Nỗi khát sa mưa và ký ức mùa nước nổi,




         Sáng ra, trời mát trong, dìu dịu hơi thu với chút hanh heo. Nắng nhẹ nhàng lan tỏa. Lập Thu đã hơn nửa tháng nay mà trời vẫn nồng oi khó chịu. Vẫn biết là thời tiết lúc chuyển mùa là thế, nhưng lòng vẫn thắc thỏm đợi thu về. Và rồi, sau những ngày hòa vào sự ồn ào bận rộn với lễ kỷ niệm ngày thành lập cơ quan mình từng có hơn ba chục năm công tác, giờ là chút lắng lại. Đợt gió mùa đầu tiên đã tràn về, thoạt đầu là cơm mưa giông chiều hôm trước với ì oàng tiếng sấm và mưa xối xả, trắng trời trắng đất...
          Ngày mới lên, bên ly cà phê đen, chầm chậm nhấp môi, theo dõi một phóng sự hình về mùa nước nổi miền Tây Nam bộ. Những hình ảnh tươi mới sống động về những sản vật và niềm vui con người trong mùa nước nổi, khơi gợi trong tôi và ký ức ngày nào bừng dậy về nỗi khát sa mua và niềm vui náo nức mỗi mùa nước nổi...

          Ai cùng biết, phương Nam chỉ có hai mùa mưa nắng, quen gọi là mùa khô và mùa sa mưa. Mùa mưa, thường bắt đầu từ cuối tháng tư đầu tháng năm, khi mùa hạ miền Bắc bắt đầu. Nếu như sống trong mùa mưa, ta sẽ quen dần với cơn mưa giông thường vào mỗi buổi chiều, mà quên đi, để rồi bỗng một hôm nào đó, chợt nhận ra, hình như mưa thưa dần, ấy là lúc mùa khô bén mảng. Đó cũng là lúc, ta bắt đầu nghe ngoài Bắc có những đợt gió mùa đông bắc đầu tiên. Cứ thế, nhẹ nhàng như không, ngoài chút tiêng tiếc cái không khí ẩm ướt và bầu không cây vườn, đường phố sạch tinh khôi sau mỗi cơn mưa chiều... Mùa khô lén dần rồi đấy. Những khi mùa khô thật sự hiển hiện, nắng chang chang mỗi ngày và cứ thế đến mấy tháng trời, con người cùng đất đai, cây cỏ gần kiệt đi trong cái nóng khô khát, ta mới thấy nhớ và thèm khát cơn mưa làm sao. Nỗi khát sa mưa cứ ngày một lớn dần, như ăn vào đầu óc, tiềm thức, để mỗi sáng dậy, nhìn nắng sớm soi vào khung cửa, tràn ngập sân vườn, lòng lại tự hỏi, bao giờ thì mùa sa mưa đến nhỉ?...
          Tôi đã sống như thế trong nhiều mùa mưa nắng miệt châu thổ Mê-kông. Mỗi mùa khô, sáng ra, vầng mặt trời đỏ ối lên cao, cả châu thổ mênh mông ngàn ngạt bầu không khí khô nóng khô, như chiếc chảo rang khổng lồ úp xuống đồng bằng, chút hơi ẩm sương đêm trên cây lá nhanh chóng bay hơi tan biến vào thinh không nắng gió. Những con đường lớn nhỏ, mỗi lần xe qua bốc theo làn bụi đỏ như những cơn giông bụi vần vụ lên cao mãi không tan nổi. Người ta giải khát mình bằng những ly nước trà, cà phê loãng toẹt đầy những đá lạnh. Một khi người ta khát khao chờ đợi thì thời gian lại như ngừng trôi. Mùa khô nhích từng bước chậm chạp tựa rùa bò để đi nốt quãng ngày cuối cùng cùa mình. Nó làm người ta sốt ruột đến mức mỗi chiều muộn, cảm nhận, mặt trời dùng dằng, nấn ná mãi chẳng buồn lặn... Thèm cả chút hơi đêm dịu bớt len vào giấc ngủ trằn trọc vì nóng bức.
