MƯA XUÂN CỎ MỌC (Về trạng nguyên Nguyễn Trực) -Bản chuẩn

 LƯU TRỮ ( Photo by Tri Nguyen)



@@@

MƯA XUÂN CỎ MỌC

(Về trạng nguyên Nguyễn Trực)

 

Nguyễn Chu Nhạc

 

          1. Đình tiền sinh thụy thảo,

                                   

          Tiết tháng giêng mưa xuân. Mưa bay bụi như rắc phấn. Về quê vợ theo hướng dòng người trẩy hội chùa Hương. Dòng người xa cuồn cuộn ngược xuôi. Mưa ngày thêm nặng hạt, rồi cứ thế rơi rơi đều đều như rây bột. Thế này thì ướt áo rồi. Rẽ theo các ngả đường quê, đâu đó phấp phới bóng cờ hội lại thêm tiếng trống thì thùng, chợt nhớ tới bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, và từng câu thơ cứ hiện ra :”Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rựng vơi đầy…”, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên/ Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh” … Lòng tự hỏi, quê mùa giờ còn mấy cô gái được như thế? Nghĩ rồi lại thấy man mác buồn. Một nỗi buồn khi ý thức được những cái quý giá đang mất đi mà mình không có cách gì để níu kéo, kìm giữ. Nỗi buồn ấy cứ len lỏi trong lòng khi thắp hương tưởng nhớ trước mộ các tiền nhân. Cái lẽ sinh, lão, bệnh, tử của đời thì vô tư mà con người lại hay nặng lòng, day dứt. Thế hệ trước thường là hay trách cứ thế hệ sau cứ mải miết chạy theo cái mới mà không chịu quan tâm bảo tồn tập tục, phong vị cũ. Thế hệ trẻ nhiều người lại cho rằng lớp già cổ hủ, cứ lo ôm lấy cái cũ, chẳng chịu thay đổi ?…Cái gì còn thì sẽ còn, cầu trời phật vậy, song cơ bản vẫn phải từ ý thức của con người !...

          Xã Tam Hưng (Thanh Oai, Hà Tây), hai làng hai ngôi chùa lớn. Chùa làng Hưng Giáo (Hưng Phúc tự) bên này mới tu sửa, mang dáng dấp của những ngôi chùa phương Nam dòng Phật giáo Tiểu thừa màu sắc sặc sỡ. Làng Bối Khê bên kia (Đại Bi tự) lại bề thế, cổ kinh đúng màu thiền dòng Đại thừa. Thế nhưng, sân chùa cũng ngổn ngang vật liệu xây dựng vì nghe đâu đang được trùng tu.

          Hội chùa làng còn chưa mở. Vào chùa Đại Bi bằng cửa hậu .Chùa vắng tanh, phần vì còn chưa đến hội, phần vì chùa dở trùng tu, phần thêm trời đang mưa, nên đường đất lép nhép, nên người ta ngại chăng? Tha thẩn nhang đèn, hết ngắm nghía các pho La hán lại lẩm bẩm đọc những bức đại tự và đôi ba câu đối. Chữ nghĩa nhà Phật và các bậc tiền nhân sâu xa không dễ hiểu ngay được. Trùng tu, tốn kém thế song không khéo lại làm mất đi cái cổ kính và hồn cốt tâm linh xưa mà thay vào đó là sự phô trương lòe loẹt ? …

          Lại chợt nhớ, đây là quê hương của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực, người tên đứng đầu trong toàn bộ văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. Nghe đâu ông đậu trạng nguyên khi mới 26 tuổi trong khoa thi hội đầu tiên của thời Lê sơ- dưới triều Lê Thái Tông, cách chúng ta hơn 500 năm. Ông là người tài giỏi và có khí tiết nổi tiếng trong lịch sử, làm thơ viết sách đủ cả nhưng rồi thất lạc gần hết, chỉ còn mấy bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục mà thôi. Lại có cả chuyện ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, rằng sau khi đỗ đạt làm quan, được cử đi sứ Trung Hoa gặp khoa thi bên ấy bèn xin ứng thí và cũng đậu trạng nguyên. Chuyện này khiến tôi phân vân, đồ chừng chỉ là giai thoại dân gian, chứ chắc gì sự thât lịch sử. Thôi thì đành đợi lúc nào ngày rộng tháng dài sẽ để tâm truy nguyên xem thực hư ra sao ?

          Ngoài trời mưa xuân vẫn như rây bột, đều đều, rơi rơi… Những mảnh mạ non mỡ màng, những vạt cỏ non lấm tấm đón mưa, những tiếng vặt diệt, tiếng tát nước thì thòm và biết bao thanh âm của đồng quê, vừa bình dị gần gũi vừa như báo hiệu điềm lành !...

          Thấp thoáng một câu thơ cổ “Đình tiền sinh thụy thảo… “, được hiểu nôm na là Trước sân cỏ mọc báo điềm lành…

          Ừ… vẫn mưa xuân, cỏ mọc !... Lòng thấy bình yên, ấm áp!...

 

2. Nguyễn Trực, có phải là lưỡng quốc trạng nguyên ?

 

Lần lữa mãi, sau đận thăm chùa làng Bối Khê (Đại Bi tự) hồi giêng hai năm Canh Tuất, tôi cũng lần giở sử sách để tìm xem sự nghiệp văn chương của Trạng nguyên Nguyễn Trực, nhất là chuyện có đúng ông là Lưỡng quốc trạng nguyên hay không ?

