Bài thơ Tĩnh dạ tư của Thánh thi Lý Bạch, do nhà thư pháp Lê Quốc Việt thủ bút tại Hồ Văn, Hà Nội, xuân Canh Tý 2020.
Cúi đầu nhớ cố hương
1. Bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch.
Hầu như, những ai yêu thơ Đường, hay đơn giản mang
chút máu giang hồ, thích lang thang đây đó, đều có lúc chạnh lòng, mà "cúi đầu nhớ cố hương". Còn hết thảy
những ai tha phương, rời quê đi lập nghiệp nơi khác, thì hẳn nỗi nhớ quê hương
thường trực trong người.
Từ gần một ngàn năm trăm năm trước,
Thi Tiên-Lý Bạch đời Đường đã nói hộ cõi lòng những kẻ tha hương : "Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/Cúi đầu nhớ cố
hương".
Các thi nhân, hình như ai cũng hơn một
lần trong thơ bộc lộ nỗi niềm thương nhớ quê hương bản quán. Có biết bao tuyệt
bút về chủ đề này, tự cổ chí kim, từ đông sang tây. Xứ Việt mình cũng vậy. Chỉ
riêng với Chế Lan Viên, thi sĩ này cũng có những câu thơ rất hay, và không
những thế, quê hương và tình yêu quê hương còn được mở rộng ra, với mảnh đất mà
ta đã sinh sống một khoảng thời gian nào đó :
"… Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương …".
Trở lại với Lý Bạch và bài thơ nổi tiếng của ông - Tĩnh
dạ tư.
Bài thơ này thuộc thể Ngũ ngôn tuyệt cú. Ngôn từ chắt lọc, hàm
súc, song tình ý lại mênh mông, vô bờ bến.
@ Nguyên tác:
靜夜思
床前 明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。
Bản âm Hán Việt :
Sàng
tiền minh nguyệt quang,
Nghi
thị địa thượng sương.
Cử
đầu vọng minh nguyệt,
Đê
đầu tư cố hương.
Dịch
nghĩa :
Đầu giường thấy ánh trăng sáng
Ngỡ là sương phủ đầy
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Bản
dịch thơ của Tương Như:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Hiện có nhiều bản dịch thơ, song bản
dịch của Tường Như được nhiều người nhớ, bởi 2 câu kết rất hay “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/Cúi đầu nhớ cố
hương".
Bài thơ Tĩnh dạ tư này, có một
chi tiết cần nói thêm. Đó là một từ trong câu thơ đầu : "Sàng tiền MINH nguyệt quang". Bản
chữ Hán và Hán Việt sách Đường Thi của
Trần Trọng Kim, thay vì từ MINH ( sáng ), là từ KHÁN ( xem, nhìn ). Còn
các bản khác ở sách " Đường thi tam
bách thủ " của Hành Đường Thoái Sĩ và " Thơ Lý Bạch " do Ngô Văn Phú sưu tầm, biên soạn, dịch thơ -
thì đều chép là MINH..
Đã có nhiều người kiến giải khác nhau về sự khác biệt
này. Ở đây, tôi không sa đà vào việc đi tìm từ này hoặc từ kia là đúng với
nguyên bản, mà chỉ nêu ra để mọi người cùng biết và suy ngẫm thôi.
2. Một số
bản dịch khác của người yêu thơ Đường :
Đầu
giường thấy trăng tỏ
Ngỡ
ngập tràn sương buông
Ngẩng
lên vầng trăng sáng
Cúi
đầu nhớ quê hương...
( Đặng Đình Nguyễn dịch )
Đầu
giường sáng ánh trăng soi
Hay
là sương phủ chơi vơi đất bằng
Ngẩng
đầu vọng ngắm bóng trăng
Cúi
đầu da diết nặng oằn nỗi quê
( Yên Ba Ngô Đình Miên dịch )
Đầu
giường muôn sắc nguyệt buông
Bao
la mặt đất màn sương phủ dầy
Ngẩng
mặt lên trăng sáng đầy
Bâng
khuâng quê cũ đâu đây nao lòng
( Nguyễn Vĩnh Tuyền dịch ).
Nhận xét
Đăng nhận xét