Thi sĩ Phạm Công Trứ,

 Hơn 20 năm trước, viết chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạnh dạn xếp ông ngồi một góc chiều thơ LỤC BÁT xứ Việt mình (cùng Lê Đình Cánh, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn)

Cũng trong bài viết ấy, tôi gọi dang xung ông và lấy làm tít bài - Chính danh gọi Tếu,...





Dăm năm nay, không gặp ông, nghe nói ông ốm đau bệnh tật ngại ra khỏi nhà. Hôm nay, ông lên Hội Nhà vân lấy tập Kỷ yếu NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI, trùng đúng vào ngày Báo Văn nghệ trao giải cuộc thi thơ thất bại thảm hại... 
Tranh thủ chộp mấy nức ảnh,...





Chính danh gọi Tễu,...
Ấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của gã-các tập thơ là đủ thấy : Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.
Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng trong bài thơ Tễu :
Cởi trần đống khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân ...

Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ- Tiến sĩ Luật- Nhà thơ- Nhà báo.
Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.
Thoạt đầu là cái tên. Công Trứ, khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ- Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu ( Nam Định ) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công sáng lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải ( Thái Bình) , Kim Sơn (Ninh Bình ), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
Khốn nỗi, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một nhà chính trị danh tiếng, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào ( Hưng Yên ), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư .
Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. đã từng và hiện vẫn đứng trên bục giảng của giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này !...
Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh (là Phó Tổng biên tập Báo NNVN). Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước.
Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì .
Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, khốn nạn thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia , phải đội các bậc cao thủ tiền bối thơ lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc : Nguyễn Duy-Lê Đình Cánh-Phạm Công Trứ-Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ ( tập thơ ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì gã sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã ?
Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng (in trong tập Lên núi tầm mai - NXB Văn học-2005), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: " ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu ". Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con ( một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan Hoa các, hoặc giả Nghênh Phong hiên, hay Vọng Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu , một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở " ngồi gỡ lời thề cỏ may ". Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là folklore , gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả làng, cả tổng, cả thiên hạ.( Đâu kém cạnh gì các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng quê với gã ). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới " cởi trần đóng khố múa chơi ". Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch : " Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ `Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu / Bạn thì những chó cùng trâu... ". Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao,Tễu bình thường cam phận là thế : " Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng " , song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: " Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta ". Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.
Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả " Độc một mảnh vải che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi ", Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: " Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay ". Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng , thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ " sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân ".
Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố " Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân ". Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo , với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đếm trăng.
Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa " Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa ". Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò !... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao ?
Tễu ta, thị dân : " Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...". Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.
Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân : " Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời ".
Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai . Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ ?!
Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có phải vậy không ? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán : Trứ , có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách ( theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh ), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người ( như học giả, hiền giả ), còn bộ thảo chỉ cây cỏ . Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành giả ( như tác giả thi ca chẳng hạn ) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.
Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : " Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ ".
Không những thế, ở phần V bài Thơ phú giao duyên , gã thẳng thắn tự giễu cợt mình : " Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/ Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa : chấp chi / Hắn-Phạm Công Trứ ! ".
Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ.Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã (kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thề thì thương xót và nương nhẹ ai đây ?!...
Giờ thì gã đã nghỉ hưu. Riêng cái nghiệp làm thơ thì không nghỉ được, bởi nó ám vào thân rồi. Thi thoảng vẫn thấy thơ gã xuất hiện ở đâu đó. Mỗi dịp tết nhất, thơ gã vẫn bán đắt cho một số tờ báo lớn. Đủ thấy, tên tuổi gã vẫn có giá...

Nhận xét