Năm nào cũng vậy, cứ áp tết, dù bận rộn đến mấy, tôi
đều cố thu xếp thời gian về quê ngoại biếu tết. Trước là dâng lễ vật lên bàn
thờ tổ tiên bên ngoại, thứ là thăm hỏi cậu út tôi, người đang trông coi ngôi từ
đường dòng họ Cao bên ngoại tôi. Có một điều tự sâu thăm lòng tôi, ấy là tôi
thăm lại "vườn cổ tích", tìm bóng dáng bà ngoại tôi và cả hình bóng
cậu bé con ngày xưa, ấy là tôi...
Vâng, "vườn
cổ tích" là thửa đất vườn rộng 5 sào Bắc bộ, với ao chuôm vườn tược
rợp bóng cây xoan, ổi, bưởi, hồng, na, táo, khế, chuối, dong giềng, lá dong...
Ở giữa ngôi vườn rợp bóng cây ấy là ngôi nhà ngói cổ, cửa bức bàn, hiên rộng có
dại tre. Cùng đó là mảnh sân lát gạch Bát Tràng rộng, bể nước nửa chìm nửa nổi,
giếng khơi, dàn trầu không xanh tốt dưới bóng hàng cau cao vút. Rồi nữa, những
cây hoa cảnh như tường vi, ngâu, lựu, trạng nguyên, vạn tuế... Mùa nào thức ấy,
đủ để ngày ngày bà ngoại hái mang thắp hương trên bàn thờ tổ tiên...
Chủ nhân " vườn cổ tích" ấy là bà ngoại tôi. Về làm dâu từ năm 18 tuổi, bà ngoại tôi là dâu trường cùa dòng họ Cao thôn Un Xá. Sau mười lăm lần sinh nở, con cái nuôi đến trưởng thành còn 9 người. Khi ở độ tuổi ba mươi, sau một cơn bệnh thiên đầu thống, bà ngoại tôi bị lòa hai mắt. Mắt lòa, bà ngoại tôi vẫn sòn sòn năm một, ba năm đôi... Mẹ tôi là thứ hai, nhưng con gái lại là lớn nhất. Mẹ thừa hưởng nét đẹp, nết đảm đang, tần tảo, hiền dịu nơi bà ngoại tôi. Những năm gia đình tôi còn ở Hà Nội, hàng năm, chỉ vào dịp nghỉ hè, mấy chị em chúng tôi mới được về thăm quê ngoại. Sau này, khi về hẳn quê sinh sống, chúng tôi hay được sang bên ngoại hơn. Nhưng thú vị, đáng nhớ nhất, vẫn là tết quê ngoại.
Chủ nhân " vườn cổ tích" ấy là bà ngoại tôi. Về làm dâu từ năm 18 tuổi, bà ngoại tôi là dâu trường cùa dòng họ Cao thôn Un Xá. Sau mười lăm lần sinh nở, con cái nuôi đến trưởng thành còn 9 người. Khi ở độ tuổi ba mươi, sau một cơn bệnh thiên đầu thống, bà ngoại tôi bị lòa hai mắt. Mắt lòa, bà ngoại tôi vẫn sòn sòn năm một, ba năm đôi... Mẹ tôi là thứ hai, nhưng con gái lại là lớn nhất. Mẹ thừa hưởng nét đẹp, nết đảm đang, tần tảo, hiền dịu nơi bà ngoại tôi. Những năm gia đình tôi còn ở Hà Nội, hàng năm, chỉ vào dịp nghỉ hè, mấy chị em chúng tôi mới được về thăm quê ngoại. Sau này, khi về hẳn quê sinh sống, chúng tôi hay được sang bên ngoại hơn. Nhưng thú vị, đáng nhớ nhất, vẫn là tết quê ngoại.
