Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã
trở thành một phong tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh
hưởng của văn hóa Phật giáo.
Đã
là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương nhiên.
Người
phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại
thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm
mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở. Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta
có thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến,
tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong
muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có
sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên
nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa,
không dịch bệnh...
Những
mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm
tin trước hết phải đặt vào chính con người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt
niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi.
Đầu
năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với
đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh
chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền công đức ( gọi là tiền giọt dầu, thẻ hương ), nói là để yên lòng người cho cả
một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà,
chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành
phổ biến trong xã hội ngày nay.
Tôi
là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa, xa gần có cả. Năm nay, mấy ngày
tết, cũng loanh quanh đôi chùa phủ trong nội thành, thứ bảy rồi, mới đi xa hơn,
thăm vãn chùa Tây Phương ( thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây cũ ).
Đây
là một ngôi chùa nổi tiếng xứ Bắc. thuộc đất thôn Yên, xã Thạch Xá. Tương truyền,
bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 6-7, và trải qua rất nhiều lần trùng tu. Tuy
nhiên, dấu ấn được ghi chép về quy mô, kiến trúc của chùa thì mãi đến vào thế đầu
kỷ 17 thời nhà Mạc, với tên chữ là Sùng Phúc tự . Kế đó, là vào năm
1632, dưới triều vua Lê Thần Tôn, chùa được xây dựng với quy mô 3 gian thượng điện,
cùng hậu cung, hành lang tới 20 gian. Tiếp nữa, là vào các năm 1657-1682, chúa
Trịnh Tạc cho phá bỏ chùa cũ, xây chùa mới cùng tam quan. Và cuối cùng, là dưới
triều Tây Sơn, năm 1794, chùa được đại tu, đổi tên thành Tây Phương cổ tự, và dáng
dấp kiến trúc còn giữ đến ngày nay.
Thong
thả từng bậc đá ong ướt át trong làn mưa phùn mùa xuân, qua 239 bậc mới tới được
cổng chùa. Cổng chính, tấm biển chữ Hán Tây Phương cổ tự , mở ra bên trong một
không gian chùa, với kiến trúc được đánh giá là tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo
mỹ thuật thời Hậu Lê. Lần lần, tiền điện đến hậu điện, được thấy các pho tượng
Phật cổ bằng chất liệu gỗ mít sơn thếp từ mấy thế kỷ trước, đặc biệt là các vị
La Hán, đã đi vào thơ ca Việt qua bài thơ
Các vị La Hán chùa Tây Phương của nhà thơ Huy Cận từ năm 1960.
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về
lòng vấn vương
Há chẳng phải
đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy
mặt đau thương ?
........
Cha ông yêu
mến thời xưa cũ
Trần trụi đau
thương bỗng hóa gần
Những bước mất
đi trong thớ gỗ
Về đây tươi
vạn dặm đường xuân
Xung quanh chùa,
những ngôi nhà dân chênh vênh bên sườn núi, những lối mòn tre trúc quạnh hiu, mùi
khói bếp quện mùi hương trầm, tất cả làm nên một không gian thanh tịnh và ấm cúng.
Tôi tách khỏi nhóm
người, một mình theo bậc thang dần xuống, tha thẩn ngắm nhìn, hỏi chuyện các bà
cụ bán hàng rong hai bên. Những đồ lưu niệm mây tre đan, những con châu chấu,
chuồn chuồn tre, lặt vặt...cùng đó là những lời mời chào chân quê . Nhìn các bà,
các cụ đầu bạc khăn vấn đen, môi quết trầu, vừa mời chào bán hàng vừa gẫu chuyện
xóm mạc, như thấy bóng dáng mẹ ta, dáng dì ta ngày nào. Có gì đó thân thương,
chân chất, mộc mạc...
Thì ra, cõi Phật
và cõi đời gần gụi nhau biết mấy !...
Nhận xét
Đăng nhận xét