Trần Đăng Khoa tại nhà bạn Nguyễn Xuân Sinh,
@@@
Nguyễn Chu Nhạc
Ngẫm ngợi, Trần Đăng Khoa bảo: “Cả bài thơ những tưởng chẳng có gì, mà lại có gì,...vô cùng vô tận, trải ra mênh mông từ những cái gần gặn...”. Nhà thơ Vũ Quần Phương ra chiều tán thưởng,...Tôi nghe chuyện các ông, mà ngẫm nghĩ ra nhiều điều. Đặc biệt, khi soi chiếu vào những bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tôi biết từ mấy chục năm qua,...
*
Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý
thức tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về
thơ Trần Đằng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông
thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập
thơ Góc sân và khoảng trời cùng một
số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách
chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB
Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa
sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài
thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi anh sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải
là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa
tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người lớn, về
các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa,
thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, là một sự nhất quán về ý nghĩa tư tưởng
và phương pháp sáng tác...
Tôi cũng đã nghĩ
về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng
thế này, thế nọ,... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại
đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái
bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng
sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông
về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được... thì đánh dấu vào đấy và
cho tôi biết nhé... Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến
bây giờ? “. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng không nói lại
với ông,...
Cho đến một lần, năm
2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ. Khi ký sách tặng tôi, ông
quen miếng lại dăn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận
lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn
ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo,
tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán
ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa ben lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe
lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển
thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ
khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi
bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ
môn một,... từng chữ từng cầu, từng ý.... Thậm chí, tôi còn hình dung mường
tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ
gì, làm nhứ thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên
lề nhận định của mình sợ sẽ quên đi mất. Và thế là, hết ngày dự hội nghị hôm
ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ
nhiều năm qua...
Ngày hôm sau, đến
cơ quan, tôi tìm đến phòng làm việc của Trần Đăng Khoa, hùng hồn, liền một mạch
cho ông nghe hết thảy những gì tôi vừa mới phát hiện ra về thơ ông, về phương
pháp sáng tác thơ của ồng, hay nói cách khác như các nhà lý luận phê bình văn
học thường dùng, ấy là thi pháp thơ của ông. Trần Đăng Khoa lắng nghe tôi hùng
biện. Ông tỏ ra vui và tán thưởng, công nhận những điều tôi vừa nói về thơ ông
và giục tôi sớm viết những điều ấy,...
*
Tự thân, tôi cũng muốn sớm viết ra những
điều ấy, thậm chí ngay tắp lự. Nhưng oi thôi, nói thì dễ nhưng làm thì không dễ
chút nào. Bận mải công việc, lẫn lữa mãi, việc chưa thành. Khác với sáng tác,
có ý tưởng ngẫu hứng là thành, phê bình văn học là một công việc khoa học, đòi
hỏi sự chặt chẽ về luận cứ, sự tỉ mỉ tin tòi trong chứng minh, lý giải... Vậy
nên, đã đôi ba lần tôi nhắc lại với Trần Đăng Khoa những luận điểm của mình về
thi pháp thơ ông mà vẫn chưa viết ra nổi.
Đã có lần Trần
Đăng Khoa khích tôi rằng “Phát hiện thì
tinh đấy,... hay như phát hiện về thi pháp Đảo
chìm, cũng rất khác người... có điều chẳng chịu dấn tới, nên thành nửa đời
nửa...”. Ồng không nỡ nói hết câu, ngưng nửa chừng, chắc sợ tôi phật ý,
song tôi hiểu ý ông, và cũng hiểu việc mình cần làm lúc này là gì,...
Có thể nói,
phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa như sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo,
sử dụng thủ pháp hoán vị,
lối đồng dao, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian
truyện cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp triết học, hâu
hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đêu theo phương pháp quy nạp, hoặc diễn dịch,
hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai
cách.
Ngay trong bài
thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực –áo rất rõ: “Con bướm
vàng/ Con bướm vầng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó
vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây,
những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhơ mầy
câu kết này bài thơ chuyển thành hư ảo mà đứng được, không là kể lể tầm thường.
Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung
Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng
quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi
bị gió cuốn bay đi mất, đã tức ảnh làm thơ “Một
cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ
xanh/ bay mất tăm,...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một
đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống
như đấm dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đấm quần
thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bức thì vị quan ấy thẽ thọt:
“Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm
sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm để hò sức kéo lưới,... nhưng hai
câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm
thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô
tục, mà còn làm bài thơ thanh hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay
lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song
người bình còn tài tình hơn.
