@@@
GIẬU
CÚC TẦN
Về
quê, ... ngơ ngác bờ ao/
cúc
tần tơ dại bờ rào cũngđâu?...
Một lần đến chơi nhà người
bạn thời đại học, anh bảo tôi: “Đọc tập truyện ông tặng, thú thật, tôi chỉ
thích những chuyện ông viết về làng quê thôi… Mà này, trong truyện, để ý tôi thấy
ông hay nhắc đến giậu cúc tần. Quê tôi người ta cũng hay trồng làm hàng rào
nhưng lại gọi là khúc tần cơ. Vậy thế nào là đúng?”. Nghe thế, tôi cười, bảo
bạn: “Ngôn ngữ dân gian mình quen dùng theo thổ ngơi từng vùng. Tôi nghĩ, muốn
biết thế nào cho chính xác thì cứ tra Từ điển Tiếng Việt… nhưng mà ông ơi, căn
vặn cái gì. Cúc tần hay Khúc tần thì cũng thế cả thôi, nó đều là một thứ cây ở
quê chuyên trồng làm bờ giậu. Gọi thế nào thì người ta cũng không thể nhầm
thành cây hoa cúc hoặc rau bánh khúc là được chứ gì?”. Anh bạn tôi tán đồng và
sau đó chúng tôi còn bốc hứng nói hàng thôi hàng hồi về cái giậu cúc tần ở quê
mình, cứ như là ở trên đời này không có thứ cây nào hơn.
Quả thật, hình bóng giậu
cúc tần ở quê mãi in đậm trong tâm khảm tôi. Làng quê tôi những năm đó, hai bên
con đường làng và những ngõ xóm chính lát gạch nghiêng xưa cũ rặt một màu xanh
cúc tần bờ giậu. Thi thoảng là những bụi tre, trúc, hoặc những khóm mây gai xem
kẽ. Sau tiết mưa xuân, rồi kế đến mưa rào tháng ba, đất ẩm, cúc tần được thể
lên xanh bời, xanh suốt mùa hè, ngay cả dưới cái nắng tháng sáu chó già le
lưỡi. Nắng xiên khoai buổi chiều làm cúc tần héo lá rũ xuống, trông đến xót
ruột, nhưng sáng hôm sau tất cả lại tươi nguyên. Sương đêm, hơi đất ẩm là thứ
thuốc hồi sinh. Mùi lá cúc tần hăng hắc nồng nồng thật dễ nhận và không thể
không nhầm lẫn với bất cứ mùi gì khác. Giản dị vậy. Như người nông dân quê tôi,
ngày lao động vất vả, sau bữa cơm tối, ngồi uống nước ối vủ, xỉa răng, nói đôi
ba câu chuyện phiếm, bấm đốt ngón tay nhẩm tính công việc ngày mai rồi đánh một
giấc rõ thật nồng, sớm hôm sau tỉnh dậy là khỏe khoắn ngay, và lại một ngày
mới, một vòng tuần hoàn mới không mấy khác trước bắt đầu.
Nhớ cách đây nhiều năm, tôi
gặp một người đồng hương Hưng Yên ở
Nỗi niềm thương nhớ của
người đàn ông già nua, cô đơn nọ có sức nặng lan truyền sang tôi. Trở về nước
ít lâu, tôi về quê. Những bờ giậu cúc tần vẫn còn đấy song đã ít dần. Thay vào
đó là những hàng rào ô rô và lác đác có nhà xây tường bao. Thêm vài năm nữa,
cùng với phong trào “mái bằng hóa” thì tường bao vườn nhà gần như khắp lượt.
Nhà nhà kín cổng cao tường. Đi trên đường làng nhìn lướt chỉ thấy những gạch là
gạch, cảm giác như các dãy nhà kho san sát. Ao chuôm lấp hết thành thổ cư.
Không còn cảnh người đi đường và người đứng trong vườn nhà chào hỏi nhau, nói
chuyện với qua bờ giậu cúc tần như ngày trước nữa. Có lẽ thế mà sinh hoạt của
các gia đình dần khép kín. Âu cũng là biến đổi tất yếu của xã hội nông thôn
làng nửa phố, phố nửa làng đấy sao!. Có nhà dường như vẫn luyến tiếc giậu cúc
tần xưa nên còn giữ lại chút ít, loi thoi phía bên trong tường gạch.
Rồi một lần, nhân ngày giỗ
mẹ tôi, mấy người chị gái bảo tôi: “Cậu xem thế nào… mảnh đất vườn dưới quê của
ông bà để lại cậu cũng nên tính xây bức tường bao đi, kẻo lợn gà và trẻ nhỏ phá
tan hoang cả. Hôm nọ các chị về quê thắp hương mộ bố mẹ, ghé qua mảnh vườn cũ,
nhìn mà xót xa. Cây cối xơ xác, trụi thùi lụi hết. Ngày trước xanh um là thế..
Mà giậu cúc tần thì xơ xác, dày đặc những dây tơ hồng… Khiếp quá”. Những điều
các chị tôi nói, tôi đều biết cả. Song tôi cứ nấn ná mãi không quyết được.
Dường như tôi muốn chờ… Nhưng mà chờ cái gì kia chứ? Tôi cũng không rõ nữa… Nếu
nói là tôi muốn níu kéo tuổi thơ, giữ chân quá khứ, giữ nguyên hồn quê kiểng
của một thời xưa cũ thì cũng là dở hơi mất rồi chăng ?... Song quả là nỗi niềm
về quê hương bản quán và những câu thơ của ông già Việt ở
Giờ dây thì:
Về quê, ... ngơ ngác bờ ao
cúc tần tơ dại bờ rào cũng đâu ?..,.
may còn một chút bóng cau
để ta lưu dấu có nhau... một thời,
Nhận xét
Đăng nhận xét