Lưu trữ tư liệu,
Ký sự đường xa,
@@@
Lối thu
(
Ký sự đường xa )
Lần đầu đến nước Pháp
1.
Chơi vườn Lucxembourg
Vườn Lucxembourg tôi đã biết nó khi theo chân chàng Ma-ri-uyt rón rén bám đuổi cái bóng nàng Cô-dét trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo. Vườn Lucxembourg tôi đã biết với đoạn văn nổi tiếng mà những thế hệ trước tôi hay nhắc đến của nhà văn Anatole France (Giải thưởng Nobel năm 1924) từ bản văn Bóng xưa: “… Tôi sẽ nói với bạn những gì tôi thấy khi qua vườn Lucxembourg những ngày đầu tháng mười. Vườn Lucxembourg hơi buồn nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết. Những lá vàng, từng chiếc, từng chiếc rơi đầy hai vai những pho tượng…”
Với riêng tôi, có gì đó vừa tuyệt đẹp lại xa vời, ngỡ
như chẳng bao giờ mình được thấy tận mắt. Vậy mà, giờ thì tôi đang đứng trong
vườn Lucxembourg rồi!
Thực ra, khi vừa mới ở ga metro hay R.E.R gì đấy dưới
lòng đất
Dạo mãi trong vườn chưa thỏa, mấy chúng tôi nảy ra ý
định hơi điên rồ là thả bộ vòng quanh hàng rào phía ngoài vườn ngắm cảnh phố
phường. Phía đông là Boulevard Saint Michel (đại lộ Thánh Misen) sầm uất, ranh giới của hai quận 5 và 6. Phía
Bắc là Rue Medicis và Rue de Vaugirard, hai phố này án ngữ mặt chính của vườn.
Phía Tây là Rue Guynemer và Rue d’Assas. Còn mặt
Với thời gian chừng tháng rưỡi ở
2. Mùa đông nói chuyện tuyết
Người xưa bảo, con người ta cứ thiếu cái gì thì thèm
cái ấy. Chắc là đúng, bởi cha ông ta đã chiêm nghiệm chán chê rồi mới phán vậy.
Trong khi người xứ hàn đới thèm cái nắng vàng rực rỡ trên bờ biển mênh mông và
bầu trời trong xanh cao thẳm của xứ nhiệt đới, thì người xứ nhiệt đới hoặc vùng
xích đạo lại khát khao được ngửa mặt mà đón nhận những bông hoa tuyết trắng xốp
mát lạnh…
Và tôi, tôi cũng vậy. Ngày nhỏ, chỉ
nghe người lớn nói tuyết, rồi lớn lên tý chút lại đọc về tuyết qua những câu
chuyện như Nàng Bạch Tuyết và bảy chú
lùn, và những câu chuyện trong Truyện
cổ Grim, Truyện cổ tích An-đec-xen
hay như các tác phẩm Rừng thẳm tuyết dày,
Tiếng gọi nơi hoang dã v.v… Sau này thì qua phim ảnh, nhất là những bộ phim
của Liên Xô sản xuất, phim nào mà chẳng có cảnh tuyết. Chao ơi, không biết tý
gì thì cái thèm chỉ một, những đã he hé biết đôi chút rồi thì cái thèm, cái
khao khát bằng mười, bằng trăm kia !...
Thế rồi, tôi cũng biết thế nào là
tuyết. Những bông tuyết thực sự chứ không phải là tuyết trong chuyện kể, trong
sách báo, phim ảnh. Ấy là vào đầu đông năm 1996, khi tôi được cử tham gia một
khóa học nghiệp vụ báo chí tại Pháp. Những ngày đầu đặt chân tới
Những thật may mắn, tôi và một đồng
nghiệp nữ được mời tham dự một triển lãm về radio có tên gọi là Radio-ngã tư quốc tế do câu lạc bộ sóng
ngắn vùng Auvergne tổ chức tại thành phố Clermont Ferrand thuộc miền trung
Pháp, nghe đâu gần biên giới Thuỵ Sỹ và cách Lyon không mấy xa. Hôm gọi điện
lên Paris liên hệ với chúng tôi, ông Jean Piegant, chủ tịch Câu lạc bộ sóng ngắn vùng Auvernge có
dặn là ở dưới đó rất rét, tuyết đang rơi dầy nên khi xuống nhớ mặc cho thật ấm.
Xuất phát từ nhà ga xe lửa phía nam Paris (Gare
de Lyon) từ rất sớm. Tàu hỏa xuôi hướng nam, tuy không phải là TGV song
lắng nghe âm thanh và nhìn cảnh vật hai bên đường, tôi đồ rằng tàu đang chạy
với tốc độ chừng 120 km/h. Trời rạng sáng thì đã xa
Rời Clermont Ferrand, chúng tôi đáp
tàu về
Những tưởng thế thôi, cho đến lúc về chẳng
còn thấy tuyết. Song khi chỉ cách Noel chục ngày,
Ngày ấy đã thành xa. Mấy năm nay, mùa đông
về, đôi khi Sapa (Lào Cai ), Mẫu Sơn ( Lạng Sơn ), Nguyên Bình ( Cao Bằng ) đều
có tuyết rơi. Đặc biệt mùa đông năm 2007, rét kỷ lục khiến khắp miền đông nam
Trung Hoa và cả miền núi Bắc Việt
Phong, hoa, tuyết, nguyệt từ ngàn đời
nay đã bất tử cùng thi họa Trung Hoa. Quả là tuyết đã làm nên bao áng thi văn
bất hủ. Tuyết đã thành máu thịt ruột rà của người dân, là một phần của văn hóa
xứ hàn đới. Người ta đã lo ngại nạn ô nhiễm môi trường tràn lan toàn cầu dẫn đến
biến đổi khí hậu, băng Bắc Cực tan chảy sẽ nhấn chìm một phần lục địa, và một
ngày kia mùa đồng không có tuyết rơi.
Nếu như một ngày kia, thế giới sẽ là gì nếu mùa đông không còn tuyết nhỉ
?!...
3. Tàu điện, giao thông hay là văn hóa ?
Tôi
nhớ, vào những ngày cuối cùng của năm 2006, có hai thông tin gây nên trong tôi
cùng một xúc cảm . Đó là, Hà Nội công bố khởi công xây dựng ga đầu mối tuyến
metro đầu tiên tại Nhổn và
Sở dĩ hai tin ấy lại gây cho tôi một cảm
xúc chồng lấn là bởi, tôi đã có cả một thời tuổi thơ sống với xe điện Hà Nội và
nhiều ngày lặn ngụp trong những tuyến metro ngầm của
Trở lại mươi năm trước, tôi cùng đồng
nghiệp báo chí có vài tháng trời ngang dọc
Dạo ấy, mỗi khi ngồi trên metro vun
vút trong lòng đất Paris, tôi lại nhớ về những tuyến xe điện thô sơ leng keng đi
về sớm tối với những tuyến Bờ Hồ-Chợ Mơ, Bờ Hồ- Hà Đông, rồi Yên Phụ, Bưởi, Vọng của Hà Nội thuở nào, mà cũng lại
do người Pháp khởi nguồn từ thời Pháp thuộc. Ngày nhỏ, nhà tôi ở ngõ Trúc Lạc
trên phố Phó Đức Chính, thế là mỗi khi đi đâu, tôi lại được bố mẹ, các chị dắt đi
tắt qua ngõ Năm Gian ngược dốc lên đê Yên Phụ để đi tàu điện. Cứ thế leng keng,
những chuyến tàu cũ kỹ đi về suốt tuổi thơ tôi, và nó càng da diết khi gia đình
tôi rời thành phố về quê Hưng Yên sinh sống. Leng keng, bền bỉ, nhẫn nại khuya
sớm tàu điện suốt cả thời bom đạn Mỹ, mãi đến yên hàn thống nhất đất nước... Rồi
tuổi sinh viên tôi lại lấy đó là phương tiện đi lại chính với những kỷ niệm khó
quên của những lần trốn vé, nhảy tàu ...
Hồi đó, ở
Rõ ràng, metro không chỉ là dấu hiệu của
một xã hội công nghiệp văn minh, đem lại
hiệu quả to lớn về kinh tế, giảm ô nhiễm và tắc nghẽn giao thông đơn thuần mà còn
có bóng dáng của văn hóa. Với người Pháp, với hệ thống metro văn minh như vậy,
song họ lại cho sống lại một hệ thống tàu điện nổi dọc bờ sông Xen, thì ngoài
việc góp phần giảm lượng xe hơi, tăng hiệu quả giao thông, giảm ô nhiễm, có một
mục đích nữa nhắm tới là văn hóa-du lịch. Du khách đến
Ngẫm người lại nghĩ đến ta. Với tình
trạng giao thông quá tải, lộn xộn và ô nhiễm nặng của Hà Nội hiện nay, tôi đã từng
mơ đến một ngày kia xa vời là có metro. Giờ thì giấc mơ ấy không còn vô vọng nữa,
dù vẫn phải chờ đợi lâu. Nhưng tàu điện nổi, Hà Nội đã từng có một thời, sao lại
không hồi sinh bây giờ nhỉ ?
4. Có một người văn Việt ở Paris
Mùa đông năm 1996, tôi cùng vài ba đồng nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam sang Pháp học nghiệp vụ báo chí, trước khi đi, nhà văn Ngô Tự Lập có nhờ tôi chuyển thư cho một người quen ở Paris là Đặng Văn Long và bảo: “Anh nên đến chơi thăm anh Long. Anh ấy tốt lắm, cũng có viết văn...”. Sang rồi, theo số điện thoại Lập cho, tôi gọi điện. Một giọng nói nhỏ nhẹ, thân thiện trả lời. Anh Long mời chúng tôi đến chơi nhà, và sợ chúng tôi bỡ ngỡ, lạc đường nên vẫn cố đến đón chúng tôi.
Đúng hẹn, chúng tôi ra điểm hẹn bến xe buýt ngay cửa
ga metro Croix de Chavaux thuộc quận
ngoại ô Montreill. Một người đàn ông đứng tuổi nhỏ thó, da trắng xanh, thọc tay
vào túi áo khoác đi đi lại lại loanh quanh cho đỡ rét, chăm chăm nhìn chúng
tôi. Người Việt mình. Đúng là anh Long. Thế là chúng tôi nhận ra nhau. Anh ở
cách đấy chừng vài ba chặng xe buýt cũng thuộc Montreill, một căn hộ 7 buồng
trên tầng 9 của chung cư. Khi đó, anh cho một thực tập sinh Việt của Viện quân
y 103 ở nhờ. Phòng khách rộng, treo mấy bức tranh thư pháp, anh bảo là của đạo
diễn – nhà thơ Đỗ Minh Tuấn và vài người quen khác từ Việt Nam sang công tác
ghé chơi, tặng lại. Hôm ấy, anh giữ chúng tôi ở lại dùng cơm, chỉ chúng tôi lấy
thực phẩm sẵn trong tủ lạnh và dặn hãy nấu những món ăn đặc Việt. Bữa cơm giản
dị, ấm cúng tình người. Quen nghe anh xưng anh là cũng gọi theo vậy, song không
ngờ anh đã 74 tuổi, sang Pháp từ hơn 50 năm trước. Khi thấy chúng tôi đổi cách
xưng hô, anh bảo, không cần thiết, cứ gọi thế cho thân mật, với lại anh đang
mong ước được trẻ lại để còn hy vọng một lần về thăm quê hương bản quán.
Trong câu chuyện, anh cho biết, vốn quê Hải Dương,
sinh năm 1919, năm 1940, bị Pháp bắt lính, đưa xuống tàu há mồm cùng bao thanh
niên Việt sang Pháp làm lính thợ. Những lính thợ người Việt khi ấy bị đưa sang
châu Phi, đi đến một vài xứ thuộc địa Pháp để phục vụ công cho quân đội viễn
chinh Pháp, rồi sau đó lại trở về Pháp tiếp tục kiếp lính thợ. Sau năm 1947,
giải ngũ định cư tại Pháp, anh có làm một số công việc, chủ yếu là lao động
giản đơn. Rồi lấy vợ Pháp, một người đàn bà thuộc tầng lớp lao động bình dân,
có hai con. Lúc bấy giờ, vợ anh đã mất chừng dăm năm, con gái lấy chồng sống
bên Bỉ, con trai lấy vợ sống trong nội thành
Anh cho chúng tôi xem một tập thơ của anh, rồi khoe là
có một cuốn tiểu thuyết nhan đề Lính thợ
ONS vừa được NXB Lao động ấn hành tại Việt Nam, và hiện anh đã viết được
chừng 500 trang một cuốn sách khác về người Việt Nam ở Pháp. ( 2 năm sau, cuốn sách có nhan đề “Người Việt
Thực ra, sau khi giải ngũ khỏi kiếp kính thợ, vì mặc
cảm với thân phận mình nên suốt bao năm trời cắm đầu nơi xứ người mà sống, đến
lúc tuổi cao sức yếu bệnh tim đeo đẳng dù nhờ quê hương bản quán lắm lắm song
cũng không thể về được nữa. Anh tâm sự, thôi thì chỉ còn cách giãi bày, trút
hết nỗi niềm thành kính, thương yêu da diết Tổ quốc, quê cha đất tổ bằng ngòi bút,
viết nên những điều tâm huyết nhất. Cũng chẳng biết rồi những gì mình viết ra
giá trị đến đâu, chỉ biết, khi viết, mình đăm đăm với ý tưởng vạch rõ bộ mặt
thật của thực dân, đế quốc và mong muốn thể hiện đức tính trung trinh, can đảm,
chịu thương chịu khó để vượt lên số phận của người Việt mình dù trong bất cứ
cảnh ngộ nào. Âu cũng là cách trả nghĩa công sinh thành của cha mẹ, quê hương
của người con tha hương...
Có lẽ, cũng
chính vì lẽ ấy, tôi không gọi Đặng Văn Long là nhà văn, mà gọi anh là người
văn, là để nhấn tới tính cách con người, một người Việt yêu nước, hơn là sự
đóng góp về văn chương trong anh, cùng còn bởi, tác phẩm của anh có giá trị tư
liệu hơn là gí trị về văn học .
Tôi nhớ, hôm chúng tôi đến thăm anh lần cuối trước khi
về nước vì biết rằng khó có ngày gặp lại, anh bồi hồi chìa bàn tay già nua nhăn
nheo để chúng tôi nắm.
Kể từ ấy, đến nay đã dăm năm trôi qua, tôi vẫn luôn có
tin tức về anh qua những người quen, phần đông là dân báo chí, văn nghê, chúng
tôi vì mỗi dịp đến Paris đều ghé thăm căn hộ của anh Long. Trước lễ Giáng sinh
năm nay (2002) chừng nửa tháng, có tin anh Long qua đời ở độ tuổi ngoại tám
mươi. Thế là ngưng đập một trái tim đau, một trái tim tha hương luôn hướng về
nguồn cội. Thì cứ cho rằng, những trang văn, trang sử anh viết chỉ là vì yêu
tha thiết con người và quê hương đất Việt, và như anh tự nhận, là nghiệp dư đi
chăng nữa, thì cái chúng ta biết đến và quý trọng ở Đặng Văn Long là tấm lòng
kia mà!...
Vậy là, từ tết Nhâm Ngọ, anh không còn được vọng xuân
dân tộc như bao xuân trước, và ước mong một đời của người con xa xứ được một
lần trở về thăm quê của anh không thành. Nhưng đấy là chuyện của một con người
bằng xương bằng thịt. Chứ thực ra, nói theo tâm linh người Việt chúng ta, thì
giờ đây, anh đã thuộc về hư vô,và ở cõi ấy, chẳng cần phải tàu há mồm, cũng
không cần máy bay, anh hoàn toàn tự do trở về quê hương, không ràng buộc bởi
bất cứ thứ gì. Vả lại, với Đặng Văn Long, tất thảy những gì anh viết trước đấy
thực sự là sự trở về với cội nguồn rồi!...
Trở lại xứ gà trống Gô-loa
1. Le
Procope, quán café lâu đời nhất châu Âu
Tôi bắt đầu ký sự “Trở lại
xứ Gà trống Gô-loa” của mình bằng bữa tiệc chiêu đãi của phía bạn Pháp với
Đoàn cán bộ Việt Nam trong đợt học tập ngắn hạn ( 06.10 - 21.10.2012 ) tại cộng
hòa Pháp, trường L’ ENA ( Trường Hành chính quốc gia Pháp ).
Đơn giản, bởi bữa tiệc chiêu đãi này là hoạt động cuối
cùng trước khi lên máy bay về nước của của đoàn cán bộ Việt Nam tham dự khóa đào
tạo về “ Cải cách hành chính công “
theo chương trình 165 của ta, tại một quán café-restaurant lâu đời nhất châu Âu.
Thêm nữa, với riêng tôi, Le Procope gây
ấn tượng mạnh mẽ hơn là những công trình văn hóa-tôn giáo lâu đời và nổi tiếng
mà ai cũng biết như : Tháp Eiffel, Khải hoàn môn, Bảo tàng Luvre, Nhà thờ Đức Bà,
Nhà hát Opera... Tôi xin được nói ngay lý do vì sao Le Procope lại gây ấn tượng
mạnh nhất với tôi trong chuyến trở lại nước Pháp sau 16 năm...
Ấy là, những thông tin sau đây, có thể
không mới với nhiều người, song với tôi, nó làm sống dậy cả một thời kỳ lịch sử
lâu dài của nước Pháp, góp phần làm thay đổi châu Âu và thế giới :
Le
Procope được thành lập từ năm 1686, bởi một người gốc Palermo, Italia có tên
là Franceso Procopio Dei Coltelli, tại số 13 Rue de l’Ancienne- Comédie, Paris
( xưa là Rue des Fosses Saint- Germain
). Đây là quán café lâu đời nhất châu Âu, và không
chừng, lâu đời nhất thế giới còn tồn tại đến ngày nay cũng nên ( tôi không dám chắc điều này, mặc dù người
Pháp vẫn tự hào cho là vậy ).
Nơi đây, từng là chỗ lui tới thường
xuyên của nhiều nhân vật lẫy lừng thế giới, đó là, các triết gia, văn sĩ, thi
nhân: La Fontaine, Jean-Jacques Rousseau, Voltaire, Victor Hugo, Musset,
Verlaine , Flaubert, Balzac, Anatole France …; các nhà hoạt động cách mạng và
anh hùng: Robespierre, Danton, Marat và Napoleon Bonaparte... Và người ta cho rằng,
tại đây, nhà tư tưởng-nhà văn Diderot đã soạn cuốn “Từ điển bách khoa toàn thư”, chính trị gia Benjamin Franklin đã
viết Hiến pháp Hoa Kỳ, còn thi sĩ Paul Verlaine thường nhâm nhi café và trí tưởng
bay bổng cùng những vần thơ của tập La Bonne Chanson ( Bài hát hay ), và Napoleon Bonaparte thì đã từng vội vã bỏ quên chiếc
mũ đội đầu khi vị anh hùng này mới là viên trung uý pháo binh...
Rồi đó, chiếc phin pha café được ông chủ quán đầu tiên sáng chế ra và áp dụng tại quán này, sau dần lan truyền khắp thế giới đến ngày nay; và nữa, là những kỷ vật, bút tích của những con người lỗi lạc còn được lưu giữ tại đây, ngay cả những khẩu hiệu cho cả loài người, được các vị lãnh tụ cách mạng tư sản Pháp đề xướng là Tự do-Bình đẳng-Bác ái ( Liberté, Egalité, Fraternité )...
Chừng ấy thôi, cũng đủ làm nên một Le Procope lừng danh thế giới. Thử hỏi, được
ngồi ăn và nhâm nhi café trong một quán như vậy, làm sao không xúc động cơ chứ !?
Trở lại với bữa tiệc hôm ấy. Sau lễ
trao giấy chứng nhận khóa học tại Trường L’ ENA, ông Chủ nhiệm khoa Quan hệ quốc tế của trường cùng các cộng
sự cho hay là mời đoàn cán bộ Việt Nam đi dự tiệc bế mạc chia tay tại một nhà hàng
nổi tiếng nhất Paris. Nghe vậy, tôi chỉ nghĩ là họ sẽ đưa đến ăn tại một quán ăn
đặt trên tầng chót vót của toà nhà Montparnasse cao nhất
Bữa
tiệc ấy, trường L’ENA đã phải đặt chỗ trước cả tuần. Bên ngoài, cùng với biển tên
quán, còn có tấm biển đá to hình tròn ghi danh các danh nhân từng là khách hàng
của quán trong lịch sử tồn tại 326 năm đến nay của mình. Quán đã đông kín, trừ
hai dãy bàn dành cho đoàn cán bộ chúng tôi. Tiệc khai vị có món khoai tây chiên
và rượu mứt quả truyền thống của nhà hàng. Món ăn chính là sa-lát cá hồi và các
sác-đin hầm khoai tây, nhắm cùng vang Pháp, bánh mì đen. Bữa tiệc đầm ấm, mọi
người rì rầm nói chuyện với nhau, chủ yếu là về văn hóa và ẩm thực của hai nước
Việt-Pháp. Tráng miệng có nho và đặc biệt là tách café Brésil trứ danh của quán.
Phía bạn ngỏ ý muốn được thưởng thức dân ca Việt
Tàn
tiệc, tôi còn nấn ná lại phía sau, cùng người phiên dịch tiếng Pháp ngó nghiêng
chụp ảnh một số kỷ vật lưu giữ ở quán.
Chụp
pô ảnh kỷ niệm trước cửa quán, rồi chạy gằn cho theo kịp đoàn, tôi thầm nghĩ, một
ngày nào đó, sẽ quay trở lại nơi đây...
2. Giao thông Paris
Đi
đến bất cứ nơi nào, dù là trung tâm đô thị hoặc vùng xa xôi hẻo lánh, thì thứ
người ta phải vập mặt đầu tiên là Giao thông.
Lần
trở lại Pháp này, phải trải qua chuyến bay đêm kéo dài khoảng 12 giờ đồng hồ của
Vietnam Airlines ( từ 11 rưỡi
đêm giờ Việt Nam tại Nội Bài đến 6 rưỡi sáng hôm sau theo giờ Pháp tới sân bay
Charle de Gaulle, lệch nhau 5 múi giờ ).
Lần trước
sang Pháp vào cuối thu năm 1996, ấy là lần đầu tiên tôi đặt chân đến xứ sở Gà
trống Gô-loa và đồng thời cũng là chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi. Khi ấy, tôi
chưa có kinh nghiệm gì, lại thêm cảm giác lạ lẫm nên suy nghĩ, thức ngủ lộn xộn.
Tôi nhớ, trên chuyến bay của Air France, từ Nội Bài qua Bangkok nghỉ 2 tiếng lấy
thêm khách rồi bay một mạch khoảng hơn chục tiếng gì đấy và đến sân bay Charles
de Gualle vào lúc 4 giờ sáng. Trên máy bay, thứ âm thanh thường trực trong tai
là tiếng động cơ máy bay và chen lẫn là tiếng trẻ con quấy khóc ( có mấy người
ngoại quốc qua Việt
Lần này,
kinh nghiệm bay quốc tế của tôi đã dày dặn, thêm nữa đoàn đi những 21 người, lại
được bố trí ngồi liền ghế, nên chuyện phiếm quên thời gian. Xin nói thêm, sân
bay quốc tế Charles de Gaulle là sân bay bậc nhất châu Âu, xét về lượng khách
thì nó xếp sau sân bay Heathrow của London ( Anh ), và hơi nhỉnh hơn sân bay
Quốc tế Frankfurt ( Đức ), song nếu tính về lượng máy bay hoạt động, và lượng
hàng hóa vận chuyển, sân bay Charles de Gaulle xếp hạng nhất. Trên đường từ sân
bay về khách sạn, ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là chiếc máy bay siêu thanh dân
dụng Concorde sau khi ngừng bay vào năm 2003 được đưa vào nằm bệ tại một góc sân
bay, trông vẫn rất ngoạ nghễ, và sau đó là dòng xe cộ đông đặc suốt dọc đường.
Từ khách
sạn nơi tôi ở thuộc ngoại ô phía Nam Paris kề bên sông Xen, đến nơi chúng tôi học
là Trường Hành chính Quốc gia Pháp ( L’ ENA ) thuộc quận 6, chỉ có 12 km nhưng
hàng ngày chúng tôi di chuyển bằng ô tô phải mất thời gian khoảng trên dưới 1
tiếng rưỡi đồng hồ.
Dân số
Paris hiện gần 12 triệu người, song khách du lịch thì vô kể, có thể nói là cao
nhất thế giới, chính vì vậy mà hệ thống giao thông của Pr. luôn quá tải. Hiện tại,
hệ thống giao thông đường bộ của Pr có 16 tuyến xe điện ngầm ( metro ), 5 tuyến
RER ( xe lửa ngoại ô ), 2 tuyến tàu điện nổi và hơn hai trăm tuyến xe bus ngang
dọc, lại thêm mạng lưới taxi, nhưng cũng không xuể. Mặc dù phương tiện giao thông
công cộng tốt như vậy, song người dân
Đường nội
đô
Nơi đỗ xe
cũng là một vấn đề nan giải, đường phố mua sắm thì đỗ xe thế nào ?
Song với
Paris-kinh đô Ánh sáng-thiên đường du lịch & mua sắm, những lúc ùn xe như vậy,
nếu không có việc gì quá vội, ta sẽ không còn cảm thấy sốt ruột nữa, mà cảm thấy
thích thú là khác, khi có điều kiện tận mắt quan sát, ngắm nghía đời sống Paris
thường nhật, từ nhiều góc độ, và qua nhịp sống thật chậm...
3. Một Paris hoa lệ...
“Paris có một
lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử Pháp và cả châu Âu. Từ một thành trì của
người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois, nơi đây trở thành một thành phố La Mã vào thế
kỷ 1. Tới thế kỷ 6, vua
Vậy sao thế giới lại gọi
Trở về với
thực tại, cảm nhận của mình về một
Mỗi buổi
sáng thức dậy, vừa nấu ăn sáng vừa nhâm nhi tách café, tranh thủ gọi điện về Việt
Nam, ở nhà khi ấy đã đang trưa, lòng tự nhủ, ở bên này, hôm hay ta còn cả một
ngày để tìm hiểu và khám phá Paris kia mà. Để rồi đến tối, sau bữa ăn, lúc đó, ở
bên nhà thời gian đã qua ngày hôm sau, mới tự nhủ, cả ngày hôm nay, mình vẫn chưa
kịp tìm hiểu thêm gì về Paris cả. Cứ thế này thì mấy đã đến ngày chia tay phải
Thế nên,
mỗi khi ngang qua một cây cầu bắc qua sông Xen, mỗi khi nhìn thấy ngọn tháp
Eiffel, hay chóp nhà thờ Đức Bà (
Notre-Dame de Paris ), hay xe chạy ngang qua Khải Hoàn Môn trên
đại lộ Champs- Élyssées, ngang quảng trường Concorde, hoặc những phút tha thẩn
trong vườn Luxembourg, nhẩn nha trên đồi Montmartre dưới bóng nhà thờ Sacré-Coeur
phóng tầm mắt ra xa bao quát toàn bộ thành phố, hoặc phút bồi hồi trước bức họa
Mona Lisa trong bảo tàng Luvre, ... tất thẩy, đều khiến mình cố căng hết mọi giác
quan để mà thấy, mà cảm nhận...
Rồi nữa,
những cửa hàng sang trọng trên đại lộ Champs- Élyssées, đại lộ Montaigne nơi có nhiều cửa hiệu thời trang cao
cấp, khu
mua sắm Galeries Lafayette, Printemps... cho ta thấy một
Lẽ dĩ nhiên, không phải chỉ duy nhất một
4.... Và một
Ai đó, đã
từng ra nước ngoài, từng đến những đô thị, trung tâm văn minh của thế giới, nếu
muốn biết nhịp sống nhanh của nó, chỉ cần bước chân xuống ga metro ( tàu điện
ngầm ) thì sẽ thấy ngay. Mặc dù, vào giờ cao điểm của giao thông, nếu bị nhỡ tàu,
bạn chỉ mất tối đa là 3 phút để đáp chuyến sau đó. Song, dường như không ai muốn
phải chờ thêm, dù chỉ là một phút, thế nên, hễ bước chân xuống ga metro là người
ta rảo bước, chen vai huých cánh mà chạy gằn vì không muốn bị lỡ tàu. Đơn giản,
bởi không ai muốn phải chờ đợi trong dòng chảy xiết của cuộc sống thường nhật,
dù biết, có nhanh hơn một chút cũng chẳng để làm gì, ngoài việc chứng minh, mình
không bị bỏ tụt lại phía sau...
Và cũng
ngay tại nơi đây, đâu đó nơi góc vườn hoa, bên hàng rào hè phố xá, dưới chân cầu,
trong những chiếc xe hơi cũ hỏng... có những con người sống với nhịp sống thật
chậm. Chậm đến mức, dường như thời gian ngưng đọng, bởi với họ, thời gian trôi
hay không, đều không nghĩa lý chi...
Paris, từ
những thế kỷ trước, vốn được mệnh danh là Kinh đô Ánh sáng, nên các triết gia,
nhà hoạt động xã hội, cách mạng, văn nghệ sĩ, nhà khoa học muốn được nổi tiếng,
được thế giới công nhận, đều tìm đến Paris... Cùng với đó, kéo theo làn sóng người
nghèo nhập cư vào đây từ Châu Phi, châu Á, Đông Âu... Hiện tại,
Với người
vô gia cư, người nghèo nói chung, họ sống bằng đủ các thứ nghề; lương thiện, là
làm lao công theo giờ, lập ban nhạc biểu diễn quyên tiền nơi công cộng, giả
trang xin tiền, cho chụp ảnh đòi tiền...; còn bất thiện, thôi thì trộm cắp, đĩ điếm,
lừa đảo đủ kiểu, khôn lường... Bản thân, tôi đã tận mắt chứng kiến đám ma-cà-bông
dắt díu dăm bảy đứa quây hội đồng bức khách du lịch nơi chân tháp Eiffel, bên
ngoài Nhà hát Opera, và tôi cũng đã bị kéo khóa ba-lô xuýt bị móc túi, khi mình
đi mua sắm trên phố cạnh quảng trường Concorde...
Lẽ dĩ nhiên,
người dân bình thường, người giàu có sang trọng của
Dẫu biết,
Hiểu thêm
một
5.
Nói đến nước
Pháp, nhất là
Lẽ dĩ nhiên,
café Paris, thượng thặng vẫn là quán Le Procop được thành lập từ năm 1686, lâu đời
nhất châu Âu, là nơi lui tới thường xuyên của các nhân vật nổi tiếng thế giới (
tôi đã nêu ở phần 1 ký sự này ); rồi đó
là các quán café nổi tiếng khác như “Le Chat Noir”, nằm trong khu đồi
Monmartre, quán “Café de Flore” và quán
“Les Deux Magots”...
Vâng đấy là những quán café lâu đời và nổi tiếng của
Từ thế kỷ 17, ở Pháp, đặc biệt là Paris các bậc vua chúa,
giới quý tộc thượng lưu, các văn nghệ sĩ, triết gia và các nhà cách mạng đều có
cái thú nhâm nhi café, tán gẫu, tranh luận, ngồi viết sách, hoặc bàn bạc việc tổ
chức biểu tình, làm cách mạng tại các quán café... Cái thú ấy lan dần sang giới
bình dân, và nhiều năm trở thành thói quen, thành phong cách sống.
Người ta cho biết, hiện trên toàn nước Pháp có khoảng
70 ngàn quán café để phục vụ cho 5 triệu lượt người uống café mỗi ngày. Điều đó,
cho thấy người Pháp coi café như là một nhu cầu thiết yếu, dùng café đến cỡ nào,
sành café ra sao ?...
Loại café được người dân
Nước Pháp, cụ thể là
Chuyện râu ria của văn hóa café
Ôi, thật là một sáng kiến tuyệt diệu, nhất cử lưỡng tiện...
!
Mười sáu năm trước, khi học ở
6. Đến bảo
tàng Louvre
“ Louvre là một viện
bảo tàng nghệ thuật và lịch sử. Có vị trí ở trung tâm lịch sử thành phố, bên bờ
sông
Năm 1996, khi học ở
Lần này, thì tôi phục thù. Bước chân
vào Louvre là nhăm nhăm theo hướng dẫn tìm đến thẳng phòng trưng bày bức họa nổi
tiếng Mona
Lisa, rồi mò
tiếp đến điểm trưng bày tượng Vệ nữ
Xin không
kể nhiều về Louve nữa, bởi có nói thêm bao nhiêu thì cũng chẳng thấm tháp gì.
Chỉ ước mong, một ngày nào đó, nếu được trở lại
7. Và nhà hát Opera
Nói đến nước
Pháp, và riêng cho
Tên gọi Nhà hát
Opera, là cách gọi tắt, nôm na cửa miệng, chứ thực ra, tên
chính thức là : Academie Nationale du Musique ( Viện Hàn lâm âm nhạc quốc gia ). Và đầy
đủ hơn là : Academie Nationale du Musique- Théâtre de l'Opéra. Trong bài viết này, tôi chỉ nhấn
mạnh mấy điểm chú ý về Nhà hát Opera mà thôi.
Thứ nhất, về người thiết kế xây dựng Nhà hát Opera.
Ấy là Charles Garnier
( 1825-1898 ) đã thiết kế nhà hát này theo phong cách Tân Baroque. Các
tài liệu cho biết, khi được chọn làm người thiết kế, Charles Garnier
mới 33 tuổi, tốt nghiệp trường École des
Beaux-Arts và Viện hàn lâm Pháp ở Rome. Công trình được khởi công xây dựng
năm 1861, dưới thời Napoléon III. Đến khi khánh thành vào năm 1875, khi đó, Đế
chế Pháp thứ hai của Louis-Napoléon ( tức
Napoléon III ) bị hất cẳng sau khi đại bại trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ
năm 1870 và bị thay thế bởi nền Cộng hòa thứ ba. Vậy nên, mới có câu chuyện khôi
hài, Chính phủ của nền Cộng hòa thứ hai,
coi Charles Garnier là người của Đế chế
thứ hai, đã không cho mời nhà thiết kế đến dự lễ khánh thành Nhà hát Opera,
đứa con tinh thần của ông. Người ta kể rằng, mỗi khi có biểu diễn ở Nhà hát, Charles
Garnier thường đến, nhưng ông không vào xem, chỉ chọn cho mình một chỗ ngồi kín
đáo ở sảnh và lặng im hàng giờ nhìn ngắm, chiêm ngưỡng công trình do mình sáng
tạo nên. Sau này, để ghi công và tưởng nhớ ông, người ta gọi nó là Palais
Garnier, hay Opéra Garnier ...
Thứ hai, câu chuyện về Bóng ma trong nhà hát ( Fantôme de L’Opera, Phantom
of the Opera ).
Phantom
of the Opera được coi là vở nhạc kịch thành công nhất mọi thời đại, chúng
ta đều biết là vậy. Song cội nguồn của nó từ đâu ? Vở nhạc kịch Phantom of the Opera được nhà soạn nhạc
Andrew Llyod Webber dàn dựng từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Pháp-Gaston
Leroux, lần đầu xuất bản vào năm 1911. Opera ở đây chính là nhà hát Opera là
kinh đô
Thứ
ba, câu chuyện về con số 13.
Theo người thuyết minh kể, sở dĩ bây
giờ người ta kiêng con số 13 cũng lại được khởi nguồn từ Opera Paris. Ấy là, đã
từng có một vị khán giả ngồi xem ở hàng ghế 13 đã bị chùm đèn trên vòm trần rơi
xuống sát hại; rồi đã từng có một nữ diễn viên đã vấp ngã chết ở bậc thềm số 13
của Nhà hát này; và nữa, khi người ta đã bị ám ảnh bởi con số 13, mới thử thống
kê xem thì Opera Paris là nhà hát thứ 13 được xây dựng ở Pháp...
Thứ
tư, phòng Mặt Trời và phòng Mặt Trăng.
Ấy
là, theo thiết kế, có hai phòng ở bên hành lang được xem là phòng Mặt trời và phòng Mặt trăng. Hai phòng này chỉ khác
nhau ở hình vẽ trên vòm trần là hình bầu trời ban ngày với mặt trời và bầu trời
ban đêm với trăng sao. Còn giống nhau ở chỗ, chỉ với việc thiết kế bố trí các tấm
gương xung quanh, mà khi ta nhìn vào bất kỳ một tấm gương nào, cũng thấy chùm đèn
chính nhân ảnh ảo lên đến vô cùng...
Thứ năm, câu chuyện về các khách VIP của Nhà hát thời
xa xưa.
Ngày
trước, Nhà Vua và Hoàng hậu khi đến xem ở Nhà hát, hai người không ngồi cùng
nhau, mà mỗi người một bên trong lô danh riêng cho Hoàng gia ở bên trên. Góc trần
Nhà hát đối diện với lô của Vua, các hình ảnh điêu khắc mỹ nữ thật khêu gợi, còn
phía bên đối diện với Hoàng hậu thì hình ảnh mỹ nữ tuy tuyệt đẹp song ăn mặc kín
đáo hơn.
Thời
ấy, khán giả đến xem, không phải để xem ( vì vở kịch thường được diễn đi diễn lại đến mắc khán
giả thuộc lòng ), mà người ta đến đến để khẳng định đẳng cấp của
mình, là để ngắm nhau, xưng tụng nhau và còn để bình phẩm, chế bai người khác.
Và nữa, để hò hét, quậy phá. Chính vì thế, thời ấy, khán giả và xem bị cấm mang
các vật dụng có thể gây sát thương, kể cả ô ( dù ), bởi đã có nhiều lần khán giả
sử dụng ô dù có đầu nhọn làm vũ khí chiến đấu với nhau...
Còn
nhiều chuyện nữa về Nhà hát Opera.
8. Nhà thờ Đức Bà Paris & điểm số O ( Point zero )
Nhà
thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris) nằm ở bờ trái sông Seine, thuộc đảo Ile de la Cité, trên nền cũ của tu viện Saint-Germain-des-Prés. Về lịch sử hình thành, có thể tóm tắt như
sau :
Nhà thờ Đức
Bà
Nhà thờ Đức
Bà
Quả là,
tiểu thuyết Notre-Dame de Paris ( Nhà
thờ Đức Bà Paris ) của Victor Hugo ra đời năm 1828, đã đem vinh quang không riêng cho tác
giả mà cao hơn là cho
Có một điểm
quan trọng nữa, quảng trường trước Nhà thờ Đức Bà Paris là Điểm số O của
Lần trở lại
Pháp này, dĩ nhiên, tôi không thể không đến thăm viếng Nhà thờ Đức Bà Paris. Lần
trước, mùa đông năm 1996, khi ấy, Nhà thờ đang có sửa chữa lớn, 2 toà tháp chính
diện bị che phủ bởi tấm bạt khổng lồ, nên khi chụp ảnh lưu niệm, chúng tôi phải
vòng ra phía sau ghi dấu ấn của chóp nhọn nhà thờ. Cũng hay là phát hiện phía
sau có một cửa hàng giải khát và bán đồ lưu niệm mang tên cô gái Bohémiens xinh đẹp Esméralda. Hôm tôi đến vào sáng
thứ bảy, nên nhà thờ đang có buổi lễ. Vì lần đầu bước chân vào nhà thờ, cảm giác
thành kính pha chút khép lép, tò mò, nên chỉ ròn rén bước, nghiêng nghé nhìn ngắm
thôi.
Nay trở lại, cũng đúng vào buổi lễ nhà thờ của kỳ nghỉ
cuối tuần, khách trong ngoài đông nghịt. Nhà thờ không sửa chữa, song quảng trường
trước nhà thờ lại bị khoanh kín thành công trường dựng toà nhà tạm nhằm phục vụ
cho lễ kỷ niệm 800 năm. Vào bên trong, sẵn máy ảnh, tha hồ chọn góc chụp ( ở đây không cấm chụp ảnh ). Lần này, còn
được biết việc đổi đồng 2 euro lấy “đồng
tiền may mắn mạ vàng” của nhà thờ, và tha thẩn ngắm các bức tranh thánh, kiến
trúc tuyệt vời bên trong...
Thêm một phát hiện nữa với riêng tôi, ấy là cậu phóng
viên nhà VOV tại Paris mách bảo, ngay trên quảng trường trước Nhà thờ có Điểm số O ( Point zero ), và người Pháp cho rằng, bất cứ ai từ nơi khác đến, nếu đứng một chân vào tâm điểm,
quay người, cứ được một vòng thì tương đương với một lần trở lại Paris. Muốn vào
quay thì người gác cổng trường không cho vào. May mà cậu PV nhà VOV thạo tiếng
Pháp và khá dẻo mỏ nên người gác đành cười trừ và đồng ý cho vào. Cả ba người
chúng tôi đều quay được gần vòng rưỡi, thế là anh em vui bảo nhau, thế nào bọn
mình cũng được trở lại
9. Cầu qua sông Seine ( Xen ),
Đến
Paris, nếu không đi dọc đôi bờ sông Seine, không ngồi du thuyền trên sông Seine
để ngắm các công trình kiến trúc hai bên bờ, nhất là chiêm ngưỡng các cây cầu
bắc qua sông Seine thì thật đáng tiếc.
Có cả
thẩy 37 cây cầu nối đôi bờ sông Seine, song nổi tiếng nhất là cầu Cầu Mới (Pont Neuf) được xây dựng năm 1607. Cổ nhất
là cầu Pont au Change ( 872 ),
và mới nhất là cầu Simone de
Beauvoir ( 2006 ). Mỗi cây cầu, một kiểu kiến trúc, một số
phận riêng...
Thật khó
có thành phố nào lại có được như vậy. Những cây cầu, từ cổ xưa đến hiện đại
nhất, đều gắn với lịch sử của
Lần trở
lại Paris này, tôi may mắn được đi lại hằng ngày dọc đôi bờ sông Seine, và hơn
thế, ngồi du thuyền trên sông Seine, để mà chiêm ngưỡng những cây cầu có kiến
trúc độc đáo và gắn với lịch sử Paris, cùng nước Pháp...
10. Ấn tượng Yvoire & Annecy,
Cho đến
thời điểm này, tôi đã có tới 5 lần đặt chân đến nước Pháp. Sau hai lần, vào
1996 và 2012 , thì các năm tiếp theo, do nhu cầu công việc, tôi đều đến Pháp.
Năm 2013,
tôi thực hiện chuyến công tác Hà Nội-BắcKinh-Pháp-CH Bulgaria, lúc đi quá cảnh Charles
de Gaulle, khi về thì nhập cảnh vào Pháp.
Năm 2014,
đích chuyến đi Praha (CH Séc), đi quá cảnh ở Charles de Gaulle, về nhập cảnh
Pháp, rồi đi tiếp Geneve (Thụy Sĩ)...
Năm 2015,
đích chuyến đi là Praha (CH Séc) để khai trương Cơ quan thường trú Đài Tiếng
nói Việt Nam (VOV) tại khu vực Đông Âu, rồi thăm CH Slovakia, đi nhập cảnh Pháp
và tranh thủ thăm Brugge ( Bỉ ), về quá cảnh qua Charles de Gaulle...
Như vậy,
cũng có thể nói vui rằng, đi Paris như đi chợ. Những lần sau, do thời gian ít
và quá bận công việc, nên chỉ tranh thủ mua sắm vặt vãnh chứ hầu như không thăm
thú gì. Nói vậy, để thấy rằng, với nước Pháp, chỉ riêng hệ thống bảo tàng ở
Trong
chuyến đi vào cuối xuân 2014, khi từ Praha về Pháp, chúng tôi quyết định dành
hai ngày để đi Geneve ( Thụy Sĩ ). Thế nhưng, khi đặt chân đến Geneve, thì
ngoài sự cổ kính, sạch sẽ ngăn nắp, tôi chưa kịp ấn tượng gì mấy, ngoài cái phố
đi bộ có hàng loạt cửa hàng đồng hồ sang trọng...
Song, khi
về, nhờ có sự mách bảo và dẫn đường của người quen, chúng tôi đi dọc theo bờ hồ
Leman ( hồ này thuộc lãnh thổ
của hai nước Pháp và Thụy Sĩ ), đến thăm làng cổ Yvoire thuộc
Pháp, nằm sát mép nước hồ Leman.
Để đến
được Yvoire, phải băng qua hàng trăm cây số toàn là cánh đồng và làng mạc của
vùng nông thôn Thụy Sĩ và Pháp. Xa xa là dãy Alpes trong tiết xuân tháng 4,
trời vẫn khá lạnh, và đỉnh núi đó đây còn vương tuyết trắng. Cỏ thì đã bắt đầu
xanh, nhưng những cây lưu niên thì hầu như vẫn trơ trụi, thỉnh thoảng điểm chút
lộc nõn. Chắc chỉ độ mươi ngày, nửa tháng nữa là lá trổ xanh cành cả thôi. Khó
mà nhìn cho khắp, thấu tóm cho hết cảnh sắc đồng quê làng mạc vùng này, mà chỉ
có thể tóm gọn, ấy là “ đẹp trên
từng xăng-ti-mét “... Thôi thì cố mà nhìn, bởi khoảnh khắc ấy sẽ
qua rất nhanh, và rất có thể sẽ chẳng còn có dịp trở lại nơi đây nữa. Trên
đường đi, chốc chốc xe chúng tôi lại vượt qua, hoặc ngược chiều với mấy chàng
trai, cô gái, khi đi đôi, lúc dăm ba người chạy xe đạp đua. Ôi, cuộc sống thanh
bình làm sao!....
Làng cổ
Yvoire là đây. Cổng làng, những ngôi nhà kế nhau, trải rộng xuống tận mép nước
hồ Leman, cái nào cùng cũ kỹ những sạch sẽ, ngăn nắp, và kiến trúc thì độc đáo,
chẳng cái nào giống cái nào. Người dân làng này, chỉ sinh sống bằng nghề nông
và đánh bắt cá trên hồ. Thi thoảng mói bắt gặp một người dân làng. Ai cũng dáng
vẻ chất phác và khá niềm nở với chúng tôi. Hẳn là họ quen với việc du khách đến
thăm làng của họ bấy lâu nay, và chắc chắn là họ hiểu rõ giá trị văn hóa, kiến
trúc cổ trong mỗi ngôi nhà, làng xóm của mình. Lang thang, tha thẩn mọi ngõ
ngách của làng, rồi tìm ra tận mép nước hồ để chụp ảnh. Mãi không chán, song dù
nấn ná đến mấy thì chúng tôi cũng đành phải rời làng Yvoire để đến với vùng
Khác với
Yvoire,
Hồ nước
Một ngày tuyệt vời trong một thành phố tuyệt vời...
Trời hanh, nắng nhẹ, trong xanh, thi thoảng có dải mây
trắng nhẹ như voan, rồi vệt khói trắng thành đường nét do những chiếc máy bay
chở khách bay trên bầu trời vẽ nên... Tôi say mê, quay cuồng với chiếc máy ảnh
trên tay, hết tiến lên lại lui, khi thụp xuống lúc nhô lên để tìm góc chụp, bố
cục ảnh. Rồi có lúc lại ngẩn người, bàng hoàng, lòng tự hỏi, thành phố có thật
hay là xứ thần tiên trong mộng ảo ?...
