MẪN NÔNG ( THƯƠNG NÔNG DÂN )
@@@
Lý Thân (chữ Hán:
李绅, ? – 846), tên tự là Công
Thùy, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu [1],
nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời Đường. Về chính trị, Thân là thành viên quan trọng của Lý
đảng, từng ở ngôi tể tướng 4 năm, tham gia tích cực vào Ngưu Lý đảng tranh. Về văn hóa, Thân với Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn đứng đầu cuộc vận động Tân Nhạc phủ, là một
trong những nhà thơ tiêu biểu đương thời, có hiệu là Đoản Lý.
Thân thế
Thân xuất
thân là dòng dõi sĩ tộc ở Sơn Đông, nguyên quán của Thân là huyện Tiếu, Bạc
Châu [2].
Ông cụ của Thân là Lý Kính Huyền, làm đến
Trung thư lệnh thời Võ Chu, được phong Triệu quốc Văn Hiến công, sử cũ có truyện.
Ông nội là
Lý Thủ Nhất, làm đến Bì huyện lệnh thuộc Thành Đô.
Cha là Lý Ngộ,
từng làm Lệnh của các huyện Kim Đàn, Ô Trình, Vô Tích, nhân đó định cư ở Vô
Tích.
Sự nghiệp
Khởi nghiệp
Thân lên 6
tuổi thì mồ côi cha, được mẹ là Lư thị dạy kinh nghĩa. Thân có hình dáng nhỏ
nhắn nhưng mạnh mẽ, giỏi làm thơ ca.
Năm Nguyên
Hòa đầu tiên (806), Thân đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Quốc tử trợ giáo, không
hài lòng nên bỏ đi. Thân đi về phía đông, đến Kim Lăng, được Trấn Hải tiết độ
sứ Lý Kĩ mến tài, vời làm Tòng sự, coi
việc Thư ký. Kĩ dần lộ ra ý đồ cát cứ một phương, chống lại triều đình, tân
khách không dám nói gì, Thân mấy lần can ngăn, ông ta không nghe. Thân muốn bỏ
đi, Kĩ không cho. Gặp lúc triều đình triệu Kĩ về kinh, ông ta 3 lần xưng bệnh,
muốn nói dối rằng mọi người đòi giữ mình ở lại, bèn sai Thân làm sớ. Thân ngồi
trước mặt Kĩ, ra dáng run sợ, không thể viết được, đặt bút xuống liền vẽ chệch
đi, sau vài lần thì hết giấy. Kĩ giận, mắng rằng: “Sao dám làm vậy, không sợ
chết à?” Thân đáp rằng: “Học trò chưa từng gặp cảnh binh đao, nay được chết có
thể gọi là may mắn.” Kĩ lệnh cho đổi giấy, nhưng Thân vẫn không viết. Cuối cùng
có người tiến cử Hứa Tung, Kĩ sai Tung làm sớ, rồi giam Thân vào ngục. Sau khi Kĩ
đền tội, Thân được thả ra; có người chỉ trích ông mưu cầu tiếng tăm, bèn từ tạ
rằng: “Vốn là kích động vì nghĩa, chẳng phải cầu danh vậy!” người ta mới thôi.
Tham gia
đảng tranh
Rất lâu sau,
Thân được vời làm tòng sự của Sơn
Ít lâu sau
Nguyên Chẩn làm Tể tướng, bị Lý Phùng Cát lật đổ,
chịu bãi tướng, ra làm Đồng Châu thứ sử. Khi ấy Lý Đức Dụ và Ngưu Tăng Nhụ có khả
năng trở thành tể tướng, Phùng Cát lo sợ Thân và Đức Dụ thân thiết, lại gần gũi
hoàng đế, vào tháng 9 ÂL lấy Tăng Nhụ làm Bình chương sự, lại đưa Đức Dụ ra làm
Chiết Tây quan sát sứ, lấy Thân làm Ngự sử trung thừa, đẩy họ ra khỏi nội chức.
Phùng Cát nhắm vào tính khí cứng rắn và hấp tấp của Thân, hòng bắt lỗi mà biếm
trích ông, vì thế Phùng Cát lấy Lại bộ thị lang Hàn Dũ làm
Kinh Triệu doãn, kiêm Ngự sử đại phu, không cho phép Ngự sử đài tranh luận sề
sự bổ nhiệm này. Quả nhiên Thân với Dũ không ai chịu ở dưới người, tranh cãi
kịch liệt về quyền hạn của mình, khiến triều đình bãi chức cả hai, đổi Dũ làm
Binh bộ thị lang, Thân làm Giang Tây quan sát sứ [6].
