Yasunari Kawabata - Chúa tể của núi tuyết ( Bs, Hc)


BỔ SUNG VÀ HOÀN CHỈNH



@@@

                             CHÚA TỂ CỦA NÚI TUYẾT                                     

(Tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc)

                                 

 

          1. Ngôi vị chúa tể.

 

Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới : Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của núi. Cùng với đó, còn kể đến  Cố đô, Người đẹp say ngủ, Hồ, Đẹp và buồn, Vũ nữ It-zu và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất sắc nữa ...

          Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản, với riêng tôi và tin rằng còn bao người khác nữa, Y. Kawabata giữ ngôi vị chúa tể. Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn chương, và mới đây là Haruki Murakami , người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn chương trong tương lai, song dẫu thế thì họ cũng khó có thể lật được ngôi vị chúa tể của Y. Kawabata.

          Riêng với tôi, chính Y. Kawabata cùng với những tác phẩm của mình là diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả James Clavell, một tác phẩm văn học sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên, phải chờ đến  Kawabata, tinh thần và văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét, được tôn lên hàng đầu.

          Bấy lâu nay, nói đến Nhật Bản, người ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai (Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.

          Như vậy, Y. Kawabata là một đặc sắc của Nhật Bản rồi. Song tại sao lại thế? Đơn giản, bởi Y. Kawabata khiến cả thế giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của nền văn hóa Nhật Bản và đồng hóa nên các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều có thể tìm thấy từ đấy nhứng gạch nối kia (hoa anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...

          Mùa thu năm 2005, tôi sang Tokyo. Chỉ nửa ngày, tôi đã biết thế nào là động đất, khi chiếc giường tôi nằm trong căn phòng tầng 7 ngay trung tâm thành phố, rung nhẹ liền mấy đợt, và khi tôi hiểu ra thì động đất đã chấm dứt. Đúng một ngày sau, truyền hình Nhật Bản liên tục đưa tin hình ảnh Thủ tướng Nhật (khi đó là  ngài Koizomi) đi viếng ngôi đền Yosukoni, cùng những phản ứng của những quốc gia láng giềng. Sở dĩ người ta phản đối là vì trong ngôi đền ấy, không chỉ thờ các vị anh hùng, liệt sĩ từ nhiều đời đã hy sinh, tận tụy vì sự tồn vong và phát triển của đất nước Mặt trời mọc, mà còn có cả mấy chục vị tướng cùng vị thủ tướng Nhật Bản bị quy là tội phạm chiến tranh khi đã cùng quân đội của mình xâm chiếm và tàn sát nhân loại ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tôi đã tự hỏi và đến nay chưa có lời giải đáp, rằng liệu ở đó, có tên của Y.Kawabata không? Hoặc giả ở nước Nhật, có nơi nào thờ các bậc danh nhân tư tưởng văn hóa để lưu tên tuổi của những vị như ông không, kiểu như điện Panthéon ở Paris (Pháp) quàn các danh hào ?