Bài thơ Chiếc
ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Hẩu hết bài thơ là sự kể chuyện, tác ghỉa vẽ lên các bức
tranh tĩnh vật, nhưng chỉ bài vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá” và câu
kết “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, vậy
thôi mà các bức tranh tĩnh bông sống dậy, chuyển động, như một con người. Cùng
ơ đây, tác giả dùng phép nhân cách hóa.
Bài thơ Gà
con liếp nhiếp là một bài thơ thực-ảo.
Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn không ướt
cánh, ướt đầu,,, Nếu chỉ vậy thôi thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực,
nhưng tài tình thay, hai câu kết “Đôi mắt
tròn trong như haai giọt nước/ hai giọt nước
không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt ảo
diệu và rất cgi ám ảnh.
Bài thơ Chọc
ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo, chỉ
bởi hai câu “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran cỏa một buổi chiều”
Hay như bài thơ Trăng
sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ
Vũ Quần Phương như tôi đã nói ở phần đầu, là chẳng thể nào viết lại được như
thế. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh,
thự- ảo. Tác giả không tả trăng sáng đẹp như thế nào,
mà chuyển quan sát sang những vật thể trong ánh trăng như cái sân, cai cây, con
chim, con sâu...Câu thơ được lặp đi lăp lại “Ơi ông trăng sáng tỏ/
Soi rõ sân nhà em…” khiến cảnh sắc tĩnh mà động, thực mà ảo. không có gì mà
lại có gì... Tài tình là vậy!
Bài thơ Nửa
đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một
bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ
chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương
đọng mật”, “há miệng đòi uongs sương”,
“loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc
biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn
xao cả đất trời” làm bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh sống động
cảnh nông thôn bình thường mà nâng tâm lên một cái gì đó to lớn hơn, trải ra
mênh mông, khiến người ta phải mường tượng, nghĩ mãi khồng thôi.
Hay nữa, bài thơ Bên
sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài
là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông
câu, cá nhây, sinh đọng đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến
người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm bé
nhỏ/ biết bay về nơi đâu?”...
Bài thơ Đêm
Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thêm rơi cái lá đa/ tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”.
Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song
“Ngang trời kêu một tiếng chuông/ rừng
xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như
hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya,...”.
Thực đấy mà vẫn như ảo. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển
trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm
nữa có câu thơ cất cánh.
Bài thơ Đồng
chiều là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ sương lên mờ mịt
như là khói bay/ đất trời cách một gang mây/ và tôi liền với luống cày tỏa
hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương
vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, chẳng rõ
thực ảo. Sự ảo diệu của thi ca là đây !
Bài thơ Đồng
quê, thực ảo xen lân, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang
cảnh làng quê mộng mị: “Làng quê lúa gặt
xong rồi/ mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/
trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu
đã chạm mặt người/ bạch dàn đôi ngọn đứng soi xanh đàm/ Luống cày còn thở sủi
tăm/ sương buông cho đòng hoang nằm chiêm bao/ Cớ con chau chấu phương nào/
buâng khuâng nhớ lúa đậu vào áo em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sau thực
thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không
thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc
lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế
!...
Còn nhiều lắm bài
tho thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng
chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe,
Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đén, Mưa,
Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con
mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v...
Và những bài thơ sau này ở thời kỳ
trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả
những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ
tình người lính biển, Ghi ở đào chìm, Trăng Matxcơva, Qua
Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcowva,
mùa đòng năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa
Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với
bạn, Đỉnh núi Ở nghĩa trang Van Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh, v.v ...).
Hay đâu, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022:
“Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ anh em nằm
lại chiến trường thẳm xa/ bây giờ bầu bạn cùng ta/ chỉ cìn một mảnh trăng tà
ngoài hiên” (Về quê) cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà
thơ nói được hành trạng các mối quan hệ
lớn của xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua,...
Có một điều không
khó nhận thấy, nhất quan và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo
làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn. tiểu thuyết,nói chung,
mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất
giỏi trong nghệ thuật tao dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này
trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật xây dựng không gian
truyện”,- NCN) Thê nên, ngày từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần
Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó.
Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu
sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô
vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc băng âm thây rổn rảng,
leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy thì phẳng lì, dẹt đe đe,
nhạt nhẽo, thì chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống. mà
không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là cái xác chữ, không hồn vía, nhu chết vậy.
Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông
cũng có không gian tồn tại. Hầu như, môi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ
cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa đều kể một câu chuyện, có cốt truyện
vậy, hoặc nói một điều gì đó ý tức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ
nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống
như vậy, người ta thầy được các nhân vật, con vật, đò vật trong thơ Trần Đăng
Khoa đều có thân phận,.. Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất
truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do đẻ các bài
thơ của Trần Đăng Khoa sống dai, sống mãi cùng thời gian; Bởi vậy, không phải
ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mười năm trước đến nay vẫn
được bạn đọc yeu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần
Đăng Khoa liên tục được tái bản và hiện bán rất chạy,..
Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của
truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hái Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng
tháng Năm ,...), và sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ di
nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ,
xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca.
*
Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần
Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ
pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Sôn
Sơn/ hương đồng thơm trong túi/ chiều xay thóc góc nhà/ tóc lại bay gió núi”.
Ở đây, nếu đửng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc goc nhà mà hương
đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường. Phép hoán vị đã tạo nên
sự khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng...
Hay đâu, trong
bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ
pháp hoán vị này, khi viết “Cáng
đông vui reo/ Gió đồng rộng rài”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình
thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ và thú vị làm sao.
Còn như, lối đồng dao, vận
dung ca dao, tục ngữ và phép
nhân cách hóa khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh
vật được tả trong thơ đều được nhân cách
hóa, mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện,
đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người
dường như là nhân vật phụ, song lại như nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con
chim hay hót, Mày cày xinh xịch, Đám
ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh
thức trầu, Tiếng trống làng, Con trâu đen lông mượt, Nói
chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ).
Bài thơ Kể cho bé nghe là bài
điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đàu bắt cuối để quay trở lại, thú
vị, hóm hình, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói
ầm ĩ/ là con vịt bầu/hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là
cậu chích chòe/hay mua xập xòa/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau,
Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ
phong vị cũ...
Bài thơ Em kể chuyện này, lại là
bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ“Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa
đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ“Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ c ác chú dân quân dong nó
đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các
bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ
nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức
nặng nhất trong bài thơ khá dài này.
Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa,
câu thơ “Trăng suống sáng cả đêm rằm/Nhịp
cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vân
dung ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh
máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để
sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đệm trời như thế, người làm đường không
cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể
phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này
đã làm bài thơ có tính thời sự,lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi
chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ.
*
Những
câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch
Những
câu thơ cất cánh chỉ là
cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng
Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện,
thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc cổ khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho
cả bài sống động hắn, vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ,
cái tài tình của nhà thơ là ở đấy....
Ví như, bài thơ Tiếng
chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết
này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như
lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...
Hay như, bài thơ Ò ó o,
cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bê/ bát ngát/ tiếng gà/ ò ó o...” thì bài thơ dễ bị chuội
đi, chẳng để lại gì.
Bài thơ Mưa
cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/
đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài
tho.
Bài thơ Tiếng
chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có
tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu
“Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe// xa xa từ một nghọn
tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa
rồi, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi,..
Bài thơ Thôn
xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài ta quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn
thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ nhuộm vàng cả trời cao”.
Hay nữa, bài thơ Thả
diều, ở đấy, tác giả ta quanh cảnh và cả cách thức chơi diều như thế
nào, mà người ta có thể học được cách thức thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị
đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.
Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay
đi mất,...
Bài thơ Buổi
sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em
xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa
khóa mở ra cả bài.
Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời
bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tâm cánh tay” là linh hồn cho cả bài
bài.
Bài thơ Trận
địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài
tình nay “Em nhìn đáy nước trong veo/ máy
bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà”.
Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì,
câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/ bỏ
ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên, nhưng lại có dụng
ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả
thực, thì câu kết thể hiện sự có mặt của tác giả, làm cho bài thơ như cựa quậy, sống động hẳn lên, v.v...
Ở bài thơ Gửi
bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường
vẫn nở hoa sen/ bờ tre vân chú dế mèn vuốt râu” giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí
thế Việt
Hay ở bài thơ Mẹ ốm,
câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn
trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.
Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy
câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu”
bài thơ sẽ mất sức gợi. Tôi nghĩ, mây câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang
theo tiếng võng kêu đến suốt đời,...
Rất nhiều, rất
nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến
trường thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng
bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy
nạp, hoặc diễn dịch theo triết
học. Đây cũng chính điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái
cụ thể được mô tả, trình bày trong bài, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại như thế
này. Cũng có một số bài thơ, câu thơ
-luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải này nọ.
