo, như
chẳng có gì quan trọng cả, lại ẩn chứa sự tinh ranh, hóm hỉnh... Cứ rủm rỉm,
khúc khích không thành tiếng, ông tửng tưng buông ra. "...Trời mà còn
lúc thoáng qua/ Huống chi anh, mới xa nhà đã quên" ( Chợt ). Ông
nói về nỗi đau khổ mà thế này đây: "Em biết không, có con diều đang lộn/ Sợi
dây mong manh phía cuối trời/ Ở nơi ấy có một người đau khổ/Khóc con diều
kỳ diệu đang rơi. Con diều ấy một thời ta khao khát/ Anh cầm giây mắt
em hướng lên trời/ Cứ tưởng gió cứ đưa diều lên mãi/ Có ai ngờ diều
lộn thế em ơi..." (Diều giấy); Và đây nữa, về nỗi buồn: "Bướm
vàng say trái mù u/ Người xa nhau cũng gật gù nhớ mong/ Gió buồn thổi
những đường cong/ Ta buồn cám cảnh ăn đong xế chiều.../ Tình giờ còn
có bao nhiêu/ Mà em đỏng đảnh mỹ miều làm cao/ Một khi bạn với trăng
sao/ Là vênh gẫy cả con sào đẩy đưa.../ Về đi em để mây mưa/ Sấm
lòng anh lại mới vừa nổi lên." (Hình như). Cũng có khi Phạm Duy Đức
cười, cái cười không ra tiếng: "Các cụ thi nhau đánh bóng
hơi/ Nắng Thu nhuộm đỏ cả khung trời/ Trộ nơi khe hở …Ôi! ông
dúi/ Thấy quả nâu non…Úi! mụ bồi/ Phi mạnh sâu luôn gồng sức
đẩy/ Ưỡn thân hất ngược cũng thường thôi/ Bao lần cọ sát mồ hôi
đẫm/ Trái bóng chuyền hơi lắm chuyện cười " ( Chiều nay)...
Ngay cả
khi ông buồn thật, muốn trải lòng cho nhẹ bớt, như than thở đôi câu, nhưng rồi,
chất uy-mua ấy vẫn len vào: "Mùa thu chưa rụng xuống hiên nhà/ Nỗi
lòng man mác chốn trời xa/ Thương đôi cánh vạc gầy guộc nhỏ/ Nửa này
làm vợ, nửa kia bà.../ Đêm đêm tai mắt luôn thao thức/ Một mình một
bóng độc ẩm trà/ Hình như hàng xóm ai vừa dậy/ Quyét ngõ chi mà sớm
quá ta?" ( Thao thức); và đây cũng vậy: "Đêm khuya vắng lặng bóng
nguyệt mờ/ Tà tà tây trúc dáng lửng lơ/ Chú Cuội ỉu xìu như đuối
nước/ Chị Hằng mơn mởn vẫn đương tơ' Trần gian giam hãm thằng cu
gáy/ Thượng giới mở tung cái gà lờ " ( Trăng tà ).
Rồi có
khi, lại thấy Phạm Duy Đức nhẩn nha dạo quanh ngõ xóm, xem làng nước ra sao, mà
bông lơn: "Đa làng/ Đổ bóng giếng làng/ Rễ / bậc
thang xuống/ cho nàng rửa rau/ Bãi làng tằm nhấm lá dâu/ Giếng
làng tôi nhấm một câu tỏ tình/ Cái duyên/ cái phận/ cái tình
/ Giếng làng/ ôm cái tỉnh tinh của làng..." (Giếng làng); Và
đây : "Em vào vụ cấy chổng mồng mông/ Lận đận cả ngày ai biết
không .../ Xoạc cẳng lăm xăm mươi ngày ngấm/ Lăn dài cả vụ ngước
mặt trông..." ( Vụ cấy); Thêm nữa: "Họ đi đánh dậm mãi cũng
quen/ Bùn đục, nước trong dẫm thành đen/ Khom lưng, gò ruột thì thụp
nhún/ Ưốn cật, oằn mình cố nhấc lên / Lươn dài xục sát bờ hang
tối/ Trạch ngắn lê xem rọi ánh đèn / Chỉ biết quên thân tìm chỗ
níu/ Cảnh đời luồn lách thế mà nên.." (Cũng quen), v.v...
Lại có
lúc, Phạm Duy Đức tự nhủ lòng mình, rằng cứ thản nhiên cho qua, cứ xem như một
tiếng cười nhẹ, rồi ra việc gì cũng quaa hết: "Hôm qua chân bước qua
cầu/ Bỏ rơi mất cả nỗi sầu đang đeo/ Tình giờ ai giữ mà neo/ Đáy
sông góc bể thả vèo cho xong/ Tình giờ ai đợi mà mong/ Ôm chi cho
nặng cõi lòng ai đây/ Mai sau qua khúc sông này/ Thương con mắt đỏ cá
Chày không em? " (Tình rơi); và "Cứ đợi
mãi/ Qua đêm/ lại sáng/ Rồi đêm sau/ Chạng vạng/ đêm
sau.../ Chờ em/ bạc cả mái đầu/ Bài thơ/ móm mém/ ngàn
câu/ sai vần/ Đời anh/ Đã lệch cán cân/ Còn bao trọng
lượng/ đổ dần/ cho em! " (Lệch cán cân)...
Cứ thế,
bằng cái phép thắng lợi tinh thần kiểu AQ này, Phạm Duy Đức đã chiến thắng. Mới
hay rằng, tinh thần là quan trọng hơn cả, một khi đầu óc đã thông, cái lòng
cũng sẽ yên và mọi chuyện đều qua tuốt!... Phạm Duy Đức đầu trí với bản thân
mình, khác nào khi xưa Trạng Quỳnh đấu trí với Nhà Chúa?!...
Có thể
nói, Phạm Duy Đức đã chơi thơ và ông tự chủ được cuộc chơi này, Nhưng, với bệnh
tật thì lại khác, ông đã không chiến thắng được nó. Đúng ra, ông không thắng
được số mệnh để ở lại trần gian mà rong ruổi cùng cuộc chơi với thơ ca
...
Song tôi
nghĩ, người thân và bạn bè xứ Thanh, cùng bạn văn chương, có thể lựa chọn trong
vốn liếng thơ ca của ông, làm thành một tuyển tập thơ Phạm Duy Đức,
để những bài thơ ấy, không chỉ tồn tại ở không gian ảo. mà hiện hữu trong đời
sống dưới dạng ấn phẩm, đặng lưu giữ chút tình thơ Phạm Duy Đức gửi lại
?!...
PHẠM HỒNG NHẬT,
nhiệt huyết minh họa cuộc sống
đến những nỗi niềm cõi nhân gian...
Tôi biết đến nhà thơ Phạm Hồng Nhật, con người và thơ
ông trong một lần gặp tình cờ ở văn phòng của nhà thơ Trần Đăng Khoa tại trụ sở
Hội Nhà văn Việt Nam. Hôm ấy, Phạm Hồng Nhật và Trần Đăng Khoa nói chuyện về
các nhà thơ, nhà văn của vùng đất Đông Bắc một thời với những tên tuổi Trần
Nhuận Minh, Lý Biên Cương, Tô Ngọc Hiến, Dương Hướng, Sỹ Hồng, Yên Đức (Quàng Ninh), Đào Cảng, Thanh Tùng,
Nguyễn Tùng Linh (Hải Phòng) v.v...
Qua câu chuyện, tôi biết được Phạm Hồng Nhật làm thơ khá sớm, cùng thời với
Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng, Phạm Doanh và khi ấy đã từng được các nhà thơ đàn anh
nổi tiềng là Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông khen ngợi. Vậy có thể xem,
Phạm Hồng Nhật sớm thành danh. Trong câu chuyện hôm ấy, Trần Đăng Khoa và Phạm
Hồng Nhật còn nhắc đến một kỷ niệm, ấy là trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1971,
khi đó, Trần Đăng Khoa mới học lớp 6, kỳ nghỉ hè, ra đất mở chơi thăm người anh
trai là nhà thơ Trần Nhuận Minh, rồi mắc kẹt ở đó vì mưa lũ. Trần Nhuận Minh đã
gửi Khoa nhờ Phạm Hồng Nhật đưa từ Quảng Ninh về Hải Phòng, tá túc nhà người
quen, rồi tiếp chặng nữa từ Hải Phòng về tận quê Nam Sách (Hải Dương). Đường về
quê, nhiều đoạn bị lũ ngập nên hai anh em phải dắt xe băng qua những đoạn ngập
sâu, Phạm Hồng Nhật dắt xe đạp, còn Trần Đăng Khoa bì bõm tay bám booc-ba-ga
lội theo sau. Nhắc lại chuyện cũ, để thấy một thời gian khổ và mối thân tình
của các nhà thơ từ ngáy ấy.
Thực tình, trước khi gặp Phạm Hồng
Nhật và đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố (Nxb
Hội Nhà văn, 2016), tôi không biết gì về thơ ông, mặc dù ông sáng tác và có
thơ đăng báo cùng thời với nhiều nhà thơ khác trưởng thành ở vùng đất ven biển
Đông Bắc mà tôi biết đến tên tuổi (Trần
Nhuận Minh, Sỹ Hỗng, Yên Đức, Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh...).
Ấy là, Phạm Hồng Nhật sớm bị bứt khỏi
vùng đất mỏ sôi động, môi trường sống, làm việc và sáng tác thân thuộc của mình
về thủ đô Hà Nội làm công tác quản lý. Ông lạ lẫm và bận rộn với công việc mới,
rồi những lo toan chuyện gia đình, nhà cửa mà xao nhãng thơ phú. Quen môi
trường mới rồi, cuộc sống lại biến động, khi Phạm Hồng Nhật được điều sang Liên
Xô (cũ) làm công tác quản lý cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm
việc cả một vùng rộng lớn thuộc lãnh thổ Ukraina, Vậy là, cả quãng thời gian
dài khoảng hai chục năm trời, ông vắng bóng trên thi đàn nước nhà, trong khi
các bạn thơ cùng thời với ông ngày nào thì vẫn đều đặn làm thơ, đăng báo, xuất
bản tập thơ, thậm chí gặt hái được các giải thưởng thi ca, nâng cấp từ nhà thơ
địa phương lên nhà thơ trung ương, được người yêu thơ quen mặt, biết tên. Ngỡ
như mất tăm, tắt hẳn một người làm thơ tên Phạm Hồng Nhật. Thì chính ông cũng
từng nghĩ vậy, ngay cả khi quãng năm hai nghìn, ông từ nước ngoài trở về Việt
Nam sinh sống, làm việc. Phạm Hồng Nhật bảo rằng, nhờ các bạn thơ và người thân
động viên đừng bỏ thơ, nên ông sáng tác trở lại. Ông biết ơn bạn bè vì điều
này, bởi đã góp phần hồi sinh một nhà thơ tên Phạm Hồng Nhật. Rõ ràng, sự cách
quãng môi trường thi ca nước nhà một thời gian dài, đến đầu thế kỷ 21 này, môi
trường văn chương, xã hội đã khác nhiều so với thời ông bắt đầu sáng tác vào
những năm 70 của thế ký trước, đã khiến ông phải nghĩ khác và viết khác đi...
Tôi cho rằng, Phạm Hồng Nhật đã may
mắn, khi ông có một khoảng thời gian khá dài bứt khỏi môi trường thi ca nước
nhà. Đấy là một khoảng lặng cần thiết, đủ để cho riêng Phạm Hồng Nhật, hay
chăng mỗi cây bút, không phải vật vã để thoát ra khỏi chính mình? Nghĩ khác,
viết khác đi, ấy là quá trình làm mới bản thân, chí ít đúng với trường hợp Phạm
Hồng Nhật.
Mặc dù, tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố,
không ghi rõ là tuyển thơ, nhưng nội dung thơ và thời điểm sáng tác các bài cho
thấy tính chất tuyển tập. Ở đây, ta thấy các sáng tác của Phạm Hồng Nhật có dấu
ấn rõ từng thời kỳ sống, làm việc và sáng tác của ông.
Thời kỳ đầu, có thể xem là vùng đất
ươm mầm thơ Phạm Hồng Nhật, ấy là vùng mỏ Quảng Ninh và vùng quê Hải Phòng. Vào
những năm 60, 70 của thế kỷ 20, cả một vùng đất duyên hải Đông Bắc tổ quốc (Quảng Ninh, Hải Phòng) là vùng đất công
nghiệp sôi động bậc nhất của đất nước. Giới văn học nghệ thuật nước nhà đổ xô
đi thực tế, sáng tác về vùng đất này, trong đó, người ta không quên việc tìm kiếm,
phát hiện, động viên, giúp đỡ các cây bút trẻ, xuất thân công nhân, người lao
động địa phương, sáng tác từ thực tế đời sống ở đây. Như vậy, ở vào thời điểm
ấy, Phạm Hồng Nhật và một số cây bút văn thơ cùng trang lứa đã tập hợp thành
dàn đồng ca, với bầu nhiệt huyết tràn trề, mặc sức thi ca minh họa cuộc
sống....
Điểm những bài thơ sáng tác trong giai
đoạn đầu trong tập thơ này, khi Phạm Hồng Nhật đang làm việc ở vùng mỏ Đông
Bắc, tức là khoảng thời gian những năm sáu mươi, bảy mươi, như Than trên băng chuyền, Thời gian, Thị xã nơi tôi yêu, Về với mỏ,
Một mai kia, Mối tình cô thợ hàn, Thợ gò,
Trực chiến trên đồi, Nhà máy trong rừng v.v... cho thấy bầu
nhiệt huyết mình họa cuộc sông của tác giả. Thơ nặng về kể chuyện, có không khí
đấy, song dường như, thơ hết câu thì bài thơ cũng tắt luôn ở đấy, chẳng mấy dư
ba. Và điều này, không riêng thấy ở thơ Phạm Hồng Nhật, mà khá phổ biến trong
thơ của nhiều cây bút khác cùng thời kỳ.
Như tôi đã nói, cuộc sống biến động,
bứt Phạm Hồng Nhật khỏi vùng sáng tác, khiến ông hụt hẫng, đứt mạch thi ca.
Những bươn chải cuộc sống ở thủ đô, rồi sau đó, ông được điều sang nước ngoài
làm công tác quản lý nhân sự và tư tưởng, bận rộn và phức tạp, đã ít nhiều làm
thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời ở nơi ông. Nói đứt mạch thơ, không có nghĩa là
Phạm Hồng Nhật bỏ thơ, thi thoảng. túc tắc, ông vẫn sáng tác. Song ở thời điểm
này, ông sáng tác không phải là sự thúc ép từ ý thức mình phải làm thơ để trở
thành nhà thơ, hay vì chạy theo thực tế phong trào lao động sản xuất của xã
hội, hay chính cả sự ganh đua với các bạn thơ cùng thời ... Phạm Hồng Nhật chỉ
sáng tác khi chính lòng mình có tâm sự, muốn được giãi bày. Thế nên, thơ
ông sáng tác ờ thời điểm này, ý tứ rõ,
hàm súc hơn, câu chữ chắt lọc hơn, và như thế, người ta thấy được sự ẩn chứa
những nỗi niềm tâm sự và thân phận con người trong thơ ông.
Nỗi trăn trở viết khác đi, viết như sự
lột xác, làm mới mình được Phạm Hồng Nhật bộc lộ:
Trước
ngọn đèn đêm đang về phía sáng
gà
nhà ai đã gáy mấy lần rồi
giấy
vẫn trắng, bút trên bàn vẫn đợi
chưa
tìm ra một câu chữ thơ tôi...
Nhiều lúc
nghĩ suy gác bút an bài
lại
tiếc muối ra vào bao tư lự
viết
là biết gánh vào nỗi khổ
đã
buông ra là lại nắm tay vào...
(Trước ngọn đèn)
Nếu vài chục năm trước, thuở ban đầu làm thơ, viết là
niềm hân hoan, thì giờ đây, Phạm Hồng Nhật ý thức, viết như đeo đẳng một nỗi
khổ ải. Vậy mà vẫn không thể không viết, ấy là sự chia sẻ nỗi niềm cõi nhân
gian, trong đó có thân phận chính mình:
Chén
lưng, chén vực cũng là
nửa
thì nắng quái, nửa sa bãi bồi
vàng
chìm, phận nổi, bèo trôi
dễ
đâu thiên hạ một người hiểu ta,
(Uống rượu một mình)
Quả là, khi cái nhìn đã khác, thì
đương nhiên nhận thức cũng khác, ngày cả khi gặp lại cái cũ, cái thân quen:
Thuyền
đã khác xưa, ngày để chỏm
lá
buồm căng như một sự dối lừa
máy
thuyền nổ âm vang là có thật
con
đò ngang mái chèo gác trên bờ,
(Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu)
Bỗng một ngày, Phạm Hồng Nhật nhận ra
sự đổi mới trong mình, ông mừng, ngỡ ngàng, như muốn reo lên:
Khác
nhiều rồi, tất cả đã khác xưa
và
anh nữa khác xa anh thuở trước
cát
cứ một vùng như ông Vua một nước
nhìn
đám thảo dân như muông thú một bầy
(Đổi mới)
Sự đổi mới, trước hết là quá trinh tự nhận thức, rổi
ra sự nhìn nhận cuộc sống bên ngoài.
Mọi xa xôi
hóa nên gần
mọi lớn rộng
chỉ ban chân xỏ vừa...
Cuối chiều
như tỉnh nhiw mơ
Vừa buông tay
sáng vừa quờ đêm đen.
(Cuối chiều)
Khi ngộ ra điều ấy, thì nhìn vào đâu, người ta cũng
thấy được bản chất cùng sự khác biệt trong mỗi sự vật, hiện tượng, và qua đó,
thấy được thân phận, nỗi niềm của con người, nó đâu mấy khác nỗi niềm trong
lòng ta, nên dễ cảm thông, chia sẻ...
Hương thơm
giữa thảo nguyên Nga
mà nghe như
thể quê nhà gần hơn
lão nông cày
máy nổ ròn
mải mê thu
hái cả vòm trời sao
Tuyết rơi
trắng phủ hôm nào
đất đồng
thành đá cây cao trụi cành
mẹ già tóc
bạc như tranh
ngồi bên bếp
lửa mong manh gió lùa...
(Bây giờ là tháng năm)
Thân cò, phận
hạc cánh chuồn
ở nơi xa xứ
ngỡ mòn ngày qua,
thương cho số
phận người ta
quay vào thì
lụy, bước ra đời tàn,
Phận nghèo
bèo bọt thế gian,
chắc là phúc
mỏng, Niết Bàn bỏ quên...
Xứ người vận
hội mong manh
bao nhiêu ước
vọng cũng thành khói sương,
dẫu chưa đến
bước cùng đường
nhìn ai trên
tuyết mà thương cả mình.
(Phận ngưỡi xa xứ)
Lạnh dưới bao
nhiêu
nóng trên bao
độ
chị tôi chỉ
biết cầm gậy mò sò...
chị mò đáy
biển, mò ngã ba sông
mò mặt trời
lặn, mò mặt trăng rơi...
Mò sâu rốn
biển, mò chìm lòng sông
chỉ bàn tay
biết,
bao nhiêu
miệng ăn,
đứa con thất
nghiệp...
(Chị tôi đi mò sò)
Ba năm rượu ủ
men nồng
mắt lung kinh
cả ở trong then cài
kể già những tháng
riêng hai
mầm cây ươm
cả ở ngoài nắng nôi
Rét gì cái
rét trời ơi
mình em cứ
việc đi vơi về đầy
khăn ngang
ngực lẳng lơ cài
nửa trong
rừng rực nửa ngoài bão giông,...
(Gái góa)
Và nếu không dám nghĩ khác, viết khác lối viết tụng ca
hoan hỉ ngày nào, thì chắc Phạm Hồng Nhật chẳng thể buông ra những câu thơ khái
quát kiểu này:
Nông
thôn mỗi khi qua đò
chờ
cho đông khách giả vở quên xu
gà
què nhốt trong lồng bu
điềm
nhiên ra chợ bán mua đàng hoàng
Nông
thôn ngại việc đồng làng
dép
lê mũ cối bước sang chợ trời
thiếu
tiền đem bán cả người
ai
mua tôi bán lấy vài ba xu...
(Nông thôn)
Khom
lưng quỳ gối chờ thời
Tù
mù lẫn lộn mặt người trắng đen
mặc
cho ai đó đêm đêm
thân
tàn lặn lội kiếm tìm miếng cơm
mặc
bao giọt lệ phơi sương
cửa
tòa đầu gối đi mòn nỗi oan...
(Thành thị)
Đại loại vậy, Phạm Hồng Nhật có nhiều câu thơ khái
quát, cảm thông và chia sẻ với những nỗi niềm, thân phận con người...
Phạm Hồng Nhật đã ý thức “viết là biết gánh vào nỗi khổ” mà
vẫn viết, vẫn làm thơ, vậy có nghĩa là
ông chấp nhận thân phận của người cầm bút hay lo chuyện bao đồng của thiên hạ,
tự mình giăng mắc trong cuộc kiếm tìm
“tôi lại tìm tôi” như ông tâm sự
trong bài thơ Kiếm tìm. Hay đâu, trong bài thơ Đàn bò lạc vào thành phố,
được lấy lầm tên cho tập thơ này, Phạm Hồng Nhật đã mượn hỉnh mượn ý để nói tâm
sự mình:
Bò
vào thành phố bao nhiêu thổ lộ
thay
đổi niềm tin, bớt đi nỗi khổ
mắt
nai mở tròn, bàn tay vỗ vỗ...
Tôi
người xa lạ, lạc vào thành phố,
Giờ ở tuổi bảy mươi nhăm, làm thơ khá sớm, bôn ba cũng
nhiều, sướng khổ cũng lắm, hiểu trước nhìn sau, Phạm Hồng Nhật đủ độ từng trải,
đủ bản lĩnh con người, bản lĩnh thơ để tiếp tục chia sẻ những nỗi niểm buồn
vui, đau khổ của cõi nhân gian. Phạm Hồng Nhật nhắn nhủ và cũng là tự nhủ:
Đời
người như dòng sông trôi ấy
khúc
ngoặt khúc cong tối mặt mày,
nước
xanh đường rộng trời cao thẳm
thì
có bao giờ buồn chán. Tôi...
(Ngõ nhỏ vòng vèo)
Bài thơ Tờ lịch của ông như một tuyên ngôn
cho mình:
Mỏng
tang tờ lịch trên tay
chỉ
bao la là lấp đầy khoảng không
lật
sang tờ lịch ngày hồng
nghe
thời gian rồng ở trong gió lùa
Bạc
đầu lại nhớ ngày xưa,
tuổi
xanh nghĩ đến tóc vừa hoa râm
Bao
nhiêu tờ lịch trong năm
biết
bao tờ lịch nằm trong tro tàn.