Quả là một ngày tuyệt vời trong một thành phố tuyệt
vời...
Những câu chuyện Trung Hoa,
Phi lộ:
Cho đến nay, tôi đã có tới 4 lần sang
Trung Quốc, không phải đi du lịch mà hoàn toàn do công việc, trao đổi văn hóa,
hoạt động báo chí và học tập.
Lần đầu, mùa hè năm 2002, tôi làm
trưởng đoàn một đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam ( VOV ) sang trao đổi
nghiệp vụ báo chí với Cục Phát thanh truyền hình và điện ảnh của Khu tự trị dân
tộc Choang (Quảng Tây). Hành trình qua Quảng Châu-Nam Ninh-Liễu Châu-Quế Lâm.
Lần thứ hai, mùa thu năm 2008, tôi
tham gia một khóa học về chính trị xã hội tại Trường Đảng trung ương Trung Quốc
với thời gian 2 tháng, tại Bắc Kinh, rồi đi thực tế tại Thượng Hải, Tây An (
Thiểm Tây ), Côn Minh, châu Đức Hồng ( Vân Nam ).
Lần thứ ba, mùa hè năm 2010, tôi là
thành viên một đoàn công tác của VOV trao đổi nghiệp vụ phát thanh truyền hình
, với hành trình là Hồng kông- Đông Quảng, Quảng Châu ( Quảng Đông ).
Lần thứ tư, mùa xuân năm 2014, tôi
tham gia một đoàn công tác của VOV sang trao đổi nghiệp vụ báo chí với Đài Phát
thanh quốc tế Trung Quốc, hành trình Bắc Kinh-Thiên Tân...
Vì thế, mấy phần viết trong “ Những câu chuyện Trung Hoa” này chỉ là chút chấm phá về quốc gia
khổng lồ này...
Tôi nuôi ý định và hiện đang thực hiện
viết một cuốn sách riêng về Trung Quốc ( Trung
Hoa ký sự ), mà ở đó, sẽ bàn nhiều về lịch sử, văn hóa, xã hội, tôn giáo...
của đất nước này nói chung và những ghi nhận từ các chuyến đi ...
1. Chuyện
Thần Châu 7, luận Trung Hoa,
Tôi đã xem xong buổi tường thuật trực tiếp của Đài
Truyền hình trung ương Trung Quốc về phóng tàu vũ trụ Thần Châu 7. Đúng 21h10
giờ Bắc Kinh ( ngày 25.10.2008 ), sau mười giây đếm ngược, Thần Châu 7 được gắn
vào tên lửa đẩy Trường Chinh 2, rời bệ phóng từ sân bay vũ trụ Tửu Tuyền ( tỉnh
Cát Lâm), lao vào khoảng không gian mênh mông, đem theo ba nhà du hành vũ trụ
người Trung Quốc (Trác Chí Cường, Lưu Bá
Minh, Cảnh Hải Bằng). Và cũng chỉ sau có 25 phút rời bệ phóng, Thần Châu 7
đã vào quỹ đạo trái đất. Trung tâm điều khiển kiểm tra thông tin và biểu đồ con
tàu để thông báo là con tàu đã đi vào quỹ đạo trái đất, còn nhà du hành thì
chứng minh bằng cách buông cuốn sách cầm tay để nó lơ lửng trước mặt mình trong
trạng thái không trọng lượng. Mọi người vỗ tay râm ran. Và tôi tin, lúc ấy, cả
tỷ ba người dân Trung Quốc nếu cùng xem truyền hình trực tiếp họ cũng sẽ vỗ
tay, thì không hiểu hiệu ứng sẽ như thế nào nhỉ ?
Rồi Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Hồ
Cẩm Đào lên phát biểu chúc mừng. Trước đấy, ông đã đến gặp và căn dặn các nhà
du hành, rồi trực tiếp đứng dưới trời đêm để tận mắt chứng kiến cái khoảnh khắc
con tàu rời bệ phóng vút vào bầu trời thẳm.
Đất nước này thật là kỳ lạ. Muốn làm
cái gì thì họ phải làm kỳ được. Mà không những được thôi đâu, còn phải rất
được, rất hoàng tráng nữa kia. Trong khi, họ còn những mấy chục triệu dân ở
vùng sâu vùng xa, miền núi dân tộc sống dưới mức nghèo khổ, thì đã tổ chức một
Olimpic cực kỳ hoành tráng, hoành tráng chưa từng có, với số huy chương đoạt được dẫn đầu thế giới, khiến cả thế giới
phải giật mình, ngỡ ngàng. Và còn bởi, họ vừa trải qua một cơn động đất kinh
hoàng tại Tứ Xuyên. Giờ đây, lại tàu Thần Châu 7 đem theo các nhà du hành lên
quỹ đạo trái đất, với sứ mệnh lần đầu tiên người Trung Quốc rời con tàu bước
vào khoảng không vũ trụ bao la.
Có thể, so với Nga, Mỹ là chậm và chưa
thấm đâu, song nó lại minh chứng cho một điều, ấy là sự nỗ lực không ngừng vươn
lên để chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học. Và xét về khía cạnh nào đó, cũng
không mấy khác việc các vận động viên Trung Quốc nỗ lực đoạt huy chương vàng
tại Thế vận hội Bắc Kinh vừa qua.
Trung Hoa cổ đại để lại một Vạn Lý Trường
Thành kỹ vĩ, trải những 6.700 cây số và xuyên suốt gần 3.000 năm cho đến ngày
nay. Người ta bảo, bay trên vũ trụ, hướng về Trái Đất, có thể quan sát thấy Vạn
Lý Trường Thành. Đúng sai chẳng rõ. Nếu vậy thì các nhà du hành vũ trụ Trung
Quốc sẽ lấy làm tự hào vì điều đó.
Không những thế, họ có nhiều cái để mà
tự hào. Trước đó, một đập Tam Hiệp sừng sững mọc lên hiên ngang chắn thượng du
dòng Trường Giang (sông Dương Tử) bắt
sức nước biến thành điện năng. Rồi lại thêm, tuyến đường sắt Thanh Hải-Tây Tạng
cũng kỳ vĩ không kém. Vẫn chưa hết, đó còn là cây cầu vượt eo biển dài nhất thế
giới ; là tàu siêu tốc ( tốc độ tối đa
đạt 430 km/h ) chạy đệm từ, không thua kém gì của Đức và Nhật Bản, hai quốc
gia đang dẫn đầu thế giới về lĩnh vực này…
Tôi đã đến Vạn Lý Trường Thành, để
thành một hảo hán, như lời cố lãnh tụ Mao Trạch Đông từng để lại di bút. Và tôi
cũng vừa mới đến Thiên Đàn Bắc Kinh. Ngay từ khi được xây cất vào đầu triều
Minh từ thế kỷ 14, quan niệm của người Trung Hoa khi ấy đã coi đàn tế trời là
nơi để con người ( cụ thể là Hoàng đế
) đứng trung gian giao hòa với Thiên và Địa, trong mối tương quan Tam Tài là
Thiên-Địa-Nhân. Đấy là quan niệm mang tính tâm linh. Còn nay thì chuyện ấy hiển
hiện ngay trước mắt mọi người. Tàu Thần Châu 7 mang con người từ bề mặt Trái
Đất, bay lên trời, thắng được lực hút của Trái Đất để trôi vòng quanh nó.
Chỉ một ngày sau khi đi vào quỹ đạo trái đất, hai nhà
du hành đã mở cửa khoang tàu để bước vào khoảng không vũ trụ trong bộ trang
phục do chính Trung Quốc tự sản xuất trị giá những 4 triệu USD. Vậy là, Trung
Quốc đã trở thành quốc gia thứ ba, sau Nga và Mỹ, phóng tàu vũ trụ và có người
bước vào khoảng không vũ trụ. Lơ lửng trong trạng thái không trọng lượng, các
nhà du hành được hưởng cái cảm giác ở nơi mà tốc độ, không gian và thời gian
chẳng còn ý nghĩa gì cả.
Đấy chẳng phải là việc lên Thiên Đàng, lên cõi Tiên,
khi từ xa xưa, người Trung Hoa sớm tưởng tượng nên và còn viết thành truyện đó
hay sao ? ...
2. Có một nông thôn mới ở Trung Quốc
Trong chuyến đi học tập nghiên
cứu tại Trung Quốc vào thu đông năm
2008 kéo dài 2 tháng, tôi có điều
kiện đến nhiều vùng nông thôn của Trung Quốc thuộc Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiểm
Tây và Vân Nam. Quả là sau hơn 30 năm thực hiện Cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có những bước tiến thần kỳ về kinh tế-xã
hội, biến Trung Quốc trở thành một cực của thế giới hiện đại. Tuy nhiên, người
ta vẫn nghi ngờ mà đặt vấn đề, rằng Trung Quốc mới phát triển ngang tầm thế giới
ở các trung tâm và thành phố lớn thôi, chứ nông thôn Trung Quốc vẫn còn nghèo nàn
lắm. Điều đó, tôi nghĩ là không sai, nhưng cũng không hoàn toàn đúng. Đất nước
này trải rộng mênh mông bắc-nam, đông-tây, đa dân tộc mà phần đông dân số vẫn sống
chủ yếu bằng nông nghiệp ở khu vực nông thôn, miền núi, nên cái chuyện nghèo nàn
và lạc hậu là điều khó tránh khỏi. Song chẳng lẽ, trong cơn lốc của cái cách mở
cửa, nông nghiệp nông thôn lại không có gì mới sao? Trung Quốc hiện đang sở hữu
những giống cây trồng, đặc biệt là các giống lúa nước cao sản nhất thế giới, ấy
là thành tựu. Dường như thế là chưa đủ, người ta vẫn đang trông chờ một mô hình
nông thôn mới vừa phù hợp với kinh tế-xã hội-văn hóa Trung Quốc, vừa chứa đựng
sự tiến bộ của thế giới, nhất là về chủ thể và hình thái.
Trịnh Các Trang là một thôn làng được
xem là mô hình nông thôn mới của Trung Quốc. Trịnh Các Trang thuộc khu Xương Bình
ngoại ô Bắc Kinh. Cùng với Tử Cấm thành-Thiên An môn-Trịnh Các Trang nằm trên một
trục thẳng và cách chừng 20 km. Nơi đây, xưa từng là trại nuôi ngựa của triều đình
phong kiến nhà Thanh. Vốn có quang cảnh thiên nhiên hữu tình với suối nước nóng
và dòng sông Ôn Du thơ mộng, nên đến năm Khang Hy thứ 51 (đầu thế kỷ 18 ), nơi đây
được xây cất thành phủ đệ của Bình Tây Vương, một trong những người con trai của
Khang Hy. Và chính vị vua này cũng thường lui về đây tĩnh dưỡng hưởng không khí
trong lành của vung thôn quê, tránh xa sự ồn ào, bức bối của công việc nơi triều
chính kinh thành. Bình Tây Vương phủ ngày xưa, nay được tôn tạo và trở thành tâm
điểm của tour du lịch Bắc Kinh-Trịnh Các Trang.
Với diện tích gần 3 km vuông và có một
lịch sử lâu đời như vậy, nên từ ngày đầu Trung Quốc xây dựng CNXH thì thôn làng
này cũng đã được chọn là mô hình điểm. Nơi đây từng đón tiếp nhiều vị nguyên thủ
quốc gia đến thăm, trong đó có cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Khi ấy, Trịnh Các
trang cũng đã gửi tặng Việt Nam 50 con bò sữa giống tốt. Song trong cái nền
chung kinh tế xã hội kiểu bao cấp của Trung Quốc, Trịnh Các Trang cũng tàn đi như bao mô hình điểm của Trung Quốc ( hay Liên Xô, các nước trong phe XHCN và
Việt Nam trước đây ), nếu không có luồng sinh lực mới của Cải cách mở cửa, với sự xuất hiện của
kinh tế thị trường. Đó là gì ? Trong cái eo hẹp, bó buộc của kinh tế bao cấp ngày
ấy, một nhóm thợ xây dựng của làng bắt đầu gây dựng cơ nghiệp bằng cách tập
trung nhau lại thành nhóm chuyên kinh doanh xây dựng. Vốn nhỏ thì lấy công làm
lãi, chắt chiu mà lên dần. Trải ba chục năm, từ nhóm thợ nòng cốt ban đầu của làng
ấy, này lớn mạnh thành Tập đoàn kinh tế Hồng Phúc ( tức Phúc lớn ) với đội ngũ nhân viên, lao động chủ yếu là con em trong
làng, kinh doanh bằng 5 nhóm nghề ( xây
dựng, khoa học kỹ thuật, du lịch, giáo dục đào tạo, dịch vụ). Sản xuất nông
nghiệp chỉ là thứ yếu. Tập đoàn Hồng Phúc đứng ra đảm bảo việc giải quyết lao động
và phúc lợi cho làng. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người của Trịnh Các
Trang là 21.000 tệ ( NDT ), tương đương
52 triệu VNĐ. Về chủ thể lãnh đạo quản lý, những thành viên của Hội đồng quản
trị tập đoàn, đồng thời giữ những vị trí
chủ chốt trong chi bộ Đảng và Ban lãnh đạo của Trịnh Các Trang. Còn bộ mặt của
làng, được quy hoạch thành các khu : du lịch dịch vụ- kỹ thuật cao- giáo dục đào
tạo- chung cư (cao tầng và biệt thự ). Đến Trịnh Các Trang hôm nay, người ta không
khỏi ngạc nhiên bởi, làng có riêng một tour du lịch : Nhà trưng bày lịch sử và
mô hình quy hoạch làng- Tượng đài ngọn đuốc Olimpic ( đây là làng duy nhất được rước đuốc Olimpic Bắc Kinh 2008 )- Thủy
thành Thạch Đầu ký ( một trong những phim
trường Hồng Lâu Mộng bản mới )- Đi du thuyền trên sông Ôn Du- Tắm nước nóng
ở thủy cung thể thao- Thăm Thanh vương tỉnh
(giếng nước vương phủ nhà Thanh)
và Bình Tây vương phủ; thêm nữa, làng có cả trường đại học với nhiều chuyên ngành
đào tạo; hệ thống siêu thị, cùng khách sạn Bên Hồ cỡ 4 sao…Chính vì thế, nguồn
thu của Trịnh Các Trang khá đa dạng và ổn định theo đà tăng tiến. Và sự ổn định
trên đà tăng tiến này chính là nhờ vai trò chủ đạo, bao thầu từ A-Z của Tập đoàn
kinh tế Hồng Phúc.
Nếu Trịnh Các Trang ở Bắc Kinh là mô hình
kinh tế nông thôn mới hiện đại mang dáng dấp sản xuất lớn tập trung kiểu phương
Tây, thì Châu Gia Giác cổ trấn của Thượng
Hải lại đơn thuần nghiêng về thương mại- du lịch-dịch vụ theo kiểu sản xuất nhỏ
hộ gia đình.
Châu Gia Giác là một thị trấn cổ ở ngoại
vi Thượng Hải về phía Tây
Việt
Thực ra, ở Việt Nam, mô hình nông thôn với kiểu liên kết
tương tự, chúng ta thấy đâu đó tại Sa-pa
(Lào Cai ), ở quần thể chùa Hương, chùa Thầy ( Hà Nội ), ở quần thể Tam
Cốc- Bích Động ( Ninh Bình ) v.v… song nhìn chung vẫn còn rất ít. Nhiều giá trị
văn hóa dân tộc vẫn bị bỏ phí, hoặc được khai thác tự phát, manh mún, và lợi ích
rơi hết vào tay nhà đầu tư, trong khi đó người dân địa phương không được lợi lộc
gì…Đây chính là điểm yếu trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử-văn
hóa-danh thắng và phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn nước ta. Cũng là
những vướng mắc hiện hữu trong việc bảo tồn không gian văn hóa bản địa ở một số
vùng như : Bắc Hà ( Lào Cai ), Đường Lâm ( Hà Nội ), Thổ Hà ( Bắc Ninh ), Phước
Tích ( Thừa Thiên Huế ), Mỹ Sơn ( Quảng Nam ) v.v…
Có một câu chuyện mà các giảng viên ở
Trường Đảng trung ương Trung Quốc kể, cựu tổng thống Mỹ, ngài G. Bush từng bày
tỏ sự lo ngại, rằng ở thế ở kỷ 21, ai sẽ
nuôi dân Trung Quốc ? Đáp lại sự quan ngại đó của ngài tổng thống Mỹ, khi ấy
Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc là Giang Trạch Dân đã dứt khoát, ở thế 21,
chính Trung Quốc sẽ nuôi người dân Trung Quốc.
Thế nên, xây dựng nông thôn mới là một trong những cách
để Trung Quốc không những tự nuôi dân mình, mà còn để vươn lên./.
3. Vạn lý trường thành và chuyện nàng
Mạnh Khương
Tôi đã đọc sách báo, đã xem qua phim ảnh nhiều lần về
Vạn Lý trường thành. Tôi cũng đã từng nghe nói rằng, cố lãnh tụ Mao Trạch Đông
trong một lần đến trường thành đã từng nói và để lại một bức thư pháp “ Bất đáo Trường thành phi hảo hán “.
Song khi chính mình đặt chân, bước đi những bước đầu tiên lên bậc đá của Trường
thành, tôi vẫn không kìm nén nổi một xúc cảm mãnh liệt trào dâng, và tự hỏi : “
Vậy là mình đã đến được Vạn Lý Trường
thành rồi sao ?!”.
Khi những dãy núi xa mờ có thể thấy từ lúc ra ngoại ô
Bắc Kinh cứ xích lại gần, mọi người háo hức hỏi nhau “ Sắp đến Vạn lý trường thành chưa ? Từ đây có thể nhìn thấy không ?”.
Cái tâm lý muốn mau chóng trở thành hảo hán khiến ai nấy đều nhấp nhổm không
yên. Và rồi, bóng dáng của tường thành cũng đã hiện ra xa mờ trong sương sáng.
Bắt đầu từ bãi đậu xe, đâu đâu cũng đầy ắp hết thảy những gì liên quan đến
Trường thành. Thoạt đầu là Vạn Lý trường
thành bác vật quán, rồi kế đến Trường
thành toàn chu ảnh viện. Tiếp nữa là tường đá, dải hoa, nhà hàng đều được
gắn tên Bát Đạt lĩnh, tên của khúc
Trường thành chạy ngang qua Bắc Kinh.
Lối dẫn lên Trường thành, người tham quan đông nghẹt.
Khách nước ngoài nhiều, song người Trung Quốc còn đông hơn. Ở đất nước đông dân
nhất thế giới này, những 1,3 tỷ người, trừ những địa phương có Trường thành
chạy qua, còn lại, cũng chẳng dễ gì để đặt chân lên nó ít nhất một lần trong
đời. Thế nên, bất kể là khách nước ngoài hay trong nước, hễ có dịp đến Bắc
Kinh, chỉ cần vài ba ngày, đa phần chọn Trường thành là điểm tham quan đầu
tiên. Ai cũng muốn trở thành hảo hán mà. Điều đó, tôi đọc được trên nét mặt
tươi tỉnh của mọi người, dù là mới chỉ lên đến mặt thành. Bao quát, phần đông
khách chọn hướng đi lên phía Bắc, còn đoạn phía
Nói đến Vạn Lý trường thành, mọi người ít nhiều đều
biết được là Tần Thủy Hoàng đế cho xây dựng từ hơn hai trăm năm trước Công
nguyên. Nhưng đâu hẳn thế, thực ra, Tần Thủy Hoàng chỉ có công trong việc xây
nối các đoạn Trường thành vốn đã có từ trước vào với nhau. Trước khi vua Tần là
Doanh Chính lần lượt đánh bại sáu nước khác ( Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, Yên )
thống nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, thì các quốc gia nhỏ để chống sự xâm lấn
của các bộ tộc thảo nguyên phương Bắc đã cho xây trường thành suốt thời Đông
Chu liệt quốc.Vậy diện mạo của Vạn Lý trường thành cho đến ngày nay là công sức
của triều đại nào ? Theo những tài liệu khác nhau thì việc đánh giá cũng khác
nhau. Ngay về chiều dài của nó cũng vậy. Căn cứ theo tên gọi, trường thành dài
cỡ vạn lý ( một lý tương đương với 888
mét ). Song, có tài liệu cho rằng nó dài tới 7.200 km. Chuyến thăm Trường
thành này, ông Lý Anh, người nhiều năm công tác tại Ban Đối ngoại trung ương
Trung Quốc nói rằng, theo những tài liệu gần đây, Trường thành có độ dài 6.700
km, bắt đầu từ Sơn Hải Quan thuộc
tỉnh Liêu Ninh rồi uốn lượn trải dài bất kể núi cao hay đất bằng đến tận Gia Dụ Quan trên sa mạc Gô-bi thuộc tỉnh
Cam Túc. Về chiều dài của Trường thành, tôi đã kiểm chứng thêm một số tài liệu
khác, thì con số 6.700 km là khá xác thực.Việc các quốc gia chư hầu cát cứ thời
nhà
Người ta cho rằng, Vạn Lý Trường thành tuy manh nha
được xây dựng từ thời nhà Chu, tiên Tần ( trước CN ), song trải qua nhiều triều
đại, nhất là vào thế kỷ 13, sau khi quân Mông Cổ tràn vào Trung Hoa với sự lên
ngôi của Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên, thì Trường thành bị bỏ hoang phế. Đơn
giản bởi khi đó, gót ngựa Nguyên Mông đã trải dài qua Trung Á, lướt khắp châu
Âu đến biển Caspien và cửa ngõ
Leo lên tháp canh trên Trường thành, phóng tầm mắt
ngược về phía vắng khách tham quan, bức tường như con trăn khổng lồ trườn đi
trong hoang sơ trời đất cây cỏ mà chạnh lòng bởi sự hưng suy của các triều đại,
sự nhỏ nhoi của thân phận con người. Hoàng đế quyền uy, triều đại hùng mạnh mà
cũng thoáng chốc thành không, nữa là thảo dân sinh quần. Lên đỉnh tháp cao trên
Trường thành mà cảm khái. Lại có thể xuống chân tường thành để suy ngẫm những
điều sâu lắng. Tấm bia đá của thời hiện đại khắc bút tích của Chủ tịch Mao
Trạch Đông, câu lập ngôn " Bất đáo
Trường thành phi hảo hán " đã nhanh chóng nổi tiếng khắp Trung Hoa và
cả thế giới. Ám ảnh về sự thống nhất toàn Trung Hoa hẳn theo chân vị lãnh tụ
này từ khi còn trẻ bước chân vào sự nghiệp cách mạng.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà ông gọi tên cuộc hành
quân rút lui chiến lược nhằm bảo tồn lực lượng đội quân cách mạng do ông lãnh
đạo trong cuộc chiến chống Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, thống nhất đất
nước là Vạn lý trường chinh. Lịch sử
ghi nhận rằng, nhằm tránh sự tấn công của quân đội Quốc dân đảng, ngày 16 tháng
10 năm 1934, từ chiến khu Giang Tây, Phúc Kiến, đội quân gồm 90 vạn người do
Mao Trạch Đông lãnh đạo đã làm cuộc trường chinh rút lui chiến lược với quãng
đường dài 6 vạn dặm và kéo dài hàng năm trời lên vùng giáp ranh Tây Tạng rồi
lại ngược lên phía Bắc, đến tận Diên An thuộc tỉnh Thiểm Tây. Gian khổ bởi
thiếu ăn khát uống và bệnh tật cùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, hy sinh bởi
bị quân Tưởng truy sát luôn theo chân đội quân dọc đường , để khi đến đích là
chiến khu Diên An, chỉ còn lại chừng 7 ngàn người.
Câu chuyện về nàng Mạnh Khương đã tạc một tượng đài
không tưởng vào nhân thế, để cùng với Trường Thành trơ gan cùng tuế nguyệt.
1. Cố đô
Chiếc Fokker của Vietnam Airlines số
hiệu chuyến bay VN 957 sau 1h45 phút hành trình, hạ cánh xuống sân bay quốc tế
Yangon đúng giờ quy định ( 18h30 địa
phương, chậm hơn giờ VN 30 phút ). Đón đoàn VOV là hai cán bộ ngoại vụ của
Đài Phát thanh &Truyền hình Myanmar ( MR ), một nam một nữ, đều mặc váy.
Thoáng chút ngạc nhiên, song tôi nhanh chóng hiểu, họ ăn mặc trang phục dân tộc
truyền thống. Ngạc nhiên hơn, chờ sẵn bên ngoài còn có hai phóng viên Truyền
hình Myanmar ( MR.TV ) chĩa chiếc camera cổ lỗ sĩ quay hình đoàn chúng tôi để
đưa tin. Quả nhiên, tối hôm ấy, tôi đã xem được tin này trên Kênh MRTV4 .
15 phút ô tô thì đến khách sạn 3 sao
Yangon Hotel. Trên đường về khách sạn, điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là
đường mườm mượp xe hơi, và tuyệt nhiên không thấy bóng dáng chiếc xe gắn máy
nào. Hỏi bạn thì được biết, thành phố
Sở dĩ gọi Yangon là cố đô, bởi vào
ngày 26 tháng 3 năm 2006, nhằm né tránh nguy cơ chiến tranh với phương Tây từ
phía vịnh Martaban trên Ấn Độ dương, đồng thời tìm vùng đất mới để xây dựng và
phát triển thủ đô, Chính phủ Myanmar quyết định dời thủ đô đến Nay Pyi Taw thuộc tỉnh Mandalay, cách
Yangon hơn 300 km về phía đồng bắc.
Căn phòng tôi ở là phòng loại VIP trên tầng 9 của
khách sạn cao 12 tầng, nên có điều kiện quan sát khoảng không rộng lớn của cố
đô Yangon. Tên cũ của thành phố là
Thứ nhất, chúng tôi rủ nhau đi dạo mấy
khu phố gần khách sạn. Chừng hơn 9 giờ đêm đường phố đã thưa thớt xe. Đây là
thời điểm, các xe chở khách, taxi được dịp thả phanh. Yangon cho phép cả hai
loại xe tay lái thuận và tay lái nghịch đều được phép lưu thông, thế nên mới có
sự, từng cặp xe ( 1 tay lái thuận, 1 tay
lái nghịch ) bám sát cạnh nhau cùng chạy song song rất nhanh trên phố,
trong khi các lái xe và khách đi xe hai bên trò chuyện sang nhau ầm ĩ cả phố
xá, và đây không phải là lần đầu, tình trạng này tôi đã từng chứng kiến ở Thái
Lan.
Thứ hai, đó là chuyện massage. Nếu ai
mỏi mệt, chỉ sau một giờ massage MR sẽ thấy khoan khoái ngay. Nói vậy, bởi tôi
cùng vài đồng nghiệp nam đã tò mò đi tìm hiểu massage MR nó như thế nào, ngay
tại khách sạn mình ở. Xin nói ngay, massage MR rất chi là khoa học và có thể
nói vui là “ nghiêm văn chỉnh”. Phòng
massage tập thể, từ 2-3 người cùng, khách được massage phải thay quần áo của
mình để mặc một bộ pizama mềm và rộng rãi. Các nữ nhân viên massage trẻ trung
khỏe mạnh, mặc trang phục truyền thống kín đáo song vẫn đủ độ gợi của thân
hình. Họ massage bài bản, cố đến mức cao nhất có thể để không va chạm xác thịt,
và rất chi mềm mại điệu nghệ, đủ cho những ai giàu trí tưởng thư giãn tâm trí.
Trong khi massage, giữa khách với nhau, hoặc giữa khách với nhân viên thoải mái
trò chuyện giao tiếp vui đùa qua ngôn ngữ hay cử chỉ, song không vượt ngưỡng
lịch sự, và nhân viên không hề đòi hỏi tiền “bo”. Quả là khoan khoái sau đúng 1 giờ đồng hồ với mức phí là 12
USD.
Thứ ba, đường phố
Thứ tư, thành phố
Thứ năm, vì là đất nước Phật giáo nên
hệ thống chùa chiền và tăng lữ có ở khắp đất nước
Thứ sáu, tiền tệ Myanmar là đồng “
kyat “, giá quy đổi khoảng từ 700-820 kyat/1 USD, và nhìn chung, hệ thống
thương mại, kể cả bán lẻ của Myanmar, và Yangon khá quen với việc tiêu đồng USD
lẫn và đồng kyat của họ.
2. Shwedagon- Chùa Vàng.
Chùa
Vàng ở cố đô
Vì
được coi là khách VIP, nên chính ông trưởng ban quản lý đích thân dẫn và giới
thiệu đoàn thăm viếng chùa. Đoàn chụp ảnh lưu niệm dưới bóng cây bồ đề gần 50
tuổi do Ấn Độ trồng tặng. Việc thăm viếng chùa được tiến hành thông lệ đi theo
chiều kim đồng hồ, và đương nhiên, như tất thảy mọi người, chúng tôi phải bỏ
giày dép đi chân đất.
Lần theo các cụm kiến trúc, mới thấy
được sự cổ kính và vĩ đại của ngôi chùa. Còn thấy cả sự sùng kính của người dân
MR qua nhiều đời, công đức đóng góp cho việc bảo tồn, tu bổ công trình. Theo
ông trưởng bản quản lý chùa, thì đã tốn nhiều tấn vàng nguyên chất cho việc dát
tòa tháp chính và một số điểm trọng yếu của ngôi chùa. Hiện chùa Vàng còn bảo
tồn được bốn báu vật thiêng liêng với các tín đồ Phật giáo, đó là 8 sợi tóc của
Đức Phật Thích Ca, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, cây gậy của Phật Câu Lưu
Tôn và mảnh áo của Phật Ca Diếp. Chính sự lâu đời và kỳ vĩ, cùng các báu vật
được lưu giữ trong chùa, nên không riêng gì các tín đồ Phật giáo ở MR và các
nước khác, mà nhìn chung, mọi người trên khắp thế giới đều mong muốn ít nhất
một lần được thăm viếng ngôi chùa, nếu được đặt chân đến xứ sở này.
Và nữa, nếu có thời gian, khách phải
mất cả ngày, thậm chí cả tuần để thăm viếng và thực hiện các nghi lễ Phật giáo.
Tuy nhiên, với chúng tôi, chỉ có thời gian hơn một giờ đồng hồ nên đành “ cưỡi ngựa xem hoa “ vậy. Song vì có ông
trưởng ban đưa dẫn, nên chúng tôi chỉ dừng chân ở những điểm quan trọng để nghe
giới thiệu hoặc hành lễ, như : bảo tháp, phật vàng, phật ngọc, phật nằm, chuông
Singu Min... Mặc dù người dân MR rất hiền lành và sùng đạo, song nhằm đảm bảo
an toàn cho những tượng tháp quý, nhà chùa đều đặt trong các lồng khung sắt
vững chắc, có khóa bảo vệ. Được sự đồng ý của ông trưởng ban, ở mỗi tượng tháp
này, nhân viên bảo vệ mở khóa cho đoàn chúng tôi vào bên trong, nên có thể “ sờ tận tay“ và hành lễ. Ở tượng Phật
ngọc, ông trưởng ban khuyến khích mọi người trong đoàn hành lễ và bảo rằng, theo quan niệm của tín đồ Phật giáo MR,
thì cầu nguyện điều gì đó trước bức tượng này sẽ được linh ứng, cầu được ước
thấy. Thôi thì đã đến được nơi đây, lại
thêm lời khuyên vậy, nên ai cũng hành lễ và thầm cầu nguyện một điều gì
đó cho riêng mình. Khi đến tượng Phật nằm, chúng tôi bắt gặp mấy người thợ thủ
công đang dát vàng nguyên chất bồi bổ thêm cho bức tượng. Ông trưởng ban quản
lý cho hay, các thợ được tuyển chọn vào thực hiện việc dát vàng tháp tượng
chùa, ngoài tay nghề điêu luyện, họ phải có tính chân thật và lòng sùng kính
Phật giáo.
May mắn, chúng tôi bắt gặp các nhà sư
đang thực hiện một buổi cầu kinh. Các sư hành lễ đồng thanh tụng kinh theo lời
tụng kinh dẫn dắt của vị sư chủ trì buổi lễ. Tiếng cầu kinh trầm buồn vang lên
đều đều lan tỏa khắp không gian chùa, hòa lẫn trong mớ tạp âm của khách thập
phương, tạo nên một cảm giác về sự pha trộn của hai thế giới tâm linh và đời
thường...
Ông trưởng ban dẫn chúng tôi đến nơi
treo một quả chuông cổ khổng lồ, vừa đi ông vừa hào hứng kể lai lịch quả chuông
này. Quả chuông có tên gọi là Maha Gandha ( có nghĩa là “ âm thanh tuyệt diệu “ ), được nhà vua Singu Min cho đúc năm 1779 và
tặng nhà chùa. Vì thế, nên ngày nay, người ta quen gọi là chuông Singu Min. Có chuyện kể rằng, vào năm 1824, khi quân Anh xâm
lược MR, chúng đã lấy quả chuông này đưa xuống thuyền định chở về Calcuta ( Ấn
Độ ), song do chuông quá nặng nên đã bị lật thuyền chìm tận đáy sông. Quân Anh
không biết làm sao. Các tín đồ Phật giáo MR đề nghị xin vớt chuông với điều
kiện nếu vớt được thì sẽ phải trả chuông về lại chùa. Nghĩ rằng họ không vớt
được nên người Anh đồng ý. Họ đã thay nhau lặn xuống sông buộc xung quanh
chuông rất nhiều cây tre bương, nên bè tre vốn rỗng, có sức nổi rất lớn đã kéo
được quả chuông khổng lồ nổi theo.
Chúng tôi lần lượt mỗi người thỉnh 3
tiếng chuông, song có lẽ do quá chú ý nghi thức khi thỉnh chuông, nên chưa ai
đủ để thấu “ âm thanh tuyệt diệu “ của chuông Singu Min ra sao. Vậy cũng là mãn
nguyện rồi.
Số tiền chúng tôi công đức cho chùa
được họ ghi nhận vào tấm bằng có in hình tháp chùa Vàng lồng khung kính mang
về. Đoàn chúng tôi cũng tặng lại mấy vị trong ban quản lý chùa mỗi người một
món quà dân tộc mang theo từ Việt
Rời chùa Vàng mà lòng ngẩn ngơ. Sau
đó, tôi còn được chiêm ngưỡng ngọn tháp chùa Vàng nhiều lần nữa, từ tầng cao
Yangon Hotel hoặc từ công viên hồ nước Inya ( Inya Lake )...
3. Nay Pyi Taw, thủ đô hoang vu.
Băng qua khoảng cách 350 km về phía đông bắc của cố đô
Không riêng tôi, mọi người trong đoàn đều sốt ruột cất
tiếng hỏi xem đã tới thủ đô chưa. Anh U Myint Wai, cán bộ ngoại vụ khẳng định
như đinh đóng cột rằng xe đang chạy trên đường phố thủ đô rồi đấy. Sở dĩ vậy,
là bởi, chẳng thấy phố phường đâu cả, chỉ thấy đất hoang dại khô cằn cây cối
lúp xúp trống không, đây đó là các khuôn viên nhà cửa dáng dấp biệt thự và chốc
chốc lại một ngả đường bê tông rộng rãi rẽ phải, trái, rồi lại bùng binh trang
hoàng hiện ra trước mặt. Mọi người có vẻ thất vọng khi tận mắt thấy một thủ đô
không phố, không nhà mặt phố, không cửa hàng cửa hiệu và người qua lại sầm uất,
trái lại rất hoang vu huếch hoác ( so với
VN hay các nước khác, ngay cả khi so với
Juntion Hotel, nơi chúng tôi ở khá gần trung tâm thành
phố, và đã từng có khách người Việt Nam đến ở trước đó, nên khi chúng tôi tới
đây đã thấy lá cờ Việt Nam phấp phớp nơi cột cao trước cửa Reception. Có một
điều ngạc nhiên nữa, khi ăn tại khách sạn này, chúng tôi đòi nước mắm nguyên
chất, bồi bàn hiểu ngay và họ mang ra phục vụ nước mắm xịn hẳn hoi, trong khi
không hề có ở khách sạn tại Yangon...
Ở Nay Pyi Taw, chúng tôi được bạn đưa đi thăm viếng
chùa Uppatasanti ( Uppatasanti Pagoda
). Đây là ngôi chùa mới, được Chính phủ MR cho xây dựng vào năm 2006 và khánh
thành vào năm 2009, mô phỏng theo chùa Vàng tại Yangon, nhằm làm nơi hành lễ
Phật giáo cho quan chức Chính phủ và cư dân của thủ đô mới. Ngoài ra, chúng tôi
còn đến xem voi trắng được nuôi giữ gần ngôi chùa này. Theo phía bạn cho biết
thì voi trắng là động vật quý hiếm, hiện trên toàn lãnh thổ MR chỉ còn độ chục
con...
4. Xứ sở của
đá quý, châu ngọc.
Có thể nói, MR là vương quốc, là xứ sở của đá quý và
châu ngọc. Các mỏ đá quý chủ yếu nằm ở phía Bắc của MR, như thung lũng Ruby
hoặc khu vực Mogok, cách
Ở thủ đô Nay Pyi Taw còn hoang sơ ấy, chính phủ MR đã
nhanh chóng cho xây dựng một bảo tàng đá
quý & châu ngọc, bởi đây là nguồn tài nguyên vô giá, là niềm tự hào và
trở thành biểu tượng cho đất nước Phật giáo này. Đoàn chúng tôi được phía bạn
bố trí một buổi đi thăm và mua sắm tại bảo tàng này. Vào đây, ngay từ tiền
sảnh, mọi người đã choáng ngợp trước một không gian miên man những đá quý và
châu ngọc ( thô có, đã chế tác có ).
Rất đáng tiếc, ở đây treo biển cấm quay phim chụp ảnh, và trước khi vào đây,
nhân viên bảo vệ cũng nhắc nhở khách tham quan điều đó. Tuy nhiên, với chiếc
Canon G11 đeo lủng lẳng trước ngực, để ở chế độ no flash , mặc dù hệ thống camera giăng mắc khắp nơi, tôi cũng
“bắn” lén tọa độ được mấy kiểu, đặng có cái mà khoe với mọi ngườ chứ. Nhiều cửa
hiệu chuyên bán trang sức châu ngọc ở MR cũng cấm quay phim, chụp ảnh.
Trong bảo tàng châu ngọc, các loại châu ngọc và trang
sức đã chế tác đều được trưng bày trong tủ kính bảo vệ, còn đá quý nguyên liệu
thô thì không cần. Đồ trưng bày được xếp đặt theo chủ đề, theo dạng thức, lớp
lang, quy củ. Đặc biệt và gây ấn tượng nhất, ấy là mô hình vòm tháp của chùa
Vàng được chế tác từ ngọc bích nguyên khối, và nữa, ấy là viên ngọc trai
khổng lồ ( hiện giữ kỷ lục lớn nhất về độ
lớn ở MR ). La cà, thăm thú, ngắm nghía, cánh đàn ông chúng tôi vốn ít quan
tâm đến lĩnh vực này, nên cũng chỉ để thỏa chí tò mò, hơn là để hiểu về vẻ đẹp
và độ quý giá của chúng. Còn với hai thành viên nữ trong đoàn, thôi thì, mê mẩn,
đắm đuối khôn cùng... Bên dưới bảo tàng là một khu vực quầy hàng đá quý châu
ngọc cho tư nhân thuê bán hàng. Khách không đông lắm, chủ yếu là người đến thăm
quan, rồi nhân tiện mua sắm. Song với chúng tôi cũng là đủ, để mua ít quà
souvernir. Hôm sau, chúng tôi còn được bạn đưa đến thăm thú mua sắm ở mấy cửa
hàng châu ngọc sang trọng thuộc diện có thương hiệu ở MR, rồi la cà cả khu vực
hàng tầm tầm tại trung tâm phố cổ của
Tôi nhớ, vào năm 2008, khi tôi theo học ở Trường Đảng
trung ương Trung Quốc 2 tháng, kết thúc lớp học, chúng tôi có đi thực tế
tại Thượng Hải, Tây An, Vân
Dẫu gì, MR vẫn luôn xứng đáng là xứ sở của đá quý và
châu ngọc của thế giới ...
5. Đá quý
& châu ngọc MR ở châu Đức Hồng.
Châu Đức Hồng là một đơn vị hành chính tự trị thuộc
tỉnh Vân
Như tôi đã nói ở phần trước, mảnh đất này vốn là chiến
trường xưa thời Tam Quốc ( TK thứ 2 sau
CN ), nơi Gia Cát Khổng Minh lãnh
đạo đội quân nhà Thục Hán ( Lưu Bị ) đánh nhau với một số bộ lạc ở khu vực Tây
Nam Trung Hoa, do Mạnh Hoạch cầm đầu ( MR
có 153 dân tộc, trong đó, nhiều dân khu vực phía Bắc của MR thờ Mạnh Hoạch làm
Tổ ).
Châu Đức Hồng có mấy thành phố, trong
đó đáng kể là thành phố Mang Thị ( châu
lỵ ) và thành phố Thụy Lệ ( nơi có
cửa khẩu quốc tế với MR ). Châu Đức Hồng có sân bay, hằng ngày có mấy
chuyến bay đi Côn Minh và vài ba thành phố lớn thuộc duyên hải phía đông Trung
Quốc. Sở dĩ vậy, bởi đây là khu vực chế tác và trung chuyển đá quý, châu ngọc
theo đường dây (
Mùa thu năm 2008, tôi có chuyến đi đến Đức Hồng 3
ngày. Tại đây, tôi đã được tận mắt chứng kiến các hoạt động mua bán đá quý,
châu ngọc từ MR sang... Sáng sáng dân MR bỏ những tảng. miếng đá mà họ khai
thác được có thể chứa đựng đá quý ở bên trong, gùi bộ qua cửa khẩu sang đất
Thụy Lệ như gùi rau cỏ, bán theo giá thỏa thuận cầu may tại chợ trời như ta vẫn
thấy các chọ trời vùng dân tộc thiểu số niềm núi Việt Bắc, Tây Bắc ở ta. Lẽ dĩ
nhiên, người mua cũng là mua cầu may. Kinh nghiệm sẽ quyết đinh sự may rủi ấy,
có nghĩa là, kinh nghiệm và may mắn, trong các khối đá thô sơ ấy sẽ có châu
ngọc ít nhiều, còn như không may, mất tiền oan mà chẳng được gì.
Nghe nói, mảnh đất vùng biên giới hẻo lánh này, những
năm gần đây trở nên sầm uất, náo nhiệt hơn, mà mỗi ngày có đến gần chục chuyến
bay nội địa và quốc tế đến, đi từ châu Đức Hồng, là kết quả của hoạt động
thương mại và du lịch từ thị trường đá quý mà ra. Người Trung Hoa nói chung và
người kinh doanh các mặt hàng chế tác từ đá quý của châu Đức Hồng nói tiêng,
rất giỏi trong cái cách lấy được những đồng tiền lẻ cuối cùng từ túi của du
khách vào việc mua sản phẩm của họ, mỗi khi đến vùng đất này...
6. Hệ thống
Phát thanh và truyền hình.
Hiện nay, hệ thống Phát thanh & Truyền hình của MR
còn chưa mấy phát triển. Sở dĩ vậy, là do sau nhiều năm duy trì chính quyền
quân sự, bị Phương Tây cấm vận nên kinh tế đất nước kém phát triển; thêm nữa,
chính sách đóng cửa khép kín của quốc gia Phật giáo này ít nhiều tạo ra một xa
hội tương đối thuần phác. Có thể coi đó là nguyên nhân chính khiến cho toàn bộ
hệ thống thông tin báo chí nói chung ( trong
đó có PT&TH ) kém đa dạng, phát triển.
Đài Phát thanh &Truyền hình của MR trực thuộc Bộ
Thông tin, có trụ sở chính đóng tại
Tòa nhà của Đài Phát thanh & Truyền hình mới có
cấu trúc thấp tầng, khá hài hòa và thiết bị máy móc công nghệ tương đối hiện
đại. Nếu máy móc thiết bị kỹ thuật Phát thanh & Truyền hình của Đài tại
Yangon chủ yếu là kỹ thuật analog,
trên băng từ, thì ở trụ sở mới, toàn bộ sử dụng kỹ thuật số ( digital ), song vẫn có dự phòng bằng
kỹ thuật analog trong những trường
hợp bất trắc. Hiện tại, phần lớn các chương trình phát thanh và truyền hình của
MR vẫn được sản xuất ở Văn phòng tại Yangon, bởi đây tuy là cố đô, song vẫn là
một trung tâm chính trị, ngoại giao, sản xuất, thương mại của MR. Nhiều đại sứ
quán ( trong đó có Đại sứ quán Vịêt Nam
) vẫn đóng ở Yangon. Hiện tại, MR có 2
kênh Phát thanh ( 1 bằng tiếng phổ thông
MR, 1 phát chung đối ngoại quốc tế và tiếng dân tộc thiểu số ). MR là quốc
gia đa dân tộc ( 153 dân tộc ), song ngoài tiếng phổ thông MR thì chỉ vài ba
thứ tiếng dân tộc khác được phát sóng ( VOV
của ta phát 12 thứ tiêng dân tộc thiểu số
). Còn lĩnh vực truyền hình, MR có 2 kênh tự sản xuất, đó kênh MRTV3,
MRTV4. Số kênh truyền hình nước ngoài được phát trên TV của MR rất ít. Chính vì
vậy, người dân MR không có nhiều sự lựa chọn trong lĩnh vực Phát thanh &
truyền hình nói chung. Một tuân ở MR, theo dõi TV của họ thấy chương trình còn
khá nghèo nàn. Hôm chúng tôi thăm trụ sở ở Yangon, phía bạn có đưa chúng tôi
thăm dàn nhạc dân tộc và dàn nhạc hiện đại của Đài, nếu so với Nhà hát VOV của
Việt nam thì họ còn thua xa, kể cả các phương tiện tác nghiệp ( máy ghi âm, camera ) thì vẫn cũ kỹ, lạc
hậu ( như thời kỳ bao cấp ở ta ).
Có một điểm đáng chú ý, các vị lãnh đạo của Đài Phát
thanh & Truyền hình quốc gia MR phần đông từ quân đội chuyển sang. Điều này
hoàn toàn hợp lý, khi mà chính quyền MR vốn là chính quyền quân sự dưới sự lãnh
đạo của Thống chế Than Shwe, cho đến khi Thein-Sein, một chính trị gia thuộc
quân đội kế nhiệm lên làm Tổng thống, mới chuyển sang dân sự, nên theo đó, các
vị lãnh đạo quân sự các cấp của họ cũng được “ dân sự hóa “ chuyển sang giữ các cương vị chủ chốt. Các cấp của
Đài Phát thanh &Truyền hình MR sử dụng tiếng Anh khá tốt ( MR vốn là thuộc địa của Anh, đến năm 1948
mới thoát khỏi ách thuộc địa, trở thành quốc gia độc lập, dưới sự lãnh đạo của
Tướng Aung San, người được suy tôn là anh hùng dân tộc giải phóng MR, và là
thân phụ của bà Aung San Suu Kiu, lãnh đạo của phe đối lập chính trị ở MR hiện
nay, một nhân vật mới nổi trên chính trường MR, mà Phương Tây và Mỹ đang muốn
tranh thủ, và cho đến thời điểm này, đảng của bà Aung San Suu Kiu đã thắng cử,
và bản thân bà vì lấy chống người nước ngoài, nên không được làm Tổng thống
theo quy định của Hiến pháp Myanmar, mà chỉ giữ cương vị cố vấn cho Tổng thống
đương nhiệm.).
