Miền xanh thẳm chân mây,
Bản mới.
1.
Hoài
lang biền
biệt đêm trường
người
đi bao nỗi dặm đường, sá chi
xông
pha gươm giáo kể gì
sao
đành, người ở chia ly cõi lòng,...
Những câu thơ
váng vất trong ý nghĩ...
Chiều nay. Minh trĩu nặng tâm tư,
Thấm thoắt, anh vào vùng Bảy Núi này đã ngót năm,...
Cứ chiều chiều, lúc nhập nhoạng tối, khi đàn dơi loạng
choạng chao trên vòm cao mấy cây xoài cổ thụ, thì dàn cát-xet của một gia đình
trong khu tập thể cơ quan lại vang lên, hết ỉ eo những bài hát nhạc vàng rồi sang
nỉ non vọng cổ. Nghe mãi, chẳng buồn để ý, vô thức mà thành thuộc. Minh sở
thích chèo cổ, ghét cải lương vọng cổ, nhưng riêng bài Dạ cổ hoài
lang thì anh không thể làm ngơ. Từng chữ từng lời, thấm dần vào anh từ
lúc nào không hay "Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào
ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan
vàng quặn đau í a/ Như chim trời lẻ bạn... chim bay về... nơi vô định/ Trời xa
đất lạ trong mây khói mịt mùng/ Kiếp giang hồ mỏi gót phong sương/ Một chiều
qua bến lạnh bỗng nhớ tới một người...".
Minh nhớ mẹ và nhớ Nguyệt. Sâm sẩm nhớ mẹ, khuya là
nhớ em. Anh mang máng nhớ một câu thơ của ai đó vì nó đúng với tỉnh cảnh
của mình . Nhập nhoạng, khói lam chiều khiến anh nao lòng nhớ mẹ. Nhớ bóng mẹ
ra vào, dáng mẹ ngồi bên bếp lửa với chiếc que cời bếp rơm luôn tay. Nhớ hình
bóng mẹ tựa của, rồi chậm rãi ra đóng cổng lúc sẩm tối, mẹ biết lại thêm một
ngày nữa con trai mẹ mãi chân trời phương
2.
Một
trông mong vạn chờ mong,
chẳng
thà cứ gái chưa chồng cho cam
sông
kia dằng dặc trời
nước
mây vời vợi ai làm cho đau,...
Minh nghe vẳng vằng một giọng nữ đọc thơ., không xa mà cũng chẳng
gần, như đâu đó trong khu vườn thôi. Anh ngơ ngác "Ai dấy? Ai vừa đọc
thơ đấy?". Giọng nữ cất lên rất gần khiến anh giật mình "Ta
đây... ở gần ngươi thôi... nhưng ngươi không thấy đâu,... Ta cho ngươi mấy câu
thơ ta vừa ngâm để chắp nối với câu thơ mà ngươi ngâm nga chiều nay...".
Minh cố trấn tĩnh để không lộ vẻ sợ hãi "Nhưng bà... bà là ai? ... Sao
lại biết tôi làm thơ?... Sao lại tặng thơ bà cho tôi?,...". Giọng nữ
khẽ cười "Ngươi không biết ta đâu... Ta sống trước người những hơn hai
trăm năm ... Thơ ta vừa đọc ngươi cứ nhận lấy. nối tiếp vào thơ ngươi cũng hợp
cảnh hợp tình đó...". Nói rồi, giọng nữ cất lên đọc liền hai khổ thơ
với nhau, câu cuối như nghẹn lại trong nước mắt. Minh nghe rưng rưng, quên cả
sợ, tự cảm thân quen, muốn trò chuyện: "Thì bà ... cũng nên hiện hình
tỏ dung nhan .. hay cho biết quý danh để mà thưa gửi chứ ạ ?...".
Giọng nữ nhẹ nhàng, có chút ân cần "Ngươi thật biết phép tắc,... và
cũng hết sợ rồi đấy nhỉ,". Cười ôn hòa "Cứ từ tốn, trước sau
thì ngươi cùng biết thôi... Ta đến gặp ngươi thế này chẳng phải để chơi đâu ...