Câu kết bài thơ này là một sự khái
quát về thời gian của đời mỗi con người ta. Với nhà thơ Phạm Hồng Nhật, hành
trình đi qua những tờ lichj đã rơi và những tờ lịch còn chưa bóc, cùng với niềm
vui gia đình cùng con cháu, ông vẫn còn nguyên đó niềm đam mê với thi ca,...
THẤP
THOÁNG TRÚC THÔNG
Mùa thu năm 1987, tôi bước
chân vào ngôi nhà 58 Quán Sứ Hà Nội, bắt đầu cuộc đời làm báo chuyên nghiệp của
mình. Khi ấy. Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam chiếm trọn ngôi biệt thự
trong cùng, một trong ba ngôi biệt thự kiến trúc Pháp ở khu vực trụ sở Đài.
Phòng làm việc của tôi thuộc Ban Thính giả, là vài căn phòng cấp 4 ngay bên
dưới tòa biệt thự của Ban Văn nghệ. Hằng ngày, nhìn các anh chị của Ban Văn
nghệ đi lại ngang qua, và nghe tiếng các vị từ tầng cao vọng xuống, mà ngưỡng
mộ. Nhiều lần tôi đứng dưới ngước nhìn lên ô của sổ tầng trên biệt thự với
những cánh cửa chơp mở ra, của kính khép hờ mà ước ao một ngày nào đó, mình
được là biên tập viên văn học làm việc ở đấy. Thú thực, ngày ấy, với gia tài
vỏn vẻn một bài thơ đăng báo Văn Nghệ từ năm 1978 lúc là sinh viên đại học năm
thứ ba, thì ước vọng trở thành biên tập viên văn học nhà Đài thật viển vông...
Thế rồi, dịp tết năm ấy,
biên tập viên Thu Liên, người cùng phòng với tôi, con gái của nhà thơ Nguyễn
Bùi Vợi, bảo : "Em nghe bố em nói,
chương trình Tiếng thơ đêm ba mười tết này anh có một bài thơ được phát sóng
đấy". Quả tình, tôi nghe mà không tin, Quả nhiên, bài thơ của tôi được đứng chung với các bài thơ của các
tên tuổi làng thơ Việt trong chương trình Tiếng Thơ tết ăm ấy. Nghe mà sướng
run người vì không tin vào tai mình. Sở dĩ, tôi nhắc lại sự việc này là để nói
tới một ban biên tập văn học thời ấy của
Đài Tiếng nói Việt Nam với các nhà thơ nhà văn, biên tập viên kỳ cựu. Cùng với
nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, còn có nhà thơ Trần Nhật Lam và vợ ông-biên tập viên Nông
Thị Nhuận (một trong những biên tập viên
thế hệ đầu của chương trình phát thanh Tiếng
Thơ nổi tiếng), nhà thơ Trần Nguyên Vấn, nhà thơ Trần Mạnh Thường, nhà
thơ Trúc Thông, nhà văn Tuấn Vinh, nhà thơ Lâm Huy Nhuận,...Để lọt qua các con
mắt xanh, nhất là Trúc Thôing thật không phải dễ. Và đấy cũng là cái cớ để sau đó tôi lân la
làm quen với các “nhà”, các “cây” của Ban Văn nghệ. Cùng với việc,năm 1978 khi
còn là sinh viên, đã có thơ đăng báo Văn
nghệ, nay lại có thơ phát trong
chương trình Tiếng Thơ tết, tôi thêm
phần tự tin để theo đòi mộng văn chương.
Thú thực ngày đó, dù yêu
văn học nghệ thuật đến mấy, bảnthân đã có thơ và có truyện ngắn đăng báo Văn
Nghệ, những tôi ngại bén mảng đến Phong phát thanh Văn học, mà chỉ hay
ghé Phòng
phát thanh Văn học thiếu nhi, nơi nhà thơ Lê Đình Cánh và Trường Hữu
Lợi phụ trách.
Khi ấy, Ban Văn học nghệ thuạt (Đài TNVN)
cùng với Báo Văn nghệ, (Hội
Nhà văn Việt Nam) Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, (Bộ Quốc phòng) và Tạp chí Văn
học (Viện Văn hiọc thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam) thực sự là Tứ trụ về lĩnh vực Văn học Việt Nam. Có thể nói, ở đấy, chủ trương, quan điểm , sự
chỉ đạo về văn học nói riêng và văn hóa
văn nghệ mói chung được thể hiện rõ nhất. Đó cũng chính là yếu tố cơ bản làm
nên cái uy của những cơ quan này trong làng văn học nghệ thuật ở nước ta. Cũng
vì lẽ ấy, các văn nghệ sĩ, nahf thơ nhà văn, các biên tập viên làm việc ở đấy
được hưởng lây cái uy .
Với những ai đó oai thế nào
thì tôi không rõ, song với văn nghệ sĩ người nhà Đài thì không. Trúc Thông
không giống các đồng nghiệp như nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần
Nguyên Vấn, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh ở sự giản dị, dễ gần, mà cũng không
thỏa mãi, cởi mở như nhà thơ Trường Hữu Lợi, Lâm Huy Nhuận,,, Ông nhẹ nhàng,
lịch thiệp đấy song không dễ gần. Thế
nên, mỗi khi gặp hoặc tiếp xúc gần với ông, tôi đều giữ sự kiêng nể, cẩn trọng
trong thái đọ và lời ăn tiếng nói. Tôi cảm nhận từ ông, gần đấy mà xa ngay đấy,
dễ chịu dấy nhưng khó tính ngay đấy,...
Với tư cách nhà thơ, Trúc
Thông có xuất bản vài tập tiểu luận phê
bình văn học và bình thơ, song tôi nghĩ, sự nghiệp chính của ông vẫn ở thi ca.
Mà chủ yếu là những tập thơ: Chầm chậm tới mình (1985), Maraton
(1993), Một ngọn đèn xanh (2000)
và Vừa
đi vừa ở (2005). Năm 2017, nhà thơ Trúc Thông được Giả thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, là sự hgi nhận xứng đáng
cho những đóng góp của ông trong lĩnh vực thi ca. nhất là sự tìm tòi không mệt
mỏi trên hành trình đổi mới thơ Việt
thời kỳ hiện đại,...
Trước hết, Trúc Thông thuộc
số các nhà thơ theo đuổi chủ trương đổi
mới thơ Việt. Ông cẩn trọng, kỹ lương và có gì đó cầu kỳ trong từng câu chữ,
đến tít bài thơ và cả trong việc đặt tên
tập thơ. Tôi nghe một nhà thơ kể rằng, một nhà thơ đàn anh và là đồng nghiệp
của Trúc Thông từng nhận xét về thơ ông, “Trúc
Thông là người đau chữ đau câu,...”. Không rõ thực hư sao, nhưng cứ lẽ mà suy thấy
cod lý. Trở lại với việc nhà thơ Trúc Thông đặt tít bài, têt sách thì biết.
Nghe đâu, cũng như việc ông đặt tên cho con, các ái nữ của mình....
Nói có lý, còn bởi, đã có
lần, trong lúc đàm đạo văn chương ở Ban Văn học nghệ thuật nhà đài, tôi nghe
Trúc Thông cao hứng bày tỏ quan điểm của mình, rằng “Thơ khi in, trên báo hay vào sacsgh, nên in khổ chữa to, để câu chữ nào
lép không có chỗ ẩn nấp”. Thế
này thì rõ là “đau chữ đâu câu” chứ đâu? Cứ theo quan điểm này của nhà thơ
Trúc Thông, tôi thử suy luận, ông coi mỗi bài thơ như một bông lúa. DĨ nhiên,
hiếm có bông lúa nào toàn bộ hạt đều căng mẩy cả, thế nào chẳng có dăm ba hạt
lép, thậm chí rất nhiều hạt léo. Thế nên, mỗi bài thơ, những câu chữ hay là
nhưng hạt mẩy, còn câu chữ độn, câu như văn nói, hoặc ngô nghê là những hạt
lép. Nhìn cả bông khó thấy hạt lép, cũng như đọc cả bài thơ, câu chữ dở, lép
lẩn trong cả bài. Vậy mới phải tìm cách để câu chữ dở, lép không có nơi ẩn nấp,
lộ diện ra,... Quả là ý tưởng đọc đáo, khác người. nhưng cũng không dễ làm chút
nào.
Trở lại thơ Trúc Thông. Sau
Chầm
chậm tới mình (hẳn là nhà thơ tìm
đường hướng,giọng điệu?), Ông tự tin,bắt đầu tăng tốc với Ma-ra-tông,
rồi giữ nhịp ở Một ngọn đèn xanh. Và sau đó, có chút lắng lại, thoáng băn khoăn
ở Vừa
đi vừa ở. Khác với nhiều nhà thơ, lấy tên sách như một cách sáng tác,
Trúc Thông chọn tên sách với nhãn quan phê bình, thể hiện quan điểm sáng tác
của mình. Bao quát, thơ Trúc Thông, du vần điệu hay không, đều hàm súc, suy
ngẫm, hình ảnh và giàu sức liên tưởng.
Ngày trước, khi tôi còn
tham gia giữ mục cho một tờ báo nọ, tôi từng chon bài thơ “Lát sông quê” và “Nho
nhỏ mùa thu “của Trúc Thông để bình. Liên tưởng đến minh triết “Chhẳng một aai có thể tắm hai lần trên một
dòng sông”, bài “Lát sông quê,” cùng cảnh tượng trước
mắt, tác giả sống lại ký ức xa xưa với hỉnh
bóng bà cụ già, hình bóng người mẹ và câu bé cùng lũ trẻ suốt nửa thế kỷ
trôi qua,... như nhau mà lại khác thế, để ngộ ra một sự thật đơn giản “vẫn sông Châu yên lặng thế thôi mà”.
Nhưng bà cụ giờ đây rất có thể là con của bà cụ ngày xưa, còn cậu bé “tim loạn
nhịp” ngày xưa là tác giả, nhà thơ đứng tuổi lịch lãm phong trần và người mẹ
vội chợ ngày ấy giờ đã năm lại ở bờ sông lẫn với đám ngô mà “bờ sông vẫn gió người không thấy về”.Tim quy luận vận
hành của cuộc sống luôn đau đáu và chẳng dễ dễ với Trúc Thông. Tính ông vốn thế
mà.
Ở bài thơ “Nho nhỏ mùa thu”, ngôn ngữ thơ văn
xuôi, Trúc Thông tô màu bức tranh: “Đôi
chim câu chân son mỏ đỏ, bên bờ con sông Sa Lung/ chim đi đâu đây?/ cúc cù cu
chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi? Rồi chim bay vù.Một quãng
đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù/ cỏ mùa thu xanh ngả đượm chút vàng.
Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời thu rộng rãi, gió nhè nhẹ trải/
vợ chồng chim như hai anh em như hai bè bạn. Áp trắng ,mắt xườm, chân son, mỏ
đỏ. Gật gù đi trong cỏ pha thu.” Nguyên bài thơ như vậy, đầy ắp sắc màu,
hình ảnh, sống động, làm nên một bức
tranh thu thật đẹp. Sự cầu kỳ cũng đáng giá đấy chứ?
Bản chất của sự vật và hiện
tượng cùng mối liên kết sâu xa của nó mới là mối quan tâm và làm ông bận lòng.
Điều này có thể tháy ở một số bài thơ,
như; Cảnh
quan, Múa cổ. Qua tháp Dương Long, Vũ nữ
Trà Kiệu bước ra từ sa thạch, . Dặn bức tranh năm cô gái, Bài
ca các em bé theo công trường,... Ví như, bài Múa cổ“ Em múa điệu rông đô thời cổ/ bàn chân chắc
nịch sau làn váy/ da đồng quê/ khăn mận chín vùng vẫy/ ngực căng/yếm sồi/ rông
đô/ chân trần tiếp đất/ làng ta thế kỷ mười/ đất âm thầm tự do trong cầm giữ/
rông đô/ trống vỗ/ rông đô/ vai trần/ rông đô/ không biết mệt...” Cảm giác, Trúc Thông mải miết, không mệt mỏi
đi tìm cách diễn đạt mới.
Nhưng thấp thoáng đó đây,
lại thấy một Trúc Thông rất đỗi thật thà, chẳng hạn như bài thơ “Cao
Bằng”: “Sau khi qua đèo Gió/ Ta lại vượt đèo Giang/ Lại vượt đèo Cao Bắc/ Thì
ta tới Cao Bằng... Rồi đến chị rất thương/ Rồi đến em rất thảo/ Ông lành như
hạt gạo/ bà hiền như suối trong.../ Bạn
ơi có thấy đâu/ Cao Bằng xa xa ấy’ Vì ta mà giữ lấy/ Một dải dài biên cương”.
Lời thơ giản dị những tình cảm dạt dào. Có lẽ vậy mà các nhà giáo dục đã chọn
đưa vào sách giáo khoa Tiềng Việt để
giảng dạy cho học sinh bậc tiểu học.
Hay đâu, có một Trúc Thông
nhuần nhị, thấm đã tình người, tình mẫu tử trong bài thơ “Bờ sông vẫn gió.” Theo
tôi, đây không những là bài thơ toàn bích của Trúc Thông, mà còn là một trong
những bài lục bát hayở xứ ta. Hay về mọi nhẽ., ý tứ, ngôn từ, vần điệu,... Cùng
câu mở rất gợi, lời thơ ra tựa lời cửa miệng nhẹ bẫng như không mà đằm nặng
nghĩa tình ;“Xin người hãy trở về quê/
Một lần cuối... một lần về cuối thôi,Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại
đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ vương hình bóng
cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa một lần/ Con xin ngắn
lại đường gần/ Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi. “
Còn có một Trúc Thông thẩm thơ bằng “con mắt xanh”. Gần bốm chục năm làm biên
tập thơ của chương trình Tiếng thơ, Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, ông đã đọc, đã
chọn lựa, bình luận, phê bình hàng vạn bài thơ để giới thiệu cũng thình giả,
công chúng. Đây là sự đòng ghóp khồng
nhỏ của Trúc Thông cho sự phát triển của thi ca Việt hiện đại. Cũng nhớ
vốn tích luy và kinh nghiệm của ngần ấy năm mà nhà thơ Trúc Thông đã thêm vào
gia tình tác phẩm của mình dày dặn.
Với riêng tôi, mấy chục năm
công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau khi thưa, ông vẫn
cứ thấp thoáng đâu đó, gần gũi đấy mà xa cách đấy, thân thiện đấy mà lành lạnh
cách nhỡ đấy,... Về phần mình, tôi luôn kính nể ông, mỗi khi tiếp xuc mạn đàm
về văn chương hay cuộc sống, tôi thường nghe ông nói, hơn là chia sẻ, giãi
bày,...
Tiếc là, sau nhiều năm năm
bệnh sau đột quỵ, hoạt đông văn học của ông phần nào hạn chế. Song với những gì
Trúc Thông để lại khi ông rời cõi tạm, bạn bè văn chương và người yêu thơ đát
Việt chắc chắn sẽ nhớ đến ông không riêng chỉ “Bờ sông vẫn gió” và tên
những tập thơ khác lạ !...
THŨNG
THẴNG LƯU QUỐC HÒA
Mỗi lúc gặp nhau, hay khi
giao tiếp trên mạng xã hội, tôi thường gọi đùa Lưu Quốc Hòa là Hòa đại nhân. Ông vui vẻ chấp nhận cách
gọi ấy. Sở dĩ tôi gọi ông như vậy, là muốn nhằm tới lỗi nói năng thủng thẳng,
dí dóm và khá sâu cay của Lưu Quốc Hòa, khi đem so sánh với nhân vật Hòa Thân,
một vị quan đại thần Triều Thanh xứ Trung Hoa. Đương nhiên về tầm vóc và sự cơ
mưu, ông còn thua xa nhân vật được tôi mang ra ví von.
Tôi biết đến Lưu Quốc Hoa
từ cuối năm 2009 khi tham gia mạng xã hội Blog Tieng Việt (blogtiengviet.net). Lưu Quốc Hòa chuyên viết chuyện xã
hội, làng xã, đặc biệt về những tàn dư cũ còn sót lại, hoặc các mẫu thuẫn mới
này sinh trong quá trình chuyển đổi xã hội sang thời kỳ hiện đại. Viết tự
nhiên, như mang chuyện thật mắt thấy tai nghe ra kể lại. Giọng văn nhẩn nha, dí
dỏm, hai hước pha chút chua ngoa, đanh đá kiểu “hàng tôm, hàng cá” làm nên bản
sắc Lưu Quốc Hòa. Tôi sẽ nói thêm về bản sắc văn chương Lưu Quốc Hòa sau, vì
con người ông mới là điều đáng nói,...
Nói Lưu Quốc Hòa “thũng thẵng”, đúng với ông về cách xứng
xử với văn chương và với cả cuộc đời. Chí ít, kể từ khi tôi biếết ông cho đến
lúc ông từ giã cồi đời theo cõi hạc, Lưu Quốc Hòa vẫn thũng thẵng như vậy. Sống
thũng thẵng và viết cũng thũng thẵng. Chẳng hiểu trước đây Lưu Quốc Hòa làm
nghề gì, nhưng khi tôi biết ông thì Lưu Quốc Hòa làm nghề tự do. Chỉ thấy vợ
con ông tần tảo làm lụng gì đó, còn bản thân ông thì chỉ viết lách là chính.
Thi thoảng tham gia nhóm văn nghẹ đàn ca sáo nhị í a hát chèo, vui là chính chứ
có ra tiền bạc không thì tôi chẳng rõ. Cứ nhìn giaa cảnh, bảo Lưu Quốc Hòa dư
dả, không phải, song cho là túng thiếu thì không hẳn. Chắc tùng tiệm đủ ăn
thôi. Ấy vậy mà, căn nhà tuềnh toàng của Lưu Quốc Hoa trên mảnh đất vườn khá
rộng có ao chuôm lũy tre nằm rìa thị xã Phủ Lý (Hà Nam) luôn rộng mở vỡi bạn bè
văn chương xa gần. Chẳng thế mà, trong vòng mấy năm liền, cánh bạn văn chương
thi họa Hà Nội chúng tôi mỗi lần về Phủ Lý theo lời nhắn mời của Lưu Quốc Hòa đến
nhà ông dùng bữa, khi ít cũng mươi người con khi đông cả huyện người. Vợ chồng
con cái căng ra lo chuyện cơm nước mệt bã mà mặt vẫn tươi tỉnh, đủ biết Luu
Quốc Hòa khéo và cái uy của ông với vợ con như thế nào rồi.
Có một dạo, đâu khoảng năm 2011 đến 2014,
nhóm văn nghệ sĩ, báo chí Hà Nội tham gia Blog Tiếng Việt hay tổ chức giao lưu,
thưởng là vào mỗi xuân, dự lễ Tịch Điền ở Duy Tiên, mồng bảy tháng giêng, rồi
men theo bờ sông Châu về Phủ Lý, chơi nhà Lưu Quốc Hòa. Kế đến, hội thơ Nguyên
Tiêu Văn Miếu, cả nhóm lại hội quân ở Văn Miếu. Những ngày tháng đó, tháp
thoáng bóng dáng Lưu Quốc Hòa, ăn diện bảnh bao, sơ mi veston, quân âu giày
bóng lộn, nụ cười thường trực tươi rói. Tôi nghĩ, có lẽ những năm tháng đó là
những ngày hạnh phúc, vui tười nhất cuộc đời văn chương Lưu Quốc Hòa. Những
ngày tháng ấy, chí ít Lưu Quốc Hòa được tắm mình trong bầu không khí bạn bè
thương mến, thi nhau viết đặng để khoe ra các sáng tác mjới hất của mình, chờ
đón những lời bình phảm khen chê của bạn đọc. Đương nhiên, khên chê chẳng màng
và cũng cẳng ra tiền bạc gì đâu song con người ta như được do-ping, cảm thấy
hứng khởi, thăng hoa và luôn được tôn trọng. Đành rằng, Lưu Quốc Hòa là người
viết tự do, không sống bám vào một cơ quan đơn vị nào để lấy lương kiếm sống,
những các tác phẩm của ông thời ấy cũng đã góp phần làm nên tên tuổi Lưu Quốc
Hòa, để từ đó, ông nương minh mà theo đuổi cái nghề cầm bút bạc bẽo, khắc
nghiệt này với đời,...Song thực lòng mà nói, chỉ khi sống cô đơn, thoát khỏi
trạng thái đám dông bày đàn, thấm nỗi khốn khó của việc mưu sinh, dồng tiền bát
gạo, manh áo, của căn nhà tuềnh toàng, mảnh vườn xác xơ, Lưu Quốc Hòa viết mới
thật hay, mới thấm nỗi đau mình, đau đời..
Về tác phẩm văn học, báo
chí, chủ yếu văn xuôi, truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, ký ự, có thể kể tên
các tác phẩm chính của Lưu Quốc Hoa như: Cung đàn xưa ngân mãi, Câu đồng dao
làng Vòi, Vĩnh biệt làng Ô Hợp, Người thức với mùa đông, tuyển truyện ngắn và
bút ký, tản văn, và trường ca Những vì sao không tắt,...
Sở dĩ, tôi phác thảo chân
dung con người Lưu Quốc Hòa trước, đơn giản bởi với ông, điển hình đời sao văn
vậy. Với Lưu Quốc Hòa, dáng dấp, điệu bộ ra anh chàng văn chương tỉnh lẻ, khôn
dại –dại khôn, chút ma lanh láu cá đấy nhưng mà cũng dại khờ ngay đấy. Thế nên,
các nhân vật trọng câu chuyện của Lưu Quốc Hòa, dù ở truyện ngắn, hoặc trong
tiểu thuyết hay ký sự thì cũng ná ná con người Lưu Quốc Hòa, bởi ông lấy mình
ra làm nhân nhân, hoặc tính cách hành xử theo hệ qui chiếu Lưu Quốc Hòa. Trong
một đôi lần đàm đạo văn chương với nhà nhà văn Nguyễn Hiếu, người từng dự trại
viết và chuyện trò với Lưu Quốc Hòa, ông khen văn Hòa này nọ, nhưng có ý chê
rằng truyện của Hòa yếu về kết cấu. Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi cho rằng, Lưu
Quốc Hòa không có khả năng hư cấu chăng? Truyện của Hòa thật như cuộc sống vậy.
