Nhà báo Trịnh Bá Ninh & ...

 


Gặp gỡ ở Côn Sơn, mùa xuân năm 2020 ( Trịnh Bá Ninh, sơ mi trắng, chính giữa )

@@@

 Nhả báo Trịnh Bá Ninh & căn phòng ở P16 Thụy Khuê

 

          1.

         Căn phòng ấy rộng vừa 9 m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày xưa”, nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện của ngày xưa !...

         Căn phòng rộng vừa 9 m2 ấy là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.

Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều lần nhắc đến tên anh, trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên nhắc lại đôi chút, để bạn đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba người, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời phổ thông với nhau, lứa học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ (1972-1975). Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3 Nam Sách (Hải Dương), cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương () để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975), thì có thêm tôi, và Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số người khác nữa. Sau này, thân thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4 người (Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh-Nguyễn Chu Nhạc- Nguyễn Việt An).

      Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của tỉnh Hải Hưng (), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên giới Tây Nam, giải phóng Campuhia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.

         

Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ đô và công việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu dạt phương xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để ba chúng tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.

      Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó, Trịnh Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu, mặc thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các bộ ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc gia đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan. Vẫn không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá Ninh cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2 trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa, ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy rồi.

      Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập thể của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là kiến trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là chuồng nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời Tây, đầu thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên P16 Thụy Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ Nông nghiệp đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu P16 Thụy Khuê làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.

