Chiều tắt nắng.
Ảnh nghệ thuật nuy
Chiều
chưa muộn mà những vạt nắng đã lụi dần, chỉ còn đâu đó chút ánh sáng yếu ớt
váng vất nơi ngọn tre, tán cau chót vót trước nhà. Bà Nguyệt vừa cho lợn ăn,
vừa tranh thủ quét tước mảnh sân con vương vãi lá cây. Xong việc, bà vào bếp,
lẩn thẩn lấy chiếc nồi còn lưng cơm nấu từ trưa vả chiếc niêu đất chuyên kho cá
ra hâm lại. Chỉ cần nấu chút canh rau tập tàng, ở nhà có một mình, thế cũng là
quá đủ. Bà thần người nghĩ, không biết giờ này, ông Chiến, chồng bà đã ăn cơm
chưa nhỉ. Đã hơn tuần nay, chồng bà được con trai về đón lên chơi mãi trên
trang trại của nó ở mạn ngược. Theo thói quen, cứ chiều xâm xẩm là bà lại ngóng
ra cổng như chờ chồng về. Rõ là “lo bò trắng răng”, trên ấy cha con, ông
cháu líu ríu, đông vui là thế, việc gì mình phải ngồi nhà lo chuyện cơm nước cơ
chứ? Bao nhiêu năm đằng đẵng, bà lo thế quen rồi. Thôi, giờ cứ lo cái thân già
mình đi đã. Dạo này, cái lưng nhâm nhẩm đau, hai đầu gối cũng khó chịu, đêm
nằm, bắp chân buồn như trấu cắn. Mình đã là một bà già rồi. Ngày xưa, ở tuần
tuổi ngoài sáu chục như mình thì hẳn là già, nhưng thời nay có khác, nhất là
các bà, các mợ sống ngoài thành phố, áo quần son phấn cứ phây phây. Đấy, chẳng
đâu xa, như cô vợ của người ấy, nghe nói tuổi cũng ngót sáu mươi rồi, nghĩa là
chỉ kém mình có dăm tuổi, vậy mà nhìn béo tốt, mỡ màng, dáng vẻ sang trọng như
vào tuổi trung niên...
Bà
Nguyệt tự cười buồn. Ôi dào, mỗi khi ngắm cái khuôn mặt già héo của mình nơi
thau nước lúc rửa mặt, bà chẳng dám tin ngày trẻ mình xinh đẹp có tiếng trong
làng là thế. Mà tự dưng bà lại nghĩ ngợi, thầm so sánh cái bộ dạng già lão quê
mùa của mình vời vợ người ấy làm gì nhỉ? Rõ vớ vẩn chưa. Phải chăng, lâu rồi bà
mới ở vào tình trạng sống một mình như bây giờ, nên sinh nghĩ ngợi lung tung.
Hay là, vài hôm nay, trông thấy người ấy, khi sóng đôi cùng với vợ, lúc đi một
mình trên đường làng, mà sinh nghĩ ngợi này nọ chăng?
Chẳng
buồn dọn cơm vào mâm bưng lên nhà ăn, bà Nguyệt cứ vậy, cơm canh, cá kho cứ nồi
nào thức ấy, để xuống nền bếp, xới bát cơm, ngồi ăn. Nhìn ra sân, nắng chiều đã
tắt, ngõ ngoài phảng phất khói sương. Bà Nguyệt ăn uể oải, miệng nhai, mắt
nhìn, nhưng đầu óc nghĩ đâu đâu...
X
Ngày ấy, vào học cấp 2, chung lớp học với Nguyệt có đến
chục đứa người cùng làng, xét chuyện họ hàng dây mơ dễ má, nội ngoại, đều có họ
với nhau cả. Cùng tuổi với Nguyệt có vài ba đứa, do muộn đi học, hoặc do học
kém bị đúp, số còn lại kém vài tuổi, có Đăng. Cậu ta quê ở làng, nhưng sinh ở
Hà Nội, khi bắt đầu xảy ra chiến tranh chống Mỹ thì Đăng theo gia đình chuyển
về quê sinh sống Cậu ta người nhỏ nhắn,
trắng trẻo, thư sinh, có vẻ nhút nhát, ít nói. Xét về họ hàng bắc cầu, Đăng là
vai anh của Nguyệt. Cậu ta học giỏi, đều cả hai môn toán và văn, học lực luôn
đứng đầu lớp, thậm chí đầu cả khối học toàn trường. Năm nào cậu ta cũng được
nhận giấy khen về thành tích học tập. Chẳng bù cho Nguyệt, học hành khó khăn
chật vật làm sao. Đặc biệt là môn Toán, Nguyệt học thế nào thì những con số nó
cứ chuồi ra khỏi đầu. Có lần, Nguyệt đánh bạo nhờ Đăng giảng cho cách giải mấy
bài toán khó. Thấy vậy, Đăng bảo là nếu Nguyệt không ngại, thì mỗi tuần, Đăng
sẽ dến tận nhà Nguyệt giảng giải lại những kiến thức Toán cơ bản, đặng để
Nguyệt hiểu và có thể tự làm những bài toán đơn giản. Nguyệt chỉ cố sao cho đạt
điểm trung bình môn học này thôi, trong lòng muốn lắm, nhưng cứ ngại, nên từ
chối khéo. Dẫu vậy. hai người cũng cảm thấy thân nhau hơn.
