Trong số các nhà thơ đời Đường họ Vương ( Vương Duy, Vương Xương Linh, Vương Bột, Vương Chị Hoán, Vương Loan, Vương Kiến, Vương Tích, Vương Hàn ), thì Vương Hàn gần như kém nổi tiếng hơn .
Thơ của Vương Hàn, cho đến nay, các
sách về Đường Thi, chỉ thấy có duy nhất một bài, ấy là Lương Châu từ ( có sách
chép lLương Châu khúc ). Bài thơ này, xét về độ nổi tiếng, không kém
gì những bài thơ Đường bất hủ khác như : Tương Tiến tửu, Tĩnh dạ tư - ( Lý Bạch
), Trường
Hận ca- ( Bạch Cư Dị ), Hoàng Hạc lâu- ( Thôi Hiệu ), Đằng
Vương các- (Vương Bột ), Xuân hiểu- ( Mạnh Hạo Nhiên ), Phong
Kiều dạ bạc- (Trương Kế ), Hồi hương ngẫu thư - ( Hạ Tri
Chương), Điểu minh giản- ( Vương Duy), Kim lũ y- (Đỗ Thu Nương
)… v.v…
Vương Hàn ( theo sách Đường Thi tam bách
thủ của Hành Đường Thoái Sĩ ),
không rõ năm sinh và năm mất, có tên chữ là Tử Vũ, người Tinh Châu Tấn Dương,
làm quan giữ chức Thứ sử Nhữ Dương, sau triều đình điều đi làm Hóa Châu Biệt
Giá.
Lương Châu từ của Vương Hàn, diễn tả
tâm tình của tướng sĩ nơi chiến trận. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu về
Đường Thi, xưa nay, ngoài nội dung hàm chứa, về âm điệu Hán Việt thì tuyệt hay
( khi ngâm vịnh, hoặc đọc lên ).
@ Bản chữ Hán:
涼州詞其一
葡萄美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催。
醉臥沙場君莫笑,
古來征戰幾人回。
@ Bản âm Hán Việt:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
@ Chú giải:
Lương Châu ( được
nhà Hán đổi tên từ Ung Châu )- là vùng đất nằm giữa Lan Châu và Uy Vũ ( nay thuộc tỉnh Cam
Túc, Trung Hoa ). Xưa kia, vùng đất này luôn là chiến trường, bởi những
cuộc xung đột tranh chấp lẫn nhau liên miên giữa nhà Hán và người Hồ ( rợ Hồ - chỉ một số bộ lạc ở phía tây bắc
Trung nguyên ).
@ Dịch
nghĩa :
Rượu ngon được uống bằng chén quý dạ quang
Còn chưa kịp thưởng thức thì tiếng tỳ bà đã giục giã lên
ngựa.
Kệ, uống cái đã, say kềnh ra bãi cát chiến trường, mặc ai
cười chê
Bởi xưa nay, đi chiến trận, còn được mấy người sống sót trở
về đâu.
Bản dịch thơ của học giả Trần Trọng Kim :
Rượu nho kèo chén lưu
ly
Uống
thì trên ngựa tiếng tỳ giục sôi
Say nằm
bãi cát chớ cười
Xưa nay
chinh chiến mấy ai trở về.
Bản dịch của nhà thơ Ngô Văn Phú :
Bồ đào rượu chát,
chén lưu ly
Lên
ngựa, tỳ bà giục giã đi
Say ngủ
sa trường, cười chớ vội
Xưa nay
chinh chiến mấy ai về .
Ngẫm bài thơ. Vương Hàn đã mượn chuyện
say rượu nơi chiến trường, để mà diễn tả nỗi niềm tâm sự của quân sĩ phải tham
gia chiến trận. Lịch sử Trung Hoa từ cổ đại, là lịch sử của chiến tranh liên
miên, hết triều đại này qua triều đại khác ( lập quốc; thay đổi triều đại cai trị; chống
ngoại xâm từ phía các bộ tộc nhỏ từ phương bắc, tây bắc ; xung đột từ các tập
đoàn phong kiến cát cứ, rồi xung đột sắc tộc, tôn giáo đủ kiểu …). Trước
nhà Đường, Trung Hoa trải qua mấy cuộc chiến tranh lớn ( điển hình là thời Tam Quốc, hơn trăm năm ; thời Hậu Tấn ; loạn Nam-Bắc
Triều gần hai trăm năm). Đất nước kiệt quệ, người lính bỏ mạng nơi chiến trận,
có thể nói là "xương chất thành
núi, máu chảy thành sông” )…Vậy thì, đã mang tiếng là nam tử hán đại trượng
phu, chinh chiến, chết chóc đâu có sá gì… cho nên, có rượu ngon cứ uống thôi,
chết còn chẳng sợ, sợ chi tiếng cười chê …?
Đấy là ý thực của bài thơ. Song bao
trùm lên, là ý thức phản kháng chiến tranh, là tiếng kêu gọi hòa bình…để người
dân có cuộc sống yên lành. Bài thơ, từ khoảng một nghìn năm trăm năm trước, đặt
trong một không gian bi tráng, và đích thị, đó là khúc ca bi tráng ( không chút bi lụy ). Nó đằm lại ở câu
kết, tuyệt bút - " Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi "- có sức lay động và thức tỉnh con người !
Và như thế, ấy là triết lý nhân văn
!...
@ Bản dịch thơ của
người yêu thơ Đường:
Rượu
quý uống bằng chén dạ quang
Dở
dang đàn đã giục lên đàng
Sa
trường say ngủ, cười chê- Mặc!
Chiến
trận thấy ai mấy vẹn toàn?
( Đặng Đình Nguyễn dịch )
Mới
rót rượu đào chén dạ quang
Tì
bà đã giục bước lên đàng
Cứ
uống, say kềnh, ai cười mặc
Chắc
gì trở lại vắng màu tang
( Nguyễn Xuân Sinh dịch ).
Bồ
đào rượu quý chén dạ quang,
Nhấp
môi, tì bà giục lên đàng
Thây
kệ, cứ say, ai cười trách
Xưa
nay, chiến trận mấy bình an.
( Nguyễn Chu Nhạc dịch ).
2013
Nhận xét
Đăng nhận xét