Năm nào cũng vậy, chiều mồng Tết, sau lễ cúng đầu năm
tại gia và thưm hỏi chúc tết hàng xóm láng giềng, thân tôi bên nội, chiều mồng
một, năm thì bố năm thì mẹ tôi cho tôi về tết bên ngoại. Hai quê cùng huyện,
khác xã, tuy liền nhau nhưng phải băng qua mấy cánh đồng rộng nên chặng đường
xa chừng sáu, bảy cây số. Cứ men theo đường, theo bờ sông, rồi tắt ngang cánh
đồng mà đi. Ấn tượng giờ tôi vẫn nhớ là cánh đồng trống không sau gặt, được cày
ải rồi ngả nước, lồng lộng gió bấc giá rét, là ngôi quán cổ thâm u dưới bóng đa
buông đầy rế dầy vẻ ma quái, những bãi tha ma làng nhấp nhô mộ cổ lẫn trong đám
dứa dại um tùm. Nhớ là, khi ngang qua, tôi sợ rúm người, líu ríu nép vào bố,
mẹ. Khi rặng tre làng ngoại hiện ra thì niềm vui khôn tả dâng ngợp lòng tôi,
khiến tôi bứt ra chạy lên phía trước tung tăng tỏ vẻ thạo đường.
Chiều mồng một tết, năm nào cũng có bác trưởng, cậu
thứ ở Hà Nội về tết sớm. Vì theo lệ, ngày mồng hai tết, các con cháu dâu rể mới
tề tựu về chúc tết bà ngoại tôi. Tôi bà vài đứa em con dì con cậu chơi với
nhau, tha thẩn tầm quả trong vườn, lẩn thẩn tìm trong đám sắc pháo tươi hồng vương
vãi xem quả pháo lẻ nào còn sót mang ra đốt đì đẹt. Đêm ấy, nhà chật người ngủ.
Bà ngoại tôi, bố ( hoặc mẹ ) tôi và mấy bác, cậu, dì trò chuyện thâu đêm. Tôi
cuộn mình trong chăn ấm, nghe lỏm chuyện người lớn rồi thiếp đi trong giấc mơ
đẹp, để sáng sớm mồng hai, bà ngoại tôi hô hào mọi người dậy để làm cỗ...Trưa
mồng hai, ăn cỗ đến mấy chục người. Riêng đám trẻ con được bà ngoại tôi gọi
từng đứa một, bà xoa đầu sờ nắn xem chúng tôi lớn hơn năm trước bao nhiêu, mừng
tuổi mỗi đứa vài hào... Đôi mắt lòa của bà nhòa lệ vì vui... Chiều mồng hai, rời
quê ngoài về nhà, tôi cắm cúi đi nhưng chốc chốc ngoái đầu nhìn lại quê ngoại
cứ xa dần, và lòng đã ước ao chờ tết năm sau...
Sau này, cậu út tôi vẫn giữ nếp họp mặt anh chị em,
con cháu vào mồng hai tết. Có năm đông, người về hơn cả trăm người, ăn hơn chục
mâm cỗ tết. Đông vui bao nhiêu, lại ôn lại chuyện xưa bấy nhiêu. Với tôi, thăp
hương khấn các cụ bên ngoại, tôi đều khấn riêng bà ngoại và dường như đâu đấy
vẫn thấp thoáng bóng bà...
Bà ngoại ơi, vị chủ nhân của "vườn cổ tích"
của đám con cháu chúng tôi, của riêng tôi !... Nhớ bà, trong bài thơ Về
quê ngoại đầu năm, tôi đã viết:
"Nhớ lời
mồng một tết cha
Mồng hai tết
mẹ, mồng ba tết thầy
Hôm nay cháu
trở về đây
Lạc trong
vườn ngoại xanh dầy mưa xuân
Mỗi cây mỗi
bước tần ngần
Tuổi thơ trèo
hái như gần như xa
Trước sân cây
mộc trổ hoa
Dàn trầu
không cỗi như là ngày xưa,
Mảnh sân gạch
cũ sớm trưa
Gậy tre lọc
cọc bà vừa ngang qua
Vằng nghe đâu
đó tiếng bà,
Nhắc cháu
chăm học giờ xa lắm rồi...
Cháu giờ tóc mỗi bạc thêm
Trở ra trời
đã nhẹ êm bước chiều."...
2013
Nhận xét
Đăng nhận xét