Hay phải chăng, Hòa viết bịa mà như thật. Vậy thì tài tình chứ ao? Gì thì gì,
chứ văn Hòa có giọng điệu riêng, hóm hỉnh, hài hước, láu cá, tung tảy, nghĩ sao
viết vậy, không câu nệ, chất văn nói, nhiều chi tiết, dễ đánh lạc hướng bạn
đọc... Nói chung, có gì đó tự nhiên chủ nghĩa,. Có lẽ thế mà Nguyễn Hiếu có ý
Lưu Quốc Hòa yếu về kết cấu sao? Tôi vẫn không nghi thế,...và đi tìm cách lý
giải khác ,...
Trong một lần trả lời phỏng
vấn báo chí, Lưu Quốc Hòa dôc gan ruột. Ông thổ lộ một cách hình tượng là muốn
được “đổ bóng buồn vui” qua các trang
viết vào những thất thái thân phận của người dân, mà mỗi thân phận con người ấy
làm nên thân phận làng quê, và thân phận làng quê ra số phận vùng đất, qua đó
thấy bóng dáng thân phận đất nước... Có vẻ gì to tát nhỉ? Không. Tôi nghĩ vậy.
Lưu ý ở đây, Lưu Quốc Hòa dùng từ ”thất
thái” để chỉ thân phận con người, Mặc dù không giải thích, song tôi hiểu
hàm ý, ông muốn nhân mạnh, hay ám chỉ những cái mất của con người (hơn là cái được) trong quá trình chuyển
đổi này,... Với quan niệm, hay mong muốn vậy, nên Lưu Quốc Hoa chẳng quan tâm
đến thể loại hay kết cấu mà làm gì, ông chỉ muốn viết ra, viết ngay những cái
ông thấy, ông nghĩ, ông nhắm tới và ông ám chỉ, gửi gắm thông điệp, triết lý về
cuộc sống. Thế nên, kết cấu chẳng là gì với Lưu Quốc Hòa. Quan trọng, là chi
tiết và giọng điệu thì điều này ông có thừa,... thậm chí còn là thế mạnh của
Lưu Quốc Hòa,... Thú thật, mỗi khi đọc tác phẩm của Lưu Quốc Hòa, dù ngắn dài,
dù truyện ngắn, bút ký, phóng sự hay mẩu chuyện thôi, tôi đều tủm tỉm cười vì
thích thú vì sự dí dỏm, giàu chất uy-mua, và cả sự tinh quái, láu cá của tác
giả. Đọc rồi mường tượng khuôn mặt tỉnh bơ, cái cười nhẹ trên khóe miệng của
Lưu Quốc Hòa mà thêm phần thú vị. Ấy là cái tài của Lưu Quốc Hòa và cũng là sự
thành công của ông. Song có lẽ, sự khiêm nhường, vẻ rụt rè tỉnh lẻ của ông đã
phần nào hạn chế sự vươn lên, lớn dậy để trở thành một cây bút thành danh, thậm
chí nổi tiếng,...? Với Lưu Quốc Hòa thì cũng chẳng sao, nhưng là tôi cứ cả nghĩ
vậy?... Lưu Quốc Hòa đã chọn làng quê, chọn nông thôn để viết sau khi đã có
ngót hai chục năm từng trải đây đó khắp đất nước. Chỉ có ở quê, mảnh đất thân
quen mà ông hăng yêu mến, chỉ những con người mà ông thấy thân thuộc, chỉ công
việc nhà nông mà ông thông thao, hiểu biết, Luu Quốc Hòa tháy tự tin mà viết,
mà tung tẩy ý tưởng, mà bông lơn hay sắc lẻm câu chữ. Ông đã tìm thấy ở đấy
vùng sáng tác của mình sau khi đã mất già nửa đời người đi tìm kiếm ở đẩu
đâu,...
Tuy không lớn, chẳng nổi
danh này nọ, nhưng dường như, trong con người và văn chương của Lưu Quốc Hòa có
chút dấu vết, bóng dáng của những cây bút tiền bối nổi tiếng vùng Sơn Nan xưa
cũ như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nam Cao,... Nhặt nhạnh chuyện nhân tình thế
thái, cũng thấm nỗi đau đời mà nên châm biếm, chua chát, sâu cay,...
Trong thời kỳ chiến tranh
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, có những huyền thoại về sự hy sinh của
nữ nhân như Ngà Ba Đồng Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) với nữ thanh niên xung
phong, Hang Tám Cô (Bố Trạch, Quảng Bình), thì đất Hà Nam
quê của Lưu Quốc Hòa có chuyện 10 nữ pháo thủ Lam Hạ (Phủ Lý). Có thể nói, Lưu Quốc Hòa góp chút phần nhỏ bé công sức
của mình, thông qu các bài báo, câu chuyện, vận động này nọ,... để sự hy sinh
oanh liết của 10 nữ pháo thủ Lam Hạ (trong đó có cô giáo dạy Lưu Quốc Hòa hồi
cấp 1) không bị chìm vào quên lãng,... Đương nhiên, để mộ sự kiện lịch sử và sự
hy sinh của con người cho độc lập dân tộc trở thành huyện thoại, thành di tích
lịch sử là công sức của biết bao người, của nhiều cấp chính quyền, của ngành
văn hóa,... Song không vì thế mà không kể đến công sức của riêng Lưu Quốc Hòa.
Tôi đã đôi ba lần cùng đám bạn bè văn nghệ sĩ, báo chí về thăm nhà Lưu Quóc Hòa
và được nghe ông kể chuyện, đưa đến viếng ngôi thờ tự (sau thành đền thờ, thành
cụm di tích) 10 nữ pháo thủ Lam Hạ,... Ấy là chút công sức bé nhỏ của Lưu Quốc
Hòa cho quê hương, là sự tri ân của ông với những nữ anh hùng đã khuất, song
hành cùng những trang văn thơ của mình,...
Bằng đi mày năm, cuộc sống
xã hội có những bước chuyển mới, bạn bè văn chương mootju thời ít gặp nhau. Vẫn
thấy đâu đó bóng dang của nhau qua từng tác phẩm in ấn, trên báo, mạng xã hội.
Lưu Quốc Hòa vẫn thung thẵng như vậy. Thi thoảng có bạn bè gặp ông ở đâu đó,
hoặc về Phủ Lý đáo nhà Lưu Quốc Hòa thăm ông. Thị xã Phủ Lý phát triển lên thành
phố, cái làng ngoại ô quê ông cũng mở mang đường sá phong quang, Nghe đâu,
người ta mở đường ngang qua mảnh vườn nhà ông, láy đát đền bù, có tiền ông xây
nhà mới khang trang lắm, Khi không thiếu thốn thì lại buòn vì thưa bạn bè. Chỉ
mong có bạn đến chơi nhà để to nhỏ, dốc bầu tâm sự, để khoe nhau những tác phẩm
mới. Ngắm cái ảnh chụp Lưu Quốc Hòa ngồi tựa của ngôi nhà mới khang trang, hút
thuốc lào vặt, như ngóng khách với gương mặt thất thần mà buồn đến nao lòng.
Phải chăng đây là thất thái của riêng ông?
Mấy năm dịch Covid 19 mờ
mịt nên chẳng ai đến thăm ai được. Bạn bè đã xa lai càng xa. Rồi một ngày đọc
tin buồn gia đình và bạn bè thông báo Lưu Quốc Hòa rời cõi tạm. Mọi người hỏi
nhau Lưu Quốc Hòa mất vì bệnh gì. Thực ra, Lưu Quốc Hòa bệnh trọng nhiều năm
nay, nhưng ông cứ gắng gỏi, cứ vui bạn bầu đẻ sống và viết. Còn vì gia đình ông
nữa, nơi có người vợ hiền thục tảo tần, những đứa con ngoan, nơi ông có thể yên
tâm, lấy làm chỗ dựa đặng cầm bút ngao du với đời,...
Giờ bạn bè mới giật mình,
tự hỏi, những năm chơi với nhau, mình có làm điều gì thất thố, có làm buồn lòng
bạn văn Lưu Quốc Hòa của mình không nhỉ? Và nếu có, Lưu Quốc Hòa sẽ mỉm cười độ
lương. Tôi tin là thế. Khi mà, tôi và bạn cảm thấy trống vắng nơi Lưu Quốc Hòa
bỏ lại!...
Chợt nhớ lúc trà dư tửu
hậu, một nhà văn đàn anh vui miệng bảo “Lưu
Quốc Hòa có tài nhưng mà vẫn chưa lớn lên được...” Tôi nghĩ, Lưu Quốc Hòa chẳng quan xiêm chuyện lớn nhỏ. Ông cứ
tủm tỉm, thẵng thẵng với đời , cùng văn chương vậy thôi. Chỉ biết, giờ đây đọc
những trang văn của ông, thấy đau, muốn bật ười mà lại ứa nước mắt !...
Trần
Nguyên Vấn,
cần
mẫn và ân tình
Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà
thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm biết vì chúng tôi cùng lứa học phổ thông và cùng
nhau đứng trong đội tuyển giỏi Văn của tỉnh Hải Hưng tham gia kỳ thi học sinh
giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Băc vào tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn
là người tôi biết mặt đầu tiên. Tính từ lần đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm
1982, 1983 gì đó, đến nay đã ngót bốn mươi năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi
viết gì về ông, tôi vẫn phân vân về danh xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương
Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn đo vậy thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi
mặc định cách gọi, nhà văn thì Trần Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà.
Đương nhiên, ông viết dều cả hai thì gọi thế nào chẳng được...
Trở lại buổi ban đầu quen biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm
đúng công việc của một anh kỹ sư canh nông, ở tít mãi vùng biên giới
Tây Nam, Bảy Núi, An Giang. Chẳng là, tốt nghiệp đại học khi thống nhất
đất nước mới dăm năm, nên phần đông lứa kỹ sư nông nghiệp trẻ chúng tôi được
lùa vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi mệnh danh là vựa lúa khổng lồ. Khi
ấy, bà con ở đấy vẫn quen với lối canh tác quảng canh nên khó áp dụng các biện
pháp kỹ thuật. Thời gian rảnh nhiểu, tôi tập tọng viết báo, viết văn, làm thơ.
Cứ viết đại, gửi đại đến các tòa soạn báo qua đường bưu điện thế thôi. May
thay, người bạn thân phổ thông và cả đại học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh khi
ấy là phóng viên Báo Nông nghiệp, chỉ dẫn thêm. Nhở vậy, những bài
báo của tôi được dăng rải rác trên báo Nông nghiệp và Nhân
dân, rồi nữa, được phát sóng trong các chương trình phát thanh Đại
gia đình các dân tộc Việt Nam và Phụ nữ của Đài Tiếng
nói Việt Nam (TNVN-VOV). Thế nhưng, văn chương thì lại khác, các bút ký và
truyện ngắn tôi gửi cho Báo Văn nghệ thì chẳng tăm hơi. Trịnh
Bá Ninh mách tôi, anh quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn làm biên tập ở Ban Văn
nghệ Đài TNVN, và khuyên tôi hãy gửi bài viết nhờ ông thẩm định, góp ý. Tôi làm
theo và sau đó, Trịnh Bá Ninh thông báo lại cho tôi ý kiến nhận xét của nhà văn
Trần Nguyên Vấn. Tôi viết lại và may mắn sao, bút ký Mênh mông đồng
tràm được phát sóng trong chương trình Văn nghệ của nhà đài. Tôi mứng
vui khôn xiết!...
Hàng năm, mỗi lần đi phép ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn
tôi cùng đây đó, nhớ thế mà tôi gặp và quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi
từ ông, tôi biết thêm các bạn vân của ông, nhà văn Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn
Thái Vận, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Ngô Quân Miện,... Cũng qua ông, lần đầu
tôi bước chân ngó nghiêng ngôi nhà văn học của Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết
mặt những tên tuổi mà bấy lâu tôi từng đọc và nghe những tác phẩm của họ như:
Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Mạnh Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...
Cho đến khi, cầm quyết định về nhận công tác tại Đài TNVN
vào tháng 10/1987, thì ngoài những người cùng đơn vị với mình ở Ban Thính giả,
người tôi hay lui tới chính là nhà văn Trần Nguyên Vấn. Dù hơn tôi hai chục
tuổi (ông sinh năm 1937). Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của
mình. Tôi cũng hay đến chơi thăm ông tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu
tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, và đó rời sang khu tập thể ở phố Tông
Đản... Thành đàn em của ông, rỉ rả tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở,
ngỡ thuận buồm xuôi gió, nhưng không phải vậy,...
1, Hành trình trờ thành nhà văn,
Trần Nguyên Vấn sinh ở quê, làng Trúc Lâm thuộc thành phố
Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ trường Trung học Khải Đinh (Quốc học Huê), đậu
bằng trung học đệ nhất, tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin
ra Bắc tiếp tục đi học, trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây
là ngôi trường nổi tiếng mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học
sinh và trưởng thành từ đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to
tháng 9 năm 1954 do vỡ đê sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt
tuyến không có học bổng phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa
năm 1956 mới có học bổng. Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961)
khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân
văn Giai phẩm nên việc vào khoa văn rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh
chỉ lấy 24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô
Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm
Thị Hồng Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm
gồm Lê Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần
Nguyên Vấn, tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các thành viên trong nhóm tham
gia viết truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến chống Pháp của Thành Đội Hà
Nội. Trần Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể
của một số chiến sĩ. Bài ký này cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia
Nùng... được Thành đội Hà Nội tập hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội,
do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như vậy, có thể nói, con đường sáng
tác văn học của Trần Nguyên Vấn khời đầu thuận lợi, báo hiệu sự hanh thông
trong sự nghiệp văn chương...
Nhưng rồi, một sự hanh thông khác lại mở ra, năm 1961,
tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai cử nhân văn trẻ là Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực
nhận quyết định phân công về Bộ Ngoại giao công tác, Tương lai trở thành một
nhà ngoại giao mở ra, song dường như đinh mệnh an bài Trần Nguyên Vấn phải theo
nghiệp cầm bút văn chương thơ phú, nên chàng cử nhân văn khoa này lại không hài
lòng với nghề ngoại giao mà nhiều người mong chẳng được. Người bạn cùng lớp là
Nông Thị Nhuân được phân công về làm biên tập ở mục Đọc truyện dêm
khuya thuộc Phòng Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng
thơ của Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên Vấn báo
cáo Bộ Ngoại giao rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương lai trở
thành biên tập thơ...
Trần Nguyên Vấn bước chân vao môi trường làm báo chuyên
nghiệp, vào mái nhà chung 58 Quán Sứ, trụ sở Đài TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ
đấy, ông gắn bó với địa chỉ này cho đến lúc nghỉ hưu, tuy quãng giữa chặng
đường dài này nhiều biến cố, trắc trờ....
Thời gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài
công việc biên tập, Trần Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của
công việc, đặc biệt là phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển
sang Phòng miền Nam làm ở Tổ thời sự để
học thêm cách làm tin,,sử dụng tin tham khảo và viết các câu chuyện thời sự,
sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi chiến trường. Trần Nguyên Vấn còn hăng hái đến mức,
đã tìm gặp một số cán bộ của tình Thừa Thiên mới từ chiến trường ra để bày tỏ
nguyện vọng muốn được vào chiến trường. Tuy nhiên, ông vẫn phải chờ đợi đến
tháng 4.1967 mới được đáp ứng, sau khi trờ lại làm việc ở mục Tiếng thơ.
Trần Nguyên Vấn đi B cùng đợt với nhà báo Nguyễn Thành (sau này, nhà báo
Nguyễn Thành làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam)
và nhà thơ Bùi Minh Quốc. Sau khi huấn luyện, Trần Nguyên Vấn lên đường đi
chiến trường Thừa Thiên vào tháng 5.1967. Lúc ấy, vợ ông đang mang thai đứa con
đầu được 5 tháng. Trần Nguyên Vấn làm báo Cờ Giải phóng của
Thành ủy Huế, và từ đây, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam,
ông lấy bút danh là Trần Phương Trà, Thời gian làm phóng viên ở địa
bàn Trị Thiên Huế, Trần Nguyên Vấn cùng làm việc với nhà tho Thanh Hải, nhạc sĩ
Trần Hoàn, thiếu tường Lê Chưởng... Chiến dịch Mậu Thân 1968, Trần Nguyên Vấn
về Huế được mấy ngày. Theo dự tính, nếu chiến dịch thắng lợi, ta chiếm được Đài
dịch ở Huế thi ông sẽ là một trong những người tiếp quản, sử dụng, nhung việc
không thành, ông trở lại rừng tiếp tục công tác. Lần trở về Huế ấy, Trần Nguyên
Vấn được gặp lại má của mình, còn vui mừng báo cho má biết việc vợ ông ở Bắc đã
sinh con trai, đặt tên là... mà bằng mật ước nào đó, qua việc nghe chương
trình Tiếng thơ và Ca nhạc của Đài TNVN, các
bạn bè ở Ban Văn nghệ Đài đã báo tin để ông nhận biết. Việc này, hơn một lần
tôi nghe ông vui kể. xem như chuyện “làm ở Đài ăn lộc nhờ đài”...
Năm 1969 chi hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế được
thành lập. Trần Nguyên Vấn được bầu vào Ban Chấp hành Chi hội do nhạc sĩ Trần
Hoàn làm Chi hội trưởng,, nhà thơ Thanh Hải là Chi hội phó kiêm Tổng Thư ký,
còn ông làm Tạp chí Sinh hoạt văn nghệ của Chi hội/ Thôi thi
mặc sức mà viết, truyên ngắn, bút ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong
trào kháng chiến. Truyện ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra
dự thi truyên ngắn báo Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông
hăng hái xuống đồng bằng, ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra
cho Đài phát thanh Giải phóng. Đài TNVN và Tiểu ban
văn nghệ miền Nam do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách. Đến
8.1973, Trần Nguyên Vấn được đưa ra Bắc chữa bệnh viêm gan do nhiều năm bị các
trận sốt rét tàn phá.., Thời gian này, ông thuộc quyền quản lý của Ban Thống
nhất miền Nam.
Nhân đây, tôi thấy cần nói thêm về Đài Phát thanh
Gải phóng, nơi nhà văn Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt.
Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960,
theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng
nói Việt Nam đã chuẩn bị mọi việc để thành lập Đài Phát thanh Giải
phóng. Và ngày 01/02/1962, tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc Chiến khu
Đ, Đài Phát thanh Giải phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam chính thức phát sóng buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát
triển vượt bậc của báo chí cách mạng trên chiến trường miền Nam. Đài
Phát thanh Giải phóng đã phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng
Việt, Pháp, Anh, Hoa và Khmer, với lời xướng kiêu hãnh: “Đây là Đài Phát
thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính
nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.” Đài Phát thanh
Giải phóng phải thay đổi địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và
có điểm phát là cơ quan tuyệt mật ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng
Tham mưu, C55 và CP90... Đài Phát thanh Giải phóng chấm dứt
hoạt động vào ngày 31.8.1976, hoàn thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước
thống nhất Bắc Nam một nhà.
Sau giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn trờ về Đài Phát
thanh Giải phóng, làm Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài
Phát thanh giải phóng chấm dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà
xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan Đài tại phía Nam, và mãi năm 1980 ông mới ra
Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với cương vị Chủ
nhiệm chương trình phát thanh Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trờ
thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1983. Ông cũng là hội
viên Hội Nhà văn Hà Nội.
Hành trình để trở thành nhà văn của Trần Nguyên Vấn là hành
trình dấn thân đầy gian khổ nơi chiến trường bom đạn ác liệt; là hành trình
viết tạp mọi thể loại để phục vụ thông tin tuyên truyền thời chiến, để có sự
lắng động, chắt lọc mà thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so sánh, nếu như Trần
Nguyên Vấn không đổi nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì sao nhỉ? Tất nhiên,
là nhà ngoại giao mà có lòng say mê văn chương, hoàn toàn có thể trở thành nhà
văn, song ông đã không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã chọn cho mình con đường
cầm bút chuyên nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, ông đã tình
nguyện dấn thân vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống và lý tưởng văn chương
hun đúc, cùng hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng, vào mặt trận, rất có
thể một ngày nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng nghiệp Tô Chức, hay
như các bạn văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,...
và bao chiến sĩ khâc,
May thay, ông đã bình an đi qua chiến tranh để trờ thành nhà
văn. Hơn thế, ông là một nhà báo, một chiến sĩ !
2. Thơ văn Trần Nguyên Vấn,
Đến nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản
các tập sách:Trở về
Hà Nội (truyện
ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm
vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa
trái (thơ, 2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu
tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên
soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân dung văn nghê,
2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn, 2017), Về
giữa lòng quê (Ký, 2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách
đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay mai.
Biết ông nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi hiểu, Trần
Nguyên Vấn không hẳn là một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát ra ngoài,
Trong nhóm văn chương ba người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa, hóm hỉnh;
còn Nguyễn Thái Vận. lãng mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn, cẩn trọng,
chu toàn. Có lẽ, những đức tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn kết, thân
thiết, quý mến nhau. Giờ thì Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo cánh hạc
về trời, còn lại mình Trần Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và quảng
giao, Trần Nguyên Vấn luôn biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu bạn,
Ông đặc biệt say mê việc làm sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn, đến in
ấn phát hành... và đương nhiên, vẫn rỉ tả viết. Ông là người ghi chép cẩn thận,
tỉ mỉ mọi sự việc thấy cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư liệu lớn.
Tôi đã tứng ngó xem những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá đẹp,
chú thích và thư mục đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng nể, Tôi
biết, ông có những bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ
Việt Nam nói chung, xứng đấng được lưu giữ trong bảo tàng.
Trần Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn nghệ sĩ
Việt Nam. Ông vốn ghi chép cẩn thận, lại thêm trí nhớ tốt. Chỉ vậy thôi,
đã là một lợi thế không hè nhỏ để ông viết chân dung văn hay chuyện văn nghệ
sĩ. Khi có cảm hứng, ông đã thành thơ, như bài Trong đêm vui cuối cùng
với nhà văn Nguyễn Tuân, và bài Câu thơ cuối cùng về
nhà thơ Thanh Tịnh... Thực lòng, tôi mong nhiều hơn thế ở ông !...
Tôi nhớ, cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho tư liệu
phong phú của ông, tôi đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao
bác chưa chuyển hóa chúng thành tác phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng
được bao nhiêu đâu?...”. Trần Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình cũng
đang dùng dần đấy....”. Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này tập
nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại không
dám hỏi lại. Dường như, có gì đó chưa thông suốt trong ông thì phải? Những năm
gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm sách, nhất
là sách về trưởng Quốc học Huế và Trường cấp 3 Huỳnh
Thúc Kháng Nghệ An. Miễn sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã
ở độ tuổi ngoại tám mươi.
Tôi vẫn có ý chở, Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư ;liệu, đặc
biệt là tư liệu ghi chép về chiến tranh của ông.