Mục Tông vốn đãi ngộ Thân rất hậu, cho rằng ông hiếm khi ra ngoài nhậm chức,
bèn lệnh Trung sứ đến nhà của ông để úy lạo, ban cho đai ngọc. Thân chảy nước
mắt mà tố cáo với Trung sứ, nói đây là sắp đặt của Phùng Cát, mong mỏi được gặp
hoàng đế để trần tình. Đến ngày vào cung từ biệt, Thân kể lại mọi việc, Mục
Tông mới nhận ra mưu đồ của Phùng Cát, bèn đổi Thân làm Hộ bộ thị lang.
Trung
úy Vương Thủ Trừng được
trọng dụng [7],
Phùng Cát lệnh cho môn sanh, thuộc cấp cũ liên kết với Thủ Trừng, hòng hãm hại
Thân, đêm ngày tính kế. Khi ấy cháu họ của Thân là Lý Ngu – vốn có tiếng nhờ
văn tài, ẩn cư Hoa Dương, tự nhận rằng không ham muốn làm quan – với bác họ Lý
Kỳ, tiến sĩ Trình Tích Phạm đều nương nhờ Thân. Đến khi Lý Kỳ được bái làm Tả
thập di, Ngu ở Hoa Dương gởi thư nhờ Kỳ tiến cử, gởi lầm cho Thân. Thân cho
rằng Ngu tiến lui lưỡng lự, đáp thư cười nhạo Ngu, khiến Ngu rất oán giận. Bấy
giờ Ngu đến kinh sư để thăm Thân, đem hết nhưng lời ông nói về sự gian tà của
Phùng Cát mà kể cho Phùng Cát biết. Phùng Cát cả giận, nghe theo kế của môn
nhân là Trương Hựu Tân, Lý Tục Chi, cất nhắc bọn Lý Ngu, Trình Tích Phạm, Lưu
Tê Sở làm Thập Di, khiến họ dò xét lỗi lầm của Thân.
Ít lâu sau
Mục Tông băng, Phùng Cát vui mừng vì Thân sắp thất thế, nhưng lại lo Kính Tông mới lên ngôi vẫn dùng ông. Gặp
lúc Kinh Châu thứ sử Tô Ngộ vào chầu, hắn ta vốn giỏi bày
mưu ngầm, bọn Trương Hựu Tân hỏi kế, Ngộ cho rằng hoàng đế mới lên ngôi, ắt sẽ
luân chuyển quan lại, muốn lật đổ Thân thì cần phải hủy hoại lòng tin của hoàng
đế dành cho ông, mọi người lấy làm phải. Phùng Cát hài lòng, lấy Ngộ làm Tả
thường thị. Vương Thủ Trừng mỗi khi gặp dịp thì gièm với Kính Tông rằng: khi
xưa Mục Tông bí mật lựa chọn 2 Hoàng trữ (vì các con của Mục Tông, kể cả Kính Tông
nhỏ tuổi), Thân với Hàn Lâm học sĩ Đỗ Nguyên Dĩnh khuyên
lập Thâm vương Lý Tông (con trai thứ tư của Hiến Tông, anh trai của Mục Tông), Phùng Cát
ủng hộ Kính Tông, còn có Lý Tục Chi, Lý Ngu nối nhau dâng sớ. Kính Tông đã 16
tuổi, biết lời ấy đáng ngờ, nhưng đế mới lên ngôi, phải dựa vào đại thần, mà
thế lực của Phùng Cát quá lớn. Đến khi Phùng Cát tố cáo Thân ở nội thự có phát
ngôn bất lợi với hoàng đế, Kính Tông đành biếm ông ra làm Đoan Châu (nay
thuộc Quảng Đông) tư mã. Chế lệnh biếm chức của Thân ban ra, trăm
quan đua nhau chúc mừng tể tướng, chỉ có Hữu thập di Ngô Tư không nói gì. Phùng
Cát giận, đổi Tư làm Điện trung thị ngự sử, sung vào sứ đoàn đi Thổ Phiên báo
tang (của Mục Tông).