       Cơ ngơi vừa 9 m2, ấy là cơ đồ giang sơn của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh ở với nhau thì đâu có gì đáng nói. Cái chính, đây là nơi đi lại, tá túc của không biết bao nhiêu người thân và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng anh em ruột thịt thì đủ hai bên quê, nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương), nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây); bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông nghiệp … thêm bạn bè của M cũng lắm. Có những ngày cao điểm, căn phòng 9 ấy (9 mét vuông), người ngủ đêm, trên giường dưới nền vừa đúng 9 người, bình quân mặt bằng, 1 người/1 m2, và để bớt ngột ngạt, đủ dưỡng khí cho từng ấy con người hít thở, cửa ra vào mở toang. Mở của như vậy, hoàn toàn yên tâm, không sợ trộm, bời vì, khu P16 an ninh tốt, nếu có trộm vào nhà, kiểu gì cũng đụng chạm vào người, và cuối cùng, trộm có khéo đến mức không đụng chạm vào ai thì trong nhà cũng chẳng có gì mà lấy... Có vê hài hước, nhưng sự thực là vậy...
      Nhân sự thưởng xuyên hay thi thoảng tá túc căn phòng 9 của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh cũng đáng nể lắm. Nổi tiếng và đáng nể nhất là nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cặp đôi bạn bè Nình-Khoa có chút đặc biệt thân tình hơn người khác chút, ở chỗ, cùng quê Nam Sách (Hải Dương); cùng học Trưởng cấp 3 Nam Sách (tuy khác lớp); và cùng Đội tuyển học sinh giỏi Văn tình Hải Hưng () thi Kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975). Trần Đăng Khoa vốn nổi tiếng, anh quan hệ rộng và có khá nhiều người quen ở Hà Nội, và thế, anh có nhiều nơi chốn để lui tới, mỗi khi anh về Hà Nội, tuy nhiên, đến đâu thì anh cũng phải giữ kẽ, thậm chí, phải diễn chút, song khi về căn phòng 9 ấy, anh hoàn toàn tự do, tự nhiên như anh là chủ vậy, ăn uống, ngả ngốn, kềnh cang, buôn chuyện, "hồn nhiên như cô tiên"... Vi thế, mà có cả một quàng thời gian dài, dù là đi chiến trường C, dù vê Hải Quân, hay sau này đi học tại Đại học Gorky (Liên Xô), thì mỗi khi đặt chân về Hà Nội, căn phòng 9 của Trịnh Bá Ninh cũng coi như "giang sơn" của Trần Đăng Khoa vậy. 
       Lui tới đây thường xuyên, cũng phải kể đến, nhà báo Nguyễn Sĩ Bình (nguyên Phó Cơ quan đại diện báo Quân Đội nhân dân tại Tp. Hồ Chí Minh, vốn quen biết với tôi và Trịnh Bá Ninh từ thời cùng học ở Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội). Cùng ở báo Quân Đội nhân dân, hay lui tới căn phòng 9 ấy, có nhà thơ Mai Nam Thắng và Nguyễn Đình Xuân. Với Nguyễn Đình Xuân, khi mới về nhận công tác tại Báo QĐND và tập tọng làm thơ, vốn quê Nam Sách với Trịnh Bá Ninh, vào cuối tuần Nguyễn Đình Xuân thường đến căn phòng 9, chuyện thơ phú, gửi bài cộng tác, rồi lân la làm quen với cô con gái mới lớn xinh xắn của vị hàng xóm chung vách với căn phòng 9, và trở thành con rể của vị hàng xóm này. Nói vui, thật "lãi mẹ đẻ lãi con"...
       Ngày ấy, những chàng trai chưa vợ, nói chung, đều ước muốn có được một tổ ấm bé nhỏ như thế, vậy nên, lui tới đây, để có được một chút cảm giác yên ổn, ấm áp gia đình. Những Trần Đăng Khoa, Mai Nam Thắng, Nguyễn Đình Xuân và tôi là khách thường xuyên của căn phòng này. Và đã là khách, thì cơm nước, rượu chè, thậm chí ngủ lại là chuyện thường. Vợ chống công chức, lương ba cọc ba đồng của thời bao cấp, lo đủ ăn đã vất vả rồi, lại thêm đám khách thường xuyên không mời mà đến như cánh anh em bạn bè độc thân chúng tôi, không lo sao được. Ấy vậy mà, Trịnh Bá Ninh xem như không có gì, còn Mai, vợ anh, thì lúc nào cũng tươi như hoa, có khách đến nhà là quý... Cỡm bữa, ngoài rau dưa, có hai món thường trực, ấy là lạc rang và đậu rán. Lạc rang, nghề nông nghiệp, xem như món "nhà giồng được". Gọi vậy cho vui, chứ thực ra, để có lạc, Mai phải nhận lạc củ về bóc vỏ, trả nhân, phần dôi ra thì để làm thực phẩm chính. Tiện cái, lạc nhân để cả vỏ lụa rang mặn để ăn cơm, còn khi có khách, lạc nhân rang lên, thề là có đồ nhắm, đưa cay đôi ba chén rượu quốc lủi. Thi thoảng, có trứng và cá. Cá mua tem phiếu, toàn cá biển, cá nục ướp là nhất rồi, còn lại toàn cá đồng tiên, thân mỏng toàn xương, nhưng kho nồi áp xuất, nhừ xương, chịu khó nhai kỹ, cũng bùi và ngon đáo để. Đại loại vậy. Gần như bữa cơm tối nào, nhà cũng có khách. Sau này, để thêm thắt thu nhập, Mai nuôi gà công nghiệp, và thế, Ninh lại phải vận dụng mối quan hệ, nhờ cậy, mua được ít cám gà. Đã có lần, thức ăn cho gà hết, Ninh bận đi công tác, nhờ tôi cầm giấy giới thiệu đi nhận cám gà thay anh... 