          Trở lại với mùa thu Tokyo năm 2005. Tôi đã được chiêm ngưỡng những cây phong dần ngả vàng, những hàng tơ liễu buông thướt tha dọc hè phố, và tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã đến thăm đền thờ Minh Trị Thiên hoàng xem đám rước tế, chơi ngắm triển lãm cúc hoa-một biểu hiện nhỏ của bon-sai Nhật, rồi lần giở từng chiếc thẻ cầu may của đám học trò trước mùa thi treo đầy dẫy ở đó, và sờ tay lên các vết xước lõm do những đồng chinh của người dân ném cầu phúc lộc thọ năm mới trên những cánh cửa gỗ cửa đền, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã thẩn thơ dạo gót trong công viên hành chính Hibiya, lặng quan sát những họa sĩ cắm cúi trên giá vẽ và những người già ngả lưng mơ ngủ trên ghế đá, rồi quá bộ đi dạo ngang qua Lầu công chúa, qua rừng thông đến tận cổng Hoàng cung để chiêm ngưỡng vẻ cổ kính thâm nghiêm của cổng thành với cặp lính gác đứng im như tượng, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã bỏ thời gian chui rúc hòa vào dòng người nhung nhúc tuôn chảy theo 13 tuyến metro chằng chịt ngang dọc trong lòng đất sâu, rồi cũng bỏ thời gian theo dõi bầy chim quạ chao liệng lúc chí chéo lúc não nề trên những ngọn cây cao, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã dán mắt vào màn hình ti vi xem trọn màn kịch Noh dài lê thê mấy giờ đồng hồ buổi đêm, cũng như lang thang cùng đồng nghiệp ken vai chen chúc  nơi dốc phố có cửa hàng đồ lưu niệm Một trăm yên, nơi cách đấy vài trăm thước là quảng trường tụ hội của các cặp đồng tính trong trang phục kỳ quái đua nhau phô diễn, tôi nhớ đến Y. Kawabata.Tôi đã được lên sân thượng của tòa nhà thị chính thành phố cao 45 tầng, để từ đó chụp ảnh và thoải mái phóng tầm mắt bao quát bốn phương tám hướng cái thủ đô hiện đại cỡ bậc nhất thế giới với chiều dài trải gần trăm cây số và chứa mười mấy triệu dân này, tôi nhớ đến  Kawabata... Cho đến khi chiếc Boeing của Vietnam Airlines từ sân bay quốc tế Narita cất mình bay bổng lên bầu trời rồi liệng nửa vòng trên vịnh Tokyo, nghiêng cánh chào rồi bay theo hướng tây nam, đưa du khách trở về với món mì lạnh kiểu Nhật trong bữa ăn trên máy bay, tôi nhớ về Kawabata. Tại sao lại thế, khi ông nhà văn này cứ như hình với bóng bám theo tôi từng bước chân, ám ảnh tôi trong mọi suy nghĩ? Đơn giản là với tôi, Y. Kawabata chính là vẻ đẹp Nhật Bản, là tinh thần Nhật Bản, là văn hóa Nhật Bản, là sự hiển hiện của cả nước Nhật. Vâng, chỉ là một thôi mà cũng là tất cả!

          Tôi nhớ, trong buổi làm việc báo cáo kết quả chuyến đi và cũng là buổi làm việc chia tay với Ban lãnh đạo của Trung tâm y tế quốc tế Nhật Bản, trong ý kiến của mình, tôi dành phần nhiều để nói về đất nước và con người Nhật Bản thông qua những biểu hiện về văn hóa. Tôi nhắc đến tác phẩm Vô ảnh đăng của nhà văn Wantanabe viết về giới y học Nhật Bản, chỉ là mượn cớ để bắc cầu sang  Y. Kawabata. Tôi đã thao thao không rõ bao lâu về văn hóa Nhật được thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này làm cô phiên dịch tài giỏi cũng hết sức khó khăn trong việc tìm từ chuyển ngữ sang tiếng Anh, đến mức làm các vị tiến sĩ y khoa bạn phải ngạc nhiên không hiểu sao cái ông nhà báo Việt này lại biết lắm thứ về văn hóa Nhật đến vậy. Có lẽ, khi ấy, sự dồn tụ về Y. Kawabata chứa chất trong tôi bao lâu không được giải tỏa, nên đến khi gặp dịp tôi đã tuôn ra trong sự kích động khó kìm nén, khiến mình có gì đó bất nhã bởi đáng lý phải nói về chuyện y học bệnh tật thì lại đi khen một ông nhà văn. Tôi còn nhớ, trong những phút giây như nhập đồng đó, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, lo phía bạn khó chịu vì sự lac đề của mình, nên đã viện diễn rằng, chính người cha thân sinh của Kawabata cũng là một bác sĩ. Sau này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học Nhật Bản cũng không nỡ chê trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng về tinh thần, về vẻ đẹp, về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho một nhà văn của họ, người đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh, Nobel văn chương.

          Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa người Nhật hôm ấy không tài nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của Y. Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ nữ It-zu, Người đẹp say ngủ , Cố đô, Đẹp và buồn,...đó là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra tiếng Việt, và dạo ấy do đời sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng loại giấy xấu màu xám đen, xù xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể biết được là, đúng vào lúc tôi có dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Y. Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm về những gì nhà văn này đã viết từ nửa đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về Y. Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata, dày hơn nghìn trang in trên giấy loại tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel văn học.

          Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm nhiều tác phẩm khác của Kawabata, nhất là Diễn từ Nobel của ông, kể cả bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận của mình về con người và giá trị văn chương của ông không mấy khác xa. Y. Kawabata được trao Nobel văn chương bởi những lý do, như : "Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý phụ nữ." ; "Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người" , và "Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây".

