ĐI TÌM THI PHÁP THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Nguyễn Chu Nhạc
Thực ra, từ
hơn chục năm trước, tôi đã ý thức muốn tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần
Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên
Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc
sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và
sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời
đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận
định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng
tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được
Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ
thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi
của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người đã trưởng
thành, dù ở lứa tuổi nhỏ, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời
đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, cũng đều
nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác...
Tôi
cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng
chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò,
sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới,
hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký
tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào
đấy và cho tôi biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được
đến bây giờ?”. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng chưa nói
lại với ông...
Cho
đến một lần, đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ khá dày.
Khi ký sách tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn
thấy được cho ông. Tôi nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau,
tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa
buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang
trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn
lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc
ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông
làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là
bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ
thì rõ mồn một, từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung, mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ
này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh
dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất.
Hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá
lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua...
Có
thể nói, phương pháp sáng tác thơ của
Trần Đăng Khoa thuộc dạng thức quan hệ sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, thủ pháp hoán
vị, lối đồng dao, ví von so sánh, phép
nhân cách hóa, tạo dựng không gian cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu
thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học, hầu hết các bài thơ của Trần Đăng
Khoa đều theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà
tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách trong một bài.
Ngay
trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ
thực - áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con
bướm vàng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/
vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu
thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em
nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy câu kết này,
bài thơ chuyển thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Nó là chuyện về con bướm
đấy. Cũng là chuyện về tuổi thơ. Tuổi thơ đến rồi đi. Có nhìn theo, đuổi theo,
cũng không níu được. Không vươn tới được. Nó là chuyện của Khoa, cũng là chuyện
của tất cả mọi người. Cái tuổi thơ thực đấy mà ảo đấy. Mỗi khi đọc bài thơ này,
tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn
Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh
hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã
tức cảnh sinh tình mà làm thơ “Một cánh/
hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/
bay mất tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại
quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như
đám dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần
thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức, vị quan ấy thẽ thọt:
“Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm
sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,... nhưng
hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất
tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm
thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh
cho bài thơ bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm
thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn.
Bài
thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần
như cả bài thơ là sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng
chỉ vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/
thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá”là động. Đấy là những câu thơ
trực diện tả cái ngõ cụ thể. Rồi sau đó là cả cuộc kháng chiến cứu nước đi qua
cái ngõ nhỏ này. Người vá đường, Người đẩy xe. Bộ đội hành quân. Xe tăng, xe
kéo pháo. Cả nước lên đường ra trận. và câu kết, rất bất ngờ: “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, chỉ có cái
ngõ ở lại. Hai câu kết, với 6 chữ rất mong manh, mà nâng được cả bài thơ dậy.
Bài
thơ Gà con liếp nhiếp cũng theo phép thực-ảo. Ảo mà lại không ảo.
Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa
phùn ướt cánh, ướt đầu…Đấy là điều hiển nhiên. Chả có gì đáng bàn. Thậm chí còn
có câu tự nhiên, thật thà dễ dãi theo kiểu nhà quê “Mưa mỗi lúc một to sau rồi đâm ra tạnh” Nếu chỉ vậy thì đơn thuần
là một bài văn tả cảnh thực, kiểu học trò, lũ gà mải bắt sâu đến quên rũ lông,
lại thêm một câu thật thà hiển nhiên: “Nhưng
nắng to chú vẫn khô đầu”. nhưng tài tình thay, tất cả những câu chữ hiển
nhiên để chuẩn bị cho câu kết: “Đôi mắt tròn trong như hai giọt nước/ hai
giọt nước không bao giờ khô được”
thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo diệu và rất bất ngờ, ám ảnh. Ám ảnh
mà lại hồn nhiên.
Bài
thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh,
thực - ảo, lại hóm hỉnh mà cũng đầy bất ngờ:
“Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng
kêu/ râm ran suốt cả buổi chiều/ Tiện mồm em cũng hát theo một bài.”
Hay
như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa
đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương là bài thơ ông không thể nào viết lại
được. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thực-ảo. Tác giả chỉ đặc tả trăng.