3. Cần mẫn và ân tình Trần Nguyên Vấn,
Bút danh Trần Phương Trà thay cho tên thật Trần
Nguyên Vấn chỉ có khi ông vào chiến trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn
nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng bí mật thời chiến. Như vậy, bút danh này chủ
yếu được dùng thời kỳ ông làm việc ở báo Cờ Giải phòng và Đài
Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà
một. Sau này, ông ký tên thật là chính, song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu
mến gọi ông bằng bút danh, như một cách để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời
chiến tranh gian khổ đã qua.
Bản tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cời mở và đầy nhiệt tình với
mọi người. Gặp nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí nhớ rất tốt, có thể nhắc
lại những chuyện cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn và cách sống ân tình, là
bản chất của ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội khó khăn, thiếu thốn, căn
nhà của ông (ở khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà
Nội), là nơi lui tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng
nghiệp cùng cơ quan Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ
xứ Huế mỗi khi ra Hà Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày,
thaamh chí cả tuần thay vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi
danh của xứ Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điểm, Hải Bằng,
... Thế nên, Trần Nguyên Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban
liên lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có kinh nghiệm tổ
chức các hoạt động chung.
Tôi có anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng là đàn em báo chí thân
thiết với nhà văn Trần Nguyên Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi, Trần Nguyên Vấn sinh
năm 1937, tuổi Đinh Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế thôi, nhưng là người
nghịch ngầm, khá bướng bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết liệt, định làm việc gì
là gắng bằng được. Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ hanh thông nhẹ nhàng
song thực lại hay trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông
chưa tương xứng với sự cống hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.
Trần Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong việc làm sách. Trong số
ấy, phần lớn là tập hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư liệu của các tập thể,
riêng có 2 cuốn về cá nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ
Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008).
Nhà thơ Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính trọng của nhóm “Văn
nghệ sĩ Ong” thân nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn,
Nguyễn Thái Vận, Vũ Đính Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm văn nghệ
sĩ, thời bao cấp, thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết bài, sáng
tác thơ văn về nghề nuôi ong).
Còn Tuân Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là nhà báo, nhà
thơ đàn anh, biên tập viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của
Đài TNVN, nơi Trần Nguyên Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề
biên tập thơ. Đây xem như cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng
hương xứ Huế, đồng nghiệp cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với
nhau. Nhân đây, nói thêm vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên với
Trần Nguyên Vấn,
Tuân Nguyễn (tên thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở
Phú Vang, Thừa Thiên Huế, là nhà báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng
làm việc ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân
Nguyễn tốt nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời
kháng chiến chống Pháp từng tham gia Vệ quốc đoàn, sau hóa bình
xuất ngũ, theo học khóa 1 Văn khoa Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp,
làm giáo viên dạy ở Trường học sinh miền Nam tại Hà Đông,
một thời gian, trước khi về Đài TNVN làm biên tập thơ. Tuân Nguyễn không
may bị quy là “có ý
tưởng đi ngược với đường lối chính sách” và bị bắt giam vào tháng 10. 1964, do một số cán bộ cức
đoan suy diến, nghi ngờ, Gần 10 năm chịu giam giữ cải tạo, năm 1973, Tuân
Nguyễn được trả về cuộc sống bình thường, nhưng không thể trở lại cơ qian cũ,
mà lao động tự do. Ông lập gia đình với nhà thơ Phương Thúy, một giáo viên dạy
đàn dân tộc ở Nhạc viện Hà Nội, và là con gái của nhà phê bình văn học Hoài
Chân (người đòng tác giả với Hoài Thanh viết cuốn Thi nhân Việt Nam).
Năm 1976, vợ chồng ông chuyển vào Tp. Hồ Chí Minh sinh sống. Tuân Nguyễn sống
bằng việc dạy học và dịch sách. Còn vợ ông bán sách báo qua ngày. Tác
phẩm Bim trắng tai đen nổi tiếng của nhà văn người Nga
là G.Troyepolsky, Tuân Nguyễn là dịch giả.
Năm 1983, ông mất vì một tai nạn giao thông.
Những tưởng câu chuyện về một con người có tài
có tâm những không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng sẽ chìm vào dĩ vãng, thì
giở đây, những người yêu văn chương và bạn đọc biết đến tên tuổi Tuân Nguyễn.
Trước hết, phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng Quán, người đã viết một chân
dung Tuân Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba phút sự thật của
ông. Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB Hội Nhà
văn ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm bản thảo,
biên soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét thêm. Ở
đó tập hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng nghiệp,
người quen của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng Sơn,
Thái Vũ, Dương Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân Đài,
Vũ Từ Trang v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ của
Tuân Nguyễn được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng
nghiệp, thậm chí cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc hiểu
đúng về con người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã trải
qua, cũng xem như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi oan
khuất ma ông mắc phải!?...
Để làm được việc này, nhà văn Trần Nguyên Vấn,
người em xứ Huế, người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn phải có tâm lâm lắm và bỏ
nhiều công sức, cần mẫn, tận tụy mới làm nổi,
Thay lời kết cho bài biết này, tôi kể một câu
chuyện, thêm phần minh chứng cho mối lương duyên giữa hai người con của Thừa
Thiên Huế, Tuân Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm 2011, nhà thơ Phương
Thúy, vợ của Tuân Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không nơi nương tựa ở Tp.
Hồ Chí Minh. vì ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải pháp tốt nhất là làm
sao đưa bà Phương Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lào. Để làm được việc này không đơn
giản, phải lập hồ sơ giấy tờ phiền hà. Nhà văn Trần Nguyên Vấn lại đứng ra lo
một phần giấy tờ thủ tục. Khi ấy, tôi đang là Chánh văn phòng Đàu TNVN, nên có
điều kiện giúp nhà văn Trần Nguyên Vấn phần giấy tờ liên quan đến Đài với tư
cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của nhà thơ Tuân Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ
cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương Thúy được an cư ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,... và
nghe đâu bà mới mất vài năm gần đây. Với vợ chồng nhà thơ Tuân Nguyễn, lo toan
như thế, tôi nghĩ, nhà văn Trần Nguyên Vấn thật trọn tình vẹn nghĩa. ./.
Trần Trọng Trí, người thơ của Biển,...
1. Nhận diện
người thơ,...
Ấy là nhà thơ Trần Trọng Trí.
Xin được gọi ông như vậy. Trần Trọng Trí không
phải là nhà thơ với nghĩa đầy đủ của nó, nên trong bài viết này, tôi gọi ông là
Người thơ.
Trần Trọng Trí nguyên là thuyền trưởng
tàu hải quân HQ 05, từng một thời gian dài tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo
tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Câu chuyện về ông được bắt đầu từ một
sự việc. Ấy là, trên trang Blog của tôi, mang tên “Ngẫm & Viết“ được
thiết lập trên Blogtiengviet.net, vào ngày 27 tháng 2 năm 2011, có đăng bài “ Trời sắp mưa, thơ ứng tác của Trần Đăng
Khoa “, trong bài viết, tôi có quen miệng gọi bài thơ ứng tác của Trần Đăng
Khoa là thơ Đường luật. Sau đó, có nhiều bạn đọc vốn là cao thủ về loại thơ
này, cảm nhận, nêu ý kiến rằng đó không phải là thơ Đường luật vì không chỉnh
về niêm luật thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Những ý kiến đó là đúng cả. Tuy
nhiên, cũng có nhiều ý kiến khác, cho là, thơ đùa bỡn nhau, ứng tác tức thì
không sửa chữa theo kiểu thất ngôn bát cú, có thể chấp nhận được, không nên
khắt khe, bắt bẻ mà làm gi. Trong số nhiều ý kiến hay, tôi đặc biệt chú ý đến ý
kiến của một bạn đọc có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn, bởi qua cảm
nhận này, mọi người có thể biết ít nhiều về con người ông, và cả quan niệm của
ông về thơ ca nói chung: “ Tôi đã về hưu mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con
cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về TĐK rất
hay, tôi bèn ra quán Nét ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông
Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu
ghép lại, nội dung, vần điệu, niêm luật có thể búa xua. Vì thế chẳng nên mang
luật định ra bàn. Tôi là dân Nga học ( Tôi học thuyền trưởng ở O-Đe-sa, Nga,
cùng với Ngô Tự Lập. tôi từng có thơ in trên báo Hải quân và báo Văn Nghệ. Tôi
cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật,
đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân
những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề
luật hà khắc của nó nên mới thành đỉnh cao nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm
với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ chúng tôi vẫn
gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ cũng viết kiểu ứng tác. Bài thứ
nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu: "Thuyền trưởng ơi, hãy cho tôi bát rượu/ Tôi uống vào cho
biển cả nó thêm say/ Cho sóng lớn chồm lên muôn sức ngựa/ Nâng tầu ta đi canh
giữ nước non này". Chúng tôi sướng
những câu thơ này lắm. Rất sảng khoái và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm một bài
thơ đái ở trên biển. Cứ sõng thẳng từ trên boong xuống biển. Không ngờ cha Cua
Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ tình mà cánh lính biển
tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn
trùng trời nước/ Nỗi nhớ em không một phút nào ngơi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả
vào biển cả/ Nguồn yêu thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã cua đồng, và nhắn dùm: Thuyền
trưởng Trí vẫn nhớ K,Mong K sớm trở về với biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Hà thì
ghé nhà Trí chơi”.
Quả thật, khi vị cựu thuyền trưởng tàu
HQ05 đưa ra nhận định: "Tôi cũng rất
yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh,
đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà
thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc
của nó nên mới thành đỉnh cao nhân loại"..., tôi thực lòng kính trọng
sự am tường của ông về thơ Đường, thơ Đường luât và thi ca nói chung, sâu sắc,
không nệ cổ. Về cơ bản, tôi đồng tình với nhận định của ồng, bởi khi tìm hiểu
thơ Đường cũng thấy được, các thi nhân lớn đời Đường đã sớm cách tân thơ Đường
rồi.
Sau đó, Trần Đăng Khoa vào đọc, ghi cảm nhận,
đáp từ ông Trần Trọng Trí, nguyên văn như là: “ Vài hôm vừa rồi quây quả với mấy đám tang, bữa nay mới ghé vào quán lá
của nhà họ Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được
nhiều bạn cũ, nhiều người quen cũ, có người đến ba chục năm nay không thấy mặt,
như anh bạn Việt An. Ông này tài lắm. Dạo thi văn, lão ấy còn trên tôi đến ba
nấc. Lâu không gặp. Có người bảo lão dạo này bị gái bắt mất hồn, gặp người thân
chẳng còn nhận ra nữa. Có người lại bảo, lão say rượu rồi phải gió, méo mồm
rồi. Hoá sai bét. Lão vẫn to béo uỳnh uỵch, lại còn đang được mệnh danh là trùm
khủng bố mạng. Ai tranh luận với lão cũng thua. Vì sau cơn động rượu, người lão
mọc toàn mồm. Hóa ra cũng lại là giai thoại. Hoặc cũng có thể người ta sợ lão,
nhìn lão hoa mắt, tưởng quái vật. Với tôi, lão vẫn là chàng Việt An, ( tức là
Vit- theo cách gọi của Gà Phố) hiền khô thuở nào. Bây giờ, tất cả đều gặp nhau
ở đây, gặp trong chốn âm i, là cái chợ âm phủ, có tên Blog tv.net này. Tôi cũng
kinh ngạc và hoảng hồn khi thấy các quý vị tung ra hàng loạt những bài vè càn
quấy của tôi. Cắn rơm cắn cỏ xin các ngài xóa ngay khỏi bộ nhớ, vì đấy không
phải tác phẩm văn chương, mà là những trò đùa, đùa tếu để vui trong thoáng
chốc, cười toét cái rồi thôi. Các bác cứ lưu lại như một tác phẩm thật sự thì
hãi lắm.
Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có cô con gái rất xinh
tên là Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú lính khác, đi đến đâu bác cũng
được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính mới té ngửa: "Bố ơi, dạo
này con ngoong lắm, không gác chân lên cổ mẹ, mí nữa đêm ngủ con không đái dầm
nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu thư công
nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Thuận ở cuốn tiểu thuyết
Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề
nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé. Chúc các bác, các bạn luôn gặp điều lành”.
Nhà
thơ Trần Đăng Khoa và thuyền trưởng Trần Trọng Trí gặp lại nhau trên trang
blog, những tưởng thế đã là thú vị. Thật bất ngờ, tiếp nữa, còn có mấy thùy
thủ, lính tráng thuộc quyền của thuyền trưởng Trí cũng nhận ra ông trên trang
blog này. Xin trích cảm nhận của họ, âu cũng hiểu biết thêm về người thơ Trần
Trọng Trí. Cựu thủy thủy Nguyễn Văn Tròn viết:” Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em nghe
bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông K, hóa ra lại
gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng sống
được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác K còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất thiết
thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết thơ
lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch ra
ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em
thích nhất bài thơ Sếp tặng em. Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới
cưới. Sếp viết hộ em: " Gửi tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm
xuýt mất c.../ Mìn vướng, bom gài, anh đ... sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt c...". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần và
vật chất. Mất cái "cần tăng số"
thì có đến hàng trăm mét dù, nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn về mà con vợ em nó đi
theo thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ giờ em thay ba vợ rồi. Vợ em
hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện nuôi con.
Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy”.
Tình cờ được gặp
lính cũ trên blog, cựu thuyền trưởng Trí, qua cảm nhận đáp lại: “ Con cháu tôi
lại khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi
lại phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán
thịt chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm TS giết con Ái Vân ( tên con chó khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ
thích đặt cho chó ) để chiêu đãi tướng
Cương, chú với ông Khoa không ăn. Chú
còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã
mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng béo như ông khoa, mà nước vẫn dâng như lũ
sông Hồng. Chú Tròn ba vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác
Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy. Vào đọc ngay. Tôi rất thích... Tôi bây giờ đọc bác
Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn.
Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ...."... Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông
Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên truyền hình. Béo quá. Ông ấy về làng
không khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với
mấy ông cựu chiến binh bên Bộ tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB đài
tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn làm
thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông in
trong tập Hương ngoại ô cùng với một
triệu tiền mua sách. Thơ mà tôi tâm đắc, cánh cựu chiến binh quê tôi thích đều
là thơ mách qué. Bác Nhạc có giám in thơ tôi không? Đại loại như thế này: IẾC
XIẾC: Tối qua đi xem xiếc/ Thấy rõ ràng từng chiếc/ Càng nhìn lại càng tiếc/
Không được đi đoàn xiếc/ Để được sờ từng chiếc/ Tiếc/ Iếc xiếc. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ đến thăm chú
Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây giờ các bác ấy
mở quán tôi sẽ vào luôn”.
Nguyễn Văn Tròn hồi đáp cựu thuyền trưởng Trí: “ Thủ trưởng Trí
May có bác Nhạc làm liên lạc để em được
gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó
chẳng quan trọng. Vợ và chú em vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền với điều hành
chúng. Quán của em ở thị trấn Ba Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông
khách lắm. Thế cái bệnh lòi dom của thủ trưởng bây giờ thế nào? Thủ trưởng vẫn
làm thơ quậy à? Em vừa thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối
chày gì đó. Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một chút, chả gì Sếp cũng Đại
tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí thức đọc cả đấy. Em xem
thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã. Bà ấy có thể không thích
văn chương nhưng vì tò mò, tuỏng ở đấy có gái trinh, mò vào, gặp thủ trưởng nói
xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại tắm cho thủ trưởng một can xăng như
vợ nhà báo HH thì khốn. Đàn bà không tin
được đâu... Em qua ba chày rồi, em biết. Tanh lắm. Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận
đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây giừ qua nhà ông Nhạc, anh em
mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả hứng. Thủ trưởng bảo trọng”.
Không những thế, một thuộc cấp của ông là Lê Văn Khánh
cũng qua con đường cảm nhận vào bài viết của tôi để nhận lại thủ trưởng cũ của
mình: “ Ôi chồ chồ, thủ trưởng ơi, em là
Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó. Thằng Tròn điện cho em
bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho thủ trưởng. Em vào mấy
hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ thiên hạ tháy thua thơ
thủ trưởng hết. Em đọc ai cũng thích. Vịnh
cây khoai môn: Trên rừng sướng
nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn rất ngon/ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/
Lá nó hao hao giống cái l... ; Vịnh Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm./ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum/
Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn; Vịnh
cái tủ lạnh Sa-ra-top: Cắm vào
run rảy toàn thân. Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn. Hỡi người quân tử giàu
sang. Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra.
Nhưng em thích nhất bài thơ Sống ở
đảo chìm, viết tặng ông Trần Đăng
Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái/ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở đầu,
đái ở chân (tức đầu đảo, chân đảo)/ Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa/ Chẳng như
hồi sống ở nhà/ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng
thức nhá”.
Đấy, chỉ qua những dòng cảm nhận, đối
đáp giữa cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí với nhà thơ Trần Đăng Khoa và mấy
người lính cũ của ông, ta có thể nhận diện được Trần Trọng Trí, quan niệm của
ông về thi ca, cùng thơ ca hò vè của ông, và ít nhiều thực tế cuộc sống của
những chiến sĩ hải quân bảo vệ đảo.
Sẽ còn nhiều điều thú vị và bất ngờ về
cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và những người lính đảo của ông...
2.
Những cuộc đối thoại thơ:
Sau những cuộc nhận ra nhau và hồi đáp thú vị giữa vị
cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, cùng những người lính biển một thời của ông,
và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Trần Trọng Trí có đọc kỹ một số truyện ngắn và thơ
của tôi trên trang blog Ngẫm & Viết,
( truyện có: Ngày xưa ấy, Thấm thoắt
tháng ngày, Giải thoát ... , thơ thì Xuân
mưa, Đi biển một mình ... ), ông có đưa ra một số nhận xét. Thêm nữa, khi
tôi công bố bài viết “ Đảo Chìm, nghệ
thuật tạo dựng không gian truyện “ trên blog của mình, rất nhiều nhà văn,
nhà phê bình và nghiên cứu văn học, đọc và đưa ra những nhận xét tích cực, điều
ấy khích lệ thêm những cựu lính biển. Trần Trọng Trí đọc thường xuyên mỗi ngày
và ông rất chịu khó ghi cảm nhận, khi đưa ra nhận xét này nọ, lúc lại thơ ca hò
vè tếu táo làm vui. Sôi động hơn, khi một nhà thơ nữ, cũng là blogger của
Blogtiengviet.net ( xin phép được giấu
tên ) cảm nhận bằng thơ vào trang blog của tôi, Trần Trọng Trí đọc được và
dường như ông được kích hoạt, thơ vè tuôn ào ào, có ý trêu đùa nữ nhà thơ nọ.
Sự thông minh, hóm hỉnh vốn có, và cái khiếu hài hước của ông được đẩy lên cao.
Từ đó sinh ra các cuộc họa thơ mang tính chất bông đùa nhau. Tôi ghi lại và
trích một số thơ họa của Trần Trọng Trí.
Tôi có bài thơ Xuân mưa: “ Xuân đem hạt nắng
gieo đâu/ Mưa bay giăng nhẹ nỗi sầu cho ai / Bất ngờ nở đóa sớm mai/ Dùng dằng
xuân giọt nhỏ ngoài mái hiên “, thì Trần Trọng Trí họa Xuân nắng: “ Xuân sang, ta
Sáu Tư rồi/ Vắt đâu ra mấy giọt giời được đây/ Mặt trời đã tốc vấy mây/ Ta cùng
vợ vác cối chày ra phơi”. Tôi đọc và đưa ra đề nghị là sửa câu “ giọt trời “ thành “ giọt giời “, ông khoái lắm, đồng ý luôn.
Tôi đăng bài Đi
biển mùa đông: “ Mùa đông/ đi biển/
một mình/ hoang vu biển / vẫn tự tình,/ đâu em/ bờ dương thầm thĩ/ môi êm,/ gối
đầu tay/ mộng/ chong đêm/ một mình...”; Nữ nhà thơ nọ họa bài Trước biển: “Lặng nghe.../ sóng động / lòng mình / triệu năm/ vẫn hát khúc tình tự
em/ cồn cào/ gửi nhớ vào đêm/ bờ dương lả/ gió vuốt mềm tóc ai...”; Trần
Trọng Trí vào cuộc họa: “Có chày mà không
cối/ Chẳng thể nào văn minh/ Dù trăm chàng râu rậm/ Vẫn bùng biêng một mình/
Thương quá Chu thi sĩ/ Gối đầu lên cánh tay/ Lấy thi ca làm cối/ Chày lại vang
nhịp chày/ Giờ có thơ ta đọc/ Thơ hóa thành biển trăng/ Quờ tay ra đã gặp/ Vành
vạnh một ả hằng/ Vầng trăng không biết lặn/ Cứ nõn nường tươi xinh/ Ai bảo
chàng Chu Nhạc/ Ra biển khơi một mình?”.
Không thấy nữ nhà thơ nọ ọ ẹ gì, ông tiếp tục khiêu
khích, thơ rằng: “ Ả nguyệt đâu rồi nhỉ/
Để biển mịt mù đêm/ Ta gối chày lằng sóng/ Chờ đợi vầng trăng lên”... Việt
An thấy vậy vào cuộc, ghi cảm nhận khích ông là “ Bộ trưởng Bộ Giã gạo”, trước
khi vào lính Hải quân, Trần Trọng Trí liền quay mũi nhọn sang Việt An như sau: “ Chú em thông minh thật/ Anh là thợ giã
đây/ Trước một chày một cối/ Giờ ba cối một chày/ Về hưu rỗi rãi lắm/ Thì vác
chày đi chơi/ Có gạo đâu mà giã/ Ả nguyệt phắn mất rồi/ Chú đẻ rơi bên cối/
Vầng trăng thu lẻ loi “.
Quả thật, Trần Trọng Trí thông minh, hóm hỉnh, giàu
tính hài hước, thơ ứng tác của ông cũng rất chi là tài tình. Gạt đi sự bông đùa
tếu táo, bỏ qua những câu thơ, những từ ngữ bạo dạn theo kiểu khấu ngữ dân
gian, nhìn chung, thơ ông khá hay. Khi tôi bày tỏ với ông điều này, ông hiểu,
song ông vẫn đẩy sự bông đùa lên cao nữa. Từ câu chuyện về mối tình ngang trái
trong truyện ngắn Ngày xưa ấy của
tôi, ông vịnh thành thơ mà trêu tôi: “ Tiếc
là chàng hiền quá/ Không hiền còn dại điên/ Ngả phứa nó lên cỏ/ Hai đứa cùng
lên tiên/ Tiết hạnh nó chẳng giữ/ Vậy mà còn vân vi/ Lão đồ nho hâm quá/ Rõ
thật như cù...đì “.
