Nhà thơ Phạm Hồng Nhật

                                           PHẠM HỒNG NHẬT,

từ nhiệt huyết minh họa cuộc sống đến những nỗi niềm cõi nhân gian...

( Đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố, Nxb Hội Nhà văn 2016 )

               

                                                

           Tôi biết đến nhà thơ Phạm Hồng Nhật, con người và thơ ông trong một lần gặp tình cờ ở văn phòng của nhà thơ Trần Đăng Khoa tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam. Hôm ấy, Phạm Hồng Nhật và Trần Đăng Khoa nói chuyện về các nhà thơ, nhà văn của vùng đất Đông Bắc một thời với những tên tuổi Trần Nhuận Minh, Lý Biên Cương, Tô Ngọc Hiến, Dương Hướng, Sỹ Hồng, Yên Đức (Quàng Ninh), Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh (Hải Phòng) v.v... Qua câu chuyện, tôi biết được Phạm Hồng Nhật làm thơ khá sớm, cùng thời với Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng, Phạm Doanh và khi ấy đã từng được các nhà thơ đàn anh nổi tiềng là Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông khen ngợi. Vậy có thể xem, Phạm Hồng Nhật sớm thành danh. Trong câu chuyện hôm ấy, Trần Đăng Khoa và Phạm Hồng Nhật còn nhắc đến một kỷ niệm, ấy là trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1971, khi đó, Trần Đăng Khoa mới học lớp 6, kỳ nghỉ hè, ra đất mở chơi thăm người anh trai là nhà thơ Trần Nhuận Minh, rồi mắc kẹt ở đó vì mưa lũ. Trần Nhuận Minh đã gửi Khoa nhờ Phạm Hồng Nhật đưa từ Quảng Ninh về Hải Phòng, tá túc nhà người quen, rồi tiếp chặng nữa từ Hải Phòng về tận quê Nam Sách (Hải Dương). Đường về quê, nhiều đoạn bị lũ ngập nên hai anh em phải dắt xe băng qua những đoạn ngập sâu, Phạm Hồng Nhật dắt xe đạp, còn Trần Đăng Khoa bì bõm tay bám booc-ba-ga lội theo sau. Nhắc lại chuyện cũ, để thấy một thời gian khổ và mối thân tình của các nhà thơ từ ngáy ấy.

          Thực tình, trước khi gặp Phạm Hồng Nhật và đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố (Nxb Hội Nhà văn, 2016), tôi không biết gì về thơ ông, mặc dù ông sáng tác và có thơ đăng báo cùng thời với nhiều nhà thơ khác trưởng thành ở vùng đất ven biển Đông Bắc mà tôi biết đến tên tuổi (Trần Nhuận Minh, Sỹ Hỗng, Yên Đức, Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh...).

          Ấy là, Phạm Hồng Nhật sớm bị bứt khỏi vùng đất mỏ sôi động, môi trường sống, làm việc và sáng tác thân thuộc của mình về thủ đô Hà Nội làm công tác quản lý. Ông lạ lẫm và bận rộn với công việc mới, rồi những lo toan chuyện gia đình, nhà cửa mà xao nhãng thơ phú. Quen môi trường mới rồi, cuộc sống lại biến động, khi Phạm Hồng Nhật được điều sang Liên Xô (cũ) làm công tác quản lý cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc cả một vùng rộng lớn thuộc lãnh thổ Ukraina, Vậy là, cả quãng thời gian dài khoảng hai chục năm trời, ông vắng bóng trên thi đàn nước nhà, trong khi các bạn thơ cùng thời với ông ngày nào thì vẫn đều đặn làm thơ, đăng báo, xuất bản tập thơ, thậm chí gặt hái được các giải thưởng thi ca, nâng cấp từ nhà thơ địa phương lên nhà thơ trung ương, được người yêu thơ quen mặt, biết tên. Ngỡ như mất tăm, tắt hẳn một người làm thơ tên Phạm Hồng Nhật. Thì chính ông cũng từng nghĩ vậy, ngay cả khi quãng năm hai nghìn, ông từ nước ngoài trở về Việt Nam sinh sống, làm việc. Phạm Hồng Nhật bảo rằng, nhờ các bạn thơ và người thân động viên đừng bỏ thơ, nên ông sáng tác trở lại. Ông biết ơn bạn bè vì điều này, bởi đã góp phần hồi sinh một nhà thơ tên Phạm Hồng Nhật. Rõ ràng, sự cách quãng môi trường thi ca nước nhà một thời gian dài, đến đầu thế kỷ 21 này, môi trường văn chương, xã hội đã khác nhiều so với thời ông bắt đầu sáng tác vào những năm 70 của thế ký trước, đã khiến ông phải nghĩ khác và viết khác đi...