Bù lại,
Nguyệt giúp Đặng một số việc thuộc về đồng áng nhà nông. Trẻ con ở quê, những
năm chiến tranh, thường phải giúp cha một số công việc nhà nông đơn giản như
chăn trâu, căt cỏ, vào những buổi không phải tới trường, Nguyệt lớn tuổi hơn,
lại con nhà nông bẩm sinh nên khá thạo công việc đống áng. Khi gặp nhau ở ngoài
đồng, để ý, Nguyệt thấy mỗi khi đi chăn trâu, Đăng thường mang theo sách học,
hoặc truyện gì đó tranh thủ đọc. Nguyệt vưa thả trâu vừa cắt cỏ, đầy gánh cho
mình rồi thì cắt thêm nữa, mang buộc thành bó để Đăng cho lên lung trâu cưỡi
mang về. Ít trò chuyện, nhưng hai người ngầm giúp nhau vậy. Lớn tuổi hơn,
Nguyệt sớm dậy thì, đã có những rung động đầu đời, tự lòng mình đã phảng phất
hình ảnh của Đăng, dù biết cậu ta kém mình mấy tuổi.
Trong đám
trẻ làng hay chăn trâu cắt cỏ và làm việc đồng áng, con gái lớn chút, còn có
cái Hớn. Đúng với cái tên của mình, Hớn
phổng phao và lúc nào cũng nó cũng hơn hớn như bắt được của vậy. Nó tính khí tồ
tề, nên hay làm mọi người bực mình vì những câu nói vớ vẩn, vô duyên. Xét về họ
hàng, nó thuộc chi họ và là vai em của Đăng, nên khi xưng hô giữa đám đông, cái
Hớn chẳng ngài gì, thản nhiên xưng em với Đăng . Việc này làm Đăng lúng túng đỏ
mặt. Cái Hớn cứ xưng xưng gọi Đăng, “anh
ơi, anh à, bố em bảo thế này, thế nọ”… Nguyệt là người kín đáo, ít nói nên cảm
giác khó chịu mỗi khi thấy vậy, bởi thâm tâm, Nguyệt quan tâm nhiều đến Đăng.
Làng Hạ
nắm dọc theo một con sông nhỏ, chi lưu của sông Cái, nên mỗi mùa mưa lũ thượng
nguồn, nước từ sông Cái đổ về sông làng đầy ăm ắp, ngầu đỏ phù sa. Đối với đám
trẻ chăn trâu cắt cỏ đồng, vui thích nhất là mùa nước sông to. Khi ấy, lòng
sông rộng ra, tha hồ vùng vẫy, bơi lội, tôm cá theo nước nguồn về cũng nhiều
hơn, nên thoải mái đánh bắt. Song cũng có cái lo, ấy là mỗi khi trâu lội sông
bơi qua bờ bên kia, phá lúa và hoa màu, thì lại phải bơi sang rong trở lại… Có
lần, con trâu Ba Gông sứt mũi nhà Đăng nuôi, xuống sông đầm rồi lên bờ bên sà
vào ruộng lúa của Hợp tác xã. Đăng sợ bị phạt, cuống lên, không biết xử trí ra
sao,. Cậu ta mới tập bơi, nước cạn thì không sao, nhưng nước sông lớn lại chảy
xiết, nên không dám liều bơi sang. Nguyệt muốn giúp nhưng cũng lúng túng chưa
biết tính sao, thì cái Hớn bảo “Để tớ… Anh Đăng ơi, em bơi sang dắt trâu cho”.
Nói rồi, cái Hớn cứ nguyên quần áo nhào xuống sông, phăm phăm bơi sang. Sau một
hồi dằng co, hò hét, đánh vật với con trâu Ba Gông sứt mũi, nó cưỡi lưng trâu
vượt sông trờ lại bờ bên này như một vị anh hùng chiến thắng trở về vậy. Cái
Hớn dúi thừng trâu vào tay Đăng bảo “Đây nhé. Anh cố giữ đừng để nó lôi anh
xuống sông nữa đấy. Rõ đàn ông đàn ang gì mà nhát thế!”. Đăng vửa mừng vừa bực
vì bị nó tét tát, đỏ mặt, né người nhìn đi nơi khác, trong khi cái Hớn thì cứ
hi hi ha ha. Nguyệt cũng bực thay cho Đăng, song để ý, thấy quần áo cái Hớn ướt
bết vào người nó, khiên cơ thể nó, nhất là những chỗ mây mẩy con gái mới lớn
nổi rõ như người không mặc gì. Nguyệt ngượng đỏ mặt ngoảnh đi, thấy ghét sự vô
duyên của cái Hơn, lại như giận gì Đăng, trong khi cái Hớn cứ như tung tẩy…
Phải chăng, Nguyệt cảm nhận được thứ tình cảm của mình dành cho Đăng ?...
Những năm
ấy, chân ruộng xa và trũng úng của làng, gặt xong vụ chiêm, nước đã ngập sâu,
cứ bữa chùi, cấy chay thôi, được bao nhiêu cũng quý. Đến vụ mùa lúa chín, nước
vẫn ngập đến ngọn, vì các cơn bão cuối mùa khiến trời đổ mưa như trút. Khi gặt,
người ta dùng lưới hái quơ lấy ngọn, gánh về xếp đống, lúa ướt sũng chày thành
nước nơi sân kho hợp tác xã. Đập đập, rũ rũ rồi mang chia cho các hộ gia đình,
có trừ hao thì vẫn thiệt cho người lấy. Hình như lão đội trưởng ghét gì nhà
Đăng, nên những hôm thóc ướt như vậy, nhiều nhà chê không lấy, lão ta cứ nhè
những gia đình, trong đó có nhà Đăng mà chia thóc. Chứng kiến cảnh ấy, Nguyệt
xót cho nhà Đăng lắm, nhưng biết làm sao?
