Lưu trữ bản thảo tập sách,
@@@
Nơi tận cùng xứ sở
CHỈ LỬA LÀ
RẤT THẬT
( Thay cho Tựa )
“Chỉ lửa là rất thật
Bừng lên
cháy hết lòng
Em một thời
má đỏ
Ta một thời
long đong”
Chẳng hiểu, Nguyễn Chu
Nhạc có ngụ ý cho đấy là “tuyên ngôn” hay không nhưng việc anh chọn khổ thơ đó
để in ở bìa 4 tập thơ mới của mình và anh cũng lấy luôn tên của bài thơ đó để
làm tên chung cho cả tập thơ thứ 6 của mình, cũng khiến tôi phải đoán già đoán
non “người báo, người văn, người thơ”
này có “ứng” vậy không? Mà ứng hay không thì chưa biết nhưng có điều chắc chắn
rằng với “lửa”, với “long đong” thì chừng như thấy đúng.
Lần đầu tiên, chúng tôi
gặp lại nhau sau mười sáu năm xa mái trường phổ thông. Mà lần gặp lại ấy cũng
đã gần ba mươi năm rồi.
Nguyên là, sau tết năm
1975 thì tôi đi bộ đội liền tù tì hơn mười năm. Cùng đó, Nguyễn Chu Nhạc đỗ vào
trường đại học nông nghiệp, và tốt nghiệp, anh đi một mạch vào An Giang công
tác. Lần gặp lại nhau khá bất ngờ và bất ngờ đến nỗi tôi chẳng kịp nhận ra
người bạn học cũ nữa. Số là, buổi ấy, mấy chúng tôi trong nhóm văn chương “Bông hồng vàng” rủ nhau đến
Nhà Thái Học trong Văn Miếu ngồi đàm đạo thơ văn cho nó sang (như cách nói vui của cánh viết văn trẻ hồi
đó). Nguyễn Chu Nhạc được mời đến và người chủ trì cuộc vui đã giới thiệu
ngắn gọn “Nhà văn Nguyễn Chu Nhạc nói
thấy nhóm anh em bọn mình tụ họp nên đến chơi cùng”. Tôi tròn mắt nhìn cái
“ông” vóc người nho nhỏ nhưng đã là “nhà văn” ấy rất ngưỡng vọng. Tiếp đó,
người chủ trì cuộc vui chỉ tay lần lượt giới thiệu từng người, người ấy chỉ tay
vào tôi định nói thì Nguyễn Chu Nhạc cười thân thiện “Khỏi phải giới thiệu. Tôi với ông này học cùng nhau”. Kinh ngạc.
Tôi cố vắt óc nhớ lại xem mình có “vinh hạnh” được học cùng với ông “nhà văn”
này ở đâu. Chịu. Nguyễn Chu Nhạc không nhận ra điều đó. Anh vẫn nói cười vui vẻ
trước những câu hỏi đầy thán phục của “bọn tập viết”.
Mãi mấy năm sau, khi về
trường cấp 3 Bần Yên Nhân (Mỹ Hào, Hưng
Yên) họp khóa phổ thông tôi mới “giật mình”. Thì ra cái thằng Nhạc bé con
con nhưng là học sinh giỏi văn cấp tỉnh, học sinh giỏi văn toàn quốc năm nào
đúng là học cùng lớp với tôi thật. Đâu như lứa học sinh giỏi văn toàn quốc ấy
có Trần Đăng Khoa, có Trịnh Bá Ninh, có Trương Nhuận và có mấy người nữa tôi
đều quen biết. Tôi bắt tay Nguyễn Chu Nhạc và ngượng nghịu nói câu “đánh lảng”
về “sự quên bạn” hôm nào.
Mà cũng tại tôi, thường
xuyên đọc báo hồi cuối những năm tám mươi đầu những năm chín mươi thấy dường
như tuần nào cũng có bài tản văn của tác giả Nguyễn Chu Nhạc. Khi thì ở báo Hà Nội mới, khi thì trên báo Nhân dân chủ nhật, lúc lại báo Người Hà Nội... thấy hay hay mà tại sao
tôi lại không quan tâm đến tác giả ấy là người như thế nào. Những bài tản văn
ngăn ngắn, xinh xinh, có giọng điệu dễ tiếp nhận, diễn đạt chân thật, nội dung
lại nhẹ nhàng, gần gũi cứ như thấy làng thấy xóm vậy, tôi rất thích thú. Thích
thú quá đến nỗi tôi tự cho rằng người viết những bài tản văn thế này chắc chắn
phải “xa xôi” lắm nên mình đâu có vinh hạnh được quen biết. Người ta “giỏi” thế
kia mà.
Hồi học phổ thông tôi vốn
nghịch ngợm nên nói đến học là “lảng”, vậy thế, dù rất biết Nguyễn Chu Nhạc học
văn giỏi, nhưng tôi cũng chẳng mấy “mặn
mà”, hì, bọn lười học là như vậy đó. Cứ nghĩ, kết thân nó, có khi lại cho là
mình “nhăm nhăm” liếc sang chép bài; Kết thân với nó hóa ra là mình hết được
nghịch được chơi ư? Nghĩ thế, nên tôi với Nguyễn Chu Nhạc cũng sơ sơ, là học cùng
lớp mà thôi. Kể cũng lạ nhỉ, Nguyễn Chu Nhạc học văn rất giỏi, sinh ra ở Hà
Nội, về quê học sơ tán vậy mà chẳng hiểu sao cậu ta lại thi vào học ngành nông
nghiệp? Không lẽ, cái chữ “nghiệp” trong nông nghiệp lại ứng với “lửa” và với
“long đong” như Nguyễn Chu Nhạc “tuyên bố”. Ồ, vậy mà chuẩn không cần chỉnh.
Này nhé: “Ngô đang mùa vào hạt/ mặc đá
trơ dưới chân/ nắng lửa trên đầu/ đêm đêm/ đá toát mồ hôi/ cùng người rạo rực...”.
Ở An Giang đâu như dăm
bảy năm gì đó thì Nguyễn Chu Nhạc bất ngờ “rẽ ngoặt” cuộc đời. Chàng “kỹ sư
canh nông” người bé nhỏ, những tưởng an phận với ruộng với đồng thuần nhất chợt
thành “ông nhà báo”. Mà lại bước một bước dài từ xa tắp tận vùng Tứ giác Long
Xuyên ra Thủ đô Hà Nội mới tài. Nguyễn Chu Nhạc về đầu quân cho Đài Tiếng nói
Việt
Đó là những
tháng năm “cây bút” Nguyễn Chu Nhạc tỏ ra sung sức. Tôi đã “trách nhầm”, khi
cho rằng, anh quyết định thi vào đại học nông nghiệp là “sai lầm”. Thì ra, tôi
đã thiển cận trước những bước đi của cuộc đời. Gắn bó với ruộng đồng, mê mải
với những lần đi cơ sở tìm hiểu và viết báo, đó là những thời gian “vàng” để
anh thu thập thông tin, lưu trữ tư liệu, để viết văn. Tôi không muốn đề cập
nghề báo của Nguyễn Chu Nhạc bởi đơn giản đã là nhà báo thì dĩ nhiên phải làm báo, đấy là trách nhiệm, là việc “làm công ăn lương”, mà tôi muốn nói về văn
chương của anh. Cái gốc năng khiếu học văn của cậu học sinh giỏi văn năm nào, chỉ
“tạm lánh” đâu đó, để rồi gặp đất là bùng lên mạnh mẽ, bùng lên dữ dội, và cuối
cùng là Nguyễn Chu Nhạc dấn thân sâu sắc vào con đường văn chương đầy long đong
và cũng đầy lửa nóng.
Thì ra, “Giữa những ngày giá rét/thèm chút lửa bếp
quê/thèm bát canh dưa nóng/cá niêu đất kho khê/ Thèm ngắm em áo ấm/khăn choàng
đỏ bờ vai/khẽ nghiêng đầu tư lự/ta mơ về trẻ trai” lại là câu nói tự đáy
lòng. Thoạt đầu, tưởng chỉ là sự “tiếc nuối”, ấy vậy mà nó lại trở thành “mục
tiêu” phấn đấu của anh. Nguyễn Chu Nhạc viết báo để nuôi mộng viết văn và viết
văn để khẳng định việc viết báo. Còn nhớ, có lần, Nguyễn Chu Nhạc nói vui nhưng
rất thật rằng “Ông ạ, viết văn sống làm
sao được. Viết báo lấy tiền để làm vốn cho viết văn”.
Từ năm 1993, Nguyễn Chu
Nhạc bắt đầu tập hợp những bài tản văn, những truyện ngắn đã viết và đã in để
in sách. Lại nữa, chẳng hiểu “tính” thế nào mà anh chọn một cái tên cũng rất “quê
mùa” nghĩa là cũng rất “long đong” cũng rất “lửa cháy” để đặt tên cho cuốn sách
đầu tay. Tập truyện ngắn “Đêm nguyệt thực”
ra đời với những câu chuyện cứ như lấy từ gan ruột mình, lấy từ quê mình, lấy
từ trường mình ra vậy. Văn xuôi, in mấy tập, song phải mãi cho tới năm 2011,
Nguyễn Chu Nhạc mới cho in tập thơ đầu tiên. Tập thơ “Chút thu” này lại cũng
cho ta cái cảm giác hình như cái ý nghĩ “long đong và lửa” vẫn lẩn khuất đâu
đó. Kể từ đó, anh làm thơ nhiều hơn, xuất bản thơ đều đều. Thơ của Nguyễn Chu Nhạc
giản dị và chân thật và dường như, anh gắn liền thơ với mùa thu. Phải chăng mùa
thu, mùa chim làm tổ lại chính là “cái mùa” cho thơ nẩy nở. Một loạt các tập
thơ được in sau đó đều có “thu” mới biết Nguyễn Chu Nhạc dù có long đong hay lửa nóng thì vẫn “chung tình”. Chuyện chung tình ở một thi nhân quả
là “xưa nay hiếm”? Những tên sách, đại loại như “Cho thu dung dằng thêm chút nữa” hay “Một chiếc lá vàng động cả thu”, rồi “Ừ nhỉ, thu thật rồi đấy” ta đều thấy đâu đó bóng dáng của hoài niệm
và thương nhớ.
Phải đến năm 2017, năm mà
lứa chúng tôi đều đến tuổi nghỉ hưu thì Nguyễn Chu Nhạc cho in tập thơ “Chỉ lửa là rất thật”. Tôi đã thật thà đồ
rằng, hình như anh muốn cho ta thấy ở cõi đời này mọi thứ đều “phù phiếm” mọi
thứ đều thành “hư vô”; chỉ có lửa mới là thật. Đúng quá rồi, bạn thơ của tôi ơi:
“Rồi thì người cũng đến/mang theo cả mùa
đông/mặc ai ngoài kia lạnh/ riêng ta ấm trong lòng”. Đúng quá rồi, Nhạc ạ:
“Ta hiểu rồi như lửa/ nóng mấy cũng tàn
phai/ nhưng giờ chưa phải lúc/ kệ mùa đông bên ngoài”.
Tập “Chỉ lửa là rất thật” khá dầy dặn cả về số trang và cả về số bài, đã
cho thấy, dường như có sự “tổng kết” ở đây? Cũng cho ta thấy sự “long dong” bởi
những chuyến đi..., cho ta thấy “lửa” bởi những đau đáu trong hồn thi nhân.
Dường như, ở đây, Nguyễn Chu Nhạc muốn đưa ra những ghi chép thực tế của mình, muốn
“thơ hóa” mọi ngóc ngách của nghề
báo, bởi bóng dáng cuộc sống với từng hơi thở đậm nét trong nhiều câu thơ?
“Chỉ lửa là rất thật” cho ta thấy một Tây Bắc mờ sương, một Tây
Nguyên nắng gió, một xứ Huế mộng mơ, thấy hình bóng quê nhà ở “Cuối năm ta lại về quê”, những hồi ức
tuổi thơ chưa khi nào nguôi ngoai trong tâm tưởng, để rồi, thấy nhuốm vẻ long
đong. Ta còn thấy những hoa sen, hoa đại, hoa đào rừng, thấy hoa lộc vừng đỏ,
hoa gạo đầu làng... những màu hoa nhường ấy cũng toàn là màu của lửa...
Thế mới biết “tuyên ngôn”
của Nguyễn Chu Nhạc là thật. Lời nói của anh thật như là lửa vậy. Ngọn lửa tâm
hồn đang bốc lên, những mong được cháy mãi...
Giờ đây, ngọn lửa thật
ấy, lại bập bùng đâu đó, nơi cuốn văn xuôi mới mà Nguyễn Chu Nhạc đang cho xuất
bản, tập “Ở nơi tận cùng xứ sở”. Hãy
chờ xem, ngọn lửa chân tình ấy bừng cháy !...
Sống chậm,…
Tôi bắt đầu nghỉ hưu, sau gần 40 năm công tác, và tròn
30 năm làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV).
Mặc dù ngay sau đó, tôi hợp đồng làm việc với Đài
Truyền hình kỹ thuật số (VTC), một thành viên lớn thuộc đại gia đình nhà VOV,
với tính chất công việc là thành viên Tư vấn và Hội đồng nghiệm thu chương
trình của VTC (cụ thể là VTC3-Kênh Thể
thao- Văn hóa). Công việc đơn thuần chuyên môn nghiệp vụ báo chí mà thôi.