          Tôi cho rằng, Phạm Hồng Nhật đã may mắn, khi ông có một khoảng thời gian khá dài bứt khỏi môi trường thi ca nước nhà. Đấy là một khoảng lặng cần thiết, đủ để cho riêng Phạm Hồng Nhật, hay chăng mỗi cây bút, không phải vật vã để thoát ra khỏi chính mình? Nghĩ khác, viết khác đi, ấy là quá trình làm mới bản thân, chí ít đúng với trường hợp Phạm Hồng Nhật.

          Mặc dù, tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố, không ghi rõ là tuyển thơ, nhưng nội dung thơ và thời điểm sáng tác các bài cho thấy tính chất tuyển tập. Ở đây, ta thấy các sáng tác của Phạm Hồng Nhật có dấu ấn rõ từng thời kỳ sống, làm việc và sáng tác của ông.

          Thời kỳ đầu, có thể xem là vùng đất ươm mầm thơ Phạm Hồng Nhật, ấy là vùng mỏ Quảng Ninh và vùng quê Hải Phòng. Vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, cả một vùng đất duyên hải Đông Bắc tổ quốc (Quảng Ninh, Hải Phòng) là vùng đất công nghiệp sôi động bậc nhất của đất nước. Giới văn học nghệ thuật nước nhà đổ xô đi thực tế, sáng tác về vùng đất này, trong đó, người ta không quên việc tìm kiếm, phát hiện, động viên, giúp đỡ các cây bút trẻ, xuất thân công nhân, người lao động địa phương, sáng tác từ thực tế đời sống ở đây. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, Phạm Hồng Nhật và một số cây bút văn thơ cùng trang lứa đã tập hợp thành dàn đồng ca, với bầu nhiệt huyết tràn trề, mặc sức thi ca minh họa cuộc sống....

          Điểm những bài thơ sáng tác trong giai đoạn đầu trong tập thơ này, khi Phạm Hồng Nhật đang làm việc ở vùng mỏ Đông Bắc, tức là khoảng thời gian những năm sáu mươi, bảy mươi, như Than trên băng chuyền, Thời gian, Thị xã nơi tôi yêu, Về với mỏ, Một mai kia, Mối tình cô thợ hàn, Thợ gò, Trực chiến trên đồi, Nhà máy trong rừng v.v... cho thấy bầu nhiệt huyết mình họa cuộc sông của tác giả. Thơ nặng về kể chuyện, có không khí đấy, song dường như, thơ hết câu thì bài thơ cũng tắt luôn ở đấy, chẳng mấy dư ba. Và điều này, không riêng thấy ở thơ Phạm Hồng Nhật, mà khá phổ biến trong thơ của nhiều cây bút khác cùng thời kỳ.

          Như tôi đã nói, cuộc sống biến động, bứt Phạm Hồng Nhật khỏi vùng sáng tác, khiến ông hụt hẫng, đứt mạch thi ca. Những bươn chải cuộc sống ở thủ đô, rồi sau đó, ông được điều sang nước ngoài làm công tác quản lý nhân sự và tư tưởng, bận rộn và phức tạp, đã ít nhiều làm thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời ở nơi ông. Nói đứt mạch thơ, không có nghĩa là Phạm Hồng Nhật bỏ thơ, thi thoảng. túc tắc, ông vẫn sáng tác. Song ở thời điểm này, ông sáng tác không phải là sự thúc ép từ ý thức mình phải làm thơ để trở thành nhà thơ, hay vì chạy theo thực tế phong trào lao động sản xuất của xã hội, hay chính cả sự ganh đua với các bạn thơ cùng thời ... Phạm Hồng Nhật chỉ sáng tác khi chính lòng mình có tâm sự, muốn được giãi bày. Thế nên, thơ ông  sáng tác ờ thời điểm này, ý tứ rõ, hàm súc hơn, câu chữ chắt lọc hơn, và như thế, người ta thấy được sự ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự và thân phận con người trong thơ ông.

