Mùa hạ 2007, Cẩm Thơ từ Pháp về Việt
Với Cẩm Thơ, tôi là bạn quen biết từ
hơn chục năm trước. Khi ấy, tôi tham dự một khóa đào tạo báo chí phát thanh ở
Pháp, mà chồng của Cẩm Thơ- nhà báo Jérome Kanapa là sếp phụ trách trường, còn
bản thân chị được giao việc phiên dịch cho nhóm chúng tôi. Sau này biết tôi là
bạn học trò với Trần Đăng Khoa, người bạn thuở Tào đàn văn học thiếu nhi thời chiến tranh chống Mỹ với Cẩm Thơ,
tình bạn của chúng tôi thân hơn. Những năm gần đây, hầu như năm nào Cẩm Thơ
cũng về Việt Nam ,
khi một mình, khi cùng chồng con . Dù bận bịu thế nào, ba người chúng tôi cũng
thu xếp để đi ăn với nhau một bữa, rồi ngồi nhâm nhi café chuyện phiếm, vừa
ngắm phố phường Hà Nội, vừa ôn lại kỷ niệm tuổi thơ xưa.
Tính đến mùa đông năm 1996, lần đầu
tiên tôi gặp Cẩm Thơ ở Paris ,
thì chị đã theo chồng sang Pháp được 9 năm, có hai con, một trai một gái. Chị
không làm báo, gần như thôi làm thơ, mà làm nghề dựng phim với những hợp đồng
ngắn hạn. Vợ chồng chị gặp nhau và nên duyên vợ chồng khi Cẩm Thơ đang theo học
trường Sân khấu Điện ảnh và Jérome là giảng viên thỉnh giảng ở đấy. Anh là
người Pháp gốc Nga, một nhà báo kỳ cựu, có nhiều năm làm báo tại Việt Nam
thời chiến tranh chống Mỹ Ngụy. Anh vốn có tình yêu với Việt Nam và sau thành là quê vợ. Đi bên
người chồng chững chạc bệ vệ, Cẩm Thơ chỉ như cô bé nhỏ xinh. Ngày ấy, tôi có
đến thăm ngôi nhà của họ ở Rue Notre Dame
des Champs, gần vườn Lucxembourg, và ăn bữa cơm gia đình. Hôm ấy, Cẩm Thơ
trổ tài bếp núc làm món đặc sản Hà Nội là bún thang. Chị hì hụi từ chiều mà mãi
đến mười giờ đêm thực khách mới được thưởng thức tài nấu ăn của chị. Trong lúc
chờ đợi, chúng tôi chuyện phiếm với Jérome. Tôi nhớ, anh có nói đùa một câu,
vừa để chống chế cho sự chậm trễ của vợ : " Có mỗi một món súp mà cô ấy vất vả từ chiều đến đêm vẫn chưa được ăn,
chẳng trách kinh tế nước các bạn chậm phát triển ". Câu nói vui, hàm ý
chê khéo, khiến ta phải suy nghĩ, vì nó vượt ra khỏi chuyện ẩm thực đơn thuần
sang việc quản lý kinh tế xã hội rồi
Mùa đông năm 2004, nữ sĩ Anh Thơ mệt
nặng, Cẩm Thơ thật vất vả, chị đi lại như con thoi giữa Paris - Hà Nội để chăm sóc má. Rồi còn lên
Bắc Giang thăm mẹ đẻ. Tốn kém chỉ là một nhẽ, sức khỏe chị giảm sút, gày tọp
đi. Chẳng ai bắt buộc cả. Chỉ là chị muốn được ở bên má Anh Thơ, tự tay chăm
chút thìa sữa, hớp nước, nâng giấc má mình thôi. Biết tin Cẩm Thơ bận chăm sóc
má Anh Thơ ở Bệnh viện Hữu Nghị, tôi cùng mấy đồng nghiệp quen biết với chị tìm
đến thăm. Nữ sĩ Anh Thơ nằm bệt giường, song bà vẫn tỉnh táo, đủ để nhận biết,
chào hỏi, cảm ơn khách thăm mình. Để không làm phiền người ốm, chúng tôi kéo
nhau ra hành lang trò chuyện. Và tình cờ, chúng thấy nhà thơ Huy Cận ngồi xe
đẩy, được người nhà đẩy ra hành lang dạo, thì ra ông cũng đang ốm nặng được
điều trị tại đây. Đấy là lần cuối cùng tôi thấy ông, bởi chỉ hơn tuần sau, ông
qua đời.
