1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát.
Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt Nam
thời nay, mà tôi xin được trải ra, để mời mấy nhà thơ vào ngồi, mỗi người một
góc, mà ở đó có nhà thơ Lê Đình Cánh.
Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo
muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và
mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn
Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.
Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê
Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ,
mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc,
trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của
Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in
riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất
lành do NXB Thanh Niên ấn
hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà
thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“
(bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương
sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao
nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê
Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư
tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài
thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt Nam hiện đại...
Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình
Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể
lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài
ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca
Việt Nam
hiện đại, phải cần nhiều “đinh” hơn
thế. Chẳng qua, mấy bài thơ, câu thơ nọ,
là dấu ấn đầu tiên khiến người ta bắt đầu nhận diện ra riêng một Lê Đình Cánh,
trong số rất nhiều nhà thơ và người làm thơ ở xứ ta mà thôi.
Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao
nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều
bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ
trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ
từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông
với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế
kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ
lục bát...
Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài
nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc,
song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo
cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu
thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai
mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc
chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ, lập
ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng,
têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những
bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu,
câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi mang những nhận định trên
mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông
có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng
được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ
cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ
xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga
Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông
Chùy, Cõi xưa, Bến quê, Trở lại Ba Lòng,
Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...
Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy
rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ,
dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
Mải lo cơm đủ
áo lành
Còn đâu lúc
rỗi để thành vọng phu
( Gió đất )
Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già
Lá trầu chị héo, quả cau em già
( Em đi )
Tình yêu như thể chơi đề
Đợi con độc đắc lại về trắng tay
Đợi con độc đắc lại về trắng tay
( chợ tình )
Chốn quê vẹo cột vênh kèo
Ốc cam phận
ốc lại đèo kiếp rêu.
( Chợ người )
Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt
tóc bỏ nhà đi tu
( Chợ tình )
Xế tà tháp
lặn vào mây
Vầng trăng
chính sử hao gày hoàng hôn
( Lời xưa )
Sau già là
cõi xa xăm
Nén hương đỏ
lửa mỗi năm đôi lần.
( Hỏi đất )
Giếng làng
mưa bão vẫn trong
Chợ quê rớt
già vẫn đong đếm đầy
( Thú quê )
Đao đình cong nỗi phế hưng
Một thời lá
rụng dửng dưng sân chùa
( Phận rùa )
Tuổi già như thể nắng hanh
Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều
( Về hưu )
Ơi người áo mũ cân đai
Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành
( Tiểu sành )
Nắm tay củ ấu
vẫn tròn
Người ơi vẫn
ngọt bồ hòn trên môi
( Chợ Mơ )
Giả vờ có ngủ
được đâu
Nằm chong
chong mắt lâu lâu lại ngồi
( Ngủ nhờ )
Ngày xưa xe lộn về Bần
Mấy phen tuột
xích quãng gần Khoái Châu
( Về Phố Hiến )
Nẻo đường bồ
bịch cong cong
Vừa lo thoát
khỏi. Vừa mong nhảy vào...
( Nẻo đường cong cong )
Bắt chồng em
có chọn anh
Như kim chọn
chỉ vá lành áo nâu
Như là đồng
đất chọn trâu
Nương cao
cũng kéo ruộng sâu cũng cày
Chọn anh như
cối chọn chày
Canh khuya
giã sắn rạng ngày đâm ngô
( Bắt chồng )
Thân cò trở
lại nghề nông
Rời cây súng
biết tay không có gì
Mấy đồng hưu
trí thấm chi
Cảnh nhà vơi
bát lắm khi mụ người
( Anh lại đi cày )
Nứa mai thưng
hở vách lều
Rừng khô xao
xác nai kêu lẻ bầy
Mưa bay như
thể sương dầy
Sàn khuya
thương ngọn nến gày lắt lay
( Gặp ở Mường Tè )...
Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
Thế cờ
nghiêng về đâu
Pháo mã thành
vô dụng
Sĩ tượng thành
thất sủng
Tốt đen cười
sang sông
( Nắng Hàm Tân )
Ai biết được
ma nào ăn cỗ
Ai dại gì
công bố chuyện đi đêm
( Vợ Ba )
Gặp bạn tình
lòng đã thấy no
Rượu chưa
nhắp lời đà có lửa
Trưa đứng
nắng bồn chồn vó ngựa
Chợ lim rim
một nửa sang chiều.
( Chợ Bắc Hà )
Đường một
chiều cứ thế tôi đi
Tôi biết dại
làm người nhụt chí
Cái đáng vứt
lại cất làm của quý
Cái phải chôn
đi lại để trưng bày
( Đường Bà Triệu )
Đâu đá lát
lên đền Tam Tổng
Lạnh khói
hương thông thốc giữa trời
Hai hộ pháp
vẫn muôn đời gác cổng
Ông Ác cười! Ông
Thiện toát mồ hôi...
... Tôi trở
về tuổi trẻ chẳng về theo
Thời gian như
nước ngầm băng hoại
Trái tim tôi
càng sống càng nghèo
( Quê ngoại )
Mùa khô Đồng
Văn trơ gió
Gió khê lời
đá thở dài
Gió như tiền
vào nhà khó
Một đời gió
thổi trần ai
( Mùa khô Đồng Văn )
v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong
tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình
thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện
nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến
ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc
đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này.
Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa
máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như :
Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh
Để êm đỡ trẻ.
Để anh đỡ già
( Hát Karaoke )
Phố làng xóa sổ nông dân
Quán quê lai
ghép công nhân nửa mùa
Lượn lờ chào
bán gọi mua
Dật dờ chai
cốc được thua với đề
( Phố Làng )
Mảnh bằng bán
tận châu Phi
Tiền lương
đếm lại nhiều khi mủi lòng
Ước mơ xé lẻ
từng đồng
Thương con
liệt sĩ lấy chồng thương binh,
Vết thương
như kẻ vô tình
Tấy lên những
lúc gia đình ăn vay.
( Vàng xám ) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể
thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông,
thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít
nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ lục
bát cổ truyền, riêng có của xứ ta !...
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...
( còn nữa )
5.2017
Nhận xét
Đăng nhận xét