Với đà cải cách mở cửa, dân chủ hóa hiện nay, có thể
MR đang phải đối mặt trước những bất ổn chính trị, song chắc chắn, kính tế xã
hội và nền báo chí truyền thông nói chung, lĩnh vực Phát thanh &Truyền hình
nói riêng của MR sẽ có đất sống để phát triển ...
Nhật bản du ký.
1. Đền thờ
Minh Trị thiên hoàng, điểm du lịch kỳ thú.
Nếu đứng trên sân thượng Tòa thị chính Tokyo cao 45
tầng phóng tầm mắt ra bốn phương tám
hướng, đều bắt gặp muôn vàn những khối nhà cao thấp thuần như một gam màu lạnh, chen chúc lô xô ken đặc không gian,
ta ngỡ Tokyo hiện đại nhưng khô cứng, chán ngắt.
Nghĩ vậy là ta đã nhầm. Đường phố
Cứ theo bóng liễu, bóng phong mà đi, du khách len lỏi
dưới những khối nhà của cái thành phố khoảng 13 triệu dân và trải dài hơn trăm
cây số này, có thể tìm thấy một rừng cây tuyệt đẹp giữa hai quận Shinjuku và
Shibuya ngay trung tâm thành phố. Đó là khu đền thờ Minh Trị thiên hoàng. Người
Nhật Bản tôn kính và biết ơn vị vua này, ông lên ngôi năm 1868, người đã khởi xướng phong trào canh tân, với
tinh thần tự cường song rất chú trọng việc học hỏi văn minh Âu Mỹ, biến Nhật
Bản từ một nước phong kiến lạc hậu thành một quốc gia hùng mạnh. Bởi vậy, người
dân mới dựng đền thờ xem như một vị thần linh có công với dân tộc. Song khoan
nói chuyện đó, ta hãy xem khu đền thờ này như một công trình văn hóa du lịch
đặc trưng của
Nếu đem ví với Văn Miếu-Quốc Tử Giám của Việt Nam thì
thật không đúng lắm ( bởi Văn Miếu- Quốc
Tử Giám thờ Khổng Tử-ông tổ của Đạo Nho
và là trường đại học cổ xưa nhất của Việt Nam ), còn đây lại thờ một vị vua
khai sáng, song quả thật không có gì để so sánh tương đồng, nên ta cứ tạm coi
từa tựa như vậy. Về diện tích thì khu đền này rộng hơn nhiều lần, có rừng cây
rậm rạp nhưng về lịch sử tồn tại chỉ bằng 1/10, nghĩa là gần trăm năm thôi.
Điểm chính của công trình văn hóa du lịch này là đền thờ
Minh Trị thiên hoàng ở mặt chính và Minh Trị thần cung hội quán ở phía sau.
Đền thờ chính được xây cất toàn bằng gỗ bốn mái theo kiến trúc truyền thống của
Nhật Bản, và cũng gồm hai phần tiền điện, chính điện Dọc lối vào, du khách bắt gặp từng hàng đèn
lồng được xếp cao như bức tường lớn. Đây là những đèn lồng được làm theo kiểu
truyền thống do người dân tự nguyện mang đến hiến tặng cầu may, nên trên mỗi
chiếc đèn đều có chữ viết, dấu ấn của riêng người hiến. Phần tiền điện cũng
thuần bằng gỗ, hai tầng, có cổng rộng đề vào sân chính điện. Qua khoảng sân
rộng là bái đường thuộc chính điện với cánh hai cánh cử gỗ dày nặng. Trên những
cánh cửa gỗ và cả đôi cột gỗ hàng hiên chi chít những vết hằn. Đây là dấu tích
của những đồng tiền xu do người dân ném
vào cầu may, mỗi đầu năm mới, khi cổng đền được mở cho người dân vào viếng.
Bên trong bái đường, nơi thần dân và du khách bốn
phương đến thăm viếng đứng bái vọng, là những chiếc bàn gỗ có hòm phía dưới
đựng tiền của người lễ ( kiểu như hòm
Công Đức trong các chùa chiền, đền miếu ở ta ). Đáng chú ý và khá lý thú là
ở hai bên bái đường, phía trái là nơi để rượu hiến tế của người dân, với hàng
ngàn chai rượu dân tộc đặc sản từ nhiều vùng của Nhật Bản được người dân mang
đến lễ; còn bên trái, là nơi treo các thẻ gỗ trên đó viết những điều ước vọng
bằng các thứ ngôn ngữ Anh, Nhật Bản, Trung Quốc của các thí sinh cầu may trước
mỗi kỳ thi cử ( cứ từa tựa như kiểu thì
sinh đến Văn Miếu thắp hương janhf lễ, xoa đầu rùa cầu may trước mùa thi ở Việt
Nam vậy ).
Hôm tôi đến đến thăm đền trùng vào chủ nhật. May mắn
là đúng dịp đó có Triển lãm Cúc hoa.
Những chậu hoa cúc tuyệt đep, được tuyển lựa từ những người chơi hoa cúc đem
đến trưng bày, chẳng hiểu họ có chấm điểm trao giải hay không ? Bên cạnh nhiều
loài cúc ta thường thấy ở Việt
2. Công viên
hành chính Hibiya và khu Hoàng cung .
Thủ đô Tokyo có cả thẩy 23 quận, song chỉ có mấy quận
thuộc trung tâm là các quận Shinjuku, Tokyo, Shibuya, Ueno, Ikebukuro… Khu
trung tâm này ken đầy đặc các tuyến metro ngang độ sâu lòng đất… Nếu xem quận
Shinjuku na ná như quận Hoàn Kiếm ( Hà Nội ) bởi đây được coi là trung tâm
thương mại sầm uất, thì quận Tokyo lại tương đồng với quận Ba Đình, trước hết
vì ở đây tập trung hầu hết trụ sở của Chính phủ, với văn phòng và 12 bộ, cùng
Nhà Quốc hội. Khu vực này có mấy tiều khu quan trọng, đó là khu Kashumi Gaxeki
- khu hành chính thuộc tiểu khu Chiyoda, Hibiya-công viên cây xanh, khu
Akasuku- nơi nhiều quan chức chọn định cư, khu Hoàng cung và Lâu đài công
chúa…
Công viên Hibiya nằm giữa khu hành chính bởi bao quanh
nó là trụ sở của mấy Bộ ngành, và cả Toà nhà Tam giác trụ sở Quốc hội. Trong
lòng đất khu vực này, có đến dăm tuyến metro giao nhau như Oedo line, Mita
line, Hibiya line, Chiyoda line, Yurakucho line, Marunouchi line. Công viên
không lớn, nằm lọt thỏm giữa những toà nhà cao tầng, song xinh xắn và rất nên
thơ. Cổng chính của Tòa nhà số 5, nơi đặt trụ sở của Bộ Y tế-Lao động & Phúc lợi, Bộ Môi trường và một phần của Văn phòng Chính phủ đối diện với một
cổng của công viên Hibiya. Giờ nghỉ trưa hôm chúng tôi đến làm việc tại đây,
bác sĩ Junichi Inaba- chuyên viên Hợp tác quốc tế của Trung tâm Y tế quốc tế
Nhật Bản đưa chúng tôi vào thăm công viên. Công viên lúc này khá đông người, quan
sát thấy thuần một màu rất " viên
chức ". Anh J. Inaba giải thích, thường mỗi buổi trưa, công viên này
rất đông người đi dạo, phần lớn toàn công chức tranh thủ giờ nghỉ trưa, sau bữa
ăn nhanh đồ ăn mang theo hay tại
căng-tin công sở. Đi dạo một mình thư giãn, hoặc theo tốp để nói chuyện phiếm
và có thể là bàn bạc thêm về một vài vấn đề nào đó.
Tôi chợt nghĩ về những bữa trưa tràn đầy không khí
nhậu nhẹt của nhiều viên chức xứ mình mà thầm so sánh…Chẳng biết người
Ra khỏi công viên Hibiya, lại bách bộ thêm một đoạn
đường nữa là khu Lầu công chúa với hồ
nước bao quanh với mấy đôi thiên nga trắng toát nhẩn nha gù nhau. Ngang đây là
một quảng trường và đại lộ dẫn thẳng đến khu Hoàng cung. Cũng như những hoàng
cung, cung điện, thành lầu của nhiều triều đại phong kiến Á Đông, Hoàng cung
Nhật bản được cấu trúc với vòng ngoài bảo vệ kiểu tường cao-hào sâu. Một chiếc
cầu vòm cuốn cổ dẫn vào cổng chính diện. Du khách chỉ có thể nhìn vọng từ xa
vào cổng thành hai tầng màu sẫm thâm nghiêm với đôi vọng gác cùng hai người cận
vệ trang phục trắng toát đứng im như tượng, và sâu tít bên trong với nhấp nhô
vòm mái, lầu các và cây cối mà thôi. Bên ngoài là lối sỏi rộng, cùng khu rừng
thưa kéo dài từ trước khu Lầu công chúa vắt ngang đến tận chân Hoàng cung,
trồng thuần một loài thông tán xanh rì. Một hàng những viên sỏi khổng lồ xếp
cách đều nhau làm thành chiếc ba-ri-e chắn lối vào phía sau trông khá lạ mắt và
gây cảm giác thích thú cho du khách. Thảm cỏ phẳng lỳ, rải rác đó đây có người
nằm ngủ ngon lành dưới tán thông. Lác đác các cụ già ăn vận trang phục cổ, dắt
chó cảnh dạo chơi trên những lối đi. Xa xa, tháp truyền hình
Không riêng gì du khách từ phương xa tới Tokyo, theo
anh J. Inaba cho biết, thì ngay chính những người dân của Tôkyo, thậm chí những
người sống hoặc làm việc hằng ngày quanh khu vực này cũng cảm thấy yêu thích
cảnh sắc tuyệt đẹp và thanh nhàn đó !…
3. Hệ thống
Metro và du lịch thương mại .
Hôm đoàn công tác chúng tôi đến Nhật Bản, người nhận
đón và hướng dẫn chúng tôi từ sân bay quốc tế Narita về trung tâm
Nhớ là, mùa đông năm 1996, tôi và mấy đồng nghiệp ở
Đài Tiếng nói Việt Nam đã có dịp lặn lội gần 2 tháng trời ngày ngày trong hệ
thống Metro ở Paris ( Pháp ) khi tham gia một khoá đào tạo báo chí, nên tôi
không lạ gì cấu trúc và một số nguyên lý tìm tuyến, đi lại trong đó. Ấy vậy mà,
khi đứng trong ga metro của
Mua sắm là một nhu cầu không thể thiếu của du khách.
Đây là tâm lý chung của hầu hết mọi người mỗi khi có dịp đi công cán hoặc du
lịch xứ người. Nhiều khi mua sắm cho nhu cầu sử dụng thì ít mà mua làm quà cho
người thân, bạn bè hoặc để làm kỷ niệm thì nhiều. Vì thế, việc các ga metro
thông với các trung tâm thương mại lớn là bằng chứng biểu hiện của maketting
giao thông-du lịch-thương mại tuyệt vời. Du khách đến Nhật Bản, nhất là
Không thể không nói đến các loại hàng mang tính
souvernir . Ở
4. Du lịch
văn hóa.
Nói đến Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến đất nước Mặt trời mọc- nơi mỗi ngày bình minh đến
sớm nhất trên bờ Thái Bình Dương, đất nước của hoa anh đào mùa xuân, và cả đất
nước của động đất cùng núi lửa.
Truyền thuyết Nhật Bản kể rằng, đất nước này nằm trên
lưng một con rồng, lâu lâu nó lại quẫy mình gây nên động đất. Trước hôm chúng
tôi sang, vùng
Ngay hôm mới sang, Chiến-sinh viên Việt đang học tại
Với du khách, đến với một đất nước, một quốc gia nào
đó, là đến với một nền văn hóa. Cũng như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản từng
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hoa Hạ suốt nhiều thế kỷ. Và cũng bằng những
cách thức tương đồng, Nhật Bản cũng đã biết thoát ra khỏi cái bóng không lồ ấy
để tạo ra một bản sắc văn hóa riêng mình, khá độc đáo. Trong văn hóa ,tín
ngưỡng có sự nhào nặn của cả ba yếu tố Nho-Phật-Thần đạo. Văn hóa Nhật Bản đâu
chỉ có bóng dáng của thiên nhiên như núi Phú Sĩ, hoa anh đào, mà sức lan tỏa
làm nên sự hấp dẫn cho du khách lại mang dấu ấn của con người, đó là trang phục
kimônô, là môn võ vật sumô, là nghệ thuật xếp giấy, là bon-sai, là rượu sa-kê
và những món ăn cá sống, là trà đạo, là kịch Noh ( kịch Nô, một loại kịch cương ), và thậm chí cả là geisha
nữa v.v…
Với trang phục kimônô, với bon-sai và trà đạo, người
Việt đã không còn xa lạ, bởi trong nhiều năm nay, qua giao lưu văn hóa, người
ta đã được biết đến. Song ẩm thực Nhật Bản, thì vài năm gần đây, ở Hà Nội và
Tp.Hồ Chí Minh đã có một số quán rượu sa-kê và món ăn Nhật. Điều tôi muốn nói ở
đây là các shop to nhỏ mà du khách có thể thấy ở bất cứ khu vực nào trên đường
phố Tokyo đều có quầy bán rượu sa-kê,rượu sô-chyu. Có những cửa hàng chuyên bán
rượu. Cũng như rượu vang và cô-nhắc Pháp, whisky Scotch, vodka Nga, hay
như rượu" quốc lủi" đựng trong
vò sành nút lá chuối khô ở ta, rượu sa-kê và sô-chyu cũng mang phong vị từng
vùng khác nhau. Nhưng khoan nói đến mùi vị đặc trưng bên trong, chỉ nhìn kiểu
dáng, màu sắc chai và nhãn mác bên ngoài đã thấy thích thú rồi. Mỗi nhãn mác
đều được trình bày như một bức thư pháp Nhật tự ấn tượng. Du khách đến Nhật
Bản, nhất là đấng mày râu, khó ai có thể bỏ qua không mua vài chai về làm lưu
niệm, làm quà cho bạn bè. Nhân nói đến thư pháp trên nhãn mác rượu, không thể
không nói đến nền thư pháp chính tông Nhật Bản. Ngôn ngữ Nhật Bản hiện nay, được biết, nó được xây dựng trên cơ sở hơn ba
nghìn từ Hán cơ bản (chỉ
phát âm khác, còn giữ nguyên mẫu tự và nghĩa ), cộng thêm mẫu tự Nhật mới mà
thành. Chính vì thế, nền thư pháp Nhật Bản cũng không kém phần tinh tuý, có
chăng chỉ sau thư pháp Trung Hoa mà thôi, song lại có phần độc đáo riêng, được
người Nhật gọi là Thư đạo. Thêm nữa, thư đạo Nhật Bản ít nhiều mang mầu sắc của
Thiền- Thư pháp Thiền ( tức Hítsuzendo
). Nhiều biển hiệu cửa hàng, tên công sở, trường học đều được trình bày theo
lối thư đạo, ngay các phòng khách, phòng trưng bày của các công sở cũng đều có
treo thư đạo, gây cảm giác có gì đó vừa cao thâm, lại không kém phần mỹ thuật, trang
nhã !…
Có một bộ môn nghệ thuật đặc trưng Nhật Bản, một biểu
hiện của văn hóa cổ truyền, đó là kịch
Noh ( Nô ). Được biết, kịch Noh có nguồn gốc và lịch sử hình thành phát triển
từ 800 năm nay, lại được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế
giới. Có gì đó từa tựa như Kinh kịch Trung Hoa, hay Tuồng cổ Việt
Tokyo, thoảng qua
và cảm nhận, thấy thích thú và đáng trân trọng những gì làm nên bản sắc
văn hóa Nhật Bản, nhất là trong thời đại hội nhập thế giới, khi mà xu thế nhất
thể hóa về văn hóa theo kiểu văn hóa-văn minh Âu Mỹ đang thịnh hành. Những gì
ta đã thấy của văn hóa Trung Hoa, thấy ở văn hóa Nhật Bản hiện nay, và cả những
gì ta đang nỗ lực bảo tồn bản sắc văn hóa cổ truyền Việt Nam, gạt đi những vấn
đề còn chưa chuẩn trong công cuộc chấn hưng văn hóa ở mỗi quốc gia, cao hơn ý
nghĩa về khía cạnh du lịch, rộng lớn hơn
cả là tinh thần dân tộc, tất cả đang góp
phần gìn giữ sự đa dạng văn hóa cho thế
giới. Và như vậy, có nghĩa là cho sự phát triển !…
5. Những vấn
đề của một xã hội công nghiệp phát triển.
Cùng với động đất, trước hôm tôi sang mấy ngày, có một
sự kiện cũng không kém phần. Đó là việc đương kim thủ tướng Nhật bản, ( khi đó là ngài Koizumi ) đến viếng đền
Yasukuni, dù chỉ đứng xa chắp tay làm lễ chứ không cúi vái.
Ấy vậy, cũng tạo nên sự phản ứng khá gay gắt từ phía
hai quốc gia láng giềng là Hàn Quốc và Trung Quốc, bởi đền này không chỉ thờ
các liệt sĩ hy sinh cho nước Nhật trong
các cuộc chiến tranh nói chung, mà còn có nhiều vị từng là tội phạm chiến tranh
trong chiến tranh thế giới thứ 2. Rồi cũng trước đó ít lâu, ngài Koizumi cùng
chính phủ của mình đã làm một việc động trời không kém, ấy là việc tư nhân hoá
ngành bưu chính viễn thông, đẩy mấy chục ngàn nhân viên -lao động của ngành này
từ nhà nước thành ra tư nhân. Lại nữa, cũng Chính phủ của thủ tướng Koizumi đã
tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn, từ 21 bộ, sau khi sáp nhập, cơ cấu
lại chỉ còn có 12 bộ. Con số 4.623 tỉ USD là GDP của Nhật Bản năm 2004 được
Ngân hàng thế giới ( WB ) công bố ( đứng
thứ 2 thế giới, sau Mỹ là 11.668 tỉ USD ), càng cho thấy Nhật không chỉ
mạnh về kinh tế, mà còn rất tinh giản và hiệu quả trong vận hành bộ máy hành
chính. Song, nói như người phương Đông thì "chăn nào cũng có rận", điều đó có nghĩa là Nhật Bản cũng gặp
khá nhiều vấn đề của xã hội phát triển.
Không có gì ngạc nhiên, một khi kinh tế công nghiệp
phát triển chóng mặt thì nó sẽ để lại những hệ lụy về mặt đời sống xã hội. Con
người luôn bận rộn và bộc lộ rõ sự co mình, biệt lập với cộng đồng, thậm chí
ngay cả người thân trong gia đình. Chỉ để ý trên metro hằng ngày cũng có thể
thấy được điều này. Các toa xe đông người song yên tĩnh, bởi không ai nói với
ai câu nào, người ta hoặc ngả mình nhắm mắt tranh thủ ngủ thiếp đi, hoặc mơ
màng theo giai điệu âm nhạc từ các máy nghe cá nhân, hoặc chúi mũi vào điện
thoại di động chơi trò chơi điện tử. Xã hội Nhật Bản đã tự cảnh báo về một hội
chứng có tên gọi Hikikomori, hiểu là hội chứng từ chối xã hội. Nó đặc biệt
khu trú trong giới trẻ và ngặm nhấm chí tiến thủ của họ. Nguy hiểm hơn, nó hoàn
toàn có thể biến tướng thành những biểu hiện kỳ quặc của con người dẫn đến hành
vi gây bất ổn cho cộng đồng. Vào những ngày nghỉ, ở một số quảng trường, công
viên hoặc điểm vui chơi công cộng nổi tiếng, người ta có thể bắt gặp rất nhiều
những đám thanh niên ăn vận, đầu tóc kỳ quái, và các cặp đồng tính cũng vậy, họ
tụ bạ vui chơi, phô diễn thản nhiên trước bàn dân thiên hạ. Họ sẵn lòng chụp
chung ảnh với du khách, hoặc trả lời phỏng vấn báo chí. Quảng trường trước khu
đền Minh Trị thiên hoàng là một điểm như thế…
Chuyện vui, người Nhật sử dụng điện thoại di động
thông dụng cỡ nhất nhì thế giới song đố ai có thể mượn máy di động của họ. Vì
không biết, nên tôi đã mượn một lần và dĩ nhiên là thất bại. Điều này được
người bạn đồng nghiệp, anh Lưu Anh Tuấn, một nhà báo của Đài Tiếng nói Việt Nam
thường trú tại Tokyo lý giải, họ luôn cảnh giác đến thành nguyên tắc với việc
dùng điện thoại di động của họ để hù dọa, tống tiền, gửi tin bậy bạ với đâu đó,
nên không cho ai cầm vào máy của mình, dù là người thân quen. Một khi lòng tin
vào con người đã bị lung lay thì chuyện thu mình trước cộng đồng là điều hiển
nhiên.
Các vấn đề thuộc về giới cũng đáng bàn. Nữ giới dần
bình quyền, họ tìm cách thoát ly cuộc sống xã hội để tham gia hoạt động xã hội,
song sự gấp gáp cuộc xã hội cũng lấy đi của họ thời gian và nữ tính, nên vì thế
phụ nữ Nhật hiện đại thường muộn chồng, có xu hướng sống độc thân. Dường như để
bù lại, họ sa vào thuốc lá và rượu. Thêm nữa, theo một điều tra xã hội học thì
phụ nữ Nhật đang có xu hướng thích lấy chồng ngoại quốc giàu có. Và như thế,
một khi các yếu tố xã hội đã tác động được vào phụ nữ và giới trẻ, thì chắc
chắn nó sẽ làm xã hội thay đổi với hàng loạt hệ luỵ…
7. Sinh ra
từ vẻ đẹp Nhật Bản.
Đấy là đề từ
Diễn văn nhận giải Nobel văn học năm 1968 của nhà văn nổi tiếng Nhật Bản- Y.
Kawabata.
Sinh ra từ vẻ
đẹp Nhật Bản, tôi muốn kết phần Du ký
đất nước Mặt trời mọc-xứ sở Hoa anh đào, bằng đề từ của bậc vĩ nhân. Và bằng
cách kể lại vài ba câu chuyện đơn lẻ :
Chuyện thứ nhất:
Tôi có người chị ruột là tiến sĩ nông nghiệp, và người
anh rể, cũng tiến sĩ nông nghiệp, đôi vợ chồng tiến sĩ này hiện cùng công tác
tại Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Họ giỏi tiếng Anh, quan hệ quốc
tế rất rộng, đi nước ngoài thường xuyên như phụ nữ đi chợ. Lẽ dĩ nhiên, khách
Tây Tàu đến ăn cơm với gia đình họ cũng khá thường xuyên. Trong số khách ngoại
quốc ấy, tôi có chú ý đến mấy vị khách người Nhật Bản, đúng ra là ba lão nông
Nhật Bản. Vậy thì, lão nông của một đất nước phát triển cỡ hàng đầu thế giới
khác chi với lão nông dân Việt Nam ( thành thật mà tự nhận, nền nông nghiệp còn
lạc hậu ) ?
Trước tiên, về xuất xứ của ba lão nông Nhật Bản này.
Nguyên người anh rể tôi, cách đấy dăm năm, có một khóa học và thực tập quốc tế
về quy trình công nghệ nông nghiệp sạch kéo dài tại Hokaido ( một đảo lớn ở miền bắc quanh năm giá lạnh
Nhật Bản ). Anh đã từng đến ở nhiều ngày để tham khảo công nghệ nông nghiệp
sạch tại trang trại của ba lão nông này. Mỗi lão nông là chủ của một trang trại
cỡ hàng trăm héc-ta đất đai, canh tác bằng máy móc hiện đại, sử dụng máy bay
nhỏ để phun thuốc, bón phân. Rồi thành quen thân. Chẳng hiểu, qua anh, họ tìm
hiểu được gì về Việt
Chuyện thứ hai:
Thời gian ở Tokyo, đoàn chúng tôi ở trong một tòa nhà
khách cao 9 tầng của Trung tâm Y tế quốc tế Nhật Bản. Hằng ngày, đi làm hay đi
chơi, chúng tôi đều phải đi bộ chừng hơn nửa cây số để ra ga metro Kawamatsu.
Đoạn phố này hơi dốc. Và chỉ một ngày sau, chúng tôi đã tìm được đường đi tắt,
đi loanh quanh qua một ngõ nhở giữa khu dân cư. Lặng quan sát hai bên xem dân
tình cái đất nước giàu có và hiện đại cỡ bậc nhất thế giới này, lại cũng dân
mũi tẹt da vàng như dân mình, xem họ sinh sống ra sao? Song chỉ thấy vắng lặng,
duy chỉ những sợi dây căng ngang trên hiên mỗi nhà thì cũng đày rẫy các cặp
treo phơi quần áo. Để ý mãi mới thấy một nhà, dưới sân có đôi cụ già, một nam
một nữ, cỡ tuổi 80-90, ngồi chung trên một băng ghế tựa dài, mỗi người ở chót
một đầu, mặt ngoảnh ra hai phía ngược nhau, và hình như họ đều lẩm bẩm gì đấy.
Tôi đồ là cặp vợ chồng già, và không biết họ đang nói chuyện với nhau hay lẩm
bẩm tự nói chuyện với chính mình đây? Suốt cả tuần sau đó, sáng chiều ngang
qua, đều thấy vậy. Chắc hẳn cặp vợ chồng già này lẩm cẩm, lẫn cẫn cả rồi. Họ
hẳn cũng bị con cái bỏ mặc, hằng ngày, đợi trời hửng nắng, ra sân ngồi hong
nắng, trò chuyện với nhau và tự trò chuyện với quá khứ của mình ? Tự nhiên rùng
mình, rồi chạnh lòng mà nghĩ, mai sau, nhờ trời cho thọ đến cái tuổi ấy, chẳng
hiểu rồi mình có như thế không ? E rằng, còn tệ hơn nữa thì sao đây?...
Chuyện thứ ba:
Khi đi thăm thú Tokyo, tôi đã ngang qua khu Lầu công
chúa, đến tận cổng Hoàng cung Nhật Bản, ngắm nhìn, chụp ảnh. Lúc ấy, chộn rộn
nhiều cảm xúc chen lấn nhau, sau về mới ngẫm nghĩ, xem cái mô hình Nhà nước
Quân chủ lập hiến ( Chính phủ Hoàng gia
) Nhật Bản này nó ra sao ? Trên thế giới hiện nay, ngoài Nhật ra, còn có một số
quốc gia theo mô hình này như: Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch,
Thái Lan, Campuchia… Đáng lý ra, còn có cả Trung Quốc nữa, nếu như Triều đình
nhà Thanh (cụ thể là Từ Hy Thái Hậu)
không bị Viên Thế Khải lừa một cú ngoạn mục. Lịch sử cận đại Trung Hoa, theo
tôi biết, Viên Thế Khải đã cùng một lúc lừa dối cả Hoàng đế Quang Tự và Từ Hy
Thái hậu. Họ Viên kia vờ liên kết với vua Quang Tự lật đổ Từ Hy và canh tân đất
nước, song đến lúc khởi sự, họ Viên lại mật báo cho Từ Hy để bà này ra tay
trước, bắt giam lỏng Quang Tự tại Di Hòa Viên cho đến khi vị hoàng đế này chết.
Kẻ hưởng lợi không ai hết, ngoài họ Viên. Sau này, nhà Thanh đổ, Viên Thế Khải
đục nước béo cò, cướp quyền của những người dân chủ, lên làm tổng thống Trung
Hoa dân quốc, và sau đó xưng Vua, cho đến khi bị giết. Thực ra, trước đó, khi
Thanh triều còn, với sự dàn xếp của Viên Thế Khải ( có sự hậu thuẫn của Anh quốc và liên minh châu Âu ), Từ Hy Thái
hậu khi đó đã định thỏa hiệp với Tôn Dật Tiên ( cùng chính sách "Tam dân " của ông ), về quan điểm,
nhằm tiến tới hình thành một nhà nước Quân chủ lập hiến ( hạt nhân là chính phủ hoàng gia nhà Thanh ).
Về sự ưu việt hay không của mô hình quản lý này, tôi
không dám lạm bàn, bởi mình hiểu chưa thấu đáo và kiến thức còn nông cạn.
Thực ra, lịch sử Việt nam ta đã cho thấy, ta từng có
mô hình nhà nước kiểu tương tự từ rất sớm. Đó là bắt đầu từ thời kỹ Lê Trung
Hưng, với mô hình song trị, Vua Lê-Chúa Trịnh. Trong mô hình nhà nước này, Vua
Lê là chủ nhân đất nước, ra chiếu chỉ, ban hành phép nước, nhưng điều hành là
Phủ Chúa ( cụ thể là Chúa Trịnh ).
Với các vị chúa anh minh như Trịnh Tùng, Trịnh Cương, Trịnh Tráng, đất nước ta
dưới triều Hậu Lê đã có một thời gian dài thịnh trị. Về việc này, tôi xin phép
sẽ bàn riêng trong một bài viết khác. Nêu ra đây, để thấy rằng, trong lịch sử
nước nhà, cha ông ta cũng đã sớm sáng tạo ra một mô hình quản lý đất nước khá
tiên tiến.
Với ba câu chuyện vừa nêu, tôi không có ý định kiến
giải gì. Chỉ càm nhận đôi điều nho nhỏ. Ấy là : Vẻ đẹp nào cũng có khiếm khuyết
của riêng nó ( tỷ như : ngọc dù quý đến
đâu cũng có vết, tấm huy chương danh giá nào cũng có mặt trái của nó ). Thứ
nữa, hành trình đến Chân-Thiện-Mỹ thật gian khó làm sao !
Phải vậy không, các bạn đọc yêu quý của tôi ?
8. Chúa tể
của núi tuyết.
Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ
sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel
văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác
giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới
: Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của
núi. Cùng với đó, còn kể đến Cố đô,
Vũ nữ It-zu và Người đẹp say ngủ, và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất
sắc nữa ...
Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản,Y. Kawabata là chúa
tể. Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn
chương, và mới đây là Haruki Murakami, người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn
chương trong tương lai, song họ khó có thể lật được ngôi chúa tể của Y.
Kawabata. Riêng với tôi, chính Kawabata cùng với những tác phẩm của mình là
diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả James Clavell, một tác phẩm văn học
sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở
đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên,
phải chờ đến Kawabata, tinh thần văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét. Bấy
lâu nay, nói đến Nhật Bản, người ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai
(Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu
Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.
Tại sao lại thế ? Đơn giản, bởi Kawabata khiến cả thế
giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm
văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ
là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của
nền văn hóa Nhật và đồng hóa thành các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều
có thể tìm thấy từ đấy những gạch nối kia ( hoa
anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về
ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu
sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...
Mùa thu năm 2005, tôi sang
Trở lại với mùa thu
Sau này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học
Nhật Bản cũng không nỡ chê trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng
về tinh thần, về vẻ đẹp, về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho
một nhà văn của họ, người đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh,
Nobel văn chương. Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa Nhật Bản hôm ấy không tài
nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của
Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ
nữ It-zu, Người đẹp say ngủ, đó
là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra tiếng Việt, và dạo ấy do đời
sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng loại giấy xấu màu xám đen, xù
xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể biết được là, đúng vào lúc tôi có
dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm
về những gì nhà văn này đã viết từ nửa đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về
Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y.
Kawabata dày hơn nghìn trang in trên giấy loại tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel
văn học. Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm nhiều tác phẩm khác của Kawabata,
nhất là Diễn từ Nobelcủa ông, kể cả
bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc
Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận của mình về con người và giá
trị văn chương của ông không mấy khác xa. Y. Kawabata được trao Nobel văn chương
bởi những lý do, như : " Người ta
đặc biệt ca ngợi Y. Kawabata như một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý
phụ nữ ." ; " Tác phẩm của Y.
Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh
và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và
thân phận con người ": và nữa: " Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy
tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng
của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với
phương Tây". Ngay chính với Kawabata, Diễn từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông
đã lấy tên " Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật
Bản ", như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế
nào! Tôi đặc biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ
thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ ấy có tên là
Bản
lai diện mục : " Hoa thắm
mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi
". Tôi không dám sa đà vào diễn từ của Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình
sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi
đọc những kiệt tác văn chương của ông, tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay
mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm
tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ, những phong cảnh thiên nhiên đẹp một
cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo huyền bí, những phong cách quý tộc vừa
trang nhã vừa suy đồi, những phong tục dân gian khác lạ, những bóng hình của
nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất, tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám
ảnh ta !...
Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không có thời gian và
điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô
Gần đây, tôi có dịp tiếp xúc, trò chuyện với một
bạn gái trẻ Nhật Bản, cô Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt
thuộc Ban Phát thanh & truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản. Cô có đợt
tìm hiểu và học việc tại cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho
tôi hiểu cái tên Sachiko, âm Hán Việt là Tảo
Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm.
Là một nữ nhà báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì
không vướng rào cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong
tục Việt, và ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật. Tôi hỏi cô về
Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về
Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn
chương cho tổ quốc, song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh
thần và vẻ đẹp Nhật đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai về Kawabata ? Tôi
lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi
hai phía trước sân vườn ngôi nhà bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những
người già ngả lưng trên ghế đá công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ
lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ có
Kawabata ? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh thủ
lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi điện
tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt mỏi,
họ có gì về Kawabata không ?
Người ta bảo Kawabata tự sát vì bế tắc. Vậy xã hội
Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động gì lớn khiến ông
bế tắc? Hay tự nội tâm ông ? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn chương, một đỉnh cao
chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp trái đất này nằm mơ
cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy ? Chẳng vì lẽ gì
cả. Thực ra, câu kết của Diễn từ Nobel
từ năm 1968, Kawabata đã bộc lộ : "
Những câu thơ Bản lai diện mục ca
ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".
Vậy là đã rõ.
Tự chấm dứt sự tồn tại về thể xác, với Y. Kawabata,
đơn giản, chỉ là một cách Thiền !
Trở lại đất nước Mặt trời mọc
1. Tinh thần
& Ý thức Nhật Bản.
Sau 9 năm, tôi trở lại đất nước Mặt trời mọc. Duyên nợ
thế nào, cũng lại là mùa thu. Thực ra, mùa nào cũng có các đẹp của nó, song
riêng với các quốc gia phương Bắc, thời tiết và cảnh sắc mùa thu thường là
tuyệt vời hơn cả. Với Nhật Bản, nếu đến vào mùa xuân cũng rất chi là thú vị,
bởi khi xuân sang, không gian sẽ tràn ngập hoa anh đào (sakura). Nhưng thôi, hy vọng là lần sau nữa...
Khoảng thời gian 9 năm, không xa mà cũng chẳng gần. Nó
đủ lâu để kỷ niệm của lần trước thành ký ức, và nó cũng đủ gần, để những gì
mình chưa quên có thể lấy ra mà đem so sánh với bây giờ. Thời điểm cất cánh và
thời gian bay từ Nội Bài đến Narita gần như không đổi, nhưng lần này may mắn
thế nào lại được ngồi ghế 1A, được phục vụ chu đáo, và không mất ngủ, thế nên,
tinh thần sảng khoái để mà ngâm ngợi. Ngay như món mì lạnh và cá sống truyển
thống Nhật Bản, lần trước mình còn cả tẩm chưa biết ăn, còn nuốt không trôi,
thì nay cũng đã biết nhấm nháp để mà thưởng thức sự tinh tế của món ăn... Song
đó là chuyện vặt, không đáng bàn...
Điều đáng nói ở đây, giữa khoảng thời gian ấy, dù với
tư cách là một trong mấy nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới, Nhật Bản cũng
phải trải qua thời kỳ quẫy đạp nguy khốn để tìm cách thoát khỏi sự đè nén của
hòn đá tảng " suy thoái kinh tế trên quy mô toàn cầu ". Kinh tế xã
hội trì trệ, hầu như không tăng trưởng, thậm chí còn tăng trưởng âm. Thêm nữa,
đúng với quy luật phương Đông "họa vô đơn chí", Nhật Bản còn phải
gánh chịu "họa giời đày", ấy là động đất sóng thần khủng khiếp năm
2011. Chúng ta có thể tìm thấy những dòng tin tức như thế này tràn ngập trên
các phương tiện thông tin đại chúng khắp thế giới về tai họa khủng khiếp ấy:
" Trưa ngày 11/3/2011, một trận động
đất mạnh 9 độ Richter xảy ra ngoài khơi phía đông bắc Nhật Bản, kéo theo những
cột nước khổng lồ đập vào bờ. Ba tỉnh miền đông bắc Nhật và nhiều tỉnh lân cận
chịu thiệt hại nặng nề với 15.000 người chết và hàng nghìn người mất tích. Động
đất và sóng thần gây hư hại hệ thống làm mát của nhà máy điện hạt nhân
Fukushima I, tạo nên cuộc khủng hoảng hạt nhân nghiêm trọng nhất thế giới kể từ
sau
Giờ là điều đáng bàn, nước Nhật đã đứng dậy như thế
nào và làm những gì sau tai họa khủng khiếp ấy ? Sẽ chẳng có ai có thể liệt kê
chính xác được xem người Nhật đã làm như thế nào, làm được những gì và còn cần
bao lâu nữa để khắc phục thảm họa kép động đất-sóng thần ấy. Vậy thì chỉ có thể
nói rằng, tinh thần và ý thức Nhật Bản
đã giúp họ đứng dậy và làm lại tất cả.
Lần giở lịch sử nước Nhật cận-hiện đại xem họ đã làm
gì. Từ thế kỷ 19, Minh Trị thiên hoàng ( Meiji
) đã sớm tiếp thu tư tưởng tiến bộ châu Âu, để canh tân đất nước, vị vua này đã
cử nhiều người tài giỏi ra nước ngoài tìm tòi, học hỏi, để rồi đem những thứ
văn minh tiên tiến mà họ biết được về cải biến nước mình, khiến nước Nhật nhanh
chóng thoát khỏi lạc hậu trì trệ mà tiến lên. Còn sau thế chiến thứ 2, một nước
Nhật kiệt quệ và tan nát chết chóc bởi phải gánh chịu hậu quả từ việc Mỹ và
đồng minh đã giã xuống 2 quả bom nguyên tử vào Hỉosima ( ngày 06.8.1945 làm 140,000 người thiệt mạng ) và Nagasaki ( ngày 09.9.1945 làm 74.000 người thiệt mạng
). Thêm nữa, về thiên tai, theo thống kê, thì trong vòng một thế kỷ trở lại đây,
đã có 24 trận động đất xảy ra có cường độ từ 6 trở lên ( theo cách tính mức độ động đất của Nhật Bản, tương đương với độ
richter của Phương Tây ), trong đó có nhiều trận gây đổ nát nặng nề và làm
thương vong lên đến hàng trăm ngàn người..
Vậy mà vẫn có một Nhật Bản hùng mạnh, tiên tiến và quy
củ như chúng ta thấy ngày nay. Để có được như vậy, hẳn từ chính phủ đến người
dân Nhật Bản đã phải nỗ lực khôn cùng, song chung quy, xuất phát điểm vẫn là từ
tinh thần và ý thức Nhật Bản.
Xin trở lại thời điểm khó khăn gần đây nhất, ấy là
thảm họa kép động đất-sóng thần năm 2011. Khi ấy, báo chí của ta và thế giới
nói nhiều đến việc nước Nhật gượng dậy khắc phục hậu quả. Trong muôn vàn thông
tin liên quan, người ta chú ý và lấy làm xúc động, khâm phục trước một thông
tin, ấy là chuyện một cậu bé 9 tuổi, học sinh lớp 3, bị mất cả gia đình vì sóng
thần cuốn trôi, đã từ chối suất lương thực cứu trợ khẩn cấp từ một viên cảnh
sát, em kiên nhẫn xếp hàng trong giá rét chờ đến lượt mình... Không rõ mọi
người nghĩ sao và lý giải thế nào, riêng tôi, thấy rằng, chẳng cần tìm đâu xa, đây thực sự là một biểu tượng giản dị nhất
về tinh thần và ý thức Nhật Bản!...
Trở lại chuyến sang Nhật Bản của tôi vừa qua. Trước
đó, trong vòng chưa đầy nửa tháng, đã có liên tiếp 2 cơn bão lớn đổ bộ vào
Tokyo và nhiều vùng của Nhật Bản. Khi chúng tôi sang thì bão mới đi qua mới có
một ngày. Cả bầu trời và mặt đất vùng vịnh
Đáng lý ra, tôi sẽ phải minh chứng ngay cái lý sự về tinh thần và ý thức Nhật Bản mà tôi đặt
ra trong bài viết này, nhưng xin hãy khoan, trước hết hãy ngó nghiêng đây đó và
cũng nên biết tận hưởng sự kỳ thú và tuyệt vời của thiên nhiên mùa thu, cùng sự
thú vị từ di sản lịch sử, văn hóa và ẩm thực xứ sở này đã chứ...
2. Chuyện
vặt phố phường.
Vâng, hôm tôi đến Nhật Bản, trời mưa lả đả cả ngày,
kiểu mưa rớt sau khi bão đi qua. Mưa ướt át, ít nhiều cản trở cho người đi bát
phố và shoping cuối tuần. Vì ngày hôm sau mới là ngày làm việc, nên chúng tôi
tranh thủ ngó nghiêng phố xá
Nếu như ở ta, trong điều kiện như vậy, khi khách vào các
cửa hàng sẽ gây phiền hà và làm ướt át nền nhà, song ở đây thì không. Ngay
trước cửa ra vào, luôn có một máy tự động, để khách hàng thu ô cắm vào máy tự
động và khi lấy ra, chiếc ô đã được bọc kín bởi một túi ni lông và khách hàng
có thể mang theo bên mình vào trong, vừa tiện lợi lại vừa không làm ướt nền
nhà. Ôi, lại là ý thức đến thành thói quen Nhật Bản đây mà.
Trưa hôm ấy, chúng tôi dùng cơm ở một cửa hàng đồ sống
ngay tại quận trung tâm Shinjuku ( kiểu
như quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ). Các món ăn bầy ra đều là thức ăn sống, cá
sống các loại, trứng cá sống, trứng gà cũng sống. Và đương nhiên, các loại rau
cũng sống nốt. Chỉ trừ món tảo biển là được nấu chín thành canh để thực khách
húp cho ấm. Với những ai ăn lần đầu, thực lòng cũng không đễ nuốt, song khi
biết cách nhấm nháp cùng với ma-zi, mù-tạt và chút rượu sô-chu thì cũng khá thú
vị. Thôi thì, ẩm thực và khẩu vị từng người, không dám bàn, bởi đã là khẩu vị
thì mỗi người một kiểu, khó mà khen chê. Nhưng điều đáng nói ở đây, là độ sạch,
độ an toàn của đồ ăn thức uống. Ăn sống đủ kiểu như vậy, mà chẳng một ai đau
bụng, chẳng ai bị "Tào Tháo đuổi"
cả. Mấy cậu phóng viên nhà VOV thường trú tại Nhật Bản bảo: " Anh chị yên tâm đi, thực phẩm ở đây sạch
tuyệt đối ". Nói như vậy, xem
như là một sự đảm bảo về tiêu chuẩn sạch
cho thực phẩm ở Nhật Bản. Thấy người lại ngẫm đến ta, ở mình, khuất mắt trông
coi, ăn thì cứ ăn, chứ thực phẩm được nấu nướng chín mà đâu có yên tâm, từ rau
cỏ đến thịt thà, tôm cá, trứng, hầu như cái gì cũng bị tưới tắm, tẩm ướp, bảo
quản bằng các loại thuốc nào đó, không an toàn. Chẳng lẽ, sợ mà nhịn đói không
ăn uống sao ?...
Chiều tối hôm ấy, chúng tôi về nhà một cậu phóng viên
của Cơ quan VOV tại
Tôi nhớ lại chuyện cũ. Ấy là chuyến sang công tác Nhật
Bản năm 2005 theo lời mời của Bộ Y tế. Khi ấy, đoàn chúng tôi ở tại nhà khách
của Trung tâm Y tế quốc tế Nhật Bản ( tại
quận trung tâm Shinjuku ). Buối tối hôm mới đến, chúng tôi bách bộ ra ngoài
phố gần nhà khách mình ở. Khi ngang qua đường ở một ngã ba, vẫn đang đèn đỏ cho
người đi bộ, quan sát thấy đường vắng tanh, không có chiếc xe nào chạy theo
chiều có đèn xanh, một người trong chúng tôi ( lúc đó đang là cán bộ có chút chức sắc thuộc Văn phòng của một Bộ nọ,
có lẽ bây giờ anh ta đã nghỉ hưu), hẳn nghĩ là trời tối không có ai thấy
nên ngang nhiên băng qua đường theo vạch dành cho người đi bộ. Khi sang đến bên
kia đường, lập tức anh ta phải đối mặt với viên cảnh sát. Chúng tôi không hiểu
chuyện gì xảy ra. Lúc có tín hiệu xanh cho người đi bộ, chúng tôi sang được bên
kia đường, cả nhóm hỏi nhau, rồi tiếng Anh xịn, tiếng Anh bồi, thêm cả chân tay
khua khoắng một hồi với viên cảnh sát, mới biết anh ta phạm lỗi sang đường trái
phép và sẽ bị giữ tại đồn cảnh sát. May mà anh ta có sẵn trong túi áo chiếc namecard của người cán bộ Y tế Nhật Bản
phụ trách đoàn công tác chúng tôi, chìa ra cho viên cảnh sát xem. Lại sau một
hồi xi xồ tiếng Nhật với nhau qua điện thoại giữa viên cảnh sát với người nhân
viên y tế Nhật bản, chàng Phó chánh nhà ta mới được viên cảnh sát đồng ý thả ra
vì đã có người đứng ra bảo lãnh, nộp phạt cho... VỊ này bị một phen hú vía, còn
chúng tôi được ngay một bài học về việc cần phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật
nước sở tại.
Lại ngẫm, luật giao thông ở ta, luật thì cứ luật, đèn
tín hiệu không mấy ý nghĩ, bởi ý thức nhiều người chúng ta vẫn là "có đi được hay không, chứ không phải là được
đi hay không được đi". Còn ở họ, và nói chung các nước văn minh khác,
chỉ được phép hiểu "tín hiệu cho
phép được đi hay không được đi ".