       Những năm tháng ấy, thiếu thốn và nghèo, nhưng mà vui, thứ giàu có nhất, là tình người. Tôi là người qua lại và tá túc ở đấy nhiều nhất, nên thấu hiểu điều đó. Thời kỳ tôi còn công tác ở Bảy Núi, An Giang, hầu như năm nào cùng đi phép, qua lại đây thường xuyên. Không những tá túc, ăn nhờ ở đậu nơi căn phòng 9 ấy, Trịnh Bá Ninh còn động viên và giúp tôi viết bài cộng tác các báo, anh còn đưa tôi đi gặp gỡ, làm quen với một số nhà báo, nhà văn đã thành danh, đặng đưa tôi vào bầu không khí báo chí, văn chương để tôi lấy đó mà cố gắng, không bỏ cuộc. Kể cả khi tôi đã xin được về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo chuyên nghiệp, thì cảnh nằm bàn cũng ái ngại làm sao. Vậy nên, qua lại đây, vẫn luôn cho tôi cảm giác tin cậy và ấm cúng gia đình. Tôi biết ơn vợ chồng anh vì tất thảy những gì họ làm cho tôi... Trịnh Bá Ninh có bản tinh hài hước, nên ảm giác, chẳng khó khăn nào là quá sức anh, chẳng có gì là không thể vượt qua. Giờ nghĩ lại những bữa cơm đạm bạc, nhớ lại những câu nói hài hước của Trịnh Bá Ninh, mà anh bạn Việt An hay lấy ra đùa, "nhà chật có cái hay, mình cứ ngồi giữa nhà, quờ tay ra là lấy được mọi thứ", mỗi khi nhắc đến thời gian khó ấy, tôi lại rân rấn nước mắt... 
       Cùng hay qua lại căn phòng 9 ấy, còn có Nguyễn Tuấn Phong (hiện là Phó trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương), rồi PSG.Ts Nguyễn Hữu Sơn (Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam), PGS. Ts Trịnh Bá Đĩnh (Viện Văn học VN), anh ruột của Trịnh Bá Ninh. Ngoài ra, tôi còn loàng thoáng gặp những người yêu văn chương, tập tọng viết lách lai vãng ở căn phòng này, mà sau này họ đều trờ thành  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam như Đặng Vương Hưng, Nguyễn Thanh Vân...  Giờ đây, mỗi khi chúng tôi ngồi với nhau, lúc trà dư tửu hậu, khi nhiều người đã thành danh và cao tuổi cả rồi, hay nhắc lại "chuyện ngày xưa" thì hầu như, chuyện về căn phòng 9m2 ở P16 Thụy Khuê ấy luôn là trung tâm của mọi cầu chuyện. Tôi biết, còn có một vài người, ngày ấy, khi họ mới tập tọng báo chí, văn chương, nhưng ở tỉnh lẻ, mỗi khi về thủ đô, cũng ghé thăm và tá túc nơi căn phòng đó, nhưng sau này, đã thành danh, giàu có ở Hà Nội, họ đã quên chuyện về căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, và lẽ dĩ nhiên, cũng "quên" cả chủ nhân của nó. Chuyện đời là vậy, chẳng trách mà làm gì, nhưng chạnh buồn!... Có lần, chỉ hai người với nhau, tôi nhắc đến vài cái tên đó, Trịnh Bá Ninh phảy tay, cười bảo: "Ông vẫn còn nhớ à? Tôi thì quên lâu rồi ông ơi... Nhớ chả để làm gì...". Ừ, cứ quên như vậy mà lại hay!...
       Có một chuyện, anh bạn Việt An định cư ở thành phố Hổ Chí Minh, không biết đã từng ghé căn phòng 9 ấy chưa, hay chỉ nghe kể, cứ đùa rằng: "Căn phòng như vậy, lúc nào cũng đông người tá túc, thế mà không hiểu vợ chồng nhà này, loay hoay thế nào vẫn đẻ được cậu con trai bụ mẫm, khỏe mạnh". Là đùa vui, nghĩ cũng thấy hay hay, cu cậu bụ mẫm ấy, nay đã là tiến sĩ dược học đang làm việc ở Mỹ, và nghe đâu, đề tài nghiên cứu khoa học mà cậu ta tham gia là thuốc chữa HIV.
      Căn phòng 9 m2 ấy, dường như ám ảnh và theo đuổi Trịnh Bá Ninh mãi, bởi sau dăm, bảy năm ở đây, anh đổi nhà, chuyển nhượng lại cho một cặp vợ chồng già hưu trí, mua một căn hộ khác nằm sâu tận cùng một ngõ hẹp tối om ở phố Nguyễn Khuyến, và thật trùng hợp, căn hộ này diện tích mặt bằng cũng chừng 9 m2 thôi, nhưng bù lại, nó được chồng 3 tầng, vị chi tổng diện tích dưới ba chục mét vuông... Lại thêm một lần chuyển đổi nữa, nhà mới rộng. Nhưng khi nhà rộng, lại chỉ có hai vợ chồng hưu với nhau, bởi cả hai đứa con cùng nghiên cứu và du học ở Mỹ. Thêm nữa nhà rộng thì khách lại thưa, bởi vì giờ đây, bạn bè, người thân, ai cũng có nhà cửa và gia đình riêng của mình. Thu xếp mãi, may ra, năm chỉ một đôi lần đến nhà nhau ăn cơm... Ăn uống, tiệc tùng gì thì mời nhau ra quán...
       Căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, cùng với những vị khách không mời mà đến ngày ấy, đã là quá khứ. Dù chưa lâu, song xem như đã thành chuyện cổ tích !?... 