          Ngay chính Y. Kawabata, Diễn từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông đã lấy tên "Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản", như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế nào! Tôi dặc biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là Bản lai diện mục : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi".

          Tôi không dám sa đà vào diễn từ của Y.Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi đọc những kiệt tác văn chương của ông, tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ, những phong cảnh thiên nhiên đẹp một cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo huyền bí, những phong cách quý tộc vừa trang nhã vừa suy đồi, những phong tục dân gian khác lạ, những bóng hình của nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất, tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám ảnh ta !...

          Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không có thời gian và điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô Tokyo và vùng phụ cận, song do đọc các tác phẩm của Kawabata, nên tôi thấy như mình đã được đi đây đó khắp nước Nhật rồi. Kể từ ngày Y. Kawabata về cõi xưa, nước Nhật đã trải qua hơn ba chục năm, giàu có-đông đúc-hiện đại hơn lên nhiều lắm. Khi thong thả một mình dưới bóng liễu lúc chiều tối, hay khi ngửa mặt ngắm tán phong vàng ở bến xe buýt lúc đợi xe, tôi tự hỏi không biết Y. Kawabata đã từng đi đứng ở chỗ này chưa? Rồi lúc hòa mình vào dòng người trên phố, nơi ga metro, chốn siêu thị đông đúc, tôi thường nhìn thẳng vào gương mặt người đối diện, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ để xem có chút gì của Kawabata ẩn giấu? Bởi người ta bảo ông là gương mặt của vẻ đẹp, tinh thần và trí tuệ Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật Bản ngày nay ham học, ham làm ăn lập nghiệp và cũng chơi tới bến. Tôi tin rất nhiều trong số họ không biết Kawabata là ai. Cũng có rất nhiều người trong số họ biết đến Kawabata và từng đọc tác phẩm của ông, song với họ ông không là tất cả. Không nói đến nhiều giá trị Nhật Bản khác trên trường quốc tế, ngay trong lĩnh vực văn chương thôi, thì Kawabata đã quá xa xôi, gần hơn là Ôê, mà Ôê thì cũng xa rồi, bởi mốt bây giờ là đọc Murakami, là Banana Yoshimoto, là những gỉ gì gì sau nữa...

          Sau này, tôi có dịp tiếp xúc, trò  chuyện với một bạn gái trẻ Nhật Bản, cô Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt thuộc Ban Phát thanh & truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản.Cô có đợt tìm hiểu và học việc tại cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho tôi hiểu cái tên Sachiko, âm Hán Việt là Tảo Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm. Là một nữ nhà báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì không vướng rào cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong tục Việt, và ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật Bản. Tôi hỏi cô về Y. Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn chương cho tổ quốc song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh thần và vẻ đẹp Nhật Bản đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai mờ về Y. Kawabata, một giá trị đặc sắc của văn hóa Nhật Bản ?

          Tôi lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi hai phía trước sân vườn ngôi nhà bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những người già ngả lưng trên ghế đá công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ có Y. Kawabata? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh thủ lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi điện tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt mỏi sau một ngày làm việc cật lực, họ có gì về Y. Kawabata không? Hay chính ông cùng các tác phẩm tuyệt vời của mình đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vừa mới đây?

          Người ta bảo Y. Kawabata tự sát vì bế tắc. Vậy xã hội Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động gì lớn khiến ông bế tắc? Hay tự nội tâm ông? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn chương, một đỉnh cao chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp trái đất này nằm mơ cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy ?

          Chẳng vì lẽ gì cả. Thực ra, câu kết của Diễn từ Nobel năm 1968, Y. Kawabata đã bộc lộ : "Những câu thơ Bản lai diện mục ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".

          Thế là đã rõ. Tự chấm dứt sự tồn tại về thể xác, với Y. Kawabata, chỉ là một cách Thiền !...




 2. Tiếng rền của núi tuyết

Cho đến thời điểm này, tôi đã có ba lần đặt chân đến xứ sở Mặt trời mọc, lần đầu vào mùa thu năm 2005. Các lần sau, 2014 và 2017, tình cờ cũng đều vào mùa thu. Tôi đã thấy một nước Nhật đẹp huyền ảo và mông mị trong tấm áo choàng thiên nhiên lá vàng lá đỏ. Tôi cũng thấy tuyết trắng lấp lánh trên đỉnh núi Phú Sĩ dưới bầu trời trong xanh mùa thu... Và tôi lại nghĩ về các tác phẩm của Y. Kawabata, vị chua tể của văn chương Xứ Tuyết,...