Chung quy, vẫn là câu chuyện cũ, ý thức tuân thủ pháp
luật của cả cộng đồng và mỗi người mà thôi ...
3. Núi Phú
Sĩ, biểu tượng của Nhật Bản
Nói đến núi, người ta nghĩ ngay đến yếu tố vật chất và
địa lý của nó. Vâng, đương nhiên, Phú Sĩ là vậy, song với tôi, đây còn là biểu
tượng tính thần cốt cách và ý chí vươn lên của quốc gia này.
Về yếu tố địa chất, địa lý của Phú Sĩ, ta có thể tìm
thấy những dòng giới thiệu tóm tắt như thế này :
" Núi Phú
Sĩ hay núi
Tôi nghĩ, tóm tắt như vậy, cũng là khá đủ thông tin cơ
bản nhất về núi Phú Sĩ rồi. Tôi cũng không bàn nhiều về việc Phú Sĩ là đề tài
muôn thuở cho văn học, hội họa, âm nhạc của Nhật Bản, mà điều tôi muốn nhấn
mạnh, chính là biểu tượng về tinh thần dân tộc và sự vươn lên mãnh liệt của đất
nước này...
Có thể nói, về cấu trúc địa chất, địa tầng của Nhật
Bản với nhiều đảo lớn nhỏ, đều là sản phẩm của động đất và núi lửa từ nhiều
triệu năm trước mà nên. Vì thế, ngay từ thuở hình thành, con người và vạn vật
nơi đây đã phải sống trong môi trường, điều kiện khắc nghiệt, phải chấp nhận và
dần biến đổi để quen với hoàn cảnh tự nhiên ... Cứ thế, mà nên hình thái đất
nước, nên tính cách con người. Chấp nhận, đối mặt, hành xử khôn khéo, dũng cảm
đón nhận. đứng dậy và vươn lên mạnh mẽ sau mỗi thiên tai... đã làm nên tinh
thần và tính cách Nhật Bản. Vì lẽ ấy, mặc nhiên người Nhật Bản xem núi Phú Sĩ
như biểu tượng về tinh thần và tính cách của dân tộc mình. Và, tinh thần Võ sĩ
đạo ( Samurai ), dù ít nhiều còn khía cạnh tiêu cực, cũng được xem là
biểu trưng của con người Nhật Bản.
Hãy xem, người Nhật dạy con em mình, tại gia đình,
trong nhà trường và ngoài xã hội, rằng: Nước
Nhật vốn nghèo tài nguyên, thiên nhiên không ưu đãi gì, lại thường xuyên phải
hứng chịu thiên tai, vậy nên, mỗi người dân phải biết cần cù, sáng tạo trong
lao động, sẵn lòng học hỏi điều hay trong thiên hạ, dũng cảm chống chọi với
thiên tai, vươn lên mạnh mẽ, mới hy vọng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu mà nên
giàu có, văn minh... Thiết nghĩ, lời răn dạy ấy, không riêng đúng với nước
Nhật, mà nước nào cũng có thể học được gì từ đấy.
Vậy là, lần này, tôi và đồng nghiệp đã được đặt chân
lên Phú Sĩ, dù là mới lên được quá lưng chừng. Đường ô tô thuận lợi đưa du
khách tập kết ở độ cao trên 2 nghìn mét so với mực nước biển. Với độ cao tuyệt đối như vậy, đỉnh Phú Sĩ
quanh năm tuyết phủ, bất kể mùa nào. Những ai có sức khỏe, thời gian, và mong
muốn chinh phục đỉnh núi, thì có thể thực hiện ước muốn của mình bằng cách leo
núi tiếp từ điểm tập kết này. Thật may, hôm chúng tôi đến, vào tiết cuối thu,
thời tiết tốt, đúng thời điểm lá vàng lá đỏ, cảnh sắc thiên nhiên suốt dọc
đường từ chân núi theo lên, thật tuyệt vời. Loài cây lá đỏ vào mùa lá đỏ, tự
nhiên là vậy, song ở đây, hầu hết cỏ cây, và cả loài thông vốn lá xanh trong mọi
điều kiện khắc nghiệt khô hạn, cũng đồng cảm mà dần ngả vàng đến thành vàng
suộm...
Ôi, chỉ còn biết nhìn ngắm cho thỏa thuê, cho no con
mắt, rồi lựa khuôn hình đẹp mà thu vào ống kính của mình rồi cất giữ, bởi rất
có thể, rất hiếm cơ hội mà quay trở lại đây, kể cả khi mình được quay lại nước
Nhật thêm vài lần nữa, thì cũng đâu có dễ để lên với Phú Sĩ vào mùa thu quyến
rũ đến như vậy ...
4. Chấm phá về
văn hóa-tín ngưỡng Nhật Bản qua đền đài...
Văn hóa-tôn giáo, tín ngưỡng Nhật Bản, trước hết, được
thể hiện đậm nét qua đền đài, chùa chiền. Và không thể không nói đến Minh Trị
thần cung và đền Yasukuni cùng sự ảnh hưởng của nó đến tinh thần văn hóa Nhật
bản...
Điện thờ vua Minh Trị được dựng sau khi nhà vua từ
trần ( 30-7-1912 ) và khánh thành vào đúng ngày kỷ niệm sinh nhật thiên hoàng
năm 1920. Toàn bộ các công trình thời ấy đã bị thiêu hủy bởi bom đạn không quân
Mỹ dội xuống thủ đô
" Thiên
hoàng Minh Trị (明治天皇-Minh Trị
Thiên hoàng-Meiji-tennō?) (3 tháng 11 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912), còn được
gọi là Minh Trị Đại đế, Minh Trị Thánh đế, Mutsuhito Đại đế, là vị Thiên hoàng
thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống (kể từ khi vua
Jimmu lên ngôi năm 660 TCN ), trị vì từ ngày 3 tháng 2 năm 1867 tới khi qua
đời. Ông được coi là một vị minh quân có công lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản,
đã canh tân và đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ
trở thành thuộc địa của các nước đế quốc phương Tây giữa lúc chủ nghĩa thực dân
đang phát triển mạnh. Ông là vị Thiên hoàng đã thực hiện cuộc cải cách Minh Trị
theo xu hướng tư bản chủ nghĩa, dời đô từ Kyōto về Tōkyō, bóp chết phong trào
Tự do Dân quyền và ban hành bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản
(1889), khiến quốc gia này theo thể chế quân chủ lập hiến. Dù là cuộc cách mạng
tư sản không triệt để, ông đã tạo điều kiện cho nước Nhật phát triển theo đường
lối chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc... Nhật Bản vươn lên đứng hàng ngũ
các cường quốc thế giới. Ngoài ra, giáo dục cũng là một lĩnh vực mà Minh Trị
quan tâm đến..."...
Một ngôi đền thiêng nữa ở Nhật Bản không thể không nói
đến, đó là đền Yasukuni: Đền Yasukuni (靖国神社-Yasukuni Jinja-Tĩnh Quốc thần xã ), là nơi thờ phụng những người lính tử trận vì đã
chiến đấu cho Thiên hoàng. Tiền thân của đền thờ này là Tōkyō Shōkonsha (東京招魂社 hay Đông Kinh Chiêu Hồn xã), "đền gọi hồn người chết tại Tokyo",
được xây dựng tại cố đô Kyoto vào năm 1886. Đến năm 1875, Thiên hoàng Minh Trị
quyết định dời Tōkyō Shōkonsha về Tokyo và đổi tên thành Yasukuni với mục đích
biến đền này trở thành một địa điểm linh thiêng, đề cao bản sắc dân tộc và là
nền tảng tinh thần cho Nhật Bản... Đến tháng 10 năm 2004, đã có 2.466.532 người
lính Nhật Bản và thuộc địa của Nhật Bản (chủ
yếu là Triều Tiên và Đài Loan) được ghi tên trong đền Yasukuni. Hiện nay,
đền Yasukuni trở thành một địa điểm gây tranh cãi không chỉ trong xã hội Nhật
Bản và cả ở một số quốc gia đã từng bị Nhật Bản xâm lược vì trong số gần 2,5
triệu người lính ấy, có cả những người tham gia lực lượng phát xít Nhật và
những tội phạm chiến tranh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trung Quốc, Đài
Loan, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên luôn phản đối việc này vì không chấp nhận
việc thờ phụng những tội phạm chiến tranh. Các lần đến thăm đền của Thủ tướng
Nhật Bản dù với tư cách cá nhân hay nhà nước đều luôn dẫn đến căng thẳng về
ngoại giao giữa Nhật Bản với các quốc gia trên...
Vậy thì tại sao, đền đài lại thể hiện đậm nét văn
hóa-tôn giáo-tín ngưỡng Nhật Bản đến vậy ? Chung quy, là bởi, người dân Nhật
Bản vốn theo Thần đạo.
Thần đạo (tiếng Nhật: 神道, Shintō) là tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Nhật
Bản.Thần đạo có rất nhiều các thần thánh, có đến 8 triệu thần (神 kami). Tuy một số các vị thần này được nhân cách hóa,
đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh hồn của đất, trời, Mặt
Trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo, gấu và người quá
cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú ngụ ở tầng cao
nhất trên thiên đàng gọi là "cao
thiên nguyên" (高天原
takama-ga-hara), và chỉ rời khỏi đó khi được mời xuống các đền thờ trong các
nghi lễ.
" Nghi lễ
trong Thần đạo để cầu nguyện hay cảm tạ các thần thường được tổ chức tại các
thần xã (神社) hoặc những
nơi linh thiêng đặc biệt. Những linh vật thường được dâng lên thần linh là vải,
gương hay kiếm. Nghi lễ tẩy trần rất quan trọng, người làm lễ phải giữ cho mình
được trong sáng để được tĩnh tâm và có được may mắn. Ngày nay, các hoạt động
nghi lễ Thần đạo thường được gắn với lễ hội, lễ cưới truyền thống hay năm mới.
Tuy nhiên, người ta cũng thường hay đến đền để cầu nguyện và dâng lễ (thường là
chỉ bỏ vài yen vào thùng rồi cầu xin thần), hay mua bùa may mắn. Và ở nhà cũng
thường có thần bằng (神棚 kamidana) để
thờ các linh hồn "...
Về cơ bản, tư tưởng của Thần đạo khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con
người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác...
Trong chuyến công tác sang Nhật Bản lần trước ( 2005
), tôi đã đến thăm viếng Minh Trị thần cung. Sau 9 năm, cảnh sắc không có gì
khác trước, vẫn ngăn nắp, sạch sẽ và tấp nập. Vẫn chỗ bày hiến tửu, hiến đăng (
hiến tế rượu và đèn ), vẫn người ghi
thẻ, vẫn lễ hiến tế... Khác ở chỗ là không gặp Triển lãm cúc hoa, mà lại gặp
triển lãm xe hơi cổ... Có chút gì đó bâng khuâng, ngẫm ngợi về những gì mà đất
nước này đã trải qua trong gần chục năm qua...
Lần trở lại
Hoàng hôn cuối thu xuống nhanh, phủ xuống bầu không
của ngôi đền Yasukuni khiến nó thêm huyền bí và có gì đó ma mị, gờn gợn lạ...
May mà gặp được một Triển lãm Cúc hoa
ngay phía ngoài cổng đền chính. Các sắc màu trắng, vàng, tím, nâu đỏ cúa những
bông cúc đại đóa Nhật Bản kiêu sa, tuyệt đẹp như một sự cứu rỗi tinh thần, khơi
gợi và đem lại chút hứng khởi trong lòng...
5... &
Chùa chiền,
Mặc dù tôn giáo, tín ngưỡng gốc của Nhật Bản là Thần
đạo, song có thể nói rằng, Nhật Bản cũng như nhiều quốc gia khác ở Châu Á, Đông
Á ( Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên )
là quốc gia Phật giáo. Chẳng hạn, như Trung Quốc, vốn tôn giáo gốc là Đạo giáo,
song hiện nay, phần đông người dân Trung Quốc lại theo Phật giáo...
Để chấm phá sự biểu hiện của văn hóa-tôn giáo,tín
ngưỡng Nhật Bản qua một số chùa chiền nổi tiếng của Kyoto trong chuyến công tác
tại xứ sở này mà tôi có dịp viếng thăm, thiết tưởng, cũng nên tóm tắt chút ít
về lịch sử và sự phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản :
" Theo Niên giám tôn giáo của Cục Văn hóa Nhật
Bản thì Nhật Bản là một quốc gia Phật giáo lớn nhất thế giới với 127 triệu Phật
tử, 250 ngàn tăng ni. Với khoảng 75000 đền chùa và hơn 30000 tượng Phật các
loại, đây là con số vô cùng lớn khi đem so sánh với các nước Phật giáo khác.
Ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự) và những văn thư kinh điển
xưa nhất thế giới đều nằm ở Nhật. Mặc dù vậy đại bộ phận người dân Nhật Bản
hiện nay đều không theo một tôn giáo, tín ngưỡng cụ thể nào, và cũng rất ít
người tự xem mình là Phật tử... Phật giáo Nhật Bản có rất nhiều tông phái khác
nhau. Ở đây trình bày hệ phả và liệt kê tông phái của 13 tông phái theo hệ
thống thường được nhắc đến phổ biến hơn cả là hệ " Thập tam tông thập lục phá " ( Hoa Nghiêm Tông, Pháp Tướng
Tông, Luật Tông, Chân Ngôn Tông, Thiên Thai Tông, Nhật Liên Tông, Tịnh Độ Tông,
Tịnh Độ Chân Tông, Dung Thông Niệm Phật Tông, Thời Tông, Tào Động, Lâm Tế,
Hoàng Bách )... Đạo Phật bắt đầu từ Ấn Độ
từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Một nhánh chính của Phật giáo, nhánh
Mahayana hay gọi là Phật giáo Đại thừa đã du nhập vào Nhật Bản. Phật giáo được
du nhập vào Nhật từ Trung Hoa và Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc
thân hữu Triều Tiên Kudara vào thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên. Trong khi Phật
giáo được giới quý tộc cai trị ủng hộ, lúc đầu nó lại không phổ biến trong giới
thường dân vì những lý thuyết phức tạp của nó...".
Trong chuyến công tác Nhật lần này, chỉ có 2 ngày trời
tính cả thời gian đi đường từ Tokyo đến cố đô Kyoto với gần 500 km đường cao
tốc, tôi và đồng nghiệp đã tranh thủ thăm viếng được cả 3 ngôi chùa cổ lớn
không những của Kyoto mà của cả Nhật Bản, ấy là chùa Vàng ( Kim Các tự ), chùa Bạc ( Ngân Các tự ) và chùa Thanh Thủy. Xin tóm tắt chút ít về
lịch sử hình thành 3 ngôi chùa nổi tiếng này:
Trước hết là chùa Vàng: " Kinkaku-ji (kanji: 金閣寺, phiên âm
Hán-Việt: Kim Các Tự, tức chùa Gác Vàng) là tên phổ thông của chùa Rokuon-ji
(kanji: 鹿苑寺: Lộc Uyển
Tự, chùa Vườn Nai ). Chùa nằm trong di sản văn hóa cố đô
Và chùa Bạc: "
Ginkaku-ji- 銀閣寺, tức Ngân
Các Tự (chùa Gác Bạc) là một thiền viện. Tuy dân chúng quen gọi là Ngân Các Tự,
nhưng đúng ra chùa mang tên là Jishō-ji (慈照寺), tức Từ Chiếu Tự. Chùa thuộc môn phái Shokoku-ji của
thiền tông Rinzai. Công trình kiến trúc này tiêu biểu cho thời kỳ Muromachi.
Shogun Ashikaga Yoshimasa sai vẽ sơ đồ xây cất cơ sở này làm tư dinh từ năm
1460 với ý định làm nơi an dưỡng tuổi già. Khi Chiến tranh Ōnin nổ ra thì việc
xây cất bị đình trệ. Shogun Yoshimasa muốn dùng bạc lá dát lên vách nhưng kế
hoạch đó trì hoãn mãi rồi cuối cùng khi Yoshimasa mất vẫn không được thực hiện.
Hình dạng vách bằng gỗ để mộc, hoàn toàn không tô phết (kiểu
"wabi-sabi" theo mỹ quan Nhật Bản) là y như cảnh quan Yoshimasa đã
ngước trông trước khi nhắm mắt. Sinh thời, Shogun Ashikaga Yoshimasa đã rút về
đây trong khi nội chiến Onin cấu xé đất nước và cả kinh thành
Sau cùng là chùa Thanh Thủy: " Chùa Otowasan Kiyomizu (tiếng Nhật: 音羽山清水寺, romaji:
Otowasan Kiyomizudera) là một ngôi chùa thờ Quan Âm nghìn tay. Cái tên Kiyomizu
có nghĩa là thanh thủy (nước thiêng) và trở thành tên hay được gọi nhất của
chùa. Chùa này là một hạng mục của Di sản văn hóa cổ đô
Đây là những trích yếu ngắn gọn về 3 ngôi chùa nổi
tiếng từ một số tài liệu. Tôi không dám bàn thêm gì nhiều. Song theo cảm nhận
mang tính cá nhân, tôi thấy : Chùa Vàng có cảnh sắc vàng son lộng lẫy; Chùa
Bạc, cảnh sắc lại thanh nhàn, u tịch; Còn chùa Thanh Thủy thì trùng điệp, sơn
thủy hữu tình. Cảm quan chung, về cảnh quan ba ngôi chùa này nói riêng, và chùa
chiền Phật giáo ở Nhật Bản nói chung, thiên về cảnh sắc tự nhiên, chan hòa và
gần gũi với đời sống bên ngoài, nên người đi chùa thiên về tính chất thăm quan
vãng cảnh một danh thắng, chứ không nặng nề về việc lễ nghi tôn giáo tâm linh
như chùa chiền ở xứ Việt ta. Điều đó, còn thể hiện rõ ở cách bài trí Phật đài,
tượng Phật trong các chùa chiền đều khá giản dị, nhẹ nhàng và việc hành lễ của
mọi người cùng vậy. Thường muốn cầu xin chi đó, người hành lễ chỉ việc bỏ mấy
đồng xu lẻ vào một dụng cụ kiểu như hòm công đức ở chùa ta, rồi vỗ tay ba cái
và lầm rầm cầu khấn. Đơn giản vậy thôi, chứ không phức tạp như ở ta.
Dường như, yếu tố tôn giáo, tâm linh lại được người
dân Nhật Bản gửi gắm ở Thần đạo, vốn
là tôn giáo, tín ngưỡng gốc có từ thưở hình thành quốc gia này ...
6. NHK, cánh
chim đầu đàn của ngành truyền thông Nhật Bản.
Mục đích chính chuyến công tác lần này sang Nhật Bản
của tôi và đồng nghiệp ở VOV là thăm và làm việc với NHK. Cụ thể hơn, là tìm
hiểu để thuê chuyên gia của họ tham gia đào tạo nghề cho người nhà VOV trong
lĩnh vực truyền hình; đồng thời xem xét để có thể hợp đồng mua phim tài liệu,
phim ngắn của NHK...
Có thể nói, NHK là cánh chim đầu đàn của ngành truyền
thông Nhật Bản hiện nay. NHK là tên viết tắt của Nippon Hōsō Kyōkai ( tiếng
Nhật: 日本放送協会, Nhật Bản phóng tống hiệp hội hay Hiệp hội Phát hình Nhật Bản ), một đài phát thanh truyền hình công
cộng của Nhật Bản.
NHK được thành lập vào đúng dịp đầu năm mới năm 1926
theo mô hình của đài truyền hình BBC của Anh bởi sự hợp nhất của Đài Phát thanh
Tokyo (thành lập năm 1924) và các đài của thành phố Nagoya và Osaka. Chương
trình phát thanh đầu tiên của Nhật được phát sóng năm 1925, chương trình truyền
hình đầu tiên năm 1953, chương trình truyền hình màu bắt đầu năm 1960...
Tại Viện Đào tạo
truyền thông NHK, ông Shinohara Hiroaki, Trưởng phòng đào tạo của Viện, cho
biết : Viện đào tạo truyền thông NHK cho tới nay đã đào tạo được cho hơn 6000
người làm trong các cơ quan, tổ chức có liên quan tới Tập đoàn NHK. Nhiệm vụ
chính của Viện là đào tạo các phóng viên (PV), biên tập viên (BTV), phát thanh
viên (PTV), người dẫn chương trình, các kỹ thuật viên (KTV) làm trong ngành
Phát thanh - Truyền hình. Viện có hai bộ phận chính, Trung tâm đào tạo với
nhiệm vụ chính là xây dựng và thực thi các kế hoạch đào tạo, và Trung tâm Tiếng
Nhật có nhiệm vụ đào tạo về ngôn ngữ tiếng Nhật (phát âm chuẩn, lấy hơi, luyện giọng, v.v…) dành riêng cho các Phát
thânh viên. Viện đã đào tạo cho hơn 1.500 nhân viên đến từ hơn 140 nước, trong
đó có cả Việt
Đoàn chúng tôi đến thăm quan một lớp đào tạo cho các
PTV mới được tuyển vào NHK, thăm quan cơ sở vật chất, các phòng học, thiết bị
máy móc được sử dụng trong quá trình đào tạo. Tất cả các thiết bị kỹ thuật và
công nghệ, kể cả mô hình cấu trúc trường quay, phòng thu thanh… đều là những
thiết bị kỹ thuật và mô hình cấu trúc đang được sử dụng chính thức tại NHK. Do
vậy, tính thực tiễn trong đào tạo rất cao, PTV và PV sau khi học đều có thể bắt
tay vào làm việc được ngay.
Còn tại NHK
Enterprise, ông Masayuki Waga, Giám đốc kinh doanh, Công ty NHK Enterprise
cho biết, đây là một doanh nghiệp trực thuộc tập đoàn NHK. Công ty NHK
Enterprises được thành lập vào ngày 01/4/2005 với nguồn vốn 1,25 tỷ yên Nhật.
Với lợi thế về kinh nghiệm và thông tin trên thị trường quốc tế, NHK Enterprise
cung cấp đa dạng các bộ phim tài liệu độc đáo, các bộ phim ấn tượng, các chương
trình về phong cách sống với nội dung phong phú, đa dạng và hấp dẫn. NHK
Enterprises cũng chính là doanh nghiệp cung cấp các chương trình chất lượng cao
cho nhiều cơ quan truyền thông tại Nhật Bản, các chương trình quốc tế có chọn
lọc cho chính NHK và cho các Đài TH cáp như LaLa TV, Ginga hoặc AXN Mystery.
Thêm vào đó, công ty cũng phát triển mảng kinh doanh kết nối phát thanh truyền
hình với các loại hình truyền thông khác như Internet, DVD và xuất bản. Các
chương trình do Công ty cung cấp đã giúp NHK giành rất nhiều giải thưởng danh
giá trên thế giới cho hạng mục phim tài liệu, phim hoạt hình, v.v…
Với kinh nghiệm sản xuất truyền hình và phân phối,
tham gia các liên hoan phim quốc tế và tổ chức sự kiện, các hoạt động hiện nay
của Công ty bảo gồm: Hợp tác sản xuất
chương trình với các Đài PTTH có uy tín trên thế giới, tham gia Liên hoan Phim
Châu Á và tổ chức các sự kiện tầm cỡ quốc tế như Liên hoan Nhạc Jazz Tokyo.
Nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường PTTH toàn cầu, NHK Enterprises phối hợp
chặt chẽ với các chi nhánh của NHK tại nước ngoài như New York, Los Angeles,
London, Paris và Bangkok để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất chương trình nằm
ngoài lãnh thổ Nhật Bản, bao gồm cả việc điều phối các địa điểm quay phim, cung
cấp thiết bị kỹ thuật cho sản xuất HD và 3D, tổ chức các sự kiện và quản lý vấn
đề bản quyền. Mỗi năm, NHK Enterprises sản xuất hơn 9000 chương trình, phục vụ
trước hết cho NHK, từ phim tài liệu tới các chương trình về tự nhiên, hoạt hình
và các loại hình giải trí nói chung. Mỗi năm những chương trình này đều giành
giải cao. NHK Enterprises khẳng định, có thế mạnh sản xuất các phim tài liệu
theo thứ tự xuất sắc: khoa học, tự nhiên, văn hóa giáo dục, và đời sống.
Ấn tượng nhất, tôi và các đồng nghiệp được NHK
Enterprises cho "mục sở tại" hai bộ phim nhằm quảng bá cho những sản
phẩm tuyệt hảo của họ. Ấy là, một phim tài liệu ngắn về săn thủy quái dưới đáy
sâu đại dương mà chưa một hãng phim nào trên thế giới thực hiện được. Và đặc
biệt, phim thứ hai với kỹ thuật 8K, khẳng định sức mạnh vượt trội hàng đầu về
công nghệ của Nhật Bản. Phải thừa nhận, hiệu ứng hình ảnh và âm thanh tuyệt vời
đến mức như không tưởng. Chúng ta biết, trong khi thế giới còn đang loay hoay
với công nghệ 4K ( 4K đề cập đến một
trong hai độ phân giải độ nét cao: 3840 x 2160 pixel hoặc 4096 x 2160 pixel. 4K
được hiểu là độ phân giải cao gấp bốn lần so với độ phân giải độ nét cao full
HD - 1080p (1920x1080 pixel) - là một trong những tiêu chuẩn độ phân giải cao
hiện nay ) thì họ đã vượt lên như vậy. Lẽ đương nhiên, để công nghệ 8K được
ứng dụng phổ biến trong đời sống xã hội, dân sinh thì họ cũng phải mất ít nhất
từ 3 đến 5 năm nữa với sự nỗ lực không ngừng ...
7. Trở lại
chuyện Ý thức Nhật Bản.
Ở phần 2, tôi đã viện dẫn một số câu chuyện về tinh
thần và ý thức Nhật Bản, phần viết này, tôi xin kể thêm một số chuyện nữa mà
mình từng "mục sở thị" để
minh chứng cho Ý thức Nhật Bản...
Ấy là lần đến Nhật Bản đầu tiên, cách đây 9 năm ( 2005
), tôi và mấy nhà báo khác là khách mời của Bộ Y tế ta sang Nhật tìm hiểu về
một số bệnh nguy hiểm mới xuất hiện, vì khi ấy Việt
Cũng chuyến làm việc đó, hôm đoàn chúng tôi đến làm
việc tại Viện nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ( kiểu như Viện y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới ở ta ), vị giáo sư
người Nhật nói nhiều dến dịch cúm gia cầm và căn bệnh sark, vì cả hai bệnh này
đều có ở Việt Nam và Nhật Bản. Khi biết ở ta đã sử dụng vắc-xin cúm gia cầm
H5N1 đại trà, họ ngạc nhiên và cho rằng, không nên sử dụng sớm vắc-xin một khi
còn kiểm soát đươc tình hình, bởi theo họ, việc sử dụng vắc-xin sẽ có tác dụng
hai mặt. Bản thân Nhật Bản chưa dùng, mà khi phát hiện dịch ở khu vực nâò đó,
chỉ cần khoanh vùng dập dịch triệt để là ổn. Tôi xin phép vị giáo sư này được
đặt câu hỏi phản biện, rằng: Liệu việc
khoanh vùng dập dịch ở Nhật Bản có đảm bảo chắc chắn việc ngăn chặn dịch lây
lan một cách triệt để hay không ? Bởi, rất có thể, xảy ra tình trạng, dịch
lây lan ra cộng đồng khi người dân không tuân thủ hoàn toàn các biên pháp phòng
chống dịch ( như việc người dân ở ta khi
biết có dịch vẫn sử dụng và buôn bán, tuồn vật nuôi ở vùng dịch bẻnh bên ngoài
v.v... ). Vị giáo sư người Nhật khẳng định, những chuyện như vậy, chưa từng
và sẽ không bao giờ xảy ra ở Nhật Bản, bởi ý thức của người dân rất tốt, việc
làm vi phạm như vậy dù vô tình hay hữu ý đều không được chấp nhận với bất kỳ lý
do nào. Việc vi phạm như vậy, được xem như một sự xỉ nhục với người dân Nhật.
Thêm một bài học đáng kể nữa cho chúng ta về ý thức cộng đồng và tuân thủ pháp
luật của người Nhật Bản...
Trong chuyến công tác này, có vài chuyện đáng kể, vẫn
là những câu chuyện vặt phố phường. Chuyện thứ nhất, hôm chúng tôi đi mua sắm,
mỏi chân bèn ra ngồi nghỉ trên mấy chiếc ghé kê bên ngoài cửa hiệu. Chợt thấy
một anh chàng đi vội vàng trên hè phố, vừa đi vừa lục tìm vật gì đó trong túi
xách của mình, vô tình làm rơi một cục tiền xuống đất. Một chàng thanh niên
người Nhật ngồi nghỉ bên cạnh chúng tôi, nhìn thấy, vội lao ra nhặt lấy cục
tiền rồi cắm đầu chạy đi, bỏ quên cả chiếc ô của mình tại nghế ngồi. Chứng kiến
sự việc, ta dễ nghĩ, anh chàng này vớ bẫm cục tiền đến quên cả chiếc ô. Song
không phải vậy, anh chàng cắm đầu chạy là đuổi theo để hoàn tiền lại cho người
mất. Xong việc, anh chàng mới trở lại nơi chúng tôi ngồi để lấy chiếc ô của
mình.
Thêm vài chuyện nữa. Đoàn chúng tôi có vài người
nghiện thuốc lá. Trời lạnh,lại càng dễ thèm thuốc. Ngặt một nỗi, ở Nhật Bản,
đều cấm hút thuốc là nơi công cộng. Mỗi lần đi đâu, hay nghỉ dừng chân dọc
đường, mấy chàng nghiện thuốc nhà ta thật khổ, cứ phải loanh quanh tìm nơi chốn
được phép hút thuốc lá.
Một lần, thèm quá, mấy chàng bèn ngồi lẩn sau một gốc
cây châm thuốc hút. Có một người phụ nữ ngang qua, nhìn thấy, chị liền dừng
lại, nhắc nhở rằng, đây là nơi cấm hút thuốc, không được vi phạm, rồi chỉ tay
ra một cái biển ghi cấm hút thuốc cách
đấy không xa... Giá như ở bên ta, sẽ chẳng có ai làm cái chuyện không công như
vậy. Ngay như tôi, khi ấy, biết là các bạn mình hút thuốc rất có thể vi phạm,
song cũng lại không nỡ nhắc nhở, ngăn lại. Chuyện ấy, đáng ghi nhận, song còn
một chuyện nữa, còn đáng nể hơn. Ấy là đọc đường đi, nghỉ chân, mấy chàng
nghiên thuốc nhà ta loanh quanh mãi không tìm được nơi hút thuốc, bèn lảng ra
chỗ vắng người, đứng bên trên nắp cống thoát nước, châm thuốc hút. Các chàng
đang khoan khoái rít lấy rít để, chợt thấy hai cụ già đứng cách họ không xa
lắm, họ cùng nhau tiến đến chỗ các chàng, trên tay mỗi người đều cầm một vật gì
đó nho nhỏ. Khi đến trước các chàng, cả hai cụ liền cùng nhau cúi người lễ phép
và chìa ra vật cầm tay, ấy là chiếc gạt tàn thuốc lá, nói với các chàng câu gì
dó bằng tiếng Nhật. Thế là các chàng dẫu không biết tiếng Nhật đi chăng nữa thì
cũng hiểu ngay, vội vàng rụi ngay điếu thuốc đang hút dở vào chiếc gạt tàn và
nói lời xin lỗi. Sau lần ấy, dù có thèm đến mấy, các chàng nhà ta cũng không
dám hút thuốc tùy tiện nữa.
Ấy là ý thức Nhật Bản !...
8. Vĩ thanh.
Mọi người ở ta và cả thế giới nói chung, đều phải cất
lời khen ngợi xã hội Nhật bản là một xã hội văn minh, hiện đại, kỷ cương pháp
luật chặt chẽ. Đấy là một sự thực không gì cưỡng nổi. Tuy nhiên, có một số ý
kiến đặt vấn đề rằng, liệu một xã hội như vậy thì mặt trái của nó như thế nào,
và liệu rằng có khắc kỷ lắm không ? v.v...
Lần giở lại thiên ký sự " Nhật Bản du ký " tôi viết sau chuyến sang Nhật năm 2005, thấy
phần " Những vấn đề của một xã hội
hiện đại " vẫn còn nguyên tính thời sự, khi mà đem đối chiếu với xã hội
Nhật Bản trong chuyến đi này...
Vẫn biết là thế, nhưng sau chuyến đi này, tôi cũng
lĩnh hội được nhiều điều và thấy cần có đôi lời chua thêm cho rõ.
Vâng, quả là sau 9 năm, tôi trở lại Nhật Bản với gần
chục ngày, có điều kiện đi đây đó nhiều hơn so với lần trước, nên cũng có điều
kiện để quan sát. Vẫn một xã hội văn minh, hiện đại, nề nếp, quy củ, ngăn nắp
và cần cù làm việc. Mặc dù, nước Nhật phải nỗ lực gượng dậy sau thảm họa kép
động đất-sóng thần, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa thực sự hồi sinh trong
cơn suy thoái kinh tế trên quy mô toàn cầu. Song rõ ràng, người Nhật vẫn bản
lĩnh và tự tin về tiềm năng và sự cố gắng từ mỗi con người đến quy mô toàn xã
hội, toàn dân tộc, sẽ đem lại kết quả tốt đẹp. Một xã hội quy củ sẽ là một xã
hội khó tính và ít nhiều thiếu uyển chuyển, đấy là quy luật; Một xã hội chặt
chẽ cũng có mặt trái của nó, ấy là sự dồn nén con người ta vào khung luật pháp,
quy chuẩn đến không còn kẽ hở, và như vậy, nó ít nhiều ngược với bản năng con
người là sự bung phá để vươn về phía tự do ...
Tôi xin nhắc lại một câu chuyện, tôi có người chị ruột
là tiến sĩ nông nghiệp, hiện đang làm cho tổ chức Jica của Nhật Bản, nên nhiều
năm nay làm việc với các quan chức, chuyên gia người Nhật. Sau khi kết thúc
nhiệm kỳ, họ đều coi thời gian làm việc ở Việt Nam là khoảng thời gian tuyệt
vời đối với họ. Đương nhiên, đánh giá vậy, trước hết, bởi yếu tố hiệu quả của
công việc là hàng đầu, song đi kèm với đó, là sự gợi mở, sự thân thiện của đất
nước con người Việt ta, và có cả sự thoải mái, thiếu chặt chẽ, thiếu quy củ,
thiếu chế tài và còn khá lổn nhổn của một xã hội, một nền kinh tế còn đang phát
triển, nó như một sự mơn trớn, xui con người ta buông thả, thoát khỏi sự khuôn
phép chặt chẽ ...
Như vậy, không có nghĩa là họ khen xã hội chúng ta, mà
nêu ra để thấy, cái gì dù là còn chưa hoàn thiện hoặc đang đi tới để đạt sự
hoàn thiện, hoặc được xem là hoàn thiện, thì cũng đều có cái được và cái chưa
được của nó...
Ký sự Hàn Quốc
Phi
lộ : Lịch trình 8 ngày hoạt động của Đoàn đại biểu Hội Nhà báo Việt Nam sang
thăm và làm việc tại Hàn Quốc ( 6.7-14.7/2012) , qua các thành phố và tỉnh lỵ :
Incheon ( Nhân Xuyên ), Seoul ( Thủ Nhĩ, còn được gọi là Hán Thành ), Gwangju (
Quang Châu ), Gyeongnam ( Khánh Nam ), Ulsan ( Uất Sơn ), Busan ( Phủ Sơn ) và
Jeju ( Tế Châu ).
1.
Ấn tượng Seoul,
Chuyến bay trên chiếc Boeing của Hãng
Asiana Airlines cất cánh đúng giờ, lúc 11 giờ đêm từ Nội Bài đi Seoul. Khác với
lần đi Tokyo, bay đêm, mất ngủ trong chuyến đi công tác tại Nhật Bản cách đây dăm
năm, lần này tôi ngủ tốt. Lúc tỉnh ngủ, nhìn mặt đồng hồ, 5 rưỡi ( lấy theo giờ Hàn Quốc, sớm hơn giờ Việt
Chỉ còn mây và biển, thấp thoáng đâu
xa dưới cánh máy bay là đồi núi và nhà cửa. Khi hạ độ cao đến cảm giác là càng
máy bay sắp chạm mặt nước biển, ấy là lúc máy bay truờn xuống đường băng. Thì
ra, sân bay quốc tế Incheon áp sát mép biển. Đây là một sân bay rộng và hiện đại,
luôn tấp nập bởi nó là trạm trung chuyển cho nhiều đường bay vượt Thái Bình Dương
sang châu Mỹ.
Đón chúng tôi là một cặp nam nữ người
Hàn Quốc, nam Kim Dong Ki, Phụ trách phòng Hành chính, Hội Nhà báo Hàn Quốc, và
nữ, Seon Kcum Hi, phiên dịch viên tiếng Việt. Cả hai đều độc thân. Seon Kcum Hi
từng học tiếng Việt tại Việt
Sau bữa ăn sáng tại một nhà hàng sân
bay, chúng tôi lên xe chạy chừng gần trăm cây số để đến thăm Tháp canh Thống Nhất. Tháp canh này nằm
trên một quả đồi cao, ngay mép sông Hàn, đoạn giới tuyến với Bắc Triều Tiên. Mục
đích xây dựng tháp Thống Nhất là để làm đài quan sát giới tuyến, và là nơi để
những người Nam Hàn có quê hương ở Bắc Triều Tiên hằng năm và dịp giỗ tết lên đây
hướng về phương Bắc mà tế tổ; còn là nơi biểu hiện ý chí thống đất nhất đất nước
của người Hàn Quốc. Chính vì lẽ đó, họ đã rất khéo léo khi tổ chức các gian trưng
bày mang tính đối lập biểu hiện giữa đời sống tiện nghi hiện đại của Hàn Quốc với
sự nghèo khó thiếu thốn lạc hậu của Bắc Triều Tiên, và biến nơi đây thành điểm
tham quan du lịch.
Đứng trên tầng cao của tháp Thống Nhất,
dù nhìn bằng mắt thường hay qua hệ thống ống nhòm, tôi không khỏi chạnh lòng
khi nghĩ đến một thời dòng sông Bến Hải chia cắt đôi miền Bắc-Nam của ta ngày nào...
Hòa hợp dân tộc và thống nhất đất nước, hẳn là ước nguyện của hầu hết người dân
Triều Tiên nói chung, còn diễn ra theo chiều hướng nào thì quả là khó lường trước
được ...
Hơn 2 ngày làm việc ở Seoul, chúng tôi
được bố trí ở President Hotel 4 sao,
ngay trung tâm sầm uất náo nhiệt, bên kia là Tòa Thị chính mới xây dựng dựng chuẩn bị khánh thành, chéo một chút
là Tòa nhà báo chí và Trung tâm thương mại Seoul. Có thể hiểu,
bạn bố trí vậy để chúng tôi có thể thấy quy mô tầm vóc
Có thể nói,
Đấy là sơ bộ ấn tượng về
2. Dấu ấn của đá.
Đến đảo Jeju của Hàn Quốc, tôi hết sức thích thú khi bắt
gặp những bờ ruộng của người dân nơi đây toàn bằng đá. Đá hòn đá tảng xếp thành
bờ ruộng cao như kiểu hàng rào đá của người Mông ở vùng cao nguyên đá Hà
Giang ( Việt
Tập quán là như vậy, song lý giải tại
sao, với phương tiện hiện đại và kỹ thuật canh tác mới như hiện nay, người dân đảo
Jeju lại vẫn giữ nguyên lối canh tác cũ có vẻ đã lạc hậu này? Ấy là ý tưởng. Các
nhà quản lý ở đây đã nhìn nhận thấy, đó là một lợi thế về bản sắc văn hóa truyền
thống trong kinh doanh du lịch. Thế nên, bờ ruộng đá, cùng lối canh tác xưa cũ đã
được gìn giữ nhất quán, vừa chứa đựng ý thức bảo tồn phong tục lại vừa tạo lợi
thế cho du lịch...
Mọi người đều biết đến đảo Jeju của Hàn Quốc với sự kiện
( cùng với vịnh Hạ Long của Việt Nam )
được bình chọn là 1 trong 7 kỳ quan thế giới mới. Ai đã từng đặt chân đến Jeju,
đều công nhận đảo này là thiên đường của du lịch.
Jeju được kiến tạo bởi hoạt động của núi
lửa từ khoảng 2 triệu năm trước, có cấu trúc địa chất nham thạch. Toàn bộ địa hình
địa chất nói chung của Hàn Quốc, bao gồm cả đảo Jeju là không có núi đá vôi, nên
không thể hình thành các hệ thống hang động, thua thiệt hơn so với Việt
Cùng với bờ ruộng đá và lối canh tác xưa
cũ, giờ Jeju thêm phong phú và sinh động, bởi bao nhiêu hình thái mới của đá như
: lâm viên đá, làng dân tộc đá, bờ biển vách đá, đỉnh cao, miệng núi lửa đá, vườn
tượng đá, chùa chiền đá... Đâu đâu cũng đá, song là đá có hồn...Ý tưởng và dấu ấn
của đá ở Jeju đã góp công lớn, biến Jeju vốn chỉ như một đảo thuyền chài xưa cũ
thành thiên đường du lịch ngày nay.
Các nhà quản lý vịnh Hạ Long, và “Hạ Long cạn”-Ninh Bình, Phong Nha-Kẻ Bàng
của ta nghĩ gì ?...
3. Giao thông & sự thuận tiện cho con người
Lẽ đương nhiên, biểu hiện của sự phát triển và thuận
tiện về giao thông của Hàn Quốc, trước hết là sân bay quốc tế Incheon. Cả quy mô,
hiện đại và sự thuận tiện của nó, không chỉ phản ánh sự phát triển về kinh tế,
vai trò về chính trị nói chung của Hàn Quốc trên trường quốc tế, mà còn bởi, đây
là trạm trung chuyển lớn kết nối hai bờ đông tây của Thái Bình Dương. Song tôi
xin không bàn thêm về nó, để nói về các loại hình, phương tiện giao thông khác đều
hướng tới sự phục vụ tiện lợi nhất cho mọi hoạt động của con người trên xứ sở
kim chi.
Những ngày hoạt động ở Hàn Quốc, đoàn
nhà báo Việt Nam di chuyển bằng hầu hết các loại phương tiện, như ô tô, metro,
tàu hỏa, tàu thuỷ và máy bay.
Trước tiên là đường bộ. Diện tích tự
nhiên của Hàn Quốc không nhiểu, chỉ trên trăm ngàn cây số vưông, dân số khoảng
50 triệu người, mật độ dân số đứng thứ 3 thế giới ( sau Banlades và Đài Loan ), Vậy mà, Hàn Quốc lại dành quỹ đất cho
phát triển giao thông một cách thích đáng. Đơn giản, bởi giao thông giữ vai trò
vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội và hiện đại hóa đất nước. Hệ
thống đường sá, cầu vượt quy củ, thông thoáng, chất lượng cao, dù ở nội đô thành
phố hay ngoại tỉnh. Để giải bài toàn ách tắc giao thông, như hầu hết các quốc
gia phát triển khác, Hàn Quốc cho quy hoạch xây dựng hệ thống giao thông lập thể
: đường mặt đất, cầu vượt, đường trên cao và đường ngầm. Thủ đô
Tiếp đến, xe lửa cao tốc, người Hàn Quốc
gọi theo tên viết tắt là KTX, cũng được phân tuyến thuận lợi và đạt chất lượng
cao về tốc độ, giờ chạy tàu, toa xe và dịch vụ. Vì độ dài ngang dọc Hàn Quốc không
lớn, nên phần lớn tàu KTX đều không thiết kế giường nằm, song ghế ngồi lại rất
tiện lợi, có thiết bị ngả lưng ghế và nâng chân, tạo tư thế nằm nghiêng, cho khách
có thể nghỉ ngơi hoặc ngủ bình thường. Cách thiết kế ghế ngồi tiện lợi này, được
sử dụng cho cả ô tô chuyên chở khách. Hôm chúng tôi đi từ Seoul xuống thành phố
ở miền Nam là Gwangju, quãng đường dài hơn 300 cây số, tàu chạy chỉ mất 2h15, tốc
độ chạy tàu khoảng 150 km/h ( tốc độ gấp
3 lần tàu ở xứ ta ). Từ Gwangju đi Gyeongnam, đến thành phố Ulsan, Busan,
chúng tôi đi bằng phương tiện xe khách, hoặc khi di chuyển nội tỉnh thăm thú các
khu công nghiệp hoặc di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh, xe đều chạy với tốc độ
100-120 km/h, và đường vô cùng thông thoáng.
Có một điều khác biệt là, dù ở Seoul,
Gwangju, Gyeongnam, Ulsa, Busan, Jeju, đều không thấy phương tiện xe máy ( moto
). Thi thoảng bắt gặp phương tiện xe gắn máy trên đường, ấy là những người đưa
thư báo, hoặc thanh niên tay chơi với loại xe phân khối lớn. Xin nói thêm, ở
nhiều thành phố phát triển khác thuộc châu Á như Bắc Kinh, Thượng Hải,
Cùng với đó, phương tiện giao thông thủy
và hàng không ở Hàn Quốc cũng rất phát triển và thuận lợi, đạt chất lượng cao.
Xin không bàn nhiều ở đây. Song có thể nói, toàn bộ hệ thống đường sá, loại hình
phương tiện các cách quản lý giao thông ở Hàn Quốc hiện nay đều ở mức chất lượng
cao, nhằm hướng tới sự phục vụ cho mọi hoạt động của con người một cách thuận lợi
nhất...
4. Công nghiệp & sự vươn lên của Hàn Quốc.
Khoảng hai mươi năm trước, xứ ta đã biết
đến một vài thương hiệu của Hàn Quốc như : Samsung ( máy thu hình, tủ lạnh, máy giặt ), Daewoo ( ô tô, máy giặt ). Còn người miền
Quả thật, với diện tích tự nhiên già
trăm ngàn cây số vuông, địa hình đồi núi trải khắp nước, gần như không có đồng
bằng, nếu không sớm đi theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thì hẳn Hàn Quốc sẽ lâm vào tình trạng không đủ ăn. Điều này, người dân xứ Hàn đã
hiểu và ý thức được vào những năm bảy mươi của thế kỷ 20. Vậy nên, phát triển công
nghiệp là một tất yếu, và họ đã làm được điều đó ...