Tuy vẫn là việc hàng ngày, song so với công việc trước đây thì giãn ra nhiều.
Cũng xem là thư nhàn hơn. Ấy, còn là một cách sống chậm... Sống chậm, nhưng
cũng phải làm quen, thậm chí, phải tập để thích nghi,...
Tôi lại bắt tay làm một cuốn sách mới, tạm lấy tên là Rong chơi với một chữ Tình, nhẩn nha
chuyện cũ, chuyên mới, ghi chép lại những việc, sự chiêm nghiệm sau nhiều năm
làm báo,... Hẳn sẽ có người hỏi về cái tên sách, rong chơi ư, và sao chỉ với
một chữ TÌNH ?...
Nghề làm báo, suy cho cùng, cũng là
một cuộc rong chơi dài, có điều, sự rong chơi với tinh thần trách nhiệm, ... Và
trong cuộc rong chơi vô kỳ hạn ấy, nếu thiếu đi một chữ Tình thì sẽ là vô
vị,... Nó chỉ thú vị và bổ ích khi lòng ta ôm ấp một chữ Tình, ấy là cái tình
của con người, trước là gia đình, bạn hữu, người thân, đồng nghiệp, và rộng ra
là xã hội, con người với nhau; thứ nữa là cái tình với thiên nhiên cây cỏ...
Vâng, sống chậm...
Hãy tập cách sống chậm.
Tôi đã nhủ mình như vậy.
Đúng ra, tự lệnh cho mình cần phái như
thế,
Nửa năm trước, nhận cái thông báo mang
tính khuôn mẫu, rằng từ ngày này, tháng này, năm này, ông ( bà )… sẽ nghỉ hưu,
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, rằng từ nay, ông ( ba ) rút dần ra khỏi công việc
công sở. v,v,,, Trước đây với cương vị
công tác của mình, hằng năm, mình phải ký nháy bao nhiêu văn bản như vậy. Giờ
thì đến lượt mình, lẽ dĩ nhiên, người khác ký nháy cái văn bản gửi cho mình,
Nhưng rồi đâu có được giãn công việc như tinh thần của thông báo.. Phần vì việc
công sở luôn bề bộn, nhiều sự kiện lớn nhỏ, cả sự kiện trọng đại, mà mình vốn
được tín nhiệm trong các kiểu công việc, sự kiện lớn, nên vẫn bị cấp trên chỉ
định, thế là lại lao vào việc như thiêu thân. Công bằng mà nói, tự thân cũng
chưa quen với sự nhàn rỗi. Gần bốn chục năm nay, lang thang đây đó, có bao giờ
được thư nhàn đâu. Nợ cơm áo gia đình vợ con, nghiệp báo chí, văn chương đeo
đuổi mà nên thế rồi,
Đã nhiều năm rồi, sáng sáng, 7 giờ ra
khỏi nhà, cho đến 7 giờ tối mới mò về đến nhà. Cuối tuần, ngày nghỉ, vẫn thường
xuyên dính việc công. Năm này qua năm khác, mãi thành nếp, nay không dễ mà thay
đổi thói quen ngay được.
Một tháng, trước cái đích nghỉ hưu,
cũng vậy. Anh em đồng nghiệp tứ xứ gọi điện í ới mời mọc, nể mọi người lại búc vé,
bay vào với anh em, bè bạn. Gọi là đi chơi thăm thú đây đó, nhưng cũng lại đi
quần quật, nhậu quần quật, còn mệt hơn ở nhà. Một sự vất vả kiều khác chứ đâu
phải là thư giãn. Lại càng không phải là làm quen với cách sống chậm.
Rồi còn nửa tháng, một tuần, thì hết
ban này đến đơn vị nọ, nhóm này nhóm kia mời dự cơm chia tay. Nể nhau, lại ngồi
nhâm nhi, trưa có, tối có. Vui đấy, nhưng cũng buồn đấy và thêm phần bề bộn.
Lại nữa, cả thàng cả tuần, mỗi này tha lôi những đồ souvenir gần chục năm nay
mua sắm, tích cóp, bày cả ở văn phòng làm việc tại cơ quan, nay mang về nhà,
rồi xếp xếp đặt đặt, cũng ra chiều vất vả lắm. Cái sự mêt mỏi dồn lại,…
Rồi còn một ngày. Ngày cuối tại vị ở
công sở, lại phải ký tá giấy tờ, văn bản, ký biên bản bàn giao công việc cho người
kế vị mình… Thêm nữa, đồ riêng tư còn gì thì tha nốt về nhà. Từ sang sớm, thông
trua, đến tận 8 giờ tối mới xong. Bã người và trống rỗng.
Bữa cơm tối tại gia, làm ly bia đá cho
đớ háo. Nửa nằm nửa ngồi, cái remot tivi trong tay nháy liên tục, hết kênh này
kênh kia mà chẳng buồn xem cái gì. Chợt nhớ, từ nay trở đi, mình sẽ phải thường
xuyên xem các kênh của VTC, đặng để biết, vì ngay sau đây, mình sẽ trở thành
một trong những chuyên gia tư vấn và hội đồng nghiệm thu chương trình của Đài
này. Đảo một hồi, mấy kênh, ngó nghiêng, xem xét, và ngẫm nghĩ để tự đưa ra một
vài nhận xét. Mỏi mắt, ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay…
Trở dậy, cũng đã khuya, làm vài việc vặt, rồi đi nghỉ.
Lâu lắm rồi, trước khi đi ngủ, không cần đặt chuông
báo thức, mà tắt hết cả mấy chiếc điện thoại di động.
Ừm, động thái đầu tiên của lối sống chậm là đây chăng?
Hình như, ngoài trời trở gió ?
Đợt gió mùa đầu tiên của mùa đông này..
Lắc rắc mưa thì phải ?...
2. Như gió thoảng qua,
Có những lúc, ngồi một mình trong phòng làm việc, không
muốn làm gì và viết gì. Lòng trống vắng không tưởng. Và thường, để phá vỡ cái
trạng thái ấy, tôi hay vào mạng, tìm đến một vài địa chỉ quen thuộc của mấy
trang cá nhân, đọc bài này bài kia, hy vọng lấy lại được cảm xúc, đặng làm việc
tiếp; hoặc tìm sự khơi gợi mong manh, viết một chút gì đấy.
Chiều nay, mới đầu đông mà trời khá
lạnh. Ngoài hành lang gió lùa hun hút lạnh giá, trong phòng thì ấm áp. Sau giấc
ngủ trưa thức dậy bởi tiếng ồn ào phía ngoài. Bâng lâng một lát mà chẳng biết
và chảng thiết làm gì. Nhấp vài ngụm cà phê sáng pha nhiều còn dư, cho thêm
nước ấm thành loãng, đầu óc vẫn u u minh minh. Thẫn người, và rồi theo thói
quen, lại tìm vào vài trang quen, bâng
quơ lướt bất cứ bài viết nào…
Nhìn các địa chỉ liên kết, nháy vào
một cái nick theo cảm tính tức thì, đọc nhanh tên các chuyên mục, tên bài viết,
bao quát tổng thể giao diện thấy khá bắt mắt, ấn tượng. Mở vài ba bài viết cụ
thể, đọc thấy là lạ, hay hay… Đọc thêm chút nữa, đoán chủ bút là nữ giới. Thơ,
tản văn, tạp bút, đủ món như một mâm cỗ đầy đặn … nhưng xem kỹ, những bài viết
ở đây đăng cũng đã vài năm nay rồi. Lối viết bộc lộ cá tính, chữ nghĩa trau
chuốt, có chút điệu đàng làm dáng, nhưng đầy tâm trạng. Tự nhiên lại đồ đoán
chủ bút là người làm nghề gì, sống như thế nào nhỉ, Kiểu người như thế giờ
không nhiều, nhất là vào thời cuộc xã hội xô bồ như lúc này. Và nữa, đã vài năm
nay không đăng bài viết mới, vậy chủ bút đi đâu, có chuyện gì xảy ra không,
giờ ra sao, mà lại bỏ bê vậy?
Tự nhiên, ta hình dung ra hang loạt
những sự kiện ẩn sau mỗi bài viết đó; tiếp nữa, lại hình dung những sự kiện
chuyển dịch kể từ đó cho đến nay; rồi cả quáng thời gian dài trở về trước của
bài viết… Nghĩ thế và thấy thú vị… Là mình cứ tưởng tượng ra vậy, chứ thực ra
cuộc đời đơn giản hơn nhiều. Lại chợt nghĩ, lâu lắm rồi mình không viết một
truyện ngắn nào, kể từ khi xuất bản gần chục tập truyện ngắn, và truyện ngắn “Mỹ nhân mộng” về chuyện tình bất hủ thế
gian giữa vua Đường Minh Hoàng và nàng Dương Quý Phi, một trong Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa kim cổ, thì
ta cũng viết cách đây dăm năm rồi,...
Và, lại muốn viết một cái gì đấy, …
3. Hóng chuyện, rồi bàn...
Vừa mới đây, tình cờ tôi xem một chương trình trên
kênh truyền hình nọ, loáng thoáng thấy đưa tin, một chàng ca sĩ trẻ tuổi nhưng
khá nổi tiếng, của làng giải trí Hàn Quốc, K-pop, tự tử chết vì trầm cảm.
Nghe vậy, thấy cũng chẳng có gì lạ, bởi mấy năm gần
đây, nhiều ngôi sao ca nhạc, điện ảnh của Hàn Quốc, rồi Ấn Độ và Mỹ thi nhau tự
tử, phần lớn vì áp lực công việc và xã hội, phần nữa, vì tự thân sa đọa trong
cờ bạc, sex và nghiệp ngập, dẫn đến bế tắc, và kết quả là tìm đến cái chết để
giải thoát cho mình…
Như thế đã là cũ rồi, bởi xưa hơn, thi hào trẻ tuổi
tài năng của nước Nga, đã từng thốt lên câu thơ vĩnh biệt: “Trên đời này, chết là điều chẳng mới/ Nhưng
sống, thật tình cũng chẳng mới gì hơn”. Hai câu kết bài thơ “Thôi chào nhé, bạn ơi, chào nhé” của
C.A. Exenin (S.A. Yesenin) qua bản
dịch của nhà thơ Anh Ngọc, bấy lâu nay đã được các nhà phê bình văn học, các
nhà nghiên cứu về tâm lý xã hội mang ra phân tích, bàn luận, và chẳng có hồi
kết. Song chắc chắn, nguyên nhân khiến một ai đó quên sinh, không thể nằm ngoài
yếu tố tự thân trong điều kiện xã hội nhất định…
Tôi cho rằng, triết lý này, chắc là có từ xa xưa,
chẳng qua đến Exenin, nhà thơ này diễn đạt bằng thơ mà thôi. Và ngay ở Việt
Trở lại chuyện về chàng ca sĩ trẻ tuổi của làng K-pop
tự vẫn, thì vẫn kênh truyền hình nọ đưa tin, đã có tới 8 người hâm mộ anh chàng
này (fan hâm mộ, fan cuồng), bắt
chước thần tượng của mình, tự vẫn chết theo. Đương nhiên, một ai đó lấy cái
chết cho sự tự giải thoát, họ có lý do của mình, nhưng một khi, đã trở thành
hiện tượng, trào lưu xã hội, thì chuyện ấy đã trở thành không bình thường rồi.
Có gì quai quái ở hiện tượng này nhỉ?
Từ việc tự vẫn của chàng ca sĩ K-pop là Kim Jong-hyun
của nhóm nhạc đình đám Shinee, khi
mới 27 tuổi; cùng với đó, người ta cũng nói đến cái câu lạc bộ quái gở có tên
là CLB 27, nghĩa là câu lạc bộ của những người nổi tiếng, chết ở tuổi 27, do tự
tử; và nữa, là rất nhiều fan cuồng tự tử chết theo, cho thấy một xu hướng bất
thường và quái đản đang thành hình trong làng giải trí trẻ ở qui mô thế giới
nói chung.
Thử nhìn nhận hiện tượng quái gở này từ một vài góc độ
gia đình và xã hội, xem sao?
Một thế giới phân cực, chiến tranh đây đó liên miên,
không một quốc gia, dân tộc, tôn giáo nào được yên ổn, ngay cả những quốc gia
hùng mạnh, từng lãnh đạo và chi phối thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, EU thì
cũng vậy. IS, tổ chức nhà nước Hồi giáo tự xưng với sự cực đoan lên đỉnh điểm,
đã kích động các cá nhân cực đoan sẵn sàng mang mạng sống của mình ra để đánh
đổi lấy sự phong thánh hoặc danh dự hão huyền, thử hỏi, có sự ảnh hưởng đến con
người hay không?
Một
thế giới với sự làm giàu, tranh đoạt bằng mọi giá, cùng đó là mọi hình thức vui
chơi giải trí nhằm thỏa mãn sự bung xả của con người, dễ xô đảy người ta đến bế
tắc, tuyệt vọng, và việc tìm đến cái chết để giải thoát là đương nhiên.
