Phong Kiều dạ bạc-làm nên tên tuổi Trương Kế,



Về thân thế và sự nghiệp: " Trương Kế 張繼 (?-779) tự Ý Tôn 懿孫, người Tương Châu 襄州, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 12 (754), là một nhà thơ có tiếng thời Trung Đường. Thơ của ông trong Toàn Đường thi tập có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊) đã giúp ông lưu danh thiên cổ. Ngoài bài thơ nổi tiếng này, Trương Kế còn để lại một số bài khác được biết đến ở Việt Nam như : Ẩm Lý thập nhị trạch, Hoa Thanh cung, Kim Cốc viên, Sơn gia, Xương Môn tức sự..."
Bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế thật sự là một bài thơ nổi tiếng, được nhiều người biết đến. Ở Việt Nam cũng vây? Là bởi, văn học cổ cận của Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng của thơ Đường rất lớn. Còn giờ đây, thơ Đường nói chung và bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế nói riêng, được đưa vào chương trình giảng văn ở bậc phổ thông nước ta. Người ta, biết và thuộc Phong Kiều dạ bạc, mà có thể không biết, không thuộc Tĩnh dạ tư của Lý Bạch, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Lương  Châu từ của Vương Hàn, Điểu minh giản của Vương Duy, Đề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ, Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên, Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo, Kim lũ y của Đỗ Thu Nương  v.v...
Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người yêu thơ Đường, và theo tôi, thơ ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của thơ Đường, bởi sự hàm súc của cấu tứ, ngôn từ chắt lọc, tinh tế, nhịp điệu du dương, thanh thoát... Ấy vậy, hễ nói đến thơ Đường, dường như Trần Đăng Khoa chỉ thuộc mỗi bài Phong Kiều dạ bạc, mặc dù ông là người có biệt tài, dù không biết chữ Hán, nhưng khi ai đó đọc một bài thơ Đường bất kỳ nào bằng âm Hán Việt, ông đều hiểu được nghĩa cơ bản và có thể dịch thơ ngay tắp lự...
Tôi đã nhiều lần đàm đạo cùng Trần Đăng Khoa, được nghe ông bàn về thơ Đường nói chung, rồi viện dẫn bài Phong Kiều dạ bạc để mà nhấn nhá, phân tích cấu tứ, hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu tuyệt diệu của bài thơ này...



@ Bản chữ Hán:

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。

@ Bản âm Hán Việt:

Phong Kiều dạ bạc,

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

@ Dịch nghĩa:

Đậu thuyền đêm ở bến Phong Kiều,

Trăng lặn, quạ kêu, sương bao phủ đầy trời.
Hàng phong trên bến, ngọn đèn thuyền chài cùng sầu mơ ngủ,
Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến bến thuyền khách.



@ Bản dịch thơ của người yêu tho Đường:

Quạ kêu, trăng lặn, sương đầy
Rặng phong cùng với đèn chài ngủ mơ
Chùa Hàn ngoài lũy Cô Tô
Nửa đêm vẳng tiếng chuông đưa bến thuyền.
( Hoa Mai dịch )

1.
Trăng lặn quạ buồn gọi biển sương
Hàng phong, đèn cá …mộng sầu vương
Hàn San cạnh bến Cô Tô vắng
Khuya khoắt bên thuyền vẳng tiếng chuông.

2.
Trăng tà, tiếng quạ đẫm sương
Hàng phong, đèn cá buồn buồn trong mơ
Hàn San kề bến Cô Tô
Bên thuyền vẳng tiếng chuông chùa giữa đêm.
( Nguyễn Hữu Thăng dịch )

Trăng tà, tiếng quạ đẫm sương ngâu
Đèn cá, hàng phong thả giấc sầu
Hàn tự ngoại thành Cô vắng ngắt
Bên thuyền chuông vẳng giữa canh thâu.
( Thái Xuân Nguyên dịch )

Trăng tàn, quạ lạc đêm sương
Hàng phong rủ lá, thuyền vương ánh đèn
Hàn San chuông vọng êm êm
Cô Tô chợt tỉnh giấc đêm tìm người !
( Kiều Thiện dịch )

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ trời
Đèn chài, cây bến ngủ mơ hoài
Ngoài thành Tô có Hàn San tự
Nửa đêm văng vẳng tiếng chuông dài.
( Trần Mỹ Giống dịch )

Trăng tàn tiếng quạ kêu sương
Hàng phong thuyền lưới đèn man mác sầu
Hàn San chùa ngoại Cô lâu
Tiếng chuông rụng giữa canh thâu não lòng.
( Sáu Miệt Vườn dịch )

Quạ sầu nguyệt lạc bóng trời sương
Le lói đèn câu, phong ngủ buồn
Trên bến Cô Tô thuyền khách mộng
Ngoại thành Hàn tự vọng thanh chuông.
( Phan Lan Hoa dịch )

1.
Thuyền đêm đậu bến Cầu Phong
Quạ kêu, đèn cá, thấu lòng, sương buông
Cô Tô riêng một nỗi buồn
Hàn San văng vẳng tiếng chuông đêm trường.

2.
Qụa kêu sương, ánh trăng tà
Đèn chài, cây bãi, ngẫm xa, nghĩ gần
Cô Tô độc mộc một thân
Hàn San chuông điểm gieo vần nửa khuya…

3.
Tàn đêm, tiếng quạ, sương rơi
Vạn chài, kề bãi đón người ghé qua
Bến Cô Tô một thân ta
Chùa Hàn San tiếng chuông xa đêm buồn…
4.
Thuyền đêm ta đậu bến Cầu Phong
Quạ kêu, sương phủ, đèn chài chong
Hàn San thành ngoại Cô Tô ấy
Chuông vẳng nửa khuya ngẫm se lòng.
( Nguyễn Vĩnh Tuyền dịch )

Quạ kêu trăng lặng trời sương..
Lửa chài sông lạnh nặng vương nỗi sầu.
Hàn San thành ngoại nơi đâu
Nữa đêm chuông đổ canh thâu một mình.

( Vũ Việt Hùng dịch )

2015

Nhận xét