          Những tháng này này, phải lang trên đường xuyên qua những làn bụi, hoặc ngồi trên những chiếc xuồng tam bản, võ lãi, bo bo chạy trên kinh rạch cạn nước sục những váng phèn đỏ, lại càng thèm mùa con nước mênh mông. Lâu lâu, nghe tin đâu đó, cháy rừng tràm rừng đước do nắng nóng và sự bất cẩn của những người gác kèo đốt ong, mà lòng người như có lửa đốt...
          Tôi sống những tháng ngày như thế. Cùng đã bước đi trên mặt đồng khô hạn nứt nẻ, đất nhiễm phèn, toác ra cứng như sắt, theo chân những người dân Khmer Nam bộ từ các phum sóc đi lấy nước về dùng. Những giếng nước ngoài đồng, cạn tận đáy, dẫu liên tục rịn ra thì vẫn không xuể, làm mọi người xúm đông, chờ đến lượt mình, vục từng ca nước mát chắt vào thùng chứa mang về nhà. Mạnh nước ngầm chảy ri rỉ  sốt ruột, ngày đêm như vắt kiệt lòng đất để mang lại chút nước mát cho con người. Có cảm giác, nước ngọt đường lấy từ ngọn cây thốt-nốt trên cao kia còn nhiều hơn cả nước giếng đất ngầm ... Mùa khô là thế đấy.
          Tôi cứ tự hỏi, những kẻ không may lạc lối trên sa mạc hay trôi dạt giữa đại dương mênh mông, thì cơ cực khổ sở thế nào, và nỗi thèm khát nước ngọt khiếp nhược ra sao, chứ nỗi khát sa mưa của dân Miền Tây ngày ấy thì tôi từng chứng kiến và cảm nhận được ...
          Và sự kiên nhẫn chờ đợi, nỗi khát sa mưa của con người và cỏ cây rồi cũng được đền bù, khi mùa mưa đến với những cơn giông đầu mùa xuất hiện thưa thớt, và mỗi dầy thêm...
          Mùa mưa, mùa nước nổi, đến sớm bao nhiêu, thi nỗi lo càng bớt... Khác miền Bắc, mưa lũ đột ngột, xối xả, tràn lấp và xô đổ tất cả, rồi cuốn phăng đi, những đồi núi, cầu đường, nhà cửa, tài sản, con người, mà nhiều khi, chỉ chốc lát, là mất tất... lũ miền Tây dù có lên nhanh thì cùng vẫn là nhẹ nhàng, như an ủi, vỗ về con người ta. Vậy nên, dân miền Tây mới gọi mùa sa mưa là mùa nước nổi. Nước lên đến đâu, nhà cửa và con người nổi lên theo đó. Chỉ có trong kinh rạch, sông ngòi, đồng ruộng mênh mông nước ấy, là nguồn tài sản vô kể do thiên nhiên ban tặng.
        Sau vài năm lũ muộn và nhỏ, năm nay Mậu Tuất, lũ sớm trước cả tháng trời. Hễ cứ được mùa nhãn là mưa nhiều nước to, người xưa truyền vậy, cấm có sai. Mưa nhiều, cả Bắc chí Nam đều nước lớn. Ngoài Bắc đã mấy lần xả lũ, úng thủy nơi nơi, đường biến thành sông, đi lại khó khăn trắc trở, thì phương Nam lại hài hòa làm sao. Người dân miền Tây hân hoan đón lũ. Trừ ít lúa tăng vụ bị ngập nước chưa kịp gặt, thiệt hại chút đỉnh, còn lại chẳng hề hấn gì. Niềm vui nối tiếp niềm vui. Các phiên chợ quê đầy ắp và tươi rói sắc màu sản vật mùa nước nổi. Rau thì bông điên điển, lục bình, hoa súng và muống đồng, vật thì các loại tôm cua ốc ếch và cơ man là cá. Cá lớn nhỏ, đủ loại, và cá thiên nhiên thường là ngon hơn cá nuôi. Trong số đó, không thể không kể đến cá linh....