Chuyến thăm và làm việc này, các nhà báo
xứ ta được các đồng nghiệp Hàn Quốc tổ chức đưa đến thăm mấy tập đoàn công nghiệp
lớn, đều là niềm tự hào của xứ sở kim chi : Hyundai, Doosan, Taekwang, tại thành
phố
Khi thăm các công xưởng, dây chuyền sản
xuất, chúng tôi không được phép chụp ảnh, bởi đây là quy định bắt buộc, nên tôi
chỉ có thể có được những pô ảnh chụp nơi trụ sở, văn phòng hành chính và khu giới
thiệu chung về mô hình hoặc điểm trưng bày sản phẩm mà thôi. Thương hiệu ô tô
Hyundai ( nghĩa là Hiện đại ) hiện quá
phổ biến ở Việt
Đến khu sản xuất, lò đúc của tập đoàn
công nghiệp nặng Doosan, chúng tôi ngạc nhiên và thích thú khi bắt gặp mấy
rotor khổng lồ ở dạng sản phẩm hoàn chỉnh, có dán giấy ghi nơi đặt hàng là nhà
máy điện Mông Dương ( Quảng Ninh, Việt
Nam ). Nữ nhân viên của Văn phòng Doosan, Lee Eun Young ( Management Division ), người giới thiệu, duyên dáng, chuyên nghiệp, lịch sự và
nói tiếng Anh khá hay, tạo nên cảm giác dễ chịu mặc dù chúng tôi được cô dẫn vào
thăm quan tận nơi lò đúc có nhiệt độ cực lớn. Cũng như nhiều quốc gia có nền công
nghiệp phát triển khác, hiện tại, lượng điện tiêu thụ của Hàn Quốc đến 40% từ điện
hạt nhân. Tập đoàn Doosan chính là nơi sản xuất, lắp đặt các lò phản ứng hạt nhân
cho ngành công nghiệp điện hạt nhân của quốc gia này.
Khác với hai tập đoàn kia, tập đoàn
Taekwang đầu tư ở lĩnh vực hóa dầu, bảo hiểm, tài chính và hàng tiêu dùng... Hiện,
Taekweang có nhà máy đặt tại các tỉnh miền Đông nam bộ Việt Nam, với ngành hàng
giày thể thao nhãn hiệu NIKE, giải quyết cho khoảng 4 vạn lao động tại chỗ, và đạt
kim ngạch xuất khẩu khoảng 400 triệu USD/năm. Phó Chủ tịch tập đoàn Taekwang Hàn
Quốc, ông E.C. Kim, trong buổi làm việc và tiệc chiêu đãi đoàn nhà báo Việt
Nam, ngoài vấn đề về phát triển sản xuất, còn kiến giải, nêu một số vấn đề nhằm cải thiện điều kiện
lao động, xã hội, đãi ngộ đối với công nhân người Việt Nam đang làm việc trong
các nhà máy của tập đoàn.
Nhìn chung, công nghiệp phát triển, mặt
trái của nó cũng nảy sinh những hệ lụy về xã hội, gia đình, con người, khiến các
nhà quản lý phải giải quyết. Ở đây, xin chưa vội bàn...
5. Gốc ngân
hạnh cổ thụ & bản sắc truyền thống xứ kim chi.
Tự thân, gốc ngân hạnh cổ thụ trong một ngôi làng cổ tại
cố đô Gwangju ( Quang Châu ) và món ăn
kim chi trong ẩm thực xứ Hàn đã là sự hiện diện rõ nét bản sắc truyền thống của
văn hóa đất nước này rồi.
Ai cũng hiểu, sau chiến tranh Nam-Bắc
Triều vào giữa thế kỷ trước, Hàn Quốc cũng lâm vào hoàn cảnh đói kém, kinh tế
khó khăn. Vậy mà, khi bước sang thế kỷ 21, Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia có
nền công nghiệp phát triển, kinh tế vững mạnh, có uy tín trên trường quốc tế.
Ngài Ban Ki Moon, với hai nhiệm kỳ liên tiếp giữ cương vị Tổng thư ký Liên hiệp
quốc, hay đơn giản như việc tại Olimpic London 2012, Hàn Quốc luôn nằm trong tốp
quốc gia dẫn đầu về huy chương, đã nói lên điều đó. Có thể lý giải dài dòng về
hiện tượng Hàn Quốc, song với tôi, hiểu đơn giản chỉ cần qua vài ba yếu tố là đủ,
như: định hướng đúng, đầu tư hợp lý, quản
lý tốt, và sự nỗ lực vươn lên từ mỗi cá nhân...
Cái gì cũng mang tính hai mặt. Hàn Quốc
cũng như một số quốc gia phát triển ( như Nhật Bản, Mỹ... ), cùng với nền công
nghiệp hiện đại và kinh tế giàu có, là những hệ lụy về mặt xã hội, gia đình và
tính cách cá nhân con người ( cạnh tranh
quyết liệt, tính khắc kỷ, sự cô đơn, bệnh xã hội ... ). Vậy giải quyết mặt
trái ấy như thế nào ? Chính sách xã hội phù hợp, đương nhiên rồi. Ấy là văn hóa,
mà là bản sắc truyền thống...
Rõ ràng, xu hướng toàn cầu hóa về chính
trị kinh tế, kéo theo đó là sự nhất thể hóa về văn hóa. Ấy là sự nguy hại. Thực
tế cho thấy, đang có một sự xâm lăng về mặt văn hóa của văn minh-văn hóa Âu Mỹ
với các nước đang phát triển, mà hệ luỵ của nó, ấy là, trong khi các giá trị
truyền thống đang bị băng hoại và mai một, thì các giá trị mới còn chưa hình thành,
hiện trạng xã hội là sự lổn nhổn hỗn tạp...
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và cả Hàn
Quốc đã từng trải qua thời kỳ như vậy. Giải pháp hữu hiệu, không gì nằm ngoài
việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Những gì tôi biết ở Hàn Quốc vừa qua, cho thấy họ đã và đang làm được điều này...
Suốt chặng đường từ thủ đô Seoul, qua
Gwangju, Gyeongnam, Ulsan, Busan, Jeju, ở đâu cũng cảm nhận được bản sắc văn hóa
truyền thống biểu hiện trong quy hoạch, kiến trúc, bảo tồn, trong ứng xử xã hội,
lối sống, hoạt động biểu diễn, ẩm thực... Hơn thế, việc phát huy yếu tố bản sắc
truyền thống không những mang lại lợi ích xã hội, còn thu được lợi ích kinh tế
rất lớn trong hoạt động du lịch...
Ở ta, việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã sớm được đưa ra và triển khai từ mười mấy năm trước
( Nghị quyết trung ương 5 Khoá 8 ). Đã
có nhiều chuyển biến tích cực về mọi mặt, chẳng hạn như công tác bảo tồn văn hóa
dân tộc và việc xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư... Tuy nhiên, vẫn còn nặng
tính phong trào, hình thức, nên hiệu quả chưa cao...
Trở lại yếu tố lịch sử. Ấy là, cùng với Nhật Bản
và Hàn Quốc, Việt nam cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng sâu nặng của văn hóa cổ
Trung Hoa với hơn nghìn năm phong kiến. Song cả ba nước đều biết cách thoát ra
khỏi cái bóng khổng lồ của văn hóa phong kiến Trung Hoa, tự tạo nên nền văn hóa
riêng của mình, song vẫn bảo lưu được những giá trị tinh hoa của văn hóa cổ
Trung Hoa mà mỗi nước từng chịu ảnh hưởng.
Ở các cấp độ khác nhau, so với họ, việc
bảo tồn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống của ta vẫn còn nhiều
việc phải làm...
6. Đôi điều
về báo giới xứ kim chi.
Sang Hàn Quốc theo chương trình hợp tác và trao đổi giữa
Hội nhà báo hai bên, nên ngay khi nhập cảnh và xứ kim chi, chúng tôi đã tiếp xúc
ngay với dân làm báo xứ này. Ấy là Kim Dong Ki, phụ trách hành chính-lễ tân của
Hội nhà báo Hàn Quốc.
Một tháng trước đó, Kim có tháp tùng ông
Chủ tịch Hội và một số nhà báo Hàn Quốc sang thăm Việt
Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi thăm trụ
sở làm việc của Hội nhà báo Hàn Quốc ( trong Toà nhà báo chí ), nằm bên kia đường
với President Hotel, nơi chúng tôi ở. Khu vực văn phòng của Hội và phòng làm việc
của ông Chủ tịch nhìn chung là hẹp và khá giản dị, bù lại, để view quanh cảnh
phố xá thì khá thuận lợi .
Ông Park Chong Ryul, Chủ tịch Hội cùng
đồng nghiệp tiếp chúng tôi trong bầu không khí thân mật, giản dị. Ông Park mới
trúng chức Chủ tịch hồi đầu năm 2012 với nhiệm kỳ 2 năm, sau một thời gian khá
dài hoạt động báo chí ở Mỹ. Theo ông cho biết và lấy làm tự hào, thì ông là người
đầu tiên ở Hàn Quốc cho đến nay, trúng cử chức Chủ tịch với 100 % số phiếu bầu.
Điều đó, chứng tỏ tài năng và uy tín của ông trong báo giới xứ kim chi rất cao.
Cũng theo ông Park, hiện xứ kim chi có khoảng 30 nghìn người hoạt động trong lĩnh
vực báo chí và truyền thông, song Hội nhà báo xứ Hàn mới chỉ kết nạp đến 8 nghìn
hội viên ( chứng tỏ có sự chọn lọc kỹ
càng ). Ông Park tặng chúng tôi, mỗi người một cuốn sách về báo chí vừa ấn
hành, mà ông là tác giả, có tên “ White
House Black President “- tập hợp các tác phẩm báo chí của ông trong thời
gian tiếp xúc với Nhà Trắng và làm báo ở Mỹ nói chung.
Trong bữa tiệc chiêu đãi, và cả khi dạo
phố đêm Seoul, với chúng tôi, ông Park Chong Ryul và đồng nghiệp luôn thể hiện
sự thân thiện, lịch thiệp, chia sẻ tâm thế nghề làm báo, khiến cho mọi người thấy
gần gũi, đồng cảm với nhau hơn ...
Rời Seoul, đến Gwangju, Gyeongnam,
Jeju, chúng tôi đều được các Chi hội nhà báo và các đồng nghiệp báo chí địa phương
tiếp đón chu đáo, thân mật. Cũng như ở xứ ta, chuyện nghề, chuyện đời chỉ nở rộ
và xôm trò trong bữa tiệc có hơi men. Lúc ấy, nhiều ranh giới và sự giữ kẽ xã
giao là không cần thiết, thậm chí bị xóa bỏ. Song, cả hai bên vẫn luôn đủ tỉnh
táo để thể hiện cái gọi là “ phương diện
quốc gia “ tối thiểu. Phương châm giao tiếp trrong suốt chuyến thăm là “ thân thiện, chia sẻ, điều độ ” cùng được
cả hai bên tôn trọng, tạo nên sự thành công cho chương trình hợp tác. Xin mở
ngoặc ở đây, là chuyện uống rượu của báo giới Hàn Quốc. Họ rất thích uống “rượu bom”, một cách gọi hài hước cho thứ
đồ uống “ rượu pha bia “. Rượu bom được
pha tại bữa tiệc giữa bia với rượu sô-chu của Hàn Quốc. Tỷ lệ và cách pha thế nào
là tùy ý thích và cảm hứng của người pha. Ông chủ
Thời gian ba ngày ở đào tự trị Jeju, có
một chuyện mà tôi muốn nói ở đây, đó là
sự thăm hỏi đột xuất của Tòa soạn báo Hallailbo. Sau chuyến chúng tôi đi chơi bằng
du thuyền và câu cá trên vịnh biển ở Jeju, cả đoàn dự bữa chiêu đãi bữa tiệc hải
sản tự chọn. Đang bữa ăn thì họ đến. Theo lời tự giới thiệu, nhà báo của Tòa soạn
Hallailbo có tên là Kim Myeong Seon. Anh nghe nói có đoàn nhà báo Việt Nam, bèn
tìm cách gặp bằng được, để biết, để giao lưu, và để đề nghị, các nhà báo Việt
Nam nên quan tâm và viết về chủ đề “ cô
dâu Việt “ ở Jeju và Hàn Quốc nói chung. Theo nhà báo này, hiện ở Jeju có hơn
500 cô dâu Việt ( chỉ phụ nữ Việt
Cuộc gặp gỡ và đề nghị của nhà báo này,
đã gợi ra nhiều điều về thân phận con người, gia đình, hoàn cảnh xã hội, sự thích
nghi... và cả những xúc cảm sâu xa khác, nơi mỗi chúng tôi !...
7. Những người đàn bà ở xứ Hàn...
Lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là số ít người thuộc giới nữ mà tôi
đã gặp và có điều kiện tiếp xúc đôi chút trong một tuần ít ỏi du ngoạn trên xứ
sở kim chi. Họ là người Hàn Quốc và người Việt mình...
Trước hết là những người đàn bà Hàn Quốc.
Seon
Kcum Hi ( gọi tắt Seon, 25 tuổi ), cô là phiên dịch viên tiếng Việt cho Hội
nhà báo Hàn Quốc, người cùng với Kim Dong Ki đón chúng tôi tại sân bay Incheon
khi đoàn nhà báo Việt Nam đặt chân xuống xứ kim chi. Ngay từ phút đầu gặp gỡ,
khi còn chưa thuộc tên, tôi xuýt bật cười mấy lần khi thấy cô thể hiện sự chân
thật của mình qua nụ cười rất tươi và qua cử chỉ lật đật ( cứ như người mắc lỗi ). Cô học tiếng Việt cả ở Hàn Quốc và Việt
Trái lại, Yi Da Sum ( tên tắt là Yi, ngoài 30 tuổi ), phiên dịch viên tiếng
Việt thứ 2 cho Hội nhà báo Hàn Quốc lại mang dáng vẻ tự tin, pha chút gì đó kiêu
kỳ quý phái của đàn bà thủ đô. Yi hình thức khá xinh và luôn ý thức điều đó.
Sau ngày đầu, Seon bàn giao công việc cho Yi Da Sum làm phiên dịch 2 ngày tiếp
theo ở
Khác hẳn với Seon và Yi, cô Kim-phiên dịch viên tiếng Việt thứ 3, người
phiên dịch cho chúng tôi suốt 3 ngày ở đảo Jeju. Kim ( ngoài 30 tuổi, khuôn mặt vóc dáng điển hình người Triều Tiên cổ ).
Cô chưa lập gia đình, định cư ở đất liền, thành phố Busan, được Hội nhà báo Hàn
Quốc thuê phiên dịch, bay ra đảo Jeju trước, và đón chúng tôi khi xuống sân bay
Jeju. Cô học tiếng Việt 4 năm tại đại học quốc gia ở Tp.Hồ Chí Minh, nói tiếng
Việt khá tốt, vốn từ phong phú, kể cả những câu đùa tếu, pha chút tiếu lâm Việt.
Về hình thức bên ngoài, thua kém hơn so với Seon và Yi. Quả là, cái vóc người
thấp đậm, khuôn mặt hơi vuông, mắt xếch, lông mày đậm, khiến Kim giống chủng người
Mông Cổ, vốn là tổ tiên của người Triều Tiên hiện đại ( người Triều Tiên hiện đại có nguồn gốc người Mông Cổ tràn sang từ thế
kỷ 13 theo gót ngựa Nguyên Mông, pha trộn với người bản địa ). Cô luôn miệng
bảo “ Em già rồi, ế rồi “. Khi cánh
chúng tôi đùa, bảo lấy chồng Việt nam, thì cô cười to, so vai rụt cổ, bảo “ không dám đâu, đàn ông Việt nam kén vợ lắm”.
Rồi cô kể chuyện, một bạn gái thân của cô, lấy chồng Việt, con một đại gia nào đó
ở Sài Gòn, nhưng đã bị chồng bỏ rồi... Mấy ngày ở Jeju, cô Kim luôn nhắc đến “ Hải nữ “ và coi như đó là một sự “đặc biệt của đàn bà Jeju”. Xin nói thêm,
ở xứ này, đàn bà ( chứ không phải đàn ông
) chuyên làm nghề vô cùng nặng nhọc là lặn biển để bắt hải sản. Họ trở nên nổi
tiếng, và thậm chí còn lấy chồng sang cả Nhật Bản để hành nghề này.
Một người nữa không thể không nhắc đến
là, nữ nhân viên của Văn phòng Doosan, Lee
Eun Young ( Management Division ) ở thành phố
Còn những người đàn bà Việt thì sao ?
Hiện cộng đồng người Việt sinh sống ở
xứ sở kim chi thuộc tốp đứng đầu ( cùng
với người Mỹ và Trung Quốc ). Theo ông
Thái Ngụ, Chủ tịch Hội nhà báo Hà Tĩnh, một thành viên trong đoàn chúng tôi, thì
riêng người Nghệ Tĩnh thôi, cũng đã có đến 4 vạn đang lao động tại Hàn Quốc.
Ở đây, tôi chỉ xin nói đến dăm ba “ cô
dâu Việt “ trong số hơn 500 phụ nữ Việt lấy chồng Hàn hiện đang sinh sống ở đảo
Jeju.
Người
đầu tiên là H.A, quê Cà Mau ( đồng
hương với nhà báo Nguyễn Bé, Chủ tịch Hội nhà báo Cà Mau, thành viên đoàn Việt
Người
thứ hai, là NTH. Cô quê Thanh Hà, Hải Dương, sang đây vài ba năm, hiện mở
quán ăn ( cơm phở Việt ) ngay trong
khu Bảo tồn làng cổ thuộc Công viên Halim. Nói chung là họ cũng có thu nhập ổn
định, cuộc sống không đến nỗi khó khăn.
Người
thứ ba, là T.V, người Hải Phòng. Hôm chúng tôi chờ tàu du lịch đưa ra vịnh
biển câu cá, đoàn nghỉ chân tại quán cafe trên bến, tình cờ gặp cô đang phục vụ
bàn trong quán. Có chi tiết hài hước, khi vừa gặp chúng tôi, cô đã nhanh nhảu
nhận mình là người Hà Nội, qua lời tự giới thiệu “ I-em ... i em là người Hà Lội...”. Chúng tôi cười ồ, cô biết lỗi,
khi đó mới thú nhận là người Thủy Nguyên, Hải Phòng... Cô sang đây được 3 năm,
qua giới thiệu của một người bạn là “ cô dâu Việt “, cũng sự mai mối của một tổ
chức nào đó. Gia đình nhà chồng đông tới 7 anh chị em, nhưng cô tỏ ra mãn nguyện
vì hiện nay họ đã có gia đình và ở riêng hết, chỉ vợ chồng cô là sống chung với
bố mẹ chồng. Nhìn chúng là dễ chịu.
Người
thứ tư, là K.N, quê Cần Thơ, sang được 4 năm, lấy chồng Hàn, công việc chủ
yếu là phiên dịch tiếng Việt và PR cho công ty viễn thông báo chí. Cô cũng tỏ
ra hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình.
Chúng tôi biết, hiện có tình trạng nhiều
“cô dâu Việt” bị chồng và gia đình nhà chồng bạo hành với các lý do khác nhau,
song vì chưa có điều kiện gặp và tìm hiểu kỹ lưỡng, nên không lạm bàn ở đây...
Hẹn dịp khác vậy.
Xin kết thúc phần viết này, bằng đôi
chút thông tin về một nữ giới nữa hiện đang làm việc ở Hàn Quốc, đó là T.N, biên
tập viên của VOV đang làm việc tại chương trình tiếng Việt của Đài KBS. Nhiều năm
nay, VOV thường gửi chuyên gia sang làm việc giúp KBS theo chương trình hợp tác
thường xuyên giữa hai bên. T.N sang mới được nửa năm, và sẽ làm việc trong thời
hạn 1-2 năm tại KBS với mức lương khá cao. Ở VOV, cô từng làm ở Kênh truyền hình
(VOVTV), chưa lập gia đình. Khi tôi đùa khuyên cô bé “Hay cháu ở lại, kiếm tấm chồng Hàn“, thì cô cười bảo: “ Chịu thôi “...
8.
... & Sex
Đến Jeju, có biết bao nhiêu điểm tham
quan, thắng cảnh, song nếu không đến “ Love land “ ( Miền đất tình yêu ) thì
coi như chưa đến Jeju. Có người nhắn gửi vậy, nên càng sinh háo hức. Vừa may,
trong chương trình thăm thú Jeju có địa điểm này.
Hôm ấy, trời mưa rả rích cả ngày. Sau
khi lên Đỉnh Bình minh trong cơn mưa,
tiếp đến là tua cưỡi ngựa, mệt nhoài rồi, chúng tôi được phía bạn đưa đến thăm “ Miền
đất tình yêu “. Nói vậy cho thêm hấp dẫn, thực ra, đây là Bảo tàng sức khỏe và giới tính. Là gì thì
gì, cũng xem cho biết, cho thỏa chí tò mò...
Cái gọi là “Miền đất tình yêu” này được xây dựng thành một công viên khép kín,
bên trong chia thành nhiều khu vực, có vườn hoa, cây cảnh, hồ nước, khu trưng bày
và bán các dụng cụ sex cho người trưởng thành...Và đặc biệt nhất, là la liệt các
tượng, khóm tượng về chủ đề sex, có
nhiều tượng đơn lẻ thể hiện các tư thế, cách thức về tình dục, lại có hàng loạt
các tượng, khóm tượng trình bày theo chủ đề về bộ phận sinh dục và mối quan hệ
trong tình dục...
Nói đến sex, thì phải bàn về “ văn
hóa sex ”. Song bàn về lĩnh vực này thì vô cùng phong phú, có mà cả ngày, cả
năm, cả đời cũng chẳng bao giờ cạn. Thôi thì, cụ thể hơn, là nghĩ và bàn về sức
khỏe tình dục, hay trừu tượng hơn là đôi chút quan niệm về sex. Sâu xa hơn, lịch sử phong kiến cho thấy, một số quốc gia châu Á
như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam, đều cấm kỵ cái việc viết và nói
chuyện phòng the một cách công khai, trong khi vẫn coi tình dục là một trong “ tứ khoái “. Ngay cả khi, về các ngón nghề
chơi bời, các bậc cao nhân quân tử xưa nay vốn thông thạo, thì vẫn cứ cấm kỵ việc
bàn về nó ở chỗ đông người, và xem như việc này thuộc phạm vi đạo đức. Thế nên,
dân gian mới có câu bỡn rằng: “ Ban ngày
quan lớn như thần/ban đêm thì lại lần mần như ma “...
Trở lại với chủ đề sex ở Jeju. Vườn tình ( Love land ), chắc chắn là sự biểu hiện
một cách công khai, rõ ràng quan niệm về sex.
Từ xã hội phong kiến, Hàn Quốc bước vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, cùng với đó là kinh tế thị trường, là sự du nhập của văn hóa văn minh
Âu Mỹ. Hẳn là, cũng đã từng có một cách mạng về tình dục ở đây, và sản phẩm của
nó chính là những gì được trưng bày tại công viên-bảo tàng này. Quan trọng hơn,
đó là quan niệm và cách nghĩ, cách hành xứ mới về sex trong đời sống xã hội hiện đại của họ.
Thiển nghĩ, về sex, ở đây, chí ít là có sự rõ ràng, công khai. Để rồi theo đó, mà
hành xử, theo hành lang pháp luật, trong phạm vi gia đình, quan hệ đôi lứa và
ngoài xã hội...
9.
Vĩ thanh
Điều tôi muốn bàn là tôn giáo. Hàn Quốc là quốc gia đa
tôn giáo. Và cũng chỉ một nửa số dân Hàn Quốc theo tôn giáo. Trong số đó, gần một
nửa là Phật giáo, tương đương với Phật giáo là Thiên chúa giáo; số còn lại, là
Khổng giáo, Hồi giáo và các tôn giáo khác. Tuy chiếm một số lượng rất nhỏ ( chỉ chừng 1% trong số người có đạo nói chung
), song có thể nói, tư tưởng Khổng giáo (
Nho giáo ) lại ảnh hưởng và chi phối hầu hết mọi mặt xã hội Hàn Quốc.
Điều này không có gì lạ, bởi cùng với
Việt
Thời gian ở Hàn Quốc, có lẽ họ cũng hiểu
người Việt Nam chủ yếu mộ Phật giáo, nên khi đến mỗi địa phương, phía bạn đều đưa
chúng tôi đến thăm viếng các ngôi chùa Phật giáo nổi tiếng ở mỗi vùng. Ở
Gwangju thì Bul Kuk Sa ( hiểu nôm na là
chùa hang Phật ), chùa Phật quốc; còn ở Jeju thì thăm chùa Quan Âm...
Ấn tượng nhất, là chùa hang Phật. Như
tôi đã nói ở phần viết trước, địa chất Hàn Quốc thua thiệt hơn so với Trung Quốc
và Việt Nam là không có cấu trúc địa chất đá vôi, nên trên toàn lãnh thổ Hàn Quốc
không hề có hang động. Chính vì vậy, chùa Bul
Kuk Sa ở Gwangju, người ta đã phải tạo ra một hang động ( hang nhân tạo ), để rồi tạo bệ, tác tượng
đá mà đặt vào đó mà thờ cúng. Cũng vì vậy, mà ngôi chùa này là sự đặc biệt, cũng
là điểm thăm viếng nổi tiếng nhất trong hệ thống chùa chiền Phật giáo của xứ sở
kim chi, cho cả người Hàn và khách du lịch phương xa...
Có một điều cũng xin nêu ra ở đây, ở mỗi
chùa chiền, chỉ duy nhất nơi chính điện, là được phép đặt một hòm, kiểu như hòm
Công Đức như các chùa ở ta, mà bạn gọi là “Phúc
điền” ( ruộng phúc ), chứ không quá nhiều và lạm thu như mình... Họ có cách
quyên góp cho việc tu bổ chùa chiền khá hay, gọi là “ viên ngói lợp chùa
“, ấy là mỗi ai, khi đóng góp một khoản
tiền nào đó, họ cho phép người ấy được viết tên và địa chỉ của mình vào một viên
ngói, xếp để ở chùa đợi khi nào cần tu bổ thì sẽ lợp viên ngói ấy lên...
Họ cũng cấm quay phim chụp ảnh trong nội điện. Vì vậy,
tôi cũng chỉ có những bức ảnh quang cảnh bên ngoài mà thôi.
Xin kết thúc thiên phóng sự dài kỳ về
Hàn Quốc, mặc dù vẫn còn nhiều điều muốn bàn...
Xứ sở Hoa hồng
Tôi có chuyến
công tác nước ngoài khoảng hơn chục ngày, qua 3 quốc gia. VOV có quan hệ hợp
tác với nhiều tổ chức phát thanh-truyền hình quốc gia và quốc tế. Trao đổi
chương trình, chia sẻ kinh nghiệm, đào tạo song phương là công việc thường
niên.
Chuyến công
tác mà tôi tham gia với hành trình Hà Nội- Bắc Kinh- Sofia (
1. Đây rồi,
Thực ra, Bulgaria đã từng có một thời gian dài gây ấn
tượng với không chỉ riêng tôi, ấy là đất nước được mệnh danh là "xứ sở hoa hồng"; và họ cũng đã từng
ủng hộ cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ của VN, với nhiều biểu hiện về vật
chất và tinh thần, song rõ nhất, đó là sự hiện diện của một nữ thi sĩ nổi tiếng
đương đại của Bulgaria- Blaga Dimitrova,
cùng tác phẩm của bà viết về VN.
Thời sinh viên, tôi đã rất thích thú đọc hai tác phẩm
của Blaga, ấy là " Ngày phán xử cuối
cùng " và " Vậy giữa tình
yêu ", trong đó, đặc biệt là chuyện bà nhận một em gái Việt ( có tên
là HTH ) về là con nuôi, sau cô gái được theo học Piano của Học viện âm nhạc
quốc gia Bulgaria tại Sofia.
Sau chuyến bay đêm dài hơn 12 giờ từ Bắc Kinh đến sân
bay Charles de Gaulle ( CDG ), chúng tôi phải transit thêm 4 giờ nữa tại sân
bay này, để rồi lại ngồi thêm 3 giờ nữa trên chuyến bay từ Pháp đi thủ đô Sofia
( Bulgaria ). Khá mệt, nhưng háo hức,
bởi tất cả thành viên trong đoàn đều chưa từng đặt chân đến xứ sở này. Trong
máy bay của hãng Bulgari Airlinnes, hành khách chủ yếu là người Bulgari, tôi đã
được nghe thứ tiếng
Rồi tôi lại nhớ đến những lời nhà thơ Trần Đăng Khoa
kể về những lần gặp gỡ bà Blaga và những nhà thờ cổ ở
Sau khi làm thủ tục nhập cảnh, chúng tôi ngợp bởi sự
đón tiếp chân tình và nồng hậu của phía bạn. Bước ra ngoài trời, bà trưởng ban
Hợp tác quốc tế của Đài Phát thanh quốc gia
2. Rừng
trong phố.
Hành trình từ sân bay Charles de Gaulle ( Pháp ) đến
Đồ chừng, có lẽ đây là vùng ngoại ô thôi. Nhưng thực
ra đã là thủ đô rồi đó. Khách sạn chúng tôi ở thuộc loại 4 sao, khá sang trọng,
và chỉ cách sân bay chừng 10 phút ô tô. Ngay buổi chiều, chúng tôi đến Đại sứ
quán Việt
Đất nước Bulgaria nằm trên bán đảo Balkan, hiện hơn 7
triệu dân, còn thủ đô
Ngoài phủ Tổng thống, văn phòng làm việc của Chính
phủ, một vài trường đại học lớn,
Brick cafe và nhà hàng Vecelo
Celo là một trong những quán như vậy. Song có thể nói, hai quán này thuộc
diện nổi tiếng nhất ở
Khác với phong cách ăn ở ta, là khai vị bằng vang rồi
chuyển sang rượu mạnh, còn ở đây, rượu khai vị của mỗi nhà hàng đều là rượu
mạnh và chế phẩm riêng biệt của họ. Tiếp theo là rượu vang. Thông thường, mỗi
bữa ăn, ít nhất có đến 3 loại vang được mang ra phục vụ khách, và bao giờ kết
thúc bữa ăn, nhà hàng cũng phục vụ loại vang ngon nhất...
3. Hoa hồng
& người Việt ở xứ sở hoa hồng.
“ Hoa Hồng
Bun-ga-ri/Ôi loài hoa diệu kì!/Hoa ở đâu chẳng biết/Theo người hay gió bay/Từ
thế kỷ mười bảy/Hoa về mọc nơi đây/Giữa bốn bề núi dựng/Một thung lũng hoa
hồng/Mỗi năm một lần nở/Trời đất bắt đầu xuân...”.
Đây là một đoạn trích từ bài thơ “ Hoa hồng Bun-ga-ri“, tôi không rõ tác
giả, và nghe đâu được đưa vào sách giáo khoa lớp 5 thì phải. Thời tôi còn đi
học, chắc chắn SGK chưa có bài thơ này.
Thung lũng hoa hồng được nói đến trong bài thơ này là
thung lũng ở
Mùa hoa hồng xứ sở này nở rộ là vào dịp cuối xuân đầu
hạ theo thời tiết của Châu Âu, nghĩa là vào dịp tháng 5 và 6 hằng năm. Lẽ dĩ
nhiên, tôi đến xứ hoa hồng vào trung tuần tháng 4, chưa phải mùa hoa hồng rộ,
lại chỉ loanh quanh ở khu vực thủ đô Sofia và thành phố cổ Plovdiv ( cách thủ đô chừng 150 km ) vì thời gian
có hạn, nên chưa có cơ hội “ mục sở thị “ thung lũng hoa hồng ở Kazanluk, hay
chí ít vùng chuyên canh hoa hồng khác của xứ sở này. Tuy nhiên, bù lại, tôi
được gặp gỡ các "bông hồng"
xứ sở này và hẳn còn tuyệt diệu hơn cả hoa hồng, ấy là các cô nàng Bulgaria...
Riêng điều này thì tôi có tìm hiểu qua phía bạn và các
cán bộ Việt Nam ở Đại sứ quán ta tại Bulgaria, và được biết, ấy là, vốn mệnh
danh xứ sở hoa hồng, song xứ này chỉ trồng và chiết xuất tinh dầu hoa hồng, chứ
việc sản xuất nước hoa tại đây thì còn yếu, mặc dù từ thế kỷ 17 họ đã biết cách
chế nước hoa. Bulgari xuất khẩu hương
liệu hoa hồng cho các hãng nước hoa nổi tiếng khắp thế giới, nhất là Tây Âu (
Pháp, Italia ...), mỗi năm thu về vài ba tỷ USD. Nói vậy, không có nghĩa là
không có nước hoa
Nói thêm, ngoài hoa hồng,
Còn người Việt ở xứ sở này ra sao? Theo ngài đại sứ
Việt Nam Lê Đức Lưu thì, đã từng có thời kỳ cao điểm, người Việt sinh sống và
học tập, lao động ở Bulgaria lên con số dăm bảy chục nghìn, song đến thời điểm
hiện tại, chỉ còn hơn 1 nghìn người, và cũng chỉ có vài ba trăm người Việt mang
quốc tịch Bulgaria. Ít nhưng mà tinh. Các cháu học sinh con em người Việt ở đây
học rất giỏi, thậm chí có cháu tham gia đội tuyển toán quốc tế của Bulgaria và
giành Huy chương Bạc, đem vinh quang về cho xứ sở này. Theo tôi được biết, thời
còn phe XHCN, thì cùng với Liên Xô cũ, một số nước Đông Âu khác là Ba Lan, CHDC
Đức, Tiệp Khắc ( Sec và Slovakia ),
Hungari, Rumani, Bulgaria đã tiếp nhận và đào tạo nhiều thế hệ lưu học sinh VN.
Đặc biệt, Nhạc viên
Song, cái thời ấy cũng đã xa. Ta đổi mới, xứ bạn cũng
đổi mới. Hẳn là câu chuyện hợp tác cùng phát triển sẽ là một câu chuyện dài...
4. Thành phố
cổ Plovdiv.
Được biết đến ở phương Tây, hầu hết lịch sử của thành
phố này với tên Hy Lạp là Philippopolis. Ban đầu nó là một khu định cư Thracia
trước khi trở thành một thành phố La Mã lớn. Trong thời Trung cổ, nó giữ lại
tầm quan trọng chiến lược trong khu vực, thay đổi giữa các đế chế Byzantine và
Có thể xem đây là lịch sử tóm tắt về sự hình thành của
thành phố cổ
Với một ngày ở Plovdiv, phía bạn chỉ đủ thời gian bố
trí cho chúng tôi thăm và làm việc với Đài phát thanh Plodiv ( một trong 6 chi nhánh của Đài phát thanh
quốc gia Bulgaria); thăm thú khu trung tâm và là khu cổ nhất của Plovdiv
với một số địa điểm cụ thể như : Bức tường cổ nhất, ngôi nhà cổ nhất, bảo tàng
cổ của thành phố, bảo tàng của danh họa Zlati Boiadgiez, nhà hát cổ, mua sắm
trong các cửa hàng bán đồ lưu niệm ...
Gây ấn tượng đối với tôi là Bức tường cổ, rồi đó là bảo tàng thành phố, ngôi nhà cổ nhất và nhà
hát cổ... Những gì ta thấy ngày nay, nhiều thứ đã có từ mấy ngàn năm trước.
Trước dấu tích cổ sơ, ta dễ đánh mất cảm giác về sự
hiện hữu của mình... Với Plovdiv, tôi đã có cảm giác như vậy...
Không hiểu mọi người từng có cảm giác ấy chưa ?...
5. Nhà thờ
cổ ở
“ Người
nguyên thủy Thracian Serdi đã định cư ở đây vào thế kỷ XVII trước Công nguyên
và đặt tên là Serdica, người Byzantines gọi Sofia là Triadisa, người Slavs gọi
là Sledets. Thành phố được chính thức mang tên
Dấu tích về một bức tường lớn xung quanh Serdica (
Song nổi tiếng nhất trong số các nhà thờ cổ còn tồn
tại đến ngày nay ở Sofia, là nhà thờ
Boyana tọa lạc lưng chùng núi Vitosha, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1979. Sau khi
trùng tu, Boyana mang dáng vẻ như hiện có. Khác với hình dung của tôi, nhà thờ
Boyana nhỏ, chỉ đủ chỗ cho khoảng 10 người một lượt tham quan, và bên trong, cả
tường và vòm trần là những bức tranh thánh được về chồng lấn lên nhau, do nhiều
họa sĩ vẽ ở các thời kỳ khác nhau. Và có thể nói, toàn bộ giá trị tôn giáo và
nghệ thuật của Boyana dồn tụ ở các bức tranh thánh này. Không rõ nhà thờ này
được xây dựng lần đầu vào thời gian nào, người trông coi và thuyết minh cho
biết vậy, song các bức tranh thánh được vẽ trên tường và trần nhà thờ, thì sớm
nhất là vào khoảng thế kỷ 11 sau CN. Khách tham quan tuyệt đối không được quay
phim, chụp ảnh, thế nên, tôi chỉ có được những bức ảnh chụp quang cảnh bên
ngoài.
Tuyệt vời nữa, buổi chiều hôm chúng tôi lên Vitosha để
tham quan nhà thờ Boyana, trời có tuyết bay. Những bông tuyết tháng Tư cuối mùa
nhỏ nhẹ lất phất bay mơ hồ, thoảng như có như không, làm nên sự huyền ảo của
quang cảnh, đất trời xứ Hoa hồng ...
6. Vĩ thanh.
Tôi không thể không nhắc đến, những đồng nghiệp làm
báo phát thanh ở xứ sở hoa hồng. Họ là những còn người yêu nghề, tận tụy với
nghề. Thời phe XHCN còn hùng mạnh, cùng với Liên Xô, các quốc gia khác ở Đông
và Nam Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Hungari, Rumani, Bulgaria,... ngành
phát thanh-truyền hình đều phát triển rất mạnh, và đương nhiên, khi ấy, ngành
Phát thanh & Truyền hình Việt Nam đều có quan hệ tốt đẹp với họ.
Khi Liên Xô sụp đổ, và hiệu ứng đô-mi-nô gây nên sự
tan rã của cả hệ thống, mà hệ lụy của nó ít nhiều làm cho ngành PT-TH ở các
quốc gia đó chao đảo, điêu đứng. Vì thế, về quan hệ ngành, giữa ta với họ cũng bị đứt đoạn ít nhiều.
Nhưng rồi, những người làm nghề, yêu nghề, lại từng có
mối quan hệ hợp tác mang tính truyền thống, thì du có khó khăn đến đâu, rốt
cuộc cũng sẽ tìm lại nhau. Riêng với Đài Phát thanh quốc gia Bulgari, thì từ
dăm năm nay, đã nối lại quan hệ hợp tác với VOV. Lần này, tại xứ sở hoa hồng,
tôi cảm nhận được sự chân thành trong gặp gỡ, ứng xử, trao đổi công việc hợp
tác từ cả hai phía. Những buổi thăm và làm việc tại Đài Phát thanh quốc gia
Trước khi kết thúc ký sự đường xa về xứ sở hoa hồng
này, tôi vẫn muốn nhắc đến một người Việt
Như tôi đã nói đến ở phần đầu tiên của Ký sự này, ấy
là khi Việt nam còn đang ở vào thời kỳ ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ
Ngụy, Blaga Dimitrova đã từng sang Việt Nam. Nữ sĩ đã sáng tác 2 tác phẩm văn
học tuyệt vời về đề tài Việt Nam, đó là tiểu thuyết du ký “ Ngày phán xử cuối cùng “ và tập thơ “ Vây giữa tình yêu “. Cùng với đó, bà
nhận một người con nuôi Việt
Sau nhiều năm không rõ, mới đây, trong chuyến sang
Vậy thôi, một xứ sở với những con người, cũ và mới,
thực tại và hoài niệm, cổ kính và hiện đại, mỗi thứ đều mang thân phận của
riêng mình.
Dù thế nào, vẫn là một xứ sở xa xôi và hấp dẫn...
Loanh quanh Châu Âu
1. Amsterdam
mùa thu,
Trước khi đến với Amsterdam, thủ đô của Hà Lan vào mùa
thu năm 2012, tôi chỉ biết đến Hà Lan qua phim ảnh, sách báo, rằng đây là thủ
đô của một đất nước thấp hơn mực nước biển cùng hệ thống đê biển, nổi tiếng về
bò sữa, cối xay gió và bóng đá tổng lực với hình ảnh "cơn lốc màu da cam", cùng thế hệ cầu thủ tài ba như J.Cruijff,
V. Basten, R.Gullit, F. Rijkaard, E. Davids P. Kluivert, C. Seedorf v.v...
Và tôi đã có cơ hội đặt chân đến xứ sở nổi tiếng này,
trong dịp tham dự một khóa học về nền hành chính tại Học viện Hành chính quốc
gia Pháp ( L’ ENA ). Từ Paris, tôi
đến
Là nói vậy thôi, chứ quan sát quanh cảnh hai bên đường
cũng có thể phỏng đoán khi vào đất Hà Lan, ấy là những cánh đồng cỏ với những
đàn bò sữa thong thả gặm cỏ, ấy là những chiếc cối xay gió khổng lồ quay vòng
chậm chạm... Và khi bắt gặp những kênh rạnh ngang dọc, thì biết là mình đã vào
Được biết,
Hôm ấy là một ngày mưa, mưa nhỏ nhưng dai dẳng. Sau
khi lấy phòng khách sạn ở khu ngoại ô, chúng tôi vào trung tâm thành phố tham
quan. Phố xá nhà cửa khá cổ kính, không cao tầng và chủ yếu phân tuyến theo hệ
thống kênh rạch. Lá đã bắt đầu vàng, nhất là những phố bờ sông. Có lẽ, có một
không hai trên thế giới,
Trên phố, thì cơ man những điểm để xe đạp, mỗi cái đều
được chằng bảo vệ bởi những xích sắt cột vào điểm cố định. Chẳng thế mà
Buổi tối, chúng tôi trở lại khu phố De Wallen ( phố Đèn đỏ ) với mục đích " mục sở
thị ". Là dân làm báo, đến được
Tối ấy, trời vẫn mưa, khi lất phất lúc nặng hạt, song
khi phố De Wallen đông đặc người, khác hẳn với vẻ yên tĩnh xuềnh xoàng ban
ngày. Người người chen chúc nhau, lép nhép dưới trời mưa, để mà tò mò nhìn ngắm
cái khu phố nổi tiếng khắp thế giới này. Từ tuyến phố chính đến các con ngõ
hẹp, các cửa hàng sex được bày ra dưới ánh đèn mờ ảo, các cô gái đủ các màu da,
chủng tộc, gày béo đều có, chỉ mặc bikini hai mảnh đứng hoặc ngồi chào hàng trong
một căn phòng phỏ rộng chừng dăm bảy mét vuông kính trong suốt. Cô thì mỉm cười
chào khách, cô thì nhìn đâu đó, cô lại nhí nhoáy nghịch điện thoại di động. Hết
tò mò, lại thấy cám cảnh thân phận con người. Sau đó, tôi có cảm hứng làm một
bài thơ về cái phố này ( Bài thơ " Ma-nơ-canh phố Đèn đỏ " ).
Chúng tôi cũng không ngại, mua vé xem thử một Sexshow thời lượng chừng 30 phút xem người ta làm trò gì ở đấy. Xem
rồi, ẩn sau sự tò mò vẫn chỉ là sự xót xa về thân phận con người mà thôi. Rất
tiếc, vì được dặn là không nên mang máy ảnh theo, hoặc có mang theo thì cùng
không được chụp bởi các bảo vệ và dân bảo kê ở đây sẵn sàng tịch thu, đập máy
ảnh, thậm chí gây sự hành hung bạn, nên tôi không có pô ảnh nào chụp cảnh phố
Đèn đỏ này về đêm...
Cơn ngủ chập chờn trong đêm
Rời Amsterdam trở về Bruxelle ( Bỉ ), xe chúng tôi lại
băng qua những cánh đồng cỏ nơi những chú bò sữa nhẩn nha gặm cỏ trong màn mưa
nhẹ thanh bình...
2.
Bruxelles, trái tim Châu Âu,
Cho đến thời điểm này, tôi đã đôi ba lần được đặt chân
đến đất nước Bỉ (
" Brussels (tiếng Pháp: Bruxelles ), là thủ đô trên thực tế của Bỉ, của khu vực Vlaanderen
( gồm cả Cộng đồng Vlaanderen và Vùng
Vlaanderen ) và Cộng đồng Pháp tại Bỉ, và cũng là nơi đặt trụ sở chính của
các cơ quan Liên minh Châu Âu ( EU ). Vùng này cũng bao gồm thành phố Bruxelles
là thủ đô về pháp lý của Bỉ, nằm ngay trung tâm của nước Bỉ, và cũng là thành
phố tự trị lớn nhất trong khu vực Bruxelles. Bruxelles phát triển từ một thị
trấn pháo đài thế kỷ 10, do một hậu duệ của Charlemagne thành lập và phát triển
đến nay có hơn một triệu cư dân. Thành phố tự trị này có tên là thành phố
Bruxelles, là một trong 19 thành phố tự trị tạo nên vùng thủ đô Bruxelles có
dân số gần 15 vạn người, và tính chung vùng đô thị khoảng hơn 2 triêu người.
Bruxelles cũng là nơi đặt trụ sở chính trị của NATO,... Tiếng Pháp và Hà Lan là
các ngôn ngữ được sử dụng phổ biến ở đô thị này. Tất cả các bảng chỉ đường, tên
đường, quảng cáo và hầu hết các dịch vụ được thể hiện bằng 2 ngôn ngữ
này...",
Chúng ta có thể tìm hiểu sơ lược về thủ đô Bruxelles
qua các trang mạng như vậy. Song nếu chỉ như thế thì có thể nói là vẫn chưa mấy
hiểu về Bruxelles... Tại sao, người ta lại gọi Bruxelles là " trái tim Châu Âu ", trước hết, đơn
giản bởi Trụ sở của EU và Trụ sở chính của NATO ( Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương ) cùng một số tổ chức khác của EU
đều đặt ở Bruxelles... Khác với
Và vào một ngày cuối thu, tôi đã đứng chân giữa khoảng
không rộng thênh, cùng đông đúc khách du lịch tứ phương trên Quảng trường Lớn (
Grand Place ) rất cổ kính của một
Bruxelles cổ kính. Quảng trường Lớn Bruxelles đã được UNESCO đưa vào danh sách
di sản thế giới năm 1998. Trước hết phải nhắc đến Tòa đô chính, nó được xây dựng từ năm 1402 theo kiến trúc Gothic,
có tháp cao 97 m, trên đỉnh tháp là tượng thánh Michael, vị thánh bản mệnh của
thành phố này. Có một câu chuyện khá thú vị về Tòa đô chính này, ấy là thời
gian xây dựng khá lâu, lại được xây dựng theo kiểu xây thêm, chắp nối từng phần
và hai cánh không cân xứng nhau. Đầu tiên người ta xây cánh trái ( 1.402 ), rồi
tiếp đến cánh phải ( 1.444 ) và sau đó 5 năm nữa mới đến tòa tháp chính giữa để
kết nối hai cánh với nhau. Tương truyền là kiến trúc sư Jean Van Ruysbroeck,
người thiết kế chiếc tháp này, khi nhận thấy công trình của mình không nằm đúng
ngay chính giữa của 2 cánh nhà, rồi vòm cửa chính lại cũng lệch trọng tâm của
tòa tháp, nên ông ta đã phẫn uất mà "nhảy lầu" tự tử từ trên đỉnh
tháp xuống quảng trường... Tận mắt nhìn ngắm sự lệch chuẩn của cửa tòa tháp và
cửa chính, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, nhà kiến trúc thì tài ba lẫy lừng, rồi còn
bao nhiêu người liên quan đến việc xây dựng, tại sao trong suốt quá trình xây
dựng rất dài lại không một ai phát hiện ra sự bất đối xứng này, để đến khi hoàn
thành mới thấy. Tự hỏi vậy, rồi tôi lại bật cười về câu hỏi ngớ ngẩn của mình.