Gần đây, tôi đọc thêm một tác phẩm nữa trong số các kiệt tác của ông, tiểu thuyết “Hồ”. Khác với các tác phẩm kia, chuyên săn tìm cái đẹp, ở tác phẩm này, nhân vật chính của ông là một con người bị coi là xấu xí. Song bi kịch là ở chỗ, con người xấu xí ấy lại đam mê cái đẹp, mà cụ thể là vẻ đẹp khác giới-đàn bà. Nhân vật chính của câu chuyện, Momoi Gimpei, một người đàn ông luôn mặc cảm vì sự xấu xí về hình thể và tuổi thơ không mấy tốt đẹp của mình, nên phần sau cuộc đời, gã ta bị mặc cảm chi phối thành vô thức mà bám theo bóng hình đàn bà đẹp bất kỳ cho dù họ chỉ thấp thoáng lướt qua gã trên đường đời. Người ta cho rằng, nhà văn cố tình lựa chọn và tạo dựng một nhân vật đầy khiếm khuyết, đang vùng vẫy tìm lại cái tôi, tìm lại bản tính như những người Nhật bước ra từ chiến tranh. Có thể là vậy, song tôi nhận thấy còn hơn thế, Y. Kawabata còn gửi gắm những thông điệp lớn lao hơn,... Đó là gì vậy?

Tôi thấy ở đây, hình bóng đàn bà đẹp hay là hình bóng của một tinh thần văn hóa Nhật Bản tốt đẹp một thời đang dần bị phôi pha, mai một, bị chen lấn xô đẩy, chèn ép bởi văn hóa ngoại lai? Phải chăng, Y. Kawabata đã sớm nhận thấy và tiên đoán về sự sa sút và xô bồ của tinh thần văn hóa Nhật Bản khi bước vào thời kỳ công nghiệp phát triển và toàn cầu hóa?

Rất có thể, gã trai xấu xí và một quá khứ tuổi thơ không mấy tốt đẹp kia chính là hình ảnh của một nước Nhật ngày nay, dần bị xô bồ và lệch lạc bởi sức ép từ chính sự phát triển quá lố của mình và áp lực từ việc toàn cầu hóa, từ sự ô nhiễm và biến đổi khí hậu, từ dịch bệnh với quy mô toàn cầu,...? Thế nên, sự vô thức (hay ý thưc) đi tìm vẻ đẹp kia, sự tốt đẹp hiện tại còn sót lại đâu đó (và cả vẻ đẹp trong quá khứ) của nhân vật Momoi Gimpei, chính là sự cần thiết, sớm ngộ ra để khôi phục vẻ đẹp tinh thần văn hóa Nhật Bản từng có,...? Đương nhiên, ở vào thời nhà văn sống và sáng tác, thì đây là sự suy luận thiên tài mang tính tiên tri. Vậy theo tôi, đây là một thông điệp cơ bản ẩn chứa của tiểu thuyết này.

Tìm hiểu về văn hóa và tinh thần Nhật Bản, dường như mọi hiện tượng đều được nâng lên một giá trị nào đó và có ý nghĩa biểu tượng khi mà nó chứa đựng chất nhân văn, như một triết lý sống, ngay cả với cái chết. Không giống tinh thần Phật giáo, mọi sự đều bé nhỏ và vô ưu trước Đức Phật, tinh thần Nhật Bản nặng yếu tố Thần Đạo, ít nhiều mang một ý nghĩa nào đó, gần với cuộc đời.

Người dân Nhật Bản có tuổi thọ rất cao. Nhưng khi cuộc sống không còn ý nghĩa và giá trị nào đó, nghĩa là sống chỉ là sự kéo dài thời gian tồn tại trên mặt đất thôi, người ta sẽ tìm cách chấm dứt. Khác với cái chết theo tinh thần võ sĩ đạo (samurai), người già cô đơn ở Nhật Bản đã từng diễn ra khá phổ biến, ấy là cách bỏ lại tất cả, một mình đến xứ tuyết, cứ thế đi sâu vào vùng trắng lạnh mênh mông cho đến khi cạn hơi kiệt sức mà gục ngã vùi mình trong tuyết giá. Một kết cục đẹp và buồn làm sao ?!