ắt phải có chuyện để nói chứ...".
Minh cố căng mắt, ngó nhìn quanh quất hòng nhận diện ngươi
đang nói chuyện với mình, nhưng chẳng thấy gì ngoài thứ ảnh sáng nhờ nhờ như
sương đục, loáng thoáng hình bóng những cây xoài, cây dừa, vú sữa, mãng cầu vẻ
quen quen. Không khí tĩnh lặng, Minh bỗng sợ, lên tiếng: "Bà... ba ở
đâu rồi?". Giọng nữ cười nhẹ: "Ta vẫn ở đây... Ngươi nhìn kỹ
chưa? Có thầy ta không? Thấy gì quen không?". Minh e sợ "Không
thầy bà... chỉ thấy cây cối quen quen thôi...". Cười to "Đã
bảo mà... thì cây cối trong vườn hàng ngày... người đi dạo, quét lá khô nấu
bếp, rồi leo trèo hái quả cả năm nay. không nhận ra sao được... Ta cho người
biết, cả khu vườn này có mười tám cây vú sữa, hai mươi bảy cây dừa và bảy mươi
hai cây xoài các loại, thêm ít cây lặt vặt khác ta không tính...Ngươi không
tin, mai đếm thử xem...". Minh vẫn nghi hoặc "Vậy là...ta vẫn
đang ở trong khu vườn của cơ quan tôi hay sao?". Hạ giọng "Thì
đúng thế ... Thực ra, ta chính là chủ nhà. Ta ở đây từ hai thế kỷ rưỡi nay...
còn ngươi mới là khách. Ta nhớ, ngươi đến sống ở đây còn chưa đầy năm kia mà...".
Minh ú ớ vâng dạ. Giọng nữ khẽ cười: "À, ta nhớ... người có mấy lần
giẫm lên nóc nhà ta để bám cành đu mình leo lên cây xoài cát cổ thụ ở vườn
sau ấy...". Minh ớ người cãi "Nhà nào nhỉ ?... Có nhà nào ở
vườn sau đâu? ... Tôi giẫm lên nóc nhà bà hồi nào? ". Cười trêu
"Người cũng giỏi cãi nhỉ... Chẳng lẽ ta đổ oan cho ngươi sao.... Ngươi
thử nhớ lại đi... Không tin, sáng mai, người ra gốc cây xoài cổ thụ vườn sau,
tìm xem thấy ở đấy có gì không? Chớ
vội cãi ngay thế... ". Minh nghi hoặc, chợt nhớ ra điều gì, vôi kêu
lên "Bà này, tôi nhớ hình như là..." Giọng nữ cắt lời, nghe xa
vọng lại "Ta có việc đi đây... Hẹn gặp ngươi sau... Cứ suy xét cho kỹ đã...
Rồi ngươi cũng sẽ biết về ta thôi.". Minh níu lấy "Nhưng tôi
đã mạo phạm... thì sao ạ"...". Cười xa xôi "Chớ lo... Ta
tạm tha cho ngươi cái tội mạo phạm giẫm đạp lên nóc nhà ta... Yên tâm và đợi
khi ta quay lại...". Minh vẫn chưa chịu "Nhưng bà cũng phải
gợi chút... thì tôi mới biết lối mà tìm... chứ mù mịt thế này tôi chẳng biết
manh mối ra sao,... tìm đến bao giờ? ", Lại cười "Ngươi
thật nhiều chuyện... Dạ cổ hoài lang, ngươi rõ rồi đấy... nhà ông Cao Văn Lầu
ấy nói hộ nỗi lòng của người vợ đợi chồng phu phen lính tráng thời tao loạn
binh đao ở vùng đất này ,... Sống chết gan tấc biết khi nào về mà chờ đợi cơ
chứ... Ta xưa cũng là người cùng cảnh ngộ... Chợt thấy ngươi thương cảm thành
thơ mà hiện về nói với ngươi đôi ba câu... Ngươi là người đọc sách, hẳn biết về
trận Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa, quân Tây Sơn đại phá liên quân Xiêm Nguyễn...