          2.

          Tự thân yêu văn chương, lại là người làm báo, thậm chí có hơn hai chục năm làm quản lý báo chí, và bạn bè lui tới, vây quanh toàn là dân văn chương cả, chẳng lẽ, Trịnh Bá Ninh không viết lách gì, là nói riêng về khía cạnh văn chương mà thôi ?

          Nói như vậy, là vì mọi người chưa từng thấy Trịnh Bá Ninh công bố tác phẩm văn học nào của mình, hay như, bạn bè bàn luận gì về một tác phẩm văn chương nào của anh...

          Ngay từ năm 1975, khi mấy đứa chúng tôi ở Lớp Bồi dưỡng học sinh giỏi văn của tỉnh Hải Hưng (Trần Đăng Khoa, Nguyễn Chu Nhạc, Nguyễn Việt An và Trịnh Bá Ninh) hay chuyện trò về văn chương với nhau, đọc cho nhau nghe những sáng tác mới của mình, Trịnh Bá Ninh, ngoài việc thuộc khá nhiều thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh ... thì anh còn đọc thơ của mình. Giờ tôi còn nhớ, ngày ấy, anh có bài thơ Viên gạch ra lò mà Trần Đăng Khoa rất khen bởi ý tứ hay. Được biết, sau đó bài thơ này của Trịnh Bá Ninh được lựa chọn vào Tuyển tập thơ của tỉnh Hài Hưng (cũ). Hồi đó, như thế là vinh dự lắm rồi. Sau này, trừ Trần Đăng Khoa đã thành danh, nổi tiếng thế giới, vào bộ đội và theo duổi sự nghiệp sáng tác văn học, thì mấy đứa chúng tôi chẳng ai theo học chuyên ngành về văn học cả, mà toàn học chuyên ngành kỹ thuật, Nguyễn Việt An học Cơ điện, tôi và Trịnh Bá Ninh học Nông nghiệp, nên có yêu văn chương đi chăng nữa thì cũng chỉ sáng tác nhì nhằng cho vui thôi.

          Ngay từ thời học sinh, sinh viên, Trịnh Bá Ninh đã thích thơ mang tính triết lý, đấy cũng là lý do để thấy, anh yêu thích thơ Chế Lan Viên hơn thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên dài, có tính triết luận, khó đọc, khó nhớ, vậy mà Trịnh Bá Ninh thuộc lòng, đọc vanh vách. Ngày ấy, các nhà thơ trẻ mới nổi như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Hoàng Nhuận Cầm ... thì Trịnh Bá Nình cũng thích và thuộc khá nhiều bài, nhiều câu thơ hay của nhứng nhà thơ này. Có cảm giác, Trịnh Bá Ninh thích tính triết lý trong thơ, song không phải sự triết lý khô cứng hay trúc trắc, mà phải ẩn giấu trong những câu thơ giàu hình ảnh, sự liên tưởng và nhạc điệu...