Trước đấy ít năm, thỉnh thoảng tôi bắt
gặp Huy Cận đi bộ chậm rãi trên phố Trần Hưng Đạo, gần trụ sở Hội liên hiệp văn
học nghệ thuật Việt Nam. Rồi đâu đó là bóng dáng của thi sĩ Hoàng Cầm mái tóc
bạc phơ cưỡi trên chiếc xe đạp mi-ni, giờ thi ông còn đâu được vậy. Cơ quan tôi
nằm trên phố Bà Triệu, giữa khúc cắt với hai phố Trần Hưng Đạo và Lý Thường
Kiệt, nên khi ra phố hay bắt gặp các nhà văn nhà thơ tản bộ. Cũng đâu có lâu la
gì, còn thấy bóng dáng những Trần Lê Văn, Kim Lân, thì này đã thành người của
thiên cổ . Thế nên, hôm ấy vào thăm nữ sĩ Anh Thơ ốm nặng, lại tình cờ gặp thi
sĩ Huy Cận, chẳng khó gì cũng hình dung ra ngày các vị về thiên cổ đâu có xa
gì. Lại nhẩm tính, những thi sĩ của thời kỳ Tiền chiến-những tên tuổi danh giá
được liệt kê trong bộ Thi nhân Việt Nam của
Hoài Thanh-Hoài Chân đã dần khuất bóng gần hết rồi. Cái thời Huy Cận vang đội
với Lửa Thiêng, Anh Thơ nổi tiếng với
Bức tranh quê, sự xuất hiện đầu tiên
đã được giải của Tự Lực Văn Đoàn ,
cũng đã già nửa thế kỳ trôi qua với bao biến động của lịch sử ...
Hôm ấy, Cẩm Thơ nói rất nhiều, chị kể
chuyện chăm má nuôi, kể chuyện nữ thĩ Anh Thơ những ngày đau ốm thế nào, kể cả
chuyện chị bàn bạc với một số nhà xuất bản dự định sẽ tái bản một số sách của
Anh Thơ. Có một điều Cẩm Thơ băn khoăn nhất, là chị không thể ở Việt nam quá
lâu trong khi không biết Anh Thơ ốm đau kéo dài bao lâu. Vậy làm sao để vừa
chăm sóc má mà vẫn không bỏ ra những việc quan trong khác ?
Rồi mọi chuyện cũng qua cả. Huy Cận ra
đi thì chỉ ít ngày sau Anh Thơ cũng theo chân đi nốt. Cẩm Thơ lại từ Paris đâm bổ về Việt Nam . Giờ thì sự vất vả mới dồn tụ
lại, để rồi sau đó là một khoảng trống không gì san lấp nổi. Má Anh Thơ đã là
một phần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của Cẩm Thơ. Nữ sĩ Anh Thơ lập gia
đình cùng bác sĩ Bùi Viên Dinh, song ông bà không có con, trong khi ấy mẹ đẻ của
Cẩm Thơ là em ruột của Anh Thơ lại đông con. Và như cách làm thường thấy của
các gia đình Việt Nam xưa nay, Cẩm Thơ được lựa chọn trở thành con của Anh Thơ.