Thôi, ngươi chịu khó đọc lại sử sách tỉ tường... Đợi lúc ta quay lại còn có cái
để mà nói chuyện. Ta đi đây....".
Minh choàng tỉnh, ngồi phắt dậy. Bàng hoàng, định thần.
Người vã mồ hôi ướt đẫm. Nhìn ra cửa số phía trước nhà, lờ mờ. Trời sáng giăng
suông,...
3.
Đêm ấy, Minh
thấp thỏm không ngủ lại được nữa....
Nghĩ miên man, điểm lại từ ngày anh chào mẹ khoác ba lô
hành phương
Cơ quan đóng tại một khu nhà vườn rộng chừng gần hec-ta,
rợp xanh bóng dừa, xoài, vú sữa, mãng cầu xiêm... Nghe nói, chủ cũ của khu nhà
vườn này chạy sang Mỹ định cư thời điểm kết thúc chiến tranh giải phóng miền
Sáng trở dậy, Minh dạo quanh khu cơ quan, rồi lượn về vườn
sau, nơi có mấy cây xoài cát cổ thụ. Nhìn quanh, vạch cỏ dại, anh tìm thấy đám đất
mấp mô lẫn gạch xây chẳng ra hình thù gì. Minh gai người, nhẩm bụng, đoán mò nơi
đây từng có một ngôi mộ hoặc miếu thờ cổ nào đó.
Nhớ lời người đàn bà gặp trong mơ, Minh bắt đầu tìm hiểu về lịch sử vùng đất.
Chuyện tiên chúa Nguyễn Hoàng xưa nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", xin chúa Trịnh
Kiểm bỏ xứ Bắc vượt Đèo Ngang vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558 thì Minh biết,
nhưng trải mấy trăm năm qua chín đời chúa Nguyễn đến Nguyễn Phúc Ánh, mở mang
bờ coi phía Nam vào trấn Gia Định và châu thổ Cửu Long giang, Chân Lạp xưa thì
anh không mấy tường. Việc tìm tòi sách vở và tra cứu tài liệu cũng không
dễ chút nào. Lần mò rồi Minh cũng tìm được nguồn tài liệu từ những cuốn sách sử
in trước năm 1975 của một người quen ở Sài Gòn. Lịch sử triều Nguyễn mở ra
trước mắt anh, nhất là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, công cuộc chinh
phạt phương Nam của ba anh em nhà Tây Sơn và cả hành trình gian truân nguy hiểm
để phục quốc của chúa Nguyễn Ánh. Minh chú tâm đọc kỹ phần viết về trận Rạch
Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của Nguyễn Huệ đại phá liên
quân Xiêm-Nguyễn, xem có gì đặc biệt mà người đàn bà xuất hiện trong mộng mị. nhắc
đến...
Ngày xưa, tháng Chạp năm Giáp Thìn sang Ất Tỵ, giao năm
1784-1785, trên khúc sông Tiền, Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 7
cây số, nơi lòng sông rộng, lại có cù lao. thích hợp cho việc ém quân để quân
Tây Sơn bố trí trận địa. Liên quân Xiêm-Nguyễn mắc mưu quân Tây Sơn nhử đến
trận địa này, bị phục binh Tây Sơn chặn cứng hai đầu, dồn ứ lại, làm mồi cho
hỏa pháo Tây Sơn tiêu diệt. Chỉ trong vòng một ngày, Nguyễn Huệ chỉ huy
quân Tây Sơn phá tan và tiêu diệt gần 5 vạn liên quân Xiêm-Nguyễn. đông gấp đôi
quân mình. Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân thoát
chết chạy ngược lên đất Quang Hóa (nay là Tây Ninh) sang đất Chân
Lạp để về Xiêm La. Còn Nguyễn Ánh thì cùng đoàn tùy túng phò tá tháo chạy khổ
sở đói khát, đến nỗi tướng Nguyễn Văn Thành phải đi cướp của dân lấy miếng ăn cầm
hơi, đến nỗi bị dân đánh trả mà trọng thương. Gần năm ngàn quân còn lại chưa
đây một ngàn, tan tác cả, phần chạy theo quân Xiêm, nhúm quân theo Nguyễn Ánh
chạy dạt về cuối đất, trốn ra đảo Thổ Chu. May mà quân Tây Sơn đuổi theo bị bão
biển đánh tan thuyền nên Nguyễn Ánh thoát nạn, bôn ba nhiều năm, chờ thời cơ
nhà Tây Sớn có biến, lấy lại cơ đồ...