          Cá linh, loài cá tự nhiên cho đến nay, vẫn không thể nuôi được. Nguồn gốc loài cá này là từ Biển Hồ bên xứ Cao Mên (Campuchia). Đến mùa, cá mẹ đẻ trứng, rồi trứng cá nở thành cá bột, gặp đúng mùa sa mưa, cứ thế, cá bột theo dòng nước trôi xuôi, vừa đi vừa ăn phù du mùa mưa lũ mà lớn dần. Khi về đến sông Cửu Long xứ ta, thì cá linh đã lớn bằng đầu đũa rồi, ấy là cá linh non. Cỡ này, cá linh ngon nhất. Người ta dánh bắt, chế biến thành các món ăn, và món nào cũng tuyệt cả. Phổ biến là cá linh tẩm bột chiên ròn, ăn nhai cả xương, ngon lắm. Rồi đó, đem nấu canh chua, hoặc bỏ vào lẩu, lâu dài hơn thì chế mắm cá linh. Cá linh để lớn to bằng ngón tay cái, chân cái là già rồi, khi ấy chỉ đem kho tiêu hoặc làm mắm là ngon.
          Ngày tôi còn ở An Giang, ấy là từ hơn ba chục năm trước, mỗi mùa nước nổi, cá linh nhiều cơ man, các chợ lớn nhỏ từ Long Xuyên về Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, đâu đâu người ta bán cá linh, nhiều vô kể. Cá linh nhiều đến nỗi rẻ lắm, ê hề, vãn chợ, không ai mua, nên mới có câu vi von “rẻ như cá linh”. Nhưng rẻ thế cũng đâu có hè hấn gì. Người đánh bắt, bán cứ bán thế thôi, bán không xuể, vui lòng mang vể đổ vào chum vại làm mắm, bán dần. Ngày nào, bữa nào, cũng cá linh, ăn diết sinh chán. Chẳng bù cho bây giờ, cá linh là đặc sản quý hiếm. Hiếm là bởi, lũ nhiều năm nhỏ và muộn vì thủy điện đầu nguồn chặn nước, và nữa, nhiều diện tích bị ngăn bằng đê bao để gieo trồng lúa, làm diện tích đồng bằng ngập nước hẹp lại, giảm môi trường thủy sinh. Lạm dụng thuốc trừ sâu, hủy diệt môi sinh, cũng là một nguyên nhân. Con người đông lên gấp bội, nên ngoài khai thác cho nhu cầu dân sinh tại chỗ, cá linh và một số sản vật khác còn bị săn lùng, khai thác triệt để cho mục đích thương mại, phục vụ thú ăn của dân đô thị ... Thế nên, cái gì thuộc về tự nhiên đều dần nên hiếm cả... Nghĩ mà buồn!...
          Biết là vậy, nhưng để chuyển biến tư duy bảo vệ môi sinh thành việc làm cụ thể, thật khó lắm thay. Nói vậy, để trở lại một quan điểm mang tính chiến lược, ấy là, hãy trả lại miền sông nước Tây Nam bộ về loại hình sinh thái ngập nước như xưa cũ... Như thế, lợi ích sẽ lớn hơn, phong phú hơn, và quan trọng  nữa về mặt tinh thần văn hóa xã hội sẽ có cơ sở để bào tồn và phát triển bền vững. Điều này, nhiều nhà khoa học và quản lý xã hội cũng đã hiểu và tán đồng.
          Vẫn đang mùa nước nổi, trong khi chờ đợi sự chuyển biến thuộc tầm quốc kế dân sinh, thì hãy biết chia vui cùng bà con miệt vườn miền Tây sông nước, với tràn trề sản vật đặc trưng mùa nước nổi !...

Nhận xét