Đã chiến
tranh, gian khổ, thiếu thốn, lại hay thiên tai. Đáng sợ nhất là trận lụt xảy ra
vào mùa mưa bão năm 1971. Mùa thu ấy, mưa đâu mà nhiều thế, liền cả tuần, đồng
trũng chưa kịp thoát nước đi đâu thì bỗng nhiên nước lại đổ về ấm ầm, đồng làng
trắng băng, sông cưồn cuộn nước, nhiều khúc lút cả bở, không phân biệt nổi đâu
là đồng đâu là sông. Cả làng, chỉ mấy nhà quen nghề chài lưới là có thuyền,
cũng là loại thuyền nan, thuyền gỗ nhỏ bé, là còn dám bơi loanh quanh. Vườn nhà
Nguyệt bị ngập hết, còn nhà Đăng ở chỗ đất khá cao thì cũng ngập mấp mé cổng
vào. Nghe nói, đê vỡ tứ tung đâu mãi mạn
sông Lô, sông Đà, sông Hồng, làm mấy tỉnh đống bằng ngập ráo, đồng ruộng hoa
màu mất trắng và đau xót là có rất nhiều
người chết do lũ vở đê cuốn trôi. Người dân bảo nhau, chính phủ phải cho
máy bay trực thăng đi cứu tế những vùng bị ngập sâu bằng cách đóng bao ni-lông
bánh mì, bột mì và gạo thả xuống như rài truyền đơn ấy. Chừng nửa tháng, nước
cũng rút dần. Đường làng, rồi các đường trục chính ngoài đồng ruộng cũng nhô
lên. Nước rút đến đâu, cỏ mọc đến đấy. Lúc lụt lớn, trâu bò phải cho ăn rơm dự
trữ, nhưng khi nước rút, thì cũng phải kiếm cỏ cho ăn chứ. Bà con dân làng sốt
ruột, cũng chớp chới ra đồng kiếm cá tôm mà ăn…
Một chiều, Nguyệt thoáng thấy bóng Đăng dắt con trâu Ba
Gông ngang ngoài cổng nhà mình. Cảm giác không yên tâm, Nguyệt bảo bố mẹ đi cắt
ít cỏ tươi, rồi liềm gánh bám theo. Đồng vắng toe, lác đác người đây đó lội
ngụp ngoài xa giăng lưới, đặt rọ đặt lờ cá. Đăng dắt trâu cho ăn cỏ nơi con
đường trục chính giữa cánh đồng. Nước vẫn ngập khá sâu. Nguyệt cắt cỏ loanh
quanh cách đó một quãng, chốc chốc lại đưa mắt theo dõi Đăng. Mải chút, Nguyệt
cảm giác bất an, và khi nhìn ra, thấy Đăng đang loay hoay dưới nước, ngập đến
nách, dằng co với con trâu đang cố chuồi ra xa nữa đắm cả mình. Nguyệt bỏ liềm
cẩm chiếc đòn gánh, chạy vội về phía ấy, đến nơi thì cũng là lúc con trâu Ba
Gông lôi tuột cả Đăng xuống vùng nước sâu ngập đầu người. Nguyệt ào xuống, gọi
bảo Đăng hãy buông thừng trâu ra, bơi lại vào bở. Nguyệt nhoài người đưa chiếc
đòn gánh ra để Đăng nắm lấy rồi kéo đòn gánh lôi Đăng vào. Đến chỗ nước nông,
Đăng đứng được chân, cả hai tái mét mặt, thở hổn hển, rồi bì bõm lội vào lên
lên bờ đường. Thực ra, bình tĩnh thì
Đăng cũng bơi vào chỗ nước nông được, nhưng do đồng nước ngập trắng băng nên
khó biết chỗ nông sâu ra sao, Đăng mới hoảng vậy. Trong khi Đăng còn chưa hoàn
hồn, thì Nguyệt lại ý tứ chuyện con gái, lánh người ra xa một chút, xây lưng
lại, vừa vắt nước trên quần áo, vừa long ngóng tìm cách tránh để quần áo của
mình bết vào người như cía Hớn dạo nào. Biết là Đăng lén nhìn mình, Nguyệt đỏ mặt,
lí nhí bảo: “Cậu cứ chờ chút, vùng vẫy chán, con trâu nó tự lên thôi... Còn
tớ... tớ phải đi cắt cỏ tiếp đây”. Nói rồi, Nguyệt bỏ đi, quên cả chiếc đòn
gánh của mình... Đăng gọi “Ơ kìa, Nguyệt ơi, cậu quên đòn gánh à?”.