Minh cứ ngẫm nghĩ, mảnh đất khu nhà vườn này chắc liên quan
gì đến quan quân chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn chinh phạt vùng châu thổ này.
Nhưng lịch sử đâu có chi tiết đến mức có thể tra cứu rõ được. Đành chơ cơ duyên
thôi.
4.
Đầy
năm, Minh nghỉ phép, ra Bắc. Lần đầu tiên, anh cảm nhận được niềm vui. niềm
hạnh phúc của kẻ xa nhà về cả khoảng cách và thời gian khi gặp lại mẹ và người yêu. Già nửa tháng.
Minh tính toàn, phân bổ sao cho hợp lý để ở bên mẹ, giúp mẹ làm việc nhà với
thời gian dành cho người yêu đang dạy học ở một trường xa dăm chục cây số.
Trong niềm vui thường nhật những ngày bên mẹ và gần người yêu, nhưng ẩn chứa
trong sâu xa, Minh lại thấy nhớ miền Tây sông nước, nhớ khu vườn xanh um cây
trái, vắng vẻ và chập chờn ma mị ấy. Chẳng gì, anh cũng đã có bao chiều cô đơn,
bao đêm hoang hoải, mất ngủ vì nhớ Bắc và sợ bóng tối. Con người ta lạ thế đấy,
vui quá và sợ quá đều đem đến sự ám ảnh khôn cùng. Kỳ nghỉ gần hết, Minh bỗng
thấy ngại khi nghĩ đến việc phải trở lại khu vườn ma mị sống tiếp những ngày
khắc khoải, những đêm say để ngủ cho quên nỗi sự, những phút giờ hoang vắng đếm
tiếng tắc kè tặc lưỡi bóng tối. Minh phân vân khi mẹ bảo ở lại thêm, còn người yêu
thì nhắc nhở rằng chậm phép có thể bị cơ quan kỷ luật vì tội vô tổ chức...
Nhưng rồi, Minh cũng dứt ra được, trả phép tuy có chậm ít ngày. Thấy anh ba lô
trở vào, ông trưởng phòng người địa phương cười đùa "Tưởng cậu ở luôn
ngoải... Vô lại thế này là được rồi... Có vợ chưa? Sao không đưa vô đây... tớ
nói với Ủy ban huyện cấp cho miếng đất cập lộ, cất cái nhà tạm, chồng làm cơ
quan, vợ mần buôn bán vặt. ... Sống khỏe à...". Minh cười cầu
tài cảm ơn. Không nhắc nhở, kỷ luật gì là ổn rồi.
Mấy nhà người
quen, diện chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc, thấy Minh vào lại, hè nhau nhậu, bảo
là để mừng anh không đào tẩu. Buồn vui lẫn lộn, Minh quá chén say đứ đừ, thập
thõm gắng gượng khuya về đến phòng, đổ ập xuống giường, say ngủ mê
man...
Dưới gốc dứa, hóng gió mát, Minh
ôm cây ghi ta bập bùng. Anh lựa gạm thử mấy nốt theo một điệu vọng cổ, chợt
nghe giọng đàn bà "Đàn này không hợp đâu, phải dùng đàn phím lõm kia.".
Minh giật mình, ngừng bặt "Ôi, đúng là bà rồi... Tôi vẫn nhớ giọng bà
mà...". Cười nhẹ "Vậy là người vẫn nhớ, khen cho ngươi... Về
quê vui chứ?" Minh ngạc nhiên "Quê nào... Tôi vừa nghỉ phép ra
Bắc ít ngày... ". Cười thành tiếng "Quê đấy chứ đâu...
thăm mẹ thăm vợ thì hẳn vui lắm nhỉ". Minh cãi "Mẹ thì đúng
rồi, nhưng ... bạn gái thôi, tôi đã cưới đâu mà vợ ?". Giễu cợt
"Ngươi chưa cưới vợ, ta biết.... nhưng ăn nằm với người ta thì cũng nên
coi người ta là vợ... thế lấy của người ta cái ngàn vàng rồi định bỏ người ta à
?...". Minh cứng họng ú ớ "Sao... bà cũng biết à ?".