Thân bị biếm
chức, người chánh trực đau lòng nhưng không dám nói gì, chỉ có Hàn Lâm học
sĩ Vi Xử Hậu dâng sớ, cực lực nói Phùng
Cát là gian tà, vu cáo tội trạng của ông, khiến Kính Tông dần hiểu ra. Đến khi
trong cung kiểm kê thư cũ, tìm được một cái tráp của Mục Tông, trong đó có sớ
của Bùi Độ, Đỗ Nguyên Dĩnh và Thân 3 người,
xin lập Kính Tông làm Thái tử. Kính Tông cảm động mà than thở, mệnh cho đốt hết
thư phỉ báng mà đồng đảng của Phùng Cát dâng lên, do vậy nhưng lời gièm pha dần
thôi đi, phe cánh của Thân được bảo toàn.
Gặp dịp
triều đình đổi niên hiệu Bảo Lịch mà đại xá, Phùng Cát sắp đặt xá thư, bèn cắt
giảm câu chữ, chỉ nói “quan bị giáng đã từng được Lượng di thì cho Lượng di” mà
không nói gì đến trường hợp “quan bị giáng” (chưa từng được Lượng di) [8],
nhằm không cho Thân được Lượng di. Vi Xử Hậu dâng sớ tranh luận, nên Kính Tông
giáng chiếu đòi lại xá thư, thêm vào “quan bị giáng thì cho Lượng di”. Nhờ vậy
Thân được dời làm Giang Châu trưởng sử, thăng chức Trừ, Thọ 2 châu thứ sử. Sau
đó Thân được thăng làm Thái tử tân khách, làm việc ở Đông đô Lạc Dương.
Năm Thái Hòa
thứ 7 (833) thời Đường Văn Tông, Lý Đức Dụ làm tể tướng. Tháng 7
ÂL, Thân được cất nhắc, làm Kiểm hiệu tả thường thị, Việt Châu thứ sử, Chiết
Đông quan sát sứ. Năm thứ 9 (835), Lý Huấn (cháu họ của Lý Phùng Cát)
được trọng dụng, đưa Lý Tông Mẫn trở lại
làm tể tướng; Ngưu đảng lại thịnh, bèn liên kết với hoạn quan là bọn Trịnh Chú
bài xích Đức Dụ, khiến Đức Dụ chịu bãi tướng, cùng Thân đều làm Thái tử tân
khách ở Lạc Dương.
Năm Khai
Thành đầu tiên (836), Trịnh Đàm (thành viên Lý đảng) phụ
chánh, khởi dùng Đức Dụ làm Chiết Tây quan sát sứ, Thân làm Hà Nam doãn. Hà
Vũ Tông nối ngôi, Thân được gia Kiểm hiệu
Thượng thư hữu bộc xạ, Dương Châu đại đô đốc phủ Trưởng sử, Tri Hoài Nam tiết
độ đại sứ sự. Năm Hội Xương đầu tiên (841), Thân được vào triều làm Binh bộ thị
lang, Đồng bình chương sự, rồi đổi làm Trung thư thị lang, dần thăng đến Hữu
bộc xạ, Môn hạ thị lang, Giám tu quốc sử, Thượng trụ quốc, Triệu quốc công,
thực ấp 2000 hộ.
Bấy giờ Vũ
Tông trấn áp tôn giáo, Thân cũng tích cực bài xích Phật giáo, từng giúp hoàng
đế biên soạn Điều lưu tăng ni sắc (条流僧尼敕).[10]
Năm thứ 4 (844),
Thân bị trúng phong, đi lại không tiện nên không thể vào chầu, bèn dâng chương
xin chịu bãi tướng. Tháng 11 ÂL, Thân được giữ chức Bộc xạ, Bình chương sự, ra
làm Hoài
Năm thứ 6
(846), Thân mất, được tặng Thái úy, thụy là Văn Túc.
Vụ án Ngô
Tương
Khi xưa
người Tín Châu (nay thuộc Giang Tây)
là Thiều Châu thứ sử Ngô Vũ Lăng (? –
835?, nhà thơ nổi tiếng) bị buộc tội tham ô, chịu biếm làm Phan Châu tư hộ tham
quân, rồi chết ở nơi lưu đày. Nhà họ Ngô cũng bị trục xuất đến huyện Phong (nay
thuộc Thiểm Tây), con cháu rất lâu về sau mới được điều dụng. Bấy
giờ Lý Cát Phủ thuộc Lý đảng đang làm tể
tướng, nên cháu gọi Ngô Vũ Lăng là chú ruột là tiến sĩ Ngô Nhữ Nạp oán hận,
gia nhập Ngưu đảng. Trong niên hiệu Hội Xương, Nhữ Nạp làm đến Vinh Ninh úy, em
trai là Ngô Tương làm đến Giang Đô úy.