Nguyệt quay lại,, bảo “ Ừ nhỉ... cứ để đấy, tý nữa tớ lấy”... Nguyệt
cắt cỏ, đầu óc cứ để đâu đâu, suýt cắt vào tay. Chốc chốc, lén nhìn về phái
Đăng, lần nào cũng bắt gặp cậu ta đang nhìn mình. Nguyệt nghĩ, cậu ta cũng
thích mình, nếu không, sao cứ nhìn mình mãi thế, và ngợp đi trong niềm vui dâng
lên. Cảm giác như có cái gì chạm vào người, Nguyệt giật bắn, ngoảnh lại, thì ra
Đăng đứng ngay sau lung, đưa chiếc đòn gánh khẽ chạm vào người cô ”Con trâu
tự lên rồi…Trả Nguyệt đòn gánh này”. Đăng chỉ nói được có vậy rồi đứng chết
trân. Nguyệt cố nói to “Để đây cho tớ …Tờ nói rồi, khi nào cắt xong tớ qua
lấy mà”. Quấn áo ướt, Nguyệt cứ ngồi, nhưng thấy vậy thật không tiện, bèn
đứng dậy, lùi cách xa một chút, hai tay lúng túng che che sợ Đăng nhìn rõ thân
thể mình trong quần áo ướt bết. Đăng biết ý nhìn ngang, bảo “Ban nãy, may có
cậu… không thì tớ … không biết thế nào… Cảm ơn cậu nhé!...”. Hai cặp
mắt đối nhau, Nguyệt cảm nhận mắt Đăng nhìn mình khác lạ, như có gì đó bùng
cháy…Nguyệt né cái nhìn ấy, và cô thoát ra bằng cách xẻ một phần cỏ mình vừa
cắt, để riêng ra, bảo “Cậu mang cho con Ba Gông ăn thêm, rồi về đi, kẻo
người ngấm nước lâu cảm lạnh đấy… Tớ cùng về đây:”. Nguyệt xếp
quang gánh cỏ, quảy lên vai, chào Đăng. rảo bước, không ngoành lại, nhưng linh
cảm mách bảo, Đăng vẫn đứng đấy nhìn theo mình. Nguyệt tự nhủ lòng, cậu ấy
thích mình thật rồi, và tự nhiên, cô đưa lén tay khẽ chạm vào phần ngực mẩy
thiếu nữ của mình…
Những năm tháng ấy, cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng
ác liệt. Mỗi năm, vài lần tuyển quân, trai làng lác đác nhập ngũ, ở làng chỉ
còn đám choai choai và đàn ông đứng tuổi. Anh trai của Nguyệt vừa tốt nghiệp
cấp 2 là nhập ngũ ngay. Người đi ra chiến trường vẫn đi, không khí vẫn hào hùng
lắm, Ngược chiều ấy, lâu lâu tin buồn về làng quê một âm thầm lặng lẽ, ấy là
giấy báo tử các liệt sĩ đã hy sinh ở mặt trận và nó chỉ bùng ra trĩu nặng, uất
hận, đau buồn trong lễ truy điệu ở đình làng. Ấn tượng và ám ảnh mãi về sau,
còn là sự trừng phạt đối với một vài người đào ngũ, bằng cách cho dân quân áp
giải họ trên đường làng, đeo biển trước ngực “Ai cũng hèn nhát như tôi thì
mất nước”. Nguyệt thương và lo cho anh trai mình lắm, nhưng lại cầu mong
anh ấy đừng có đào ngũ, để khỏi phải chịu nhục như vậy. Cái Hớn bày tỏ muốn đi
bộ đội hay thanh niên xung phong để được cống hiến. Và nó được toại nguyện. Hôm
mấy đứa gặp nhau ngoài đồng, nó bảo :”Chào các cậu, tớ sắp đi thanh niên
xung phong rồi. Bố tớ bảo trai thời loạn mà. Tiếc cái, tờ là con gái, nếu vào
bộ đội, tớ cũng có thể thành dũng sĩ diệt Mỹ, thành anh hùng…”. Nó hớn hở,
nhơn nhơn chỉ tay vào mặt Đăng:”Con trai như anh, xung phong nhập ngũ đi
chứ… Nghe bảo, mấy đứa ở làng bên còn cắt tay lấy máu viết đơn xin nhập ngũ đấy.”.
Thấy mặt Đăng tĩn ra, Nguyệt thương, cãi hộ “Cậu ấy vẫn chưa lớn mà…
với lại có đi khám nghĩa vụ quân sự cũng không đủ sức khỏe đâu…”. Cái Hớn
nhìn chăm chăm từ đầu đến chân Đăng bảo: “Ừ nhỉ… cái mã anh thì sao đeo nổi
ba lô, còn gạo nước, súng đạn nữa chứ”. Bộ dạng, mặt mũi Đăng nhăn nhó
trông thật tội nghiệp. Nguyệt cố đùa để lấy lại tinh thần cho Đăng “Với lại,
ai cũng ra trận hết thì sau này chiến tranh kết thúc, thông nhất đất nước, lây
đâu ra người để xây dựng lại đất nước… Đăng học giỏi, học tiếp thành kỹ sư,
tiến sĩ, mai đây cống hiến vẫn kịp mà…”. Đăng nhìn Nguyệt, ánh mắt tỏ vẻ
biết ơn, nói như tự nhủ “Mình cũng nghĩ thế!...”.
Cái Hớn đi. Bố nó đem thư nó khoe với hàng xóm, nên người
làng ít nhiều biết được mặt trận trong ấy cũng đầy gian khổ hy sinh,.. Thế rồi,
chuyện buồn đến với nhà Nguyệt. Giấy báo tử anh Trung, anh trai Nguyệt hy sinh
ở chiến trường B.
Lễ truy điệu anh Trung ở sân đình, giữa đám dân làng,
Nguyệt thấy thấp thoáng bóng Đăng, nhưng cậu ta e dè đứng xa lẫn vào đám đồng.
Sau đấy, Nguyệt vẫn phải đầm ải việc đồng áng, vì bố mẹ dường như già yếu đi
trông thấy sau khi anh Trung hy sinh. Chị gái Nguyệt lấy chồng ở xã bên, năng
đi lại an ủi cha mẹ hơn, nhung việc chính trong nhà, Nguyệt phải đảm đương hết.