Thời đại của gia đình truyền thống bị phá vỡ, quyền
con người bị lạm dụng, được đẩy lên thành sự vị kỷ, nhất là ở các quốc gia
Phương Đông như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt
Những giá trị đạo đức, và văn hóa truyền thống đang bị
băng hoại, tan giã, thậm chí còn bị mang ra để bông phèng, nhạo báng,… trong
khi các giá trị mới chưa kịp hình thành, hoặc còn manh nha nhưng chưa được
khẳng định. Và như vậy, sự bế tắc về mặt xã hội là không thể tránh khỏi?
Sự
ra đời của internet và sự phát triển thần tốc của công nghệ thông tin dẫn đến
sự ra đời của nhiều mạng xã hội, với sự tiện lợi của chúng, khiến con người ta
khép mình trong phòng kín, giảm tiếp xúc và hoạt động xã hội, sống với thế giới
ảo, từ đó gây nên một số hội chứng về thần kinh. Mạng xã hội cũng làm cho người
ta vốn cách xa về địa lý và không hề quen biết trong đời sống thật, chốc lát
trở nên thân thiết, chia sẻ với nhau, và như vậy, việc truyền bá suy nghĩ, ý
tưởng mang tính biệt lập của cá nhân đến số đông một cách dễ dàng, nhanh chóng
tức thì, để rồi, người ta, hoặc lôi kéo, hoặc có thể phỉ báng, nhục mạ người
khác theo kiểu hội chứng đám đông …
Và đây, chính là mảnh đất màu mỡ cho việc truyền bá các tư tưởng, ý nghĩ cực
đoan, bệnh hoạn, đầu độc con người, xã hội v.v…
Sẽ còn có những nguyên nhân khác nữa chưa thật rõ
ràng, song chắc chắn, hiện tượng xã hội này đã khiến con người ta không còn
được yên ổn, trong khi, những nhà tâm lý và quản lý xã hội lại tỏ ra lúng túng,
chỉ biết đối diện, nhưng chưa biết phải giải quyết ra sao !?...
4. Ngày xưa,.. một thuở,
Hôm rồi, đi dự tiệc cưới, con một cô em đồng nghiệp
cũ. Trước đây, cô này về cơ quan trước tôi chút ít, tuy cô kém tôi dăm tuổi,
sau này, hai anh em cùng phòng làm việc với nhau, tôi làm trưởng, cô làm phó.
Rồi qua thời gian, hễ tôi nhích lên một bước thì cô cũng nhích theo một bước.
Chúng tôi đùa, bảo là “anh em mình thành đôi bạn cùng tiến”. Chú rể, con cô
bạn, lại là đồng nghiệp cùng phòng làm việc với con trai tôi. Như vậy, có thể
gọi vui là “họ hàng ba bề bốn bên“ đấy.
Cùng một cơ quan, nên người dự tiệc cưới cũng phần
đông là người cơ quan cả, và hầu như mọi người biết nhau. Ngồi theo mâm cho
phải phép thôi, chứ khi dự tiệc, mọi người chạy ngang dọc, sà vào mâm nọ mâm
kia, cụng ly cho tình cảm. Để ý, thấy giữa đông vui là vậy, thực khách là tự
nhiên chia thành mấy nhóm khác nhau. Nhóm trẻ, đây là dịp để các cô cậu trưng
diện trang phục đầu tóc, một này mốt nọ.
Nhóm
đông nhất là nhóm trung, độ tuổi tầm trên dưới bốn mươi. Họ chững chạc và chin
chắn, ăn diện lịch sự và trang nhã, và nhiều người trong số này đã thành danh,
hoặc có chút địa vị tại công sở. Họ nhỏ nhẹ chuyện đời chuyện nghề với nhau, và
rất tự tin trong xã giao.
Và một nhóm nữa, ấy là nhóm của những người cao tuổi,
đã nghỉ hưu một vài năm đến hàng chục năm rồi. Có thể ghép thêm số ít người sắp
đến tuổi nghỉ hưu chung vào đây vì xét về tâm lý thì khá tương đồng. Tôi thuộc
nhóm này, tuy nhiên, thử đứng tách bạch ra mà quan sát, nhìn nhận sẽ thấy những
điều khá thú vị…
Tôi nhớ, cách đây chừng dăm năm, vào dịp đầu năm xuân mới,
CLB cán bộ hưu trí của cơ quan tôi đứng ra tổ chức cuộc gặp mặt đầu xuân cho
cán bộ nhân viên hưu trí của cơ quan. Hội trường gần 500 chỗ mà chật cứng,
nhiều người thiếu chỗ phải đứng ở ngoài sảnh thành từng nhóm chuyện phiếm với
nhau. Không ai kêu ca về viêc ấy cả, mà đều thấy vui vì có cơ hội để tập trung
đông người đã nghỉ hưu, đặng gặp gỡ và hỏi thăm nhau. Thường ra, lúc còn đi
làm, hay gặp nhau ở cơ quan, lúc nghỉ hưu, khi cần mới ớ người, rằng ông này,
bà kia, cụ nọ… nhà ở đâu nhỉ? Có muốn đi thăm nhau cũng khó, cũng ngại. Được cơ
quan mời gặp mặt, cứ đến một điểm, ăn uống, quà cáp, mời chào, không quan
trọng. Quý ở chỗ là mọi người được gặp nhau. Nhìn thấy nhau, biết là còn khỏe,
mà dẫu không khỏe thì vẫn còn sống, rồi nữa, thăm hỏi chuyện con cháu phương
trưởng ra sao? Thôi thì trăm thứ chuyện, dây cà ra dây muống…
Tại cuộc gặp mặt này, có một vị phó thủ trưởng cơ
quan, cũng sắp tuổi hưu, được phân công thay mặt lãnh đạo cơ quan tham dự và
phát biểu ý kiến. Sau buổi gặp mặt ấy, khi ngồi với nhau dăm ba người. mạn đàm,
vị lãnh đạo ấy bảo: “Cuộc gặp mặt vừa
rồi, nghe các cụ hưu nhà mình nói chuyện với nhau và phát biểu ý kiến, mình rút
ra mấy điều rằng, sao các cụ thật thà thế, lẩm cẩm thế và sống khổ thế? Khi về
hưu, mình cố gắng sẽ không sa vào tình trạng như vậy …”.
Tôi gật gù chia sẻ cùng anh. Rồi ngẫm nghĩ, gạt đi sự
tự ái vì sĩ diện, những điều nhận xét ấy về người nghỉ hưu nói chung, và các cụ
hưu ở cơ quan tôi, có phần đúng. Còn vị lãnh đạo nọ, người đã đưa ra mấy nhận
xét của riêng mình về người nghỉ hưu, sau này, ông không hề đến cơ quan cũ, mặc
dù vào các dịp lễ lạt, cơ quan cũ gửi giấy mời trân trọng thì ông cũng không
đến, nên tôi không có điều kiện để kiểm chứng xem ông ta có thực hiện đúng lời
mình đã hứa hay không ?
Giờ đã bắt đầu nghỉ hưu theo chế độ Nhà nước, tuy còn
túc tắc làm chuyên môn theo hợp đồng cho một cơ quan truyền thông lớn, tôi đã
bắt đầu thấm những điều này…
5. Như một sự giữ lửa!?...
Tôi có thói quen, gọi là quan niệm cũng được, và có
lẽ, cũ kỹ, gia trưởng chăng? Ấy là, hằng năm, vào các dịp lễ tết chính, như Tết
Nguyên đán, Tết Dương lịch chẳng hạn, là nhất quyết không có chuyện đi chơi xa,
hay du lịch đâu đó. Có chăng là về quê, thăm nhà họ hàng, người thân mà thôi.
Tuy chưa già, song tôi thuộc típ người cũ, thêm nữa lại là trưởng gia, trưởng
tộc. nên cả nghĩ làm vậy?
Tôi nhiễm điều này từ bố mẹ tôi. Bố tôi vốn dân Nho
học, rồi sau lại Tây học tân thời, tuy trong cuộc sống thường ngày, ông khá
thỏa mái, cởi mở, có phần cảm thông, dễ tính nữa, song hết thảy những gì thuộc
về lễ nghĩa, đạo lý thì lại rất cẩn trọng. Ông không ép người khác phải theo
mình, nhưng với bản than thì nghiêm cẩn. Tôi nhớ, hồi còn nhỏ, ông đã hay giải
thích, cắt nghĩa các phong tục tập quán cổ truyền, tâm linh tôn giáo cho tôi
hiểu, vì lẽ, tôi sẽ phải thay ông làm trưởng, và thường bắt tôi đứng giữ lễ
cùng ông trước bàn thờ tổ tiên vào các dịp lễ trọng, Để dễ hiểu và phù hợp với
đời sống hiện đại, ông chỉ dạy cách khấn Nôm thôi, nhưng khá bài bản. Mẹ tôi
vốn con nhà gia giáo, nên ủng hộ việc đó. Cứ thế, mãi thành nếp nhà bao nhiêu
năm rồi. Sau này, khi song thân mất đi, theo thói quen đã ăn sâu vào máu thịt,
tôi duy trì nếp sống ấy như một sự tự nguyện, đầy thành tâm.
Sau này, trong gia đình mình, vợ tôi cũng theo nếp
này, và các con tôi cũng vậy luôn, chúng tôi thủ không hề thắc mắc gì. Song đấy
là những năm trước, khi các con tôi còn nhỏ tuổi, vật chất còn thiếu thốn, mà
ngoài xã hội cũng chưa có trào lưu du lịch vào mỗi dịp lễ tết, nên bằng lòng
vậy. Dăm bảy năm gần đây, xã hội thay đổi nhanh chóng, vật chất khá lên, khiến
mô hình gia đình truyền thống với các tập tục văn hóa xưa cũ bị tác động mạnh,
nên ít nhiều thay đổi. Những gia đình trẻ, ông bà chủ trẻ, ăn nhập văn hóa, văn
minh phương Tây rất nhanh, suy nghĩ vì thế mà khác đi nhiều. Đấy là chuyện bình
thường, là sự giao thoa văn hóa trong thời kỳ hội nhập. Xã hội nảy sinh trào
lưu du lịch trong các kỳ nghỉ. Không riêng gì những dịp lễ trọng như Tết Nguyên
đán, Tết Dương lịch, Quốc khánh mà các kỳ nghỉ khác, người ta cũng đua đi du
lịch, đi chơi xa, như một sự bù đắp, và như một cái mốt vậy …
Và rồi, như một lẽ tự nhiên, cái trào lưu, xu hướng xã
hội ấy, cũng lan đến gia đình tôi. Cá nhân tôi, từ sự phản ứng yếu ớt, dần đến
sự thỏa hiệp, chấp nhận… Và dịp Tết Dương lịch năm nay (2018), lần đầu tiên,
cái gia đình bé nhỏ của tôi đã chẽ thành ba nhánh chảy theo các hướng khác
nhau. Vợ và con gái út tôi, mua tua du lịch tâm linh đi Myanmar chiêm bái Chùa
Vàng, đất Phật; con trai lớn, vừa mới lập gia đình, thì mấy ngày nghỉ ấy, chúng
tất bật mua sắm, làm cơm mời khách là bạn bè của chúng và gia đình bên vợ nó,…
Riêng tôi, một mình một kiểu. Mặc dù vợ chồng con trai
mời dùng cơm chung, rồi nữa, mấy bạn bè thân chèo kéo, song tôi đều tìm cách từ
chối khéo. Một mình, tuy ăn uống đơn giản nhưng vẫn đủ lễ nghi trên bàn thờ,
cơm nhà tự mình nấu, mì tôm, cơm nóng hay cơm nguội rang, miễn là tiện, túc tắc
đủ ngày ba bữa với ly cay nhỏ. Đọc sách, xem mạng, viết bài… cũng thú lắm
thay!...
Và, như một thói quen, một sự tự nguyện thành tâm, tôi
dành một ngày để về quê, hương khói nơi ngôi thờ tự, thăm thú, trò chuyện với
anh chị và mấy nhà hàng xóm ở quê,…
Giống cha, mẹ tôi ngày trước, như một sự giữ lửa !?...
6. Một câu hỏi khó,...
Có một lần, nhân một cuộc gặp mặt vào dịp cuối năm,
một nhà thơ đàn anh, về hưu đã hơn chục năm rồi, tâm sự rằng, lâu lắm rồi, ông
chẳng làm một bài thơ nào; rằng để chống thiếu, và cũng là thử sức mình trong
một lĩnh vực nghệ thuật khác, ông cầm cọ vẽ ...
Rồi một dịp gặp gỡ khác, khi đứng riêng với nhau, tôi
hỏi thăm ông xem dạo này ông còn vẽ tranh hay không. Vẻ mặt ưu tư, ông bảo, ý
là khi trước, mình háo hức vậy thôi, chứ đâu có học hội họa ngày nào, xem tranh
của bạn, thấy hay hay, cao hứng thì thử cầm cọ vậy thôi... Rồi loắng ngoắng dăm
ba bức, tuy cũng có cái mình thấy ưng ý, nhưng chẳng biết có phải là tranh hay
không nữa?...Tôi giữ ý, không dám hỏi ông về thơ, là bởi lần trước, ông đã từng
than là cạn cảm xúc thi ca, và hào hứng
chuyện vẽ tranh, nên chỉ dám hỏi thứ ông đang hào hứng mà thôi. Vậy ra, nghệ
thuật nào cũng có cái khó của nó, và cũng cần phải có năng khiếu mới đeo đuổi,
đánh đu được...