          Bắt đầu bằng cuốn Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam (NXB Giáo dục-2006 ) do Đinh Xuân Lâm-Trương Hữu Quýnh chủ biên. Sách này cho biết ông đậu trạng nguyên khoa thi năm 1442 (khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3) triều Lê , làm quan thăng đến chức Thừa chỉ Viện Hàm lâm kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Về sự nghiệp văn chương, sách chép : " ... Ông (Nguyễn Trực) viết Trừ liêu tập, Ngu nhàn tập nhưng phần nhiều bị thất lạc, còn lại văn bia Mục Lăng và mổt số bài thơ ". (chắc là Hu Liêu tập, vì ông có hiệu là Hu Liêu?).

          Tra một cuốn khác, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 (NXB Văn học, 2006) của nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga- Nguyễn Hữu Mùi. Sách này cho biết Nguyễn Trực có tên tự là Công Đĩnh, ông đỗ trạng nguyên (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh) khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, năm 1442, nhưng lại bị in nhầm là đời Lê Thánh Tông, thay vì đời Lê Thái Tông. Về quan chức cũng chép như sách trên, song có đoạn chép về việc đi sứ : "... Hai lần đi sứ nhà Minh (Thái Hòa 1 và Diên Ninh 6), họa thơ của sứ Minh 50 vần làm vẻ vang quốc thể ...". Còn về văn chương, sách chép : "... Tác phẩm có Bối Khê thi tập, cũng tức là Hu Liêu tập, nay cón 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục ." . Sách này còn cho biết thêm là cùng khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo 3 năm 1442 ấy, khi thi Hội thì người đỗ đầu (Hội nguyên) không phải là Nguyễn Trực, mà là Nguyễn Như Đổ (người Thanh Trì-Hà Nội), song đến thi Đình thì Nguyễn Như Đổ chỉ đứng thứ hai (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh- bảng nhãn), nhường vị trí trạng nguyên cho Nguyễn Trực. Cũng khoa thi này, còn có một tài danh nữa là Thám hoa Lương Như Hộc quê  Gia Lộc , Hải  Dương (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh). Sau này, cả ba người đều trở thành các bậc danh tài của lịch sử khoa bảng phong kiến đất Việt.

          Cả hai sách này, thì một cuốn nhắc đến chuyện Nguyễn Trực đi sứ nhà Minh và có họa thơ với nhau, song tuyệt nhiên không thấy nhắc tới việc ông gặp khoa thi bên Trung Hoa và xin thi rồi đậu trạng nguyên, để rồi nhân gian tôn vinh là Lưỡng quốc trạng nguyên. Về tên sách của ông viết ra thì chép khác nhau. Xin bàn thêm việc này ở phần sau.

          Nhưng hai cuốn đó là sách biên soạn thời nay, nên có thể các tác giả đã lược bớt đi cho ngắn gọn để phù hợp với tiêu chí cuốn sách. Vậy sách cổ có thể ghi chép chi tiết hơn chăng ?

          Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn (bản in năm 2007 của Viện Sử học , NXB Văn hóa thông tin) , trong phần Chế độ khoa cử, có thấy nhắc đến khoa thi Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, 1442 một cách sơ lược, song bù lại có phần bao quát hơn "... Sĩ tử ứng thí 450 tên, lấy 33 người trúng tuyển, qua tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban cho ăn yến, mũ áo, cân đai và cho vinh qui về làng.Việc này bèn định thành thể lệ ...". Có một thông tin hay, ấy là kể từ khoa thi ấy mới định ra thể lệ thi cử như ta biết về khoa cử phong kiến Việt Nam sau này.

          Vậy có chuyện Nguyễn Trực thi đậu trạng nguyên trên đất Trung Hoa không ? Bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú (bản in năm 2007 của Viện Sử học-NXB Giáo Dục) ở phần Nhân vật chí, quyển VII- người phò tá công lao tài đức, có phần viết khá kỹ lưỡng về Nguyễn Trực, từ thân thế đến sự nghiệp công lao của ông. Sách viết : " ... Cha ông là Thì Trung giỏi về địa lý, thấy ở làng Nghĩa Bang huyện An Sơn có ngôi đất quý, nhân lấy con gái họ Đỗ người làng ấy và làm nhà ở đấy, mới sinh ra ông ở am núi Phật Tích. Lúc bé ông thông minh, rộng xem các sách. Năm 12 tuổi giỏi làm văn; 18 tuổi đỗ đầu thi Hương ở Sơn Tây; 26 tuổi đỗ Đệ nhất tiến sĩ tên, đứng đầu về khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo đời Lê Thái Tông, tức trạng nguyên mở đầu của nhà Lê... Ông vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp khoa thi, ông là bồi thần cũng xin thi, nhà Minh lại cho đỗ trạng, nên đời bấy giờ gọi là trạng nguyên hai nước. Năm Diên Ninh thứ 2 (1445), gặp khi nhà có tang ông xin về làng. Bấy giờ học trò các nơi theo học kể hàng nghìn người. Sau khi hết trở, gặp sứ Minh sang, vua sai ông giữ  việc tờ bồi qua lại và làm bài biểu mừng vua Minh lên ngôi, được người Minh khen ngợi. Khi vua Lê Nhân Tông bị giết, ông làm văn tế, lời lẽ rất thống thiết "...