Cười nhạt "Thì ta là ma... dương gian các người hay bảo, biết ma ăn cỗ
lúc nào... nhưng ma lại biết rõ các ngươi ăn cỗ thế nào kia đấy". Cười
ma mãnh, Minh ớn lạnh cả người "Tôi yêu cô ấy, muốn cưới làm vợ...".
Vẻ chân thành "Ta tin ngươi thật bụng... nhưng đời còn dài mà... lòng người
dễ thay đổi". Im lặng một lúc. Người đàn bà "Ta đến đây không
phải để chuyện yêu đương của ngươi... Thế ngươi đã biết sử sách bao nhiêu rồi
?" . Minh hào hứng "Không nhiều, nhưng cũng đủ biết
về trận Rạch Gầm Xoài Mút, nhà Tây Sơn đại phá 5 vạn quân Xiêm-Nguyễn,... biết
chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy dài trốn chui trốn lủi ra đảo Thổ Chu thế nào...".
Mỉa mai "Người có vẻ đắc ý nhỉ... Ai dạy dỗ ngươi mà cao giọng
vậy... làm được vài câu thơ mà giọng đầy thiên kiến vậy... Lịch sử vốn không
thiên vị ai...", Minh hăng lên "Tôi không thiên kiến, rõ ràng
nhà Tây Sơn, nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ, đệ nhất anh hùng, ra Bắc dẹp
Trịnh, vào Nam đuổi Nguyễn, trước quét sạch quân Xiêm, sau đại phá quân Thanh... Thử hỏi, trời
5.
Minh tỉnh cơn mơ. Cảm nhận đầu
đau nhức, nặng trịch. Hơi thở vẫn nồng mùi men. Chắc rượu uống lúc chiều là
loại rượu kém chất lượng được lên men từ nguyên liệu ri đường. Ngọn đèn dầu hỏa
đỏ cạch gió lùa cửa sổ sáng lay lắt. Người váng vất khó chịu. Anh lôi vội chiếc
xô nhựa dưới gầm giường nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng. Minh mệt lả
người, nằm im, lần hồi nhớ lại giấc mơ ...
Minh những tưởng, giấc mơ ngày
nào gặp người đàn bà tự xưng là chủ khu vườn từng có miếu thờ ngay trong vườn
này sẽ không bao giờ lặp lại. Vậy mà anh lại mơ thấy bà ta, tiếp nối câu chuyện
bỏ dở từ lần trước. Anh vẫn bị ám ảnh bởi bầu không khí bí ẩn của khu vườn và
câu chuyện đằng sau nó. Minh ngẫm nghĩ, có lẽ sự hoang vắng của khu vườn
cộng hưởng với âm khí từ cái nghĩa địa ngay phía sau nhà anh ở đã ám thị anh
thành mộng mị. Song những hiểu biết về lịch sử anh đọc ít nhiều được tái hiện
vào câu chuyện với người đan bà trong mộng khiến anh nghi hoặc về nguồn gốc khu
vườn này và những chủ nhân của nó qua máy thế kỷ. Những người quanh đây, cũng
chỉ biết lơ mơ về người chủ bỏ xứ sang Mỹ định cử khi kết thúc chiến tranh phân
miền, chứ không ai biết sâu xa hơn về nguồn gốc, liệu rằng các người chủ trước
nữa có phải huyết thống trực hệ là nối nhau sống nhiều đời ở đây hay là đã sang
nhượng thay tên đổi chủ.