Chợt ông hỏi lại tôi, cách xưng hô khiêm tốn lắm:
"Mình hỏi thật ông nhé, nếu cho được
chọn,... ông thích có được một tập thơ hay, hay là, một tập truyện hay?".
Sở dĩ, ông hỏi tôi vậy, bởi ông biết tôi với tư cách là người sáng tác văn học
đã ba chục năm nay, và cũng biết tôi vốn là người làm thơ, rồi bỏ bẵng thơ hàng
chục năm để viết truyện ngắn, tản văn, xuất bản liên tục, nhưng mấy năm gần
đây, lại ít viết văn xuôi mà sáng tác và in thơ đều đều. Với ông, thời xứ ta
còn hiếm người sáng tác văn học, ông đã làm thơ, vào Hội và từng có thời gian
giữ một cương vị đứng đầu của một trong mấy cột trụ làng văn học nghệ thuật
nước nhà. Ông từng có mấy bài thơ hay, được người ta chọn bình, và được tuyển
chọn vào vài ba tuyển tập thơ ca xứ Việt. Với người làm thơ, được như thế, thật
không dễ gì. Vậy mà giờ đây, ông hỏi tôi thế, trong giây lát, tôi biết trả lời
ông ra sao? Quả là một câu hỏi khó, chí ít là đối với tôi.
Và rồi tôi đã trả lời ông, sau giây lát cân nhắc:
"Bác ạ, em nghĩ,... có thể viết được một tập truyện hay, nhưng...
thật khó để sáng tác được một tập thơ hay... Vậy thôi ạ.". Ông à lên
một tiếng, gương mặt đăm chiêu như giãn ra, thư thái hơn. Rồi tôi cảm thấy,
dường như ông đang cười nhẹ. Sau đó, cả cả hai người, tịnh không ai nói thêm gì
về chuyện sáng tác thơ, văn hay vẽ tranh nữa, mà bàn sang chuyện khác, hòa
chung vào câu chuyện của đám đông.
Tôi biết, thực ra tôi đã lảng tránh câu hỏi của nhà
thơ đàn anh nọ, chỉ trả lời một cách gián tiếp, tùy ông hiểu sao cũng được,
bằng cái cách đá lại quả bóng về ông.
Cho đến bây giờ, thi thoảng năm gặp lại một lần, câu chuyện giữa nhà thơ đàn
anh nọ và tôi, đơn thuần chỉ là chuyện về sức khỏe và sinh hoạt đời thường ...
Tôi không biết, hôm ấy, ông nghĩ gì và có hài lòng về
câu trả lời của tôi hay không? Còn tôi, khi công việc bận rộn, hay thư nhàn hơn
như lúc này, tôi vẫn cố viết hằng ngày. Tôi cũng không mấy quan xiêm, cân nhắc
là mình nên làm thơ, viết tản văn, ký
sự, truyện ngắn, hay phê bình và chân dung văn học, tuy cũng ít nhiều hiểu mình
mạnh ở thể loại nào.
Đơn
giản, tôi cho rằng, mình nghĩ và viết ra được là quan trọng nhất. Còn lại ...
hậu xét!...
7. Lắng nghe tiếng sáo, tiếng tiêu ...
Ngày chủ nhật, tôi dạy sớm vì có chút công việc chuyên
môn. Xong việc, mở cửa ngó ra ngoài, tiết trời đẹp, rét vừa và khô ráo, khác
hẳn cả tuần rồi hết mưa tí tách dai dẳng lại mưa phùn lây nhây. Lòng hào hứng,
muốn nhào ra đường đi chơi đây đó cho giãn gân cốt và được phóng tầm mắt. Nhưng
bây giờ, đi đâu cũng phải có địa chỉ, chứ không thể như cánh trẻ, cứ đi rồi mới
tìm cảm hứng được. Mở điện thoại, sau mấy cú phôn cho hội bạn già, bạn hưu, thì
người ở quê, người đang đi thăm thú đâu đó, người lại gặp trục trặc về sức
khỏe... Vậy thôi. Ăn sáng và cafe đủ rồi, đành ngồi vào máy, cập nhật tin tức
trên mạng trước đã cho khỏi lạc hậu thông tin. Đường link dẫn vào Fb của người
bạn đang sinh sống tại vùng Tây Bắc, thấy có clip sáo Mông, bèn nháy vào nghe
thử. Thấy hay quá, nên cứ theo địa chỉ giới thiệu trên YouTube, nghe liền một
loạt những bài sáo Mông, sáo trúc, các bản như Tình ca Tây bắc, Tiếng hát
giữa rừng Pắc-bó, Gặp nhau giữa rừng
mơ, Đi học ... Lan man, tiếp sang
một loạt bản hòa tấu sáo trúc của nghệ sĩ Hoàng Anh livestream từ New York, như
Bèo dạt mây trôi, Trúc xinh, Trước ngày hội bắn, Trên
đường chiến thắng, Ai ra xứ Huế, Mẹ yêu con v.v... Rồi nữa, các bản độc
tấu của các nghệ sĩ sáo trúc hàng đầu của xứ mình như Đinh Linh, Ngọc Tú, Tương
Nhuệ... Thật là một bữa tiệc âm nhạc tuyệt vời cho ngày nghỉ cuối tuần mà chẳng
cần phải đi đâu xa.
Chưa hết, cứ theo đà, lan sang cả những bản nhạc tiêu
Trung Hoa mà trước đây tôi mới nghe qua trong các phim cổ trang võ hiệp như Tây Du ký (Tây vương nữ quốc), Thủy Hử (Túy Hồng nhan), Xạ điêu anh hùng truyện (Bích Hải triều
sinh khúc) chuyển thể từ tiểu thuyết chưởng Kim Dung, và một số bản khác như Họa tâm, Tuyết hoa thần kiếm v.v... Mỗi bản một sắc thái riêng và đều rất
hay...
Tự nhiên, lại nhớ, ngày xưa, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, nghệ sĩ sáo trúc Đinh Thìn biểu diễn, tâm
hồn ngây ngất. Và hình như, những bản sáo trúc ngày ấy đã thấm vào lòng tôi từ
bao giờ chẳng rõ, chỉ biết đã góp phần nuôi dưỡng và thúc đẩy hoài bão học
hành, để được đi đây đó, và khát khao sáng tác văn thơ... Tôi biết ơn về những
giai điệu sáo trúc ấy. Giờ nghe lại những giai điệu ấy, dù là người khác biểu
diễn với bản phối hiện đại hơn cho phù hợp với thời cuộc, thì vẫn hấp dẫn tôi
lắm. Nghe mà như an ủi, vỗ về và gột rửa tâm hồn mình vậy!...
Trong các nhạc cụ dân tộc, bộ gõ, đàn bầu, đàn tranh,
sáo trúc, nhị ... mỗi thứ một độc đáo, một hay riêng, song với tôi, thích nhất
là nhị và sáo trúc. Cùng dân dã, gần gụi, đời thường, nhưng nhị có cái nỉ non,
da diết, não lòng, còn sáo trúc thì bay bổng, mênh mông, thanh tao và trong
sáng...
Tự thân, mình hiểu và biết ơn cuộc sống về những điều
đơn giản ấy.
8. Chuyện tết Ta hay tết Tây,
Lại chuyện ăn tết Ta hay tết Tây?
Đây không phải là chuyện mới, bởi từ vài ba năm trước,
có mấy vị thuộc diện người của công chúng, trong đó có một nữ tiến sĩ, công
khai đặt vấn đề rằng, thay vì ăn tết Ta (tết
Âm lịch, Nguyên đán cổ truyền), thì xứ ta cũng nên ăn tết Tây (tết Dương lịch) như nhiều nước phát
triển, cho tiết kiệm mà lại phù hợp với thời đại tiên tiến hiện nay. Cũng đã có
nhiều ý kiến bàn luận về vấn đề này trên các phương tiên thông tin đại chúng và
trang cá nhân, bày tỏ ý kiến của mình, đồng tình cũng có, nhưng chủ yếu là
không đồng tình, thậm chí phản đối gay gắt với đề xuất này. Tôi đã có một bài
viết nhan đề “Tết cổ truyền, một giá trị văn hóa Việt không thể thay đổi”,
đặng khẳng định giá trị bền vững của tết Âm lịch cổ truyền trong nền tảng văn
hóa của người Việt.
Năm nay, trước tết Nguyên đán, vị tiến sĩ nọ, lại một
lần nữa lên tiếng đòi thay tết Nguyên đán cổ truyền bằng việc ăn tết Tây, (tết Dương lịch) như các nước Âu Mỹ, cùng
nhiều nước phát triển khác và chỉ cần nghỉ 3 ngày là đủ. Dĩ nhiên, để biện luận
cho đề xuất của mình, vị này đã nêu ra những lý do, như tiết kiệm về kinh tế,
tăng thời gian lao động trong năm, phù hợp với các nước phương phát triển đang
ăn tết Dương lịch sẽ thuận lợi cho việc ký kết làm ăn kinh tế … Tôi không phản
đối những lợi ích mà vị tiến sĩ này nêu ra, tuy đây mới chỉ là suy đoán đơn
thuần, và cũng chỉ ở một khía cạnh hẹp của vấn đề mà thôi.
Xin nhấn mạnh, vị tiến sĩ nọ, khi bàn chỉ thấy được
các lợi ích suy đoán từ văn minh vật chất, mà chuẩn là văn minh Âu Mỹ. Ở đây,
vấn đề cốt yếu thuộc về văn hóa vả những lợi ích từ góc độ văn hóa tinh thần
Việt mang lại, nó có ý nghĩa lớn lao, sâu xa, thấm vào máu thịt con người ta từ
hàng ngàn năm nay rồi…
Để công bằng, trước khi nói về văn hóa Việt trong
chiếc nôi chung của hệ tư tưởng, văn hóa phương Đông, tôi mạn phép bàn chút ít
về tết Dương lịch. Các nước phương Tây, và một số nước phát triển khác ăn tết
Dương lịch, vì đây là cách tính toán và phân chia tiết đoạn thời gian theo lịch
pháp Công lịch, phù hợp với điều kiện địa lý, thiên văn, xã hội, tôn giáo và
lịch sử hình thành, và đã trở thành văn hóa của họ mấy nghìn năm rồi. Nói vậy,
trong đời sống dân gian, ở đây đó mỗi quốc gia, người dân vẫn duy trì tập quán
ăn tết riêng của họ với quy mô nhỏ, vùng miền, khu vực. Điều đó cho thấy, văn
hóa có tính bền vũng rất cao. Thêm nữa, những quốc gia ăn tết Dương, phần lớn là
những nước theo Công giáo (Thiên chúa
giáo), nên cùng với tết, còn có ngày lễ Giáng sinh (Noel), kết nối thành một chuỗi sự kiện với các phong tục như cây
thông Noel, ông già Tuyết trên chiếc xe trượt do tuần lộc kéo, rồi ngày hội mua
sắm (ngày thứ Sáu đen tối) vv… Và
cũng đừng nghĩ họ ăn uống đơn giản tiết kiệm đâu. Với chục ngày đến nữa tháng
nghỉ tết, đây là dịp họ thư giãn tinh thần, xả tress sau cả một năm làm lụng,
tiêu pha vui chơi, chuẩn bị tinh thần cho một năm làm việc mới.
Cũng vậy, phong tục ăn tết Nguyên đán ở xứ Việt mình,
cùng các nước khác như Trung Quốc lục địa, Đài Loan, Triều Tiên, hoặc như các
nước ăn tết theo Phật giáo Tiểu thừa (Bunpimay
của Lào, Cholchnamthomay của Campuchia)… có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng
của người dân nước mình. Ở đây, nó vừa có ý nghĩa tinh thần lớn lao, vừa khẳng
định bản lĩnh văn hóa của mình trước sự xâm lăng về văn hóa tinh thần của văn
hóa văn minh Âu Mỹ nói chung. Nói như vậy, không có nghĩa là ta chối từ văn hóa
văn minh Âu Mỹ, bởi hiện nay đang có sự giao thoa về văn hóa và chúng ta vẫn biết
tiếp nhận có chọn lọc. Cũng đừng nói đơn thuần, tết nhất ăn uống, mua sắm tốn
kém, bởi lao động là để phục vụ cho nhu cầu đời sống của chính chúng ta kia mà,
chứ đâu có phải như lão già keo kiệt Grang-đê của Balzac, chỉ biết bóp mồm bóp
miệng, khoái mỗi việc ngày ngày dốc tiền vàng ra đếm chỉ để ngắm và nghe tiếng
va chạm leng keng của chúng.
Thêm nữa, việc tổ chức ăn tết theo phong tục cổ
truyền, còn là dịp để kích cầu tiêu dùng, là cơ hội để kinh doanh du lịch (du lịch nội địa và du lịch quốc tế đến Việt
Tôi xin kể một câu chuyện có thật về phong tục và tính
bến vững của tết âm lịch cổ truyền xứ ta ở góc độ gia đình. Ấy là câu chuyện
bên ngoại của tôi. Bà ngoại tôi có hơn chục người con, dần theo năm tháng, các
gia đình bên ngoại tôi phát triển, làm ăn tứ tán, và nhà nào cũng đông con
cháu. Ông ngoại tôi mất sớm, còn bà ngoại và một cậu út sống trong khu vườn nhà
của tổ tiên để lại rộng cỡ 5 sào đất, với ngôi nhà cổ cửa bức bàn, lợp ngói ta.