          Yêu thơ, nhưng sớm bước vào nghề báo, ngay từ khi tốt nhiệp đại học, năm 1981, Trịnh Bá Ninh đã về đầu quân cho tờ báo của Bộ Nông nghiệp, nên anh phải làm công việc của một phóng viên, nghĩa chuyên viết về tài nông nghiệp, nông dân và nông thôn (Tam nông). Có lẽ, một tâm hồn nhạy cảm, yêu thơ và công việc làm báo đã pha trộn, kết hợp lại trong anh, để Trịnh Bá Ninh chọn một thể loại nửa văn nửa báo, ấy là bút ký và ghi chép. Anh tỏ ra rất mạnh về thể loại này. Chính vì thế, Trịnh Bá Ninh đã vài lần đoạt giải cao cuộc thi bút ký do Báo Văn nghệ, bào Tiền phong và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức. Tiếc là, Trịnh Bá Ninh sớm làm công tác quản lý, nên bận bịu với việc tổ chức tòa soạn và biên tập bài vở nên ít dành thời gian cho viết lách. Anh trở thành vị Phó Tổng biên tập của tờ báo ở vào thời điểm được bổ nhiệm là trẻ nhất làng báo Việt, và giữ chúc vụ ấy suốt 24 năm, cho đến lúc nghỉ hưu. Người như anh, cũng là hiếm có, 36 năm làm báo trong đó có 24 năm là Phó Tổng biên tập và chỉ ở một tờ báo, từ lúc bước chân vào nghề, cho đến khi nghỉ hưu. Thực ra, Trịnh Bá Ninh đã từng có thời điểm, muốn rời bỏ tờ báo Nông nghiệp, không phải anh không yêu tờ báo này, mà cũng chẳng phải anh chán mảng đề tài Tam nông, để chuyển công tác sang Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), bởi anh muốn thử sức mình trong lĩnh vực văn chương, mà anh yêu thích và thực sự có năng khiếu. Thế nhưng. nghiệp đời không cho anh cơ hội ấy, nghĩa công việc văn chương và báo chí chuyên về văn học nghệ thuật. Tôi nhớ, ngày ấy, Ban lãnh đạo Ban biên tập Văn học nghệ thuật Đài TNVN (Ban VHNT) là các nhà thơ Trần Nhật Lam. Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh và nhà văn Trần Nguyên Vấn đã rất khoái Trịnh Bá Ninh và nhất quyết nhận anh về đầu quân.  Nghĩ  rằng, Trịnh Bá Ninh sẽ có một bước ngoặt trong cuộc đời, ai dè, đúng vào thời điểm ấy, một tình huống mới nảy sinh. Ây là, một nữ giáo viên, người chuyên sáng tác thơ thiếu nhi, từng có nhiều năm là cộng tác viên của chương trình phát thanh Văn học thiếu nhi, sau khi bỏ nghề giáo để theo học Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp trường này, bày tỏ ý muốn được về công tác tại Ban VHNT Đài TNVN. Một tình thế khó xử. Biết chuyện, Trịnh Bá Ninh chủ động đặt vấn đề nhường chỗ, tức là nhường suất biên chế duy nhất được phân bổ của Ban VHNT, về phần mình chờ dịp sau... Và thế là, câu chuyện bị chuyển sang một hướng khác. Trong lúc chờ suất biên chế tiếp theo của Ban VHNT nhà Đài thì Trịnh Bá Ninh được tín nhiệm bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam và trở thành vị lãnh đạo trẻ nhất làng báo Việt ở vào thời điểm ấy. Và rồi, ở cương vị mới, Trịnh Bá Ninh lại phải tập trung trí tuệ, sức lực khẳng định mình. Và hơn thế, anh muốn cống hiến cho sự nghiệp phát triển Tam nông, mà anh hằng mong muốn. Chằng thế mà, người ta đồn là, anh đã từng thẳng thừng trả lời câu hỏi của một vị lãnh đạo Bộ chủ quản “Báo của Bộ lại cứ toàn đăng bài viết đánh Bộ mình là sao?”, khi anh chỉ đạo điều tra và đăng nhiều loạt bài chỉ rõ sự yếu kém trong công tác quản lý một số lĩnh vực thuộc Bộ-“Thưa đồng chí, báo nêu ra cái sai là để sửa... Tôi nghĩ, cần phải đặt quyền lợi của người nông dân lên cao hơn ạ...”. Đại khái thế. Có người bảo, phải chăng tính cương trực và sự quyết liệt chống lại cái sai trong lĩnh vực quản lý ngành chủ quan, mà anh không được vài ba vị lãnh đạo ưa, nên không thể lên đến cương vị lãnh đạo cao nhất của tờ báo? Đây chỉ là suy đoán, nhưng theo tôi, Trịnh Bá Ninh đã ứng xử đúng và anh đáng nhận được sự nể trọng của đồng nghiệp và hơn cả là bà con nông dân...

          Quan trọng hơn, cho đến thời điểm này, tờ báo mà Trịnh Bá Ninh từng có 23 năm làm Phó Tổng biên tập phụ trách nội dung, và ông cũng đã về nghỉ hưu dăm năm nay, đã có một ê-kóp lãnh đạo mới thay thế, trẻ hơn, tràn đầy nhiệt huyết, thì họ đều là những phóng viên thuộc cấp của Trịnh Bá Ninh, được ông dìu dắt một thời.... Sự ảnh hưởng của ông là rất hớn, có lẽ vậy, mà hiện nay, tờ báo này vẫn mang dáng dấp phong cách làm báo của ông,...

Nghỉ quản lý, Trịnh Bá Ninh không làm báo viết nữa. Ông chuyển sang làm báo hình, tham gia hội đồng tư vấn, thẩm định chương trình cho vài công ty truyền thông, và lên sóng giữ mực cho một kênh truyền hình. Lâu lâu, nhân nha đăng bài thơ trân trang cá nhân Facebook của mình...

