Nhà thơ Trúc Thông, tên thật là Đào Mạnh Thông, sinh năm 1940. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng công tác nhiều năm ở Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Ông qua đời ngày 26.12.2021 sau nhiều năm bị tai biến mạch máu não. Sinh thời, nhà thơ Trúc Thông đã có nhiều tìm tòi, thử nghiệm nhằm đổi mới thơ Việt,...
@@@
Mùa thu năm 1987, tôi bước
chân vào ngôi nhà 58 Quán Sứ Hà Nội, bắt đầu cuộc đời làm báo chuyên nghiệp của
mình. Khi ấy. Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt
Thế rồi, dịp tết năm ấy,
biên tập viên Thu Liên, người cùng phòng với tôi, con gái của nhà thơ Nguyễn
Bùi Vợi, bảo : "Em nghe bố em nói,
chương trình Tiếng thơ đêm ba mười tết này anh có một bài thơ được phát sóng
đấy". Quả tình, tôi nghe mà không tin, Quả nhiên, bài thơ của tôi được đứng chung với các bài thơ của các
tên tuổi làng thơ Việt trong chương trình Tiếng Thơ tết ăm ấy. Nghe mà sướng
run người vì không tin vào tai mình. Sở dĩ, tôi nhắc lại sự việc này là để nói tới
một ban biên tập văn học thời ấy của Đài
Tiếng nói Việt Nam với các nhà thơ nhà văn, biên tập viên kỳ cựu. Cùng với nhà
thơ Nguyễn Bùi Vợi, còn có nhà thơ Trần Nhật Lam và vợ ông-biên tập viên Nông
Thị Nhuận (một trong những biên tập viên
thế hệ đầu của chương trình phát thanh Tiếng
Thơ nổi tiếng), nhà thơ Trần Nguyên Vấn, nhà thơ Trần Mạnh Thường, nhà
thơ Trúc Thông, nhà văn Tuấn Vinh, nhà thơ Lâm Huy Nhuận,...Để lọt qua các con
mắt xanh, nhất là Trúc Thôing thật không phải dễ. Và đấy cũng là cái cớ để sau đó tôi lân la làm
quen với các “nhà”, các “cây” của Ban Văn nghệ. Cùng với việc,năm 1978 khi còn
là sinh viên, đã có thơ đăng báo Văn
nghệ, nay lại có thơ phát trong
chương trình Tiếng Thơ tết, tôi thêm
phần tự tin để theo đòi mộng văn chương.
Thú thực ngày đó, dù yêu văn
học nghệ thuật đến mấy, bảnthân đã có thơ và có truyện ngắn đăng báo Văn Nghệ,
những tôi ngại bén mảng đến Phong phát thanh Văn học, mà chỉ hay
ghé Phòng
phát thanh Văn học thiếu nhi, nơi nhà thơ Lê Đình Cánh và Trường Hữu
Lợi phụ trách.
Khi ấy, Ban Văn học nghệ
thuạt (Đài TNVN) cùng với Báo
Văn nghệ, (Hội Nhà văn Việt Nam) Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, (Bộ Quốc phòng) và Tạp chí Văn học (Viện Văn hiọc thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam) thực sự ladf Tứ trụ về lĩnh vực vực Văn học Việt Nam. Có thể nói, ở đấy, chủ trương, quan điểm , sự
chỉ đạo về văn học nói riêng và văn hóa
văn nghệ mói chung được thể hiện rõ nhất. Đó cũng chính là yếu tố cơ bản làm
nên cái uy của những cơ quan này trong làng văn học nghệ thuật ở nước ta. Cũng
vì lẽ ấy, các văn nghệ sĩ, nahf thơ nhà văn, các biên tập viên làm việc ở đấy
được hưởng lây cái uy .
Với những ai đó oai thế nào
thì tôi không rõ, song với văn nghệ sĩ người nhà Đài thì không. Trúc Thông
không giống các đồng nghiệp như nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần
Nguyên Vấn, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh ở sự giản dị, dễ gần, mà cũng không
thỏa mãi, cởi mở như nhà thơ Trường Hữu Lợi, Lâm Huy Nhuận,,, Ông nhẹ nhàng,
lịch thiệp đấy song không dễ gần. Thế
nên, mỗi khi gặp hoặc tiếp xúc gần với ông, tôi đều giữ sự kiêng nể, cẩn trọng
trong thái đọ và lời ăn tiếng nói. Tôi cảm nhận từ ông, gần đấy mà xa ngay đấy,
dễ chịu dấy nhưng khó tính ngay đấy,...
Với tư cách nhà thơ, Trúc
Thông có xuất bản vài tập tiểu luận phê
bình văn học và bình thơ, song tôi nghĩ, sự nghiệp chính của ông vẫn ở thi ca.