Chẳng biết quy ước này hình thành từ bao giờ, song tôi biết, khi tôi còn bé
xíu, thì cứ hằng năm, vào ngày mồng 2 tết, tất cả các con cháu của bà, dù sinh
sống ở đâu, hễ có điều kiện đều về, trước là chúc thọ bà, sau là anh chị em,
con cháu gặp gỡ nhau, ăn bữa cơm trưa mồng 2 tết, rồi lại tứ tán, ai về nhà
nấy. Sau này, bà ngoại tôi mất đi, thì cậu út vẫn duy trì phong tục ấy, mồng 2
tết các nhà về thắp hương tổ tiên, chúc tết gia đình cậu út, anh chị em và con
cháu hàn huyên, có những năm đông người cỡ hơn trăm, cơm trưa mồng 2 vài chục
mâm… Thật vui và đầm ấm, ý nghĩa. Cứ thế vài ba chục năm nay. Lâu ngày, cũng có
cái mệt, cái phiền cho cậu út. Cậu bèn đề xuất một cách khác, ấy là việc tụ tập
con cháu trong đại gia đình được thực hiện vào ngày mồng một tết Dương lịch,
còn mồng 2 tết Âm lịch, ai có điều kiện thì về, chứ không theo quy ước cũ. Cậu
út thông báo đến các nhà trước gần nữa năm vào ngày giỗ bà ngoại tôi, mọi người
gập gù ra chiều tán thưởng. Thế nhưng, mồng 1 tết Dương năm ấy, ngoài nhà cậu
út, nhà một người dì tôi sống cạnh đấy, thì chỉ còn người cháu trưởng là lóc
cóc từ Hà Nội về quê ăn tết Dương, Cậu út buồn quá vì quy ước mới không được
thực hiện. Và rồi, mồng 2 tết Âm ấy, mọi người theo thói quen cũ lại về, tuy
không đông đủ như những năm trước. Cậu út cười trừ, bảo thôi, giờ cứ theo quy
ước cũ, mọi nhà về quê vào ngày mồng 2…
Chuyện ấy cũng đã dăm năm nay rồi. Không một ai nhắc
lại nữa, và chẳng cần thông báo, theo thói quen, mồng 2 tết Nguyên đán, các nhà
lại nô nức về quê …
9. Văn chương thiên hạ trong mắt tôi,...
Tôi tự nhận mình là một con mọt sách. Bản thân đã đọc
hàng ngàn, vạn cuốn sách. Song chữ nghĩa sách vở trong thiên hạ thì ức triệu,
chẳng một ai có thể đọc xuể. Thế nên, cái mà mình để mắt đến chỉ là giọt nước
trong biển cả, hạt cát trong sa mạc mà thôi, chẳng thể làm suy suyển cái gì và
ảnh hưởng một ai !
Song le, dẫu phần đọc được của mình
chỉ bé tí tẹo, kiến văn còn hạn hạn hẹp và thiển cận, thì mình cũng có ý thích
riêng, cách nghĩ riêng và quyền đánh giá riêng.
Có thể coi đây là tự bạch của tôi về
văn chương thiên hạ:
Nền thi ca xuất sắc nhất: Thơ Đường (Trung Quốc).
Nền tiểu thuyết xuất sắc nhất : Tiểu
thuyết Pháp.
Nền văn học dân gian xuất sắc nhất :
Trung Quốc.
Nền tư tưởng triết học giàu giá trị
văn học: Trung Hoa cổ đại- Hy La cổ đại - Ấn Độ cổ đại - Pháp cận đại.
Nhà văn nghĩ đến đầu tiên : Tào Tuyết
Cần.
Nhà văn xuất sắc nhất : Tào Tuyết Cần-
Lev Nikolaievits Tolstoi- Yasunari Kawabata- Honoré de Balzac.
Nhà thơ xuất sắc nhất : Lý Bạch-
Rabindranath Tagore- Sergei Alesandrovits Exenin- Nguyễn Du.
Nhà soạn kịch xuất sắc nhất :
Sophokles - William Shakespeare- Anton
Pavlovits Tsekhov - Tào Ngu.
Nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc nhất
: A.P. Tsekhov- Guy de Maupassant- Ivan Alekseyevits Bunin - Stefan Zweig .
Nhà văn viết cho thiếu nhi xuất sắc
nhất : Maksim Gorki
Nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc
nhất : Erich Maria Remarque.
Nhà văn viết về thiên nhiên hay nhất :
Mikhail Mikhailovish Prishvin
Nhà văn viết về tình yêu hay nhất :
I.S. Turgenev.
Nhà văn viết chân dung văn học xuất sắc
nhất : Konstantin Georgijevitsh Pautovsky.
Nhà văn kể truyện cổ tích hay nhất :
Hans Christian Andersen.
Nhà văn viết về cái ác xuất sắc nhất:
Phedor Mikhailovits Dostoievki
Nhà văn kể truyện ngụ ngôn hay nhất :
Jean de La Fontaine.
Nhà văn viết truyện lịch sử xuất sắc
nhất : Thi Nại Am, Alecxandre Dumas Cha - Walter Scott .
Nhà văn viết truyện kiếm hiệp xuất sắc
nhất : Kim Dung.
Nhà văn viết truyện trinh thám hay
nhất : Arthur Conan Doyle.
Nhà văn viết tạp văn hay nhất : Lỗ
Tấn, Giả Bình Ao.
Tác phẩm hấp dẫn nhất : Tam Quốc diễn
nghĩa (La Quán Trung).
Tiểu thuyết xuất sắc nhất : Hồng Lâu
Mộng (Tào Tuyết Cần)- Chiến tranh và
Hòa bình (L.N. Tolstoi)-Don
Kihoté (M.de Cervantes)- Nhà thờ Đức bà Paris (Victor Hugo)
Tác phẩm thần thoại hay nhất : Thần
thoại Hy Lạp.
Tác phẩm sử thi hay nhất : Mahabharata
(Ấn Độ).
Trường ca hay nhất : Iliade - Odyssée
(Homère) - Evgeni Onegin (Aleksandr Sergeevits Pushkin).
Tác phẩm kịch hay nhất : Âm mưu và
tình yêu (F. Schillier)
Tác phẩm du ký hay nhất : Bút ký người
đi săn (I.Turgeniev).
Tác phẩm văn học ấn tượng nhất : Ruồi
Trâu (Ethel Lilian Voinits)
Tác phẩm viễn tưởng hay nhất : Hai vạn
dặm dưới biển (Jules Verne).
Tác phẩm cho thiếu nhi hay nhất :
Không gia đình (Herto Malot)- Hoàng
tử bé (Antoine de Saint-Exupéry) -
Cánh buồm đỏ thắm (Aleksandr Grin ).
Tác phẩm ấn tượng nhất đầu đời :
Pinocchio- cậu bé người gỗ (Carlo Collodi)
Tác phẩm văn học ly kỳ nhất : Rôbinxơn
Crusô (Daniel Defoe)
Tác phẩm văn học kỳ quái xuất sắc :
Liêu Trai chí dị (Bồ Tùng Linh)- Đồi gió hú (Emile Bronti) - Người cười (Victor
Hugo).
Tác phẩm văn học bi tráng nhất : Taras
Bulba (Nikolai Vasilievits Gogol).
Truyện danh nhân xuất sắc nhất :
Napoleon Bonaparte (E. Taclé)
Tiểu thuyết hoành tráng nhất : Sông
Đông êm đềm (M.K. Sholokhov)
Tiểu thuyết văn học khó đọc nhất : Đi
tìm thời gian đã mất (Marcel Proust).
Tác phẩm văn xuôi giàu chất thơ nhất:
Những vì sao (Alphonse Daudet)-
Chuyện núi đồi và thảo nguyên (Tsinghit
Aimatov)-
Tác phẩm văn học viết về con vật hay nhất
: Tiếng gọi nơi hoang dã (Jack London).
Tác phẩm văn học khôi hài nhất : Đất
vỡ hoang (M.K. Sholokhov).
Tác phẩm văn học thác loạn nhất : Kim
Bình Mai.(Tiếu Tiếu Sinh).
Tác phẩm có nhân vật điển hình hóa
nhất : Ơgieni Grandé (O. Balzac) -
Otelo (W. Sheakspeare)- Don Juan
& Tartuff (Molière) - A.Q. chính
truyện (Lỗ Tấn)
Tác phẩm văn học dựa trên nhân vật có
thật xuất sắc nhất : Tây Du Ký (Ngô Thừa
Ân), Thủy Hử (Thi Nại Am).
Tác phẩm triết học giàu tính văn học
nhất: Nam Hoa Kinh (Trang Tử).
Tác phẩm triết học-văn học lý thú nhất
: Đạo Đức Kinh (Lão Tử).
Tác phẩm triết học-văn học giàu tính
giáo khoa nhất : Luận Ngữ (Khổng Tử)
.
Tác phẩm sử giàu tính văn học nhất :
Sử ký (Tư Mã Thiên).
Tác
phẩm lý luận & phê bình văn học thích nhất: Tùy Viên thi thoại (Viên Mai).
Tác phẩm bộ ba thích nhất : Bông hồng
vàng-Một mình với mùa thu- Bình minh mưa (K.G.
Pautovsky) , Thời thơ ấu-Kiếm sống-Những trường đại học của tôi (M. Gorki) , Ngàn cánh hạc-Xứ Tuyết-Tiếng
rền của núi (Y. Kawabata).
Nhân vật nữ thích nhất : Acxinhia (Sông Đông êm đềm)
Nhân vật nam thích nhất : Ác-tơ -Ruồi
Trâu (Ruồi Trâu).
Nhân vật đáng ghét nhất : Iagô (Kịch
Ôtelô).
Nhắc lại, đây là ý thích và sự đánh giá, quan điểm của
riêng tôi!...
10. Nghĩ & Viết,
Đúng ra, tôi đã có thể có một cuốn sách riêng về phê
bình văn học từ chục năm trước. Giờ thì tôi phải kỳ cạch viết lại. Thật theo
đúng nghĩa đen. Tôi đã sớm có ý định viết tiểu luận và phê bình văn học từ lâu
rồi, khi mình còn sung sức, hăng hái, và còn dành thời gian để đọc nhiều... (như lời khuyên của một nhà văn-nhà phê bình
văn học đàn anh, người đã từng hơn một lần khuyên tôi nên dành nhiều công sức
cho mảng phê bình văn học, bởi ông nhận ra, tôi có khả năng làm việc ấy).
Số là, tôi đã viết tiểu luận hàng ngày, xếp mục theo
số và đã có 34 đề mục đã được viết ra, thế
mà chỉ một động tác sai trên máy vi tính, bỗng chớp mắt thành công cốc,
toàn bộ mất tăm. Ngày ấy, trình độ IT của tôi ú ớ lắm, mà cả đám người quanh
tôi cũng gà mờ nốt, nên chẳng một ai biết cách, bày cho tôi hoặc giúp tôi lấy
lại những bài viết đã vô tình bị xóa đi (delete),
mà thực ra, khi ấy, tôi cũng không hiểu vì sao lại mất hết. Giờ thì việc ấy ngon ơ. Ôi, mặt trái của hiện
đại hay là sự ngu dốt của cá nhân ? Cả hai …
Khi ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ. Biết là khó lấy lại được,
tôi còn duy tâm, lẩn thẩn nhẩm cộng con số 34 mục ấy thành con số 7 (3+4= 7),
mà 7 là thất, và thất còn là mất. Thảo
nào, sao nó không mất ngay từ mấy mục đầu cơ chứ? Thấy tôi than thở tiếc rẻ, một cậu trẻ tuổi,
người đã loay hoay toát mồ hôi mà chẳng lấy lại được gì giúp tôi, vừa giấu dốt
vừa tìm cách an ủi tôi, bảo :"Thôi
đành anh ạ, nhưng mà anh lại có điều kiện để sáng tác lại, biết đâu đấy, còn
hay hơn". Đúng vậy chăng ? Thôi thì đấy cách duy nhất… Viết lại, rất có
thể không bằng, song biết đâu đấy, lại hay hơn thật chăng ?…
Viết.
Đúng là một nghề cực khó.