Tuổi mới lớn, chưa kịp niềm vui hoa niên
thì đau buồn đã ập đến, làm Nguyệt vốn bản tính nhu thuận, lại thêm lặng lẽ
hơn. Mỗi khi ra đồng, làm gì thì Nguyệt cũng có ý, đưa mắt quanh quất, bao quát
xem có bóng dáng Đăng không. Hết cấp 2, Nguyệt ở nhà làm ruộng giúp gia đình,
Đăng học lên cấp 3 nên phải đi trọ học xa. Cuối tuần nào, Đăng cũng về nhà, thi
thoảng ra đồng giúp bố mẹ, nên hai người cũng khó giáp mặt nhau. Thiếu bóng
dáng Đăng, Nguyệt thấy công việc đồng áng chẳng còn thú vị gì nữa, nhưng cô
không thể không làm. Nguyệt váng vất trong lòng bởi không ngờ mình lại đem lòng
yêu mến, quý trọng người anh họ xa kém mình vài tuổi, thư sinh nho nhã ấy. Thâm
tâm, Nguyệt hiểu, Đăng cũng có tình cảm đặc biệt với mình, nếu không muốn nói
là thích mình ra mặt,... Cô cũng ý thức được hình thức xinh đẹp của mình. Người
như Nguyệt, nếu không phải vì chiến tranh, làng quê thiếu trai tráng, thì có mà
đắt như tôm tươi, nhiều nhà tranh nhau đánh tiếng. Hoàn cảnh chung vậy, Nguyệt
không dám nghĩ về chuyện chồng con của mình. Ngay như tình cảm thầm kín giữa
Nguyệt và Đăng, hai người hiểu lòng nhau, nhưng không một ai dám thộ lộ. Với
Nguyệt, lớn tuổi hơn, nếu như Đăng chủ động, cũng chưa chắc cô dám đón nhận,
bởi chiến tranh vẫn còn đó, ngày thêm ác liệt, ái dám bảo không, ngày một ngày
hai, Đăng cũng sẽ lên đường nhập ngũ, vào mặt trận và không bao giờ trở về như
anh trai Nguyệt và bao trai tráng khác? Nếu không, học giỏi như cậu ấy, sẽ học
lên cao nữa, thậm chí ra nước ngoài học tập, tương lai tiền đồ rạng mở, lúc ấy,
Nguyệt và làng quê sao níu chân người đi? Và một cản trở nhãn tiền, ấy là cha
mẹ hai bên, chắc gì họ đã đồng tình, ủng hộ, khi hai nhà có họ hàng xa với
nhau, và Nguyệt lại hơn Đăng vài tuổi?... Nguyệt không dám nghĩ, lại càng chẳng
dám mơ, hai người có hạnh phúc đôi lứa!... Còn Đăng, Nguyệt thầm phỏng đoán,
cậu ấy thích mình bởi thứ cảm xúc nhất thời của chầng trai mới lớn, ít nhiều
mang tính bản năng, khi mà Nguyệt đang độ tuổi xinh đẹp mỡ màng của thiếu nữ
dậy thì, tính nết lại ngoan hiền, chăm chỉ, nhường nhịn...
Với ý nghĩ như vậy, Nguyệt cố dứt mình ra khỏi thứ tình
cảm thuần khiết đầu đời dành cho Đăng, để quyết định việc lựa chọn người đàn
ông của đời mình,,,
X
Số là, làng Hạ đang ảm đạm bởi những mất mát đau thương
vì một số trai làng hy sinh nơi mặt trận, thì không khí bỗng thay đổi đột ngột,
tưng bừng hẳn lên, khi có một người anh hùng từ chiến trường trở về. Người ấy
là anh Dũng. Nói là anh hùng thì hơi quá, đúng ra, anh Dũng được phong danh
hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Anh ấy hơn Nguyệt mấy tuổi, nhập ngũ trước anh trai cô
một năm, Khi còn học cấp 3, anh ấy học giỏi văn và nói năng lưu loát, văn hoa.
Nhập ngũ, huấn luyện rồi đi chiến trường B. biền biệt mấy năm không tin tức,
nay bỗng trở về với danh hiệu dũng sĩ và là thương binh vì mất một bên chân.
Việc anh Dũng trở về gây nên một sự kiện chưa từng có ở làng Hạ, thậm chí cả
xã, Từ cán bộ xã, đến cán bộ các đoàn thể, thôn xóm đều đến tận nhà thăm anh.
Họ hàng, làng xóm cũng ùn ùn kéo đến thăm. Đến nhà anh, không những để chia
vui, và để hỏi thăm người nhà đang ở mặt trận, còn để nghe anh Dũng kể chuyện
chiến đấu nơi chiến trường ác liệt ra sao... Đảng ủy xã gợi ý và tổ chức mời
anh Dũng đứng ra nói chuyện với mọi người nhằm động viên tinh thần chiến đấu,
sản xuất chung. Sau buổi tổ chức ở xã, anh Dũng nói chuyện ở làng. Mọi người
càng xôn xao chuyện về anh Dũng bao nhiêu, thì nhà Nguyệt tủi thân bấy nhiêu,
nỗi buồn vì anh Trung hy sinh. Nguyệt cứ ước, giá anh Trung mình cũng như anh
Dũng thì hạnh phúc bao nhiêu. Buồn là thế, nhưng khi anh Dũng kể chuyện chiến
trường ở sân đình, Nguyệt có đi nghe, nhưng chọn chỗ xa đứng. Công bằng, anh
Dũng kể chuyện rất cuốn hút, dẫn dắt, lưu loát, truyền cảm, khiến mọi người khi
lặng đi vì xúc động, lúc lại ồn lên vui vẻ vì sự hài hước. Nguyệt ngồi khá xa
bàn diễn giả, và nghe cũng câu được câu mất, nhưng cô cảm thấy ánh mắt anh Dũng
luôn dõi thẳng vào mình. Vì vậy, cô vờ như không biết, quanh quất nhìn đi đâu
đó. Khi anh Dũng nhăc tên vài ba chiến sĩ người lầng đã hy sinh, có tên anh
Trung, thì anh nhìn thẳng vào mắt Nguyệt, khiến cô trào nước mắt suýt bật khóc
thành tiếng. Kết thúc buổi nói chuyện, anh Dũng hùng hồn nói những lời như hiệu
triệu. Khi dân làng giải tán, ra về hoặc túm lại thành từng nhóm, chuyện trò
này nọ, không ngớt lời khen ngợi, thì anh đi thẳng đến chỗ Nguyệt đứng. Nguyệt
thắt tim không biết ứng xử ra sao thì anh ân cần: “Nguyệt phải không?... Anh
đi mấy năm mà ở nhà em lớn vổng lên,… xinh quá... Anh suýt không nhận ra đấy...