Không tả trực tiếp trăng như bài Trăng
ơi từ đâu đến. Mà lấy cây vườn, như chuối và cau, con vật như chim và
sâu. Cau cao, chuối thấp, tương tự chim trên cây, sâu dưới đất. Vẫn là chuyện
cao và thấp. Và cái sân là trung tâm. Không có người. Vậy mà thành vũ hội thiên
nhiên. Câu thơ đảo đi đảo lại, lặp đi lặp lại mà không trùng. Trăng lồng lộng
ngự trị, ôm trùm cả trời đất. Chỉ có là người ở nông thôn, thấm đẵm cảnh sắc
văn hóa thôn quê mới khắc họa được một bức tranh sinh động như vậy. Vừa thực
vừa ảo. Vừa động vừa tĩnh. Đúng là một bài thơ rất khó viết mà viết nhẹ nhàng
như xoay quân đomino. Rất tài tình!
Bài
thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức
Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh
vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há
miệng đòi uống sương”, “loáng vỡ ánh
trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một
tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời”. Đó là hai câu hay nhất trong bài.
Trần Đăng Khoa thường dụng công ở câu kết. Nó như chân đế, giá đỡ, có sức nâng
cả bài thơ dậy.
Hay
nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là
quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu
trong bóng chiều , cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai
câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm nhỏ bé/ Biết bay về nơi
đâu?”...
Bài
thơ Đêm Côn Sơn, người ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng
như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn
là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng xưa nổi gió,
suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành
Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn
Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng
pháo ướt đầm sương khuya...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Câu thơ kéo xưa về
thực tại, lại có không khí thời đại. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ
thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh.
Bài
thơ Đồng chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức
này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt như là khói bay/ Đất trời
cách một gang mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục
bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào
nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, thực đấy mà ảo đấy. Đó là sự ảo diệu
của đồng quê, làng mạc!
Thêm
nữa, bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan
lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê rất mộng mị: “Làng quê lúa gặt
xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/
Trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu
đã chạm mặt người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi
tăm/ Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/
Bâng khuâng nhớ lúa đậu vào vai em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực
thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không
thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc
lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như
thế!...
Còn
nhiều lắm bài thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng
chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ
đâu đến, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn
dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những
bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến
trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về
làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva,
Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova, mùa đông năm 1990,
Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với
bạn, Đỉnh núi, Ở nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…).
Hay mới đây, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: Về
quê: “Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm lại chiến trường thẳm
xa/ Bây giờ bầu bạn cùng ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà ngoài hiên” cũng
thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng
các mối quan hệ lớn của gia đình và xã
hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua.
Có
một điều không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng
Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ
ông. Cũng giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là
người rất giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài
năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ
thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ buổi đầu sáng
tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng
mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện,
vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý
giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe
đọc bằng âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy,
đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt mỏng nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi
nó không có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là đám xác
chữ, không hồn vía, như xác chết vậy.
Trần Đăng Khoa thì
khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không
đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa như kể một câu chuyện, như có cốt truyện vậy,
hoặc nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng
không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như
vậy, người ta thấy được các nhân vật trữ tình, con vật, đồ vật cây cối trong
thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm
bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để
các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải
ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn
được bạn đọc yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần
Đăng Khoa liên tục được tái bản và vẫn bán rất chạy...
Thi
pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa
có các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số
bài thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng
tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia
sông Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả, nhà thơ Quang Dũng với Tây
Tiến ; sau nữa, ít nhiều,
là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ tiêu biểu,
điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của
mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca dài.
Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện thưc mà ảo diệu và làm nên
điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện”.
*
Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là
phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn
Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/
Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Ở
đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương
đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường, thậm chí là tầm thường.
Thủ pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc
sức liên tưởng...
Hay
đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng
thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”.
Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá
bình thường, thậm chí là tầm thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên
thú vị làm sao. Cũng như một câu thơ trong bài thơ viết về Mạc Thị Bười: Nắng
chiêm chín rực đôi bờ phi lao. Nếu Lúa chiêm
chín rực… thì câu thơ lười quá. Ở đây ta thấy được sự linh diệu của thủ
pháp hoán dụ trong thơ Trần Đăng Khoa có vai trò quan trọng như thế nào.
Cũng vậy, lối đồng dao, vận dụng ca
dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa, khá phổ biến trong thơ
Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa,
biến những vật vô tri vô giác mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả
mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở
đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình
điều khiển... ( các bài Con chim hay hót, Máy cày xình xịch, Đám ma bác
giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng,
Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv... ).
