CHÂN DUNG TÔ HOÀNG (văn bản cập nhật)


 

@@@


TÔ HOÀNG -

cần mẫn mót nhặt những nỗi buồn và vẻ đẹp Nga

(Nguyễn Chu Nhạc)

 

        Mùa thu năm 2020, lần đầu tôi gặp mặt nhà văn Tô Hoàng,

          Khi ấy dịch Covid 19 đang lan tràn toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, Hội Nhà văn Việt Nam vẫn cố gắng mở trại sáng tác hằng năm tại Đà Lạt. Trại viên hơn hai chục người, những cái tên như Võ Thị Xuân Hà, Trần Thị Trường, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyên An, Phạm Hồ Thu, Y Ban, Tôn Phương Lan, Lê Đăng Hoan, Phạm Đình Ân, Vương Tâm, Phạm Thanh Khương, Nguyễn Linh Khiếu, Trần Quang Đạo,… Nguyễn Hiếu tưng tửng: “Nghe nói, còn ông Tô Hoàng ở Sài Gòn, gần tám chục sọi, lên muộn”. Tôi nghe vậy thôi, biết tên ông nhà văn này nhưng ít đọc và cũng chưa biết mặt. Sáng khai mạc trại, Tô Hàng xuất hiện, cao to, nhanh nhẹn, nói năng khoát đạt, không mấy giống một ông già chạm ngưỡng bát tuần. Ông phát biểu hay, có mấy điều tôi tâm đắc và tôi có thiện cảm với Tô Hoàng từ đấy. Ông ở chung phòng với nhà thơ Phạm Đình Ân. Những ngày ở trại viết, tôi hay ghé phòng ông chuyện phiếm và cũng hay rủ ông đi cà phê bàn chuyện văn chương cùng các nhà văn Nguyễn Hiếu, Y Ban, Phạm Thanh Khương,…

          Những tưởng vậy thôi, song như một lẽ đương nhiên, ông và tôi trở thành người trò chuyện tâm giao. Dù hơn tôi những 16 tuổi, nhưng ông coi tôi như người em út, tháng nào cũng dăm ba lần ông gọi điện từ thành phố Hồ Chí Minh, chuyện văn chuyện đời đủ cả. Cũng từ đây, tôi chăm đọc Facebook của ông với nhiều bài viết hay, và ông cũng hay gửi cho tôi đọc những bài viết của ông hoặc của người khác mà ông cho là bổ ích, nên đọc… Đã dăm năm như vậy, con người ông, từ văn chương đến cuộc đời dần hiện rõ trong cái nhìn của tôi,…

          Tô Hoàng quê làng Xuân Cầu, Nghĩa Trụ, Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (cũ), một làng quê văn vật nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ (cùng đó là làng Hành Thiện, Nam Định, làng Đình Bảng, Bắc Ninh, làng Mộ Trạch, Hải Dương, làng Đường Lâm, Hà Tây,…). Ông sinh năm 1941, tuổi Tân Tỵ, tại thành phố Nam Định (cũ), gia đình thuộc diện viên chức bậc trung. Thời kháng chiên chống Pháp, gia đình ông chuyển vào sinh sống ở vùng tự do Khu 4, đến cuối năm 1954 thì trở về Hà Nội. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, Tô Hoàng xung phong nhập ngũ, là quân của Sư đoàn 316 Tây Bắc (còn có Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đình Ảnh, Vương Trí Nhàn…). Do có năng khiếu văn chương nên từ 1965-1966, Tô Hoàng được cử đi học lớp bồi dưỡng văn nghệ sĩ cho chiến trường tại Trường Tuyên giáo trung ương, cùng với một số văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà viết kịch Ngô Y Linh, nhà điêu khắc Diệp Minh Châu… Tô Hoàng làm trợ lý ở Phòng Chính trị thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh (pháo mặt đất). Năm 1968, được cử vào Vĩnh Linh – Đường 9, thời gian này ngoài viết tin bài, Tô Hoàng sáng tác được nhiều truyện ngắn, bút ký đăng tải trên báo Văn Nghệ và tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đến mùa hè năm 1969, Tô Hoàng vào mặt trận Tây Nguyên và ở đó đến tận tháng 3 năm 1973. Trong quãng thời gian này, ông hai lần được bầu là Chiến sĩ Thi đua do xông xáo, dũng cảm, hoạt động hiệu quả. Sau chiến thắng 30.4.1975, chuyển ngành nhưng mong muốn trở thành người của tạp chí Văn nghệ Quân đội không thành, Tô Hoàng về đầu quân ở Xưởng phim Quân đôi nhân dân. Hơn một năm sau, Tô Hoàng thi và trúng tuyển đi nước ngoài học chuyên ngành Đạo diễn phim Phóng sự Tài liệu tại Đại học quốc gia Điện ảnh Liên Xô (VGIK) từ 1979 đến1985.