Thế là cuộc đời Cẩm Thơ thay đổi. Không biết, nếu không làm con nuôi Anh Thơ mà
sống với gia đình mẹ đẻ ở Bắc Giang thì không biết Cẩm Thơ sẽ đi theo hướng nào
? Có thể chị sẽ trở thành một cô giáo, một người làm công tác nghiên cứu khoa
học, hoặc gì khác nữa, chứ không phải làm thơ ? Ở vào thời kỳ chiến tranh ác
liệt chống Mỹ Ngụy, những bài thơ của Cẩm Thơ đã làm cô bé trở thành một hiện tượng văn học, đồng thời
đưa cô gia nhập vào cái Tao đàn thơ văn
thần đồng của đất Việt lúc ấy cùng với những cái tên Trần Đăng Khoa, Chu
Hồng Quý, Nguyễn Hồng Kiên, Hoàng Hiếu Nhân. Làm thơ với Cẩm Thơ không phải là
một nghề, cũng không thành nghiệp đeo đẳng. Ngày ấy, Cẩm Thơ đến với thi ca như
một lẽ đương nhiên, nên khi môi trường thay đổi, chị từ bỏ nó cũng khá nhẹ
nhàng, không mấy day dứt. Sau này, Cẩm Thơ còn làm báo ( Báo Khăn quàng đỏ ) , và học Trường Sân khấu Điện ảnh, trước khi
lấy chồng và theo chồng về Pháp.
Giờ Cẩm Thơ đã an phận, một người con
gái Việt xa quê, hằng ngày hít thở một nền văn hóa khác, tuy cái nền văn hóa ấy
không mấy xa lạ với nhiều thế hệ người Việt, hơn nữa, tự li ti huyết mạch, chị thấm
đẫm tinh chất của nền văn hóa quê nhà và còn ký tên mình vào đó. Khoảng chục năm trở lại đây, khi đã dần lớn
tuổi, Cẩm Thơ càng có nhu cầu được trở về Việt Nam nhiều hơn. Tôi không dám chắc
là chị đang tìm lại tuổi thơ của mình, hay là tìm kiếm sự an lòng bằng cách hít
thở bầu không khí phong tục quê hương ? So sánh sẽ là không phải, song cứ chứng
kiến Cẩm Thơ về quê Việt hằng năm, tôi lại liên tưởng tới những gì nhà văn
Marcel Proust đã viết về xứ sở trong bộ tiểu thuyết lừng danh của mình, Đi tìm thời gian đã mất.
Đã có đôi lần, tôi- Cẩm Thơ-Trần Đăng
Khoa cùng đi ăn cơm bụi rồi về ngồi trò
chuyện với nhau suốt mấy tiếng buổi trưa trên lầu hai một quán café phố Bà
Triệu. Loanh quanh thế nào lại quay về chuyện cái tao đàn thi ca thiếu nhi. Kỳ
lạ thay cho trí nhớ của Trần Đăng Khoa, anh nhớ nhiều câu và thuộc hàng bài thơ
của Cẩm Thơ hồi nhỏ, đọc lên vanh vách, đến mức Cẩm Thơ ngỡ ngàng nhớ mãi mới
thấy đúng thơ của mình. Khi bàn về thơ văn của má Anh Thơ, thường chỉ Khoa và
tôi nói, Cẩm Thơ yên lặng nghe, thỉnh thoảng chêm vào đôi câu...
