(Nhà văn Võ Huy Tâm trong bộ đồ nghề công nhân mỏ - ảnh: theo báo Hải Dương) |
Lúc ấy, sức khỏe của ông không còn vượng, song trong câu chuyện về người thợ mỏ, về văn học, ông vẫn say sưa, cao hứng lắm. Và cũng chính buổi gặp gỡ ấy, lần đầu tiên tôi biết đến ông không phải với tư cách là tác giả của những tiểu thuyết nổi tiếng một thời – Vùng Mỏ, Rượu Chát, và nhiều tác phẩm văn xuôi khác, mà là một nhà thơ.
Quả là, chỉ có 10 bài thơ ông đưa tặng, với tôi, cũng đủ để khắc họa diện mạo một Võ Huy Tâm – thơ. Không hiểu ông còn những bài thơ nào khác nữa hay không, hay chỉ đúng 10 bài vỏn vẻn được đánh số thứ tự từ I – X? Thơ Võ Huy Tâm lạ. Ông viết tuyệt đối không làm dáng, không giống một ai, không na ná như hàng trăm, hàng ngàn bài thơ – đau vờ, buồn vờ, yêu vờ, suy tư cũng vờ, nhan nhản trên các tờ báo hàng ngày. Ông viết đúng những gì ông nghĩ, chắt lọc. Bài số III (Hòn đá bên lều):
Bên lều một hóa thạch
Trong đá in hình cây
Trúc có riêng phong cách
Triệu năm đốt vẫn ngay.
Bài số X ( Cặp phạm trù đáng nhớ ), ông viết:
... Rừng đước dông không đổ
Nguồn nhâm nắng chẳng vơi
Gốc bền ở tại lòng ta cả!...
Có khi, ông lại triết lý một cách trần trụi, như thể tự nói với mình, tự nhủ mình vậy:
Ngẩng đầu chỉ sợ một vật gì rơi
Trời là mái nhà không trần
... Đêm nay nằm dưới những vì sao
ngửa mặt lên trần
Mắt trần không thấy bụi...!
Bài số II –( Trần trời )
Có một số bài như ở dạng phác thảo, câu thơ xổ bung ra theo ý tưởng và người ta dễ liên tưởng rằng khi viết những câu thơ như thế, ông chỉ chú ý đến việc diễn đạt ý tưởng của mình, nhiều hơn là chú tâm vào câu chữ. Chẳng hạn như ở Bài số V ( Mưa xuân đặt phản đề cây cá ):
... Ta vốn yêu những cảnh đẹp vĩ đại
của trời đất bể sông
những hình khe
thế núi
những thành phố
cánh đồng
những rừng thưa
rừng già
những cổ thụ mười hai người ôm...
Rồi ông lại tự trào cái nghiệp văn chương thơ phú của mình, hơn thế, ông mượn cớ để lên án tệ tham ô trong xã hội:
Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc
Hề tôi dòng họ Vũ...
... Chuột đang chạy trong các kho dự trữ
Làm thơ chẳng đủ ăn phải viết truyện ngắn
Viết truyện ngắn chẳng đủ ăn phải viết truyện dài...
... Chuột đã bớt chạy trong các kho dự trữ
Viết tiểu thuyết sợ quá giàu phải viết truyện ngắn...
Chỉ ngỡ ông làm thơ, nhăm nhăm triết lý, hoặc bất cần câu chữ trau chuốt cốt sao diễn đạt được ý tưởng, thì bỗng nhiên, ông lại trữ tình, sương khói:
... Đò qua Phủ Lạng
Tránh càn thuyền thúng nghé thôn bờ
Nhà nền – đất – nện
rơm năm nắng
Sương đẫm sân cau mờ
Cống trắng
ngã ba
đồng Trảng
Đi đi anh! Kẻo sáng bây giờ!...
Bài số VI – ( Chỉ gặp một lần )
Có thể nói, dù là ở vùng mỏ than Đông Bắc thời trước, hay đi kháng chiến, và sau này về sống lại vùng mỏ trong cảnh hòa bình, viết văn, làm thơ, Võ Huy Tâm bao giờ cũng là một con người nhập thế, sống có trách nhiệm, và đích thực là người cầm bút vì những người lao động. Trong Bài số I (Hòm mìn ), ông viết:
Bạn của tôi những người thợ mỏ
đã giúp tôi dựng túp lều bằng gỗ
Căn phòng của tôi
Sàn bằng gỗ hòm mìn
Trần bằng gỗ hòm mìn..
...Tất cả căn phòng là một cái hòm mìn!
Còn tôi, tôi phải là thuốc nổ!
Sau này, xã hội ta nhức nhối bởi nạn “than thổ phỉ” tàn phá thiên nhiên, sinh thái, môi trường vùng mỏ, còn riêng ông, không những đau, ông vẫn muốn làm một việc gì đấy, dù là nhỏ bé, để ngăn ngừa tác hại của nó:
Gần sáng trăng lên dậy vét ao.
Chỗ nào đào được người ta đào.
Trời mưa, lũ quét bừa, vùng trũng
Vỉa sạt bọn càn phạt lũng cao...
... Be bờ trồng rú chờ mong nác
Dưới đáy chợt mừng thấy ánh sao!
Bài số VIII – ( Khi vét ao suy diễn)
Võ Huy Tâm qua đời vào cuối thu năm 1996, vừa đúng một năm sau lần tôi gặp ấy. Tôi vẫn cứ băn khoăn, khoảng thời gian một năm đó, ông có thêm bài thơ nào không? Nhưng thôi, với tôi, dù ít ỏi thế cũng đủ làm nên một nhà thơ và 10 bài thơ này là một chút thơ để lại đời! Ở ông, sống và viết đều nhất quán. Trong Bài số IV – ( Tiếng chim ), ông viết:
... Cánh chim trong bão
bả mồi lánh xa...
Có lẽ, cho đến lúc mất, ông luôn tự nhủ mình, răn mình như vậy?!
___________
PS : Hôm chúng tôi đến thăm nhà, hình như trước đó ông có uống rượu, nên tiếp khách trong trạng thái ngà ngà. Ấy vậy, vì hiếu khách, ông cứ giục vợ đi mua thêm rượu về mời khách. Ngoài trời mưa gió sầm sập, chúng tôi thấy ái ngại, can mãi ông mới chịu thôi. Và cũng cơn ngà ngà ấy, ông kể chuyện đời sống công nhân mỏ thời Pháp thuộc cơ cực thế nào, chuyện ông thực tế để lấy chất liệu viết tiểu thuyết Vùng Mỏ ra sao. Ông còn thuộc lòng các bài vè tràng giang đại hải mô tả đời sống vùng mỏ xưa, đọc lại cho chúng tôi nghe. Tiếc là băng ghi âm cuộc trò chuyện ấy, anh em đồng nghiệp của tôi không còn giữ đến giờ... Còn bản thảo đánh máy 10 bài thơ ông đưa tôi hôm ấy thì hiện tôi vẫn giữ được...
Nhận xét
Đăng nhận xét