Nếu như trong các
bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong
sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hoi khác, trường ca Khúc hát
người anh hùng, lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo
của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng
chương, từng khúc, sủ dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát
là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm,
lại là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống
nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu
từ giong điệu kể nhanh làm chậm lại, vừa bớt nhàm mà lắng đọng, suy ngẫm,...
Ví như, một số khúc dẫn chứng ở đây
“Đất
hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim
này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt
lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.
“Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một
nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu
thành gió những ngày bão giông”
“Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng
hoan/ chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là
một chấm-thổi thành biển khơi”
“Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở
ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà
chẳng bao giờ lẻ loi”.
“Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm
nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn”
“Sự thật hát rằng:
... Những quân uwschieeps nguwowifif ta/ Thì đời nó cũng chẳng ra cái gì”
“Cái cột trói hát rằng: ... Sóng sông
thì vỗ vào bờ/ Người trung thì đến bao giờ vẫn trung”.
“Cái cánh cửa hát rằng: Ngày mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một
mình đêm nay/ Một mình với mọi vơi
đầy/Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”
“Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ
thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì còn mọc
lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bên cũng tan”
“Máu hát rằng: Có đi qua những chiến
tranh/ Máu người đổ xuống mới thành núi sông/ Đẹp sao dòng máu anh hùng/ Lại từ
sông núi chảy trong tim người”
“Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió
nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc tười trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao rời/
Lại nghe trong đất máu người ngân vang”
Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết
lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mài gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa
nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vaax thổi
vường ngõ ngoài...”,
Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân
lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, nhũng khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp
cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó.
Ấy cũng là cái tài riêng có của Trần Đăng Khoa.
*
Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi
dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai
thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ lam từ ngày nhỏ, giỡ ông
vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sang cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ
nếu thấy dở, thây ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở
văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,...
Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng
Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong
bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã
dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời”
tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, manh tay thì cũng có thể bỏ đi một số
bài, hoặc lược bớt thì mới đạt tới đọ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính
lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,..
*
Nhà thơ Trần Đăng Khoa rất quan tâm đến
câu chuyện đằng sau mỗi bài thơ của mình. Tình huống, thời điểm, chuyện liên
quan đến sự ra đời của bài thơ và cả dư âm của nó trong đời sống. Tóm lại là
toàn bộ đời sống của mỗi bài thơ. Điều đó cho thấy, ông ý thức về tính toàn vẹn
và vĩnh cửu của thơ mình. Ngoài tập sách Hầu chuyện thường đế thì trong các
tuyển thơ tái bản sau này, Trần Đăng Khoa đều cài vào đó những câu chuyện đằng
sau bài thơ.
Quả thật, nhiều
câu chuyện xung quanh bài thơ khá thú vị. Đôi khi, nó còn thú vị hơn chính bản
thân bài thơ. Bạn đọc, người yêu thơ nói chung thích thế. Riêng tôi, ở mức đọ
nào đó, chấp nhận được, song tôi vẫn thích bài thơ mang sự bí ẩn của mình, như
thế, nó sẽ thu hút hơn. Ở đời, không phải cái gì cũng chẻ hoe ra được. Sự bí ẩn
làm nên lực hấp dẫn cho bài thơ !...
*
Nhân đây, tôi bàn thêm vè nhuận bút thơ.
Giờ đây, chẳng ai
làm thơ để lấy nhuận bút cả. Các nhà thơ, có thơ in báo, nhuận bút rẻ bèo, hoặc
chẳng buồn lấy nhuận bút nữa, thậm chí tốn thêm tiền để khao bạn bè, người thân
vì có thơ đăng báo. Lâu lâu, gom bài in thành tập thì tốn hàng chục triệu đồng,
để rồi tặng không cho người quen, người ta nể mà nhận, nhưng không ít đùa rằng
“gặp nhau tay bắt mặt mừng/ tặng gì thì
tặng xin đứng tặng thơ”.. Thật thế,...
Ây vậy, mấy chục
năm trước, nhuận bút thơ khá cao đấy. Cứ chuyện của tôi mà suy. Năm 1978, khi
đang là sinh viên đại học, tôi có bài thơ đăng báo Văn Nghệ (bài thơ Núi
Đôi buổi sang, số 789 ra ngày 16-12-1978).
Nhuận bút gửi tận nơi, 18 đồng, bằng số tiền học bổng đại học một tháng của
tôi., nghia là nhuận bút ấy đủ nuôi nổi tôi 1 tháng đây.