Anh lấy làm buồn tiếc khi biết tin anh Trung em hy sinh... Chiến trường mà, mũi
tên hòn đạn nó tránh mình, chứ mình làm sao tránh nó... Lúc ấy chỉ còn biết tìm
địch mà tiêu diệt... Anh may mắn hơn, chỉ mất một chân... Nhưng không sao, em
à. Còn một chân với hai cánh tay này, không chiến đấu nơi chiến trường thì cống
hiến nơi mặt trận sản xuất, xây dựng... Em ạ, anh tin mình đủ khả năng gánh vác
việc gia đình...”. Câu cuối, anh trầm giọng nhỏ như chỉ đủ cho hai người
nghe. Sau này, khi lấy nhau. Nguyệt mới hiểu, khi ấy, anh Dũng đã hàm ý việc sẽ
hỏi mình làm vợ...
Và rồi, chì dăm tháng sau, bao ồn ã từ việc anh Dũng xuất
ngũ về làng với các câu chuyện chiến trường của mình lắng đi, thì anh lại gây
nên một xôn xao mới, ấy là việc đánh tiếng hỏi Nguyệt làm vợ. Làng nước, ai
cũng khen là đẹp đôi vừa lứa, trai anh hùng, gái thuyền quyên. Gọi anh Dũng là
trai anh hùng cũng là xứng đáng với những cồng hiến và mất mất của anh cho
chiến tranh thống nhất đất nước, còn Nguyệt, nói gái thuyền quyên thì hơi quá,
song ở tuổi mười tám đôi mươi, dẫu không giỏi giang xuất sắc nhưng xinh xắn và
hiền thục. Bố mẹ Nguyệt mừng lắm, phân giải cho cô, tuy anh Dũng là thương binh
đấy, nhưng như vậy là phúc rồi, lại nữa, anh đang là sự ngường mộ của mọi
người, lấy nhau, vợ chồng yên phận mà sản xuất, sinh con đẻ cái. Nguyệt có vẻ
thuận theo, nhưng trong lòng, vẫn ít nhiều vương vấn mối thiện cảm với Đăng.
Song le, chuyện ấy chỉ hai người biết với nhau, có chăng, mẹ Nguyệt mơ hồ biết
chuyện, tìm cách gạt ngay đi để Nguyệt không mơ tưởng gì, bảo “Con gái có
thì, chiến tranh thì ngút trời như thế, biết đâu mà lường, con ạ... Với lại,
nhà bên ấy dòng Nho gia nền nếp, chọn dâu con kỹ lắm, duyên số có thành thì làm
dâu cũng mệt... Mà nhà người ta có hỡi hơi gì đâu,… chẳng nhẽ cọc đi tìm trâu
à?”. Mẹ Nguyệt buông mấy câu như vậy khi có hai mẹ con với nhau, lửng lơ
vậy thôi nhưng có sức lay chuyển, và Nguyệt sụp đỏ trước lý lẽ đó, chấp thuận
việc đánh tiếng ngỏ lời của anh Dũng. Việc chọn ngày cũng phiên phiến vì chiến tranh. Động viên thành tích của anh
Dũng, xã bán phân phổi cho anh ít bánh kẹo, chè gói và thuốc lá để tổ chức đám
cưới.
Trước lẽ cưới ít ngày, một chiều, Nguyệt tranh thủ làm
đồng giúp bố mẹ. Xong việc, chiều đã muộn, Nguyệt ra bờ sông rửa chân tay, định
về thì chạm trán Đăng. Cậu ta trọ học xa nhà, chiều ấy từ nơi trọ về nhà. Thấy
Đăng, Nguyệt lúng túng như người mắc lỗi, lí nhí chào. Khác mọi khi, Đăng mạnh
bạo, chủ động nói chuyện. Hai người đi sóng đôi nhưng Nguyệt lánh xa đủ để nói
chuyện. Chuyện nhì nhằng một hồi, khi gần đến cây đa đầu làng, Đăng dặng hắng,
hỏi “Nghe nói... Nguyệt săp lấy chồng?”. Nguyệt bước chậm như
đứng lại “Ừ... Đăng biết rồi à?”. “Chủ nhật tuần trước về nhà, ... mẹ
tớ nói...Vậy là đúng...”. “Vài ngày nữa là chúng tớ tổ chức đám cưới...”. “Nghe
nói... là anh Dũng... Anh ấy xứng đáng mà... Anh ấy thật may mắn ... khi lấy
được Nguyệt...”. “Tớ tưởng cậu nghĩ... tớ may mắn lấy được anh ấy cơ ?”.
Nguyệt thoát khỏi mặc cảm có lỗi, cố đùa. Hai người dừng hẳn, đối diện nhau,
Đăng nói chậm, từng từ một “Nguyệt có yêu... À, có thích anh ấy không?’.
Hai cặp mặt gặp nhau, Nguyệt nói lảng tránh “Bố mẹ tớ... cả tớ... đồng ý lời
cầu hôn của anh ấy...”. Đăng nén tiếng thở dài “Đáng tiếc... tớ không
phải là người may mắn... Chúc đắng ấy hạnh phúc!...”. Nguyệt nín thinh, cúi
mặt “Đăng còn trẻ... Lại học giỏi... tương lai rạng ngời...chờ cậu mà...”.
Đăng gặng “Cậu có vẻ buồn? Sắp cười rồi... thì phải vui chứ? Sao
vây?”. Nguyệt như muốn khuỵu chân, lấy hết can đảm “Tớ xin lối... ấy
nhé...”. Rồi như một kẻ trốn chạy, Nguyệt nén bật khóc, rảo bước thật
nhanh đi hút vào đường làng. Đến khúc
ngoặt, Nguyệt mới dám ngoải nhìn lại, Đăng vẫn đấy, cái bóng mảnh khảnh thư
sinh của cậu ta như một dấu chấm phảy trong bóng hoàng hôn...