Hay đâu, một giá trị từng được nâng lên thành triết lý đầy chất nhân văn, mà Y. Kawabata thuật trong tác phẩm "Người đẹp say ngủ" của mình. Người ta bỏ tiền ra để thuê dịch vụ ngắm (chỉ được ngắm bằng mắt, không có hành vi nhục dục) đàn bà đẹp khỏa thân trong trang thái say ngủ (là loại hình dịch vụ, bị dùng thuốc mê ngủ, không bị cưỡng bức mà là sự thỏa thuận). Đó là một cách hưởng thụ về tính dục cho những ai có nhu cầu, nhưng cũng có thể nhìn nhận đó như một sự cảm thụ cái đẹp theo tinh thần mỹ học....

Những triết lý sông-chết như vậy chỉ có ở Nhật Bản, và cũng chỉ qua cái nhìn đầy mỹ cảm và nhân văn, sâu săc, cùng bút pháp điêu luyện của Y. Kawabata mới trở nên tuyệt vời như vậy!...

Trong xã hội Nhật Bản hiện tại, tức là hơn nửa thế kỷ đã qua so với thời gian Y. Kawabata sống và viết, những cách thức như vậy không còn nữa (hoặc giả vẫn tồn tại cá biệt trên đất nước Nhật?), thì những triết lý ấy vẫn không mất đi, bởi ý nghĩa nhân văn của nó. Chí ít, nó tồn tại trong ký ức của một lớp người, hay trong các tác phẩm tuyệt vời của Y. Kawabata, với sự lan tỏa trên phạm vi toàn cầu...

Sau cùng, không thể không nói đến bút pháp, văn phong của Y. Kawabata. Lựa chọn ông để trao Nobel văn chương năm 1968, Hội đồng giải Nobel đã nhận xét: "... Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây". Dĩ nhiên, không có gì bàn cãi, khi tô đậm mấy đặc điểm chính của văn chương Kawabata, đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng.

Khi đã là một gạch nối, một đặc sắc của văn hóa Nhật Bản, tôi nghĩ, cùng với các đặc điểm cơ bản làm nên giá trị văn chương của Y. Kawabata (đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng) thì chắc chắn còn những giá trị khác nữa từ cội nguồn văn hóa dân tộc xem như chất “phụ gia” để ông hòa quên, nhào nặn thành chất kết dính các giá trị cơ bản kia? Vậy đó là những gì?

Thường là, mỗi nền văn hóa đều chịu ảnh hưởng, nếu không muốn nói lấy tôn giáo, tín ngưỡng gốc làm nền tảng. Với người dân xứ sở Mặt trời mọc, tôn giáo gốc (từ trước Công nguyên) là Thần đạo (Shinto). Truy nguyên, tư tưởng của Thần đạo Nhật Bản khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của con người, nên trước khi ăn người ta thường phải nói câu Itadakimasu (戴きます) để cảm ơn những sinh linh đã phải chết để trở thành thức ăn, và đến ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Như thế, có thể nhận thấy, tư tưởng Thần đạo Nhật Bản với ý nghĩa cơ bản của nó khi khuyên “con người ta hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác” đã là nên giá trị đạo đức trong các tác phẩm của Y. Kawabata.

Thẩm mỹ, tôi nghĩ, đặc điểm nổi trội nhất trong văn chương của ông, nếu không muốn nói Y. Kawabata là nhà văn theo “chủ nghĩa duy mỹ”. Là người đắm đuối, tôn thờ cái đẹp, song Y. Kawabata không đơn thuần duy mỹ đến mức độ coi “cái đẹp” là duy nhất mà tách rời nó khỏi nội dung xã hội và đạo đức cuộc sống. Thẩm mỹ, trong con người và văn chương Kawabata, mang đúng nghĩa của khái niệm này, sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp hòa quện trong sự cảm thông sâu sắc của tâm hồn. Mỹ cảm của ông mang thiên hướng đàn bà, pha trộn ẩn ức tình dục mơ hồ, đơn giản vì họ là biểu tượng của cái đẹp. Những nhân vật nữ của ông dù ở tầng lớp và thuộc loại người nào, đều được nâng niu và ít nhiều ông dành cho họ sự ưu ái. Chính điều này, theo tôi, đã làm nên “đặc sắc Kawabata”, khiến ông khác lạ với các nhà văn Nhật Bản khác, chẳng những thế, sự khác lạ và đặc sắc ấy lại giàu năng lượng và có sức nâng, góp phần tôn vinh văn học, văn hóa Nhật Bản, khiến Hội đồng văn chương Nobel không thể làm ngơ mà quyết định trao giải cho ông, người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba được vinh danh. Vinh quang này cho cá nhân Y. Kawabata và văn chương Nhật Bản.