Nếu không có chuyện đó, thì đời sau và đến tận bây giờ, chúng ta đâu có chuyện
gì để nhớ, để bàn luận về nó ? Cái gì tồn tại, đều có cái lý riêng của nó là
vậy chăng ?!...
Đến quảng trường Lớn mà không biết, để rồi không chiêm
ngưỡng một ngôi nhà hết sức đặc biệt ( mà
nay đã thành bảo tàng, hay nhà lưu niệm
), ấy là nơi một nhà tư tưởng lớn của Cách mạng vô sản thế giới, Karl Heinrich
Marx ( Các Mác ) đã tửng sống từ
1845- tháng 1848. Nơi đây, K. Marx đã nghiên cứu về "Hệ tư tưởng Đức", và viết cuốn "Sự khốn cùng của triết học" (1847), cho đến khi chính quyền Bỉ
trục xuất Người ra khỏi nước này... Ngắm ngôi nhà từ các góc độ, đọc biển hiệu
ngôi nhà, ngắm những chậu hoa trên ban công, tôi bâng khuâng nhớ lại hồi học
phổ thông, khi được đọc những cuốn sách viết về K. Marx và mối tình bất hủ của
Người với người bạn đời tuyệt vời là Jenny Marx ...
Dù lưu luyến đến mấy, tôi cũng đành phải rời ngôi nhà
này để tranh thủ thăm thú nơi khác. Biểu
tượng "thằng bé đứng tè",
thì ai đã đến Bruxelles cũng đều tìm đến cho thỏa tò mò. Tôi cùng mấy đồng
nghiệp đã đến đây, chụp ảnh lưu niệm, không những thế, còn biết và tìm đến xem
cả tượng "cô bé tè" nữa...
Và chắc chắn, không thể không dùng bữa trưa ăn nhẹ, nhấm nháp thứ bia đỏ của Bỉ
ngon nổi tiếng trong một nhà hàng mà ngoài cửa có biểu tượng copy " thằng bé đứng tè "...
Sau bữa trưa, lại tiếp tục thăm thú Bruxelles, lên
điểm cao để ngắm thành phố từ tầm cao, rồi chiều về, đến thăm Cơ quan thường
trú Thông tấn xã Việt Nam tại đây. Biết chặng đường từ Bruxelles về
Các món ăn Việt, đậu phụ rán, dưa chua, canh cua, thịt
lợn rang và vài món xào, cơ bản kiểu Việt, nhưng khi ăn, kỹ ra thì thấy cũng
chế biến đi một chút cho hợp khẩu vị khách Tây... Chị chủ quán tên Hà thì phải,
người Hà Nội, tuổi ngoại ngũ tuần, dáng vẻ và kiểu nói chuyện dễ ưa, sang định
cư chừng hơn hai chục năm rồi. Qua câu chuyện, tôi hiểu được phần nào đời sống
của cộng đồng người Việt ở đây, họ phần lớn làm nghề dịch vụ ăn uống, và cuộc
sống cũng khá ổn định.
Lên xe về lại
3. Brugge, “
Thực ra, tôi đã có thể đến mảnh đất được mệnh danh là
“Venice Phương Bắc” này từ mùa thu năm
2012, chứ đâu phải đợi thêm mấy năm nữa, cho đến mùa hè năm 2015.
Số là, sau khi thăm Amsterdam, trên đường trở lại
Paris, anh chàng VOV Paris thông báo rằng, chỉ ghé qua Bruxelles gọi là cho
biết, thời gian còn lại dành đến thăm Brugge, vùng đất đẹp như cổ tích. Nhưng
rồi, sau vài cú điện thoại dọn đường, chàng ta ái ngại bảo: “ Brugge đang mưa tầm tã, thời tiết này thì
vẻ đẹp Brugge giảm đi một nửa...”. Thôi đành đợi dịp khác vậy...
May thay, dịp chờ đợi ấy đã tới. Mùa hè này, trong
chuyến công tác đi mấy nước Đông Âu, có vài ngày dừng chân ở
Quảng trường trung tâm thành phố Brugge hiện ra với vẻ
cổ kính và tráng lệ. Giữa biết bao công trình kiến trúc tuyệt mỹ, gây ấn tượng
và dễ nhận thấy nhất là Tháp chuông. Nghe nói, Tháp chuông có chiều cao 83m. Nó
được xây dựng lần đầu tiên năm 1.240, và đến năm 1280, Tháp chuông này đã bị
thiêu cháy hoàn toàn trong một trận hỏa hoạn.
Mãi đến năm 1.300, người ta cho xây lại Tháp chuông. Bên trong tháp có
cầu thang dẫn lên đỉnh tháp, phải leo qua 366 bậc thang để lên được đến ngọn
tháp, nếu ai muốn ngắm toàn cảnh thành phố Brugge. Từ đây, ta sẽ có cái nhìn
tổng quan về cả khu vực Trung tâm lịch sử cũng như cả thành phố Brugge. Tháp chuông
này là một trong số không nhiều tháp chuông được Tổ chức Unesco công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Brugge (tiếng Pháp:
Kiến trúc của Brugge hầu như giữ được kiến trúc từ
thời Trung cổ cho đến giờ. Nơi tập trung nhiều công trình kiến trúc nhất, cũng
là nơi có nhiều công trình kiến trúc giá trị nhất là khu vực Trung tâm lịch sử Brugge.
Cùng với Tháp chuông, có thể kể đến Tòa thị chính, Nhà thờ Đức Mẹ, Tượng điêu
khác Madonna và con trai do Danh họa Michelangelo thực hiện, Giáo đường
Saint-Salvator, Nhà thờ Máu thiêng Heilig-Bloedbasiliek v.v...
Trong suốt khoảng thời gian từ thế kỷ 12 đến thế kỷ
15, Brugge là trung tâm buôn bán sầm uất bởi hệ thống kênh rạch ở đây thích hợp
cho tàu bè qua lại giao thương. Thời ấy, Brugge nổi tiếng bởi các sản phẩm
bông, len chất lượng cao. Các thương gia trong ngoài nước đều tìm đến đây làm
ăn và gắn bó với mảnh đất này. Tuy nhiên, sau thế kỷ 15, những biến cố lịch sử
đã làm thay đổi diện mạo của Brugge. Cùng với đó, hệ thống kênh đào chính của
Brugge bị nghẽn bùn khiến cho cả thành phố chìm dần vào suy thoái, và đã có
nhiều người rời bỏ thành phố, tìm đến vùng đất mới sinh sống... Nhưng rồi,
Brugge lại dần hồi sinh và vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính tuyệt diệu như ta thấy
ngày nay...
Mê mẩn với các công trình kiến trúc cổ kính, chúng tôi
lại tha thẩn theo những con phố nhỏ với cơ man của hàng souvenir. Mỗi người đều
lựa chọn mua cho mình vài ba món đồ lưu niệm. Riêng mình, tôi mua được chiếc
chân nến cổ và một chiếc túi xach hand-made... Rồi nữa, cứ theo dọc bờ kênh,
nhìn ngắm không chán mắt những ngôi nhà cổ, những hàng cây ngả soi bóng trên
mặt nước trong xanh, những câu cầu cổ, những chiếc xuồng chở đầy khách du lịch,
những quán bia Bỉ đông người... Có thể nói, kiến trúc, thiên nhiên, con người
hòa quện với nhau làm nên sự kỳ diệu và vẻ đẹp cổ tích cho thành phố này...
Quá trưa, chúng tôi dùng bữa tại một quán ăn kế bên
quảng trường trung tâm thành phố, bia đỏ nhắm với vài ba món hải sản địa
phương, cùng bánh mì phết bơ tỏi nướng thật ngon miệng... Chỉ đến khi nhấp từng
ngụm bia, tôi mới cảm nhận được nhịp chậm của cuộc sống nơi đây và thai nghén
những câu thơ: “... Sống/nhịp chậm/ngưng
đọng/như không/chảy/người/ nơi đây/như chẳng thể già,/cứ thiên nhiên/những cỏ/
cùng hoa/ta/ như tan/hòa vào tĩnh lặng...”
Nắng hè tràn ngập quảng trường. Trời không quá nóng. Ở
trong bóng râm lại cảm nhận được cái lạnh se se. Nghe nói trước đó, Châu Âu,
nhất là mấy quốc gia Nam Âu vừa trải qua một đợt nắng nóng đỉnh điểm lên tới 39
độ C. Brugge mang khí hậu biển nên ít khi bị nóng bức, ấy cũng là nhờ trời ban
tặng cho mảnh đất tuyệt vời này. Ôi, những ngôi nhà kia được xây dựng từ bao
giờ ? Và trong mỗi ngôi nhà ấy, đã có bao nhiêu chủ nhân từng sống ở đó ? Để
giờ đây, tất thảy đều trở thành bảo tàng sống, lưu giữ cho nhân loại giá trị
văn hóa kiến trúc vô giá. Để cho ta thấy diện mạo của lịch sử xa xưa...
Nhấp từng ngụm bia tuyệt diệu, tôi thầm nghĩ như vậy
!...
4. Chạm mặt
thành Viên,
Thực lòng mà nói, tôi không dám nghĩ đến một ngày nào
đó được đặt chân lên hè phố thành Viên (
Rồi một ngày, cô nhà báo đàn em đến nộp báo cáo công
tác sau chuyến cô được một tổ chức khoa học và giáo dục nọ có trụ sở ở
Và cơ may đã đến. Trong chuyến công tác mùa hè năm
2015 đến Cộng hòa Séc, lịch công việc có một ngày thăm thú, mua sắm, lại được
biết đường bộ từ Praha đến Viên chỉ khoảng 300 km, thế là chúng tôi lên lịch
đánh đổi ngày thăm thú ở Praha để đi Viên.
Thủ đô Viên ở phía Tây
Cứ thế, sông
Thời gian ít và nhờ có sự hướng dẫn, chúng tôi không
lan man, chỉ chọn thăm một số công trình kiến trúc, di sản văn hóa lịch sử nổi
tiếng nhất ở Trung tâm thành Viên, như Nhà hát Opera Quốc gia, Tòa thị chính,
Công viên Hoàng cung, Cung điện mùa đông, Tượng hoàng hậu Sissi, Cung điện mùa
hè...
Trước Tòa thị chính, đang có lễ hội hay triển lãm
ngoài trời gì đó, nên rất đông khách du lịch. Đúng trưa, chúng tôi dùng bữa với
suất ăn cùng bia. Trong lúc ăn trưa, người dẫn đường ( tour gaide ) vốn là một
người Hà Nội gốc, sang Tiếp Khắc cũ học tập rồi định cư tại Praha, đã say sưa
thuyết minh về công trình kiến trúc Tòa thị chính, và nhất là Nhà hát Opera
quốc gia Áo, tọa lạc đối diện với tòa thị chính. Theo anh ta, từ khi còn nhỏ
tuổi, nổi tiếng là thần đồng âm nhạc, Mozart thường xuyên biểu diễn và kiếm
sống tại chính nhà hát này. Đâu đây còn phảng phất hình bóng của người nhạc sĩ
thiên tài song bạc mệnh này?... Tiếc là không phải ngày Nhà hát mở cửa cho
khách du lịch vào chiêm ngưỡng, nên mọi người đành chụp ảnh lưu niệm bên tấm
biển đồng của nhà hát mà thôi. Giờ nhìn ngắm tận mắt, lịch sử xa xưa như hiện
về, một thời oanh liệt của Đế chế Áo Hung... Xưa nay, người ta mệnh danh cho
Viên là thành phố của kiến trúc và “thủ
đô của âm nhạc thế giới”, bởi liến trúc thì đặc sắc, còn hai loại hình nghệ
thuật là âm nhạc và kịch được các vương triều xa xưa của Áo và châu Âu nói chung
ưa chuộng. Thêm nữa, cùng với Mozart, Beethoven, Gluck, Haydn, Schubert, Johans Strauss
đều được sinh ra từ đây... Viên có đến 300 nhà hát kịch và
phòng hòa nhạc. Ngày nay, nghe nói, vào những tháng mùa hè, tại quảng trường
trước Tòa thị chính, người ta hay tổ chức các buổi nhạc kịch, ca nhạc, opera và
chiếu phim trên màn hình lớn phục vụ công chúng và khách du lịch, cùng với đó
là các quầy, bar ẩm thực phong phú, đặc sắc của nhiều nước trên thế giới...
Sau khi thăm Công viên Hoàng gia và Cung điện Hoàng
gia Hofburg ( Cung điện mùa đông ),
chúng tôi thăm khu Bảo tàng Sissi và đặc biệt là Tượng hoàng hậu Sissi ngoài
trời trên quảng trường của khu bảo tàng này. Khối tượng lớn với tượng hoàng hậu
Sissi trên cao nhất, bốn mặt là tượng các nhân vật trong vương triều Áo Hung,
nhân vật lịch sử liên quan đến cuộc đời của vị hoàng hậu nổi tiếng này. Người
đàn bà quấy động cả chính trường châu Âu một thời gian dài, không phải vì can
thiệp vào chính giới, mà bởi sắc đẹp, tính tình phóng khoáng, yêu thơ và làm thơ,
thích du lịch đó đây, phong cách sinh hoạt giản dị, dám phá vỡ nhiều lễ giáo,
lề thói phong kiến châu Âu, nội tâm sâu sắc, có đời sống riêng tư nhiều đau
khổ, cô đơn bởi khác người, và cuối cùng bị ám sát bởi một kẻ tiểu nhân người
Italia điên rồ bệnh hoạn... Người đàn bà huyền thoại ấy đã đi vào lịch sử nước
Áo nửa cuối thế kỉ 19, là hoàng hậu Elisabeth d’ Autrice của hoàng đế Franz
Joseph và được gọi một cách yêu mến là Sissi. Các nhà điện ảnh thế giới đã từng lấy cảm hứng
sáng tạo từ vị hoàng hậu nổi tiếng này ( Phim “Hoàng hậu Sissi”, được sản xuất năm 1955, vai nữ chính do ngôi sao
điện ảnh Romy Schneider đóng, trước tiên và nổi tiếng hơn cả ).
Rồi tiếp đó là Cung điện Schonbrunn, do kiến trúc sư
Johann Bernhard Fischer von Erlach thiết kế xây dựng, là một trong các cung
điện quan trọng nhât về văn hóa ở nước Áo, được làm theo kiến trúc Baroque ( Ba-rốc ) và là nơi nghỉ ngơi vào mùa
hè của hoàng gia Áo vì thế cung điện này còn được gọi là Cung điện mùa hè. Cung điện Schonbrunn gồm 1.441 phòng và có một
vườn hoa vô cùng lớn với những kiến trúc tuyệt đẹp theo kiểu Pháp. Ở đây, ta
còn bắt gặp 32 bức tượng và cả những cụm kiến trúc theo kiểu Hồi giáo. Quang
cảnh thật của cung điện và khu vườn này đã từng được sử dụng làm phim trường bộ
phim “Hoàng hậu Sissi”. Nghe đâu, bây
giờ, ngoài điểm du lịch thu hút khách, nó còn được sử dụng kiếu dịch vụ cho
thuê phòng như khách sạn với giá rất đắt, nếu ai muốn được hưởng thụ đời sống
đế vương...
Chiều đã dần ngả bóng trên bầu trời thành Viên, những
tia nắng hè chiếu lấp lóa trên các bức tượng và xuyên những lối đi với những
hàng cây sâu hút tĩnh lặng... Khách du lịch khá đông, song chẳng thấm tháp gì
với khu vườn rộng mênh mông, nên tiếng người cũng như chìm đi, hòa vào tiếng
gió trên những hàng cây. Lặng nhìn bốn phía, ta có cảm giác như mất hút, như
tan biến vào không gian thành Viên...
Chúng tôi lên xe để trở về Praha. Tạm biệt nhé thành
Viên, tạm biệt nhé dòng
Xe dừng chân ở một trạm nghỉ bên đường nơi biên giới
Áo-Séc. Mưa rả rích làm trời se lạnh, khiến chúng tôi phải mượn tách café nóng
để tìm hơi ấm...
Để nhớ về Tiệp Khắc một thời đã xưa...
1. Praha vàng,
chấm phá...
Cái tên “ Praha vàng “ thì tôi đã nghe lâu rồi. Xa hơn nữa, thủ đô Praha
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc vốn cũng rất nổi tiếng với người
Việt Nam từ giữa thế kỷ trước, khi mà phe XHCN còn hùng mạnh dưới sự dẫn dắt
đầu tầu của Liên Xô. Ở vào thời kỳ ấy, cùng với Liên Xô, thì Cộng hòa dân chủ
Đức và Tiệp Khắc được xem là những nước giàu đẹp, có tiềm lực kinh tế mạnh và
phát triển hơn cả.
Ngày tôi còn đi học phổ thông, những
ai được sang Tiệp Khắc học tập, học đại học
và cao hơn, hoặc thấp hơn là công nhân kỹ thuật thôi, cũng được xem là danh giá
lắm. Sau này, lại có một thời kỳ, ta xuất khẩu lao động sang Tiệp Khắc khá
nhiều. Sau khi phe XHCN tan rã, trong
khi nước Đức thống nhất, thì Liên Xô và Tiệp Khắc lại tái phân chia. Vốn là hai
quốc gia riêng là Séc ( Czech ) và Slovakia, được ngăn cách bởi dãy núi Bô-hêm,
nhập thành một nhà nước Tiệp Khắc, rồi
lại phân chia thành đôi. Thời kỳ này, người Việt và một số nước Đông Âu tìm đến
và định cư tại CH Séc đông lắm. Đến mức, năm 2013, cộng đồng người Việt ở Séc
được chính phủ nước này công nhận là dân tộc thứ 14 của họ ( trước đấy người Ukraina được công nhận là
dân tộc thứ 13 ).
Vậy là, cuối xuân năm 2014, tôi đã lần
đầu tới Praha, với tư cách là Trường đoàn công tác của VOV ( thành viên trong còn có cán bộ của Văn phòng
Chính phủ, Bộ Thông tin truyền thông và Bộ Tài chính ), sang Séc để xúc
tiến việc mở Cơ quan đại diện của VOV tại Séc và Đông Âu.
Đã cuối xuân, nhưng thời tiết ở Praha
khá lạnh, đêm và sáng nhiệt độ ngoài trời dưới 10 độ C. Khi đặt chân xuống sân bay quốc tế Praha,
thời tiết thật lý tưởng, hệt như tiết cuối thu vậy, trời trong xanh, nắng vàng
như mật giót. Nghe nói, trước đó cả tuần trời dày mây và hay có mưa. Xe men
theo những con phố dọc bờ sông Vtava, tận mắt nhìn những ngôi nhà, công trình
kiến trúc cổ kính đều một gam vàng, mới hiểu tại sao người ta gọi thủ đô này là
“ Praha vàng”...
Praha nằm bên sông
Gần một tuần ở Praha, cùng với công việc chính tại Đại
sứ quán Việt Nam và một số cơ quan của Séc, chúng tôi tranh thủ thăm thú các
công trình, di sản lịch sử, văn hóa, kiến trúc đây. Kiến trúc cổ kính và tuyệt
vời như vậy, không thể thăm hết và kể ra chẳng xuể, nên chỉ nêu ra vài ba nơi
chốn thật đặc biệt mà thôi...
Lâu đài Praha - một công trình kiến trúc tuyệt vời, là
tổ hợp lâu đài lớn nhất ở châu Âu - là nơi ẩn chứa nhiều lịch sử của Praha. Bắt
nguồn từ thế kỷ thứ 9, cho tới nửa sau thế kỷ 18, lâu đài này nhiều lần từng
được mở rộng, và hoàn thiện. Đây là nơi các vị vua Séc, các Hoàng đế của Đế quốc
La Mã thần thánh và cả các vị tổng thống sau này ngự trị. Hầu như, các phong
cách kiến trúc lớn của châu Âu từ thế kỷ 19 đều hiện diện tại đây. Đó có thể là
đại thánh đường St. Vitus với phong cách Gothique, tòa nhà đã được xây dựng
nhiều lần trong 6 thế kỷ và nội thất ngày nay là một điển hình của kiến trúc La
Mã cổ. Đó cũng có thể là các công trình mang phong cách Phục hưng do các vị vua
triều Habsburgs dựng lên từ sau thế kỷ 16. Quảng trường bên ngoài Lâu đài, từ
đây với tầm cao lý tưởng, ta có thể phóng tầm mắt bao quát gần hết thành phố
Praha. Hôm chúng tôi đến thăm Lâu đài là vào buổi chiều. Sau khi quan sát Praha
từ trên cao tràn ngập trong nắng vàng, chúng tôi tha thẩn vào thăm khu Lâu đài.
Thật choáng ngợp bởi các công trình kiến trúc. Lặng ngắm những chóp nhọn nhà
thơ cổ chọc lên bầu trời xanh bị cắt chia chằng chịt bởi các vệt khói trắng từ
các máy bay thương mại châu Âu bay ngang dọc bầu trời Praha, cảm giác mình thật
bé nhỏ và cô độc trong không gian thực mà như ảo mộng...
Cầu Charles cũng là một điểm nổi tiếng ở Praha cũng
không nên bỏ qua. Dân ta ở bên ấy gọi nôm na là Cầu Tình. Đây là cây cầu cổ nhất tại Praha, được xây dựng từ năm
1342, với 16 nhịp, được trang trí bằng 30 bức tượng tôn giáo, trước kia được
đặt tên là Cầu đá, hay cầu Praha, từ năm 1870 được đổi tên thành cầu Charles.
Tương truyền rằng, khi xây cầu, họ đã cho thêm lòng đỏ trứng vào vữa để thêm
phần chắc chắn ( kiểu như ở ta các thợ
xây ngày xưa trộn thêm mật vào vữa bắt mạch để gia tăng sự kết dính ). Có
lẽ thế mà cây cầu vẫn đứng vững đã gần bảy thế kỷ nay, trải qua bao mùa mưa
nắng, lũ lụt và là cây cầu đá lâu đời nhất châu Âu vẫn còn được sử dụng. Hai đầu
cầu là hai pháo đài, nối liền hai phần của thành phố. Còn tại sao được gọi là
Cầu Tình, là bởi các cặp tình nhân mỗi chiều ta hay đưa nhau lên đây ngắm hoàng
hôn dát vàng trên thành phố nhất là mỗi độ thu sang. Và cũng như những cây cầu
tình yêu khác trên khắp trái đất này, để thể hiện tình yêu chung thủy, họ cột
những chiếc khóa tình yêu vào những nơi có thể trên thành cây cầu này.
Một công trình kiến trúc hết sức đặc biệt ở đây là Tòa
nhà Khiêu vũ, Tòa nhà nhảy múa ( tiếng
Séc là Tančící Dům ). Công trình này do kiến trúc sư Vlado Milunić người
Vì tòa nhà này ở cách Lãnh sự quán Việt Nam chừng vài trăm
bước chân, nên khi ngay từ buổi đầu đến Praha, chúng tôi đã có thể đứng ngay
dưới chân tòa nhà, tha hồ ngắm và chụp ảnh.
Đó chỉ là đôi nét chấm phá của một Praha vàng...
2. Địa danh
gắn với tên một Liên hoan phim,
Ấy là thành phố
Thành phố này gắn với một Liên hoan phim quốc tế nổi
tiếng-Liên hoan phim
Mặc dù được thành lập từ nửa cuối thế kỷ 14 ( năm 1370 ), có kiến trúc đẹp và khá nổi
tiếng vì có rất nhiều suối khoáng nóng ( thành phố còn được gọi là thành phố suối khoáng, với hơn ba trăm
suối lớn nhỏ ), song thành phố này được thế giới biết đến nhiều lại nhờ Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary,
cùng với đó là một loại rượu Séc cũng khá nổi tiếng , rượu Karlovarská
Becherovka.
Từ thủ đô Praha, xe chúng tôi băng qua những cánh đồng,
hai bên là những vạt đồi thoai thoải được trồng trọt gần như thuần một loại cây
gì đó. Hỏi ra, mới biết đó là cây men bia, hay hoa bia ( hubblông, là một loại thực vật dạng dây leo trong họ Cannabaceae
). Biết rồi, lại chợt nhớ đến món bia Tiệp nổi tiếng, trước đây tôi đã từng được
uống ở Hà Nội, và hôm mới đến Praha, cũng đã được nhắm với món chân cừu nướng ngon
tuyệt trong một nhà hàng ngầm dưới lòng đất.
Chẳng mấy chốc, đã thấy biển chỉ dẫn lối rẽ vào
Khi ấy, trời vẫn khá lạnh, mặc du nắng vàng vẫn trải
khắp núi rừng, suối khe, nhà cửa. Thời tiết lý tưởng để khách du lịch tha hồ
lựa chọn khung cảnh, góc nhìn, khuôn hình mà chụp ảnh souvenir.
Dọc hai tuyến phố chính là các cửa hàng bán hàng hiệu
đắt tiền mà chúng tôi chỉ có thể ngắm cho đã con mắt thôi chứ không mua, trừ
vài ba món souvenir nho nhỏ. Chúng tôi rẽ vào một cửa hàng trưng bày đồ thủy
tinh pha lê tuyệt hảo. Tiệp Khắc xưa và Czech ngày nay vẫn nổi tiếng thế giới
về đồ thủy tinh pha lê. Ngắm nhìn no con mắt thôi, song chúng tôi, ai cũng ngại
mua hàng vì lo việc vận chuyển đường dài khó đảm bảo cho loại hàng dễ vỡ này.
Kiến trúc ở đây thật phong phú, khá cổ kính, và thật
khó để tìm thấy hai công trình có kiến
trúc na ná nhau.
Cứ thế, phố xá miên man, thỏa sức chiêm ngưỡng, đến
mức mình tự hỏi không biết đã đi bao xa rồi. Và khi ấy, một công trình như một
cây cột điện thâm xỉn hiện ra ngay trước mắt. Tự hỏi, và hỏi nhau, cuối cùng
cũng có lời giải đáp, ấy là tòa nhà Điện ảnh. Đây là công trình do Liên Xô cũ
xây tặng Tiệp Khắc để làm trụ sở và văn phòng làm việc, cũng là nơi để Tiệp
Khắc tổ chức Liên hoan phim
Lần theo lịch sử hình thành và phát triển của thành
phố này, nơi đây đã từng là trung tâm nghỉ dưỡng nổi tiếng khắp Châu Âu, bởi
địa hình đồi rừng thơ mộng và tiểu khí hậu ôn hòa, cùng lợi thế từ các suối
nước khoáng nóng. Được biết, ở thế kỷ 18, thành phố này từng chịu sự tàn phá
của hỏa hoạn, và sau đó người ta đã xây dựng lại công trình nhà cửa đẹp hơn so
với trước đây. Lẽ dĩ nhiên, sự cổ kính cũng vì thế mà kém đi so với Praha. Các
bậc vương giả, quyền quý và cả giới văn nghệ sĩ của Châu Âu đều tìm đến đây để
hội hè, họp kín, và nghỉ dưỡng, sáng tác. Nghe đâu, nơi đây từng ghi dấu các
nghệ sĩ lớn của thế giới như: các nhạc sĩ thiên tài F. Chopin ( Ba Lan ), L.
van Beethoven ( Đức ), đại thi hào J. Goethe ( Đức ), nhà văn N. V. Gogol và
đại văn hào L. Tolstoi ( Nga ); nhà soạn kịch nổi tiếng F. Schiller ( Đức ) v.v...
Từ năm 1992, chính phủ Czech đã xếp
Thời gian có hạn, chia tay thành phố Karlovy Vary
trong lưu luyến, chúng tôi ra ngoại ô tìm đến ăn trưa ở một nhà hàng ăn của
người Việt Nam mà trước đó chúng tôi đã gọi điện đặt cơm.
Cô chủ quán người Việt duyên dáng đang đợi chúng tôi
với món cá chép nấu dấm tuyệt vời.
Chuyện về cô chủ quán ăn, xin khất lại ở phần sau cùng
của thiên ký sự này...
3.
Ngày còn học phổ thông, môn Địa lý thế giới, tôi vẫn
nhớ là khi học về Tiệp Khắc, sách viết là, nhà nước Tiệp Khắc được hình thành
từ hai quốc gia là Czech và Slovakia, về địa hình được ngăn cách bời dãy núi
Bô-hêm. Mặc dù diện tích nhỏ ( khoảng 49
nghìn cây số vương ) và dân số hơn 5 triệu người, Slovakia lại tiếp giáp
với 5 quốc gia là Czech, Áo, Ba Lan, Hungary và Ukraina.
Chương trình làm việc của đoàn công tác chúng tôi tại
Slovakia chỉ có 3 ngày, di chuyển từ Praha đến Bratislava ( thủ đô của Slovakia ) bằng tàu hỏa, xem như cũng khá tiện lợi.
Tuyến đường sắt nối hai thủ đô xuyên dọc đồng quê hai nước. Suốt mấy giờ tàu
chạy, tôi cứ nghển cổ quan sát bên đường để nhận biết điểm ranh giới giữa hai
nước, đặc biệt là dãy núi Bô-hêm mà điểm phân thủy của nó được coi là biên giới
quốc gia như sách địa lý đã nói. Nhưng
quả thực, tôi đã không nhận biết được như những gì mình mong muốn. Khi tàu cặp
ga chính, quan sát nhà ga, tôi ít nhiều thất vọng bởi sự xuềnh xoàng của nó,
nhưng sau đó, càng đi sâu vào trung tâm thành phố, nỗi thất vọng vơi đi, thay
vào đó là sự thích thú, bởi sự nhỏ xinh và cổ kính của thành phố này.
Khách sạn chúng tôi ở ngay trung tâm thành phố, Austria Trend Hotel, từ đấy đi bộ vào
khu ẩm thực rất gần. Buổi tối đầu tiên, lang thang phố phường rồi tạt vào một
nhà hàng ngoài trời, nhâm nhi bia Tiệp với món bít-tết với khoai tây nghiền,
thật thú vị.
Sự thú vị tăng lên vào ngày hôm sau, khi ngài Václav
Mika, Tổng giám đốc Đài Phát thanh truyền hình quốc gia Slovakia chiêu đãi bữa
ăn trưa đoàn chúng tôi tại nhà hàng nổi tiếng Berlitz kế ngay bở sông Đa-nuyp (
Danube ), mà ông ta có cổ phần. Hôm ở
Đài Phát thanh Truyền hình quốc gia Slovakia trước đó
là hai đài độc lập, dăm năm trở lại đây, mới sáp nhập làm một về thể thức, song
trụ sở vẫn đôi nơi riêng biệt. Ông V. Mika vốn là giám đốc một đài truyền hình
tư nhân làm ăn phát đạt, được mời về làm Tổng giám đốc Đài PTTH quốc gia
Ấn tượng mạnh của tôi với thủ đô Brstislava là buổi đi
xem hòa nhạc đàn organ ở Lâu đài cổ
và đi thăm Pháo đài cổ nơi ngã ba
sông Đa-nuyp và sông
Bầu không khí thân tình được nhân lên, khi chúng tôi
đến chào xã giao Đại sứ quán Việt
Đang giữa mùa hè, thời tiết ở đây khá
nóng bức, trên 30 độ C. Nghe nói, trước đấy ít hôm, Slovakia cùng mấy quốc gia
Nam Âu đã phải hứng chịu một đợt nắng nóng từ sa mạc Trung Đông dồn sang khiến
nền nhiệt gần 40 độ C.
Tạm biệt
Chưa xa mà đã nhớ...
4. Người
Việt mình ở Tiệp Khắc...
Trong hai chuyến công tác xúc tiến việc mở cơ quan
thường trú VOV ở Cezch và Đông Âu, đặt tại Praha, dưới sự giúp đỡ của Đại sứ
Trương Mạnh Sơn ( tại Cezch ) và Đại sứ Hồ Đắc Minh Nguyệt ( tại Slovakia ) tôi
được gặp gỡ khá nhiều người Việt từng sinh sống ở Tiệp Khắc cũ nay khá thành
đạt, giữ cương vị trọng yếu và có tầm ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người Việt ở
đó ( như ông Hoàng Đình Thắng-Chủ tịch
Hội người Việt Nam ở Czech chẳng hạn ). Tuy nhiên, tôi không viết về họ,
bởi báo chí nói nhiều rồi. Ở đây, tôi muốn nói đến một số người hiện sống bên
xứ bạn mà cuộc mưu sinh của họ ít nhiều
long đong.
Người
đầu tiên, tôi muốn nhắc đến, ấy là T, một người bạn thưở học trò với tôi.
Quê anh ở Hải Dương. Năm 1975, khi tôi được triệu tập về bồi dưỡng tại Đội
tuyển thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền Bắc của tỉnh Hải Hưng, tôi được bố
trí ở nhở nhà T. Anh bằng tuổi tôi, học lực bình thường, nên sau khi tốt nghiệp
cấp 3, T không thi đại học mà đi công nhân kỹ thuật ở Tiệp Khắc ( cũ ). Hết
thời hạn, anh mang được ít hàng hóa đồ đạc từ Tiệp về, xây nhà, cưới vợ và đi
làm công nhân nhà máy sứ. Sinh đầy đủ 2 con trai, gái. Nhưng rồi không yên với
nghề công nhân, anh bỏ nghề đi “ đánh hàng “ từ nước ngoài về. Chán chê, cuộc
sống không khá lên, anh tìm cách quay lại Tiệp Khắc. Khi quốc gia này chia đôi,
T ở lại
Người
thứ hai, ấy là anh Th.- người dẫn đường ( tourgaide ) cho đoàn cán bộ VOV sang Praha khai trương cơ quan
thường trú vào mùa hè 2015. Anh Th. quê gốc Hà Nội, thành phần gia đình khá
giả, anh học Bách khoa, rồi sang Tiệp Khắc học chuyên ngành vật liệu kim loại nhớ hình và làm luận
án tiến sĩ. Anh đã từng về nước, định cùng người thầy cũ của mình thành lập
viện nghiên cứu. Việc chưa thành thì người thấy ấy đột tử trong một chuyến công
tác ở nước ngoài. Anh vỡ mộng, quay lại Tiệp Khắc và đưa cả gia đình sang, định
cư ở Praha. Đấy, tiến sĩ chuyên ngành vật liệu quý nay là tourgaide, nay đây
mai đó khi tuổi đã ngoại sáu mươi. Anh cẩn thận, chu đáo và khá chuyên nghiệp
trong công việc của mình. Đi cùng anh, tôi biết thêm nhiều điều thú vị về lịch
sử văn hóa Czech và đời sống của cộng đồng người Việt ở đây. Tuy kinh tế ổn
định, hai con đều làm việc và du học ở Mỹ, song tôi vẫn thấy ở anh sự tiếc nuối
về sở học của mình không được dùng, và nỗi khát khao trở về Việt
Người tiếp theo, ấy là cô chủ quán ăn
Lan Anh ở ngoại ô thành phố du lịch
Lần đầu đến Praha, tôi được anh Nguyễn
Kim Hệ, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Czech đưa đến thăm Trung tâm thương mại Sapa. Ấn tượng với
tôi hôm đó, không phải là những cửa hiệu, nhưng người làm ăn tạm gọi là phát
đạt ở đây. Thực ra, việc ở lại, định cư và tìm kế sinh nhai, ai cũng phải bon
chen, tìm cách ngoi lên, trước hết để sống được tại xứ người, còn khá giả và
giàu có chỉ là giấc mơ. Nhưng rồi, trí lực và sự may mắn cho ai đó cơ hội vượt
lên thành đạt, giàu có, ấy là phúc phận của người đó. Cái tôi quan tâm, ấy là
cái cách họ chọn nghề để bám trụ lại xứ sở này. Vì chúng tôi là dân làm báo,
nên anh Kim Hệ đưa chúng tôi đến thăm tòa soạn báo Tuần tin tức có văn phòng tại Trung tâm thương mại Sapa. Chủ bút
đón chúng tôi khá thân tình, phá bỏ cung cách xã giao thông thường. Nhìn ngắm
gương mặt, con người và cách ăn nói có gì đó bỗ bã của vị chủ bút, tôi cảm giác
quen quen như đã từng gặp ở đâu. Hỏi ra, biết anh tên H., vốn là diễn viên của Nhà hát Tuổi trẻ Hà Nội, và đã có một
thời tung hoành trên sân khấu Việt. Nhưng rồi, như bao người, phải bỏ nghề, đi
lao động xuất khẩu tại các nước Châu Âu để làm kinh tế gia đình, H. sang Tiệp
Khắc và ở lại hẳn. Chọn nghề làm báo, chứ không phải lăn lộn buôn bán, mở cửa
hàng cửa hiệu, cũng là một cách chọn lựa phù hợp với tạng mình của anh. Năm
2015, tôi trở lại Praha trong đoàn công tác của VOV để khai trương Văn phòng
thường trú, trong hàng trăm khách mời, tôi được biết có một số là dân làm báo
người Việt ở Czech, trong đó có H. Gặp lại anh, tay bắt mặt mừng đấy, song thật
lòng, tôi vẫn cảm thấy ái ngại, lo lắng cho anh...
Còn nhiều người Việt khác nữa, tôi đã
gặp ở Czech, ở
Biết rằng, chuyện mưu sinh là vậy, song từ nơi sâu kín
tâm khảm mỗi người, vẫn đau đáu một nỗi niềm quê hương...
5. Trở lại Praha,
Mùa hè, tháng 7. 2015, tôi trở lại Praha.
Mùa xuân năm trước, tôi được giao làm
trưởng đoàn công tác của VOV đến Praha, để khảo sát, tìm hiểu thực tế, nhằm mở
cơ quan thường trú thứ 10 của VOV ở nước ngoài, đặt tại Praha, để phản ánh
thông tin về mọi mặt, không những của Séc, Slovakia mà cả mấy nước thuộc khu
vực Đông Âu lân cận. Chuyến đi ấy gặp nhiều trở ngại, song nhờ sự giúp đỡ tận
tình của Đại sứ quán ta ở Séc nên có được một số thông tin bổ ích. Sau một năm
cố gắng, các thủ tục đã hoàn tất. Và chuyến trở lại Praha này, là gặp hái thành
quả, khai trương cơ quan thường trú tại đây.
Kết hợp công việc, đoàn chúng tôi ghé
Paris ( Pháp ) vài ngày, trước khi quá cảnh sang Praha.
Lần trở lại này, do bận nhiều việc nên
gần như không có thời gian thăm thú như lần trước. Vả lại, tuy mới chỉ là lần
thứ hai, song phố xá Praha đã dần trở nên thân quen rồi. Vì thế, những công
trình kiến trúc ấn tượng và nổi tiếng ở đây như lâu đài Praha, Cầu
Tình-Charles, Tòa nhà Gái nhảy... không còn làm tôi tò mò nữa, mà trái lại, mỗi
khi ngang qua những công trình này, kỷ niệm của một năm trước lại hiển hiện
trong tâm trí. Thêm nữa, sau khi biết thêm về thành phố Brugge ( Bỉ ) và thủ đô
Sau lễ khai trương cơ quan thường trú
VOV tại Trung tâm thương mại Sapa, mọi người mới tranh thủ thăm thú và mua sắm
chút ít. Riêng mình, tôi tự bách bộ loanh quanh phố phường khu vực mình ở bằng
các phương tiện giao thông công cộng sẵn có và khá thuận tiện, rẻ tiền. Praha
có hệ thông xe bus, metro nổi ( tàu điện
leng keng như ở Hà Nội xưa ) và hệ thống tàu điện ngầm khá hiện đại. Riêng
khu vực trung tâm, phố cổ của Praha, người dân và khách du lịch vẫn thích chọn
hình thức đi bộ hơn. Như thế, được thư thàn ngắm nhìn phố phường, tiện mua sắm
vặt, lại như một hình thức tập thể dục rèn luyện sức khỏe. Nền đường ở các khu
phố cổ của Praha phần lớn được lát đá nhỏ từ lâu đời, nên đi bộ thích hợp hơn
là đi bằng các phương tiện cá nhân...
Lần này, từ Praha sang thủ đô
Quả thật, khi ngắm nhìn kiến trúc cổ
kính của Nhà ga trung tâm này, tôi thầm nghĩ hẳn nó phải có lịch sử hàng trăm
năm rồi. Trái với sự cổ kính và nghệ
thuật của kiến trúc vỏ, lòng ga lại được bố trí khá hiện đại và thuận lợi theo
kiểu mới. Anh Th,-người dẫn đường, khá thông thạo, cho biết, nhà ga trung tâm
được khánh thành vào năm 1909 ở vào thời kỳ cuối của Habsburg, do Josef Fanta
thiết kế, với cái tên lúc đầu là Franz Josefs Bahnhof, sau đổi tên thành
Wilson. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, nó được nâng cấp để kết nối với các
tuyết giao thông nội đô và đặc biệt là việc quá cảnh để đi các nước khác. Và
cách đây vài năm, được sự hỗ trợ của Italia, nhà ga lại được nâng cấp để đáp
ứng được nhu cầu lưu thông và dịch vụ thương mại hiện đại theo tiêu chuẩn EU.
Mặc nhiên, đáng quan tâm hơn cả, đối với tôi, vẫn là nghệ thuật kiến trúc cổ
kính của nhà ga với mái vòm cao, những cửa kính màu và các bức điêu khắc khuôn
mặt phụ nữ trên tường cột, thêm vào đó là sự tinh xảo đài các phong kiến của
các quán ăn nhẹ trên lầu ( Fantova kavárna
).
Khi tàu rời nhà ga trung tâm hướng tới
thủ đô Bratislava của Slovakia, tôi thả lỏng người trên ghế đệm, để tranh thủ
nhìn ngắm phố xá, quang cảnh hai bên đường của Praha vàng dần lùi xa...
Và mơ màng đến một ngày nào đó, được
trở lại thành phố cổ kính, tuyệt mỹ và thanh bình này !...
Nước Mỹ, chấm phá...
1. Khi thu
còn chưa đi,
Mọi người bảo tôi là người duyên nợ với mùa thu. Có lẽ
cũng phải.
Tôi
viết nhiều về mùa thu, và mùa thu bao giờ cũng là mùa gặt hái sáng tác của
tôi...
Cảnh mùa thu lá vàng, lá đỏ thì tôi đã từng thấy nhiều
lần ở Châu Âu (
Thủ đô
Cả chặng dài gần 500 km từ Washington DC đi New York
băng qua các bang Maryland, New Jersy..., con đường cao tốc xuyên qua nông thôn
nước Mỹ, với hàng chục làn xe đi về nườm nượp xe cộ lao vun vút song vẫn bị hút
theo, khuất lấp bởi sự kỳ ảo của thiên nhiên nên cảm giác nó chỉ như một lối
mòn nhỏ bé lọt thỏm giữa bao la bạt ngàn thu phong rực rỡ lá vàng lá đỏ..
Cảnh sắc diễm lệ trùng điệp khiến ta bàng hoàng và mất
đi ý thức về sự hiện diện của mình...
Ở
Gạt đi những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội Mỹ,
thì thiên nhiên đất nước này, nhất là mùa thu, có thể nói là tuyệt diệu, thật
hiếm có trên trái đất này...
Cần phải nói thêm, thiên nhiên ấy không tự nhiên mà có
được nếu thiếu ý thức con người...
Thôi thì hãy tận hưởng, cả miền Bắc Mỹ đang chìm đắm
giữa sắc thu vàng đỏ diễm lệ, khi thu còn chưa đi...
2. Ấn tượng
Chuyến bay dài của hãng Korean Air từ Seul đi Washington
DC, dù là hàng không 5 sao thì vẫn khiến
người ta mệt mỏi. Khi thông báo máy bay hạ độ cao, cũng là lúc quan sát bằng
mắt thường qua cửa kính máy bay, tôi thấy được hình hài mặt đất của nước Mỹ.
Bao nhiêu năm chỉ được thấy diện mạo nước Mỹ qua phim ảnh, sách báo, thì nay,
nó đã hiển hiện bên dưới cánh máy bay rồi.
Những nhà cửa, dòng sông, đường xá và những vòm cây rực rỡ lá vàng lá đỏ
cứ dần rõ nét. Lời đồn đại về sự chắt chẽ khắt khe trong việc kiểm soát an ninh
sân bay khi nhập cảnh vào Mỹ đã khiến tôi và những người trong đoàn hơi căng
thẳng, nhưng rồi, với giấy tờ đầy đủ và thứ tiếng Anh giả cầy, tôi cũng đã nhập
cảnh vào đất Mỹ. Chặng đường từ Sân bay quốc tế Washington Dulles (Washington Dulles
International Airport) đến trung tâm thủ đô khoảng 4 chục cây số, trên xe của Văn phòng thường
trú VOV tại đây, chúng tôi chỉ nói chuyện về nước Mỹ và chương trình hoạt động
sắp tới, cho đến khi ngọn tháp Bút chì
hiện ra trước mắt...
Vâng, nếu đến Pháp, tháp
Eiffel là một trong những biểu tượng của
Nhưng Washington
DC đâu phải chỉ có tháp Bút chì, chỉ sơ sơ những gì ta biết qua phim ảnh, sách
báo thì dù bận mấy, cũng phải bớt chút thời gian mà tranh thủ ngó nghiêng diện
mạo Nhà trắng, Lầu Năm góc, Tòa nhà Quốc
hội Mỹ ( Điện Capitol )...
Thực ra, ngay hôm đầu tiên,
trên đường từ sân bay quốc tế Dulles về Văn phòng đại diện của VOV tại
Còn Nhà trắng (White House ), hay nôm na là Tòa Bạch ốc, thì mấy ngày sau, khi
công việc đã vãn, tôi mới có thời gian đến ngó nghiêng. Khác hẳn với Lầu Năm
góc, công viên, đường phố, rồi khuôn viên tiền sảnh tòa nhà um tùm những cây
cối. Đang vào tiết giữa thu, cây cối xung quanh choảng lên mình lá vàng, lá đỏ,
quang cảnh thật nên thơ. Tòa nhà không làm cho tôi tò mò, chỉ sau dăm pô
ảnh tọa độ xa gấn mấy góc chụp khác
nhau, tôi bị lôi cuốn bởi những vòm cây lá vàng, lá đỏ, thực sự là những tác
phẩm tuyệt mỹ của thiên nhiên, chạy tới chạy lui, thu vào ống kính của mình
không biết chán... Buồn cười là, khi ấy, ngay công viên trước cửa Nhà trắng
đang có một cuộc biểu tình nhỏ. Họ trương biển và chốc chốc lại hô to gì đấy.