Năm Hội
Xương thứ 5 (845), Tương bị tố cáo là tham ô, còn cưới con gái của thường dân
là Nhan Duyệt [11].
Thân sai Quan sát phán quan Ngụy Hình xét án, kết luận Tương có
tội, phán chết rồi báo lên. Lúc ấy người ta cho rằng họ Ngô với tể tướng (Lý
Đức Dụ, ý nói Lý đảng) có hiềm khích, ngờ rằng Thân có ý riêng (Ngô Vũ Lăng
từng làm phụ tá của Hàn Dũ), thêu dệt tội danh của Tương. Gián quan nhiều lần
đưa việc này ra bàn luận, vì thế hoàng đế giáng chiếu sai Ngự sử Thôi Nguyên Tảo phúc
án. Nguyên Tảo kết luận Tương tham ô lương tiền là có chứng cứ nhưng không đến
mức phải chết, còn Nhan Duyệt từng làm Thanh Châu nha thôi, vợ Duyệt là Vương
thị vốn là con gái nhà quan, nên Duyệt không tính là thường dân. Cuối cùng
Tương vẫn bị khép tội chết, còn Lý Đức Dụ ghét Nguyên Tảo kết luận nước đôi,
biếm ông ta làm Nhai Châu tư hộ tham quân (tức là đày đi Lĩnh Nam).[12]
Đến
nay Tuyên Tông lên ngôi, Lý Đức Dụ thất thế,
chịu bãi tướng, phải quay về Lạc Dương. Nhưng thành viên Ngưu đảng là bọn Thôi Huyễn, Bạch Mẫn Trung, Lệnh Hồ Đào vẫn muốn
khép tội nặng cho Đức Dụ; vì thế vào đầu niên hiệu Đại Trung (847 – 859), bọn
họ thuyết phục Ngô Nhữ Nạp kêu oan, Thôi Nguyên Tảo vốn ôm hận nên cũng tố cáo
Thân xét xử như vậy là do Lý Đức Dụ sai khiến. Vì thế triều đình phán Đức Dụ
lại bị biếm chức, lột Thân 3 cấp quan chức cáo mệnh, con cháu của hai người đều
không được làm quan.
Tác phẩm
Thân sớm
giỏi làm thơ, đến khi trưởng thành, tác phẩm của ông phần nhiều được truyền
miệng, được người đương thời đặt hiệu là “Đoản Lý”, bấy giờ Tô Châu thứ
sử Vi Hạ Khanh hết lời
khen ngợi. Tương truyền Thân tham gia khoa cử năm Trinh Nguyên thứ 20 (804),
không đỗ, phải ở nhờ nhà của Nguyên Chẩn, nhân đó viết lời tựa cho Oanh Oanh truyện của
ông ta, chính là bài Oanh Oanh ca. Sau khi Lý Kĩ đền tội, Thân
nhiều năm không được trọng dụng, trong thời gian này ông cùng Nguyên Chẩn, Bạch
Cư Dị đề xướng thể thơ Tân Nhạc phủ, văn học sử Trung Quốc gọi là cuộc vận động
Tân Nhạc phủ (新乐府运动), riêng ông sáng tác
20 bài theo thể thơ này.
Toàn Đường thi (全唐诗) ghi lại tác phẩm của Thân còn được Truy tích du thi (追昔游诗) 3 quyển, Tạp thi (杂诗) 1 quyển, nổi tiếng nhất là bài thơ Mẫn nông 2 kỳ theo thể Cổ phong.
古風(憫農)其二
Cổ
phong (Mẫn nông) kỳ 2
Sừ hoà nhật
đương ngọ
Hãn trích hoà hạ thổ
Thuỳ tri bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ.
Dịch
nghĩa
Cày lúa ngày
đang lúc trưa,
Mồ hôi giọt xuống chân cây lúa.
Có ai biết rằng bát cơm trong mâm,
Mỗi hạt đều là đắng cay cực khổ ?
Dịch thơ (Thành
cao dao Việt)
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Nhận xét
Đăng nhận xét