          Năm 1986 tốt nghiệp VGIK về nước, Tô Hoàng chuyển ngành, vào Tp. Hồ Chí Minh viết báo, phê bình điện ảnh và làm phim tài liệu. Ông đã lam hơn chục phim tài liệu nhưa và truyền hình, trong đó đang kể là pjim tài liệu “Hồ Chí Minh-nguồn cảm hứng sáng tạo” 3 tập, đoạt giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam ở Tuy Hòa (2012), Bên cạnh đó, công trình lý luận điện ảnh bằng phim “Có một thế giới khác được nhìn qua ống kính” được trao giải Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Nam ở Vinh (năm 1999)… Về lĩnh vực điện ảnh, cho đến nay, Tô Hoàng còn có hơn hai mươi năm giảng dạy tại Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội và Đại học Sân khấu Điện ảnh Tp. Hồ Chí Minth

   Tô Hoàng viết nhiều thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, chân dung văn học, tiểu luận và phê bình văn học, phê bình điện ảnh và địch thuật. Có thể kể đến một số tác phẩm đã xuất bản tiêu biểu của ông như “Ngửa mặt kêu trời” (NXB Hội Nhà văn, 1991),” Một thế giới khác được nhìn qua ống kính” (NXB Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 1999),  “Quanh năm là tháng Bảy” (NXB Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 2001), “Nỗi buồn lâu quên” (NXB Hội Nhà văn, 2014), “Đường xa gánh nặng, NXB Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh, 2014”, “Số một và số nhiều” (NXB Hội Nhà văn, 2015), cùng nhiều tác phẩm dịch thuật. Trong số đó, đàng kể là tiểu thuyết “Ngửa mặt kêu trời” được ông khởi thảo từ khi còn hoạc tập ở Liên Xô cũ. Ở vào thời điểm đó, Tô Hoàng đã nhận ra và đưa vào tác phẩm của mình một vấn đề lớn có tính dự báo, ấy là sự bất hợp lý và trì trệ của mô hình kinh tế kế hoạch và quản lý xã hội tập trung dẫn đến sự rạn nứt, đổ vỡ của Liên Xô sau đó.

Đọc văn của Tô Hoàng, dù qua tác phẩm đã xuất bản, đăng báo hay tạp chí và cả ở trang cá nhân trên mạng xã hội, khiến tôi ấn tượng và yêu thích ở mấy điểm sau:

Thứ nhất,  chuyện chiến trường, đúng ra là những hồi ức về chiến tranh mà ông kể lại với tư cách một người lính trực tiếp tham gia, cầm súng và cầm bút ở mặt trận Bắc Tây Nguyên thời chiến tranh chống Mỹ Ngụy. Chuyện chiến trường thì nhiều lắm, vui có buồn có, đầy rẫy gian khổ hy sinh, đói khát đồ ăn thức uống và cả chuyện tình cảm nam nữ… Đặc biệt, ám ảnh bởi chuyện về những người linh ở tổ “thọc sâu” (mũi nhọn) lấy sắt ống bơ đục khắc tên mình giấu trong người trước mỗi trận đánh phòng khi hy sinh thì đồng đội còn phân biệt nhận diện làm công tác tử sĩ. Và chuyện nữa, ấy là chuyện về sex của lính, cả ta và địch, một nhu cầu sinh lý bản năng thường tinh rất con người, bi hài có cả, giận mà thương, thương mà giận.