Vậy đấy, Trần Trọng Trí sắc lẻm như dao cau, mạnh bạo
như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu, tình dục.
Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người tồn dư tính
láu cá nông dân.., Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp của ông,
dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông, cũng lanh
lợi và sắc lẻm không kém. Ấy là Nguyễn Văn Tròn ( tức Tròn Lùn ). Anh chàng này
bàn góp với thủ trưởng Trí của mình như sau: “ Thủ trưởng Trí ơi! Bây giờ chắc thủ trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán
Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn được vô nhà bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng
cái máy tính con của em. Rất tiện lợi. Giờ em quyết định thế này: Giữa tháng Ba
này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em
mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa
trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi tính xách tay và cái USB nối
mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ trưởng đọc bác Khoa, bác Nhạc
và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo nhạt toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu
đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em
chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng chơi tẹt ga. Thủ trưởng nhắn cho
em thằng H., con Nh. ( Cái con bé ngày xưa thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi
bóp v. ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi.
Rồi thằng B., thằng V., thằng C., thằng Kh., thằng Tr. ( Thằng Tr. khỏe như
trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà
thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này rất thông
minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng hâm đột xuất ). Em thấy đàn bà chẳng mấy sâu sắc thủy chung gì đâu,... Đấy, như vợ tay nhà báo nọ, có thể thiêu
chồng chạy theo một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã hơn... Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu
khen đểu là... Đàn bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường
coi khinh những thằng tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn
thằng Khánh thì em liên lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông
thương mà không làm phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn
càng tiện lợi... cánh công chúc này nọ cũng búa sua vậy cả....”.
Xin được thứ lỗi, nếu chị em nào đọc đoạn trích cảm
nhận của Tròn Lùn, mà phật ý. Cảm thông và cám cảnh cho anh chàng cựu lính thủy
này, bởi anh ta đã qua ba đời vợ mà hai người đầu đều bỏ anh ta chạy theo người
đàn ông khác. Có lẽ, vì thế mà chàng ta sinh ác cảm với phụ nữ chăng? Những mà,
chỉ ác khẩu thôi. May mắn là người vợ thứ ba, theo anh chàng tự nhận, là người
tử tế đấy thôi. Anh chàng này, ngoài đời chắc hẳn là một người đàn ông xốc vác,
quyết liệt. Qua những gì tôi biết, tôi hình dung, thiển nghĩ, đằng sau vẻ bất
cần và mạnh bạo đến quyết liệt ấy, anh chàng là một người cả nghĩ và đa cảm.
Chẳng thế, Nguyễn Văn Tròn bàn về thơ Trần Đăng Khoa thế này: “ Em lại thích thơ bác Khoa sau này hơn thơ
ngày trước. Bài thơ Lính đảo hát
tình ca rất tuyệt. Bài về nghĩa trang
Văn điển nữa. Nhưng viết về phụ nữ của bác Khoa, em thích nhất mấy câu này, sau
khi gặp gái, bác ấy đã ngây ra như ngỗng ỉa: "Tôi vội nhìn theo nào có
thấy/ Bời bời lối cỏ, bóng em đâu?/ Tìm em lại gặp con chó đá/ Ngoác miệng làm
duyên giữa bụi lau". Đời nhiều chó
đá lắm bác ạ ". ...
Nói về người thơ Trần Trọng Trí, nhưng sao tôi lại nói
nhiều về Nguyễn Văn Tròn làm vậy? Là có duyên cớ đấy. Bởi, cùng sự xuất hiện và
giao lưu với mọi người trên mạng, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí có thêm sự
khích lệ từ Nguyễn Văn Tròn, khiến ông như nhập đồng vào thế giới ảo internet
một cách mê say, và hơn thế, ông còn đưa ra những quyết định ngoài đời rất
nhanh chóng, làm thay đổi hẳn cuộc đời ông ngay sau đó...
3. Như vệt
sao băng vút qua bầu trời,
Áp lực và mong muốn có máy vi tinh, kết nối internet
thì thầy trò Trần Trọng Trí - Nguyễn Văn Tròn đã nhanh chóng đạt được. Khi tôi
đề nghị Trần Trọng Trí đổi một từ trong bài thơ ứng tác của ông, không những
đồng ý, ông còn nhắn lại: “ Ông Nhạc chữa cho tôi một chữ mà hay hơn đấy. Cao thủ.
Mặc dù ý không thay đổi, nhưng chữ “giời” thì hợp hơn chữ” trời”. Tôi sẽ qua
chú Tròn trong dịp tới. Chú giúp tôi mua vi tính, nhưng không cần tặng tôi,
thằng con rể tôi nó cho. Thằng cu đang muốn kéo tôi về Yên Bái sống với nó. Tôi
đang tính. Nghe có mấy đứa vừa báo tôi bên nhà ông Khoa có trò mới cũng vú vê
búa sua. Tôi sang xem đã nhé”.
Rồi sau đó, trong cảm nhận khác, cựu thuyền trưởng Trí
hào hứng thông báo: “Tôi đã sắm máy tính
cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn mê các
ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui nhập thế giới hiện đại. Ngày mai tui
đi Sài Lang Thành nhưng vẫn đọc các ông đấy”.
Trần Trọng Trí đi chơi xa, nhưng ông không quên vào
mạng để đọc mọi người. Theo tôi hiểu, quan trọng là, ở đấy, ông gặp lại các
đồng đội, lính cũ của mình, những người từng nhiều năm sát cánh bên ông bao năm
tháng gian khổ, hy sinh; và hơn thế nữa, ông còn biết thêm thông tin mọi mặt,
phải trái, giúp ông thoát khỏi thân phận một vị cựu đại tá nghỉ hưu trở thành
người cắt tóc nơi phố huyện, ù cạc vì thiếu thông tin...
Cách ít hôm, Trần Trọng Trí vẻ bùi ngùi, thông báo qua
cảm nhận : “ Bữa rày, ông Khoa đưa cái Đảo chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem
người ta bàn thế nào về cuốn sách này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì
chẳng có ai nhắc đến một dòng, cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn
chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều
người còn nhầm ông với một hội viên Hội nhà văn Việt Nam khác trùng tên... Sáng
nay, tôi và con gái qua Hà Nội, có đến thăm ông Nhạc, ông Khoa. Con bé (
nhưng cũng là gái xề rồi , là nguyên mẫu, trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương ), nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý
chú Khoa. Bữa nay, chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông
thì đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng
không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai, tôi đi Lào thăm chú Tròn
rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích
văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi
nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.
Khi đọc được thông tin này, tôi lấy làm tiếc lắm. Vậy
là, đã hai lần, Trần Trọng Trí đến tận trụ sở 58 Quán Sứ, để tìm gặp Trần Đăng
Khoa và tội mà không gặp được. Tôi nhắn lại ông, và thâm tâm nghĩ, dù là ông ở
quê Liều Đề ( Nam Định ), hoặc theo con gái về sống tại Yên Bái, thì cũng đâu xa,
cứ liên lạc thường xuyên thì việc gặp nhau đâu khó: “ Bác Trí. Thật tiếc, khi bác đến VOV, cả hai chúng tôi lại vắng cả.
Tôi đang đi công tác Điện Biên. Còn Khoa thì không trực thứ 7, nên cũng không
đến cơ quan. Bác cho biết số điện thoại của bác ( hoặc người nhà ), tôi và Khoa
sẽ liên lạc với bác ngay. Cho tôi gửi cảm ơn tới Hà ( Mộng Tương công nương
của Đảo Chìm ). Cảm ơn Hà đã đọc văn chúng tôi “.
Tôi điện thoại thông báo với Trần Đăng Khoa thì anh
cũng lấy làm tiếc. Ngay sau đó, Khoa nhắn cho ông: “ Bác Trí. Nghe Chu Nhạc điện, tôi mới biết sáng nay bác và tiểu thư công
nương qua cơ quan tìm tôi và Chu Nhạc. Nhưng tiếc quá, Nhạc đang đi công tác.
Lão dẫn đầu đoàn nhà báo Đài về Điện Biên, hi vọng chuyến này xóm lá được đọc
cả thơ và văn của hắn. Còn tôi bữa nay không trực cơ quan, tiếc quá. Bác cho
tôi số điện thoại hoặc điện cho tôi theo số 0913533260. Tôi rất mong được
nghênh đón bác. Còn cháu Hà, thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa thì đúng quá
rồi. Cháu thế là tinh đấy. Vì chú Nhạc viết hay hơn chú Khoa. Vợ chú cũng thích
văn chú Nhạc hơn văn lão Hâm ở nhà mình. Mong được đón hai bố con “.
Cảm giác, Trần Trọng Trí bần thần, bùi ngùi xúc động,
và có vẻ bất an về nhiều lẽ ? Tiểu thuyết Đảo
chìm của Trần Đăng Khoa, ông đọc trên mạng, đã vô tình sống dậy trong ông
hết thảy cả quãng đời sung sức, đầy nhiệt huyết và khát vọng sống, nhưng vô
cùng gian truân, và không kém cô đơn, dù bên cạnh mình có bao nhiêu đồng đội;
hẳn bao ký ức vui buồn ùa dậy, chen lấn trong lòng ông; rồi nữa, ông đã quyết
định thay đổi cuộc sống của gia đình mình sau chuyến đi Quảng Bình và Lào cùng
người lính cũ Nguyễn Văn Tròn? Hay còn linh cảm gì nữa chăng ? ...
Cái điều tôi nghĩ, điều Trần Đăng Khoa nghĩ và mong
muốn được đón hai bố con vị cựu thuyền trưởng tàu HQ 05, và chắc hẳn, tự thân
Trần Trọng Trí cũng nghĩ vậy. Đâu khó gì. Đã hai lần chưa gặp, thì lần thứ ba,
thứ tư sẽ gặp. Giữa Trần Đăng Khoa và Trần Trọng Trí, họ sống với nhau nhiều ở
Trường Sa và trên tàu HQ 05 thời điểm năm 1982, nay có gặp là gặp lại thôi,
kiểu gặp của những cựu binh một thời sống chết bên nhau. Riêng ông và tôi, thì
chưa từng gặp nhau...
Bẵng đi cả tuần, rồi nửa tháng, không thấy ông xuất
hiện trên mạng, cả Tròn Lùn nữa. Tôi nghĩ, thầy trò nhà này gặp gỡ sum họp, rủ
rê thăm nom các cựu lính biển khác, rồi kéo nhau sang tận Lào du ngoạn thì
không chừng cả tháng. Có lẽ mảng vui, rồi đường sá xa xôi nên các vị xao nhãng
internet. Quả thực, không có các cảm nhận bông đùa tếu táo nhưng rất đỗi chân
tình của Trần Trọng Trí cùng đám lính cũ của ông, tôi thấy thiêu thiếu, và hẳn
Xóm blog Tiếng Việt cũng kém xôm trò. Thôi đành đợi họ về, giờ thầy trò họ đều
có laptop, nối mạng USB cả rồi , tha hồ mà giao lưu, thơ phú, gặp gỡ, bù khú...
Một ngày làm việc bình thường, theo thói quen, tôi đến
sớm trước giờ làm việc nửa tiếng, bật máy vào mạng tranh thủ xem một số thông
tin đầu ngày và blog cá nhân mình. Không tin vào mắt mình, khi đọc những dòng
cảm nhận sau đây: “Chú Chu Nhạc kính mến!
Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì tai nạn
giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn bố cháu
vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã nửa
tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết. Nếu có
gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”... Sau chút bàng hoàng, xem kỹ, cảm
nhận của Hà được viết lúc 23h24 ngày 23 tháng 4 năm 2011. Như vậy, cựu thuyền
trưởng Trần Trọng Trí và cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn đã vĩnh viễn ra đi trước
đó nửa tháng rồi. Đâu ngờ, những dòng cảm nhận ông viết vào ngày 19 tháng 3 năm
2011, báo tin việc ông đi tthăm Nguyễn Văn Tròn rồi cùng nhau sang chơi bên
nước Lào, lại là những dòng cuối cùng ông để lại nơi Blogtiengviet.
Đã có bao nhiêu lời bày tỏ lòng tiếc thương, cảm mến
thầy trò Trí-Tròn, lời chia buồn sâu sắc với cháu Hà và gia đình hai người,
song chẳng có gì bù đắp nổi sự mất mát đó. Nhà thơ Trần Đăng Khoa viết: “Trần Thu Hà! Chú thực sự sửng sốt trước tin
của bố cháu và chú Tròn. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin.
Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước
đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có nhưng cảm nhận rất thú vị, vừa
hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu
và chú Tròn, làm Xóm Lá sinh động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại.
Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc
còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú
cũng đã chuẩn bị. Vậy mà ai ngờ...Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú
đau đớn chia sẻ nỗi đau đớn này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội
thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin
chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình”.
Sau vài ngày tĩnh tâm, tôi viết trên blog của mình bài
“ Tưởng nhớ cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí “, lại có bao lời chia sẻ từ cộng đồng Xóm Lá ( Blogtiengviet.net ),
Trần Hồng Giang, một blogger khuyết tật được nhiều người yêu mến, chia sẻ “ Bất ngờ quá anh Nhạc ơi!
Em đọc Đảo chìm của anh Trần Đăng Khoa ngay từ lần xuất bản
đầu tiên. Với lòng yêu mến và cảm phục những người lính đảo đến khôn cùng. Vậy
nhưng đến vừa rồi qua blog của các anh thì em mới biết là bác Trí nguyên mẫu
trong Đảo chìm là đồng hương Nghĩa Hưng với em. Biết được
thông tin này, em đã rất vui mừng, em đã nhờ một người bạn ở thị trấn Liễu Đề,
liên lạc với bác Trí để một lúc nào đó có thể gặp gỡ. Em hy vọng khi gặp được
bác ấy thì sẽ viết một cái gì đó về một con người mà mình ngưỡng mộ.Thế mà...
Cuộc đời này sao lại có những thực tế phũ phàng như thế chứ!”.
Tôi lần giở các trang blog của mình, tìm tất thảy dấu
vết của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh lính cũ của ông để lại, kể từ
ngày đầu ông xuất hiện (ngày 28 tháng 2
năm 2011) cho đến bài viết cuối cùng (ngày
19 tháng 3 năm 2011), nghĩa là chưa đầy một tháng, thầy trò ông đã làm sôi
động cả Xóm Lá với những dòng tâm sự, với thơ ca đối đáp giàu chất lính, phồn
thực và rất uy-mua...
Đột ngột xuất hiện và vụt biến mất, họ như những vệt
sao băng vút qua bầu trời vậy !...
4. Vĩ thanh,
Một câu hỏi đặt ra, tại sao thầy trò Trí – Tròn lại
sang tận Thái Lan, để rồi xảy ra sự cố đáng tiếc ở đó ? Theo suy luận của tôi,
Tròn Lùn đã từng thông báo rằng, anh ta mở quán Cày tơ ở Ba Đồn, làm ăn khá
phát đạt, lại mở thêm mấy quán nữa tận bên Lào. Tròn Lùn có ô tô riêng. Vậy là,
sau khi đón thủ trưởng Trí và Quảng Bình, thăm thú đồng đội cũ, viếng nghĩa
trang Trường Sơn, rồi họ sang bên Lào chơi, tiện thể giải quyết công việc quán
xá bên đó. Giờ quốc tế thông thương, mấy nước Đông Nam Á qua lại nhau dễ dàng
như đi chợ. Từ thủ đô Viên-chăn, chỉ cần qua cầu bắc ngang sông Mê-kông, sang
cửa khẩu Noọng-khai, là vào tỉnh Udon của Thái Lan rồi. Sở dĩ biết vậy, trong
một chuyến công tác sang Lào năm 2010, tôi cũng đến được tỉnh lỵ Udon theo
đường này. Có điều, Thái Lan giao thông theo hệ thống của Anh ( cũng như một số
nước khác như Nhật bản, Hồng kông ), ngược ta, đi trái về phải. Ô tô của họ
phần lớn là tay lái nghịch. Nếu người mình sang đó, xe tay lái thuận, lại thêm
thói quen theo luật giao thông ta ( đi phải về trái ), thì chỉ vài giây sơ ý
xao nhãng là lao xe sang phần được ngược chiều ngay...
Đáng tiếc làm sao. Âu cũng là số phận. Kể từ khi nhận
ra nhau, họ cần nhau, cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí và người em lính cựu Nguyễn Văn Tròn... Những
nhận xét rất thẳng thắn, chân thành và tinh tế của họ, nhất là những bài thơ cũ
được nhắc lại, những cảm tác tức thời hóm hỉnh, pha chất lính tráng và phồn
thực của họ, thật hay, đã khiến cả Blogtiengviet.net sôi động, sinh khí hẳn
lên... Không những thế, cặp thủ trưởng-lính cũ, anh em, thày trò Trí –Tròn còn
tranh thủ kể chuyện đời thường sau khi họ chia tay nhau rời quân ngũ, chuyện
sinh sống làm ăn thành bại, chuyện vui buồn thế sự, chuyện gia đình...Họ trút
hết nỗi niềm cho nhau...Tâm đầu hợp ý, có cảm giác như từ đây, họ không thể
sống thiếu nhau !...
Cho đến nay, ngoài những gì người thơ
Trần Trọng Trí để lại trên blog của tôi, chủ yếu là văn thơ đối đáp, hài hước
bông lơn, tôi không biết những bài thơ khác của ông đã từng được đăng báo Văn nghệ, báo Hải quân và trong tuyển thơ Hương
ngoại ô ra sao. Không biết nên chẳng bàn. Theo suy đoán của tôi, Trần Trọng
Trí đã có gần như cả cuộc đời phục vụ trong Hải quân, đặc biệt quãng thời gian
dài ông sống và chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa, làm thuyền trưởng tàu HQ
05, hẳn số thơ ca hò vè ông sáng tác rất nhiều ( mà mấy bài các cựu lính biển Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh nhớ là điển
hình ). Sẵn trí thông minh, tính hài hước, và không kém phần lãnh mạn trong
mình, Trần Trọng Trí sáng tác hay ứng tác, là pha trò cười, là nhắc nhở, là
động viên, khích lệ cánh lính của mình có thêm tình thần và lòng can đảm, cố
kết, trụ vững, chống chọi với sóng gió biển khơi và sự rình rập của kẻ xâm lấn,
đặng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của quốc gia.
Song những gì Trần Trọng Trí để lại, như
tôi đã từng đưa ra nhận định, gạt đi những gì quá bông lơn tếu táo, bỏ qua
những câu chữ còn ít nhiều dung tục cửa miệng, thì nhìn chung, thơ ca của ông
giàu yếu tố phôn-clo, giàu chất uy-mua, khá phồn thực và không kém phần lãng
mạn... Rồi đây, những bài thơ hài hước của ông sẽ vẫn được cánh lính biển, và
nhiều người hơn nữa, nhớ đến... Và hơn thế nữa, ở ông, còn là sự am tường về
thi ca nói chung, mực thước nhưng không nệ cổ, chấp nhận sự cách tân và phát triển
của thi ca đương đại... Trong tập sách Trường
Sa, mới xuất bản của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng với nội dung chính là
những bài thơ anh viết về biển đảo, tiểu thuyết Đảo Chìm, có trích đăng một số câu chuyện ngoài lề lên liên quan
đến chủ đề này và nhiều ý kiến khác về tiểu thuyết Đảo Chìm, có đôi chút câu chuyện về cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí, cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh và những đồng đội
khác.
Vậy, với người thơ Trần Trọng Trí, thiết
tưởng, như thế là hạnh phúc... Mỗi khi nhớ về ông và Nguyễn Văn Tròn, là nhớ về
quá khứ pha chút tiếc nuối của sự thiếu vẹn tròn...
Trong một bài thơ, Trần Trọng Trí đã viết: “ Ta gối đầu lắng sóng/ Chờ đợi vầng trăng lên
“... Giờ, thì hẳn, ông và Tròn Lùn, ở miền xa thắm ấy, họ thanh thản gối đầu lắng sóng, chờ đợi vầng trăng lên !...
5. Người thơ
của Biển,
Chân dung nhà thơ Trần Trọng Trí, tôi đã viết cách đây
dăm năm.
Đã có phần Vĩ thanh, thì nói thêm mà làm gì?
Có đấy, khi mà Biển Đông chưa một ngày bình yên, thì
con người cùng những dòng thơ, dù là tếu táo cho vui, chủ yếu để động viên,
khích lệ tinh thần của đồng đội và chính mình, sẽ trở thành nhân chứng khẳng
định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, khác chi đâu chuyện về Hải đội Hoàng Sa
ngày xưa dưới triều đại phong kiến đất Việt ?...
Chính vì lẽ đó, đại tá, cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí và những người lính biển thuộc cấp của ông, chẳng bao giờ phai mờ trong tâm
trí mọi người... Đây cũng là lý do, tôi trở lại tiếp nối chuyện về Trần
Trọng Trí, người thơ của biển này.
Số là, năm 2014, Nhà xuất bản Văn học ấn hành tập Trường Sa của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tuyển tập thơ văn và bạn đọc với Đảo Chìm, mà ở đó, những người làm sách đã lựa chọn các bài thơ Trần Đăng
Khoa viết về biển đào và tiểu thuyết Đảo
Chìm, cùng các cảm nhận của bạn đọc... Trong số đó, có cảm nhận của đại tá,
cựu chiến binh biển đảo Trần Trọng Trí và bài viết “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện” của tôi. Bài viết
này của tôi, trước khi được tập hợp vào cuốn sách Trời đất thu hay lòng ta thu
(Nxb Dân trí, 2016), tôi đã đăng ở Blog cá nhân (Ngẫm & Viết, blogtiengviet, net) vào ngày 26.3.2011. Khi ấy, có
khá nhiều bạn đọc nói chung và các nhà văn hải ngoại, nhà phê bình văn học khen
sự phát hiện của tôi về việc tạo dựng không gian truyện, đặc biệt, có Trần Trọng
Trí và các cựu chiến binh, từng là động đội của ông một thời. Cái hay, là kể từ
đó, Trần Trọng Trí và các đồng đội cũ của mình, những người từng một thòi sống
chết kiên cường bám trụ bào vệ vùng biển đảo Trường Sa, lấy trang blog Ngẫm
& Viết của tôi và trang blog Lão Khoa của Trần Đăng Khoa (mạng xã hội blogtiengviet.net) làm nơi
vào ra, tụ họp, nhắc lại kỷ niệm cũ thời làm lính Trường Sa. Chuyện lính tráng
đời thường tếu táo, chuyện thơ văn hò vè, chuyện kín bi hài của lính, đọc và
cười chảy nước mắt, vì thương mến và nể phục.