Bài thơ Kể cho bé nghe
là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở
lại, thú vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay
hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/ hay múa
xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt
bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ
phong vị cũ...
Bài thơ Em kể chuyện này,
lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như hót đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa
đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh
đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/
những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau
khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân
làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này.
Bài thơ Em
dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/ Nhịp cầu
vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vận dụng
ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy
bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa
chữa cầu đường cho xe qua. Những đêm trăng suông như thế, người làm đường không
cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng không
thể phát hiện được mục tiêu bên dưới mà
đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại
kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay
chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.
Ở bài thơ Hạt gạo làng ta,
có câu thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn
pháo súng bắn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về
hình thể, màu sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của
chiến tranh, hủy diệt, chết chóc, một
bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình, sự sống, ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói
giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc
cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong
ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/
vàng như lúa đồng,” nhưng mấy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu
diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”.
Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ
lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ !
*
Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp,
diễn dịch
Những
câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên
suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa,
dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất
thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hẳn, bài thơ như vỗ cánh mà bay lên,
thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy...
Ví
như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối,
tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa
cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...
Hay
như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi
bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ Ò ó o...Ò ó o…” thì bài thơ dễ bị chuội đi,
chẳng để lại gì.
Bài
thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội
chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài thơ. Hình ảnh
người nông dân chống chọi với thiên nhiên mới thật lẫm liệt.
Bài
thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả
thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ
kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng
nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng
nghe/ xa xa từ một ngọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ
bằng mắt bằng tai nữa, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi. Đặc biệt câu thơ giản
đơn như không mà lại rất tài: “Bao nhiêu
cái mũ lắng nghe”….
Bài
thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm
vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ Nhuộm vàng cả trời cao”.
Hay
nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách
thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy
thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây
diều em cắm/ bên bờ hố bom...”. Chưa
đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,...
Bài
thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách điếu đi cày/ Mẹ
em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài.
Bài
thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn
mây, mây cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài.
Bài thơ Trận địa bỏ không,
sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình này “Em nhìn đáy
nước trong veo/ Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà/ Thảo nào các chú đã xa / Thằng
giặc chẳng dám bay qua nơi này”.
Bài thơ Cánh
đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/Bỏ ngay vào
ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng không, là có
dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn
ngữ tả thực, thì câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài
thơ như cựa quậy, sống động hẳn lên, v.v...
Ở
bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ
tre vẫn chú dế mèn vuốt râu” giản
dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt
Hay
ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn
trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.
Rồi bài thơ Tiếng
võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài
thơ rất gợi. Tôi nghĩ, mấy câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng
võng đến suốt đời...
Rất
nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa,
từ nhỏ đến trưởng thành và cho đến tận bây giờ. Những câu thơ ấy, đặt trong văn
cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo
logic khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng
Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ, rốt cuộc, cô
đọng, chốt lại ở phần kết như thế. Ở một số bài thơ, câu thơ-luận điểm được nêu
ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải những điều gan ruột.
Nếu
như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay
diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc
hát người anh hùng, Trần Đăng Khoa lại rất ý thức và nhất quán trong
quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu
kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sử dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì
mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người
ta phải suy ngẫm, vừa là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một
chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm
thay đổi tiết tấu, từ giọng điệu kể nhanh làm chậm lại, bớt nhàm, mà lắng đọng,
suy ngẫm,...
Ví như, một số khúc
tôi dẫn ra đây
“Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng
chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/
Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.
“Sự lặng im
hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất
dày/ Hỡi ai nát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông”
“Lửa hát rằng: Quê
tôi-những cánh rừng hoang/ Chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi
trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi”
“Mái nhà
gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra
Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”.
“Đêm hát rằng: ... Người
ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng vặc sáng. Hoặc heo hút tàn”
“Cái cánh cửa
hát rằng: Ngày mai cô sẽ hy
sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi vơi đầy/ Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một
đêm”
“Cái bậc cửa hát
rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/
Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”
“Chiến dịch lớn hát
rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc trời trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao dời/ Lại
nghe trong đất máu người ngân vang”
Thiết tưởng, cái
kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc Vô cùng,
chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương
như thế này: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/
Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn
thổi vương ngõ ngoài...”,
Quả là, mỗi khúc
hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, những khúc hát ấy đều
là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng
bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng của Trần Đăng
Khoa.