Nhật Quỳnh, phóng viên thường trú của VOV tại Mỹ giải thích cho chúng tôi, rằng
họ đang biểu tình chống lại việc cắt bao quy đầu của trẻ em nam. Rõ là nước Mỹ,
thật chẳng giống ai, cái gì cũng có...
Riêng điện Capitol, thì mãi
sau chuyến đi New York trở về, một ngày trước khi kết thúc chuyến công tác,
chúng tôi mới thu xếp để thăm nom tòa nhà quốc hội Mỹ nổi tiếng khắp thế giới
này. Khi ấy, vòm nóc trụ tròn của tòa nhà đang được sửa chữa, nghe đâu là dát
vàng bên ngoài. Để đến được đây, chúng tôi phải để xe rất xa, rồi đi bộ loanh
quanh trên phố. Được là, phố thưa vắng, toàn công sở, nhiều cây cối mang sắc
vàng mùa thu, nên việc bách bộ trở thành cái thú.
Từ xa, quan sát Tòa nhà
Quốc hội, tôi thầm nghĩ, không biết, nếu vụ khổng bố 11.9 năm nào, chiếc máy bay thứ tư, chuyến bay 93 của hãng United
Airlines, bị nhóm không tặc dự định cho đâm vào Điện Capitol (Trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ) hoặc Toà
Bạch Ốc ở Washington, D.C. ( trước đó, chiếc phi cơ rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville thuộc
thị trấn Stonycreek, hạt Somerset, tiểu bang Pennsylvania vào lúc 10:30:11 sáng
giờ địa phương ) mà tới được đích
chúng muốn, thì sức mạnh và biểu tượng niềm tự hào Mỹ, sẽ ra sao nhỉ ?
Ngoài tòa nhà Quốc hội Mỹ, sông Pô-tô-mác cũng khiến
tôi tò mò. Sở dĩ, tôi biết đến tên tuổi con sông này là nhờ thơ Tố Hữu., bài
thơ Ê-mi-ly,
con được Tố Hữu sáng tác năm 1965.
Ngày còn đi học phổ thông, cũng là những năm cao điểm,
cả miền Bắc, cùng với sự giúp đỡ của các nước thuộc phe XHCN chống trả cuộc
chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc, và chiến tranh chống Mỹ Ngụy
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Khi ấy, ở nước Mỹ, người dân yêu
chuộng tự do hòa bình cũng biểu tình rầm rộ, yêu cầu chính phủ Mỹ phải nhanh
chóng chấm dứt sự can thiệp của mình vào cuộc chiến tranh phân miền ở Việt Nam,
mà tấm gương sáng chói là N. Mo-ri-xơn ( Norman
Morrison ), người sau này đã trở thành biểu tượng của nước Mỹ về phong trào
phản chiến. Sự thật lịch sử, vào ngày 02 tháng 11 năm 1965, N. Mo-ri-xơn, một
người Mỹ yêu chuộng tự do hòa bình, đã bế trên tay bé Ê-mi-ly ( Emily ), con gái mình, khi ấy mới 16
tháng tuổi ra bờ sông Pô-tô-mác ( Potomac
), gần Lầu Năm góc ( trụ sở Bộ Quốc phòng
Mỹ ), đặt con xuống bờ sông và sau đó tự thiêu chết để phản đối cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ vào Việt Nam. Ngay phần mở đầu của bài thơ, dòng sông
Pô-tô-mác đã hiển hiện: “ Ê-mi-ly, con đi
cùng cha/ Sau khôn lớn con thuộc đường,
khỏi lạc/ Đi đâu cha? / Ra bờ sông Pô-tô-mác/ Xem gì cha? / Không con ơi, chỉ
có Lầu ngũ giác/ Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe/ Ôi con tôi, đôi mắt vàng hoe/
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé !...”. Sau này, hiệu ứng Mô-ri-xơn đã lan
tràn khắp nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ-la-tinh ...
Lại nữa, ca khúc
Gảy đàn lên hỡi người bạn Mỹ của nhạc sĩ Phạm Tuyên được ông
sáng tác vào cuối năm 1969, có lời hát “ ... Sông Pô-tô-mác ngày đêm đã in bóng anh đẹp thay, tay gảy đàn miệng hát
vang, đi giữ lấy cuộc đời. Gảy đàn lên đi bạn ơi, cho tiếng ca rền vang, đi lên
nhân dân Mỹ chúng ta hãy xiết chặt tay cùng đấu tranh cho hòa bình, diệt chiến
tranh xâm lược ...”. Ngày ấy, ca khúc này được phát thường xuyên trên làn
sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, ( bản thu
đầu tiên là do ca sĩ Đăng Khoa lĩnh xường cũng tốp ca, sau là do ca sĩ Mạnh Hà
trình bày ) bay đi khắp năm châu bốn biển, như một sự khích lệ cho phong
trào đấu tranh chống chiến tranh, đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Nhạc sĩ Phạm
Tuyên đã lấy cảm hứng sáng tác ca khúc này, khi ông tình cờ được xem một đoạn
phim của Thông tấn xã Việt Nam, có hình ảnh một người đàn ông Mỹ da trắng đi
đầu đoàn biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, ôm đàn hát vang một bài ca có
giai điệu châu Mỹ La-tinh. Người nhạc sĩ-ca sĩ ấy là Pete Seeger. Và cuộc đời thật
khó ngờ, chỉ một thời gian ngắn sau đó, vào năm 1970, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã
được gặp gỡ, trò chuyện với nhạc sĩ-ca sĩ Pete Seeger ngay tại Việt Nam...
Dòng sông Pô-tô-mác chảy qua Washington DC, đổ vào vịnh Chesapeake, một vịnh nằm ở bờ biển Đại
Tây Dương của Hoa Kỳ. Sông dài khoảng 665 km và có lưu vực rộng khoảng gần 15
nghìn dặm vuông. Những ngày ở
Thật thanh bình và thơ mộng. Xa xa hơn chút là Ngũ giác đài, trơ trụi như một chiếc lô
cốt khổng lồ. Có cảm giác, vẻ yên bình thơ mộng của dòng Pô-tô-mác không can dự
gì với những toan tính của con người ẩn chứa trong chiếc lô cốt không lồ năm
cạnh kia...
3. Giáp mặt
Rời
Washington DC,
chúng tôi đi
Khi
đến ngoại ô
Trên
đường tìm đến khách sạn mà chúng tôi đã đặt trước, xe chạy ngang khu vực đài
tưởng niệm vụ 11.9, được xây dựng trên nền móng cũ của Trung tâm Thương mại Thế
giới New York (World Trade Center, viết
tắt là WTC), Nhật Quỳnh-phóng viên VOV giới thiệu vậy. Chúng tôi ngó ra bên
ngoài, giờ chì là một khoảng rộng cây cối mênh mông, và trong bóng tối nhá
nhem, như bảng lảng đâu đây những bóng người...
Hôm
sau là một ngày đẹp trời, nắng vàng ươm khi nhiệt độ ngoài trời khoảng 10 độ C.
Khu vực đài tưởng niệm vụ 11.9 ( Ground Zero ), mặc dù không phải là ngày nghỉ, song ngay từ sáng,
đã khá đông khách tham quan. Giờ đây, trên nền móng của tòa tháp đôi WTC từng
tọa lạc, người ta cho xây 2 bể nước sâu 9 m, được giật cấp, càng xuống sâu càng
thu hẹp lại, trung tâm đáy là hố đen, nước chảy từ trên miệng, tràn xuống rồi
như mất hút vào lòng đất. Tường bể được làm bằng chất liệu granite, bề mặt của
hai bể nước được lát đá bóng, có khắc tên của tất cả những người đã tử nạn trong
vụ khủng bố kinh hoàng 11.9. Công trình này là ý tưởng của kiến trúc sư Michael Arad. Đi vòng quanh bể nước sâu,
nhìn làn nước trong vắt bị hút xuống lòng đất, cảm giác như những linh hồn
người bị tử nạn đang nương theo đó mà về địa phủ. Song khi sờ tay, nhẩm đọc
từng tên người được khắc trên bề mặt tường đá của đài tưởng niệm, ta lại có cảm
giác như linh hồn họ đang lảng vảng đâu
đây trên các vòm cây tán lá vàng rộm, đỏ thắm kia, hay đâu đang phất phơ cùng
những cụm mây bông dật dờ trên đầu mình giữa nền trời xanh trong mùa thu New
York ...
Xung
quanh khu đài tưởng niệm vụ 11.9, theo năm tháng hồi sinh, các công trình cao
tầng, đã hoàn thiện hoặc còn dang dở, mọc kín. Nắng thu phải khó khăn lắm, mới
có thể lách tia sáng của mình, đặng soi rọi chút chút mái nhà, tán cây, góc phố...
Nhìn ngắm những tia nắng, thấy chúng như những lưỡi gươm của đám thiên thần
khổng lồ nhà trời đang thi nhau xỉa xuống thế gian...
Cứ
thế, chúng tôi tản bộ, sang khu vực phố Uôn (
Wall street )....
Quả là khi tận mắt nhìn thấy tấm biển chỉ phố Uôn, nó
tầm thường như nhiều tấm biển chỉ phố nhỏ, ngõ nhỏ ở Hà Nội, tôi thoáng chút ý
nghĩ thất vọng. Phố Uôn nổi tiếng toàn cầu là đây ư ?
Vâng, chẳng khó khăn gì, chỉ vài thao tác, ta có thể
tìm ngay thấy những dòng giới thiệu vắn tắt về phố Uôn như thế này: “Phố
Wall (Wall street) là một tuyến
phố ở hạ Manhattan,
thành phố New York, tiểu bang New York, Hoa Kỳ.
Tuyến phố này chạy từ Broadway đến South Street bên sông East, qua trung tâm lịch sử Financial District.
Wall Street là nơi đóng trụ sở của Sở giao dịch chứng khoán New York;
qua thời gian, thuật ngữ Wall Street
đã trở thành tên của khu phố xung quanh nó. Wall Street cũng là cách
nói tắt để đề cập các tầm quan trọng
tài chính có ảnh hưởng của ngành tài chính Mỹ, tập trung ở khu vực thành
phố
Con phố nhỏ, lòng đường khá
hẹp, lại thêm, hai bên là những ngân hàng, trụ sở tài chính của các tập đoàn
lớn, rồi những công trình cao tầng, nên trời gần giữa trưa mà ánh nắng không
mấy chiếu sáng được con phố, khiến nó cứ u u minh minh, bí ẩn, gờn gợn lạ. Nghe
đồn đại, nơi đây, các nhà tài phiệt, các ông chủ bự của phố Uôn có thể đảo lộn
cả nền tài chính thế giới chỉ sau một đêm... Quả là, mình chẳng có việc chi ở
đây, nên làm vài pô ảnh lưu niệm, chúng tôi nhanh chóng sang khu vực có tượng
chú bò vàng...
Cùng con vật này, người gọi
bò vàng, kẻ gọi trâu vàng. Song quan sát kỹ hình dáng, thì quả là bò. Nghe nói,
tác phẩm điêu khắc bởi nghệ nhân Arturo
Di Modica. Ông ta tạo ra nó như là một biểu tượng và sức mạnh của người Mỹ sau
vụ thị trường chứng khoán phố Wall sụp đổ năm 1987. Để làm ra nó, tác giả đã
phải tốn kém một khoản tiền là 350 ngàn USD. Song ở đậy sự tốn kém không đáng
nói, mà việc tác giả sáng tạo ra nó đã phải kỳ công, đúng ra ly kỳ nhữ chuyện
trinh thám, để đặt trộm tác phẩm này vào vị trí hiện tại của nó. Có tài liệu kể
lại chuyện này như sau: “Một ngày trước
khi mang con bò đến phố Wall, ông Di Modica đã đi thị sát khu vực này và lựa
chọn một vị trí đẹp ở trên vỉa hè trước cửa Sở giao dịch chứng khoán New
York đồng thời cẩn thận quan sát thời gian tuần tra của cảnh sát, cứ 8 phút
một lần ở khu vực này. Vào lúc 1 giờ sáng ngày 15/12/1989, ông Di Modica cùng
với sự giúp đỡ của 30 bạn bè và một chiếc cần cẩu đã nâng tác phẩm nghệ thuật
hoành tráng của mình lên một chiếc xe tải sàn phẳng rồi lái đến khu tài chính ở
Lower Manhattan, để con bò ở lại và bỏ đi...”.
Tôi và đồng nghiệp, cũng như hầu hết
khách tham quan, ai cũng muốn có ít nhất một bức ảnh kỷ niệm chụp với Con bò Phố Wall, nhất là nay nó đã trở
thành linh vật, biểu tượng của sự phát triển và thịnh vượng của New York và của
cả nước Mỹ giàu có. Là souvenir vậy
thôi, tôi đâu có mơ mộng chi việc làm giàu ... Có chăng, chỉ thấy hài hước cho
cái sự gọi là “ nước Mỹ, gì cũng có “
mà thôi ...
Đến
Ít
thời gian, nên chúng tôi tranh thủ ghé ngang quảng trường nổi tiếng này bằng xe
hơi, nghĩa là chạy xe trên đại lộ chính của quảng trường, chứ không bách bộ.
Tận mắt chứng kiến, thấy nó khác hẳn với hình dung của mình. Thực ra đấy chỉ là
một đại lộ lớn, mà ở đó có rất nhiều quán cà phê, sân khấu nhỏ, trường quay MTV
và khu sân khấu Broadway... Nghe nói, trước đây quảng
trường này có tên khác, cho đến khi, báo New York Times được chuyển về đây thì sự nổi
tiếng của tòa soạn báo đã khiến người ta lấy tên nó đặt cho quảng trường nơi nó
tọa lạc ( năm 1904 ). Điều đó, cho
thấy sức mạnh của báo chí truyền thông ở Mỹ như thế nào. Cùng với đó, lễ đón
mừng năm mới của người dân, chứng kiến lễ thả quả cầu từ độ cao hơn 40 m, cầu
nguyện cho một năm mới tốt lành. Nghe nói, người đầu tiên đứng ra tổ chức lễ
nghi này là ông Adolph Ochs, chủ báo Thời báo New York (The New York Times), vào ngày 31 tháng 12 năm 1907, để chào đón năm 1908, và sau
đó trở thành thông lệ hằng năm, chỉ trừ một vài năm do ảnh hưởng của chiến
tranh...
Xe chạy ngang quảng trường, lúc chiều
muộn lên đèn, nên cố gắng lắm cũng chỉ
để ngó nghiêng nhanh quang cảnh hai bên, và định vị bằng được quả cầu pha lê
nổi tiếng kia. Quả là ở độ cao ấy, lại nhìn lướt nhanh từ xa, cảm giác nó chỉ
to hơn trái bóng đá một chút. Dẫu sao thì cũng có được khái quát về cái quảng
trường nổi tiếng không chỉ ở Mỹ và cả trên thế giới này. Vậy là, cùng với quảng trường- đại lộ Champs-Elysées ở Paris ( Pháp) và Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh
(Trung Quốc), tôi đã thấy và dạo chơi nhiều lần, thì nay, biết thêm Quảng
trường Thời đại New York ( Mỹ ). Riêng Quảng trường Đỏ ở Moskva ( Nga ) thì vẫn
còn là niềm mơ ước...
Chương trình làm việc chính của chúng
tôi ở New York là tham quan, tìm hiểu, học tập kinh nghiệm Đài Phát thanh Liên
hợp quốc và chào xã giao Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc. Với riêng bà Phương
Nga, thứ trưởng Bộ Ngoại giao, kiêm Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc thì anh
em chúng tôi vốn đã quen biết từ khi bà còn làm Vụ trưởng Vụ Báo chí, kiêm
người phát ngôn của Bộ Ngoại giao ta, nên cuộc gặp gỡ khá thân mật, ấm áp tình
đồng nghiệp cũ. Chính Đại sứ quán của ta ở đây đã liên hệ, giúp chúng tôi được
phép vào trong Trụ sở Liên hợp quốc đặng tham quan và làm việc với Ban lãnh đạo
của Đài phát thanh Liên hợp quốc.
Trụ sở Liên hợp quốc nằm ở khu phố Turtle Bay thuộc quận Manhattan
trên một khu đất rộng khoảng 69 ngàn mét vuông, nhìn ra sông East River ( sông Đông ). Tìm hiểu, được biết, nó được xây dựng từ năm 1948 đến
cuối năm 1952 mới khánh thành, với khoản chi phí xây dựng lên tới 85 triệu Mỹ
kim. Nhờ sự hỗ trợ dẫn đoàn của một cán bộ Đại sứ quán ta tại Liên hợp quốc,
chúng tôi qua được cổng an ninh nghiêm ngặt để vào được tòa nhà chính. Tại tiền
sảnh, chính bà Phó giám đốc Đài phát thanh Liên hợp quốc ra tận nơi đón, lại
thêm thủ tục cấp thẻ ra vào tạm thời và an ninh bổ sung, cuối cùng thì chúng
tôi cũng vào được khu làm việc của Liên hợp quốc. Để ý, tôi thấy khá nhiều
người dân Mỹ và khách tham quan nước ngoài có mặt trong tòa nhà. Thì ra, mặc dù
đây là nơi quan trọng, kiểm soát an ninh vô cùng chặt chẽ, thì trụ sở này vẫn
là không gian mở, đầy thân thiện, nhất là trong thời kỳ của những hoạt động
khủng bố trên phạm vi toàn cầu, để du khách có thể vào tham quan... Ở sảnh tầng
trệt, khu vực cho khách tham quan, ta có thể thấy chân dung phóng to của các vị
Tổng thư ký Liên hợp quốc qua các thời kỳ, gần đây nhất là ngài Ban-Ki-Mun (Hàn
Quốc), và trước nữa là Kofi Annan (Ghana), Boutros- Ghali (Ai Cập). Javier
Pérez de Cuéllar (
Ngắm bức chân dung đương kim Tổng Thư
ký Liên Hợp quốc Ban-Ku-Mun, tôi chợt nhớ đến câu chuyện về vị Tổng Thư ký này
đến viếng thăm nhà thờ học giả Phan Huy Chú ( tác giả bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ) tại
Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây cũ vào chiều ngày 23.5.2015 nhân chuyến thăm chính
thức Việt Nam của ông. Tôi cũng đã đọc một vài bài viết về chuyến viếng thăm
này. Các tác giả bài viết còn có ảnh chụp lưu bút của ông Ban-Ki-Mun, cùng ảnh
chụp ông giữa con cháu dòng họ Phan Huy trước của nhà thờ Phan Huy Chú ở Sài
Sơn; và đặc biệt, khẳng định nguồn gốc vị Tổng Thư ký này là dòng họ Phan Huy ở
Sài Sơn. Chính xác ra sao, xin không bàn, song gạt đi cái ý “thấy sang bắt quàng làm họ”, thì cũng
rất có thể, ông Ban-Ki-Mun kía mang dòng máu Phan Huy-Việt Nam, khi lịch sử đã
chúng mình, chuyện hoàng tử Lý Long Tường mang dòng máu triều Lý-Việt Nam, nối
đời chảy mãi trên bán đảo Triều Tiên từ ngàn năm trước ...
Sau khi thăm một số không gian trưng bày và studio,
chúng tôi tập trung về phòng họp. Ở đấy đã có một số vị trưởng ban phát thanh
các thứ tiếng như Pháp, Anh, Nga, Tây Ban nha, Trung Quốc... đợi sẵn. Hiện Đài
phát thanh của Liên hợp quốc ( UN Radio
) phát chương trình hàng ngày bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Dĩ nhiên, là
chưa có chương trình bằng tiếng Việt. Xin không nêu nội dung công việc cụ thể
của đoàn công tác chúng tôi tại đây. Song có một thông tin, thiết nghĩ cũng
biết, ấy là việc Tổ chức UNESCO lấy ngày 13 tháng 2 hằng năm là Ngày Phát thanh Thế giới, viết tắt
là WRD (World Radio Day), được
công bố vào ngày 03/11/2011 ở Hội nghị toàn thể UNESCO thứ 36. Về
ý nghĩa, ngày Phát thanh thế giới chính là ngày thành lập Đài Phát thanh Liên
Hợp Quốc năm 1946. Năm 2015, ngày Phát thanh thế giới ( 13.2 ), Liên
hợp quốc tổ chức kỷ niệm 70 năm thành lập Đài phát thanh LHQ, ngài Tổng thư ký
Liên hợp quốc Ban-Ki-Mun đã đưa ra thông điệp, nhấn mạnh: “Nhân ngày phát thanh thế giới năm nay, chúng ta hãy cùng nhau kỷ niệm
làn sóng phát thanh với vai trò giúp lưu giữ và làm giàu thêm trí tưởng tượng
của con người cũng như gắn kết mọi người với nhau.... Mỗi năm, Đài phát thanh
Liên Hợp Quốc phát sóng hơn 1.200 tài liệu, các hạng mục tin tức và xã luận
trên sóng phát thanh. Kỷ niệm năm nay của ngày phát thanh thế giới nhấn mạnh
vào tầm quan trọng của phát thanh đến 1,8 tỷ thanh niên bao gồm cả phụ nữ và
nam giới trên toàn cầu. Phát thanh có sức ảnh hưởng to lớn đối với thanh niên
khắp thế giới”...
Một suy nghĩ ngồ ngộ, ấy là Đài Phát thanh Liên hợp
quốc uy tín là thế, đến mức UNESCO phải lấy ngày thành lập của nó, ngày
13.02.1946 để làm Ngày phát thanh thế
giới, hóa ra lại thành lập sau Đài Tiếng nói Việt Nam ( 07.9.1945 ), những
gần một năm ...
Có một điểm đặc biệt không thể không luận bàn đôi
chút, ấy là biểu tượng trước tiền sảnh của Trụ sở Liên hợp quốc. Biểu tượng ấy
là một khẩu súng ngắn bị bó dây thắt chặt nòng súng. Có thể dụng ý của biểu
tượng đa nghĩa, song theo thiển ý của tôi, thông điệp ấy là, dù thế nào, cũng không nên sử dụng súng đạn,
vũ khí để giải quyết các tranh chấp, xung đột, mà hãy đối thoại, hòa giải, liên
hợp với nhau, vì một nền hòa bính chung, hợp tác để cùng phát triển trên phạm
vi toàn cầu...
4. ... Và tượng Nữ thần Tự do.
Theo
lịch, thời gian ở New York chỉ còn một ngày, có sự lựa chọn giữa việc thăm thú
thác Niagara giáp biên giới Canada hoặc thăm tượng Nữ thần Tự do ngay ngoài
khơi cảng New York, trên đảo Liberty ? Trong đoàn chúng tôi, có người đã từng
đến Mỹ vài lần rồi, tuy nhiên cũng chưa có thời gian đến tượng Nữ thần Tự do.
Vậy là sự lựa chọn đã được quyết định.
Về
xuất xứ của tượng Nữ thần Tự do tại New York, một tài liệu cho biết: “Tượng Nữ thần Tự do, tên đầy đủ là Nữ thần Tự do soi sáng thế giới; (tiếng
Anh: Liberty Enlightening the
World; tiếng
Pháp: La Liberté éclairant le
monde) là một tác phẩm điêu khắc theo phong cách tân cổ điển với kích thước cực
lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York. Tác phẩm này do kiến
trúc sư Frédéric Bartholdi thiết kế và được
khánh thành vào ngày 28 tháng 10 năm 1886. Đây là tặng vật
của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.
Tượng Nữ thần Tự do có hình dáng một người phụ nữ mặc áo choàng, tiêu biểu cho Libertas, nữ
thần tự do của La Mã, tay phải cầm ngọn đuốc còn tay kia một tấm đá phiến có
khắc ngày tháng độc lập của Hoa Kỳ. Bức tượng
này là biểu tượng mẫu mực của lý tưởng tự do cũng như của chính Hoa Kỳ...”.
Các tài liệu khá chi tiết về ý tưởng, và quá trình sáng tạo tác phẩm, việc vận
động quỹ, dựng tượng, lễ khánh thành, đến việc bảo dưỡng, bảo vệ, khai thác
công trình nổi tiếng này. Đã có nhiều lần đóng cửa cấm khách tham quan bởi các
lý do khác nhau. May mà dịp này, hoạt động tham quan không bị cấm. Hiện nay,
quan trọng nhất là khâu an ninh, đặc biệt từ sau vụ khung bố 11.9.2001.
Để
ra đảo Liberty, nơi tượng Thần Tự do tọa lạc, du khách phải mua vé tham quan ( có thể mua trước trên mạng ), qua khâu
kiểm soát an ninh nghiêm ngặt, xuống phà tự hành hai tầng. Chỉ cần chạy ra xa
một chút thôi, trên tầng hai của phà, có thể quan sát tượng Thần Tự do, và quan
sát quang cảnh chung của thành phố
Và
rồi, chúng tôi cũng đặt chân lên đảo
Theo
lịch trình, sau khi rời đảo
5. Lướt qua những thành phố khác...
Trên
đường từ
Chúng
tôi chờ ăn phở ở một cửa hàng nổi tiếng, cửa hàng chật, khách ăn đông, đoàn
chúng tôi có 8 người, cộng thêm gần chục người nữa cứ phải đứng lố nhố ngoài
phổ, chờ đợi nhân viên phục vụ của nhà hàng khi xếp được bàn thì gọi vào. Đây
là thói quen ở Mỹ rồi. Với thói quen ăn hàng ở xứ ta, khách hàng là thượng đế,
nên có chút khó chịu. Nhưng rồi, tự rằn lòng, kiên nhẫn đứng chờ trong giá lạnh
ngoài hè phố, sau chừng 20 phút, chúng tôi cũng được xếp bàn để thưởng thức món
phở gà nóng hổi và béo ngậy. Phở khá ngon. Chủ cửa hàng là người Việt, và các
nhân viên lẽ đương nhiên cũng là người Việt. Còn thực khách thì tây ta ngang
nhau. Nghe nói, người Mỹ cũng rất thích món phở Việt, mặc dù so với món phở ở
quê nhà thì kém hơn nhiều vì sự pha tạp.
Cứ
quan sát các cửa hàng san sát, có một nhận xét chung, hầu như người Việt sinh
sống ở thành phố này, chủ yếu dựa vào nghề mở nhà hàng ăn uống ẩm thực Việt và
một số nghề dịch vụ đời sống như hớt tóc, gội đầu, sơn sửa móng ... Có lẽ xuất
xứ người Việt và chất lượng đào tạo nghề ở xứ ta chỉ cho phép họ lao động, hành
nghề đơn giản vậy thôi?...
Vì
không kịp về
Ghé nghỉ qua đêm ở Atlantic, dĩ nhiên, chúng tôi
chẳng ai bài bạc gì, song tiện đường, biết thêm được gì hay nấy. Đang là cuối
thu, như mọi nơi mọi ngả ở miền Bắc nước Mỹ, ngoại vi thành phố này cũng chìm
trong sắc lá vàng, đỏ đắm đuối. Khác hẳn sự mường tượng của tôi, đã là trung
tâm sòng bạc thì khách khứa phải đông đúc, nhộn nhịp, đằng này, đường phố vẫn
thưa người và cảnh sắc thật thanh bình. Nghe nói, thành phố này được thành lập
từ giữa thế kỷ 19 ( 1854 ), và sớm định hình là một trung tâm du lịch, nghỉ
dưỡng của nước Mỹ, nên từ cuối thế kỷ 19, nơi đây đã đón trung bình nửa triệu
khách du lịch mỗi năm. Chiều muộn, chúng tôi khu phố mua sắm cách khách sạn ở
không xa. Ở đây có sầm uất hơn đôi chút, với cơ man các cửa hàng đồ hiệu nổi
tiếng thế giới. Trời đêm cuối thu khá rét, nên cách giải khuây tốt nhất, nếu
không có thú vui bài bạc, là tìm một cửa hàng bit-tết, gọi món, nhấm nháp với
vang đỏ, hoặc bia...
5. Chút thoáng người Việt & ẩm thực Việt.
Lần
đầu đến Mỹ, hết thẩy những gì là dấu vết hoặc liên quan đến Việt
Tuy
không được đặt chân đến tiểu bang California và thành phố Los Angeles, là nơi
người Việt chọn định cư đông nhất ở xứ xở cờ hoa này, thì tôi cũng đã ghé được
thành phố Philadelphia (Pennsylvania) là nơi người Việt đông thứ nhì. Thêm nữa,
ngay tại
Phở Việt ở Mỹ, bò hay gà, tại
Còn người Việt ở Mỹ ư ? Không dám bàn về những người
Việt gặp thoáng qua, chốc lát. Tôi chỉ nói đôi chút về T., con trai một người
bạn rất thân của tôi. T. sinh năm 1986, khi hết lớp 11 ở Việt Nam, thì sang Mỹ
theo chương trình học hòa nhập, lớp 12 ở chung nhà dân, rồi vào đại học, chuyên
ngành hóa dược. Lựa chọn ngành học này là một khó khăn. Đây là ngành học vừa
mang tính cơ bản vừa pha chút thực nghiệm. Phần đông sinh viên Việt sang Mỹ học
đại học thường lựa chọn các ngành học mà sau đó dễ có cơ hội tìm kiếm việc làm
ở Mỹ hoặc khi về Việt
Hiện T sống ở
Chiều muộn, T chào tôi ra về. Tiễn T ra phố, nhìn
bóng cu cậu trong chiếc áo khoác mũ chụp đầu, vai tòng teng chiếc túi nhỏ kiểu
ba lô lộn ngược ngày xưa của dân Việt, hai tay thọc túi, đi rảo trên hè phố New
York chất ngất cao ốc và sầm sập người xe, tôi bỗng cảm giác ái ngại làm sao
ấy?... Tần ngần nhìn theo bóng T xa khuất dần lẫn vào dòng người đông đúc phố xá. Lòng tự nhủ, có biết bao
nhiêu bậc cha mẹ cứ mải miết kiếm ăn, làm giàu, để có tiền cho con cái du học,
và cái đích đến, già nửa là xứ sở cờ hoa này.
Rồi tôi lại nghĩ về “ giấc mơ Mỹ “ của thanh niên ta thời nay...
Ghé bán đảo Balkan,
Cuối hè 2016,
tôi có chuyến công du, trao đổi nghiệp vụ của Đài Tiếng nói Việt Nam ( VOV )
thực hiện chương trình hợp tác đã ký kết giữa nhà Đài với đối tác Phát thanh
truyền hình quốc gia Hungary và Romania. Mặc dù, Hungary không thuộc bán đảo
Balkan theo phân bố địa lý thế giới, song nó thuộc phần cán nối liền với bán
đảo Balkan. Trước đó, tôi đã từng đến Bulgaria, và lần này, thêm
1.
Nhận diện Budapest,
Theo lịch trình bay từ Hà Nội đến
Đêm đầu ở
Dù lần đầu đến đây, song qua lời kể
của những đồng nghiệp ở VOV và đọc tài liệu, tôi đã biết đến một Budapest cổ
kính được xây dựng, sáp nhập từ hai phần riêng rẽ là Buda và Pest trên đôi bờ
tả hữu của dòng Danube xanh nổi tiếng phần chảy qua lãnh thổ Hungary.
Không khó gì để tìm những thông tin
ghi chép về Budapest, đơn giản vì chính sự nổi tiếng của nó, thành phố được xem
là một trong những thành phố đẹp nhất Châu Âu, và là di sản thế giới của UNESCO.
Về lịch sử xa xưa, vùng đất này đã từng thuộc La Mã,
tới thế kỷ thứ 9, người Magyar đến định cư ở đây, hình thành nên nhà nước
Hungary; rồi tiếp thế kỷ 13 lại bị quân Nguyên Mông chinh phục; rồi sau đó,
tiếp tục là thời kỳ cai trị của đế chế Ottoman; và đến thời kỳ cận đại là đế
quốc Áo-Hung khá hùng mạnh; thời Cộng hòa Xô viết Hungary; qua chiến tranh thế
giới thứ 2; tiếp nối liên minh XHCN-khối quân sự Warsava do Liên Xô lãnh đạo,
và thời hiện tại... Trải qua một chiều dài lịch sử và đầy biến động như vậy,
Tôi đã có dịp đến nhiều thủ đô, thành phố nổi tiếng
của các nước ở Châu Âu như Amterdam ( Hà Lan ), Bruxelles, Bruges ( Bỉ ),
Paris, Anneci ( Pháp ), Geneve ( Thụy Sỹ ), Sofia, Plovdiv ( Bulgary ), Praha,
Carlovy Vary ( Czech ), Vienne ( Áo ), Bratislava ( Slovakia )... song cũng khó
thấy nơi đâu đẹp và cổ kính hơn Budapest.
Đặc biệt, con sông Danube ( tiếng Hungary gọi là Donou
) với độ dài 2.850 km chảy qua chục quốc gia Trung và Đông Âu thì phần chảy qua
lãnh thổ Hungary, nhất là đoạn qua Budapest được cho là đẹp nhất. Với địa hình
bờ Đông là Buda trên đồi cao, với bờ Tây là Pest bình địa, chảy giữa là dòng
Danube hiền hòa có 9 cây cầu bắc qua, thật khó có nơi nào lãng mạn hơn.
Tôi đã được đến thăm trung tâm Castle, trên đồi
Várnegyed, nơi tọa lạc Cung điện Hoàng
gia ( Buda castle ) với những dãy phố cổ, quần thể kiến trúc các tòa nhà
thuộc hoàng gia, thánh đường công giáo, nhà thờ Matthias, quần thể Thành những người đánh cá ( Fishermenes
Bastion ), Từ độ cao nơi đây, có thể quan sát thành phố Budapest cả đôi bờ
Danube với cầu Xích, nhà thờ Thánh Stephen ( Saint Stephen ), Nhà Quốc hội...
Cách khu đồi Lâu đài cung điện Hoàng gia không xa là
đồi Gellert. Đường lên khá quanh co. Bù lại đây được xem là đồi vọng cảnh. Cùng với các thành quách,
tường bảo cổ xưa, đây là điểm lý tưởng nhất để quan sát toàn cảnh
2. Du thuyền
trên sông Danube,
Khi được phía bạn cho biết, rằng đến
Vui và trùng hợp, hôm ấy ( 02.8 ) trùng vào sinh nhật
của một thành viên trong đoàn. Thay vì đi ăn bữa tối bình thường, tiệc buffet
trên du thuyền ngắm cảnh ( mua vé trọn
gói ) và tổ chức sinh nhật cho đồng nghiệp, thật hợp lý hợp tình.
Khoảng 6 rưỡi tối, du thuyền khởi hành. Thực khách
trên du thuyền tự chọn bàn, có nhạc sống phục vụ cả buổi. Sau ly sâm-panh khai
vị do nhân viên phục vụ mang tới, thực khách tự phục vụ các món ăn chuẩn bị sẵn
tại quầy bar. Đồ uống gồm các loại vang, bia và nước ngọt.
Thành phố bắt đầu lên đèn. Du thuyền nhẹ trôi trong
bóng mờ ảo của hoàng hôn và ánh đèn tạo thành gam màu thật khó tả. Sau vài ba
lần cụng ly, mọi người đều có cảm giác ngà ngà, và đây là cảm giác vàng để
những tay máy ảnh nghiệp dư như chúng tôi thỏa sức chọn cảnh, lựa góc máy và
khuôn hình, nhất là những lâu đài, tòa nhà cổ kính và những cây cầu bắc ngang
...
Dòng Danube với độ dài 2.850 km, dài thứ hai ở châu
Âu, chỉ sau sông Volga (Nga), bắt nguồn từ nước Đức, khu vực Rừng Đen, và là
hợp lưu của hai con sông Breg và Brigach. Trước khi đổ vào Biển Đen (Hắc Hải), nó chảy trên lãnh thổ 10 quốc
gia thuộc vùng Trung và Đông Âu, qua bán đảo Balkan. Tôi đã từng được ngắm dòng
Danube xanh ở ngoại ô thủ đô Vienne (Áo), và đặc biệt, ngã ba sông Danube với
sông Morava, điểm biên giới chung của 3 nước là Áo-Czech-Slovakia trong chuyến
công tác mùa hè năm 2015. Khi ấy, tôi đã ngắm con tàu trắng tự do đi lại trên
dòng
Du thuyền trên dòng Danube (người
Tòa nhà Quốc hội tức
Tòa Nghị viện (Orszaghaz) cũng là một
công trình kiến trúc tuyệt mỹ tọa lạc bên bở Pest sông
Riêng tôi, dù không có thời gian thăm thú, ngắm cận
cảnh tòa nhà này, song việc chụp thật nhiều ảnh tòa nhà Quốc hội từ nhiều góc
độ khác nhau, cả ban ngày, trong bóng hoàng hôn và ánh điện mờ ảo ban đêm cũng
thỏa mãn ít nhiều...
Trở lại chuyện du thuyền, với thời gian chừng 2 tiếng
rưỡi vòng qua lại khúc sông chính chảy qua Budapest, được nghe các ca sĩ hát
những bản tình ca tuyệt diệu, được thổi nến, nâng ly chúc mừng sinh nhật đồng
nghiệp, được xem các cặp thực khách dìu nhau trong điệu nhảy say sưa, thật
tuyệt vời và đáng nhớ làm sao!...
Du thuyền cặp bờ lúc 9 rưỡi đêm.
Đêm
3. Balaton,
hồ đẹp nhất Trung Âu,
Vâng, chỉ có thể là hồ Balaton.
Hồ nước ngọt này rộng 592 km2 ở về phía tây nam , cách
thủ đô Budapest chừng trăm cáy số, và được xem là ngọc lục bảo của Hungary, đẹp
nhất vùng Trung Âu. Đến
Chúng tôi chọn tàu hỏa làm phương tiện đi du ngoạn hồ
Balaton, bởi mấy lẽ, khách sạn Mecure nơi chúng tôi ở cách nhà ga trung tâm
chừng 300m đi bộ, còn ga đến lại là một thị trấn kề bên hồ, và thêm nữa, tàu
hỏa rẻ, an toàn, nhanh và có thể ngắm được cảnh sắc hai bên đường.
Đồng quê
Va đây rồi, hồ Balaton. Mênh mông như vịnh biển. Hút
tầm mắt nhìn sang xa vời bờ bên kia là những dãy nhà trên triền đồi xanh mờ.
Thực ra, trước đó, khi tàu chạy qua nhà ga Balatonliga, đường lượn một khúc cua
gần mép hồ, tôi đã nhìn thấy một góc hồ, song cho đến tận lúc này, đứng sát mép
nước, thỏa sức phóng tầm mắt, cảm nhận làn gió hồ theo những con sóng, tung
những hạt nước li ti tạt ướt lạnh da mặt, mới thực sự tận hưởng sự tuyệt vời
của cảnh sắc hồ. Từng bầy vịt trời, thiên nga chao lượn trên không trung rồi
lướt xuống mặt nước, lại từng bầy bơi lội quẩn quanh gần bờ rình chụp những vụn
bánh do khách du lịch tung cho; những hàng thuyền buồn đậu san sát trong bến,
chốc chốc lại một chiếc từ ngoài xa về bến thu buồm, rồi một vài chiếc khác
giương buồm lên đưa khách đi du ngoạn ngoài khơi... Càng ngắm, càng khó nắm bắt
sự linh động huyền ảo của mặt hồ, chỉ gợi lên trong mình những liên tưởng chớp
nhoáng, mong manh mà thôi...
Hồ Balaton nổi tiếng châu Âu bởi vẻ đẹp tự nhiên của
nó, còn được cộng hưởng thêm bởi các làng nghề như những bảo tàng sống động,
những lâu đài, nhà thờ, công trình kiến trúc cổ rải rác xung quang, rồi những
làng quê thuần khiết thanh bình như thuở mới hình thành. Tôi và các đồng nghiệp
thỏa sức lựa chọn khuôn hình, góc máy mà thu vào ống kính của mình. Trời quá
trưa, chúng tôi chọn một nhà hàng gần đó, gọi cho mỗi người một suất súp cá hồ
Balaton, thư giãn chờ đơi món súp nóng với ly bia Hung ướp lạnh nhấm nháp cùng
chút hạt rang...
Dù có luyến tiếc cảnh hồ đến mấy thì cũng đến lúc phải
trở lại nhà ga cho kịp giờ tàu để trở về
Tối ấy, chúng tôi còn có cái hẹn ra ngoại ô, đến thăm
một gia đình người Việt, vốn là đồng nghiệp cũ cùng họ nhà VOV với chúng tôi,
họ đã sang đây định cư từ mấy chục năm trước...
4. Phát
thanh truyền hình & người của một thời.
Chương trình công tác của chúng tôi là trao đổi nghiệp
vụ với MTVA ( tiếng Hungary:
Médiaszolgáltatás-Támogató és Vagyonkezeló Alap ), cơ quan quản lý truyền thông
cao nhất của Hungary, có nhiệm vụ hợp nhất và điều phối tất cả các hoạt động
sản xuất nội dung và quản lý tài sản của tất cả các cơ quan truyền thông công
của Hungary. MTVA được thành lập năm
2011, hiện có 6 Đài truyền hình, 9 Đài phát thanh, và 1 cơ quan thông tấn, cùng
một số cơ quan truyền thông mới khác. Mỗi năm, MTVA dành 40.000 giờ phát sóng
truyền hình, 52.000 giờ sóng phát thanh, và có tới 99% gia đình ở Hungary theo
dõi các chương trình của MTVA. Các chương trình này cũng được dành phát sóng
sang châu Âu, châu Mỹ và châu Đại dương. Điều này, cũng phản ánh
Chúng tôi đã đến thăm cơ sở cũ phát thanh truyền hình
của
Vâng, ngày ấy, hầu như các thiết bị phòng thu của Đài
Tiếng nói Việt
Có một chuyện mà tôi không thể không kể ra đây, ấy là
những con người liên quan đến công việc và hệ thống máy móc thiết bị thu thanh
Mô hình truyền thông, thiết bị máy móc, trụ sở, nhà
xưởng, cơ sở vật chất đã thay đổi nhanh chóng theo xu hướng hiện đại, song con
người thì đâu có vậy. Con người của một thời, đi qua thời gian khó, đến bây
giờ, tình cảm chẳng phai nhạt, mà lại càng sâu đậm hơn !?...
5.
Romania, với tôi, quả là mới chỉ dừng lại ở những
thông tin hiểu biết ít ỏi, đây là quốc gia Đông Âu, thuộc bán đảo Balkan, thủ
đô là Bucharest ( Bu-ca-rét ), nằm bên bờ Biển Đen ( Hắc Hải, Black Sea ), trước thuộc phe XHCN và khối quân sự Warsava
do Liên Xô cầm đầu: còn hiện vật của Romania ở Việt Nam ấy là những đầu máy xe
lửa động cơ diezen thời bao cấp, và nữa, là huyền thoại về lâu đài Bran ở vùng
ranh giới hẻo lánh Transylvania và Wallachia, cùng câu chuyện về ma-cà-rồng
chuyên hút máu người, được nhà văn Bram Stoker người Ailen hư cấu trong tiểu
thuyết kinh dị của ông sáng tác năm 1897, Dracula,
với nguyên mẫu là bá tước Dracula có lối sống lập dị ... Vậy thôi. Đương nhiên,
sau này và trước chuyến đi, tôi có tìm hiểu thêm thông tin về đất nước này.
Với bán đảo Balkan, thực ra, mùa xuân năm 2014, tôi đã
đặt chân đến lần đầu tiên trong chuyến thăm đất nước
Thực lòng mà nói, tôi có biết câu chuyện và xuất xứ
bài thơ được lan truyền nhiều năm nay, bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng” của tác giả Khổng Văn Đương,
cả chuyện về tác quyền, song không mấy thích, nên biết chỉ để biết mà thôi. Tôi
sẽ trở lại chuyện này ở phần tiếp theo của ký sự...
Ấn tượng của tôi về lần đầu được đặt chân đến đất nước
Romania, lại là sự chờ đợi ở sân bay Budapest vì chuyến bay từ Hungary sang
Romania bị delay hàng giờ đồng hồ và
sau đó là chuyến bay trên chiếc máy bay bé xíu động cơ cánh quạt cũ kỹ khiến
tôi mường tượng đến chiếc xe bò chạy trên đường đá khi nó lăn bánh trên đường
băng. Vậy mà khi nó bay lên bầu trời châu Âu quang đãng đang dần chuyển sang
thu, lại rất nhẹ nhàng êm ái. Tuy nhiên, khi làm xong thủ tục nhận phòng khách
sạn ở
Ngủ được chừng 4 tiếng đã vùng dậy, chuẩn bị cho ngày
làm việc đầu tiên ở đây. Từ tầng cao khách sạn, vén rèm cửa kính nhìn ra, đưa mắt
bao quát, mới biết, đây là trung tâm phố cổ của thủ đô
So với
Khi chạm mặt ngài Tổng giám đốc trong phòng làm việc
của ông, tôi không nhận ra, song có gì đó ngờ ngợ nét thân quen trên khuôn mặt
và nụ cười cởi mở của con người này. Sau chút giao tiếp xã giao, chuyện trò
thoải mái hơn, tôi mới biết, thì ra ông đã thực hiện thành công việc giảm trọng
lượng cơ thể, từ ngót một tạ nay chỉ già bảy chục cân. Hai năm trước, tôi đã
gặp ông tại trụ sở 58 Quán Sứ của VOV khi ông dẫn đầu đoàn công tác của Đài
Phát thanh quốc gia
Ngoài cơ sở vật chất còn cũ kỹ, tuy thiết bị có khá
hơn, song cơ bản còn thiếu đầu tư theo xu hướng hiện đại, nhưng có một thứ
khiến tôi ấn tượng, ấy là Nhà hát-kiêm phòng thu của họ khá lớn, bài bản, đủ
tiêu chuẩn, cỡ như Nhà hát Lớn của ta. Với người làm phát thanh, truyền hình,
như vậy là ổn rồi, bởi sự đảm bảo chất lượng cho việc biểu diễn thu thanh, thu
hình các sự kiện lớn, các chương trình ca nhạc, sân khấu, trò chơi có đông khán
thính giả tham gia...
Vậy là, bên trong cái vỏ có vẻ cũ kỹ về cơ sở và trang
thiết bị phát thanh ấy của bạn, đã bắt đầu hé lộ chiều sâu hoạt động ... Chắc
còn có gì đó bí ẩn bên trong nữa, điều đó hấp dẫn tôi. Và quả thực, ngay hôm
sau, ngày làm việc thứ hai, tôi đã thực sự bất ngờ ...
6. Dấu ấn
Radio Romania,
Trong chương trình làm việc đã được
hai bên trao đổi trước khi đoàn chúng tôi sang, có chuyến đi thăm thú một công
trình kiến trúc kiệt tác, đồng thời là di sản lịch sử văn hóa của nước bạn, đó
là lâu đài Peles thuộc thành phố Sinaia, cách thủ đô chừng 150 cây số và trên
độ cao khoảng 800m so với mực nước biển thuộc vùng rừng núi Carpatthia. Tuy
nhiên, như vậy sẽ mất quá nhiều thời gian, nên lịch trình thay đổi lại cho phì
hợp và tiện lợi hơn.