Song Y. Kawabata cần gì ở điều ấy? Chẳng phải ngẫu nhiên, ông đã mở đầu diễn từ Nobel năm 1968 bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là "Bản lai diện mục" : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi". Thực ra, đọc kỹ các tác phẩm của ông, người ta đã nhận thấy sự thiền định thấm đẫm trong mạch văn, câu chữ. Điều này cho thấy, chất thiền cũng là một đặc trưng văn chương của Kawabata. Hầu như, các nhân vật của ông (hay chính bản thân) không mấy nổi giận và nếu có thì cũng ít khi đến mức mất kiểm soát... Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tôn giáo đến tinh thần Nhật Bản, mặc dù tôn giáo gốc là Thần đạo, nhưng càng về sau, sự lan tỏa và sức ảnh hưởng của Phật giáo càng mạnh, chi phối tinh thần văn hóa Nhật Bản. Đây cũng là cách lý giải yếu tố Thiền trong văn chương của Kawabata, cũng như tâm thế và sự hành xử của các nhân vật trong tác phẩm của ông. Lấy trạng thái an tĩnh và sự tập trung cao độ trong cách nhìn nhận, vận động, hành xử là cốt lõi của “thiền định”, và đó cũng chính là tâm thế Y. Kawabata. Vậy xem như, bài thơ thiền “Bản lai diện mục” cho thấy sự tiếp nối trạng thái động-tĩnh, thực -ảo, hiện tại-ký ức thay nhau luân chuyển với vẻ đẹp điển hình của thiên nhiên bốn mùa là căn cốt cảm hứng sáng tạo văn chương của Y. Kawabata. Các tác phẩm của ông là minh chứng sống động cho phương châm và cảm hứng sáng tạo này.

Trở lại với nhận định của Hội đồng Nobel văn chương năm 1968, về sự đóng góp của Y. Kawabata cho sự phát triển của văn học thế giới, ấy là “nghệ thuật độc sáng”. Vậy hiểu nhận định này ra sao? Phải chăng, nếu không phải là sự độc đáo và sáng láng thì đó là gi?

Người Nhật Bản tự hào về Haiku (俳句), một loại thơ độc đáo, một đặc sắc ngôn ngữ, văn chương của họ. Khởi phát từ đầu thế kỷ 17 và nhanh chóng phát triển cực thịnh trong thời kỳ Edo (1603-1867). Sắc thái trào phúng sơ khởi cũng dần chuyển sang âm hưởng sâu lắng và thanh tịnh của Thiền tông và âm hưởng ấy đến giờ vẫn là chủ đạo của loại thơ này. Haiku Nhật bản độc đáo là bởi độ ngắn gon (thường không vượt quá 17 âm tiết tiếng Nhật) và sự hàm súc đầy gợi mở của nó. Kinh điển thể Haiku, người ta hay viện dẫn bài thơ “Con ếch” của Matsuo Bashō: “Ao xưa;/ con ếch nhảy vào/ vang tiếng nước xao.”... Vì sự giới hạn số từ và âm tiết nên Haiku chỉ tả sự việc ngay trước mắt (nhãn tiền) nhưng nội hàm lại nhiều nên phải có sự tương quan các ý tưởng với nhau. Tôi thấy, thơ Haiku thú vị ở chỗ, vì độ ngắn gọn, hàm súc và gợi mở của nó nên người đọc không đơn thuần chỉ cần đọc hiểu mà còn có thể liên tưởng, suy luận ngầm, đi tìm ý tứ sâu xa của bài thơ gốc đặng diễn đạt bài thơ ấy theo ý mình. Điều đó có nghĩa, mỗi người đọc đều có thể trở thành đồng sáng tạo với tác giả bài thơ. Đó là cái hay và sự độc đáo riêng có của Haiku. Chính sự độc đáo của Haiku nên văn chương Nhật Bản dễ bị ảnh hưởng và sự chi phối của thể thơ này,... Dĩ nhiên, Y. Kawabata, dù ở ngôi vị chúa tể, cũng không ngoại lệ.