*
Nhà
thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông
biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Ngay thơ
mình, cho đến giờ, một số bài thơ làm từ
ngày nhỏ, ông vẫn nhuận sắc khi lựa chọn được cách diễn đạt hay hơn, bởi nhiều
bài thơ trước đây có không gian mở. Hầu
như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ,
những câu khác với văn bản cũ,...
Thú vị, tôi từng
được nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu
thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười
tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông
bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà mình tự cho là dở, để có tập “Góc
sân và khoảng trời” tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, mạnh tay thì
cũng có thể bỏ đi một số bài, và ông cũng đã bỏ trong tập tinh tuyển mới đây,
có bài từng được một nhà thơ lớn đánh giá cao, ông cũng loại bỏ, hoặc lược bớt
thì mới đạt tới độ tinh túy. Nhưng mà, tôi nghĩ, cái gì cũng có tính lịch sử
của nó, không thể tùy tiện được,..
*
Là
bạn học với Trần Đăng Khoa, cùng Trần Đăng Khoa tập tọng làm thơ ở thời ấu thơ,
lại cũng chơi với ông khi về già tôi muốn kể thêm vài chuyện ngoài lề mà không
phải ai cũng biết.
Trần
Đăng Khoa là một người khá đặc biệt. Ông có khả năng ứng tác thơ. Điều này hình
thành từ khi còn nhỏ. Do nhiều người không tin, hoặc cũng có thể tò mò, người
ta hay ra đề cho ông làm. Yêu cầu viết gì, ông viết cái đó. Rất nhanh. Có bài
thành kiệt tác, có mặt trong các tuyển tập. Ông viết theo yêu cầu hay tự nguyện
sáng tác đều như nhau. Đây cũng là cái tài của ông, quả thật cũng là hiếm có.
Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi
tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ
thật, nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng
tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tài thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú,
từ cây cối, đồ vật, con vật, tình huống này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra
làm đề tài. Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt
hàng của báo này, báo nọ, ông nọ bà kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn
em, Sao không về Vàng ơi, Cái sân, Cây dừa... là những
bài như thế. Rồi sau này là cả tập Chân
dung & Đối thoại, rồi Đảo
chìm, Hầu chuyện Thượng đế cũng vậy.
Đấy
là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ đùa ứng tác, kiểu xuất
khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau
ở Lớp bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh
Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc (trước ngày giải phóng miền Nam), tôi lần
đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa khi nhóm học sinh chúng tôi trêu
đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay
một bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu
đúng y với yêu cầu đề ra, mà thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi
còn thuộc bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Vì bài này chứa nhiều
bí mật nội bộ của nhóm nhất quỷ nhì ma
chúng tôi. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu
đùa, bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dư tửu hậu, phiếm đàm nơi
công sở.
Biết đâu, đến một
ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng gom lại thành tập, kể cũng thú vị đấy, khéo
còn bán chạy hơn cả Góc sân và khoảng trời, Chân dung và Đối thoại.
Tôi chỉ xin dẫn một bài. Chuyện là, Đài TNVN họp cộng tác viên ở Bình Định. Các
phóng viên nữ Sơn La uống rượu như cọp. Các em đề nghị nhà thơ Nguyễn Thanh
Mừng làm thơ tặng. Mừng nhờ Khoa cứu nguy. Khoa viết ngay vào giấy ăn bài thơ
về rượu, chếnh choáng ngay từ câu đầu đến câu cuối. Đúng là ma men, dù Khoa
không biết uống tượu: Biển và trời Bình
Định/ Sóng sánh màu Sơn La/ Ngổn ngang bao ngọn núi/ Ngả nghiêng trong xó nhà/
Ánh trăng vàng Ghềnh Ráng/ Tan trên đỉnh Chót Pài/ Chỉ còn thần với thánh/ Bồng
bềnh dưới đít chai/ Thế là bao đau khổ/ Chẳng còn là khổ đau/ Kìa biển trời
chếnh choáng/ Ngắm chúng mình …uống nhau. Viết ngay tắp lự mà viết
được như thế là tài lắm chứ. Trẻ con thần đồng. Già nua thần lão. Thì cũng vẫn
Khoa cả thôi!
Tháng
3- 2022.
Nhận xét
Đăng nhận xét