Mà chủ yếu là những tập thơ: Chầm chậm tới mình (1985), Maraton
(1993), Một ngọn đèn xanh (2000)
và Vừa
đi vừa ở (2005). Năm 2017, nhà thơ Trúc Thông được Giả thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, là sự hgi nhận xứng đáng
cho những đóng góp của ông trong lĩnh vực thi ca. nhất là sự tìm tòi không mệt
mỏi trên hành trình đổi mới thơ Việt
thời kỳ hiện đại,...
Trước hết, Trúc Thông thuộc
số các nhà thơ theo đuổi chủ trương đổi
mới thơ Việt. Ông cẩn trọng, kỹ lương và có gì đó cầu kỳ trong từng câu chữ,
đến tít bài thơ và cả trong việc đặt tên
tập thơ. Tôi nghe một nhà thơ kể rằng, một nhà thơ đàn anh và là đồng nghiệp
của Trúc Thông từng nhận xét về thơ ông, “Trúc
Thông là người đau chữ đau câu,...”.
Không rõ thực hư sao, nhưng cứ lẽ mà suy
thấy cod lý. Trở lại với việc nhà thơ Trúc Thông đặt tít bài, têt sách thì
biết. Nghe đâu, cũng như việc ông đặt tên cho con, các ái nữ của mình....
Nói có lý, còn bởi, đã có
lần, trong lúc đàm đạo văn chương ở Ban Văn học nghệ thuật nhà đài, tôi nghe
Trúc Thông cao hứng bày tỏ quan điểm của mình, rằng “Thơ khi in, trên báo hay vào sacsgh, nên in khổ chữa to, để câu chữ nào
lép không có chỗ ẩn nấp”. Thế
này thì rõ là “đau chữ đâu câu” chứ đâu? Cứ theo quan điểm này của nhà thơ
Trúc Thông, tôi thử suy luận, ông coi mỗi bài thơ như một bông lúa. DĨ nhiên,
hiếm có bông lúa nào toàn bộ hạt đều căng mẩy cả, thế nào chẳng có dăm ba hạt
lép, thậm chí rất nhiều hạt léo. Thế nên, mỗi bài thơ, những câu chữ hay là
nhưng hạt mẩy, còn câu chữ độn, câu như văn nói, hoặc ngô nghê là những hạt
lép. Nhìn cả bông khó thấy hạt lép, cũng như đọc cả bài thơ, câu chữ dở, lép
lẩn trong cả bài. Vậy mới phải tìm cách để câu chữ dở, lép không có nơi ẩn nấp,
lộ diện ra,... Quả là ý tưởng đọc đáo, khác người. nhưng cũng không dễ làm chút
nào.
Trở lại thơ Trúc Thông. Sau
Chầm
chậm tới mình (hẳn là nhà thơ tìm
đường hướng,giọng điệu?), Ông tự tin,bắt đầu tăng tốc với Ma-ra-tông,
rồi giữ nhịp ở Một ngọn đèn xanh. Và sau đó, có chút lắng lại, thoáng băn khoăn
ở Vừa
đi vừa ở. Khác với nhiều nhà thơ, lấy tên sách như một cách sáng tác, Trúc
Thông chọn tên sách với nhãn quan phê bình, thể hiện quan điểm sáng tác của
mình. Bao quát, thơ Trúc Thông, du vần điệu hay không, đều hàm súc, suy ngẫm,
hình ảnh và giàu sức liên tưởng.
Ngày trước, khi tôi còn
tham gia giữ mục cho một tờ báo nọ, tôi từng chon bài thơ “Lát sông quê” và “Nho
nhỏ mùa thu “của Trúc Thông để bình. Liên tưởng đến minh triết “Chhẳng một aai có thể tắm hai lần trên một
dòng sông”, bài “Lát sông quê,” cùng cảnh tượng trước
mắt, tác giả sống lại ký ức xa xưa với hỉnh
bóng bà cụ già, hình bóng người mẹ và câu bé cùng lũ trẻ suốt nửa thế kỷ
trôi qua,... như nhau mà lại khác thế, để ngộ ra một sự thật đơn giản “vẫn sông Châu yên lặng thế thôi mà”. Nhưng
bà cụ giờ đây rất có thể là con của bà cụ ngày xưa, còn cậu bé “tim loạn nhịp”
ngày xưa là tác giả, nhà thơ đứng tuổi lịch lãm phong trần và người mẹ vội chợ
ngày ấy giờ đã năm lại ở bờ sông lẫn với đám ngô mà “bờ sông vẫn gió người không
thấy về”.Tim quy luận vận hành của cuộc sống luôn đau đáu và chẳng dễ dễ
với Trúc Thông. Tính ông vốn thế mà.