          Như vậy, theo sách Các nhà khoa bảng Việt nam (CNKBVN), thì trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trực có hai lần đi sứ nhà Minh là vào các năm Thái Hòa thứ 1Diên Ninh thứ 6 . Còn sách LTHCLC thì nói chuyện Nguyễn Trực thi đỗ trạng nguyên ở Trung Hoa dưới triều Minh song lại không nói cụ thể năm nào. Nếu căn cứ vào đoạn chép vừa trích  từ LTHCLC và thử đồ rằng Nguyễn Trực đi sứ và dự thi là vào năm Thái Hoà 1 (1443), chỉ một năm sau khi ông đỗ trạng nguyên Việt. Vậy liệu có xảy ra điều đó không ?

          Tra cứu bộ ĐVSKTTcủa Ngô Sĩ Liên (sử biên niên) thấy rằng, năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông - tương đương với Minh, Chính Thống thứ 7) là một năm thật đặc biệt với rất nhiều sự kiện trọng đại liên quan đến lịch sử nước Việt. Lựa chọn, liệt kê một số sự kiện trong năm này dể thấy được sự kinh thiên động địa của nó :

          - Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442). Mùa xuân, tháng giêng, làm cung điện mới .

          - Tháng 3, thi hội các nhân sĩ trong nước, cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Lại sai dựng bia làm văn đề tên. Tiến sĩ được dựng bia ghi tên bắt đầu từ đây. (như vậy là sử gia nổi tiếng Ngô Sĩ Liên, tác giả của bộ sử trứ danh Việt Nam - ĐVSKTT , đỗ tiến sĩ tại chính khoa thi này).

          - Mùa thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng tử Tư Thành sinh (sau này là Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng hiền tài trong lịch sử Việt Nam).

          - Ngày 27 (tháng 7) vua đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi.

          - Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Lệ Chi huyện Gia Định (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), bỗng bị bệnh ác rồi băng... Mọi người đều nói là Nguyễn thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi) giết vua.

          - Ngày 12 (tháng 8)... tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi (tức vua Lê Nhân Tông). Bấy giờ mới 2 tuổi. Lấy sang năm làm Thái Hòa năm thứ1 (tức năm 1443).

          - Ngày 16 (tháng 8), giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn thị Lộ, giết đến ba đời (vì bị gán cho tội âm mưu giết vua).

          - Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước Minh. Đồng tri Hải Tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và Thiêm tri thẩm hình viện Đỗ Thì Việp sang tạ ơn cho mũ áo; Thị ngự sử Triệu Thái sang tâu việc địa phương Khâm Châu; bọn Tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang; Tham tri Lê Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong.

          Sau một năm đầy biến cố như thế, khi Lê Nhân Tông lên ngôi đã đổi niên hiệu là Thái Hòa, năm thứ 1 (1443), và trong năm này, ĐVSKTT chép việc bang giao Việt- Trung như sau :

          - Tháng 11, nước Minh sai chánh sứ là Hành nhân ty hành nhân Trình Cảnh sang tế (hẳn là tế vua Lê Thái Tông).

          - Ngày 25 (tháng 11), nước Minh sai chánh sứ là Quang Lộ tự thiếu khanh, Tống Kiệt, phó sứ là Binh khoa đô cấp sự trung Tiết Khiêm sang phong vua (Lê Nhân Tông) làm An Nam quốc vương.

          - Ngày 26 (tháng 11), sai Tham tri bạ tịch là Trình Dục, Nội mật viện chánh chưởng là Trình Thanh, Hàn lâm viện trực học sĩ là Nguyễn Khắc Hiếu sang nước Minh tạ ơn việc sách phong.

          Như vậy, trong năm này (tức Thái Hòa 1, 1443) chỉ có một đoàn sứ sang nước Minh, song không thấy có tên Nguyễn Trực. Vả lại, nếu có tham gia vào đoàn sứ bộ thì ông cũng chỉ là một thành viên trong đoàn không được nêu tên mà thôi, đơn giản bởi ông vừa mới đỗ đạt, cùng lắm là mới được bổ nhiệm,con đường quan lại chưa có gì.

          Lại xem năm Diên Ninh 6 , là năm mà các tác giả cuốn CNKBVN cho là Nguyễn Trực có đi sứ Minh. Sách ĐVSKTT chép rất tóm tắt quãng thời gian 2 năm tính từ Mậu Dần, Diên Ninh thứ 5 (1458) đến tháng 9 Diên Ninh thứ 6 với mỗi sự kiện thi hội lấy bọn Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân. Sự việc chi tiết hơn với sự kiện : mùa đông, tháng 10, ngày mồng 3 (Kỷ Mão, Diên Ninh năm thứ 6, 1459), khi Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân làm cuộc chính biến cung đình, giết chết vua (Lê Nhân Tông) và cả Tuyên từ hoàng thái hậu. Đến ngày mồng 7, Lê Nghi Dân tự lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng  tính từ ngày mồng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão, 1459). Trong thời gian ở ngôi vua 8 tháng, Lê Nghi Dân chỉ có 2 sự kiện hoạt động bang giao với nhà Minh, được sách ĐVSKTT chép như sau :

          - Tháng ấy (tháng 10, năm 1459) Nghi Dân sai Lê Cảnh Huy , Nguyễn Như Đổ, Hoành Thanh, Nguyễn Nghiêu Tư sang nước Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai.