Sau khi thăm thú lâu đài Mongosaia
cũng rất đẹp ở ngoại ô thủ đô Bucharest, nằm bên bờ chi lưu sông Danube chảy
qua lãnh thổ Romania, chúng tôi quay lại thủ đô thăm Làng bảo tồn văn hóa và nghề truyền thông ( Village Museum ) của
nước bạn.
Thật tuyệt vời, bên trong Làng, những
ngôi nhà truyền thống, mô hình các nghề thủ công truyền thống của các dân tộc
thuộc
Hơn thế, thật bất ngờ không chỉ riêng
tôi mà cả đoàn công tác, ấy là đang có một chương trình hát dân ca dân tộc do
các nghệ nhân không chuyên biểu diễn, và nó được tường thuật thu thanh phát
song trực tiếp do Kênh Văn hóa của Đài Phát thanh quốc gia ( Radio Romania Cunltural ) thực hiện.
Trong buổi làm việc với ngài Tổng giám đốc, ông đã nhấn mạnh, ngoài tin tức
thời sự, thì Đài Phát thanh quốc gia rất mạnh với mảng chuyên đề về Văn hóa-Giáo dục & Âm nhạc. Tận mắt
chứng kiến chương trình trực tiếp tại đây, tôi nghĩ đó chính là bằng chúng sống
mạnh mẽ cho sự khẳng định của ông. Điều này, hiện Đài chúng tôi chưa thực hiện,
đúng ra là chưa xây dựng thành format thường kỳ, mà mới chỉ ngẫu hứng làm
chương trình na ná vậy. Vâng, nói chưa thực hiện, không có nghĩa là khó đến mức
không thể thực hiện. Cái chính là nghĩ ra ý tưởng rồi xây dựng kế hoạch thực
hiện. Đây thực sự là một bài học bổ ích về nghề cho Đài chúng tôi, cho cá nhân
tôi, trong việc tham mưu hiến kế nhằm đổi mới phát thanh...
Người dẫn đoàn chúng tôi đến đây, và
theo đoàn chúng tôi kể từ khi đặt chân xuống sân bay quốc tế Bucharest, bà
Diana-Maria şincai, chuyên viên quan hệ quốc tế của Đài Phát thanh
quốc gia Romania. Hơn thế, Diana-Maria şincai còn là một nhà thơ...
Tôi muốn dành chút ít để viết về người
phụ nữ
Diana-Maria şincai, sinh năm
1956, quê ở một tỉnh phía Bắc của
Chuyện bên lề về thơ văn, khi cô phiên
dịch của Đoàn VOV giới thiệu các thành viên trong đoàn, biết tôi có viết văn và
làm thơ, Diana tỏ ra thích thú. Ngày hôm sau gặp lại, bà hồ hởi nói ngay, cho
biết rằng tối qua, bà đã tra cứu về tôi qua công cụ google, rồi nữa qua phần
mềm dịch thuật, biết tôi là người đã xuất bản bao nhiêu tác phẩm, gồm văn xuôi,
thơ, phê bình và chân dung văn học này nọ, và bày tỏ sự hân hạnh được làm quen, được tôi tặng sách... Khi cầm mấy cuốn
sách tôi tặng để chụp chung ảnh kỷ niệm, bà đã không quên nhờ cô phiên dịch hỏi
tôi thêm về tên từng cuốn sách một, cùng tóm tắt nội dung bên trong... Ấy vậy
mà, hôm đến tiễn đoàn VOV ra sân bay về nước, Diana đã tặng tôi tập thơ xuất
bản gần đây nhất của bà, thơ viết bằng ngôn ngữ Romania, do tíu tít vội vàng,
tôi đã quên không hỏi bà tên cuốn sách là gì. So với Diana, tôi thật đoảng. Có
lẽ do bản tính chu đáo, cụ thể của người phương Tây và cá nhân bà, theo tôi, bà
có phẩm chất cởi mở, thân mật, chu đáo, cẩn thận hết sức chuyên nghiệp của một
người nhiều năm làm công việc hợp tác và quan hệ quốc tế. Ngoài tiếng
7. Để nhớ về
một thời đã qua,
Xin
trở lại bài thơ tình “Em đi tìm anh trên
bán đảo Ban-căng” của tác giả Khổng Văn Đương từng nổi tiếng một thời và
giờ đây, người ta vẫn nhắc đến, thậm chí có người còn mạnh dạn cho rằng đây là
bài thơ tình hay nhất thế kỷ 20. Nhưng thôi, đó là chuyện thiên hạ, ai cũng có
quyền riêng của mình... Thật lòng, khi đọc câu thơ “Hỡi trái đất rộng làm chi bao la/ Cho loài
người chia biên giới thế gian/ Cho sa mạc nổi bùng cơn bão cát/ Cho tình anh
chưa bén đã lụi tàn?”, bộc lộ sự thất vọng
tràn trề, nỗi đau quặn thắt lòng của đôi tình nhân ngày nào, tâm trạng tôi ít
nhiều xao động, song về lý trí, tôi vẫn nghĩ đây là một bài thơ đường được mà
thôi, kể chuyện riêng tư khá dài dòng và ngôn từ thì hơi sáo. Có thể, với tác
giả và nhiều người từng có một thời học tập, làm việc ở Romania, ở châu Âu hay
nước ngoài nói chung, có hoàn cảnh hoặc sống trong môi trường tương tự, nên dễ
cảm nhận, cảm thông và yêu thích bài thơ hơn chăng ?...
Vậy sao, tôi lại viện dẫn bài thơ này để mở đầu cho suy ngẫm của
mình về một thời đã qua nhưng còn chưa xa của lịch sử
Giờ
đây, dạo bước trên phố xá thủ đô Bucharest cổ kính, tôi được tận mắt nhìn ngắm
những công trình thế kỷ ghi dấu ấn một thời đã qua, như Khải hoàn môn, Tòa nhà
Quốc hội to lớn, Tòa soạn báo của Đảng cầm quyền ngày đó, nhất là cái ban-công
nổi tiếng của Trụ sở Trung ương Đảng CS Romania trên Quảng trường Cung điện ( nay là Quảng trường Cách mạng ) khi vào
ngày 22.12.1989, Nicolae Ceauşescu lần cuối cùng đăng đàn phát biểu, kêu gọi,
đã bị đông đảo dân chúng tham gia chính biến la ó, khiến ông phải bỏ dở, và lên
một chiếc trực thăng rời đi, sau đó bỏ trốn cùng vợ, để 3 ngày sau, bị lực
lượng nổi dậy bắt giữ, thi hành tại chỗ án tử hình sau 2 giờ xét xử chiếu lệ có
truyền hình trực tiếp... Tất cả, cho ta những suy nghĩ, những bài học sâu sắc
về chính thể, về sự độc tài, sợ xơ cứng xã hội và tệ sùng bái cả nhân... từng
diễn ra một thời ở Romania và nhiều quốc gia khác...
Cũng
ngay Quảng trường Cách mạng, sau khi nhìn ngắm ban-công nổi tiếng gắn với chính
biến năm 1989 ở Romania dẫn đến sự sụp đổ chế độ độc tài và cái chết của vợ
chồng Nicolae Ceauşescu, tôi lại bắt gặp bên hàng rào sắt của một tòa nhà đối
diện những bó hoa đặt dọc sát chân tường. Bà Diana-Maria şincai, chuyên
viên hợp tác quốc tế của Đài Phát thanh quốc gia Romania giải thích, những bó
hoa ấy là do người dân mang đến đặt để viếng và bày tỏ lòng thương tiếc vị vua
cuối cùng của Romania vừa qua đời trước đó một tuần. Tôi không hỏi kỹ lại Diana
rằng vị vua ấy là ai, song tra cứu lịch sử, rất có thể đó là vua Michael I, vị
vua cuối cùng của triều đại phong kiến Romania bị truất ngôi, buộc rời bỏ quyền
lực và bị trục xuất khỏi đất nước vào năm 1947, thay thế bằng chính thể mới
XHCN do Liên Xô cầm đầu.
Quả
là, lịch sử và người dân chẳng bỏ quên một ai. Vua Michel I hay cựu lãnh tụ Nicolae
Ceauşescu cũng vậy. Đã gần ba chục năm trôi qua, giờ đây, vào ngày 25 tháng 12
hằng năm, vẫn có nhiều người đến đặt hoa và hát những bài ca bên mộ vợ chồng
ông. Và nữa, người ta vẫn không ngừng luận bàn, so sánh công-tội của ông...
Chỉ
có nhân dân luôn là số đông và vĩnh cửu mà thôi !...
8. Nước Nga xa mà gần, gần mà
xa...
Với
riêng tôi, cho đến giờ phút này, nước Nga xa mà gần, gần mà xa. Tôi đã đặt chân
xuống và bước đi trên mặt đất Nga, ấy vậy, mà vẫn quá xa vời, nước Nga ơi !...
Như tôi đã kể ở phần mở đầu ký sự này, chuyến công tác
thăm và làm việc của chúng tôi với đối tác truyền thông của Hungary và Romania,
cả đi và về, đều transit qua sân bay quốc tế Domodedovo (Домодедово ) ở thủ đô Moskva
( Nga ). Biết là chỉ là ghé chơi đất Nga chốc lát, tuy nhiên lòng tôi cũng chộn
rộn hy vọng có đủ thời gian dạo chơi mua sắm ở sân bay, ít nhiều thỏa mãn sự tò
mò đủ để khái quát về một nước Nga ngày nay...
Vậy mà, chuyến bay của Hãng hàng không Nga-Aeroflot từ
Hà Nội đi Moskava lại chậm giờ mất một tiếng. Theo giờ mùa hè, Moskva chậm hơn
Hà Nội 4 giờ, song không hiểu sao, bảng cập nhật giờ bay thông báo trên lịch
trình của chuyến bay lại chỉ chênh có 3 giờ. Cứ chiểu theo vậy, thì chúng tôi
sẽ chậm hơn so với giờ bay và có thể nhỡ chuyến từ Nga đi Budapest (
Đó là khi đi, còn lúc về, theo lịch bay thì thời gian
trung chuyển ở Domodedovo cũng kha khá, vậy nên tha hồ mà tha thẩn, mua sắm. Ấy
là nghĩ vậy, và điều đó càng thành sự thật khi chuyến bay cất cánh, hạ cánh
đúng giờ. Tuy nhiên, ... vâng, lại tuy nhiên, một bất ngờ xảy ra...
Ấy là chiếc vali xách tay của một thành viên trong
đoàn chúng tôi, khi làm thủ tục soi an ninh, đã bị giữ lại, yêu cầu mở kiểm
tra. Khốn nỗi, chiếc vali này trước đó đã bị hóc khóa do trượt số lúc đóng mở ở
sân bay quốc tế Hungary đi Romania. Chủ nhân của nó cũng đã tốn khá nhiều thời
gian để mở mà không được, nay nhân viên an ninh yêu cầm mở để kiểm tra tại chỗ,
đành bó tay. Cứ lằng nhằng giải thích này nọ đôi co với nhau. Chủ nhân vali
chấp nhận phá khóa thì nhân viên an ninh bảo không có dụng cụ. Lại giải thích,
tiếng Anh bồi qua lại, thật chán chết, cô phiên dịch của đoàn giỏi tiếng Anh
đứng ra giải thích thì nhân viên an ninh mắng “không phải vali của mày”. Mất gần nửa tiếng ách tắc cả đoàn, kết
quả, sau khi cho soi chiếu lại chiếc vali và nghe chủ nhân chỉ chỏ màn hình
giải thích từng vật trong vali, xác định cái khối đen mà nhân viên an ninh nghi
ngờ là vũ khí hoặc vật liệu nổ gì đây, chính là mấy chiếc salami bó lại với nhau mà chủ nhân vốn thích đã mua từ siêu thị ở
Hungary. Vậy là chỉ còn chừng khoảng gần một giờ đồng hồ để tìm cửa ra máy bay
về nước và mua nhanh vài món kỷ niệm. Dẫu sao, tôi cùng kiếm được vài món
souvenir như búp-bê Nga (Matryoshka),
sợi dây chuyền bạc cho cô con gái rượu năm nay vào đại học... Và để mua được
mấy món đồ souvenir như vậy, chúng tôi cuống cuồng đến quên cả việc chụp mấy pô
ảnh làm kỷ niệm ở sân bay Nga này. Có một điều, dễ nhận thấy, ấy là cái sân bay
khổng lồ này, tuy có một số hãng hàng không lớn của Trung Quốc, Hàn Quốc,
Singapor, Việt Nam, và một số nước Trung Đông, song không thấy bóng dáng máy
bay của các hãng hàng không lớn của Tây Âu và Mỹ. Có lẽ, những bất đồng chính
trị và lệnh cấm vận của Mỹ và Liên minh châu Âu là nguyên nhân gây nên sự vắng
bóng đó?...
Tôi nói rằng, mình được đứng, bước đi trên mặt đất
Nga, thì đúng là vậy. Chuyến bay từ Romania đưa chúng tôi hạ cánh xuống sân bay
Domodedovo đã đỗ ở bãi đỗ ngoài xa, hành khách phải tự kéo va li, xách đồ đi
chừng hơn trăm mét mới đến nơi xe khách hàng không đợi chở vào khu vực trong
nhà ga sân bay. Lúc lên máy bay, cũng lại xe khách hàng không chở ra gần chân
cầu thang máy bay. Trời mây đen kéo sầm trời, rồi mưa, mưa nặng hạt, khiến hành
khách ròi ô tô để lên được máy bay bị mưa ướt ít nhiều. Nhìn qua của kính máy
bay, nhìn trời mưa tầm tã, một cảm giác buồn xâm chiếm lòng tôi. Dẫu chưa được
nhập cảnh vào Nga để ngắm hoàng hôn buông trên sông Moskva; hay chiêm ngưỡng
đêm trắng ở St. Petersboug; hay được đến Tula thăm điền trang Iaxnaia Poliana
và viếng mộ nhà văn L. Tolstoi; hay về thăm khu vườn trắng nơi quê nhà của nhà
thơ S. Exenin ở Yesenino vùng Ryazan; hay lưu dấu chân địa danh điền trang
Spasskoye, mà nhà văn I. Turgenev thuật trong thiên ký sự Bút ký người đi săn nổi tiếng của ông ... Bao nhân vật, bao địa danh vùng đất, bao tác phẩm văn học nghệ
thuật, bao tên tuổi nhà văn, nhà thơ và nghệ sĩ lỗi lạc của đất nước Nga mà tôi
từng đọc, từng nghiền ngẫm từ thời thơ ấu đi học đến mãi sau này tuổi biết yêu,
và biết sáng tác văn học, theo nhau ùa về như cuốn phim tua nhanh trong ký ức,
cho đến khi máy bay rời đường băng cất cánh lên bầu trời Moskva trong cơn mưa
chiều tầm tã... Nghĩ thật ngồ ngộ, máy bay rời mặt đất thì ý thức của mình mới
trở về mặt đất. Lên đến độ cao vài nghìn mét, thoát qua khỏi vùng mây mưa,
trong ánh hoàng hôn nghèn nghẹn không trung, vẫn loằng ngoằng, nhập nhoàng
những tia chớp xanh phía trời xa...
Khi ấy, những câu thơ đầu tiên của bài thơ Cơn
mưa chiều Moskva đã manh nha trong đầu tôi : “Cơn mưa chiều Mat-cơ-va/ lần đầu gặp, ngỡ như là đã xưa/ như mình từng
đã dây dưa/ như thân thiết lại như chưa bao giờ,... Cơn mưa chiều Mat-cơ-va,/
tính cách Nga ấy cùng ta một thời,/ mưa rơi, tầm tã mưa rơi,/ tìm đâu bóng
dáng, người ơi, đã từng ?...”.
Nhưng cớ sao, kết thúc thiên ký sự về chuyến công du
bán đảo Balkan của tôi lại là những ký ức, nỗi niềm về một nước Nga, một Liên
Xô xưa cũ. Ngày đi học, tôi đã từng đắm chìm vào lịch sử, thiên nhiên, con
người, tính cách Nga qua văn học nghệ thuật. Tôi cũng đã bộc lộ cảm xúc của
mình về những điều ấy trong một thiên tùy bút “Văn học Nga, chiếc nôi vĩ đại và êm ái “...
Tình yêu nước Nga trong tôi vẫn tròn
đầy, mặc những biến thiên của lịch sử hiện đại, mặc những phức tạp về quan hệ
đối ngoại, mặc những bất đồng chính trị của chính thể Nga hiện nay trong mối
tương quan thế giới đầy rối ren...
Vậy mà, giờ đây, nước Nga trong tôi
vẫn cứ xa mà gần, gần mà lại xa vời, nước Nga ơi !...
Lướt trên bán đảo Đông Dương.
1.
Đất nước Triệu Voi,
Mùa thu năm 2010, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) khai
trương hai văn phòng cơ quan thường trú ngoài nước của mình tại Lào và Cam-pu-chia.
Đúng vào dịp ấy, tôi được Hội Nhà báo Việt Nam mời tham gia đoàn công tác của
Hội sang thăm và trao đổi nghiệp vụ với Hội Nhà báo Trung Quốc. Thế là đành
thoái đoàn của Hội Nhà báo để tham gia đoàn của VOV đi Lào và Cam-pu-chia.
Thú vị nhất, lúc đi, từ Hà Nội sang Viêng-chăn (Vientiane), chúng tôi đi bằng đường bộ,
qua cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) mà
vượt biên giới sang nước bạn. Vui nữa, trong đoàn công tác có nhà thơ Trần Đăng
Khoa, khi ấy đang là Giám dốc Kênh Truyền hình VOV (VOVTV). Tôi và Khoa cùng xe nên câu chuyện dọc đường thêm phần rôm
rả.
Tối đầu tiên, đoàn chúng tôi ngủ đêm ở Phố Châu, thuộc
huyện Hương Sơn của Hà Tĩnh. Biết nơi đây, ngày xưa, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác, khi chán ngán thời cuộc nhiễu nhương tao loạn, đã rời bỏ kinh đô Thăng
Long, chọn đến để sinh sống những năm cuối đời mình, với nghiệp nghiên cứu đông
y, hái thuốc và chữa bệnh cứu người. Cũng tại mảnh đất này, ông đã trút hơi thở
cuối cùng, lăng mộ hiện còn đây, được người dân quanh năm hương khói ghi nhớ
công ơn. Thêm nữa, tôi có anh bạn trẻ văn chương là Vũ Trọng Hoài, một giáo
viên dạy văn ở địa phương, bấy lâu anh em thơ phú giao lưu, từng đối ẩm ở Hà
Nội, song thời gian ít nên chẳng dám alo nhau đến.
Đêm Phố Châu yên tĩnh lạ, đến thành khó ngủ. Sáng sớm
đã lên đường. Con đường từ Phố Châu đến cửa khẩu Cầu Treo khoảng gần năm chục
cây số, thật không ngờ khá quanh co, đồi dốc, và cảnh sắc nên thơ, hao hao
giống đường núi Cao Bằng hay đâu đó mầy tỉnh biên giới phía Bắc. Thủ tục quá
cảnh khá nhanh chóng, nên xe đã bon bon trên đất Lào. Đây là lần đầu tiên tôi
sang Lào. Quan sát quang cảnh dọc đường đi, vẫn còn rừng núi, na ná như Hòa
Bình, Thanh Hóa của ta. Nhưng khi cách biên giới Việt dăm chục cây số, chỉ còn
địa hình gò đồi, cây cối lúp xúp, đến khi vỡ òa, một không gian trống không
phía trước. Ấy là, dòng Mê-kông án ngữ ngay trước mặt.
Sông Mê-kông còn có các tên gọi khác, khởi nguồn từ
Thanh Hải, ngang qua cao nguyên Tây Tạng với tên Trát Khúc, hợp lưu thành Lan
Thương, gần một nửa chiều dài ( tổng
chiều dài là 4.880 km ) chảy trên đất Trung Quốc, rồi các tên Mè Khoỏng, Mè
Nam ( sông mẹ, sông cái ), chảy qua
Lào, Myanmar, Thái Lan, Cam-pu-chia rồi đổ vào lãnh thổ Việt Nam thì mang tên
Cửu Long ( Chín Rồng, chín cửa ) với
đôi nhánh sông Tiền, sông Hậu.
Xe chúng tôi cứ thế, ngược đường từ Đông
Lang Quốc Khánh, phóng viên và là Trưởng cơ quan đại
diện của VOV tại Lào í ới điện thoại và ra tận rìa đường điểm hẹn đón chúng
tôi. Viêng-chăn nhỏ, chỉ một chút là đã vào trung tâm thành phố. Và Đài chiến
sĩ vô danh ( Anou Savary ) đã hiện ra. Trước khi đi, tôi đã tìm hiểu nên
biết cái đài này mới được xây dựng vào năm 1958, kiến trúc pha trộn giữa kiến
trúc Pháp và kiến trúc cổ phù điêu Lào. Sau này, đổi tên thành Khải Hoàn Môn ( Patuxay ), và như vậy là chịu ảnh hưởng
của văn hóa Pháp rồi. Điều này, còn được thấy rõ ở kiến trúc đường phố và biệt
thự Pháp, kiểu dáng giống như các thành phố miền
Trước khi đến khách sạn, chúng tôi ghé văn phòng của
VOV tại Viêng-chăn, nghe đâu thuê lại của gia đình quan chức bạn, ngôi biệt thự
xinh xắn với khuôn viên vườn tược rộng rãi, cách trung tâm nơi Khải Hoàn Môn
tọa lạc không xa ...
Mọi việc tất bật, tạm chưa thăm thú đâu, tất cả dành
cho lễ khai trương Cơ quan thường trú VOV tại Lào, với sự hiện diện của chủ
tịch nước khi đó là ông Nguyễn Minh Triết, cùng quan chức cao cấp hai nước tham
dự...
2. Thạt
Luổng, biểu tượng của văn hóa Phật giáo Lào,
Và rồi, lễ khai trường Cơ quan thường trú VOV Lào tại
Viêng-chăn diễn ra trang trọng và suôn sẻ. Với tư cánh là Chánh văn phòng VOV,
tôi là người dẫn chương trình chính, cùng với một nữ phát thanh viên Chương
trình tiếng Việt của Đài Phát thanh quốc gia Lào. Cặp MC, nam tiếng Việt, nữ
tiếng Lào, khá nhịp nhàng và ăn khớp. Chủ tịch nước phát biểu và giao nhiệm vụ
cho VOV... Sau lễ, là tiệc chiêu đãi,
sâm-panh, rượu vang, tiệc đứng. Kết thúc là màn lăm-vông theo phong tục hội hè
văn hóa Lào. Các ca sĩ Việt của nhà hát VOV là Hồng Ngát, Đăng Dương, Việt Hoàn
biểu diễn các tiết mục của mình. Cuối cùng, cả lãnh đạo và toàn bộ thành viên
trong đoàn công tác cùng hát bài ca truyền thống của nhà Đài, ấy là bài “ Tự
hào tiếng nói Việt
Xong việc chính, chúng tôi mới được xả
hơi, thăm thú đây đó Viêng-chăn. Dĩ nhiên, Thạt Luổng ( Chùa Vàng ) là điểm ưu
tiên.
Không khó để tìm kiếm những thông tin
về Thạt Luổng. Về tổng thể, Thạt Luổng gồm hai phần chính, ấy là Tháp và Chùa.
Xét về ý nghĩa, Thạt Luổng là công trình văn hóa-kiến trúc-tâm linh quan trọng
nhất của Lào, là biểu tượng của đất nước Triệu Voi, được in hình trên quốc huy
và đồng tiền Kíp của nước bạn Lào.
Thạt Luổng, âm Lào là That Luang, nghĩa là Tháp Lớn ( tháp Đại Phật Tích ). Công
trình này được xây dựng vào năm 1566 dưới triều vua Xệt Tha Thi Lạt cầm quyền,
có hình dáng chiếc nậm rượu, trên nền cũ phế tích một ngôi đền Ấn Độ thế kỷ 13.
Tương truyền, trong tháp lớn có chứa xá lị của Đức Phật và nhiều châu báu. Thạt
Luổng ngày nay gắn liền với công tích của vua Xệt Tha Thi Lạt, sau khi ông dời
đô từ Luang Phrabang ( Luông Phạ-băng ) về Viêng-chăn vào năm 1563. Cũng có tài
liệu nói về nguồn gốc xa xưa của Thạt Luổng, ấy là từ thế kỷ thứ 3 tr.CN khi
năm nhà sư người Lào sau khi tu tập thành công tại Ấn Độ, hoằng duơng Phật giáo
tại Lào, đã xin với vị châu mường xứ Viêng-chăn (Chămthabuli Pạ Xitthi xắc) khi đó cho xây dựng một ngôi tháp để
chứa xá lị Đức Phật là chiếc xương đầu gối của ngài do chính họ mang theo về từ
Ấn Độ. Đấy là truyền thuyết của người Lào, thực hư chẳng rõ. Có điều này thì
rõ, ấy là vào năm 1911, một nhà nghiên cứu khoa học người Pháp là Henri
Parmentier đã phát hiện ra, trong khối cong chính của ngôi tháp ngày nay là một
tháp cũ. Điều này cho thấy, nguồn gốc cổ xưa của nó, và sự chồng chất của di
tích Thạt Luổng.
Mặc dù, Thạt Luổng gồm hai phần chính
là tháp và chùa, song mọi tinh hoa của văn hóa Phật giáo Lào dồn tụ cả vào Đại
tháp. Về cấu trúc, Đại tháp lại gồm 2 phần, ấy là tháp lớn chính giữa, kích
thước 90 x 90, và chiều cao là 45m, xung quanh là các tháp nhỏ. Hình dáng tháp
chính là đài sen hinh vuông, giật cấp thành nấc, lên cao nhỏ dần, rồi phình ra
thành một phần cầu lớn, làm tựa cho bên trên hình quả bầu vuốt thon lên cao, đỡ
phần trên nữa là tháp nhỏ có ngọn vút lên ...
Lào là quốc gia Phật giáo Tiểu thừa,
giống như Cam-pu-chia, Thái Lan và một số quốc gia Nam Á khác. Có lẽ vậy, khi
thăm viếng Thạt Luổng, tâm trạng tôi thoải mái, nhìn ngắm thỏa trí tò mò tìm
hiểu, nhiều hơn là sự thành kính tâm linh, thậm chí e ngại như khi thăm viếng
đền chùa ở xứ Việt ta. Tháp lớn chân đế hình vuông ở giữa, xung quanh là sân cỏ
xanh mịn, và bao bọc vòng ngoài là hành lang nối kín thành hình vuông có lợp
mái, và dọc theo hành lang là các tượng đất nung, kiểu như la hán chùa bên
ta...
Tôi và Trần Đăng Khoa tha thẩn nhìn
ngắm. Người đi lễ chùa, không mấy đông. Để ý, thấy họ chậm rãi, bình thản lắm,
chứ không có hiện tượng tranh nhau khấn tế cầu phúc cầu lợi kiểu đi lễ chùa xứ
ta. Vậy nên, quang cảnh thật bình an, thanh thản. Tôi nhẩm bụng, thế này thì
hơn xứ ta cái chắc. Để ý Trần Đăng Khoa, chỉ thấy anh ngó nghiêng lơ đãng,
gương mặt không biểu lộ gì. Chẳng hiểu trong cái đầu mẫn tiệp kia, có tứ thơ
nào nảy sinh ?...
Trong khuôn viên tháp, bên ngoài sân
chùa, cổng chùa, cũng lác dác những người bán hàng rong, chủ yếu là đồ lưu niệm
nhà Phật mang tính cầu may cầu phúc. Những người bán hàng rong, cũng lặng lẽ,
hoặc mời chào nhẹ nhàng, chứ không có lối bán hàng chèo kéo, ép mua như xứ ta,
xứ Tàu. Điều này cũng khiến khách thập phương dễ chịu.
Sau Thạt Luổng, chúng tôi còn được
phía bạn đưa thăm thú một vài nơi, rồi chợ búa, mua sắm, thưởng thức ẩm thực xứ
Lào. Tuy nhiên, thực lòng mà nói, không mấy ấn tượng. Hôm đến khách sạn
Lạn-xạn, một trong những khách sạn sang trọng nhất ở Viêng-chăn, hỏi ra mới
biết, tên khách sạn hiểu tiếng Việt có nghĩa là Triệu Voi. Chợt nhớ xứ sở này
cùng được gọi là Triệu Voi, bèn hỏi anh Trưởng phòng chương trình phát thanh
Tiếng Việt của Đài Phát thanh Quốc gia Lào, rằng Lào hiện còn bao nhiêu voi?
Anh chàng cười như mắc lỗi, bảo:” Ôi, ít
lắm, chẳng còn triệu voi như ngày xưa đâu. Cũng chỉ có ở khu vực rừng già phía
tây bắc nước Lào thôi”...
Nghĩ mà buồn. Đến đất nước được mênh
danh là Triệu Voi, nay cũng còn rất ít voi, nữa là xứ mình, voi vốn không
nhiều, vậy thì nay còn đâu nữa !?... Ngay như mấy quốc gia châu Phi như
3.
Ghé đất Thái Lan.
Gọi là ghé đất Thái Lan, với tôi hoàn toàn đúng. Mặc
dù, do yêu cầu công việc, tôi có điều kiện đi nước ngoài, Tây Tàu đủ cả, song
với Thái Lan thì đây là lần đầu tiên. Thực ra, thu đông năm 1996, tôi sang Pháp
học nghiệp vụ báo chí, theo đường hàng không của hãng Air France, cả đi và về
đều transit qua sân bay quốc tế thủ đô Băng-cốc ( Thái Lan). Thời gian quá cảnh
khá lâu, hành khách được ra khỏi máy bay vào siêu thị mua sắm cả mấy tiếng,
song về ý nghĩa, khu vực ấy không còn là đất Thái Lan nữa, mặc dù nó chềnh ềnh
giữa xứ sở Thái Lan. Bởi vậy, đây là lần đầu tiên tôi đặt chân lên đất Thái Lan
với đầy đủ nghĩa thực của nó.
Chúng tôi sang đất Thái bằng đường bộ,
qua cửa khẩu Nong-khai, nằm đối diện bờ nam sông Mê-kông với Viêng-chăn. Mặc
dù, đoàn chúng tôi sang Lào bằng 3 chiếc xe biển xanh 80B, song khi qua đất
Thái thì không thể. Bởi mang xe mình quá cảnh, giấy tờ thủ tục phiền hà, lại
thêm, hệ thống giao thông bên Thái theo kiểu Anh ( tức đi trái, về phải, như Nhật
bản, Hồng-kông ), chứ không phổ thông đi phải về trái như hầu hết các nước
trên thế giới. Các bạn ở Phòng Phát thanh Tiếng Việt, Đài Phát thanh quốc gia
Lào thuê giúp chúng tôi một chiếc xe loại hơn hai chục chỗ của một công ty du
lịch tại Viêng-chăn.
Đi từ sáng sớm, xe qua cầu Hữu nghị
Thái-Lào số 1, nhìn nước Mê-kông đang mùa lũ, chảy xiết, có chút nao nao trong
lòng. Cây cầu hữu nghị này, nghe nói do chính phủ
Sang đất Thái Lan, thủ tục quá cảnh
khá nhanh chóng và thuận tiện khi giấy tờ đầy đủ. Xe chạy trên đất Thái Lan
theo giao thông kiểu Anh, nên nhìn đường, cảm giác hơi khó chịu, đôi khi cảm
thấy ô tô như sắp đâm sầm vào nhau, mặc dù với tôi, trước đấy vài tháng, đã
phần nào làm quen với kiểu giao thông này ở Hồng-kông. Xe chạy trên đất tỉnh
Nong-khai, rồi rẽ về hướng tỉnh Udon. Đây là vùng châu thổ sông Mê-kông thuộc
đông bắc Thái Lan, nên đồng ruộng cây trồng cũng na ná xứ ta. Tuy vậy, cánh
đồng có vẻ rộng hơn, ít manh mún hơn, chắc là do hình thức tập trung ruộng đất
và chuyên canh thoáng hơn xứ ta. Đường tốt, xe chạy tốc độ hàng trăm cây số
giờ. Và tôi, được tận mắt chứng kiến tài nghệ các bác tài xứ này, đáng nể và
cũng đáng kinh. Ấy là, ở Thái Lan, đường thì đi theo kiểu Anh, nhưng ô tô loại
lưu thông thoải mái cả xe táy lái thuận, tay lái nghịch. Thế nên, mới có cảnh,
hai bác tài chạy xe cùng chiều, một tai lái thuận, một tay lái nghịch, cho xe
chạy sát nhau, và với tốc độ chóng mặt như vậy, họ mở kính, thoải mái nói
chuyện và trao đổi đồ vật cho nhau. Thật đáng nể và cũng thật đáng sợ. Nói dại,
ngộ nhỡ ra...
Cứ như vậy, vào sâu thêm đất Thái.
Chợt nổi lên trong suy nghĩ của tôi, hình như ở vùng này, đâu đó là sân bay
Cò-rạt (Khorat), U-ta-pao, căn cứ
không quân của Mỹ trên đất Thái Lan, suốt những năm, từ 1965 đến 1972, cùng với
sân bay trên Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương, không biết bao nhiêu ngàn lượt máy
bay cường kích, tiêm kích của Mỹ cất cánh bay vào lãnh thổ Việt Nam dội bom,
bắn phá, gây nên chết chóc, hoang tàn cho xứ sở ta?... Sau này, tôi có tình cờ đọc được một vài tài
liệu của nhà báo Xuân Ba viết về những người Việt hiện đang sinh sống ở vùng
đông bắc Thái Lan, trong đó có Udon. Lịch sử cho thấy, từ thời vua chúa nhà
Nguyễn, đã có một bộ phận người Việt vì nhiều lý do, di cư sang đất Thái Lan
sinh sống. Nay, con cháu họ vẫn định cư ở đây, và cũng đã từng giúp đỡ cụ Hồ ( khi ấy mang tên Thầu Chín ) hoạt động
cánh mạng trên đất Thái... Và sau này, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm
lược, được biết, không ít người trong số họ, trong quá trình mưu sinh, đang làm
việc tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực này, đã có những đóng góp không
nhỏ trong việc thông tin trước các hoạt động của máy bay Mỹ từ các sân bay trên
đất Thái (Cò-rạt, U-ta-pao) bay sang
Việt Nam bắn phá. Nhờ thế mà ta lường trước được để đối phó kịp thời, giảm ít
nhiều sự tổn thất ...
Vì không có nhiều thời gian, nên khi
vào đến tỉnh lỵ Udon Thani, chúng tôi vào một trung tâm thương mại lớn. Đủ sức
nhìn ngó cho biết, chứ mua sắm chẳng là bao. Hàng Thái Lan chất lượng khá, giá
cả cũng phải chăng, nói chung là dễ mua, song cánh đàn ông chúng tôi vụng đường
mua sắm. Có cái khác với Lào trong việc sử dụng đồng tiền. Nếu như ở bên Lào,
trung tâm thương mại hay chợ trời, ta mua sắm trả bằng Kíp Lào, Bạt Thái, Đô la
Mỹ, hay tiền Đồng Việt
Chiều muộn, chúng tôi về lại
Viêng-chăn Lào, và để bù lại, chúng tôi đi ăn tối ở một quán ăn đồ nướng nổi
tiếng tại Viêng-chăn...
4. ... Và xứ
sở Ăng-co,
Rời Viêng-chăn, chúng tôi bay sang Phnôm-pênh,
thủ đô của Campuchia, xứ sở Ăng-co. Tại đây, Đài Tiếng nói Việt Nam ( VOV )
tiếp tục lễ khai trương Văn phòng cơ quan thường trú VOV tại Campuchia, với sự
tham dự của ông Nguyễn Minh Triết, nhân chuyến thăm chính nhà nước Campuchia
trên cương vị Chủ tịch nước, trước khi kết thúc nhiệm kỳ của ông. Đây là một
vinh dự không dễ gì có của VOV, bởi vậy, bình thường đã phải long trọng, thì
nay càng long trọng và cẩn trọng gấp bội. Riêng tôi, với trách nhiệm Chánh Văn
phòng VOV, người dẫn chương trình buổi lễ, nhất là phải tuân thủ một số nghi
thức khi có sự tham gia của người đại diện cho nhà vua Campuchia, điều đó ít
nhiều làm tôi lo lắng. Song sự thành công của lễ khai trương tại Lào, khiến tôi
tự tin trấn an mình. Và rồi, lễ khai trương ấy đã diễn ra suôn sẻ, thành công
hơn cả sự mong đợi. Xong việc chính, đoàn VOV còn chương trình làm việc với Đài
Phát thanh quốc gia Campuchia, và sau đó mới là sự thư giãn thăm thú chút ít xứ
sở Ăng-co này.
Đến thủ đô Pnôm Pênh, không mấy ai lại
bỏ qua điểm thăm thú nối tiếng nhất, ấy là chùa Pênh ( Wat Phnom ), bởi nó gắn liền với lịch sử hình thành của thủ đô này.
Theo các tài liệu, đây là ngôi chùa linh thiêng, công trình Phật giáo được xây
dựng từ năm 1373 trên Đồi bà Pênh ( Phnom Penh ) với độ cao 27m so với không
gian xung quanh và là điểm cao nhất của thành phố. Truyền thuyết kể rằng, ở vào
thời điểm trước khi xây dựng ngôi chùa, đã xảy ra một trận lụt lớn, bà Pênh,
một quả phụ giàu có đã vớt được một cây gỗ lớn trôi dạt đến bên trong chứa 4
bức tượng Phật; bà Pênh coi đó là ý trời phật, bèn cho đắp một quả đồi cao tại
nơi vớt được cây gỗ chứa tượng phật và cho dựng một ngôi chùa, đó là lịch sử
hình thành của Wat Phnom. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi chùa từng được trùng tu,
và chùa hiện nay là được xây dựng lại vào năm 1926, vì thế có nhiều hạng mục
thêm vào, và tháp chứa hài cốt lớn nhất chính là tháp đựng tro cốt của vua
Ponhea Yat ( 1421-1462 ), vị vua đã thực hiện việc dời đô của vương quốc Khmer
từ Angkor về Phnom Penh trong lịch sử phát triển của Campuchia. Đây cũng chính
là trung tâm lễ hội của thủ đô trong các dịp lễ tết của quốc gia này.
Để đến được đây, xe chúng tôi phải đi
ngang qua quảng trường lớn nơi có Đài kỷ niệm Độc lập nằm ở giao lộ
hai con đường Norodom và Sihanouk giữa thủ đô Phnôm Pênh ( Đài này được xây dựng từ 1958-1962, hình
dạng stupa (phù đồ) mô phỏng theo Angkor Wat và tổng hợp từ một số các di tích
lịch sử khác của Campuchia, theo thiết kế của kiến trúc sư Vann Molyvann, là sự
kết hợp của truyền thống và hiện đại
) . Ai đó phía bạn cũng chỉ chỏ cho biết, là tư dinh của thủ tướng Hun Sen ở
đâu đó khu vực này. Sau khi hành lễ tại chùa, chúng tôi ( cùng NSND Hồng Ngát, NSUT Đăng Dương và một vài thành viên trong đoàn
VOV ) đi thăm Hoàng cung.
Hoàng cung, luôn là một điểm du lịch
thăm thú không thể thiếu được khi đặt chân đến Phnôm Pênh. Hoàng cung là cách
gọi tắt của Cung điện Hoàng gia, là
một khu phức hợp các di tích, công trình kiến trúc, nơi nhà vua và các thành
viên Hoàng gia ăn ở sinh hoạt, nơi thiết triều, thực hiện các lễ nghi hoàng gia
và các nghi thức ngoại giao, từ khi xây dựng xong vào năm 1866 đến nay ( đương nhiên không tính thời Khmer Đỏ cầm
quyền và thực hiện chính sách diệt chủng ).
Tìm hiểu, được biết, Hoàng cung được
khởi xây sau khi vua Norodom chuyển đô từ Oudong về Phnom Pênh ( thực ra kinh đô của vương quốc Campuchia
được nhà vua Ponhea Yat dời về Phnôm Pênh từ giữa thế kỷ 15, nhưng sau đó kinh
đó lại bị dời đến Basan, tiếp
sau lại chuyển tới Lovek, rồi tới Oudong ), sau giữa năm 1800, nó nhìn về hướng Đông và tọa lạc tại bờ Tây của
ngã tư các phân nhánh của sông Mekong gọi là Chaktomuk. Hoàng cung với rất
nhiều công trình kiến trúc khác cùng những khu vườn có nhiều hoa kiểng quý đã
nhiều năm tuổi, kết hợp với Chùa Bạc tạo thành một quần thể kiến trúc là biểu
tượng đặc sắc của vương quốc Campuchia.
Ngoài Cung Khánh tiết rộng lớn uy nghi, là nơi nhà vua cùng nội các thiết
triều, và nay còn được sử dụng để cử hành nghi lễ hoàng gia và tôn giáo như
đăng quang, kết hôn hoàng gia và nơi nhà vua tiếp khách, các cung điện khác như
Điện nghỉ yên tĩnh, điện đồng, điện Napoleon III, điện Phochani, Damnak Chan,
cùng sân khấu Chanchhaya và vườn hoa... đều được bố trí hợp lý tạo nên tổng thể
hài hòa cho Hoàng cung.
Tôi và các đồng nghiệp tha thẩn nhìn
ngắm, tìm hiểu vài giờ đồng hồ trong Hoàng cung. Theo tôi, bao quát chung,
Hoàng cung không quá tráng lệ, nguy nga như các cung điện ở Phương Tây, cũng
không hoành tráng và lộng lẫy kiểu Trung Hoa hay một số nước Phương Đông khác,
mà là sự kết hợp hài hòa của kiến trúc cổ truyền Phật giáo với kiến trúc khá
hiện đại của phương Tây, nên tạo được sự khác biệt, ấy là dáng vẻ bình dị, yên
ổn, ấm áp...
5. Vĩ thanh,
Nói đến Campuchia, chúng ta và cả thế giới đều biết,
đây là đất nước Chùa Tháp; đất nước của những Ăng-co Thom, Ăng-co Vat; đất nước
của tượng Bay-on bốn mặt, của điệu múa Ap-sa-ra; đất nước của Biển Hồ mênh
mông, bởi đó thực sự là những di sản vật thể và tinh thần quý báu của nền văn
minh Ăng-co xa xưa, góp phần làm phong phú, đa dạng kho tàng văn hóa nhân
loại...
Nhưng ngày nay, nói đến Campuchia, thế
giới còn biết đến một cái tên khiến người ta phải rùng mình kinh khiếp, ấy là Khmer Đỏ, một thể chế quái dị với nạn
diệt chủng, biến đất nước Campuchia thành một công thức toán học: Campuchia 4+3. Công thức toán này được
hiểu, ở vào thời điểm ấy, dân số Campuchia là 7 triệu người, đến khi chế độ
Khmer Đỏ bị xóa sổ, dân số còn lại là 4 triệu, và thật khủng khiếp, đã có 3
triệu người dân nước này bị thiệt mạng bởi nạn diệt chủng có một không hai
trong lịch sử phát triển của nhân loại...
Không chỉ thực hiện chính sách diệt
chủng trên đất nước mình, Khmer Đỏ còn tàn sát dân thường của làng giêng Việt
Nam, một đất nước trước đó còn là ân nhân của họ, trong cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc của họ vào năm 1975.
Cuối thu năm 1981, khi tôi khăn gói,
ba lô vào nhận công tác tại Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, thuộc vùng biên
giới Bảy Núi của tỉnh An Giang, với tư cách chàng kỹ sư nông nghiệp trẻ, viết
báo nghiệp dư, thì địa điểm tôi tìm đến đầu tiên ở vùng đất này, ấy là xã Ba
Chúc, để tận mắt chúng kiến di tích tội các của Khmer Đỏ trên mảnh đất này,
trước đó mới vài năm. Cái tên Ba Chúc ngày ấy được người dân cả nước và khắp
thế giới biết đến với sự kiện kinh hoàng, đó là vụ thảm sát của quân Khmer Đỏ
với người dân Ba Chúc làm thiệt mạng 3,157 dân thường. Không làm sao có thể nói
xiết hành động dã man của bọn mặt người dạ thú đã tra tấn, hành hạ các nạn nhân
cho đến chết như cưỡng hiếp, đánh đập bằng công cụ thô sơ của thời trung cổ như
búa, rìu, cuốc, chày giã, cọc nhọc đâm vào bộ phận sinh dục nữ... Khi ấy, nhà
mồ ở Ba Chúc được xây tạm, cất trữ hơn một ngàn xương cốt. Qua tìm hiểu, sau 12
ngày chiếm đóng Ba Chúc ( từ ngày 18.4
đến 30.4 năm 1978 ), khi ta giành lại Ba Chúc, phần lớn thi thể các nạn
nhân đã bị phân hủy, khó nhận dạng, vả lại nhiều gia đình chết hết cả, nên ta
phải xử lý bằng hỏa thiêu... Đau xót, căm phẫn đến chừng nào. Đấy cũng là một
trong những nguyên nhân của cuộc chiến tranh biên giới Tây
Đã gần bốn mươi năm qua, Ba Chúc ( Tri Tôn, An Giang ) ngày nay đã xanh
tươi trở lại và còn là một điểm du lịch nổi tiếng ở đồng bằng sông Cửu Long;
thủ đô Phnom Pênh và khắp nơi trên đất nước Chùa Tháp nơi từng xảy ra nạn diệt
chủng của Khmer Đỏ, cũng đã hồi sinh, xanh tươi, sầm uất lên nhiều lần. Cuộc
sống luôn biết cách xóa đần đi những xấu xa của con người, nhưng tàn tích đau
thương của quá khứ... Con người luôn biết tha thứ, và có thể dần lãng quên
chuyện xưa, nhưng lịch sử thì ghi lại tất cả, như một sự nhắc nhở và cảnh báo
nhân loại các nguy cơ tiềm ẩn, các tội ác mới nảy sinh !...
Tiếc là thời gian có hạn, nên tôi chưa
đến được Xiêm Riệp để tận mắt chiêm ngưỡng những di sản vật thể thế giới tuyệt
diệu của xứ sở này, ấy là Ăng-co Thom, Ăng-co Vát...
Song những gì tôi biết, có tấm bản đồ
về sự khuếch đại của một đế chế cổ xưa nơi Hoàng cung; những gì về dấu tích tàn
ác của một thời Khmer Đỏ; những lệch lạc, phiến diện và quá khích của những kẻ
muốn phá hoại sự đoàn kết, gắn bó các dân tộc, quốc gia láng giềng với nhau,
không bao giờ là thừa cả, và luôn cho ta ý thức về bài học cảnh giác, mang tính quốc tế thời đại ...
Mong rằng, với nền tảng văn hóa truyền
thống, xứ sở này sẽ phát triển trong sự ổn định chính trị xã hội, trong mối
tương quan chung của Asean với tiêu chí cùng ổn định, hài hòa lợi ích để phát
triển, và để người ta dần xóa đi những ám ảnh về một thời kỳ đen tối của đất
nước này...
Hẹn một dịp khác trở lại xứ sở này
!...
Nhận xét
Đăng nhận xét