Những gì họ để lại trên trang blog của tôi, thì đã
trích nêu trong những phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang cá
nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là nhiều, nhưng trong cuốn sách Trường Sa của mình, nhà thơ chỉ trích
chút ít. Tôn trọng ý muốn của Trần Đăng Khoa, tôi xin đăng lại cảm nhận (comment) của Trần Trọng Trí, xem như cái
cớ đề bàn thêm về ông và các đồng đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai lỳ. Tôi hay
vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay đọc lại cuốn sách về
Trường Sa, tôi đã khóc. Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần Thị Thu
Hà mà ông Khoa gọi là Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm đó), có hai con gái. Cháu ngoại tôi đã học lớp 12,
cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó không biết đây là chuyện
bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này mà không biết tìm ở đâu.
Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải mở máy tính. Tôi lên
Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên trang của nhà văn
Xuân Đức, trong đó có những người trong cuộc bóc mẽ ông Khoa. Tôi đã cóp lại,
đưa vào comment ở Blog ông Khoa cho mọi người cùng đọc, nhưng rồi ông Khoa lại
xóa đi. Tôi đề nghị ông Khoa không xóa vì tôi thấy rất hay. Tôi sẽ đến thăm ông
Nhạc (Nguyễn Chu Nhạc-Đài Tiếng nói Việt nam), ông Khoa. Lâu rồi, không gặp”.
Tâm thế trong cảm nhận này của Trần Trọng Trí, thực
ra, cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của tôi, khác chăng ở
một vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại các cảm nhận của
Trần Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng mị, sa lầy
trong mớ hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc của mọi
người, đặc biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế bào thần
kinh trong con người vị đại tá (lương
tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một thời, đã về vườn, trong vai
ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những ẩn ức một thời bùng phát,
tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ thôi. Trần Trọng Trí như
người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra, hay đúng hơn là không muốn
thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí ông...
Mỗi khi đọc lại những lưu bút Trần Trọng Trí và các
đồng đội của ông để lại, tôi lại hình dung bóng dáng con người ông, một vị
thuyền trưởng tàu HQ05 Hải đội Trường Sa, một chính trị viên Thuận trong tiểu
thuyết Đảo Chìm, và một ông thợ cắt
tóc phố huyện Liễu Đề, Nghĩa Hưng, Nam Định, quê ông. Ba hình bóng này lúc tách
bạch riêng rẽ, khi thì nhập nhòa rồi chập làm một...
Thâm tâm, tôi cứ mong đến một ngày, có vị đạo diễn nào
đó, dựng Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa
thành phim truyện, bời điều này không khó, khi giờ đây ta có đủ điều kiện để
quay bộ phim này ngay tại Trường Sa, chứ không cần phải dùng trường quay nhân
tạo. Nghĩ thế, tôi lại rẩm riu xem ai sẽ là người thủ vai nhà thơ-người kể
chuyện, ai sẽ vào vai chính trị viên Thuận, ai và ai sẽ sắm vai công nương tiểu
thư Mộng Tương, Hai Ùm, Tư Xồm, vị Tư lệnh binh chủng? Và các nhà làm phim sẽ
quay những cảnh về con lợn Oăn-ta-ra-mê-na như thế nào đây? Như thế, hình bóng
của Tư lệnh Giáp Văn Cương, thuyền trưởng Trần Trọng Trí, và Trần Thị Thu Hà-con gái ông, cùng các chàng
lính biển Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v... sẽ hiện lên ra sao? Chắc thú vị
lắm đây,
Thêm nữa, tôi và Trần Đăng Khoa mong muốn, tìm gặp
được Trần Thị Thu Hà, khi chỉ biết duy nhất thông tin từ Trần Trọng Trí cho
biết lúc ông còn sống, là gia đình ông định chuẩn bị dọn lên Yên Bái sống cùng
gia đình con gái. Khi tin cho chúng tôi biết về việc ra đi của bố mình, Hà
không để lại số điện thoại và địa chỉ của gia đình mình. Vậy nên, mong rằng
cuốn sách của Trần Đăng Khoa đã xuất bản, và những bài viết của tôi về Trần
Trọng Trí, dù ở dạng bản in hoặc trên các báo điện tử, mạng xã hội, đến được
với Trần Thị Thu Hà, hay những người thân khác của ông, đặng chúng tôi đến được
nơi ông yên nghỉ, thắp nén hương, tưởng nhớ ông-đại tá Trần Trọng Trí-người cựu
chiến binh, người hùng biển đảo-người thơ của Biển!?...
Trịnh Tuyên, lão chăn dê xứ Thanh.
Sở dĩ tôi đùa vui gọi nhà văn Trịnh
Tuyên như thế, bởi truyện ngắn Chuyện
tình lão chăn dê là truyện ngắn hay, một trong ba truyện mà tôi chọn để
giới thiệu cùng chân dung nhà văn trên Website của Hội Nhà văn Việt Nam (vanvn.net). Sau đó, truyện ngắn này còn
được nhà văn Nguyễn Văn Thọ chọn và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tâp, phê
duyệt đăng ở số 2 (bộ mới) Tạp
chí Nhà văn & cuộc sống, Hội Nhà văn Việt Nam.
Nếu không nhầm, đây là một trong mấy
truyện ngắn khới đầu nghiệp văn của Trịnh Tuyên. Tuy xuất hiện trên văn đàn
muộn nhưng Trịnh Tuyên đã nhanh chóng khẳng định mình ở thể loại truyện ngắn và
chỉ trong vòng gần chục năm, ông đều đặn xuất bản 4 tập truyên ngắn, đó là Những mảnh vỡ
của số phận (2012), Hang cóc thần (2014), Giấc mơ lạnh (2016), Nhớ đêm thời xa ấy (2018),
và hiện đang xuất bản tập truyện thứ 5
của mình- Trái tim bé bỏng. Trịnh Tuyên là hội viên Hội văn
học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.
Mặc
dù. Trịnh Tuyên viết đều cả văn và thơ, nhưng bạn văn chương và bạn bè nói
chung chẳng ai gọi ông là nhà thơ cả,
Phải chăng, truyện ngắn của Trịnh Tuyên nổi trội hơn thơ ông nên người ta ấn
tượng một Trinh Tuyên văn? Song có lẽ, con người góc cạnh, tính cách quyết
liệt, phản biện sẵc sảo, đã làm nên một Trịnh Tuyên-nhà văn?
1. Trịnh Tuyên văn,
Trịnh Tuyên chào làng văn, chào bạn đọc
bằng truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê,
và gần như lập túc, ông ghi dấu ấn, khiến bạn đọc ngoài xứ Thanh biết đến tên
ông. Tôi cùng vậy. Biết Trịnh Tuyên từ những ngày đầu tham gia mạng xã hội,
trang của ông trên Blog Tiếng VIệt đăng
đủ thứ, nhưng phài đến khi ông đưa truyện ngắn này lên (20.3.2012), sau khi mấy tờ báo, tạp chí địa phương cùng đăng, tôi
mới nhìn nhận phẩm chất nhà văn ờ Trịnh Tuyên, khiến ông khác với nhiều người
cùng tham gia viết ngày ấy. Quả nhiên, truyện ngắn này nâng vị thế của Trịnh
Tuyên trong con mắt của các blogger ở Blog Tiếng Việt. Giờ đây, khi duyệt bài
lên trang, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tạp Tạp chí Nhà văn % cuộc sống , gật gù bảo: “Truyện này chằng khác gì chuyện Chí Phèo, Thị Nở thời nay”. Lẽ dĩ
nhiên, với gần trăm truyện ngắn đã viết. Trịnh Tuyên còn có một số truyện ngắn
khác khá chắc tay,
Hãy
xem Trịnh Tuyên viết gì. Có thể thấy, các truyện của Trịnh Tuyên tập trung vào
mấy mảng đề tài chính: chuyện chiến tranh và hậu chiến, chuyện về các loài vật,
chuyện mang tính trinh thám, vụ án, chuyện màu sắc tâm linh, và chuyện đời sống
xã hội, tình ái...
Nhìn
chung, như phần đông các cây bút viết theo bản năng vốn có, khởi thủy thường
chọn thủ pháp kể chuyện truyền thống, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời
gian, dù đan xen hồi tưởng, ký ức, với nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (tôi), hoặc ngôi thứ ba (nó, hắn...), Trịnh Tuyrn cũng vậy. Hầu
hết, các nhân vật của ông kể chuyện ở ngôi thứ nhất, số ít truyện ở ngôi thứ
ba. Với thủ pháp vậy, tâc giả dễ bề điều hành nhân vật theo chủ quan của mình
nên dễ nặng cảm tính hơn là theo logic của sự việc, vấn đề. Tuy nhiên, Trịnh
Tuyên “bài binh bố trận” khá linh
hoạt, đã biết cách thoát ra khỏi sự nhàm chán của lối kể chuyện bắng cách thay
đổi kết cầu, khai mở gây sự chú ý, cài đặt chi tiết bất ngờ...
Có lẽ, chuyện chiến tranh
và hậu chiến là mảng đề tài Trịnh Tuyên để tâm khai thác. Mặc dù, bản thân
không nhập ngũ, không trực tiếp tham gia chuến tranh, mà là chiến sĩ công an,
song cũng là lực lượng vũ trang, vả lại, ban bè, người thân của ông tham gia
quân ngũ rất nhiều nên ông hiểu chuyện binh nghiệp và những vấn đề xã hội thời
hậu chiến... Ở mảng đề tài này, có các truyện Nhớ thời xa ấy, Tên lính ngụy, Hồi ức một cung đường, Kẻ ném đá,...Nhưng có thể tháy, tác giả
chỉ hoàn thành việc kể chuyện, các nhân vật như thiếu hồn vía nên chưa để lại
dấu ấn đáng kể,
Trái ngược, màng đề tài
về đời sống xã hội và tình ái là thế mạnh thực sự của Trịnh Tuyên. Ông viết như
không, như kê chuyện chơi vậy thôi nhưng hầu như truyện nào cũng sống động và
khá ấn tượng, mà qia đó, ông gửi gắm ý tưởng, triết lý nhân sinh, hoặc tự thân
truyện toát lên giá trị nhân văn và thông diệp về cuộc sống,... Cùng với Chuyện tình lão chăn dê, ở màng đề tài
này, có thể nhặt ra một số truyện chắc tay, như: Những mảnh vỡ của số phận, Giọt máu rơi, Đồng không mông quạnh, Ông kão câu cá, Cây
bút máy mạ vàng, Liên, Thiếu nữ bên bãi biển chiều thu, Bà Thanh- kiu, Chuyện
tình xóm núi, Nhừng mùa dưa đi qua...
Cùng màng đề tài về đời
sống xã hội, Trịnh Tuyên cũng khá thành công với những truyện về tâm linh như: Cây gậy của Lý Tước, Hang cóc thần, Giấc mơ
lạnh, Thần cây, Bí mạt hang cá thần, Con rắn hổ lửa trên bàn thờ tổ, Con chuột
trong nhà thờ họ, Cối đá quý, Ma học trờ, Anh ơi em chết mất,...Tử những
giai thoại, chuyện kể mang màu sắc dân gian tâm linh, Trịnh Tuyên sưu tầm xây
dựng nên cốt truyện rồi đắp thêm da thịt phù phép thành truyện, và ở đây, quan
hệ nhân-quả được ông sử dụng thành triết lý nhân sinh, Vậy nên, yếu tố tâm linh
không phải là chuyện mang ra để hù ma,
dọa quả báo, mà như một sự nhắc nhở về đạo lý thiện lương, về nhân nghĩa ờ
đới....
Những chuyện vụ án,
chuyện mang màu sắc trinh thám cũng là một điềm nhấn trong sáng tác của Trịnh
Tuyên. Xuất thân ngành công an, nhiều năm là cảnh sát điều tra, Trịnh Tuyên có
vốn kiến thức phong phú, óc suy đoán logic, sự nhanh nhậy của một chuyên viên
phá án, nên ông khá chắc tay trong mảng đề tài này. Ở các truyện: Kể tự thú, Đánh ghen, Bóng đè, Ăn miếng trả
miếng, Tiếng chó sủa đêm, ông thỏa
sức tung tẩy với kinh nghiệm cảnh sát điều tra của mình. Không chỉ thế, Trịnh
Tuyên viết truyện như làm án, nên để dấu ấn nghiệp vụ điều tra trong hầu hết
các truyện ngắn của ông về việc cài đặt tình tiết và tiết tấu câu chuyện,...
Còn một mảng đề tài,
khiến Trịnh Tuyên khác nhiều cây bút văn xuôi, ấy là về các loài vật. Để ý, các
truyện của ông đều thấp thoáng bóng dáng các con vật, (hoăc cây cối, đồ vật), mà ở đó, chúng là các nhân vật phụ, có liên
quan, và có tác dụng làm nổi nhân vật chính. Nhiều truyện, con vật trờ thành
nhân vật chính, như: Đôi chim cu già, Sữa
chó, Chó đẻ, Con mọt, Con khỉ, Con mèo tam thể, Con ngựa già, Con lợn nghĩa
tình, Con gà tài nguyên, Con trâu bạc, Đốm ơi,... Ở đây, Trịnh Tuyên tỏ rõ
sự hiểu biết tường tận về đặc tính sinh thái của từng loài vật, mối quan hệ
đồng loại và mối quan hệ với con người. Dĩ nhiên, nói đây chết cây chỗ khác,
ông mượn chuyện con vật là để nói con người, nhắn nhủ con người,..
Vậy nên, đương nhiên, có
một Trịnh Tuyên-truyện ngắn,
2. Trịnh Tuyên thơ,
Cho đến thời điểm này,
nhà văn Trịnh Tuyên vẫn chưa xuất bản tập thơ nào, song ông là tác giả của hàng
trăm bài thơ rải rác nhiều năm qua. Dấn thâm vào nghiệp văn. Trịnh Tuyến có thế
mạnh và chủ tâm theo văn xuôi, nhưng cũng như nhiều cây bút văn xuôi khác, thậm
chí các lão làng (như Hà Minh Đức, Võ Huy
Tâm, Đỗ Chi...), ông bị nang thơ quyên rũ và không thể làm ngơ. Thơ ông chủ
yếu đăng trên mạng xã hội để bạn hữu đọc bàn chơi, hay lúc trà dư tửu hậu bình
phẩm, thi thoảng gửi đăng báo này nọ,
Là cây
truyện ngắn vững, khi viết, chủ đề, ý từ, bố cục, chi tiết rõ, nên sang thơ,
Trịnh Tuyên cũng theo đúng cách viết truyện ngắn mà làm. Nghĩa là, lập tứ, có
cốt rồi lắp câu chữ cho bài thơ nên da thịt, sao cho diên đạt được ý từ là ổn,
nên đôi khi khó tránh khỏi tình trạng ngượng ép, khiên cường, Ví như:“Đừng
tìm người đi cấy anh ơi/ Phía trước, phía sau, đều không rõ mặt/ Cuộc mưu sinh
gần đất nhất.../ Họ sẽ nhìn anh qua khung hình tam giác/ Mặt ruộng là gương,
không cần tráng ni tơ rát bạc// Âm bản đen, ống kính chổng lên trời!!!” (Người đi cấy); hay như: “Người cả tin/ Biên giới hay xê dịch/ Người
tâm thần/ Biên giới bỏ ngỏ/ Người tham lam/ Tự thu hẹp biên giới/ Người cuồng
tín/ Biên giới thuộc địa hạt tư duy kẻ khác/ Người thông minh/ Biên giới chôn
chìm...” (Biên giới). Đây nữa: “Chúng rút ra rồi, em mới thấm đau/ Sóng cứ
dào lên như là nức nở/ Có phải sông đâu mà trút vào bồi lở// Em - Biển kia
mà... bạn của đại dương.../ Giấy kết hôn kia vò vứt cuối giường/ Em thuộc về
anh sao để người ta cắm?/ Phút chúng khoan vào, em đau, đau lắm/ Anh - kẻ bạc
tình biết đứng nhìn thôi!...” )Lời than của Biển Đông); Và đây “Bến lạnh lùng, con tim buốt sang ngang/ nước
đã lạnh, lòng người còn lạnh nữa/thôi đừng khoắng thêm dòng sông tình tan vỡ/
Cho mái chèo mươn mướt những niềm đau! (Chằng còn mùa thu nữa đâu em); Rồi
đây nữa: “Có anh đây rồi, em cứ vững niềm
tin/ Biển là em, em thẳm xanh như biển/ Nếu chúng vắt vòi rồng, anh còn cố
nhịn/ Nhưng khoan vào là anh băm xác chúng ra/ Nên chúng cứ thụt vào rồi kéo
ra!” (Thơ tình cảnh sát biển)_
Đại loại, những khổ thơ,
câu thơ gượng ép, cố gò theo ý tưởng như thế không hiếm trong thơ Trịnh Tuyên,
Như đã nói, thơ Trinh Tuyên, hầu như bài nào cũng ý tứ rõ ràng, nhiều khi lộ
ý, vấn đề là diễn đạt ra sao. Trịnh
Tuyên luôn ý thức tạo sức nặng chi thơ mình, nên ông ưa triết lý, Một khi triết
lý. thì năm ăn năm thua, rất có thể gượng và khô cứng, nhưng thành công thì lại
được những câu thơ hay. Có thể tìm nhặt ra trong thơ Trịnh Tuyên những triết lý
hay. Chẳng hạn, như: “Quên tên cây/ làm
thuyền/ Tận cùng nỗi cô đơn-/ độc mộc!/ Khoét hết ruột/ Chỉ để một lần ngược
thác/ bất chấp đời/ ênh đênh...” (Độc mộc); Hay như: “Chưa nở đã mang bầu thai quả/ Phận đau như gái chửa không chồng/ Buồng
the nứt toác tình chưa thoả/ Cuối mùa trơ cuống với hư không.(Hoa chuối):
Đây nữa: “Đêm tất niên một mình ra ngõ/
Say mèm húc phải đống rơm/ Hai kẻ cô đơn chợt tỉnh:/ Nhận ra xác những linh
hồn!/ Ngươi: xác của mùa màng/ Ta: xác của thời gian/ Ngươi: Cháy lên còn chút
lửa/ Ta: Một nhúm tro than..../ Ngươi đứng lù lù trước ngõ/ Ta thì lọm khọm
trong nhà/ Ta buồn đắng tình thế thái/ Ngươi vui ngọt miệng trâu bò!” (Đêm
tất niên): Và đây: “Nơi đây là mộ địa/
Chôn/ những mối tình đã chết từ lâu/ Đã vô duyên kiếp trước/ Mong gì gặp kiếp
sau? (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
Nếu chịu khó tòm kiếm, còn
không ít những câu thơ triết lý thú vị như thế trong hàng trăm bài thơ của
Trịnh Tuyên Thực lòng, tôi thích thơ
Trịnh Tuyên hơn truyện của ông, bời nhìn chung, thơ ông có ý tưởng lạ, khá hàm
súc, câu chữ bất ngờ. Ví như bài thơ này: “Ta
lại đến điểm đầu từ điểm cuối// đường tình ngắn chẳng tày gang/ Cưới lại đi em/
Ừ! Cưới lại!/ Cơm đã nguội rồi thì đổ ra rang.../ Đêm cưới lại/ tình nồng không
trở lại/ chỉ có đôi môi/ lặng ngắt/ ưu sầu!/ Đêm cưới lại/ ái ân/ không trở
lại/ chỉ tiếng thì thầm thoảng trong đêm mau/ Đêm cưới lại/ chẳng còn gì trở
lại/ chỉ một lần khờ dại mãi trong nhau..” .(Cưới lại); Hay như: “Nghẹn ngào khói thoảng về mây/ Run run một
nén tâm đầy con dâng...” (Thăm mộ cha);
“Khi anh yêu em/ Biên giới của
người điên” (Biên giới); “Rằng nay
đang tiết thanh minh/ Tôi đi viếng cái mộ mình mai sau...” (Tôi đi viếng mộ
của tôi): “Nơi đây là mộ địa/ Dưới đáy mồ không một khúc xương/ Chôn những mối
tình đã chết! “ (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
Theo tôi, Trịnh Tuyên có
một bài thơ hay, thuộc hàng hay nhất của ông, kiểu như Chuyện tình lão chăn dê
trong truyện ngắn, ấy là bài Thành nhà Hồ.
“Thành
xưa đổ nát, hoang tàn
Hồ
vương rời bỏ ngai vàng ngự đâu(?)
Thạch
long, tuế nguyệt dãi dầu
Bước
chân khanh tướng công hầu vắng tanh
Sông
xưa đổ mé đông thành
Mà
nay đồng bãi , tươi xanh bốn mùa
Đế
vương mà ngỡ trò đùa
Trẻ
trâu kể mấy đời vua suy tàn .
Cho
hay thành quách, ngai vàng
May
ra còn lại mấy trang sách nhầu!
Có
gì vĩnh cửu mãi đâu
Bao
nhiêu lăng tẩm nhuốm mầu liêu hoang
Bao
đời áo mão xênh xang
Mấy
ai xây được ngai vàng- Lòng dân”
Hơi thơ cổ, tứ hay, câu chữ
chắt lọc, phong vị trầm bi, ý nghĩa sâu sắc và giàu sức gợi, Nghe đâu, bài thơ
này có câu được các nhà bình chọn lấy để treo vào bóng thơ thả lên giời một
Nguyên tiêu nào đó ở Văn Miếu-Quốc tử goám. Trịnh Tuyên cũng lấy đó mà tự hào.
Đấy là sự ghi nhận về tính
triết lý trong thơ Trịnh Tuyên. Song
cùng vì ham triết lý mà nhiều bài thơ của ông giảm sức gợi. Thơ hay, trước tiên
cần sức gợi, rồi đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu... Có cả thì dĩ nhiên toàn bích
rồi. Thế nên, làm thơ, dụng công quá thường hỏng. Nhiều khi buâng quơ, viết
chơi chơi lại được. Trịnh Tuyên có những bài thơ như vậy, Ví như ờ Chiều
trên bài ngô, ông tả cảnh đồng bãi, vô tình thấy môt em nào đó đang cắt
cỏ trên bãi ngô ven sông Mã, để rồi buông một câu kết lửng lơ: “Xin em đừng gánh cỏ về lối cũ/ Kẻo vương vào
phiền muộn của riêng anh...” thì bài thơ sống động hẳn lên, bồng có hồn và
rất gợi... Hay đâu, những câu thơ đầy ngẫu hứng thú vị như “Biển oan, sóng mãi gầm gào/ Bao nhiêu trong
đục đổ vào một tôi! “ (Em); “Lời
thương/ em gửi cuối nguồn/ Lời yêu/ em gửi cánh chuồn chuồn bay” (Nhà em):
“Đường chiều mây nhẹ đường mây/ Đường
tình tôi nặng những đày đọa tôi” (Chiều quê); “Thanh
minh tôi viếng mộ tôi’Mai sau biết có ai người ghé thăm?”(Tôi viếng mộ
tôi); “Một năm lửa đỏ để dành/ Đủ cho anh
đốt cơm canh một ngày!” (Thơ ngày 8.3); “Tháng sáu thương phận cá trôi/ Đồng xa, nước ngập, bồng bơi ngả nào?.