          - Ngày 20 (tháng 10, năm 1459) lại sai bọn Trần Phong , Lương Như Hộc, Trần Bá Linh sang nước Minh xin phong.

          Đến ngày mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (tức Thiên Hưng thứ 2, 1460), Lê Nghi Dân bị nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt lật đổ, bắt tự thắt cổ chết, rồi lập Gia vương Lê Tư Thành làm vua (tức Lê Thánh Tông), niên hiệu được đổi ngay sau đó là Quang Thuận khi Lê Thánh Tông lên ngôi. Như vậy, đầu năm Diên Ninh thứ 6 khi Lê Nhân Tông còn chấp chính thì không thấy chép gì về hoạt động bang giao với nhà Minh, đến khi Lê Nghi Dân cướp ngôi, có cử 2 đoàn đi sứ nhà Minh thì đều không thấy tên Nguyễn Trực. Cứ cho rằng về sau các nhà biên soạn nhầm cách gọi niên hiệu Thiên Hưng thứ 1 với năm Diên Ninh thứ 6 (vì cùng là năm 1459 theo công lịch) nên ghi là Nguyễn Trực đi sứ vào năm Diên Ninh thứ 6 thì cũng không có gì liên quan đến việc ông đỗ đạt ở bên đó. Giả thiết, ông có tham gia vào đoàn đi sứ Minh năm ấy, thì cái chuyện ông dự thi và đậu trạng nguyên với triều Minh là một sự kiện chấn động, chi ít cũng phải được ghi chép trong ĐVSKTT chứ ? Quả thật, không thể tin nổi, nếu có một sự kiện vẻ vang về uy tín cá nhân mà còn nâng tầm ảnh hưởng tới danh dự quốc thể nhường ấy, lại bị sử thần Ngô Sĩ Liên, vốn là người thi đỗ cùng khoa và làm quan cùng thời với Nguyễn Trực lại bỏ qua, không nói đến chút nào trong  bộ ĐVSKTT của mình ?

          Liệu có việc ông dự khoa thi với triều Minh và lại đậu trạng nguyên không, khi mà ĐVSKTT không hề đả động gì ?

          Gần đây, tham khảo bài viết Nguyễn Trực, tấm gương vê trí học-nhân học của tác giả Phan Tuấn đăng trên Tạp chí Xưa Nay số 287, tháng 7 năm 2007, có đoạn viết : "Năm 1444 ông (Nguyễn Trực) cùng bảng nhãn Trịnh Thiết Tường, bạn cùng khoa thi đi kinh sứ Trung Hoa , gặp khoa thi được mời dự thi, nhật kỳ thú: Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Trịnh Thiết Tường lại đỗ Bảng nhãn. Vì thế lịch sử có ghi hai ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, Lưỡng quốc bảng nhãn. Nguyễn Trực về nước được vua ban 8 chữ : "Thánh công danh văn. Bắc triều hiền ngã".

          Tra cứu sách ĐVSKTT xem năm 1444 ghi chép gì? Ấy là năm Giáp Tý, Thái Hòa năm thứ 2 (tương đương Minh, Chính thống thứ 9), thấy có chép việc khảo thí học trò bổ làm thuộc lại các ty; việc gộp làm sổ đinh ; việc sai Lê Khôi, Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh Chiêm Thành; việc bắt giam Thái phó Lê Liệt ; việc có động đất, nhật thực, nguyệt thực; và cuối năm ấy có việc đi sứ nhà Minh. Sách chép là : " Tháng 11, sai sứ sang nước Minh : Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là Lê Quát sang cống nộp hằng năm. Tham tri Đông đạo là Nguyễn Lan sang tâu việc địa giới Khâm Châu". Như vậy không hề thấy tên Nguyễn Trực và Trịnh Thiết Tường. Không hiểu tác giả bài viết trên lấy tư liệu từ đâu để khẳng định sự kiện đó? Lại càng khó tin hơn, khi tác giả này có lẽ đã nhầm với Trịnh Khiết Trường. Không có Trịnh Khiết Tường nào cùng khoa thi với Nguyễn Trực, mà chỉ có bảng nhãn Trịnh Khiết Trường. Theo sách Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam của tác giả Trần Hồng Đức biên soạn (Hội khoa học lịch sử Việt Nam-NXB Thông tin năm 1999) thì Trịnh Khiết Trường (sau này còn được tuyển làm phò mã) quê Thanh Hóa đỗ Bảng nhãn khoa thi Mậu Thìn, Thái Hòa năm thứ 6 (1448) triều Lê Nhân Tông  cùng khoa này, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ Trạng nguyên, Chu Thiêm Uy đỗ Thám hoa), tức là thi đỗ 6 năm sau Nguyễn Trực. Việc này sách ĐVSKTT cũng nói đến. Đối chiếu thêm với chính cuốn sách này của soạn giả Trần Hồng Đức, phần về trạng nguyên Nguyễn Trực, có nói ông từng đi sứ nhà Minh, song không hề nhắc gì việc ông là Lưỡng quốc trạng nguyên cả.