Theo cách nhìn nhận của tôi, sự nghiệp
sáng tác của Anh Thơ có ba cái mốc chính. Đó là : Thời kỳ tiền chiến, là tập
thơ Bức tranh quê và tiểu thuyết Răng Đen ; Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ
Ngụy và xây dựng miền Bắc là tập thơ Theo
cánh chim câu ; Thời kỳ sau 1975 đến cuối đời là tập hồi ký văn học Từ bến sông Thương. Những sáng tác khác,
nhìn chung không mấy ấn tượng, mặc dù có tác phẩm trong số đó từng được trao
giải thưởng này nọ. Về các tác phẩm được
xem là mốc chính cho từng thời kỳ sáng tác của Anh Thơ, các nhà phê bình đã
viết nhiều lắm rồi, nên ở đây tôi chỉ nói thêm suy nghĩ của mình về tiểu thuyết
Răng Đen nhân nó được tái bản. Thực
ra, không phải vì nó hay, mà vì tác phẩm đó còn quá ít người thời nay biết đến,
ngay trong giới văn chương cầm bút, chứ chưa nói đến bạn đọc nói chung, thêm
nữa, tôi coi đáy là một trong những cái mốc đánh dấu sự nghiệp văn chương của
tác giả, thì hẳn phải có lý do. Trong lần xuất bản đầu tiên ( NXB Nguyễn Du,1943 ), thi sĩ Bàng Bá
Lân, bạn tâm giao của Anh Thơ và cũng là thi sĩ nổi tiếng của Phong
trào Thơ mới viết lời Tựa, ông
vừa giới thiệu vừa chủ trương làm văn, nên nó xuôi chiều bàng bạc. Song ông đã
nói được điều cần nói, và cá nhân, tôi đồng ý với Bàng Bá Lân, rằng Răng Đen không có tầm vóc của một tiểu
thuyết đích thực. Vậy thì nó là cái gì ? Theo tôi, đó là câu chuyện tình-gia
đình được tác giả kể lại một cách giản dị, nhẹ nhàng, có duyên. Cái câu chuyện
tình-gia đình của đôi nhân vật Hương-Đan ấy là một mô-típ gia đình công chức
nửa phong kiến nơi tỉnh lẻ, khá phổ biến trong quãng thời gian đó. Nếu đem
những sinh hoạt gia đình của các nhân vật chính đối chiếu với hoàn cảnh gia
đình của tác giả, thì thấy nhiều nét phảng phất nhau. Phải chăng, ở vào thời kỳ
ấy, khi nền tiểu thuyết Việt Nam
mới bắt đầu, lại là một cây bút nữ làm thơ trẻ, nên khi thử sức mình ở địa hạt
văn xuôi, tác giả đã lấy ngay những gì mình gần gũi thân thiết và hiểu biết để
xây dựng thành câu chuyện kể trong Răng
Đen. Tiểu thuyết có tình yêu đôi lứa cùng lãng mạn thơ phú, có chuyện hôn
nhân gia đình, sinh con đẻ cái, vợ lẽ con thêm, rồi ghen tuông, cãi cọ... Cái
kết cục buồn, nhưng không hẳn bị lụy, và đã mở một chân trời mới mặc dù là mờ
mịt... nó na ná như những câu chuyện tình tiểu thuyết khác khá phổ biến của
nhiều tác giả tên tuổi thời ấy. Thế nên, về tiểu thuyết, Anh Thơ không thể sánh
được với những Nhất Linh, Khái Hưng, Lê Văn Trương... song với Răng Đen, Anh Thơ xứng đáng ghi tên vào
hàng ngũ những cây bút của thời kỳ tiểu thuyết mới Việt Nam .
Mặc dù Anh Thơ là một cây bút cần mẫn,
bà viết đều, in đều, tác phẩm rải rác trái dọc đường đời, song ngoài mấy tác
phẩm cột mốc ấy, số còn lại ít người nhớ. Có một bài thơ hay được mọi người
nhắc đến, ấy là bài Tiếng chim tu hú,
với đôi câu thơ, khổ thơ ấn tượng như : " Bỗng tiếng chim tu hú/ Đưa từ vườn vải xa/ Quả bắt đầu chín lự/ Ngọt
như nỗi nhớ nhà... "; "Có chàng trai dạm ngõ/ Bỗng khói lửa ngút
trời/ Con đi đêm súng nổ/ Vải rụng nước sông trôi/ Rồi tiếng chim tu hú/ Vang
suốt những mùa hè/ Con đi dài thương nhớ/ Mười năm chưa về quê/ Tu hú ơi tu hú/
Kêu hoài chi vườn xanh/ Ta còn đi đi mãi/ Như dòng sông trôi nhanh ... ".
