@@@
@@@
Nhà văn Nguyễn Hiếu luôn tự hào là người làng Chèm.
Vậy cài làng Chèm
ấy là làng nào?
2.
Nguyễn Hiếu, phu chữ,
Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh
cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời
hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội
này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện
bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.
Trước khi điểm
những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành
viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ,
cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói
Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần,
Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường
là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu
sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng
tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá
lớn tác phẩm đã xuất bản.
Năm 1984, Nguyễn
Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi
khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhó một cách đầy tự hào,
rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và
nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích
hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những
người thích đùa, của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ,
Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà
Nội, dựng pa-nô quáng bá vẽ bìa cuốn sách này...
Sau tập sách đầu
tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu
thuyết “Người đàn bà quỷ ám”. Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn
Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ
tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy
trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển
toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án... Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc
quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn
Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi
thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết
và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải
thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi
đường và Tôi bán mình. Giải
thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ
Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng
nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo
Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan
trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết.
Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...
Sàu quãng thời
gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách.
Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản
văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ
luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật
(Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt
Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích
dự các Trạo sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự
trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia.
Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác để
tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch covid19
bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại Lải và
Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với nhau. Gần
nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày nào,
Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết song
hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc.
Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật
đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả
cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là không
bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài ?!...
Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!
3. Chất hài, người và văn.
Ở xứ Việt
mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm
tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ,
là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà
văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn
này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố
(trong Việc làng), và nhà văn Nam
Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác
phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...
Lóp trước là
vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây
văn chương giàu yếu tố uy-mua như Moliere,
Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết nghiêm
túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong cuộc
sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta lấy
lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu này
nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên như Tô
Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...
Thường thì,
văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người,
trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi
là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có người,
bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói
năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con
người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ
quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi
đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng
ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ
khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ
ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em
Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán
để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh
mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại
là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc
cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì
Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm
trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa”
( chằng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản
xuất chương trình của nhà Đài)...
Đấy là con
người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của
Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là
truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra tập hài nữa là “Cười dành cho tất cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ
hài. Tuy không chuyên tâm viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết
các tác phẩm của ông ở mọi thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu,
kịch phim, tiểu luận, phê bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một
thế mạnh của Nguyễn Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dình vô cũng quan
trọng giúp các tác phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số
tác phẩm về ý tưởng, hoặc kết cầu, còn
non. Hài là yếu tố đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế
mạnh vốn có này, đã chuyền dần sang địa hạt sâu khẫu và ông khá thành công. Kịch
bản của ông không những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải
thưởng cao trong các hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn
của ông, nhan nhản chi tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê
bình văn học, cũng thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hừng hài hước. Đợt dự trại
sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong
những lúc trá dư tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo,
đưa ra nhiều nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá
chuẩn xác, ngắn gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...
4. Lãng đãng thơ
Làng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và
mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém
miềng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia,
song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ
quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca. Trong
tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000 năm
Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì
riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả
kịch thơ, trường ca.
Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài
viết dài bàn luận “Tính công dân trong
thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn
ngữ kịch đã làm nên tính công dân
trong thơ ông?
Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông.
Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như
vậy, thưởng tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông
hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài
dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết,
Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng,
Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết
văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái
vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng
đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu
thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn
đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận,
bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo
ra đấy, cần chi phài đọc hết cả bài cho mất công !?...
Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi bất
ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ, mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có cái
đọng lại để khen.
Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều
thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn
Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục
ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới,
đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được
cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận
được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa
chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt
Đầy
suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/
Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương
xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/
Tình một thủa ai quên?...” (Trở lại
căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và
đến cả bây giờ/ Ai đi qua đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/
Loi thoi đụn nhà mái rạ/ Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con
gái lùn đi vì gánh vì gồng/ Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt
cũng gày/ Con thuyền cũng mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ
tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...” (Gửi
những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh)...
Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực
tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo
mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho
sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.
Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi,
trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/ Sàng
gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn,
khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên
nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru
nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); “Một thùa làng
tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh tư đã rời
hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người chập
choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng sâu...”
và “Một thời làng tôi/ Đàn ông vợi đi
vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu cứng mồm
hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt
kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/ Thóc giống
cắn chuột trong bồ...” (Đàn ông
làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa ấy thế/ Nước
dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không chua vị khế/
Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ hát/ Dây quai thao
vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng ông chuếnh choáng
nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);
Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ Rét ở Mường Khương, nỡm mọi người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:“Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữa“Có thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp vào Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lử/ Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..
Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn,
đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn
Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình... /.
Nhận xét
Đăng nhận xét