          Cũng có một căn cứ nữa để tham khảo sự kiện này, đó là sách Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông (NXB Văn học, 1982). Sách này có bài thơ Điếu Nghĩa Bang trạng nguyên (Viếng trạng nguyên làng Nghĩa Bang). Nghĩa Bang trạng nguyên ở đây là chỉ Nguyễn Trực, bởi ông tuy quê ở Bối Khê, Thanh Oai (Hà Tây), song từ đời cha ông là Nguyễn Thì Trung, chạy giặc Minh, đã rời sang sinh sống tại Nghĩa Bang, trấn Sơn Tây, nay thuộc Quốc Oai (Hà Tây) và sinh ra ông ở đó. Bài thơ được phiên âm là :

                   " Đời dõi nho tông phát ấp bang

                    Trong đạo đức, có từ chương

                     Nối dòng thi lễ nhà truyền báu

                    Tranh giải  khôi nguyên bảng chói vàng

                     Nam Bắc hai triều danh dậy

                     Phong lưu một cửa họ sang

                     Từ đường ở đấy niềm tây lạnh

                     Dấu cũ càng thơm xạ có hương "

          Hai câu thơ Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng/ Nam Bắc hai triều danh dậy, được các tác giả biên soạn sách là Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú giải như sau : "Nguyễn Trực ở trong nước đỗ trạng nguyên, khi phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp nhà Minh mở khoa thi, ông xin vào dự thi, lại được đỗ ca ". Như vậy, cũng chỉ là những lới phán chung chung thế thôi, chứ các soạn giả cũng không chỉ rõ được là khoa thi năm nào, đỗ cao thì cụ thể là gì (bởi từ tiến sĩ trở lên đều coi là đỗ cao). Nếu cứ cho là trong một lần đi sứ nào đó, nhân gặp khoa thi ông có ứng thí tại một khoa thi dưới triều Minh, rồi đỗ đạt thật, thì cũng khó có thể là trạng nguyên, bởi Trung Hoa từ xa xưa luôn tự xưng là Thiên triều, coi các quốc gia lân bang, trong đó có An Nam chỉ là chư hầu (bằng chứng là việc các vua Việt Nam thường bị các vua Trung Hoa phong cho là An Nam quốc vương và ta luôn phải giữ lệ cống nộp hằng năm) , là man di mọi rợ, và với bản tính tự cao tự đại cố hữu, thì vua Minh cũng chẳng thể chấp nhận việc cho sứ thần chư hầu đỗ trạng nguyên (mặc dù họ có thật sự xuất sắc, đáng đỗ trạng nguyên đi chăng nữa).

          Thêm nữa, ngay trong phần Lời nói đầu, các tác giả biên soạn HĐQATT cho biết, sách này là một tập thơ chỉ được sưu tầm về sau, chứ không phải được biên soạn từ thời Hồng Đức, vì thế ở trong sách có sự lẫn lộn một số bài thơ của người đời sau, chẳng hạn như của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Căn. Điều này làm cho độ tin cậy của sách này ít nhiều giảm đi, nhất là khi đem căn cứ từ thơ vịnh để suy ra sự thật lịch sử.

          Nguyên việc Nguyễn Trực có phải là Lưỡng quốc trạng nguyên không, thì theo sử cũ, duy có bộ LTHCLC của Phan Huy Chú là có nói đến, song lại không ghi rõ năm nào, khoa thi nào của triều Minh. Quả là khó biết, khi biên soạn sách, phần về Nguyễn Trực, tác giả Phan Huy Chú đã lấy nguồn từ đâu để viết vào sách của mình việc Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên? Cứ căn cứ ngay chính phần Phan Huy Chú biên soạn thì cũng có thể thấy, về sự kiện đó, tác giả cũng không tường nên chỉ nói chung chung vậy, chứ không dẫn dụ được năm tháng, khoa thi xảy ra sự việc đó. Thế nên, khi Ngô Sĩ Liên là người cùng thời đó còn không viết gì trong bộ ĐVSKTT của mình, thì ai dám chắc, hơn 300 năm sau, Phan Huy Chú chính xác trong việc ghi lại sự kiện tày trời đó. Phải chăng, khi ấy Phan Huy Chú cũng chỉ ghi từ giai thoại dân gian mà thôi. 

          Có một điểm khá thống nhất, các sách đều viết rằng Nguyễn Trực là một người sống thanh khiết, không xu thời, lánh xa vinh hoa phú quý. Hẳn vì thế, nên mặc dù đỗ trạng nguyên, song quan lộ cũng không mấy hanh thông, lại càng kém hơn so với hai vị cùng khoa là Nguyễn Như Đổ và Lương Như Hộc. Tìm trong sách ĐVSKTT, người ta có thể thấy được sự thăng tiến vinh hiển vượt bậc của hai vị kia, thì riêng ông, chỉ được nhắc đến có 3 lần. Ấy là, vào năm Kỷ Tỵ, Thái Hòa thứ 7, 1449, ông được làm Hàn lâm viện thị giảng; vào năm Canh Thìn, Quang Thuận thứ 1, 1460, vua Lê Thánh Tông sai ông cùng với Nguyễn Bá Kỳ soạn văn bia Mục lăng (tức lăng vua Lê Nhân Tông) ; và vào năm Kỷ Sửu, l469 , vua lấy ông khi đó là Hàn lâm viện thừa chỉ , cùng với Vũ Vĩnh Ninh, Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm Độc quyển kỳ thi hội năm ấy.

          Thật tiếc, tác giả bài viết này chưa có điều kiện để tra cứu thêm Minh sử  (hoặc những sách và tài liệu khác) nhằm xem các sử gia Trung Hoa có biết gì và viết ra sao về sự kiện này không?