Tại sao lại chọn nghề này nhỉ? Số phận đưa đảy. Mặc dù
từ nhỏ tôi đã mê đọc sách và trở thành một con mọt sách, song cũng chẳng bao
giờ nghĩ đến gắn đời mình vào chuyện viết lách. Có lẽ manh nha từ cái ngày tôi
học lớp 8 Trường cấp 3 Văn Lâm. Ngày ấy, thày giáo dạy văn là thầy Lê Thường,
người Hà Nội. Thấy tôi học khá văn và chữ viết đẹp nên thầy hay nhờ tôi chép
lại một số bài tập làm văn khá của học sinh do thày chọn lựa làm tư liệu giảng
dạy riêng. Rồi thêm, những câu chuyện về anh em nhà thơ thần đồng Trần Đăng
Khoa (Trần Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa) cùng một số bài thơ của cu cậu này, mà
nhiều buổi lên lớp thầy Lê Thường hay mang ra nói chuyện, đã phần nào nhen nhóm
đốm lửa nhỏ về văn chương trong lòng tôi. Và cái đốm lửa nhỏ xíu ấy dù có ấp ủ
đến nhường nào cũng chẳng cháy lên thành tia lửa được nếu như không có một
chuyện tình cờ khác. Ấy là vào mùa xuân năm 1975, tôi tham dự kỳ thi học sinh
giỏi văn lớp 10 cấp tỉnh và trúng tuyển vào đội tuyển của tỉnh tham dự kỳ thi
học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, được triệu tập về bồi dưỡng 3 tháng ở trường
cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương. Ở đấy, trong 21 thành viên, có Trần Đăng
Khoa và Trịnh Bá Ninh, đấy là những người sau đó ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc
sống, nghề nghiệp và chuyện theo nghề viết của tôi sau này. Và thế là đốm lửa
đã thành tia lửa. Lẽ dĩ nhiên, con đường nghề nghiệp, văn chương đã và sẽ còn
là con đường gian truân, song bước đầu là thế …
Tôi nhớ, hơn một lần Trần Đăng Khoa nói rằng, về cái
việc viết phê bình, bình luận văn học thì dân viết chuyên nghiệp (ý nói những người chỉ chuyên về lý luận và
phê bình văn học) còn khuya mới bằng được dân viết văn một khi họ nhúng tay
vào làm việc này. Trần Đăng Khoa còn viện dẫn đến nhà văn Nguyễn Tuân, người đã
từng nói thế và làm thế. Thêm một bằng chứng là chính bản thân Trần Đăng Khoa,
khi viết phê bình cũng đặc sắc và nhanh chóng nổi tiếng chẳng kém gì sáng tác
thơ xưa kia, khi còn nhỏ. Và quả là, so với một số nhà lý luận phê bình của
Việt Nam được đánh giá là xuất sắc hiện nay thì rõ ràng Trần Đăng Khoa không hề
thua kém gì, nếu không muốn nói là còn nhỉnh hơn nhiều nhà lý l;uận, phê bình
văn học chuyên nghiệp.
Nêu ra ý này, là tôi muốn nhắm đến một hiện tượng xuất
sắc khác là phê bình Nguyễn Huy Thiệp. Với tập Giăng lưới bắt chim, ông sớm thuộc vào hàng những người viết phê
bình và tiểu luận văn học xuất sắc, chí ít theo ý tôi là vậy!
11. Hiện tượng & hiệu ứng U23 VN,
2018...
Sau chiến thắng lịch sử của bóng đá Việt Nam, U23 của
ta chiến thắng U23 Qatar sau 120 phút thi đấu và loạt sút luân lưu 11m, để có
mặt tại trận chung kết, tôi định không viết gì, ngoài chuyện phiếm bên lề,
chuyện vui lúc trà dư tửu hậu. Nhưng rồi, cảm giác như có lỗi nếu mình không
viết một chút gì đó, bởi đây là thời khắc lịch sử hiếm có, sẽ chẳng bao giờ lặp
lại.
Vậy thì viết, song viết gì và viết khi nào?
Tôi chọn thời điểm viết bài này vào giữa khoảng thời
gian, sau khi kết thúc trận đấu với
Xin không bàn về hiệu ứng xã hội từ kỳ tích này, mà
chỉ bàn về chuyên môn. Để lý giải "Hiện tượng U23 VN" tại Vòng
chung kết bóng đá U23 Châu Á, tại Trung Quốc, 2018, tôi đặt ra 5 câu hỏi và tự
trả lời,...
Nguyên nhân chiến thắng của U23 VN:
Thứ nhất: Chiến thắng từ thực lực đội U23 VN.
Điều này thì đã rõ.
Thể lực, đủ sức chạy 120 phút, lên công về thủ mà
không hụt hơi, liền mấy trận như vậy, dù thời gian nghỉ ngơi kém đội bạn.
Tinh thần, vững vàng, thể hiện ở chỗ, dẫn trước không
hưng phấn, chủ quan; bị dẫn trước, không nao núng, sụp đổ, rồi vỡ trận, hoặc
buông xuôi cho xong; ngay cả khi bị xử ép, cũng không nóng đầu gây sự mà chấp
nhận một cách điềm tĩnh; sự đoàn kết, đồng lòng, kết dính trong toàn đội và
từng vị trí...
Thứ hai: Chiến thắng từ tài ba của Huấn luyện viên,
Điều này, cũng đã rõ.
Giả thiết, cũng vẫn nhưng con người này, hoặc chất
lượng cầu thủ tương, thậm chí cao hơn (đã
từng có), nhưng được dẫn dắt bởi một ông Thầy khác (HLV), chắc chắn kết quả sẽ không bằng. Xưa nay, quân hùng phải có
Tướng giỏi mới thành công (còn thêm thiên
thời, địa lợi). Ông Park, không phải thầy Phù thủy có phép màu, mà là một
huấn luyện viên chuyên nghiệp, có tính kỷ luận cao, khoa học, chính xác trong
tuyển chọn cầu thủ vào đội tuyển, trong lựa chọn, thay người trong các trận
đấu, và quan trọng hơn, là biết cách khơi dậy tiềm năng, lòng tự trọng của mỗi
cầu thủ, sử dụng đấu pháp hợp lý cho từng trận đấu và từng thời điểm cụ thể
trên sân...
Thứ ba: Chiến thắng nhờ sự coi thường của đối thủ,
Điều này cũng rõ. Trước giải, U23 VN bị xem là vật lót đường, nói chung là các đội ở
khu vực Đông Nam Á cũng vậy. Khi U23 VN vào vóng Tứ kết, các đối thủ không dám
coi thường nữa, tuy nhiên, họ vẫn cho là ăn may, nên nôn nóng giải quyết trận
đấu trong 2 hiệp chính. Và nữa, sự tự kỷ ám thị, lo lắng bị thua đội chiếu dưới
dẫn đến sự thiếu tỉnh táo trong toàn đội và mỗi cầu thủ, trong khi, U23 VN đá
với một tinh thần không có gì để mất...
Thứ tư: Chiến thắng từ sự may mắn.
Điều này là có. Xưa nay, không riêng gì bóng đá, thể
thao, mà những việc khác, mỗi kết quả chiến thắng, mỗi thành công, bao giờ cũng
có phần của sự may mắn.
Thứ năm: Chiến thắng từ tất cả những lý do trên gộp lại,
Điều này là đương nhiên. Nếu thiếu đi một yếu tố nào
đó, kết quả hẳn sẽ không ngoạn mục như vậy.
Và các dự
đoán tương lai:
Thứ nhất: Kết quả trận chung kết,
Xét về thực lực trước trận chung kết, U23 Uzbekistan
có vẻ nhỉnh hơn một chút, song đã vào được đến đây, thì cơ hội thắng chia đều
cho cả hai, tức là tỷ lệ 50/50. Tuy nhiên, những ngày qua, từ một đội bị đánh
giá là vật lót đường, U23 VN đã đã đi
từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, đến mức, sau chiến thắng đội U23
Qatar, nhiều người đã phải thốt lên "Không
tin được dù đó là sự thật", nên giờ đây, thắng hay thua cũng không mấy
quan trọng, bởi việc vào đến Chung kết đã là một giấc mơ, một kết quả không
tưởng rồi, song cũng chẳng có lý do gì để người ta không mơ tiếp giấc mơ Vô địch. Đấy là điều mong muốn của hết
thảy dân Việt ta, nhưng nếu không thắng, người ta có tiếc nuối, chứ không ai nỡ
trách cứ, bởi đến đây, đã là tuyệt vời lắm rồi... Riêng tôi, chọn U23 ở kèo
dưới, và khi chọn như vậy, không phải là tôi không tin tưởng vào U23 VN, hay
như không 'biểu hiện lòng yêu nước",
đơn giản, khi thi đấu gì đó, nhất là thể thao nói chung và bóng đá nói riêng,
bị đánh giá thấp hơn sẽ cho một tâm lý thi đấu thoải mái, không chịu áp lực
phải thắng, và đấy, thực sự là một lợi thế không nhỏ.
Tôi nghĩ, về lý trí mà xét đoán, U23 VN không thắng,
nhưng về tình cảm lại mong thắng. Và mong muốn của tôi lúc này, là dự đoán của
tôi sai.
Thứ hai: Từ đội U23 VN hiện tại, nhìn nhận, đánh giá về bóng
đá trẻ VN.
Xuất phát điểm của nền bóng đã Việt
Thứ ba: U23 là tương lai tươi sáng của Đội tuyển Quốc gia,
Tôi không nghĩ vậy, bởi các lý do sau đây,
Từ thực tế những năm qua, cho thấy, chúng ta đã từng
có các đội trẻ như U16, U19, U21 và U23 chất lượng cao và thi đấu tốt (đương nhiên, xét về kết quả thì không vang
dội như U23 hiện nay) ở các giải đấu quốc tế khu vực, châu lục, thế giới,
nhưng khi trưởng thành, thì không mấy đóng góp cho đội tuyển quốc gia.
Nhưng tại sao vậy?
Từ sự tha hóa bởi chính các cầu thủ, đã từng có các
tài năng bóng đá trẻ như Văn Quyến, Quốc Anh, Quốc Vượng v.v... nhưng rồi lối
sống và lòng tham đã loại thải họ bằng sự sa sút phong độ, bằng nạn cá cược, án
kỷ luật, và thậm chí tù tội....
Từ sự lôi kéo, can thiệp, và nuông chiều theo chiều hướng
tiêu cực bởi các lực lượng khác như ông bầu, huấn luyện viên, đồng đội, thậm
chí trọng tài và xã hội đen,... Điều ấy, nhanh chóng hoặc dần dần biến tướng họ
thành con người khác. Trẻ em như tờ giấy trắng, một số đã tự bôi bẩn mình và để
người khác nhuộm đen họ.
Tâm lý và thực tế ở xứ ta, cho thấy, thành tích của
bóng đá, hay các môn thể thao khác phần lớn mang tính chất hình tượng "Phù Đổng", bỗng một ngày kia... tuy rằng đã có một số thành tích vang dội,
nhưng chỉ như vậy, nó vẫn là kết quả của bệnh thành tích, sẽ không lâu bền bởi
sự thiếu căn cốt. Căn bệnh khó chữa này có tên là "sự thiếu chuyên nghiệp". Hiện nay, không riêng gì bóng đá, nền
thể thao ở xứ ta nói chung, đang mắc nặng căn bệnh này!...
Điều này, tôi thật sự không mong muốn.
Dẫu sao, kỳ tích của U23 VN tại VCK U23 Châu Á, chúng
ta cũng có cái để mà hy vọng!... Và nếu như, điều đáng tiếc xảy ra, họ để tuột
mất chức vô địch, thì khi trở về, họ vẫn được đón tiếp như những nhà Vô địch...
@ PS: Cập nhật lúc 18h30 ngày 27.01. 2018:
Vậy là cuộc chơi đã kết thúc.
Chắc chắn, trận đấu này sẽ đi vào lịch sử bóng đá Việt
Cái cách mà hai đội Việt
Thời tiết trên sân khắc nghiệt và rất đặc biệt, nhất
là với riêng đội U23 VN, đá bóng mà như đi trượt tuyết vậy.
Lần thứ 3, U23 VN định đưa trận đấu vào loạt sút luân
lưu 11m cân não, nhưng bất thành, bởi bàn thua ở phút cuối cùng, phút 120 của
cầu thủ Sidorov vào thay người ở phút 119. Quá tam ba bận, khó lắm thay.
Có chút kém vui, chút tiếc nuối, ấy là dự đoán của tôi
đưa ra về kết quả cuối cùng, trước trận chung kết đã đúng, mặc lòng tôi mong nó
sai, nhưng bóng đá là vậy...
Cho dù thế nào, các chiến binh U23 VN dưới sự dẫn dắt
của ông Thầy xứ kim chi, HLV Park Hang Seo đã là nhà Vô địch trong lòng người
hâm mộ bóng đá Việt
Và nếu tôi không nhầm, đây sẽ là thành tích cao nhất
của vị huấn luyện viên này, kể cả khi ông vẫn tiếp tục dẫn dắt đội U23 và Đội
tuyển bóng đá Việt Nam, ngay cả khi ông đi tìm kiếm vận may ở nơi khác đi chăng
nữa,...
Mong là, thành công này, sẽ là một sự doping về tinh
thần, một cú huých đích đáng cho bóng đá xứ ta nhích lên !...
12. Phỏng vấn nhà văn Võ Huy Tâm
Trong hành trình làm báo của mình, gặp gỡ, hỏi chuyện
các nhà văn, nhà thơ hoặc các văn nghệ sĩ khác, để phục vụ cho nghiệp vụ báo
chí của mình hay đơn thuần thỏa chí tò mò, bao giờ cũng có cái ký thú riêng.
Với tôi, trong tư cách của người làm báo chuyên nghiệp, hoặc tư cách của một
người sáng tác văn thơ, tôi đã từng gặp một số vị nổi tiếng trong làng văn
chương xứ ta, như Văn Cao, Anh Thơ, Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Tào Mạt, Ma
Văn Kháng, Phạm Hổ, Võ Huy Tâm, Phùng Quán, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Huy Thiệp
v.v... song có lẽ, cuộc gặp gỡ và phỏng vấn nhà văn Võ Huy Tâm là cho tôi ấn
tượng mạnh và thú vị nhất.