X
Mới đó, mà đã hơn bốn mươi năm rồi...
Ánh chiều đã tắt. Sương phảng phất đâu đó nơi ngọn cây.
Bà Nguyệt thở dài, đứng dậy dọn dẹp bát đũa, nôi niêu. Khép cửa bếp, lên nhà,
đến trước gương. Lâu rồi, bà mới dám đứng trực diện soi gương. Đâu rồi gương
mặt trái xoan vẻ buồn buồn, hàm răng trắng đều và mái tóc đen dày dài chấm thắt
lưng tuổi mười tám đôi mươi của cô Nguyệt xinh có tiếng trong làng? Giờ chỉ còn
gương mặt hao mòn dày nếp nhăn và mái tóc thưa mỏng bạc già nửa... Bật đèn sáng
trưng, từ hôm chồng vắng nhà, bà Nguyệt thích để đèn sáng, bật ti vi cho đỡ cô
quạnh. Ngó mặt ti vi mà bà chẳng rõ người ta nói gì ở đấy...
Ngần ấy năm, vẫn tất bật sớm hôm việc đồng áng, nhà
cửa. già đi là đương nhiên, song bà Nguyệt hiểu mình già hơn so tuổi. Lo việc
nhà chồng, nhà mình, bà như đã quên Đăng từ lâu lắm rồi. Sau lần giáp mặt cuối
cùng ấy, thi thoảng Nguyệt thấy bóng dáng Đăng đâu đó trong làng. Đăng có đi
khám nghĩa vụ quân sự nhưng không đủ sức khỏe nhập ngũ, tốt nghiệp cấp 3 thì
cũng là lúc giải phóng miền
Còn Nguyệt, sau đám cưới, chỉ biết chuyên tâm, quán xuyến
việc cả hai gia đình. Sống với nhau, Nguyệt hiểu, ngoài chuyện chiền trường,
chồng mình cũng chỉ văn hoa vặt vãnh thôi, chứ kiến thức chẳng là bao. Thêm
nữa, việc đồng áng cũng không mấy thạo, sức khỏe yếu vì thương tật nên bao việc
nặng nhọc hai bên đều đổ hết vào đầu Nguyệt. Thực lòng, cô cũng không trách gì
chồng, hiểu chồng mình đã hiến tuổi thanh xuân cho chiến tranh và bị thương tật
đã là một thiệt thòi lớn. Sự buồn tủi của Nguyệt ấy là mãi không chửa đẻ. Vài
ba năm, rồi dăm năm qua đi, Nguyệt không một lần mang thai. Làng xóm cũng xì
xào này nọ, người chê cô đực, không biết chửa đẻ, kẻ lại bảo anh
Dũng bị nhiễm gì đó ở chiến trường nên tịt dường con cái. Chẳng biết giải thích
làm sao, Nguyệt thây kệ, nhưng thâm tâm, tự biết mình vẫn đầy đủ, đều đặn chức
năng sinh lý đàn bà. Vậy thì chỉ có thể tại chồng thôi. Nghĩ vậy, song cũng
không dám nói thẳng với chồng. Có vài ba lần Nguyệt tìm thầy, thuốc thang, đông
tây y đủ cả nhưng vẫn chẳng được. Cực chẳng đã, Nguyệt đánh bạo nói với chồng,
thì anh Dũng gạt phắt, bảo anh khỏe mạnh, ngoài cái chân cụt ra, không bệnh tật
gì cả. Nói vậy thôi, anh Dũng có thể giấu người ngoài chứ làm sao giấu được
Nguyệt. Vợ chồng đầu gối tay ấp hàng đêm, chuyện giường chiếu, chăn gối ra sao,
Nguyệt hiểu chứ. Vốn bản tính hiếu thắng nên anh Dũng không bao giờ nhận lỗi về
mình. Sự hiếu thắng của một người lính trận trở về bộc lộ cả trong chuyện tình
ái với vợ ngay đêm tân hôn. Khi Nguyệt còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì anh
Dũng đã làm xong nhiệm vụ con đực của mình với vẻ hoan hỉ. Nguyệt những tưởng
có thể chồng háo hức kiểu của đàn ông lần đầu lâm trận. Nhưng rồi, sau vẫn vậy,
nên Nguyệt chưa một lần có được cảm giác sung sướng đàn bà. Nói năng thì khéo
léo là thế nhưng chuyện chăn gối anh Dũng lại vụng về, đơn điệu, vị kỷ…Và dần
dần, mỗi lần chăn gối, Nguyệt chỉ còn cảm giác cam chịu cho xong chuyện. Song
như thế còn là may mắn. Sinh lực đàn ông trong chuyện tình dục của anh Dũng như
ngọn đèn hao dầu cạn bấc, chập chờn, le lói và lụi dần. Kể cả việc chồng trở
thành bất lực đi chăng nữa, Nguyệt cũng cam chiụ nếu như trước có được mụn con.
Mỗi đêm, vợ chồng nằm bên nhau, canh thâu đằng đẵng, nhiều lúc Nguyệt ứa nước
mắt tủi thân, nhưng ngẫm nghĩ, chồng mình cũng đáng thương lắm chứ. Mươi năm
vẫn không con cái, muốn níu giữ gia đình, Nguyệt hiểu mình phải có con bằng mọi
giá. Người chị ruột nhỏ to, bàn với Nguyệt, tính toán nếu thuốc thang không
được mà mình vẫn có thể sinh đẻ, thì liều một phen, chủ động xin giống của ông
thầy thuốc nào đó, miễn sao có thai sinh con. Ai biết đấy là đâu. Chuyện này,
Nguyệt nghe đâu đó đã từng, song bản tính nhu mì, không dám nghe theo. Thực
lòng, những năm tháng không con cái, hằng đêm, vợ chồng nằm cạnh nhau như hai
miếng gỗ ghép không khớp, Nguyệt cũng từng phiêu lưu trong ý nghĩ. Có nhiều
lần, Nguyệt khát khao được ân ái thì chồng cũng chỉ ôm ấp, vuốt ve qua loa.