          Thiết nghĩ, trong khi việc xác nhận Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên chưa đầy đủ cơ sở, mà việc bác bỏ cũng chưa mấy thuyết phục, thì chúng ta cứ xem Nguyễn Trực từng là Lưỡng quốc trạng nguyên đi. Âu như một giai thoại dân gian, như chuyện kể về Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Chân (chuyện dân gian Tống Chân - Cúc Hoa), hoặc giả như rất nhiều những câu chuyện trạng dân gian khác, và xem đó như một câu chuyện khuyến học, khuyến tài cho hậu thế. Vậy cũng là hữu ích. Còn như nghiên cứu, viết sách thì lại là việc làm khoa học, cần nghiêm túc, cẩn trọng và chính xác, nên mong rằng các học giả hãy thận trọng với sự kiện này khi viết về Trạng nguyên Nguyễn Trực.

          Đã là người thiên cổ, được sử sách ghi danh, lại xa cách chúng ta  những gần 600 trăm năm rồi, hẳn là Nguyễn Trực cũng không vui khi hậu thế tôn là Lưỡng quốc trạng nguyên, mà cũng chẳng buồn khi không phải vậy !

          Về với thiên nhiên, ông như cây cỏ, mưa xuân thì mọc !...

 

3. Thơ văn còn lại những gì ?

 

Về Trạng nguyên Nguyễn Trực, tôi còn muốn tìm xem những bài thơ của ông lưu truyền hậu thế. Hy vọng qua đó, phần nào hiểu thêm con người ông, từ tính cách thanh cao đến tâm trạng xa lánh vinh hoa và muốn lui về ở ẩn của ông.

          Thật may. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần Văn tịch chí có nhắc đến 3 tập thi văn của Nguyễn Trực, đó là Vu liêu tập, Ngu nhàn tập, Kinh nghĩa chư văn tân tập, song đều  ghi chú là không rõ mấy quyển. Sách này còn chép : "Trạng nguyên Nguyễn Trực soạn, học trò biên sắp. Cả tập mất nhiều, nay còn vài chục bài. Lời và ý thanh nhã đáng ưa". Sách liệt kê 4 bài, nay xin chép cả ra đây để tiện cho việc tham khảo, bình luận :

         

          Bài 1:  Ngẫu tác

                    Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu kinh

                    Quy kế như kim nhất vị thành

                    Hà nhật Tây Sơn sơn hà lộ

                    Soa y tiểu lạp khán xuân xanh .

          (Dịch)

                    Có bệnh, nhờ ơn vua lưu lại ở Kinh,

                    Tính đường về mãi mà đến nay vẫn chưa được,

                    Biết ngày nào được đi con đường ở dưới chân núi Tây Sơn,

                    Đội nón nhỏ, mặc áo tơi, đi xem cày ruộng mùa xuân.

 

          Bài 2 : Bính Tuất ngâm

                    Đại đình tằng đối tam thiên tự,

                    Phù thế hư kinh ngũ thập niên,

                    Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh

                    Chí nhân đa bệnh ức điền viên.

          (Dịch)

                    Ở sân vua từng làm bài đối sách ba ngàn chữ,

                    Giật mình về việc đã năm mươi năm trời đuổi theo

                    cái hư danh của thời thế,

                    Chỉ vì lắm bệnh, nhớ cảnh điền viên.

 

          Bài 3:  Đề chùa Cực Lạc (thuộc Ý Yên, Nam Định)

                     Đột ngột vân gian tự,

                     Nhân sinh kỷ độ qua ?

                     U nham tàng Phật tích,

                     Tiếu bích ỷ tăng gia.

                     Địa viễn phi trần thiểu,

                     Sơn cao đức nguyệt đa,

                     Thượng nhân lưu khách túc

                     Ổi vụ hựu phanh trà.

          (Dịch): 

                       Chùa cao chót vót ở trên mây

                        Bởi người dễ mấy lần được đến

                        Hang sâu dấu vết Phật

                        Vách núi dựa nhà tăng,

                        Xa đất nên ít bụi,

                        Trên cao được trăng nhiều.

                        Nhà sư lưu khách lại,

                        Nướng khoai lại pha trà.

         

          Bài 4 :   Lên chùa Hương Lô

                       Tằng tằng đăng nghiễn lộ,

                       Thừa hứng yết kim tiên,

                       Diệu khế tam sinh mộng,

                       Do tồn nhất lũ yên.

                        Lâu đài phi thế hữu,

                        Thảo mộc đắc xuân thiên.

                        Du mục phù vân ngoại,

                        Mang mang thị Đại thiên.

 

          (Dịch):  

                         Tằng tằng đường leo núi,

                         Thừa hứng lên yết Phật,

                         Khéo hợp mộng ba sinh,

                         Vẫn còn một tia khói.

                         Lâu đài này không phải người trần có được,

                         Cỏ cây lúc nào cũng mùa xuân.

                         Đưa mắt ngoài mây nổi,

                       Mông mông ấy thế giới Tam thiên.

          Có lẽ trong số 6 bài thơ còn lại được chép trong bộ Toàn Việt thi lục (TVTL) có 4 bài này. Nhìn chung, đều mang tâm trạng muốn rời xa chốn quan trường lui về ở ẩn chốn sơn lâm, chữa bệnh, tu dưỡng tinh thần, nuôi dạy con cái, gõ đầu trẻ, và chăm lo việc thiện.... Cũng có thể xem như thái độ "trốn việc quan đi ở chù " vậy .