Số là, năm 1995, nhằm kỷ niệm 50 cách mạng Tháng Tám
thành công, tôi làm chủ biên, cùng hai đồng nghiệp là nhà báo Nguyễn Huấn và
Trần Nhật Minh, được Ban biên tập Văn hóa Xã hội của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) giao thực hiện một chương trình Tạp
chí truyền thanh với thời lượng 45 phút, về chủ đề này. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng,
chúng tôi quyết định chọn cái tứ của
Tạp chí, ấy là so sánh sự thay đổi về đời sống ở thời điểm trước năm 1945 với
thời điểm hiện tại của hai thành phần cốt cán là nông dân và công nhân. Và để
thể hiện điều này, chúng tôi chọn sự biểu hiện thông qua các tác phẩm văn học
hiện thực ở thời điểm trước năm 1945, của hai nhà văn tiêu biểu là Ngô Tất Tố (
với Tắt đèn, Việc làng ) và Võ Huy
Tâm ( với Vùng Mỏ ). Với mảng nông
dân, vì nhà văn Ngô Tất Tố đã mất từ lâu, nên chúng tôi tìm đến quê hương của
nhà văn Ngô Tất Tố ở Mai Lâm, Đông Anh (Hà
Nội) để gặp gỡ người thân của ông và bà con nông dân trong vùng,... Xin
phép không kể ở đây. Còn mảng công nhân, có vẻ thuận lợi hơn, khi nhà văn Võ
Huy Tâm đang sống ở Cẩm Phả, Quảng Ninh. May mắn, ở thời điểm ấy, Võ Huy Tâm
sau một thời gian dài sống trong ngôi nhà tạm trong vùng núi để dạy chữ cho đám
trẻ thất học, đã về lại phố, ở ngôi nhà tầng mới khang trang do các công ty
Than trợ giúp dựng tặng...
Để gặp được nhà văn Võ Huy Tâm, chúng tôi phải bắt đầu
và nhờ cậy nhà văn Dương Hướng, khi đó đang làm việc ở Hải Quan Quảng Ninh và
đã trở thành nổi tiếng bởi tiểu thuyết Bến không chồng rồi. Dương Hướng vui
vẻ nhận lời, nhưng anh bảo cũng không rõ địa chỉ cụ thể nhà của Võ Huy Tâm, nên
chỉ dẫn chúng tôi đến nhà của nhà thơ Trần Ngọc Tảo, hy vọng nhà thơ biết rõ.
Khi đến nhà Trần Ngọc Tảo thì vợ ông cho biết là ông vắng nhà, cũng vừa ra khỏi
nhà thôi, nghe đâu như đến nhà của nhà văn Tô Ngọc Hiến, rồi rủ thêm ai nữa đi
rượu thịt cầy. Nguyễn Huấn nửa cười nửa mếu, bảo: "Trời mưa gió thế này, các bố nhà mình đi rượu thịt chó là nhất trần
đời, còn gì bằng nữa, trong khi các con đang khổ ái thế này đây, mấy bố ơi".
Tôi thì ngao ngán thật sự. Đận ấy, không hiểu áp thấp nhiệt đới chi đó mà trời
Đông bắc mưa tầm tã. Đã gần trưa rồi mà vẫn chưa được việc gì, trong khi công
việc gấp, kiểu gì đêm tối cũng phải về đến Hà Nội. Lúc ấy, chưa có điện thoại
di động như bây giờ, đành kéo về phòng làm việc của nhà văn Dương Hướng. Lại
điện thoại một hồi, rồi Dương Hướng cũng hỏi được địa chỉ nhà riêng của Võ Huy
Tâm.
Tạm biệt Dương Hướng, xe chúng tôi nhằm hướng Cẩm Phả
trong trời mưa không dứt, lúc thưa lúc mau, qua Cọc 6, rồi thị xã Cẩm Phả cũng
hiện ra trong màn mưa. Đường phố ngập sũng, nhiều lúc mưa mau kính gạt nước
không xuể, lại dò dẫm hỏi đường một hồi, cuối cùng cũng tìm đúng nhà của ông.
Bà vợ ông ra mở cửa, lúc ấy đã quá ngọ.
Vừa mời khách, bà vừa gọi ớ lên gác: "Ông ơi, có các nhà báo của Đài Tiếng nói
Việt nam, từ Hà Nội xuống, muốn gặp ông đây này". Nghe tiếng ông í ới
trên gác mà mùng. Ông xuống cầu thang, miệng nói oang oang, nhưng chân loạng
choạng, tay bám thành cầu thang mà xuống. Sau một hồi giao đãi, tôi hiểu ông đã
ngà ngà say. Mà ông cũng tự nhận là vừa cơm trưa xong, có làm dăm ba chén, vừa
mới lên gác ngủ trưa thì chúng tôi ập đến. Tôi trực tiếp phỏng vấn, Trần Nhật
Minh thì chuẩn bị máy và bấm máy thu, còn Nguyễn Huấn lăng xăng vòng ngoài, chủ
yếu lựa góc chụp ảnh bằng cái máy ảnh nhãn hiệu Pratica cũ kỹ của mình. Tuy vẫn
chủ động đặt câu hỏi, song tôi mặc cho ông nói thoải mái, chủ yếu là những gì
liên quan đến thực tế và quá trình ông viết tiểu thuyết Vùng Mỏ. Ông cao hứng, nói rộng ra nhiều chuyện, đặc biệt ông còn
nhớ hết một bài vè dài mô tả đời sống thợ thuyền ở vùng than thời Pháp thuộc.
Buồn cười nhất, vì ông đang ngà ngà, lại quá cao hứng, nên tôi liên tục phải
điều chỉnh khoảng cách hợp lý từ chiếc micro đến miệng ông sao cho âm lượng thu
thanh vừa đủ, không quá to, quá nhỏ. Thấy vậy, hình như ông cũng ý thức được
điều này, nên đang cao hứng ông lại hạ giọng như thì thầm, hoặc im bặt giây
lát,... Tôi chỉnh chiếc mic gần miệng ông thì ông lại ngả người ngửa đầu ra
phía sau, cứ như ông sợ, hay né tránh chiếc mic vậy. Thấy tôi như đánh vật với
chiếc mic, Nguyễn Huấn và Trần Nhật Minh bụm miệng cười.
Ngộ nhất, đang trả lời phòng vấn, chợt Võ Huy Tâm nhớ
ra, và à lên, gọi vợ: "Bà nó, lên
gác lấy cái chai rượu của tôi đang uống dở, chạy ù ra phố, mua thêm rượu về đây
để tôi đãi các chú nhà báo ở Đài Tiếng nói Việt nam". Vợ ông thần
người ra ngần ngại, phần vì ông đã say mèm, phần vì ngoài trời mưa gió là thế,
nhưng hiếu khách thì không thể không đi, nên khi bà lên gác lấy chai, chúng tôi
đã can bằng được ông và nhất quyết từ chối, lấy cớ xong việc phải về Hà Nội gấp
cho việc dàn dựng chương trình này. Vậy ông mới thôi.
Xong việc, ông khoe là dạo này có làm thơ, rồi tự mình
lên gác lấy xuống mươi bài thơ của ông được đánh máy trên giấy xấu, tặng cho
tôi và anh em trong đoàn công tác dọc chơi. Những bài thơ ấy, tôi đã đọc kỹ, viết
giới thiệu trên đài báo, "Võ Huy
Tâm, một chút thơ để lại đời", và sau này, tôi có cho in trong tập sách
chân dung văn học của tôi (Trời đất thu hay lòng ta thu-NXB Dân trí, 2016). Tôi cũng không rõ,
những bài thơ ấy, ông đã in ở báo chí hay tập sách nào chưa?
Rời nhà Võ Huy Tâm, trời đã sang chiều, mưa cũng đã
ngớt dần, đường phố Cẩm Phả vẫn ngập chìm trong nước. Lúc ấy, ai cũng cảm thấy
đói meo, bảo nhau tìm một quán ăn nào ăn tạm cho đỡ đói. Tuy đói mệt là vậy,
nhưng ai cũng vui vì được việc, vì sự thú vị hài hước từ cuộc gặp gỡ và phỏng
vấn nhà văn...
Đây cùng là một kỷ niệm đầy ấn tượng và đáng nhớ trong
hành trình làm báo với riêng tôi !...
Nhàn đàm về thư pháp
Mỗi mùa xuân về, mỗi dịp Tết cổ truyền dân tộc, cùng
với các phong tục ẩm thực, có nhiều thú chơi cây hoa, trò chơi dân gian, diễn
xướng, nhưng thiếu thư họa thì ngày Tết cũng kém đi sự thú vị, tao nhã và ý
nghĩa về khía cạnh đời sống văn hóa tinh thần.
Người xưa có câu "Thứ nhất chơi chữ, thứ nhì chơi tranh", hẳn có cái lý của nó.
Chơi chữ ở đây, được hiểu là nghệ thuật Thư pháp, mà cụ thể hơn là nghệ
thuật viết chữ Hán, cùng với hàm ý chứa đựng trong chữ nghĩa, còn có nghệ thuật
thể hiện như một bức tranh; thậm chí còn có cả nghệ thuật vẽ tranh (thủy mặc với các chủ đề sơn thủy, hoa điểu,
cây thú, các điển tích ...) trong cùng một tác phẩm, ấy là thư họa.
Trước hết, nghệ thuật thư pháp là dựa trên nền tảng
chữ Nho (chữ Hán), vốn cấu trúc cơ
bản có tính tượng hình, hội ý là chủ yếu, nên tự thân đã mang
tính chất đồ họa rồi. Đấy là cơ sở để người Trung Hoa sáng tạo ra nghệ thuật
thư pháp, rồi theo đó, cũng với sự chi phối về văn hóa nói chung, đã có sự lan
tỏa sang các nước và vùng lãnh thổ đã, đang và từng sử dụng chữ Hán và nền giáo
dục khoa bảng như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Hongkong, Macau,
Singapore...
Với Trung Quốc, quốc gia sáng tạo ra nghệ thuật thư
pháp, người ta đã tìm thấy dấu vết của bộ môn nghệ thuật này từ thời cổ đại,
trên mai rùa, hang động, mộ cổ v.v... Sau này, người được nhắc nhiều và đem lại
dấu ấn trong nghệ thuật thư pháp đầu tiên là Lý Tư, vị Tể tướng dưới triều đại
Tần Thủy hoàng. Kế tiếp, là những cái tên như Âu Dương Tuân, Chử Toại Lương, và
huy hoàng nhất là Vương Hy Chi đời Đông Tấn, người được xưng tụng là Thánh thư, với tác phẩm thư pháp trứ
danh là Thiếp Lan Đình, được người
đời xem là đệ nhất thư pháp Đông Tây kim
cổ. Cùng đó, là những thư pháp gia nổi tiếng như Trương Húc, Liễu Công
Quyền, Nhan Chân Khanh, Triệu Mạnh Phủ, Mễ Phất, Hoàng Đình Kiên, Văn Trưng
Minh, Đổng Kỳ Xương, Trịnh Bản Kiều... Các hoàng đế Trung Hoa cũng nhiều người
có tài thư họa, mà điển hình là Tống Huy Tông (đời Tống), Khang Hy, Càn Long (đời
Thanh). Chủ tịch Mao Trạch Đông, và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân cũng được
xem là những người có tài thư pháp
Riêng Việt
Sau này, bẵng đi một thời gian dài, với sự phổ biến
phổ thông của chữ Quốc ngữ, và ngoại ngữ là tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh,
thì chữ Hán (cùng với sụ suy thoái của
nền giáo dục khoa bảng nói chung) thì chữ Hán dần bị xao nhãng. Thêm nữa,
các cuộc cách mạng, chiến tranh chống ngoại xâm (Pháp, Mỹ), thì không mấy ai còn nói đế thư pháp Hán Nôm nữa, kể cả
mỗi dịp Tết Nguyên đán. Người ta chỉ lo sắm sửa bánh chưng, giò chả, hoa đào,
hoa mai, chứ không quan tâm đến câu đối, xin chữ đầu năm. Vậy nên, bài thơ Ông
đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên mới làm người ta xao lòng đến vậy: “Mỗi khi hoa dào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bầy
mực Tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua... / Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu
bây giờ? “...
Cuộc sống dần lo đủ, chiến tranh đã qua lâu, như người
xưa nói, Phú quý sinh lễ nghĩa, nhiều phong tục chơi xuân, chơi Tết dần phục
hồi như chọi gà, cờ người, múa lân,...thì phong tục văn hóa chơi câu đối, tranh
dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, xin chữ đầu năm cũng hồi sinh...