Tôi biết, nhiều năm nay, Trịnh Bá Ninh vẫn làm thơ, song ông không công bó trên báo chí hay xuất bản thành tập. Những bài thơ đó, vẫn năm đâu đó trong sổ tay, liwi trữ của bàn bè. Hoặc tháng, khi vui buồn lúc trà dư tửu hậu cùng mọi người, ông đọc ra như một sự trải lòng,...

          Một số bài thơ của Trịnh Bá Ninh:

 

Tuổi hai mươi hãy yêu đi đừng đợi,

Trái cây rơi gõ xuống mặt thềm

Gõ vào tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi

Bạn đã yêu ở tuổi hai mươi. Khát khao, sôi nổi.

Ở tuổi hai mươi, nhìn vào mắt người con gái

Ngọn lửa cháy lên thành tiếng gọi

Tuổi hai mươi. Hãy yêu đi. Đừng đợi.

Và bạn đã yêu với cả cuộc đời mình.

Tuổi hai mươi trong lành như tia nắng ban mai

Mỏng mềm như chiếc lá mùa xuân

Và tình yêu như cơn gió thổi dọc cánh đồng.

Tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi

Lần đầu bạn yêu và thất vọng

Người con gái quay lưng với tình yêu tuổi hai mươi của bạn

Bạn chưa biết lo toan và gánh vác cuộc đời

Chỉ biết khát khao yêu đến vụng về ở cái tuổi hai mươi.

(1977)

Lời dặn bạn lúc chia xa

Tất cả sẽ lùi xa, bạn ơi
Những câu hỏi chẳng bao giờ mình hỏi
Để day dứt người đi,
và cả người ở lại,
Vẫn những cơn gió vô tình ấm áp suốt đời ta.

Sẽ chẳng có gì níu lại nữa, bạn ơi
Lá cây rụng trả màu vàng cho đất
Ngôi sao lặn cho bình minh tỉnh giấc
( Nhưng có cái mất đi chẳng để lại chút gì ).

Bạn chẳng giữ trong lòng những sắc màu lóng lánh lúc ra đi,
Hạt giống vỏ dày nhiều năm mới mọc
Chùm quả trái mùa dẫu nhiều vị chát
Mình vẫn nếm say sưa như chưa có bao giờ.

Đấy là những điều,
mình nói lúc chia xa.
(1981)

Dặn con,

Còn mình con trong ngôi nhà vắng

Nhớ khóc to lên cho nỗi sợ bốc hơi

Sẽ thấy bà tiên của muôn đời

Với đôi cánh diệu kỳ bà che chở con,

bay qua những vương triều vàng son và tàn lụi

Nơi những chiếc bánh ngọt là của phù thủy

Và bình nước lã sẽ biến một ông già ăn xin trên đường

thành người xoa dịu nỗi đau

Nhưng không thấy bóng hình mẹ cha đâu

Sáng: dậy sớm mang theo " cặp lồng "

Chiều: tính nhẩm tháng thừa hay thiếu.

 

Bạn bè cha đi qua chiến tranh

Đã bội thực vì món ăn cổ tích

( Sắc đẹp là yêu tinh

Rách rưới là thiên thần )

Cứ tin thế, những người không về nữa

Nhoi nhói cỏ sắc dưới chân

Những trái tim vùi trong đất đen

Không gõ nhịp vào tương lai

Để làm thành cổ tích.

(2. 1989)

 

 

Mẹ ( Tâm sự Thị Màu )

 

Cha con là ai ?

Cha con làm gì ?

Câu hỏi ấy mẹ mang vào ruột đất

Một mình con ngơ ngác

Trước bụi tre ngà đang nghiến răng.

Mẹ ơi !

Con không muốn sinh ra dưới dấu chân thiên thần

Để một ngày kia ôm ngựa sắt

Bay lên trời

Xa mẹ.

(6.1990)

 

Vô đề,

Ta trở về đông đã cuối mùa đi
Xuân mới chớm bến chiều quê hoang vắng
Gió vẫn thổi , hàng tre gà gật ngủ
Hoàng hôn đời buông xuống một đò trăng.