Bài thơ không thật xuất sắc, song tạo được không gian, có tình cảm và tâm trạng
của người ở lại-kẻ ra đi không biết bao giờ về, vì thế nó vào được lòng người
và đấy chính là đất sống. Về nghệ thuật, cấu tứ, câu từ , bài thơ không mấy
khác với thuở Bức tranh quê, có chăng
chỉ ở tính thời đại của nó mà thôi.
Với nữ sĩ Anh Thơ, theo tôi, điều đáng
nói nhất ở bà, là ngay từ thời mới xuất hiện đã gây được ấn tượng, rồi năm
tháng cứ thế trôi qua, bà cùng các tác phẩm của mình cần mẫn, khiêm nhường mà
đi hết chặng đường đời - đường văn chương, không bỏ cuộc, đến kết cục cũng không đến nỗi nào. Vậy là
đáng quý lắm rồi !...
Còn người con gái nuôi của bà, Cẩm Thơ
Kanapa, người đã bỏ dở cuộc chơi với thơ, như tôi đã nói ở trên, đơn giản bởi
làm thơ chẳng phải là nghề và cũng không là nghiệp. Vậy thì có gì phải luyến
tiếc đâu !...
Hè cách đây mấy năm, trong lần về Việt
Nam, tôi và Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ có ăn trưa một bữa cùng nhau, do nhà văn Trần Thiên Hương mời , tại quán
cơm dân tộc trên phố Trần Quốc Toản. Cơm canh cua nấu mồng tơi mướp hương, cà
pháo muối chấm mắm tôm, đậu rán kèm rau kinh giới, cá kho dưa, thịt lợn ba chỉ rim
mặn, toàn món ăn dân dã mà không rẻ chút nào vì giờ đã thành đặc sản cả.
Vậy là ẩm thực đã thay dổi về giá trị,
thế thì văn chương sao đây ? Đặc sản văn chương được tung hô bây giờ là ý tứ,
câu chữ , kết cấu cứ phải xáo trộn loạn xì ngậu và quấy động tít mù, càng mập
mờ bí hiểm, càng buông tuồng càng mới
...
Thế thì đáng sợ thật !...
Thôi chằng dám nói chuyện văn chương
nữa, chúng tôi chỉ nói về món ăn trong suốt cả bữa ăn. Âu cũng là chiều lòng
Cẩm Thơ, để chị đắm mình vào bầu không khí quê hương mà chẳng bợn băn khoăn gì
!...
Ps: Năm 2013 và
2014, cứ vào dịp tết nguyên đán, Cẩm Thơ lại về Việt Nam . Về một mình, để chồng và hai
con ở Paris . Cô
muốn được tự do đi đó đây, tìm lại tuổi thơ của mình nơi quê hương bản quán;
gặp lại bạn bè một thưở. Có khi, cô lại chọn Huế, hoặc Hội An, thuê khách sạn,
chốt cửa tự giam mình tập trung làm bản thảo phim...
Và đến khi,
cô chuẩn bị về lại Pháp, mới alo cho tôi hoặc nhà thơ Trần Đăng Khoa, để gặp
nhau, hàn huyên dăm ba câu chuyện. Dư thời gian thì đi ăn cơm dân tộc cho đỡ
nhớ...
Trước tết
nguyên đán năm nay, qua thông báo trên hộp thư cá nhân, tôi được biết, chồng
cô, Jerom Kanapa nhà báo, nhà làm phim tài liệu có tiếng của Pháp, đột tử tại
nhà riêng. Thế là tết Ất mùi, Cẩm Thơ không về Việt Nam, chắc là bận lo các
công việc gia đình, liên quan đến chồng cô ?...
Vừa mới đây,
trên mạng cá nhân, thấy Cẩm Thơ thông báo tạm biệt căn nhà cũ... Chẳng hiểu cô
chuyển đi đâu. Chắc là vẫn loanh quanh đâu đó Paris ...
2011
Nhận xét
Đăng nhận xét