          Học giả Phan Huy Chú sau khi dẫn dụ rằng, đến thời Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, nhờ văn chương nên Nguyễn Trực càng được vua yêu, được bổ làm quan to (Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh), song ông vẫn mấy lần xin về ở ngôi nhà tranh ở Tây Sơn mà vua không cho, nên mới có gửi gắm nỗi niềm tâm sự vậy. Qua đó, Phan Huy Chú bình : "Xem đấy đủ rõ phong độ và tiết tháo của ông ". Sách dẫn tiếp : "Ông đỗ đầu đại khoa, ra làm quan mà coi rẻ công danh, thường có ý muốn chóng về. Thân Nhân Trung (một thành viên trong Nhị thập bát tú , Phó súy Tao đàn thời Hồng Đức) có khen ông là: Lấy văn chương được các triều tri ngộ mà khiêm tốn kính cẩn giữ vẹn sau trước . Thực là lời phê bình xác đáng ".

          Quả là sau những lời bình của các bậc danh tài túc nho như vậy, há không cần bình phẩm gì thêm. Tuy nhiên, nếu truy nguyên để bồi đắp thì hẳn cũng không thừa ?

          Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn , quyển V-Tài phẩm, thấy chép về Nguyễn Trực : "Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên lúc còn ít tuổi, giao thiệp đối đáp với sứ nhà Minh là Hoàng Gián, một lúc họa xong 50 vần thơ lưu biệt, có thể giữ được thể diện trong nước. Nhân Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà vẽ tượng truyền thần, để ở bên cạnh chỗ ngồi, để tỏ ra rằng không lúc nào quên được. Thánh Tông sai người đem bộ Thiên Nam dư hạ tập (tập thơ của Lê Thánh Tông) đến chỗ ở là đình Hoàn Bích để tiện phê duyệt. Đều là sủng ngộ đặc biệt ".

          Được những hai vị vua sủng ái như vậy thì cũng là hiếm, vậy sao ông vẫn muốn sớm cáo bệnh lui về ở ẩn với nếp sống thanh nhàn? Phải chăng, ngay chính năm ông đỗ trạng nguyên thì đã xảy ra liên tiếp các sự kiện kinh thiên động địa  như đã liệt kê ở phần 2) khiến ông sớm kinh hãi rồi sinh chán ngán chốn quan trường? Tài danh và công lao nhất mực như Hành khiển Nguyễn Trãi còn bị vu oan tru di đến 3 đời; các công thần từ thời Lê Thái Tổ thì tranh giành quyền lực, thanh toán lẫn nhau theo cái lối do chính Thái Tổ sử dụng là hết thỏ thì đập chó săn; rồi các phi tần thì ngấm ngầm lôi kéo quan lại và nội thị kết thành bè cánh tranh giành ảnh hưởng nhằm tiêu diệt nhau để ngoi lên? Ngay trong triều, thấy những quan lại đồng khoa, và sau mình (như Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc, Nguyễn Nghiêu Tư...) thăng trầm quan lộ, có thể làm ông ngán ngẩm?

          Lại nữa, cũng có phần ông chịu ảnh hưởng di truyền và cả sự dạy bảo từ các bậc tiền bối, nhất là cha mình, Nguyễn Thì Trung vốn là Giáo thụ trong Quốc Tử Giám? Sách KVTL, học giả Lê Quý Đôn chép về người cha của Nguyễn Trực: "Nguyễn Thì Trung, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, dưới triều nhà Trần, ông tổ tên là Hữu, giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm hình viện sứ, cha tên là Bính, giữ chức nho học Huấn đạo. Thì Trung là người có văn học, nối dõi được gia phong...  Sau khi Thái Tổ đã bình định được cả nước, hào kiệt, nho sinh, văn sĩ các lộ đều tranh nhau đến bái yết, kẻ trước người sau đều được trao cho quan chức, chỉ có Thì Trung có ý nhạt nhẽo không cầu hiển đạt làm quan. Đến đầu triều Thái Tông, hạ chiếu tìm hỏi những hiền tài còn bị bỏ rơi, nghe biết ông là người có văn học đức hạnh, nhà vua ra đặc chỉ tuyên triệu, hạ lệnh cho sở tại cố khuyên mời ông đến kinh sư, cho giữ thư khố ở Quốc Tử giám, mùa thu năm thứ 2 (1435) nhà vua ngự điện Hội Anh, ra bài thi, ông dự thi được trúng cách, cho thăng một tư, giữ chức Thị thư ban, sau thăng chức Giáo thụ trong Quốc Tử giám. Chưa được bao lâu, liền xin thôi làm quan, lui về ở chốn lâm tuyền, giảng sách dạy con, vui vẻ tự do, xa gần nhiều người theo học. Lúc mất, đặt tên thụy là Như Ngu cư sĩ (chữ Ngu ở đây được hiểu là sự yên vui - TG )... Văn chương của Nguyễn Thì Trung tuy không lưu truyền hết, nhưng xem bài thơ tiễn viên giáo thụ họ Trình về trí sĩ và một bài khi ông về trí sĩ lưu lại để từ biệt viên giám sinh họ Hồ cũng có thể tưởng tượng biết được phong vận thơ văn của ông ".