(07.2.2020)


Côn Sơn cảm tác, 

Gió mơ hồ vuốt năm tháng xa xăm
Vườn cổ tích chúng mình 16 tuổi
Xin gửi lại ngây ngô cho lầm đường lạc lối
Côn Sơn chiều chớp mắt 45 năm
Bàn cờ Tiên tượng đá vẫn trầm ngâm
Ai dám bước những nước cờ uyên ảo
Ai biết được cờ tàn trong giông bão
Những phận người ngụp lặn Lục Đầu Giang

(01/3/2020)

 

 

Thu

I

Ăm ắp hương mùa Thu

Tím tràn qua ô cửa

Em của thời rất xa

Không về ngày xưa nữa

Dù anh còn ngọn lửa

Cháy vụn trời heo may

II

Ta đuổi bắt trong vườn Thu miên ảo

Quả chín căng nứt áo lá giao mùa

Sương khói dệt mắt mùa Thu trong mắt

Quãng nắng trầm âm mãi phím đàn xưa

III

Không còn nữa đoàn thuyền bẹ chuối

Cánh buồm xanh khát gió trước ao nhà

Ta từng nhốt mùa Thu trong tre trúc

Nhưng sáo diều vẫn giăng mắc đồng xa.

 

 

Gửi mùa hạ,

 

Thôi cứ mặc cho mùa hè xõa nắng

Cỏ vẫn xanh ngây dại trước hiên nhà

Không son phấn, mặt thời gian bạc phếch

Ký ức ngập ngừng , ký ức xót xa

 

Mùa hè ấy, mùa hè kỳ lạ quá

Trái cây rơi lõm mái rạ quê nghèo

Cá quẫy ao vỡ trăng non mùa hạ

Những mảnh vàng âu yếm với rong rêu

 

Sao nhanh thế. Mùa hè đi. Nhanh thế

Phượng còn kia rắc đỏ ngã ba đường

Đừng có hỏi vì sao ta níu giữ

Dòng sông nào giờ cũng hóa sông Tương

 

Rừng Linh hương,

 

Anh cô đặc thời gian rồi chắt ra chậm rãi

Sợ tan đi trong dòng chảy hư hình

Ép chặt buồn đau mỏng như trang giấy trắng

Lặng lẽ viết lên tao tác cuộc đời mình

 

Cuối trời kia rừng Linh Hương xoã tóc

Trắng ngập ngừng qua lối Hạ sang Thu

Hăm hở đến phủ lên mùa Đông giá

Một trời Linh Hương xanh, xanh đến thẫn thờ

 

Đừng theo dấu em cánh buồm nâu ra biển

Cánh buồm nâu trong giông bão phai màu

Cứ ngược nắng, ngược chiều gió thổi

Sẽ gặp hương mùa thuở mới quen nhau.

 

 

Cây trái – Đời người,

(Tuần đầu cha đi xa )

 

Khăn tang trắng, cây xôn xao mùa nắng

Mảnh nhỏ vườn hoang chim chẳng bay về

Mùi mít chín theo chân người khuất bóng

Người xa thật rồi khuyết một mảnh hồn quê

 

Đêm không ngủ nghe xoài rụng trái

Thậm thịch vu vơ như bước chân người

Tiếng tắc lưỡi của thạch sùng đêm vắng

Nhịp nhịp thời gian quay bánh luân hồi

 

Đêm không ngủ, hương đèn không ngủ

Cành phan đu đưa ảo ảnh mơ hồ

Trăng đỏ thẫm đúng một mùa Trăng máu

Tưới cây vườn đẫm một sắc tiễn đưa

 

Rằm tháng Tư, Tân sửu.

 

 

Có một ngày,

(Viết cho một nhà báo quên 21/6)

 

Có một ngày đã gợi nhớ một ngày

Mây trắng quá, trời sâu thăm thẳm quá

Mây lãng đãng hồn thơ Lưu Quang Vũ

" Thơ tôi là mây trắng của đời tôi"

 

Thơ của đời anh, mây của một thời

Trang giấy trắng, bút vạch đường " Nhân danh Công lý"

Trên cơm áo là nỗi niềm kẻ sĩ

Là thân phận dân oan vẫn đắm đuối kiếp người

 

Thời ấy anh ba mươi bốn mươi

Đã dám sống như những gì mình có

Không tạm ứng niềm tin, không mượn vay quá khứ

Trằn trọc bao đêm nghe sấm động chân trời...

 

*.**

Đừng rắc phấn vàng lên trang giấy em tôi

Mật đừng ngọt ngâm trong lời chim cú

Gian dối đã ngấm vào từng nhịp thở

Thì trái tim không đập nhịp Con Người

 

21/6/2021. Ngày Hạ chí

Thẩm thơ Trịnh Bá Ninh thế nào, xin được dành bạn đọc,...

 

 

 

 


Nhận xét