Con rô lách ngược mưa rào/ Con ếch nồng nỗng cầu ao đợi mồi/ Tháng sáu, em hẹn
thăm tôi/ Ao sâu, nước cả, tôi ngồi câu suông!” (Tháng sáu); “Mặt trời thì ngã đằng tây/ Em thì ngã trọn
vòng tay gã khờ/ Khi em ngã ngửa vào mơ/ Là tôi ngã sấp bơ phờ tóc sương” (Ngã)
...
Những câu thơ này, dẫu
không đến mức “tuyệt diệu hảo từ”,
thì cũng không phải là những câu thơ dễ viết dễ có !... Và như thế, tôi nghĩ,,
đủ có một Trịnh Tuyên-nhà thơ!...
3. & lão chăn dê
xứ Thanh,
Năm nào cũng vậy, cứ sau tết nguyên đán,
độ cuối tháng hai ta, Trịnh Tuyên lại rủ tôi vô Thanh, còn nhắn là nhớ rủ thêm
nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân,
họa sĩ Lã Minh Kính và nhạc sĩ Phạm Qiamg Hiển. Chẳng là, từ nhiều năm nay, cứ
vào độ này khi tiết xuân còn chưa vãn, cánh chúng tôi thường vô xứ Thanh, dổ bộ
vào nhà Trịnh Tuyên ở Cẩm Tân, Cẩm Thủy. Nhóm văn bút xứ Thanh tụ hội ở nhà
Trịnh Tuyên thường có Phạm Duy Đức, Ngô Xuân Tiếu, Lê Văn Sự, Trọng Nghĩa, Đào
Phan Toàn, Cao Nguyên Quyền, và Trương Thị Mầu, Ma Bích từ Bá Thước xuống, cùng
vài ba người khác... Đông vui, thân mật, ấm áp tình bạn bầu văn chương.
Tôi
quen và thành thân với Trịnh Tuyên từ mươi năm nay, qua mang xã hội Blog Tiếng Việt mà cư dân ở đây nôm na
gọi là Xóm Lá, Lúc ấy, mạng xã hội
chưa phổ biến như giờ, nên những ai tham gia Blog Tiếng Việt chí ít cũng phải biết viết lách đôi chút, nếu không
phải là cây bút chuyên nghiệp. Nhóm vài chục blogger ở Hà Nội gặp gỡ, giao lưu
với nhau vui ;ắm, còn Trịnh Tuyên mãi vùng xa Cẩm Thủy xứ Thanh. Song Trịnh
Tuyên nhanh chóng gây ấn tượng với nhóm chúng tôi, bời nhẽ, thứ nhất, các cảm
nhận (comment) gây xốc, tưng tửng
hoặc chọc ngoáy khó chịu, thớ nữa, các
bài viết của ông, truyện ngắn hay thơ đều khá chững chạc. Phàm dân viết, ngửi
văn nhau thấy được là chơi với nhau ngay. Và rồi, những chuyến Trịnh Tuyên ta
Hà Nội mỗi dịp Nguyên tiêu, hay những chuyên đổ bộ của chúng tôi vào xứ Thanh
kết nối và gắn bó chúng tôi.
Gặp
rồi nên thân mới thấy chơi được với Trịnh Tuyên không dễ chút nào. Ông tuổi
Nhâm Thìn (sinh 1952), cầm tình còn
rồng, mệnh Thủy-Trường lưu thủy (nươc
chảy dài), lại sống bên bờ sông Mã, nên tính cách mạnh, linh hoạt, lấn lướt,...
Thiên can Nhâm cỉa tuổi Nhân Thìn, tương hợp với Đinh, mà tôi tuổi Đinh Dậu (1957) nên
Trịnh Tuyên với tôi, anh em hiểu nhau, dễ chia sẻ, bổ trợ thành hòa hợp,...Có
mầy yếu tố làm nên tính cách con người Trịnh Tuyên, chất nam nhi xứ Thanh điển
hình, cộng cái ngất ngưởng của kẻ có chữ, pha trộn thêm sự nhanh nhậy linh hoạt
của nghề cảnh sát điều tra, Thường ra, thấu hiểu và dễ cảm thông, song khi cần,
sắc lẻm phân minh, nhất bét tời cùng, không ngại va chạm mất lòng, Tôi nhớ,
trong một lần vào xứ Thanh, tôi cảm hứng thành thơ, bài thơ Thăm bạn xứ Thanh, mang đọc lúc tiêc
vui, có câu thơ “Xứ Thanh bề bộn nước non/ người một khoảnh, đất vuông tròn một khoanh”, mọi người đều không để ý, riêng Trịnh Tuyên nhận ra
ngay ý tứ. Ông khoái, khen câu thơ ấy đã
khái quát được cả vùng đất và tính cách con người xứ Thanh,
Cũng có thể kể thêm vài câu chuyện
nữa, đặng khắc họa đậm nét tính cách con người Trịnh Tuyên, Trong quan hệ xã
hội, Trịnh Tuyên không ưa những gì ông cho là mập mờ. Thế nên, đã tùng xảy ta
chuyện, tờ báo này tạp chí nọ sử dụng bài viết của ông tùy tiện, thiếu minh
bạch, khiến ông bực mình, lên tiếng phản ứng. Rồi nữa, chuyện ông mời khach đến
chơi nhà cùng tiếp bạn văn chương thủ đô, chuyện phiếm lấn sang lĩnh vực điều
tra, ông và cậu đàn em từng là thủ trưởng cơ qian điều tra cấp huyện, nổi hứng
nghê nghiệp bàn về chuyện phá án, hăng lên tranh luận, mỗi người một lý, chủ
khách thành to tiếng khiến tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa phải can ngăn, hạ hỏa
đôi bên...
Trịnh Tuyên là vậy đấy, trực tính, yêu
ghét rõ ràng, Ai chơi được với ông dễ thành chí cốt. Hễ cứ nghe Trịnh Tuyên
phán về một au đó “Hắn chơi được lắm” thì tôi không phải ngại, cứ yên tâm mà giao
du. Chẳng thế mà, lão chăn dê xứ Thanh
quy tụ được nhiều cây bút, bạn bè yêu
văn chương trong vùng, thưởng xuyên gặp gỡ, đông viên, chia sẻ cùng nhau không
chỉ văn chương mà cả những vui buồn cuộc
sống...
Mấy năm nay, bạn văn miền tây xứ Thanh của ông cứ vơi
dần. mấy người vân du về cõi hạc (Trọng
Nghĩa, Phạm Duy Đức, Ma Bích), riêng ông vẫn thủng thẳng sớm trà, chiều
tửu, cần mẫn kể chuyện đời,..,
Lão
vẫn còn bầy dê thả chăn trên núi kia mà
VÕ
QUẢNG, NIỀM CẢM HỨNG VĂN CHƯƠNG
Sáng nay, một sáng đầu
đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời
gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một
chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng
thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm
qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...
Chương trình văn nghệ sáng
cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ
Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn
Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con
phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả
vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên
và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....
Ngày đi học ở quê, tôi đã
say mê đọc truyện "Quê nội"
của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng
ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu
lưu ký” của Tô Hoài, "Đội du
kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học
sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão...
Với riêng tôi, nhà văn Võ
Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn
với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về
điều đó...
Hơn chục năm trước, tôi có
vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt Nam đóng chân
ở Đà Nẵng, nên có điều kiện qua lại nhiều lần vùng Đại Lộc, Quảng Nam. Đây là
quê hương của nhà văn Võ Quảng, vùng đất mà ông nhớ thương suốt mấy mươi năm
"ngày Bắc đêm Nam". Vùng
đất này thật tươi đẹp, trù phú bình yên bên con sông Thu Bồn nên thơ. Thảo nào,
những năm xa quê đằng đẵng ấy, ký ức tuổi thơ đi học đã cho nhà văn Võ Quảng
cảm xúc thương nhớ dạt dạt và sự thôi thúc để ông bảy tỏ ra mặt giấy..;
Vậy mà với
ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục
năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến,...
Vô tình, chuyện về ông lại
thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên
lề, nhưng ồn ào, xôn xao, ì xèo này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng
bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi !...
Thức ra, ở xứ ta, còn có
nhiều nhà văn sáng tác cho thiếu nhi và có những tác phẩm nổi tiếng như Tô
Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Hổ, Xuân Sách, Lê Phương Liên ... sau này là
Nguyễn Nhật Ánh, song quan trọng đối với tôi, là Võ Quảng ddaqx khơi dậy trong
tôi niềm cảm hứng văn chương !...
Xem
đêm, nhận diện
Phùng Cung,
I. Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung
Tôi có nguồn gốc nông thôn. Tuy sinh
ra ở thành phố, song đến tuổi đi học lại về quê sinh sống. Bản thân bạch diện
thư sinh nên công việc đồng áng không mấy thạo, tuy cũng lóng ngóng làm được
đôi ba việc nhà nông. Thôi thì cứ mạo nhận là nông dân nửa mùa. Lúc theo nghiệp
cầm bút, viết về thành phố thì như kẻ ngô ngọng. Đành tập tọng kể chuyện làng
quê vậy. Biết cũng chẳng hay ho gì, nhưng còn có cái để mà viết. Lâu lâu rồi
cũng thành quen, lại tự nhận thấy rằng, cái sự nửa tỉnh nửa quê của mình phần
nhiều là dở, dở hơi dở hám, nhưng cũng có cái được. Mình nhìn làng quê, nông
thôn lại thấy ngồ ngộ hay hay, cũng ra chiều nên thơ, chứ không đến mức tẻ
nhạt, chán ngắt như chính bà con nông dân tự nhìn nhận về đời sống và cảnh ngộ
của họ. Nghĩ thế rồi, nên cứ yên tâm mà viết. Đều đều, đường được. Có tặng sách
cho người này người nọ, rồi cũng có người mua sách của mình. Cũng lại chưa thấy
ai chê bai. Mà có lẽ, người ta không chê, không muốn chê và chẳng thèm chê. Có
lẽ, phần vì không để ý, vì không nỡ, hoặc giả có đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì đáng để chấp
nê ...?
Thế rồi một ngày cuối thu. Đầu óc u u
minh minh với việc công sở. Tản bộ ra một hiệu sách gần, nhà sách của Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây
nằm trên phố Bà Triệu. Nhìn những giá sách mới ngồn ngộn những quyển, những bộ
dày mình, bóng lộn và sặc sỡ đến hoa mắt choáng đầu. Thầm nghĩ, tri thức nhân loại đầy cả đây mà
sao phân vân chẳng biết mua quyển gì. Bèn ngó nghiêng sang quầy sách đại hạ giá
cũ kỹ đầy bụi phủ. Rút bừa một cuốn bìa xám sỉn lép xẹp trên cái kệ có treo
bảng ghi giá chung cho mọi quyển là 5 nghìn đồng. Lại là thơ ư ? Lâu nay mình
đã ớn thơ phú lắm rồi. Song khi nhẩm đọc
tên sách, tên người và cảm thấy, hình như mình đã đọc hoặc nghe ai đó từng nói
về cái nhà ông Phùng Cung, tác giả của tập thơ này, có cuộc đời truân chuyên,
chìm nổi lắm lắm... Thôi thì thử đọc xem sao...
Nào ngờ, cái tập thơ Xem
đêm ( NXB Văn hóa thông tin-1995
) đã được in từ mấy năm trước, nay thuộc diện hàng chậm luân chuyển, bỏ bán lấy
vốn ấy, đã đem đến cho tôi sự thích thú. Cảm nhận thì nhiều, song trước hết,
xin bàn về hình bóng một nông thôn lạ lẫm, vừa sâu rộng, lại có gì đó chập chờn
nửa thực nửa hư ...
Ấy là một nông thôn đầy sắc màu, thanh
âm ngồ ngộ, lạ mắt lạ tai, song vẫn rất thân thuộc và gần gũi : " Sông chảy bồn chồn hoa nắng/ Chim chả nguệch
bàn cờ bến vắng " ; " Ngô
lúa quanh làng/ Một màu xanh-cánh-chấu ;
"Hoa bầu rụng/ Lèo tèo tóp
mỡ/ Pháo đất bốp bờ ao " ; " Tu
hú trên ngọn sung chùa/ Giật mình, xông giọng " ; " Ốc luộc lá bòng thơm tấy ngõ/ Lúa non chấp
chới dậy thì/ Nhũng nhẵng dây cò-phơi tã " ; " Hạt mồng tơi kênh đất nghe trời/ Chuối con
gái vội hong búp lụa " ; " Con
sộp phùm vỗ hão bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn tím đỏ " ;
" Diều lá vông cỡn gió/ Con rắn bay/
Đuổi gấp vầng trăng " v.v và v.v...
Một vùng nông thôn trũng úng, lầm lụi
sống, vật vã với cái đói cái rét, nhẫn nại trong lam lũ cực nhọc để mà vượt lên
: " Trắng lưng trời/ Làng thôn nơm
nớp/ Củ ráy đẫy gang " ; " Tép
riu sang khế/ Khăn bùn thuyền thúng-đăm chiêu/ Đồng chiêm ơi/ Khóe mắt ngời
nắng cũ " ; " Lẻ tấm/ Búng
rền/ Đũm mắm/ Đểnh đoảng mùi cháo canh "; " Ngô phong cờ/ Chó chạy hở đuôi/ Cái đói-tròn/ Lăn-kín bốn mùa";
" Gió bấc về/ Gà con lên cơn sốt/
Nhong nhóc đi, đứng/ Chen nhau tìm chỗ ấm/ Cẳng gày lội gió " ; " Bến đò quán chợ-ngã ba/ Vật vã mùi cháo thí
đêm hè "; " Tiếng cuốc bèo
da diết gọi ngày mai " ...v.v...
Và trong những cảnh huống ấy, trăn
trở, nặng trĩu, nghèn nghẹn, da diết một nỗi niềm người, nỗi niềm ta : " Bạc tóc trở về quê/ Bỡ ngỡ tìm dò bến mới/
Nhìn dáng lạt bó rau/ Nhận được người làng " ; " Mảnh tình riêng/ Dạt nẻo hoa trôi "
; " Em vừa ốm dậy/ Cơm bắp, dưa
sung/ Thèm canh chuối/ Sảy tay vỡ bát/ Em run rảy nhìn ngơ ngác " ;
" Xì xẹt sái nhì-tắc điếu/ Cút tương
kiến gió đánh đai/ Rổ không hờ hững quang treo/ Nắng thả chào mào nghiêng nghé
" ; " Sáo diều ai hóc-gió ven
sông " ; " Nhớ người đi xa/
Đãy sắn khô/ Lão đẽo-thơm-giáp hạt " ; " Sương chiều nghe-lạnh bước chân/ Khách áo cũ/ Tìm về bến cũ/ Ai đốt rác
lá tre bên ngõ/ Lối đi đầy mùi khói cuối năm " ; " Đêm
chợt nghe/ Trong gối vọng tiếng ru/ Lắng tai nghe mới rõ/ Tiếng tóc mình
chuyển bạc " ; " Lúc ra đi/
Đãy quê thao thức gối đầu/ Trót-dông dài-trăng nước/ Mặt va-giông chớp/ Rạc mái
phong lưu/ Gót nhọc/ Men về thung cũ/ Quỳ dưới chân quê/ Trăm sự cúi đầu/ Xin
quê rộng lượng " ...v.v...
Quả là tôi không thể nhắc hết được
những câu thơ như thế. Nhiều lắm những chữ, những câu, những tứ lạ, súc tích và
ám ảnh. Nguyên là một cây bút về văn xuôi, bẵng đi mấy chục năm, khi tái xuất
lại bằng thơ, không ngọt như mía lùi kiểu Hoàng Cầm, không ấn tượng như Hoàng
Hưng, Phùng Cung lặng lẽ , thâm trầm mà như khắc như tạc...
Tôi biết, thơ phú bây giờ nhiều vô kể.
Cứ mỗi ngày trôi qua, có cơ man những bài thơ được đăng báo, có bao nhiêu tập
thơ từ các câu lạc bộ thơ xã phường đến các sa-lông văn học sang trọng nơi đô
thị, rồi các nhà xuất bản tiếng tăm ở trung ương cho ra lò, trình với làng thơ
ca ? Rồi nữa, quan niệm về thơ, về thơ hay luôn trong cảnh chín người mười
làng, mỗi kẻ một phách, mấy ai chịu nhau. Riêng với tôi, thơ hay là đọc rồi, nó
cứ ám ảnh mình mãi. Tôi cũng lại biết, có nhiều nhà thơ, nhà phê bình đang sốt
ruột lắm, vì họ cho là nền thi ca Việt Nam cứ ì ạch mãi thế này thì có đến mùng
thất cũng không giật được cái Nobel văn chương. Thế rồi họ cách tân, họ cổ súy,
thi nhau đăng đàn mà tiếp thị thơ, tung hô cái sự cách tân. Song le, hết thơ
văn xuôi, thơ không vần, thơ diễn nôm na ná dịch nghĩa thơ Tàu thơ Tây, và gỉ
gì gi nữa, rốt cuộc thiên hạ vẫn không mấy ai thuộc, cũng chẳng mấy ai bị ám
ảnh, ngoại trừ sự tự kỷ ám thị của họ. Thực ra, đổi mới luôn là một ý đồ tốt,
là một biểu hiện bình thường của sự vận động xã hội nói chung, huống chi là văn chương, thơ phú .
Xem đêm của Phùng Cung đã thực sự ám
ảnh tôi, lấy lại tình yêu với thơ ca ở nơi tôi, kích hoạt tôi làm việc... Cứ
xem cho kỹ, thơ Phùng Cung cũng mới đấy chứ. Câu chữ, ý tứ, nhịp điệu, hình
ảnh, vần vèo đều mới cả. Mới song không sượng, nhuyễn mà không cũ. Đấy là cách
tân chứ phải tìm đâu xa. Và thế, tôi cho là thơ hay !...
Đọc rồi, cứ rẩm riu tự hỏi, sao các
nhà ông này lại thấu hiểu thôn quê đến thế, viết hay đến thế ? Ngẫm ra, thấy
những bài mình viết về thôn quê chẳng đáng giá gì. Tôi không rõ quê ông cụ thể
ở đâu, song cứ qua thơ mà đoán, thì hẳn là một quê chiêm trũng thuộc đồng bằng
Bắc bộ. Cũng na ná như vùng quê tôi. Mùa thối chiêm khê, cấy chay bừa chùi,
đồng xa bước chầy bước thụt nặng những gánh lúa ướt sũng, hạt ngâm nước lâu
ngày lên mộng mạ, đập ra đánh đống nơi sân kho hợp tác xã hâm hấp nóng bốc hơi
nước mờ mịt mùi men rượu ... Thóc vậy mà đâu có được ăn cho no bụng, vì vẫn
phải đủ nghĩa vụ lương thực, còn dành dụm cho tiền phương. Cứ thế, thắt lưng
buộc bụng, khoai sắn, rau dưa độn vào cho ấm lòng. Vậy mà không một ai kêu ca,
eo xèo, bởi mọi người đều hiểu rằng, có thấm tháp gì với những gian khổ hy sinh
nơi chiến trận. Giá của mỗi chiến thắng ngoài mặt trận, của mỗi ngày bình yên
chốn làng quê ấy phải đổi bằng máu, bằng mồ hôi nước mắt, bằng chính những bó
lúa mộng mạ nóng hổi hơi nước kia !... Những ngày tháng đầy gian khổ lo âu ấy
trôi qua nặng nề làm sao mà cũng bình thản làm sao. Không một người dân quê nào
hiểu nổi nó đã trôi qua bằng cách nào, chỉ biết mình vẫn sống, làng quê mình
vẫn sống, dân tộc mình vẫn tồn tại một cách vững chãi. Tôi đã cảm nhận được một
nông thôn như thế qua những bài thơ của Phùng Cung, tất nhiên, trong đó có cả
những nỗi niềm riêng tây, nỗi đau bản thể. Phùng Cung đã khắc họa bằng ánh sáng
sắc màu, thanh âm và cảm quan để ra một nông thôn của một thời đã qua, chân
thực đến xót xa, đẹp một cách âu sầu, song lại vô cùng lung linh huyền ảo. Hiểu
một nông thôn như thế trong quá khứ chưa xa, mới càng thấm thía một nông thôn
đang khởi sắc của ngày nay!...
Nông thôn ta ngàn đời vẫn vậy, dẫu đời
sông nông dân có khấm khá lên nhiều, song thói quen tằn tiện, chịu khó chịu khổ
vốn đã ăn sâu vào máu thịt thì đâu dễ phai lạt. Còn là ở cái tâm lý: " Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất
bát lấy ai bạn cùng ".
Thì cứ cho là những câu thơ của Phùng
Cung viết về nông thôn như ngô như khoai đi. Bình thường chỉ là ăn chơi, mấy ai
để ý. Đến khi xót lòng, mang ra ăn, càng nhai càng ngọt càng bùi. Đấy là chưa
kể, mấy ai đâu đã nghĩ, một ngày nào đó, ngô khoai lại trở thành đặc sản như
bây giờ !...
II. Không
đổi giọng Tân Cương
Sau khi tình cờ mua được tập thơ Xem
đêm của Phùng Cung, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và càng đọc càng thấy
thích. Theo thiển ý riêng tôi, đây là một tập thơ hay nhất được xuất bản trong
những năm gần đây. Tôi đã viết một bài về tập thơ ấy đăng báo, đó chính là phần
1 trên đây. Thực lòng khi ấy, tôi
không biết gì nhiều về ông ngoài chút thông tin rằng ông chính là tác giả của
truyện ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh.
Và chính vì truyện ngắn đó mà cuộc đời ông long đong, khổ ải.
Rồi những thông tin về ông cứ ngày một
nhiều và rõ dần ra, nhất là khi đọc Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài.
Thế nhưng, phải đến khi cuốn sách Ba phút sự thật của nhà văn Phùng
Quán ra đời, thì tôi mới có hình dung tương đối rõ hơn về con người và văn
chương Phùng Cung, kể cả mối quan hệ của ông với cụ Nguyễn Hữu Đang và Phùng
Quán, cùng các văn nghệ sĩ khác .