Ở bài thơ “Nho nhỏ mùa thu”, ngôn ngữ thơ văn
xuôi, Trúc Thông tô màu bức tranh: “Đôi
chim câu chân son mỏ đỏ, bên bờ con sông Sa Lung/ chim đi đâu đây?/ cúc cù cu
chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi? Rồi chim bay vù.Một quãng
đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù/ cỏ mùa thu xanh ngả đượm chút vàng.
Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời thu rộng rãi, gió nhè nhẹ trải/
vợ chồng chim như hai anh em như hai bè bạn. Áp trắng ,mắt xườm, chân son, mỏ
đỏ. Gật gù đi trong cỏ pha thu.” Nguyên bài thơ như vậy, đầy ắp sắc màu,
hình ảnh, sống động, làm nên một bức
tranh thu thật đẹp. Sự cầu kỳ cũng đáng giá đấy chứ?
Bản chất của sự vật và hiện
tượng cùng mối liên kết sâu xa của nó mới là mối quan tâm và làm ông bận lòng.
Điều này có thể tháy ở một số bài thơ,
như; Cảnh
quan, Múa cổ. Qua tháp Dương Long, Vũ nữ
Trà Kiệu bước ra từ sa thạch, . Dặn bức tranh năm cô gái, Bài
ca các em bé theo công trường,... Ví như, bài Múa cổ“ Em múa điệu rông đô thời cổ/ bàn chân chắc
nịch sau làn váy/ da đồng quê/ khăn mận chín vùng vẫy/ ngực căng/yếm sồi/ rông đô/
chân trần tiếp đất/ làng ta thế kỷ mười/ đất âm thầm tự do trong cầm giữ/ rông
đô/ trống vỗ/ rông đô/ vai trần/ rông đô/ không biết mệt...” Cảm giác, Trúc Thông mải miết, không mệt mỏi
đi tìm cách diễn đạt mới.
Nhưng thấp thoáng đó đây,
lại thấy một Trúc Thông rất đỗi thật thà, chẳng hạn như bài thơ “Cao
Bằng”: “Sau khi qua đèo Gió/ Ta lại vượt đèo Giang/ Lại vượt đèo Cao Bắc/ Thì
ta tới Cao Bằng... Rồi đến chị rất thương/ Rồi đến em rất thảo/ Ông lành như
hạt gạo/ bà hiền như suối trong.../ Bạn
ơi có thấy đâu/ Cao Bằng xa xa ấy’ Vì ta mà giữ lấy/ Một dải dài biên cương”.
Lời thơ giản dị những tình cảm dạt dào. Có lẽ vậy mà các nhà giáo dục đã chọn
đưa vào sách giáo khoa Tiềng Việt để
giảng dạy cho học sinh bậc tiểu học.
Hay đâu, có một Trúc Thông
nhuần nhị, thấm đã tình người, tình mẫu tử trong bài thơ “Bờ sông vẫn gió.” Theo tôi,
đây không những là bài thơ toàn bích của Trúc Thông, mà còn là một trong những
bài lục bát hayở xứ ta. Hay về mọi nhẽ., ý tứ, ngôn từ, vần điệu,... Cùng câu
mở rất gợi, lời thơ ra tựa lời cửa miệng nhẹ bẫng như không mà đằm nặng nghĩa
tình ;“Xin người hãy trở về quê/ Một lần
cuối... một lần về cuối thôi,Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một
thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ vương hình bóng cha/
Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa một lần/ Con xin ngắn lại
đường gần/ Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi. “
Còn có một Trúc Thông thẩm thơ bằng “con mắt xanh”. Gần bốm chục năm làm biên
tập thơ của chương trình Tiếng thơ, Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, ông đã đọc, đã
chọn lựa, bình luận, phê bình hàng vạn bài thơ để giới thiệu cũng thình giả,
công chúng. Đây là sự đòng ghóp khồng
nhỏ của Trúc Thông cho sự phát triển của thi ca Việt hiện đại. Cũng nhớ
vốn tích luy và kinh nghiệm của ngần ấy năm mà nhà thơ Trúc Thông đã thêm vào
gia tình tác phẩm của mình dày dặn.
Với riêng tôi, mấy chục năm
công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau khi thưa, ông vẫn
cứ thấp thoáng đâu đó, gần gũi đấy mà xa cách đấy, thân thiện đấy mà lành lạnh
cách nhỡ đấy,... Về phần mình, tôi luôn kính nể ông, mỗi khi tiếp xuc mạn đàm
về văn chương hay cuộc sống, tôi thường nghe ông nói, hơn là chia sẻ, giãi
bày,...
Tiếc là, sau nhiều năm năm
bệnh sau đột quỵ, hoạt đông văn học của ông phần nào hạn chế. Song với những gì
Trúc Thông để lại khi ông rời cõi tạm, bạn bè văn chương và người yêu thơ đát
Việt chắc chắn sẽ nhớ đến ông không riêng chỉ “Bờ sông vẫn gió” và tên
những tập thơ khác lạ !...
Nhận xét
Đăng nhận xét