Riêng có chi tiết trong mộng mị
của anh thì nhanh chóng xác định được ngay. Ngay hôm sau, anh theo lối mòn vạch
rào ngó sang nghĩa địa phía sau thì quả nhiên thấy ngôi mả mới thật. Cũng không
khó để xác định người nằm dưới mộ ấy là ai. Chị người quen cũng cơ quan sống kế
bên chợ An Lạc xác nhận, thời điểm Minh đi phép Bắc, có một chị chuyên bán đồ
khô ở chợ An Lạc bị cảm đột ngột rồi mất, và nghe nói chồng chị ta trước đây là
sĩ quan Ngụy chết trận. Đối chiếu với giấc mơ của mình, Minh thấy không sai.
Chi tiết này là có thật, thì câu chuyện dài trong mộng mị kia có cơ cở để
tin...
Sau lần ấy, Minh không hề mơ thêm
gì nữa, mặc dù anh có ý trông chờ. Công việc, cuộc sống biến động, anh dần lãng
đi, mặc dù đâu đó trong những đêm khó ngủ vì nhớ nhà, vì lo tính công việc, nó
vẫn thảng về trong ý nghĩ của anh. Mối tình của anh và Nguyệt cũng không thành
sau vài ba năm chờ đợi. Nguyệt chủ động chia tay anh vì lý do từ gia đình. Minh
níu kéo không nổi đành buông tay... Nguyệt về Hà Nội theo khóa cao học, rồi xin
việc mới, không trở lại trường cũ. Chuyện tình đổ vỡ, Minh không đổ lỗi cho
việc anh đã vô tình tặng kéo cho Nguyệt, bởi một lần vì không biết, anh đã mua
tặng cô chiếc kéo thợ may cùng bộ sách hường dẫn cắt may, thước vải, và dụng cụ
may, gửi qua bưu điện để cô tập lúc rảnh rỗi. Sau anh mới biết, người ta bảo,
người yêu nhau kỵ nhất việc tặng dao kéo và khăn tay, bởi dao kéo sẽ cắt đứt tơ
duyên, còn khăn tay là để lau nước mắt chia tay, ly biệt... Minh có nghĩ đến
lời tiên đoan của người đàn bà trong mộng về sự tan vỡ mối tình của anh với
Nguyêt, chỉ cảm thấy buồn nhớ những năm tháng ở đấy...
Nhưng cũng vì gắng níu kéo
mối tình với Nguyệt mà anh quyết tâm ra Bắc. Anh bỏ lại quá khứ với khu vườn,
bỏ châu thổ mênh mông sông nước cùng những điệu vọng cổ da diết buồn, bỏ Dạ
cổ hoài lang sầu bi não nùng....
Hơn hai mươi năm sau, Minh mói có
dịp trở lại vùng đất Bảy Núi, nhân chuyến công tác miền Tân Nam bộ. Anh tranh
thủ thăm gặp những người quen cũ. Vài người trong số thân quen của anh ngày ấy
đã khuất bóng. Biết tin cơ quan cũ của anh đã chuyển đi nơi khác, còn khu vườn
ấy được huyện quy hoạch xây dựng thành trường dân tộc nội trú. Minh muốn thăm
lại nơi cũ. Anh nói qua lý do và xin phép người bảo vệ được vào hẳn sân trường.
Anh đứng tần ngần, quan sát khắp lượt, hình dung lại cảnh xưa, người cũ, đâu là
hàng dừa, vườn xoài, đâu là căn nhà có phòng anh ở, và đâu từng là chỗ cây
xoài cát cổ thụ dưới gốc có đám gạch xây long lở, vết tích của một ngôi
miếu cổ. Bao nhiêu chuyện cũ, hình ảnh xa mờ bỗng hiện về rõ nét trong đầu
anh... Người bảo vệ đến bên anh, bảo "Chẳng còn dấu vết cũ, anh hỉ".
Minh cười buồn, cảm ơn người bảo vệ...
Minh còn trở lại vùng đất này
nhiều lần. Anh cũng có thơ ghi lại cảm xúc của mình. Giờ đây, mỗi khi nhớ
về vùng đất ấy, anh thầm gọi miền xanh thăm chân mây... ./.
Nhận xét
Đăng nhận xét