          Đã rõ ràng, qua phần chép và bình phẩm của Lê Quý Đôn, ngay từ trứng nước, Nguyễn Trực đã thừa hưởng di truyền tố chất để làm nên bản tính thanh cao từ bậc cha ông, thêm vào đó, sự dạy dỗ tận tình của người cha đã sớm định hình phẩm chất cao quý trong con người Nguyễn Trực. Không những ông không xu thời và biết xa lánh bả quyền quý vinh hoa, Nguyễn Trực còn có một phẩm chất đáng quý khác là ông không đố kỵ, biết tôn trọng và nâng đỡ người khác, kể cả khi họ chỉ là bậc dưới về mọi phương diện.  Sách KVTL của Lê Quý Đôn chép :"Lê Hoằng Dục, con Thái phó Lê Văn Linh, học vấn rộng khắp đầy đủ, thơ từ thanh cao phóng khoáng... thường cảm hứng làm 10 bài thơ Giang thành ngẫu thành, lúc Thánh Tông còn ở phủ đệ phiên vương, lấy làm thích lắm, theo vần họa lại, sau khi lên ngôi vua hạ lênh cho từ thần là Nguyễn Trực phê bình, phần nhiều khen ngợi ...". Cũng sách này còn chép: "Bản triều lại có Nguyễn Bảo (người xã Phương Lai, huyện Vũ Tiên, nay thuộc Thái Bình)  đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472) niên hiệu Hồng Đức. Trung thư lệnh là Nguyễn Trực yêu thích văn chương của Nguyễn Bảo, tìm đến xem mặt và nói : ‘Già này chấm văn kỳ đệ nhị, mãi sau được chấm bài của ông, về lời lẽ bài chiếu "phục lập phó bí" (dựng lại bia đã đánh đổ , tài tình ở chỗ nói rõ được bụng ăn năn hối lỗi của Đường Thái Tông, các sĩ tử không thể theo kịp được, già này nêu rõ ra là bài ấy đứng vào hàng văn kiệt tác. Từ nay về sau, nghĩa lý trong Kinh sách thánh hiền, ký thác vào ông cả"... Quả nhiên, sau này Nguyễn Bảo rất hanh thông về quan lộ, thăng đến chức Thượng thư bộ Lễ, giữ chức ở viện Hàn lâm dưới triều Lê Hiến Tông, có đóng góp nhiều cho triều chính.

          Truyền thống nho gia nhiều đời tiếp nối qua ông đến tận con cháu. Cháu ngoại của Nguyễn Trực là Nguyễn Ích Tốn, hẳn là được thừa hưởng từ ông ngoại mình không những sự di truyền mà cả sự giáo dưỡng. Nguyễn Ích Tốn đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 15 (1483), cũng là một thành viên trong Nhị thập bát tú của Tao đàn  do chính Lê Thánh Tông làm chủ súy dưới thời Hồng Đức (Theo sách Hồng Đức quốc âm thi tập - NXB Văn học,1982).

          Có một việc, theo tôi cũng nên xác định cho rõ, đó tên tác phẩm của Nguyễn Trực được các sách chép khác nhau. Không kể các tác phẩm Ngu Nhàn tập, Kinh nghĩa chu văn tân tập, và văn bia Mục lăng (soạn cùng Nguyễn Bá Kỳ theo lệnh của vua Lê Thánh Tông) thì tên một thi văn tập khác của ông lại được chép khác nhau. Cụ thể là :

          - Vu liêu tập (Theo sách LTHCLC của Phan Huy Trú).

          - Trừ liêu tập (Theo sách Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam của nhóm Đinh Xuân Lâm -Trương Hữu Quýnh biên soạn).

          - Hu liêu tập (Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam của nhóm Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga-Nguyễn Hữu Mùi biên soạn). Sách này còn đống nhất Hu liêu tập với Bối Khê thi tập  là một .

          Thậm chí, có sách còn chép là Sư liêu tập. Vậy thì tên gọi nào là đúng? Rất tiếc là phần lớn các sách, khi biên soạn xuất bản, đều không kèm mẫu tự chữ Hán, mà chỉ có tên Hán Việt phiên âm mẫu tự Latin, nên thật khó tra cứu. Trong số các sách dẫn ra đây, duy bộ Các nhà khoa bảng Việt Nam là có in kèm tên bằng mẫu tự chữ Hán (chép đủ cả tên chính Nguyễn Trực, tên tự Công Đĩnh, hiệu Hu Liêu, tên tác phẩm- Hu Liêu tập). Căn cứ vào mẫu tự chữ Hán, tra cứu Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, thì không phải là Hu, mà phải đọc là Vu (chỉ tên một loài cây xấu, không dùng làm được việc gì, còn có nghĩa bóng để chỉ loại người vô dụng) ; còn chữ Liêu, cũng theo từ điển nêu trên, có nghĩa là cửa sổ nhỏ-mà cũng chỉ việc làm quan cùng nhau (ví như : đồng liêu - cùng làm quan với nhau ).

          Nếu căn cứ vào đó, thì tên hiệu của Nguyễn Trực là Vu liêu (chứ không phải là Hu Liêu). Có lẽ đây là một cách lấy tên hiệu kiểu tự biếm, tự nhận mình là người vô dụng, thể hiện bản chất khiêm nhường, muốn xa lánh chốn đình trung của Nguyễn Trực chăng? Cùng với hiệu là Vu liêu, thì tác phẩm là Vu liêu tập. Điều này đúng với cách gọi trong sách LTHCLC của Phan Huy Chú ./.

 


Nhận xét