Trước đây, qua tập thơ Xem
đêm, tôi cứ hình dung rồi đồ rằng, Phùng Cung chắc sinh ra và lớn lên ở
một làng quê đồng bằng Bắc bộ như Thái Bình hoặc Hà Nam chi đó. Nào ngờ ông quê
Sơn Tây, xứ Đoài với sông Đáy, sông Đà, núi Tản thơ mộng, nơi đã từng nuôi
dưỡng hồn thơ Quang Dũng. Lại nữa, ông đã từng vì chuyện văn chương mà phải
sống cuộc sống cách biệt với đời thường và môi trường văn chương những đủ vòng
năm con giáp. Rồi những tháng ngày khó khăn thiếu thốn, để sinh nhai và nuôi
con khôn lớn ông từng phải lăn lộn với nghề đập đinh nặng nhọc, kể cả việc phụ
vợ làm bánh rán thêm thắt. Khi đã có thơ rồi thì không có tiền in. May mà được
Phùng Quán chăm chút bản thảo và còn định mở một đợt lạc quyên lấy tiền in sách
cho ông. Lại may, được cụ Nguyễn Hữu Đang dồn tiền dành dụm dè sẻn của mình,
mang cho in sách. Thế mới có tập thơ Xem đêm ra đời (NXB Văn hóa thông tin, năm 1995 ), in trên giấy xấu, trình làng với
bạn yêu thơ. Tôi biết cảm ơn ai đây vì được đọc tập thơ này, Phùng Cùng- Phùng
Quán-Nguyễn Hữu Đang, và còn những ai nữa ?
Càng đọc, lại càng thấm. Những bài thơ
ngắn- nhưng nỗi đau đời thì dằng dặc- song đầy xẻ chia, an ủi- rồi trải mênh
mang như sự thiền định- và nữa, ngộ ra
để tự răn như những bài kệ nhà Phật...
Ta thử đồng hành cùng Phùng Cung.
Thoạt đầu là những nỗi đau đời nếm trải : " Tội nghiệp nhà thơ/ Hợm mình/ Lầm lạc/ Bởi không biết sống/ Nên không
biết chết/ Nửa thế kỷ/ Bị lưu đày/ Trong cõi tung hô " ( Tội nghiệp ) ; " Binh
lửa bay rồng đá/ Còn đây vũng trâu đầm/ Màu càn khôn lăn lóc/ Gào thét
sóng-hoa-văn " ( Vết cũ ) ; " Vạn thuở hồn xanh cỏ/ Mặt đất thơ gắn bó/
Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người ..." (Ăn năn ); " Phận-lấm/ Tối ngày đào ngoáy/ Lưng nắng-vẽ/
Hoa văn tiền sử/ Chài chãi đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi " ( Cua
đồng ) ; " Tôi đập nghiên
gấm/ Ném vút lên vòm trời Gô-tich/ Gõ cửa phái mê hồn/ Xem lên tiếng ra sao/
Tôi ghép chữ-thơm/ Bắc cầu lên hỏi/ Cõi bất tử siêu phàm/ Liệu có dung nổi một
nhà thơ " ( Kỳ vọng ) ; " Đêm
đen/ Kìm kẹp ngọn đèn/ Gãy lửa/ Vẫn vinh danh nguồn sáng" (
Nguồn sáng ) .v.v...
Còn đây là những xẻ chia, an ủi - với
người, với vạn vật đất trời, với cõi hư vô, cũng là để tự mình : " Mưa nhỏ ngang sông/ Cò vạc thay nhau/ Săn
dòng nước đục/ Cái phù du giả chết/ Vật vờ trôi... " ( Giả
chết );" Đầu trần/ Chân đất/
Đường cơm áo vụng về/ Kéo lê cái bóng/ Thân nhơ bóng sạch..." (Vụng về ) ; " Nửa đời/ Nước thải/ Hưu non/ Vã mồ-hôi-son/
Tảo tần chiều sớm/ Quốc lủi lưng vơi/ Ngấm câu thành ngữ/ Mắt trước mắt sau/
Kinh hoàng di lụy/ Tóc bạc-vào-mùa/ Răng hơi bị đuối/ Trệu trạo trái sung/ Ruột
tím cơ hàn " ( Tím cơ hàn ) ; " Đèn bên sông/ Hay bụi-sao rơi/ Mà hiu hắt/
Cơ hồ muốn tắt/ Có phải hình bóng người đã khuất/ Mộng công hầu chưa đạt/ Nay
lại lần về mượn cửa tái sinh " ( Bụi sao rơi ) ; " Ai làm cho bạc- tuổi nhau/ Nhìn trời xanh/
Nhớ mái đầu xanh xưa/ Tuổi xanh bạc giữa bất ngờ/ Trời xanh quên nửa bài thơ
đoạn trường " ( Bạc tuổi ); " Mái rạ trở mình/ Mưa-hơi-thô/ Hoa dứa gai/
Thơm-lại mùi biên ải/ Đêm trằn trọc/ Xé đôi giấc ngủ/ Nửa giấc tù ngồi/ Nửa
giấc trăng " ( Trằn trọc ) ; " Trở giấc xem đêm/ Cuối trời trăng-mỏi/ Trái
gấc chín-ngập ngừng/ Tóc rụng trạt lối đi... " ( Xem đêm ) v.v ...
Cái tính A.Q. đã giúp Phùng Cung xoa
dịu mọi nỗi đau đời, để trở về trạng thái cân bằng - một cân bằng động. Dẫu
vậy, đấy là con đường tất yếu để người ta qua những trải nghiệm mà đến với
Thiền. Phùng Cung lắng đọng và chắt lòng mình ra những bài kệ : " Trăng tà/ Trĩu ánh/ Sương rơi/ Đong-trăng lá
lạnh/ Đầy vơi bao lần " (Đong trăng ) ; " Cổng hè đổ vụn-nắng son/ Con trâu gốc
phượng/ Nhai-mòn-gần xa " ( Trưa hè ); " Lênh đênh muôn dặm nước non/ Dạt vào ao cạn/
Vẫn còn lênh đênh " ( Bèo ); " Ai chuốc rượu/ Cánh buồm say lảo đảo/ Quanh quẩn quãng sông chiều/ Quên
nẻo ra khơi " ( Say ); " Lạnh nhịp sương rơi/ Chiều-gạo-đổ/ Dế đào chân mộ/ Trăng lên...
" ( Nghĩa trang ) ; " Em
mải hái dâu/ Chiều-sông- nước/ Tằm đau lạc bến/ Trong kén tơ/ Thấp thoáng bóng
thuyền " ( Bóng thuyền ); "Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi
phải sống/ Hẳn tôi còn được chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn
sinh " ( Trò chơi ) ;
" Mặt chịn nắng/ Ngả màu chum
vại/ Hỳ hụi lối mòn-tử đạo/ Mồ hôi tháo/ Lưng cơm chan đẫm phong trần
" ( Phong trần ) ; " Ngón
son/ Đu nhành biếc/ Trái bồ hòn/ Con vành khuyên hót-ngọt/ Đắng-dư âm "
( Chim
vành khuyên ) ; " Dưới bóng
đại hùng/ Băng hà, núi lở/ Cái kiến con ong tất tả/ Cõi hỗn sinh/ Tội chết đói/
Hồn không nhập mộ/ Nhà ơi! cây nhót bán rồi/ Hết chua, hết ngọt hết lời nhỏ to
" ( Nhỏ to ) v.v...
Đại loại, còn nhiều, nhiều lắm những
bài thơ ngắn như thế, hao hao thể thơ Haiku của Nhật Bản, lại mang phong vị thơ
Thiền, và dáng dấp kệ kinh nhà Phật.
Đây là tập thơ để đời của Phùng Cung.
Cứ theo như Phùng Quán, thì cụ Nguyễn Hữu Đang từng đánh giá thơ Phùng Cung còn
hay hơn văn của ông. Tôi không được đọc văn Phùng Cung nên không dám so sánh.
Song hai trăm bài thơ trong tập, hẳn được Phùng Cung chắt chiu, nghiền ngẫm
đằng đẵng nhiều năm trời, cả khi ông bị bứt khỏi đời sống thường và môi trường
văn chương, lẫn lúc ông lăn lộn cực nhọc để kiếm sống sau này. Ấy là những bài
thơ nằm lòng, mỗi bài như một khúc ruột đau. Đau tái tê đến độ cảm thấy như
không. Đạo của người quân tử là vậy chăng? Đạo của Trà, đạo của Thi văn, đạo
của Người :
" Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương ."
III. Đọc
lại Xem đêm, thẫm nỗi đau
Phùng Cung.
Những ngày xuân tháng giêng Tân Sửu,
đúng thời điểm dịch Covid 19 bùng phát lại, cầm chân không du xuân lễ hội đâu
được. Ở nhà, viết và đọc sách giải khuây. Tôi đọc lại tập Xem đêm của Phùng Cung.
Số là, từ hơn chục năm trước, tôi đã
tình cở mua được tập thơ Xem đêm lần xuất bản đầu và đọc thấy
thích. Rất thích là đàng khác. Tôi đã viết tiểu luận “Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung”,
gửi đăng báo. Sau đó, tôi phát triển thành chân dung văn học “Phùng
Cung, người tôi chỉ biết qua thơ” (in
trong tập Trời đất thu hay lòng ta
thu, Nxb Dân trí 2016). Trong
những lần đàm đạo văn thơ cùng bạn bè, nhiều lần tôi khen tập thơ Xem đêm,
khiến mọi người tò mò mượn đọc, vì thế mà thất lạc. Tôi tiếc lắm. Trước tết Tân
Sửu, tôi nhờ người quen mua được tập Xem đêm, bản mới do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn ấn hành. Sách in đẹp và phần nội dung có thêm Phụ Lục với các bài viết
của Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm về thơ văn của ông, còn có cả truyện
ngắn Con ngựa già của chúa Trình, mà
vì nó Phung Cung đã dính án văn chương ngày nào...
Đọc lại, vẫn nguyên cảm giác thú vị,
nhưng đằng sau câu chữ, vấn điệu, còn thấy được ý tứ sâu xa về thân phận con
người nói chung và thân phận với nỗi cay đắng riêng ông.
Trong bài viết này, tôi không nhắc lại
những gì đã nói, đã bàn ở các bài viết trước, như việc khắc họa một nông thôn
Bắc bộ điển hình một thời xưa cũ khốn khó còn chưa xa; hay đâu như sự ngộ ra,
để rồi tự an ủi, răn mình mang tính thiền định, kinh kệ nhà Phật,,,
Ở đây, tôi muốn đi sâu tìm hiểu sự ám
ảnh, hàm ý về một thân phận bị dập vùi mà vẫn gắng gỏi ngoi lên, loe lói sáng
như muốn chứng ninh cho sự trong sạch của bản thân...; và không thể không nói
đến một điểm mạnh, ấy là nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian thơ của
Phùng Cung,
1.
Có lẽ, trong tập tho này, khó có bài thơ nào hàm súc, ám ảnh, ấn tượng hơn bài Trà:
“Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không
đổi giọng Tân Cương”. Nó thể hiện nỗi niềm về thân phận, sự kiên định, ý
chí, bản lĩnh và cả khao khát khẳng định sự thanh sạch của bản thân tác giả.
Có thế thấy, hàm ý về nỗi niềm thân
phận bị vùi dập, ý chí, bản lĩnh muốn khẳng định sự thanh sạch và khao khát
vượt lên số phận ẩn giấu trong nhiều câu thơ, bài thơ...
Ví như: “Thánh
thần ơi/ Phải đâu nhật thực triền miên/ Ngày tối hơn đêm/ Đêm-vó-ngựa/ Quỳ gối
chống tay/ Vẫn còn sợ ngã/ Mặt đất quá cheo leo” (Đêm vó ngựa); “Thương cây đào ốm/ Xuân về chẳng nở hoa/ Lá
gày run gió lạnh/ Cây cũng có thời vận ư?” (Cây đào); “Trời đất uy nghi/ Xanh vĩnh cửu/ Chim bay
hình thánh giá muôn phương/ Cung tên tạo hình thánh giá/ Bắn con chim hình
thánh giá tử thương” (Vĩnh cửu); “Phận lấm/ Tối ngày đào khoáy/ Lưng nắng-vẽ/ Hoa văn tiền sử/ Chài chãi
đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi” (Cua đồng); “Tổ tan/ Trứng mất/ Có trời biết vì sao/ Bỏ hót/ Chỉ kêu/ Mỏ run run rớm
máu” (Con chích chòe); “Dông
bão trẩy qua xóm nhỏ/ Giập gãy hết rồi/ Ngô độn chuối xanh/ Xì xằng qua bữa/
Kẻng thúc ngũ liên/ Săn lùng đào ngũ/ Chẫu mắt mù/ Nhìn-đóng-cọc vào đêm” (Giập
gãy); “Trở giấc xem đêm/ Thiên hà
ngọc vụn/ Gió thổi một mình/ Mặt đất tròng trành/ Ma hoa nhày múa” (Xem
đêm); “Hệ lụy với tôi/ Là ăn là
uống/ Miếng ăn miếng uống/ Hành hạ suốt đởi/ Mấy ai dám cả gan/ Đùa dai với đói
khát” (Miếng sống); “Trái đất
lênh đênh/ Chênh chênh mùa nắng/ Gió trĩu cành/ Tải bốn mùa cười khóc/ Sóng
biển xanh/ Nát bóng hải âu” (Tâm tư);
Thậm chí, Phùng Cung còn cân nhắc. sắp đặt số phận
mình, và cho cả cái chết của mình, nếu ông không được sống: “Vạn thuở hồn cỏ xanh/ Mặt đất thơ gắn bó/
Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người” (Ăn năn); “Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi phải sống/ Hẳn rôi còn được
chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn sinh” (Trò
chơi); “Mô hình tôi/ Một trẻ thơ/
Ngoạm củ ráy/ Đứng thẳng người trong xóm/ Quỹ đạo tôi/ Thư thái-loằng ngoằng/
Xó bếp-bở ao/... Khi tôi chết/ Tôi thèm cái lặng lẽ/ ... Nếu tái sinh/ Tôi
chẳng ước ao gì khác/ Chỉ mong được như kiếp trước/ Xó bếp đói. No/ Bờ ao tắm
mát/ Phận cánh cò/ Mưa-nắng-phong dao” (Thanh thản); “Nhập nhoạng đóm đèn/ Đêm chó mực/ Trạt mùi
hạ nhục/ Già trẻ sụt sùi/ Ôm đầu số phận/ Cúi mặt nhìn ngang/ Nghe lanh chân
nhang” (Đoàn viên)...
Dẫu là “phận lấm”, dẫu có “xó bếp, bờ
ao” hay “lênh đênh”, “ngày tối hơn đêm” di chăng nữa, thì với
Phùng Cung, vẫn quặn thắt một nỗi đau đời-một khao khát vươn lên trên số phận:
“Trăng qua song sắt/ Trăng thăm ngục/
Bỗng ta chợt tỉnh-sững sờ/ Trên vai áo tù/ Trăng và lụa/ Ngày xưa ơi!/ Xa mãi
đến bao giờ...” (Trăng ngục); “Ai giùm tôi thủ tục làm vô tận/ Thỏa thích trải trời xanh cõi không
cùng/ Tôi khao khát huy động/ Những chùm sao đẹp/ Đêm về lung linh chòm xóm
nghèo sao” (Khát vọng): “Hỡi bầu
trời/ Hãy rộng thêm nhiều nữa/ Để phi đoàn cất cánh/ Xếp đội hình thánh giá uy
nghi/ Rộn rã chuông chiều/ Cất giọt mưa sa/ .../ Giải phóng những nếp nhăn/
Trên từng vầng trán hoài nghi” (Giải phóng); “Đêm khuya trằn trọc/ Tôi bắt gặp/ Mùa thiêng hoa chết/ Ngoại giới mưa
bay/ Trong hồn tơi tả/ Trăng úa-đầy trời-lá rụng/ Không gian khát vọng khúc
giải oan” (Khát vong)...
Chịu khó tìm nhặt, trong Xem đêm, vẫn đây đó những câu thơ hàm ý
dạng này, nhưng tôi không sa đà, để khám phá nghệ thuật thi ca tài tình của
Phùng Cung...
2.
Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem
đêm thật tài tính.
Có thể nhận định một cách ngắn gọn
nhất, ấy là sự chắt lọc câu chữ, ý tứ hàm
súc, ám ảnh, ấn tượng, không gian sống động, đầy thanh âm, hình ảnh, sắc màu,
hương vị và trạng thái cảm xúc...
Chắc chắn, ngày ấy, Phung Cung và cả
chúng ta, không một ai biết đến khái niệm 3D, song tài tình thay, mỗi bài thơ
trong tập thơ này đều như một cuốn phim ngắn 3D. Tôi chọn một số bài thơ để
minh chứng cho điều này: “Mặt trời
hạ-thổ/ Núi-giội-chàm/ Đò chuyến cuối/ Nhìn nhau nhọ mặt/Sữa con so ướt yếm/
Thơm-mùi-khoai-luộc/ Dốc bến tối gà/ Đom đóm rối guồng-tơ-lửa/ Nghe đêm trung
giang thả-gió-gọi diều” (Chiều soi bãi); “Sương chiểu nghe-lạnh bước chân/ Khách áo
cũ/ Tìm về bạn cũ/ Ai đốt rác lá tre bên ngõ/ Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm”
(Khói
cuối năm); “Chó sủa dông dài/ Giò
chuyển canh/ Trái thị cuối thu/ Thơm mùi trăng-úa/ Ao khuya nước thở thì thầm”
(Đêm
cuối thu); “Thoảng mùi ruộng ải/
Thóc giống cựa mình/ Nắng vắt ngọn-tre-đuôi-én/ Đủng đỉnh điệu cu cườm/ Lạc
nhịp-gió may” (Mùa gieo mạ); “Gió quẩn
lùm ngỉa cứu/ Mùi ngộ cảm đầy vườn/ Chếch bóng chĩnh tương/ Con vằn say bả/ Hoa
chuối tiêu lầm lũi/ tím Tam-giang” (Nôn nao); “Chó sủa làng xa/ Sủa gơn xóc ốc/ Sao diều ai hóc-gió/ ven sông” (Đêm
ven sông); “Mảng rêu chiều nắng
ghé/ mênh mông/ Con dế loanh quanh/ Tìm lại tiếng mình đêm trước/ Vườn hàng xóm
ngổn ngang/ mùi khế rụng” (Chiều nắng ghé); “Oèng oẹc trời khuya/ Chim lợn xổ giọng hãi hùng/ Tôi
nhìn sông/ Đầy ắp sao xanh/ Ngoằn ngoèo phun tím/ Lửa-hoa-đăng/ Rần rật
rím-luân-hồi” (Sông đếm); “Mành rách gió
lay/ Chim chích đu mình săn nhện/ Góc sân nắng hanh/ Lá mít rụng trờ mình-nghé
bếp/ Chó hàng xóm/ Sủa cầm chừng vài tiếng/ Lỗi bước lên hè/ Guốc nằm chiếc
ngửa chiếc nghiêng” (Nhà vắng); vv ... vv...
Nhiều lắm, khó mà trích dẫn ra hết được. Bài thơ nào
cũng kiệm lời, gạn đến mức cảm giác không có từ nào thừa cả. mỗi từ đều phải
gánh một phần ý tứ. Về tư duy, hình thức thơ, có thể thấy, ở đây có sự kết hợp
nhuần nhuyễn tính hàm súc, tinh tế, ý tại ngôn ngoại của Đường thi, phong vị
thiền và sự chắt lọc của thơ Haiku Nhật Bản, lại gần gũi thân thuộc của tục
ngữ, ca dao Việt Nam,
Phần lớn, các bài thơ trong tập này của Phùng Cung là
thơ tự do, câu ngắn, ngắt dòng liên tục. và nhiều câu được ngắt nối bằng dấu
ngang ( - ), giàu nhạc điệu. Có bài là lục bát, hoặc thơ dạng bốn câu, nhưng
được ngắt dòng, nên mới mẻ và ấn tượng. Ở vào thời ký ấy, có thể thấy, Phùng
Cung đã rất ý thức trong việc cách tân thơ.
Ví như: “Trăng
lên/ hàm tiếu/ thẫn thờ/ Nửa chững trăng xế/ Chịu giờ mãn khai” (Hoa
quỳnh); “Này em!/ Cây khế gãy
rồi/ Nỗi chua vẫn hỏi thăm/ Người trồng cây” (Cây khế); “Chút lòng dây gấm khăn điều/ Cảm thương cái
nhện/ Chiều chiều giăng tơ/ Không gian đứt nối sững sờ/ Khăn điều dây gấm/ Ngẩn
ngơ mấy chiều” (Giăng tơ); “Dáng gày-đầy
đặn-trữ tình/ Thuyền au đậu bến Lan Đình/ Trăng xa/ Tử sinh lỡ một lần ba/ Ruột
tằm đau/ Mối tơ thừa gió bay” (Trăng xa); “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Dạt vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh” (Bèo);
“Sen vàng từ thuở lên ngôi/ Bâng khuâng
du khách/ Ngậm ngùi vần thơ/ Cồng chùa nhện mải giăng tơ/ Chuông thiêng ngân
mãi/ Tiếng thừa trong không” (Chùa Kim Liên); “Lá súng lát mặt ao/ đếm ngọc/ Con sộp phàm
vồ bão/ bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch/ Tiếng cuốc bèo da
diết/ gọi ngày mai” (Ao con); “Bờ ao trưa gió lay lá cỏ/ Vang khẽ lời ru nhỏ xanh xanh***/ Cách
cách giòn tan/ Con cào cào dội phách/
Khoe cánh điều/ Bay ngập nắng-bổ-cau” (Nắng bổ cau); “Cành xoan cu gáy đứng/ chào mùa/ Ung dung đổ lèo ba/ dõng dạc/ Mùi cơm
mới/ Xoắn mùi cá kho nhạt/ Hoa cải thơm quấn quýt/ quanh làng. Một lũy thơm”
(Lũy
thơm),...
Đổi mới hình thức thơ trên nền tảng các thể thơ cũ
bằng cách ngắt nhịp song vẫn giữ mạch thơ khiến người ta xem bằng mắt hay đọc
bằng âm đều không thấy nhàm và vẫn dễ nhớ dễ thuộc.
Tuy còn chưa đi sâu phân tích nghệ thuật ngôn ngữ thơ,
nhưng với bấy nhiêu thôi, tôi nghĩ, Phùng Cung đã có những đóng góp nhất định
trong tiến trình đổi mới thi ca Việt Nam hiện đại !...
Nhận xét
Đăng nhận xét