Vậy nên, có lần,
ngồi chuyện phiếm với nhau, tôi đã hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, lấy nhuận bút
thơ mình mà phỏng đoán, rằng ngày ấy chắc nhuận bút của thần đồng thơ khá
nhiều, có thể thêm thoắt đỡ cho bố mẹ đồng ra đồng vào, giảm bớt khó khăn vì
đời sống gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông qua HTX nông nghiệp. Ông
toét miệng cười : “Làm gì có nhuận bút mà
giúp đỡ bố mẹ...”. Sao thế? Trần Đăng Khó bảo, ngày ấy cấp trên chủ trương
đẻ hồn thơ thần đồng thêm bay bổng, không thể định giá trị bằng tiền bạc, với
lại, trả tiền cho trẻ con dễ làm nó hư đi, thế nên hầu như các báo cứ đăng thơ
Khoa mà không càn trả nhuận bút. Có một số tờ báo quan tâm thì trả bằng hiện
vật. Ông kể, có tờ báo nọ đăng nhiều thơ của ông, rồi trả bằng cái chăn bông,
giữa mùa hè nóng bức thì họ cho người đeo xe đạp mang chăn bông đến nhà trả thay
nhuận bút. Nhiều chuyện buồn cười lắm. Tôi đùa Trần Đăng Khoa, bảo: “Có lẽ họ nghĩ thế cũng đúng. Nếu ngày ấy,
bài nào cũng trả nhuận bút bằng tiền cả, có lẽ cậu bé Khoa sẽ ham tiền mà sáng
tác ào ào, mỗi ngày dăm bảy bài thơ, thì không khéo đến giờ thơ ông chất thành
núi, mà toàn bài dở cũng nên,...” . Ông cười ngỏn nghẻn, không hẳn đồng
tình mà cũng chằng phản đối. Nhớ lại những lúc vui, ông đọc nhiều bài thơ làm
từ thiếu thời mà cho là dở, bỏ đi, đủ thấy, dù có thần đồng thì người ta cũng có lúc dở hơi (kiểu như nhà bác học Niu-tơn từng khoét hai cái lỗ to nhỏ, một cho chó
một cho meo chui).
Thực ra, ngày ấy
Trần Đăng Khoa thiệt thòi chút về nhuận bút cũng đáng kể gì. Lộc trời, lộc đời,
lộc người rốt cùng cũng đến với ông, tuy chậm nhưng khá đầy đặn. Nhờ sớm thành
danh cộng thêm văn tai mà vài chục năm nay và cho đến tận giờ, Trần Đăng Khoa vẫn
có nguồn thu khá ổn định từ những sáng tác của mình. Trong khí các nhà thơ ,
nhà văn phải bỏ tiền túi ra in sách và tự phát hành (phần lớn là tặng), thì sách của Trần Đăng Khoa hàng năm vẫn được
các Nhà sách, Nhà xuất bản liên tục tái bản, nối bản (Góc sân và khoảng trời, Tuyển
thơ Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối thoại, Đảo
chim Trường Sa, Hầu chuyện thượng đế) và theo đó
tiền bản quyền không thật nhiều nhưng
khá đều đặn. Đó là còn chưa kể, Trần Đăng Khoa tỏ ra có tài và rất đắt
khách những nơi mời ông đến nói chuyện theo chủ đề, bắt nguồn từ chuyện thơ văn
của ông. Xưa thiệt nay bù, cũng công bằng
thôi.
*
Thiết nghĩ, nên đề cập đôi chút về tài ứng
tác thơ của Trần Đăng Khoa. Đây cũng là cái tài của ông, không hẳn riêng có,
song quả thật cũng là hiếm có.
Cứ theo lời kể
của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tài ứng tác sớm phát lộ và từng được rèn luyện từ
khi ông còn nhỏ. Ông cho biết, nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời là
ứng tác. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ,
nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài
làm thơ, nên về tận nhà, mục sở thị
bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé.
Thực tế là có nhiều bài thơ Khoa viết theo đặt hàng của tờ báo này, báo nọ, ông
nọ ba kia mà thành. Ví như, bài thơ Sao không về vàng ơi là một trong
những bài như thế,...
Đầy là chưa kể,
nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ ngắn ứng tác trong những lúc trà dư
tửu hậu, kiểu xuất khẩu thành thi,
khá hóm hỉnh, hài hước,...
Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó,
ông nổi hứng tập hợp thành tập, kể cũng thú vị đây ?! ./.
Tháng 3- 2022.
Nhận xét
Đăng nhận xét