Đi tìm cõi thực của Nguyễn Vĩnh Tuyền quả không dễ
chút nào. Nó chẳng khác gì việc đãi đất sỏi để tìm ra được mươi hạt thóc, hạt
gạo, và những gì có thể xơi được. Nói vậy quả không ngoa. Trước khi tìm nhặt
những câu thơ thể hiện cõi thật của Nguyễn Vĩnh Tuyền, thiết tưởng phải chuyện
phiếm đôi chút về nhà thơ. Vốn tuổi Dậu (Ất
Dậu, 1945), cầm tinh con Gà, anh em bạn bè thân tình mà đùa yêu rằng, quanh
năm suốt tháng anh như con gà trống, chỉ có vài ba viên sỏi, cứ mổ lên mổ xuống,
cục ta cục tác lượn lờ mà dụ lũ gà mái và cả bàn dân thiên hạ “thóc thật, thóc thật”, khi bày gà xúm
vào thì đâu phải là thóc thật, chỉ là thóc
ảo mà thôi… Thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là vậy, thực ảo lẫn lộn, những câu thơ ảo,
thậm chí ảo diệu thì nhiều lắm, song khi thực, anh lại thực quá, đến mức độ trúc
trắc ngôn từ, đọc lên thành tiếng cho thuận miệng cũng khó. Đấy là xét về khía
cạnh nghệ thuật, và theo cách nói dân gian, ấy là “thật thà hư”…
Còn đây là cõi thực của Nguyễn Vình Tuyền, thực mà vẫn
rất thơ:
Tôi ra đời
giữa mùa chết chóc
Lại là đứa
trẻ cuối cùng sống sót đẻ trong tháng Hai,
Nên no-nê, ấm
áp suốt một đời dạc-dài cơm-áo.
Tháng ba mùa
hoa xoan rắc đầy lối ngõ
Muỗi
như trấu bay chàn chạt lưỡi nia
Ngồi
học trong màn khói đen, muội đỏ
Bóng
tóc đuôi gà ngấp nghé mãi ngoài kia,
Quên
rồi sao,
Ngọn đèn dầu
leo lét phía hoang mơ,…
Con theo cha
học cách giơ cao vồ lem nện xuống
từng gộc tre
đực lún theo mỗi nhát vung
chắc nịch,
chính xác,
thật tay,
ta-luy cao
dần bờ đất thó đen
lung người,
lung bờ
mặt đất, mặt
người phờ phạc…
Cha từng qua
bao vụ mùa thất bát
tháng Tám
ngày Ba, ruột dài mơ miếng để, miếng ăn…
quốc lộ Một -
Chiều ấy, Zil-130 long nhong chốt một đầu rơ-moóc,
quốc lộ Hai –
Đêm ấy, Ifa-W50 lẵng nhẵng, ì ạch chốt hai đầu rơ-moóc,
Hụt hơi, tương
lai là vô định ra vào,
vào ra nhằm
ăn theo tài-xế
ngày mai là
hối hả
cuộn guồng
theo vòng bánh xe lăn,
Nhọc nhằn…
Hơi thở ngọt
mềm
và cánh tay
em trên ngực mình
yên tĩnh một
ban mai
đưa anh về
thực tại…
Anh hôn vầng
trán em sáng trong
Tạ ơn những
ca nước thơm hương vi mật ong
tạ ơn những
bình nóng linh chi, con gái mua về từ Hàn Quốc
những cặp
lồng cơm.
những bữa tối
ngon lành…
Em bao dung
đến tận cùng nhân cách,
dành dụm cho
ta bao năm ngọt, tháng ngào,
gánh thay ta
một đời chia xa, buồn nhớ
neo cuộc bơi
mệt nhoài bằng bao nhiêu tóc rụng…
Cho
buồn khổ không còn nơi trú ngụ
Cho
ta quay về bổn phận đàn ông…
Con người Nguyễn Vĩnh Tuyền là thế đấy. Anh thành thật
với quá khứ tuổi thơ vất vả, cơ hàn cùng song thân nơi quê hương bản quán;
thành thật với những năm tháng quân ngũ suốt thời chiến tranh khói lửa ác liệt,
đầy gian khổ hy sinh; thành thật với gia đình mình, ấy là người vợ tần tảo, đảm
đang và đầy bao dung, những đứa con giỏi giang và hiếu thảo… Đó thực sự là
những chiếc phao cứu sinh, những cọc neo chắc chắn, đặng níu giữ con thuyền
mộng của nhà thơ khỏi dạt trôi về bến mơ không tưởng … Chẳng những vậy, Nguyễn
Vĩnh Tuyền còn rất thành thật với những cơn mưa bóng mây chốc nhát, những cơn
say nắng tình cờ, những bóng hồng và cuộc tình ngắn ngủi ngang qua đời anh… Có
lẽ, vì biết ơn nên thành thật, nhưng anh không hề hối lỗi, đơn giản, bởi Nguyễn
Vĩnh Tuyền xem đấy là những chất men say cho cảm xúc thi ca mà trời đất ban
tặng cho mình. Hơn nữa, anh chưa bao giờ quá đáng với Nàng Thơ, mà còn biết
nâng niu, trân trọng:
Mình yêu nhau
từ mùa Thơ năm ấy,
Chết trong
nhau từ lần gặp đầu tiên,
dạn dĩ tháng
Tư-ngắn ngủi cuộc tình,
hoa gạo rực
trời hai chục ngày
rồi bỗng đâu lụi tắt
trái ớt chỉ
thiên cay sè bốn mắt
cơn cớ gì bẫy
đặt hai ta,
Muốn nhớ lại
mau quên
nên chăng
cùng xanh ngắt
đôi mắt nào
nắng lửa
buồn đời day
dứt mưa,
Em ở lại với
Bãi Dâu, Gành Hào ngợp nắng
vắng bóng
nhau thật rồi,
Sài gòn đường
về có còn thuận lối?...
Thôi cứ khép
hờ cả Người và Thơ
cơ hội những
chuyến đi màu nhân duyên Trời định
cả hương vị
thời gian dường như Đất tính
nhung nhớ
tháng Mười
một khúc
thăng hoa…
Mong mỏi ngày
mai,
yêu nhớ lắm
ngày qua,
như lần đầu
yêu, lâng lâng hồi hộp
như lần đầu
bay trên trời mây trắng xốp.
Chợt nhớ câu
thơ:
“Bàn chân ta
lội xuống trời
Hát bông nắng
cũ ru lời em xanh”…
Có một điều, tôi không thích trong thơ Nguyễn Vĩnh
Tuyền, ấy là sự lan man và hay lạm dụng ngôn từ. Phàm người làm thơ, kỵ nhất là
nhắc đến từ Thơ hay Tứ thơ trong thơ mình vì sợ nhàm và lộ, cũng như người đang yêu ngại nhất nhắc
đến từ Yêu vì e là thô… Riêng với
Nguyễn Vĩnh Tuyền thì ngược lại, trong thơ anh nhan nhản những từ này. Đã hơn
một lần, tôi bàn luận với anh điều đó, anh có vẻ nghe ra và bày tỏ sự đồng
tình. Nhưng rồi, đâu vẫn đấy, chẳng rõ, theo thói quen, vô tình hay hữu ý?
Và đấy, mới thật đúng là người và thơ Nguyễn Vĩnh
Tuyền !?...
Nhận xét
Đăng nhận xét