Trong một cuộc hội ngộ mấy anh em báo chí thơ văn chúng tôi, có Trần Đăng Khoa, Phạm Công Trứ, Nguyễn Trọng Huân, Trịnh Bá Ninh ( Phó TBT Báo Nông nghiệp VN ), nhân mừng nhà thơ Phạm Công Trứ được tặng thưởng về đề tài Nông thôn nông nghiệp. Lúc mạn đàm, nhà thơ Phạm Công Trứ cao hứng cho rằng, bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung là bài thơ hay nhất làng thơ Việt tự cổ chí kim. Riêng tôi, không dám chắc " như đinh đóng cột " kiểu Phạm thi sĩ, song cũng đồng tình cho rằng, bài thơ này thuộc diện số ít bài thơ hay bậc nhất của làng thi ca Việt cổ kim. Hay, bởi tự thân ý tứ ngôn từ nhịp điệu, còn ở thời cuộc ra đời bài thơ và thân thế sự nghiệp của tác giả Đặng Dung...
Lịch sử, cho thấy, vào đầu thế kỷ 15, thời Hậu Trần, nước
ta bị nhà Minh xâm lược, vua Trần là Giản Định đế ( Trần Ngỗi ) yếu kém, vì nghi ngờ nên cho giêt hai vị tướng tài là
Đặng Tất ( thân sinh của Đặng Dung )
và Nguyễn Cảnh Chân ( thân sinh của
Nguyễn Cảnh Dị ). Để chống quân Minh, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã phế
Giản Định đế, lập Trần Quý Khoáng ( Trùng
Quang đế ) lên thay, cùng với các tướng Nguyễn Súy, Nguyễn Biểu, phò vua
mới chống giặc ngoại xâm. Cuộc kháng chiến tuy thất bại, vua tôi nhà Hậu Trần
bị bắt và tuẫn tiết, song tấm gương vì nước của các vị được sử sách ghi công,
hậu thế lưu truyền. Bài thơ Cảm hoài của
Đặng Dung ( bài thơ duy nhất của ông còn
đến ngày nay ) ra đời trong hoàn cảnh như vậy...
Hiện có rất nhiều bản dịch thơ bài thơ này, song chỉ
nêu ra đây bản của mấy bậc túc nho làng thơ Việt :
Nguyên bản Hán Việt :
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo, đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.
Dịch nghĩa :
Ở đời còn bao
nhiêu việc mà ta đã già mất rồi
Trời đất mênh
mông đắm trong cuộc rươụ hát ca
Khi gặp thời
thì kẻ đồ tể, ngươì câu cá cũng nên công trạng
Lỡ thời vận,
đến bậc anh hùng cũng đành nuốt hận
Phò giúp
chúa, những mong xoay chuyển cả địa trục
Rửa vũ khí
sẵn lòng lôi cả sông Ngân xuống
Thù nước còn
chưa trả được, mái đầu đã bạc trắng
Đành bao lần
mang gươm báu ra mài dưới bóng trăng.
Bản dịch thơ của Phan Kế Bính
Việc đời bối rối
tuổi già vay,
Trời đất vô cùng
một cuộc say.
Bần tiện gặp
thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ
bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng
trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông
trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong
đầu đã bạc,
Gươm mài bóng
nguyệt biết bao rày.
Bản dịch thơ của Tản Đà:
Việc đời man
mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời
cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời
cơ may những kẻ,
Tan tành sự
thế luống cay ai!
Phò vua bụng
những mong xoay đất,
Gột giáp sông
kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang
san thù chửa trả,
Long tuyền
mấy độ bóng trăng soi.
Một số bản dịch bạn bè văn chương của tôi :
Xồng xộc tuổi
già việc để ôi
Đắm trong
rượu nhạc tối ngày rồi
Bần cố gặp
thời nên công trạng
Hào kiệt vận
tàn cũng đành thôi
Những mong
phò Chúa nâng trái đất
Xẻ núi chặn
sông sẵn lòng rồi
Thù nước, hận
mang… đầu vội bạc
Kiếm mài
trăng khuyết hổ bầy tôi!...
( Nguyễn Vĩnh Tuyền dịch )
Việc đời chưa
hết tuổi đã già
Mênh mông
trời đất rượu hát ca
Gặp thời đồ
tể nên công trạng,
Lỡ vận anh
hùng nuốt hận a
Những mong
phò chúa xoay trục địa
Sửa binh đao
kéo sập Ngân Hà
Bạc đầu thù
nước còn chưa trả
Đành mài gươm
báu dưới trang tà.
( Lã Minh Kính dịch )
Việc nước
chưa xong bóng đã tà
Chìm trong lệ
rượu giọt xót xa
Gặp thời kẻ
chợ nên danh phận
Thất thế anh
hùng hận hà sa
Phò chúa
những mong xoay bốn biển
Tuốt gươm mơ
cứu cả sơn hà
Nợ nước chưa
xong đầu đã bạc
Mài gươm gửi
hận bóng trăng xa...
( Hoài Tố Hạnh )
Cũng có người thích đọc nguyên văn hơn, bởi muốn cảm nhận
âm hưởng của bài thơ, dứt một câu như có tiếng thở hắt ra vậy. Nó thể hiện được
sự phẫn uất của Đặng Dung lúc nhìn trăng ngâm Cảm hoài.
2011
Nhận xét
Đăng nhận xét