Nguyệt đã nghĩ về người đàn ông thuở hoa niên của lòng mình, và tự hỏi, nếu hai
người có duyên phận với nhau, biết đâu có vài ba đứa con cũng nên. Lại có lúc
nghĩ quẩn, Nguyệt khát khao đàn bà ước được ôm ấp, được dâng hiến cho người
ấy... Song mới chỉ nghĩ vậy thôi, Nguyệt đã cảm giác của người có lỗi với
chồng... Chồng buồn một thì Nguyệt buồn mười, song cứ buồn phiền thì cuộc sống
chỉ mòn mỏi thêm mà thôi. Cuối cùng, vợ chồng bàn bạc, nhờ cậy tận bệnh viện
tỉnh, xin được một trẻ sơ sinh trai vô thừa nhận, về nuôi làm con. Khi nhà có
tiếng trẻ khóc cười, niềm vui đến với vợ chồng Nguyệt như một sự đến bù của
cuộc đời.
May là, cu Đạt, đứa con nuôi lớn lên khỏe mạnh. Dù
không giỏi giang nhưng được cái lanh lợi, biết nghe lời cha mẹ. Đến tuổi, cu
Đạt đi nghĩa vụ quân sự, đóng quân mấy năm ở miền Trung du. Ra quân, thấy miền
đất ấy thuận lợi cho việc làm kinh tế, nó xin với bố mẹ thuê gom đất lập trang
trại canh nông, rồi bén duyên với cô gái bản địa, nên vợ chồng. Giờ thì Nguyệt
đã là bà nội của hai đứa cháu đủ nếp tẻ. Rốt cuộc, hạnh phúc cũng mỉm cười với
vợ chồng Nguyệt, bù đắp cho những gì là thiệt thòi của mấy chục năm qua... Cu
Đạt, dẫu chẳng phải giọt máu của vợ chồng Nguyệt, nhưng người xưa bảo “cha sinh
không bằng mẹ dướng”, nó về làm người của nhà Nguyệt từ lúc lọt lòng, cũng đâu
có khác con ruột. Thiên hạ đầy rấy nhà con cái hư hỏng, cha mẹ đau xót đã phải
thốt lên rằng “biết khổ thế này, tao bóp chết mày từ lúc sơ sinh”…Được như vậy,
với Nguyệt là may mắn rồi…
Thực
ra, khi nhà có tiếng trẻ khóc cười, mọi quan tâm đổ dồn hết vào đứa con nuôi.
Hạnh phúc đôi lứa của vợ chồng Nguyệt đâu cfn quan trọng việc chăn gối, mà niềm
vui là ở đứa con kia.
Đã từng này tuổi đầu, chuyện cũ đã
qua đi những bốn mưới năm, bà Nguyệt chẳng còn vui buồn với quá khứ xa xưa. Sở
dĩ. bà nhớ lại, nghĩ ngợi chuyện cũ, là bởi vài năm gần đây, các anh chị em nhà
Đăng về quê cho xây ngôi thờ tự trên nền đất vườn có ngôi nhà gianh vách đất
cũ. Kể từ đó, Đăng và vợ con hay về quê hơn. Năm trước, sau bao nhiêu năm,
Nguyệt mới giáp mặt Đăng. Chùa làng được trùng tu, Đăng về quê, đến chùa thắp
hương công đức. Hai người chạm mặt nhau nơi cổng chùa, mặc dù bà Nguyệt cố tình
né đi, giấu mặt dưới khăn choàng đầu, song Đăng vẫn nhận ra, chào trước “Bà Nguyệt đấy à? Có phải Nguyệt không?”.
“Vâng, tôi … Ông về quê,… lên chùa lễ Phật ạ”. “Lâu lắm rồi… mới gặp lại…bà… Ông nhà và cháu khỏe chứ?...”. “Vâng,…Cảm ơn ông hỏi thăm … ông nhà tôi và
các cháu vẫn thường…Bà nhà và các cháu có về cùng ông không ạ?… Cho tôi gửi lời
thăm sức khỏe…”. Đại khái mấy câu xã giao vậy, bà chủ động cắt chuyện cáo
lỗi đi trước. Tưởng chỉ vậy, nhưng sau đó bà cũng nghĩ ngợi ít nhiều. Mới hôm
trước, bà đi làm đồng, nhác trông xa biết vợ chồng Đăng đang xây lại mộ cha mẹ.
Bà chống lưng nhìn, thoáng chạnh lòng. Mà ngày trước cũng đâu vào đâu, ngoài
chút tình cảm nam nữ của những kẻ mới lớn. Nghe đâu, mấy đứa con của Đăng học
hành giỏi giang lắm, còn Đăng thành nhà văn nhà thơ gì đó. Bà Nguyệt từng nghe
đám thanh niên ở làng kháo nhau rằng, chúng đọc trên mạng, thấy thơ văn của ông
Đăng viết nhiều về chuyện làng mình, cả về Nàng Thơ ngãy xưa chi dó, không biết
có thật không và là ai nhỉ? Bà có chút bâng khuâng trong lòng, chả nhẽ, ông ấy
viết về mình?...
Chợt có tiếng chuông điện thoại.
Chồng bà gọi về bảo, ông sẽ ở thêm mươi ngày nữa nơi trang trại của con. Cũng
báo thêm, vợ chồng cu Đạt muốn năm nay đón bố mẹ lên ăn Tết trên ấy, thay vì
như mọi năm, vợ chồng con cái chúng kéo nhau về quê ăn Tết với bố mẹ, và ông
đang cân nhắc…
Nhận xét
Đăng nhận xét