Thậm chí, theo tôi nghĩ, văn phong của Y. Kawabata chịu ảnh hưởng khá sâu sắc phong vị và tính chất của Haiku. Chính xác hơn, Y. Kawabata biết cách đồng hóa tính chất và sắc thái của Haiku để làm nên phong vị riêng mình – “đặc sắc Kawabata”. Ấy là thứ nghệ thuật mà Hội đồng Nobel văn học năm 1968 gọi là “nghệ thuật độc sáng”.

Đọc tác phẩm của Y. Kawabata, dù tiểu thuyết hay truyện ngắn đều thấy rõ điều này. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa vô vàn những bài thơ Haiku. Đơn cử, điển hình là tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ”, cả tác phẩm là một bài Haiku lớn. Hình ảnh nhân vạt chính, ông già bảy mươi đắm đuối ngắm người đàn bà đẹp ở trạng thái khỏa thân say ngủ, là hiện thực nhãn tiền, còn những dòng suy tưởng miên man, chập chờn hồi ức, hiện tại, mộng mị đan xen của nhân vật chính là các ý tưởng tương quan với nhau làm nên bài Haiku toàn vẹn, khiến người đọc suy ngẫm, liên tưởng,... Và trong bài Haiku lớn ấy, lại chứa đựng rất nhiều bài Haiku khác, dường như mỗi chương, mỗi đoạn đều mang dáng dấp của bài Haiku, cứ thể nhân lên, vô vàn những bài Haiku nhỏ, cái nọ lồng trong cái kia, đan cài, bao bọc... Bởi thế, đọc tác phẩm của Y. Kawabata, không thể đọc nhanh, mà phải đọc chậm, thật chậm rãi, những mong tìm lời giải cho từng bài Haiku mà tác giả đặt ra. Văn của Y. Kawabata tốc độ chậm là vậy. Điều này khiến cho một số bạn đọc ưa tốc độ nhanh, thích hiệu ứng sốc, cảm thấy sốt ruột và sinh ngại chăng ?... Có lẽ, đây cũng là lý do mà các tác phẩm của ông thường ngắn, kể cả tiểu thuyết ?

Kể từ ngày Y. Kawabata hóa thân theo “ngàn cánh hạc” xải cánh trắng bay về “xứ tuyết” tinh khôi để đêm đêm nghe “tiếng rền của núi”, chớp mắt đã nửa thế kỳ trôi qua. Khởi nguồn, sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ 19 ở Osaka miền nam nước Nhật, hàng năm linh hồn ông vẫn cùng bầy hạc trắng từ xứ tuyết phương Bắc trở về thăm cố hương, ngang qua vùng “hồ”, thăm “cố đô”, nơi ông đã để lại những kỷ niệm “đẹp và buồn”, từng say ngắm “người đẹp say ngủ”,.. đã,... từng,...và từng,...

Với các tuyệt phẩm của mình, thực ra, nửa thế kỷ qua, Y. Kawabata vẫn đang ở đây, cùng chúng ta đấy chứ ?!..../.








###

NHAAJN XETS CUAR NHAF THOW,  HAF NGHIEEN CUWUS VAF PHEE BINHF VAWN HOJC TRAANF NHUAAJN MINH GUIWR QUA MAIL



***

<trannhuanminh44@gmail.com> đã viết:

đã đọc bài em
bài HAY theo một cách khác
Nó như một thứ BÚT KÍ về cảm quan nghệ thuật Kawabata
cái gì của Nhật cũng là người viết nhớ đến ông nhà văn này
Đây là đoạn xuất sắc nhất là bút kí nhưng cũng là phê bình văn chương ( qua hình tượng của cảm xúc)
về sức sống bất tử của một nhà văn khi nó trở thành biểu tượng văn hóa của một dân tộc

Vào Th 6, 1 thg 9, 2023 vào lúc 04:32 Tran Nhuan Minh <trannhuanminh44@gmail.com> đã viết:
A Minh đã nhânh được và sẽ đọc RẤT NGHIÊM TÚC, Vì Chu Nhạc là 1 cây bút NGPB cần phải đọc nghiêm chỉnh
Rát cảm ơn em

Sẽ LƯU để đọc (hai bài trước của CHU Nhạc đều được LƯU)
RẤT ÍT bài bạn gửi đến được lưu lại như thế
thường đọc xong là xóa đi để nhẹ máy và việc tìm kiếm khi cần sẽ dễ hơn trong số ko có quá nhiều bài



Nhận xét