          Nỗi trăn trở viết khác đi, viết như sự lột xác, làm mới mình được Phạm Hồng Nhật bộc lộ:

          Trước ngọn đèn đêm đang về phía sáng

          gà nhà ai đã gáy mấy lần rồi

          giấy vẫn trắng, bút trên bàn vẫn đợi

          chưa tìm ra một câu chữ thơ tôi...

 

Nhiều lúc nghĩ suy gác bút an bài

          lại tiếc muối ra vào bao tư lự

          viết là biết gánh vào nỗi khổ

          đã buông ra là lại nắm tay vào...

          (Trước ngọn đèn)

         

Nếu vài chục năm trước, thuở ban đầu làm thơ, viết là niềm hân hoan, thì giờ đây, Phạm Hồng Nhật ý thức, viết như đeo đẳng một nỗi khổ ải. Vậy mà vẫn không thể không viết, ấy là sự chia sẻ nỗi niềm cõi nhân gian, trong đó có thân phận chính mình:

          Chén lưng, chén vực cũng là

          nửa thì nắng quái, nửa sa bãi bồi

          vàng chìm, phận nổi, bèo trôi

          dễ đâu thiên hạ một người hiểu ta,

          (Uống rượu một mình)

         

          Quả là, khi cái nhìn đã khác, thì đương nhiên nhận thức cũng khác, ngày cả khi gặp lại cái cũ, cái thân quen:

          Thuyền đã khác xưa, ngày để chỏm

          lá buồm căng như một sự dối lừa

          máy thuyền nổ âm vang là có thật

          con đò ngang mái chèo gác trên bờ,

          (Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu)

 

          Bỗng một ngày, Phạm Hồng Nhật nhận ra sự đổi mới trong mình, ông mừng, ngỡ ngàng, như muốn reo lên:

          Khác nhiều rồi, tất cả đã khác xưa

          và anh nữa khác xa anh thuở trước

          cát cứ một vùng như ông Vua một nước

          nhìn đám thảo dân như muông thú một bầy

          (Đổi mới)

 

Sự đổi mới, trước hết là quá trinh tự nhận thức, rổi ra sự nhìn nhận cuộc sống bên ngoài.

Mọi xa xôi hóa nên gần

mọi lớn rộng chỉ ban chân xỏ vừa...

Cuối chiều như tỉnh nhiw mơ

Vừa buông tay sáng vừa quờ đêm đen.

(Cuối chiều)

 

Khi ngộ ra điều ấy, thì nhìn vào đâu, người ta cũng thấy được bản chất cùng sự khác biệt trong mỗi sự vật, hiện tượng, và qua đó, thấy được thân phận, nỗi niềm của con người, nó đâu mấy khác nỗi niềm trong lòng ta, nên dễ cảm thông, chia sẻ...

Hương thơm giữa thảo nguyên Nga

mà nghe như thể quê nhà gần hơn

lão nông cày máy nổ ròn

mải mê thu hái cả vòm trời sao

Tuyết rơi trắng phủ hôm nào

đất đồng thành đá cây cao trụi cành

mẹ già tóc bạc như tranh

ngồi bên bếp lửa mong manh gió lùa...

(Bây giờ là tháng năm)

 

Thân cò, phận hạc cánh chuồn

ở nơi xa xứ ngỡ mòn ngày qua,

thương cho số phận người ta

quay vào thì lụy, bước ra đời tàn,

Phận nghèo bèo bọt thế gian,

chắc là phúc mỏng, Niết Bàn bỏ quên...

Xứ người vận hội mong manh

bao nhiêu ước vọng cũng thành khói sương,

dẫu chưa đến bước cùng đường

nhìn ai trên tuyết mà thương cả mình.