Thứ hai, ấy là mảng chân dung văn học. Phải công nhận, Tô Hoàng là một người có tài khắc họa chân dung bạn văn và các cây bút văn chương. Ông bắt được thần thái và bằng một giọng điệu nhẹ nhàng, hóm hỉnh, kể chuyện pha chút bình luận, ông “phảy” ra ngay diện mạo và tính cách nhận vật của mình. Qua ngòi bút của ông, các nhà văn tên tuổi cùng thế hệ hiên lên sinh đông, như Chu Cẩm Phong, Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khắc Phục, Nghiêm Đa Văn,… Và cũng vậy, các cây bút thế hệ sau  như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Hàng Tỉnh… được ông nâng niu, trân quý.

Thứ ba và nổi bật nhất, ấy là mảng Dịch thuật. Tô Hoàng không chủ tâm dịch tác phẩm văn học nước ngoài như nhiều nhà dịch thuật khác, mà ông đặc biệt yêu thích và tim tòi, chọn dịch rất thành công  những bài viết mang tính tư liệu, tiểu luận và chân dung các nhà văn, các nhà điện ảnh, hội họa, nghệ thuật ba-lê, trong đó xuất sắc hơn cả là các vị thuộc nền văn học nghệ thuật Nga-Xô viết như X Pushkin, M. Lermontov, A. Tsekhov, I. Turgeniev, I. Bunin, M. Gorky, L. Tolstoi, S. Esenin, A. Akhmatova, K. Paustovsky, I. Levitan, I. Erenburg, M. Solokhov, A Fadeev, K. Fedin, A. Tolstoi, B. Paternasc, K. Simolov, Y. Bondarev, E. Evtusenko…  và các nhà thơ Nga hải ngoại đoạt giải Nobel văn học như A. Solzhenitsyn, I. Brodsky. Qua những bài viết mang tính tư liệu và hậu trường văn chương này, người đọc thấy được cội nguồn sâu xa của tác phẩm, những câu chuyện rắc rối bên lề, những góc khuất éo le, những khúc mắc văn chương và ngoài văn chương nan giải liên quan đến cuộc đời thân phận các văn nghệ sĩ cùng với tác phẩm của họ. Cũng ở đó, vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người hiện lên khi phảng phất khi đậm nét, vô cùng sinh động. Vậy nên, nói Tô Hoàng là người cặm cụi, cần mẫn mót nhặt, gom góp những nỗi buồn và vẻ đẹp Nga là thế. Những nỗi niềm và sắc thái ấy tồn dư đâu đó trong những mảnh vỡ của quá khứ vương vãi đến giờ. Một việc không khó nhưng chẳng dễ chút nào, bởi ở ta, nay còn mấy ai quan tâm, chịu làm và làm hay phi Tô Hoàng?

Giờ ở tuổi U 90, hàng ngày Tô Hoàng vẫn chăm chỉ làm việc, không chỉ lục lọi mọi ngóc ngách để truy tìm quá vãng mà ông còn rất chi là thời sự. Để ý, mấy năm nay, hầu như ông không bỏ qua một sự kiện văn chương điện ảnh nổi bật nào của nước nhà mà không tham góp ý kiến bày tỏ quan điểm, góc nhìn riêng của mình, xác đáng, chân thành và đầy sức thuyết phục,  ví như gần đây, về tác phẩm văn học và điện ảnh “Mưa đỏ”, tác phẩm “Thuyền” của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đức Tùng, tác phẩm điện  ảnh “Quán Kỳ Nam” và cuộc tranh luận về tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Nịnh khi nó là một trong số 50 tác phẩm văn học nghệ thuật được Bộ Văn hóa và Thể thao chọn trao giải thưởng (1975-2025).

Với riêng tôi, kể từ khi làm quen và giao du với Tô Hoàng, ông luôn coi như một cậu em nhỏ quý mến. Hễ có sự gì, về văn học nghệ thuật và đời sống xã hội, khi cần bày tỏ nỗi lòng hay ý kiến này nọ, muốn sự tham góp của tôi là ông bốc máy alo. Và tôi, mỗi khi vậy, bắt máy ông, tôi đều có ý hóng chờ một ý kiến chân thực từ ông.

Tô Hoàng, người đàn anh đáng kính của tôi!






Nhận xét