Khói đồng cay mắt....
Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi
và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít
trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng
chị là một người Nam
tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải
phóng miền Nam thống nhất
đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam
gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về
sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có
việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa
nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa
con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế
nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các
mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?...
Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu
đời,...
Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em
trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em,
nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái
Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống
áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn
chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết
cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét
đẹp của cha mẹ, Tấm có vóc người dong
dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi
cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế
nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một
thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp
cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ.
Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu
chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học
lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ,
cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy,
nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy
tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình
thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người
của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề
văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa
phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm
trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn
bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm
không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa
em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn
dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng
nuôi em.
Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết
định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối
tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo
chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương,
vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà
trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình,
chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong
đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầu, Lần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không
dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận
mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo,
chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua
xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh
Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể
diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ
vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại
buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách
sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường
làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây
gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa
còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có
lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng
mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là
nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng
xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một
giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả
bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người
đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết
đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt
xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị
bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn
bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két,
Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà
chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây
thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh
rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên
giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên
cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu
vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú
sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại
chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục
người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và
thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày
ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn
mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng
ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu
cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông
thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ
sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký
sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng
thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy.
Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và
út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ
biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng
hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là
anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay,
hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày
đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ
Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt
đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới
nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức
vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút
về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài
Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát,
giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa
đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa,
thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu
mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng
rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo
khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác
khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma
mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có
vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu
ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác
lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp
tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm
bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn
uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen
đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon
ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị
về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những
tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai
anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin
ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng
bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công
mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em
trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua
lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai,
chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến
ăn...
Mùa nước nổi về, thật thích. Cả cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng
băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận
biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây
hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất. Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu
Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn,
Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám
dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng
tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là
cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và
bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn
lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non
trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no
bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt
ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột
bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu
rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì
thức ăn đãy bụng. Cả nhà tuần nào cùng
vài ba bữa tưng bừng.
Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả
tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo
cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn
miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán
có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt
rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh
sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy
người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua
khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm
yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn
quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết
sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có
việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được
nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than
củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy
được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh
Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở
rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai
thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá
chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu
dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm
gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm
sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp
để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi
tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa
khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là
cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội
lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều
vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ
đến một điệu chéo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái
nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn.
Chị khẽ kêu ố. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ,
nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng,
quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo... đã tỉnh rượu rồi
ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau
người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”. Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường
của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói
rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế
nào, xỏ nhầm cả ống quần...
Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người.
Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon
mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố
ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này,
chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay
yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị
chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ
rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên
cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời
gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị
xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe
theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên
đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ
năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm
trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt
lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa
chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh
thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất
nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa.
Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới
đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất,
chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của
chị... ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa
thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn
đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường
ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán
chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận
hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng
mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu
cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng
lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa
bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát
nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực,
thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được
nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ
đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi
màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh
sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa
nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con
gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân
ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con
tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co
chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo
vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích
mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào
lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo
khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ.
Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ
đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”. Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay
người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt,
nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước
mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi
nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp,
chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của
người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu
ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín
và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở
vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích,
nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình
thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng
mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng
lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê
loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng,
bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm
bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay
kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút
bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về
sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị
tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy.
Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình,
tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi.
Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có
chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu,
ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính
rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một
người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá
nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt,
là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với
nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ
động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ
tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp
bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn
lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ
về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ,
nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng
nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà
chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy
trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị
trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà,
đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi
?...” . Bảo cười gượng: “À không...
em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu
cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu
nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo
tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở
chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu
không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm
rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó...
Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi
cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy
tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận
rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả
tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm
bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn
thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để
rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu
cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài
Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy,
anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của
chị...
Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út
Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở
lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt,
có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù
thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư
sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh
năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng
thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc
lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu
Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và
hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời
này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về
thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình,
làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành
phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát
ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và
bóng núi Dài, núi Cấm...
Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp
hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống,
sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão
hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt
đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do
khói đốt đồng cay mắt... ./.
Nhận xét
Đăng nhận xét