(Phận ngưỡi xa xứ)

 

Lạnh dưới bao nhiêu

nóng trên bao độ

chị tôi chỉ biết cầm gậy mò sò...

chị mò đáy biển, mò ngã ba sông

mò mặt trời lặn, mò mặt trăng rơi...

Mò sâu rốn biển, mò chìm lòng sông

chỉ bàn tay biết,

bao nhiêu miệng ăn,

đứa con thất nghiệp...

(Chị tôi đi mò sò)

 

Ba năm rượu ủ men nồng

mắt lung kinh cả ở trong then cài

kể già những tháng riêng hai

mầm cây ươm cả ở ngoài nắng nôi

Rét gì cái rét trời ơi

mình em cứ việc đi vơi về đầy

khăn ngang ngực lẳng lơ cài

nửa trong rừng rực nửa ngoài bão giông,...

(Gái góa)

         

Và nếu không dám nghĩ khác, viết khác lối viết tụng ca hoan hỉ ngày nào, thì chắc Phạm Hồng Nhật chẳng thể buông ra những câu thơ khái quát kiểu này:

          Nông thôn mỗi khi qua đò

          chờ cho đông khách giả vở quên xu

          gà què nhốt trong lồng bu

          điềm nhiên ra chợ bán mua đàng hoàng

          Nông thôn ngại việc đồng làng

          dép lê mũ cối bước sang chợ trời

          thiếu tiền đem bán cả người

          ai mua tôi bán lấy vài ba xu...

          (Nông thôn)

 

          Khom lưng quỳ gối chờ thời

          Tù mù lẫn lộn mặt người trắng đen

          mặc cho ai đó đêm đêm

          thân tàn lặn lội kiếm tìm miếng cơm

          mặc bao giọt lệ phơi sương

          cửa tòa đầu gối đi mòn nỗi oan...

          (Thành thị)

         

Đại loại vậy, Phạm Hồng Nhật có nhiều câu thơ khái quát, cảm thông và chia sẻ với những nỗi niềm, thân phận con người...

          Phạm Hồng Nhật đã ý thức “viết là biết gánh vào nỗi khổ” mà vẫn  viết, vẫn làm thơ, vậy có nghĩa là ông chấp nhận thân phận của người cầm bút hay lo chuyện bao đồng của thiên hạ, tự mình giăng mắc trong cuộc kiếm tìm “tôi lại tìm tôi” như ông tâm sự trong bài thơ Kiếm tìm. Hay đâu, trong bài thơ Đàn bò lạc vào thành phố, được lấy lầm tên cho tập thơ này, Phạm Hồng Nhật đã mượn hỉnh mượn ý để nói tâm sự mình:

          Bò vào thành phố bao nhiêu thổ lộ

          thay đổi niềm tin, bớt đi nỗi khổ

          mắt nai mở tròn, bàn tay vỗ vỗ...

          Tôi người xa lạ, lạc vào thành phố,

 

          Giờ ở tuổi bảy mươi nhăm, làm thơ khá sớm, bôn ba cũng nhiều, sướng khổ cũng lắm, hiểu trước nhìn sau, Phạm Hồng Nhật đủ độ từng trải, đủ bản lĩnh con người, bản lĩnh thơ để tiếp tục chia sẻ những nỗi niểm buồn vui, đau khổ của cõi nhân gian. Phạm Hồng Nhật nhắn nhủ và cũng là tự nhủ:

          Đời người như dòng sông trôi ấy

          khúc ngoặt khúc cong tối mặt mày,

          nước xanh đường rộng trời cao thẳm

          thì có bao giờ buồn chán. Tôi...

          (Ngõ nhỏ vòng vèo)

 

Bài thơ Tờ lịch của ông như một tuyên ngôn cho mình:

          Mỏng tang tờ lịch trên tay

          chỉ bao la là lấp đầy khoảng không

          lật sang tờ lịch ngày hồng

          nghe thời gian rồng ở trong gió lùa

 

          Bạc đầu lại nhớ ngày xưa,

          tuổi xanh nghĩ đến tóc vừa hoa râm

 

          Bao nhiêu tờ lịch trong năm

          biết bao tờ lịch nằm trong tro tàn.

 

Nhận xét