Thoạt đầu, đó đây, người ta thấy xuất hiện tác phẩm thư
pháp của các nhà Hán Nôm như Tào Mạt, Nguyễn Văn Bách, Lê Xuân Hòa... rồi nữa,
một số người viết thư pháp bắt đầu xuất hiện bên hè phố cổ, phố cũ, cho chữ vào
mỗi dịp xuân tết như Lam Sơn Hồng Thanh, Cung Khắc Lược,... Sự xuất hiện của
nhà thư pháp trẻ Lê Quốc Việt, cùng nhóm Thư
pháp Tiền vệ của ông đồ trẻ này, đã đem đến sân chơi thư pháp một sinh khí
mới, khiến nhiều người trẻ tuổi theo học thư pháp, mà các cụ đồ già cũng phải
luyện chữ thêm để không bị tụt hậu sau cánh trẻ. Dần dà, kéo theo nhiều ông đồ
vốn từng học chữ Hán, tưởng vốn chữ ấy cất kỹ vào kho, thì nay lôi ra, ngồi
luyện bút lông, mực Nho, để mỗi dịp năm mới tràn ra tường ngoài Văn Miếu ngồi
cho chữ...
Tôi có biết chút chữ Nho, chủ yếu tự học từ gốc rễ nhà
Nho của fia đình, mươi năm nay, cũng tập tọng bút lông, chủ yếu là luyện chữ,
học thư pháp qua sách vở, đặng để mỗi dịp Tết cổ truyền, tự viết cho mình làm
vui, hoặc tặng cho người thân và bạn bè mà thôi. Bản thân yêu nghệ thuật thư
pháp, nên tôi tự sưu tầm, gom góp cho mình được vài chục bức thư họa, của Trung
Hoa có, của các ông đồ xứ ta có. Gần đây, tôi có giao du với vài ba nhà thư
pháp, thấy thích mà làm quen thôi, trong só đó, tôi thân với nhà thư pháp Thạch
Sơn Nguyễn Tường Khải (ông đồ này quê Thạch Thất, Sơn Tây, nên lấy hiệu là Thạch Sơn). Ông tuổi nhỉnh hơn tôi chút,
hồi đại học từng học Trung Văn, công tác nhì nhằng, rồi nghỉ hưu, khi tiếng Anh
lên ngôi, tiếng Trung, tiếng Nga thất thế, tưởng chẳng có việc gì làm, nhưng
rồi, vốn chữ nghĩa và kiến văn của ông lại được trưng ra với đời, nhờ sự hồi
phục của tục lệ xin chữ đầu năm. Tôi quý Nguyễn Tường Khải, ở chỗ, không như
nhiều ông đõ khác, chỉ đợi mỗi dịp xuân tết thì ra ngồi cho chữ với vốn liếng
vài chục câu chữ đại tự quen thuộc, ông đã mầy mò, luyện chữ bằng cách thủ bút thư
pháp những bài thơ Hán Nôm nổi tiếng xưa nay, như Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư, Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ... thậm chí, ông
còn thử sức với Thiếp Lan đình nổi
tiếng theo mẫu hành thảo của Vương Hy Chi xưa ... Tôi còn được biết, Thạch Sơn Nguyễn
Tường Khải đã từng được nhờ thủ bút bài
thơ Hán Nôm tặng một lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước vào dịp Tết Bính Thân
( 2016 )...
Có lần, Thạch Sơn Nguyễn Tường Khải nhẩn nha tâm sự
rằng "Nhu cầu con người ta là vô
hạn, thỏa mãn nhu cầu về vật chất đã khó, song thỏa mãn nhu cầu về hưởng thụ
văn hóa còn khó hơn ...".
Tôi hiểu, nhà thư pháp Nguyễn Tường Khải muốn đặt cái
nghiệp "cho chữ" mà ông
đang đeo đuổi vào hoàn cảnh này!... Giờ thì ông và các ông đồ bạn hữu đang thỏa
sức vung bút như rồng bay phượng múa nơi Hồ Văn, Văn Miếu dịp xuân Mậu Tuất
này, đặng đem lại niềm hứng khởi tinh thần cho mọi người !...
14. Non xanh nguyên vẻ cũ,...
Đây là một câu thơ trong bài thơ Lâm Giang tiên của Dương Thận, một thi sĩ đời Minh ở Trung Quốc.
Nếu chỉ có vậy, hẳn bài thơ này sẽ ít người biết, nhưng nó đã trở thành nổi
tiếng, bởi bài thơ này đã được phổ nhạc, thành bài hát đầu phim Tam Quốc diễn nghĩa, một bộ phim truyền
hình lịch sử được chiếu trên truyền hình Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước
khác bấy lâu nay, làm say mê triệu triệu người xem. Xin không bàn đến tính âm
nhạc hào hùng bi tráng của ca khúc này, mà chỉ bàn về phần lời mà thôi. Ấy là
bài thơ Lâm Giang tiên của Dương Thận
thi sĩ nọ...
Sở dĩ, tôi bàn về bài thơ này, là bởi, tôi cảm thấy
hài lòng khi vừa sưu tầm được một bức thư pháp thể hiện Lâm Giang tiên do Nhà thư pháp Đỗ Tụ thủ bút.
Bản chữ Hán:
臨江仙
滾滾長江東逝水,
浪花淘盡英雄。
是非成敗轉頭空。
青山依舊在,
幾度夕陽紅。
白髮漁樵江渚上,
慣看秋月春風。
一壺濁酒喜相逢。
古今多少事,
都付笑談中。
Bản âm Hán
Việt:
Lâm giang tiên
Cổn cổn Trường Giang đông thệ thuỷ,
Lãng hoa đào tận anh hùng.
Thị phi thành bại chuyển đầu không.
Thanh sơn y cựu tại,
Kỷ độ tịch dương hồng.
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,
Quán khan thu nguyệt xuân phong.
Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.
Cổ kim đa thiểu sự,
Đô phó tiếu đàm trung.
Dịch thơ:
Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Sóng
vùi dập hết anh hùng
Được,
thua, phải, trái, thoắt thành không
Non
xanh nguyên vẻ cũ
Mấy
độ bóng tà hồng!
Bạn
đầu bạc ngư tiều trên bãi
Đã
quen nhìn thu nguyệt xuân phong
Một
bầu rượu vui vẻ tương phùng.
Xưa
nay bao nhiêu việc
Phó
mặc nói cười suông
( Phan Kế Bính dịch )
Bài thơ giàu nhạc điệu, bi tráng và da diết làm sao,
vừa khơi gợi mà lại an ủi, vỗ về nỗi đau của con người, Như một triết lý nhân
sinh về chiến tranh, khiến người ta cảm hoài không thôi,... Thực lòng, khổ 2 bài
thơ này, học giả Phan Kế Bính dịch chữ nghĩa quá. Tôi yêu cách dịch mộc như lời
bài hát trong phim hơn "Bạn ngư tiều
giãi giàu trên bãi/ Tính đã quen gió mát trăng trong/ Một bầu rượu cũ vui bầu
bạn/ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng".
Tôi có thói quen, cứ mỗi độ xuân tết, tôi hay lang
lang ra Hồ Văn, Văn Miếu-Quốc tử giám, thưởng thức và trò chuyện với các ông Đồ
thời nay, rồi sưu tầm nhừng bức thư pháp ưng ý. Tôi đặc biệt thích những thư
pháp thể hiện cổ thi Hán Nôm, vì ngoài giá trị về hình thể thư pháp, mình còn
được thưởng thức hàm ý chữ nghĩa cao thâm của triết học và thi ca. Thế nên,
những bài thơ như: Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên, Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo, Phong
Kiều dạ bạc của Trương Kế, Lương Châu
từ của Vương Hàn, Tĩnh dạ tư của
Lý Bạch,... hay Cáo tật thị chúng của
Mãn Giác thiên sư, Thăng Long thành hoài
cổ của Bà Huyện Thanh Quan,v.v... được thể hiện bằng thư pháp, tôi đều
thích thú và cố gắng sưu tầm.
Năm nay, trước tết Nguyên đán, tôi rủ một người bạn
học, tên Hoàng Gia Trình, cùng chơi hội chữ Hồ Văn. Bạn tôi là người từng học
Trung Văn, lại là tín đồ của tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa (Đông Chu liệt quốc, Tam Quốc diễn nghĩa, Tây
Du ký, Thủy Hử truyện, Hồng Lâu mộng, Túy Đường diễn nghĩa, Kim Bình Mai, Thanh
Cung mười ba triều v.v...) và truyện kiếm hiệp Kim Dung. Tôi và anh có thể
hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm đàm thoại với nhau về sách vở loại
này. Vậy nên, hai chúng tôi vừa thưởng ngoạn thư pháp vừa trò chuyện về lịch sử
và các nhân vật... Rồi chúng tôi sà vào một thư quán của ông đồ có chòm râu dài
bạc trắng, ấy là Đõ Tụ. Phong thái và chòm râu bạc của ông Đồ này đã ấn tượng,
song mấy bức thư pháp ồng treo trên vách quán hấp dẫn chúng tôi hơn, đó là mấy
bức chép Phong Kiều dạ bạc, Lâm Giang tiên và Cáo tật thị chúng. Nét chữ cứng cáp nhưng vẫn khoáng đạt, uyển
chuyển với thể chữ Hành và Hành Thảo khiến chúng tôi thích thú. Vậy là hai
chúng tôi cùng ông đồ Đỗ Tụ đàm đạo một hồi và kết quả là tôi có trong tay bức
thư pháp Lâm Giang tiên trên giấy dó và Hoàng Gia Trình có Cáo tật thị chúng trên giấy điệp.
Trời mưa xuân rắc bụi nước mờ mịt làm khu Hồ Văn bỗng
trở nên sương khói chiều muộn...
Nỗi nhớ hoa Đào
(
Viết cho người tri kỷ )
Với riêng tôi, có 3 loài hoa tôi yêu
thích, mà mỗi khi thấy, trong lòng tôi lại dâng lên những xúc cảm sâu xa và mỹ
cảm về cái đẹp. Ấy là, hoa đào (phải là
đào phai rừng núi), hoa mai trắng (là
mai quân tử, hàn mai) và hoa thủy tiên,... Tại sao lại như vậy? Thật khó
giải thích ngọn ngành. Đơn giản, cứ coi như một sở thích tự nhiên, hay cũng có
thể xem như một sự tập nhiễm, từ khi nào chẳng rõ ?...
Nhưng hãy khoan, chưa vội bàn về ý
thích loài mai trắng và thủy tiên, chỉ nói về hoa đào núi... trước hết, như một
sự đền đáp cho người bạn thân của tôi ở phương Nam xa xôi, nơi không có hoa đào
nở mỗi độ xuân về, Tết đến với nỗi nhớ hoa đào của người ấy,...
Mùa xuân xứ Bắc, tết Nguyên đán, đã là
sự mặc định từ xa xưa, bánh chưng xanh, câu đối đỏ và hoa đào. Thiếu một trong
ba thứ ấy, tết là chưa đầy đủ, cả về vật chất và tinh thần.
Còn với tôi, bản chất ham đọc sách,
nghề nghiệp, công việc hay đi đây đó, cộng thêm chút lãng tử, lãng mạn thơ văn
trong mình, nên tôi đặc biệt yêu thích hoa đào núi. Khác với loại hoa đào được
trồng và chiết cành, chăm bón cầu kỳ nơi vườn tược, loài đào rừng núi vốn là
đào ăn quả, cành lá tự nhiên, thân khỏe, sống trong điều kiện khí hậu địa chất
khắc nghiệt, nên đậm chất hoang dại. Đấy chính là sự khác biệt, làm nên vẻ đẹp
riêng có.
Ở rừng núi phía Bắc, có 4 vùng đào núi
nổi tiếng xưa nay, ấy là: Mộc Châu (Sơn
La), Sa-pa, Y Tý (Lào Cai), Đồng
Văn (Hà Giang) và Mẫu Sơn (Lạng Sơn). Cùng là đào núi, nên chúng có
những đặc điểm tự nhiên giống nhau như thân cành chắc khỏe, sần sùi, thế cây đa
dạng, mà chỉ khác nhau ở hoa, độ dày cánh và màu sắc thôi. Đào Mộc Châu, Mẫu Sơn và Sa-pa là những vùng núi đất trộn đá, khí
hậu lạnh ít nhiều giống nhau, cánh mỏng manh, khi nụ và chớm nở màu hồng, khi
nở mãn thì sang màu trắng ngà, rồi trắng tinh. Còn đào Y Tý và Đồng Văn là
những vùng núi đá, nên cánh hoa dày và bên hơn, lúc chớm hay mãn vẫn giữ màu
hồng, chỉ đậm nhạt khác nhau mà thôi.
Nhiều năm nay, mỗi dịp tết, cứ sau độ
rằm tháng Chạp, tôi thường mua một cành đào nho nhỏ, giống đào Nhật Tân, nay
được trồng ở các vùng lân cận, cằm bình, chơi tết sớm. Là để được hưởng bầu không
khí tết trước, là thỏa mãn ít nhiều sở thích yêu hoa đào, và còn có ý chờ đợi
một cành đào rừng núi chơi chính Tết.
Bạn bè, người quen của tôi, nhiều
người biết sở thích này, nên vào mỗi dịp xuân tết, bao giờ cũng gửi cho tôi đào
núi, đủ chơi ở nhà và cả văn phòng công sở. Có những năm, nhân chuyến công tác
miền núi, thậm chí, tôi rủ bạn tự đi đến một trong những vùng đào rừng nổi
tiếng ấy, tự kiếm cho mình những cành đào ưng ý.
Xuân Mậu Tuất này, một nữ phóng viên
truyền hình đóng ở khu vực Tây Bắc, trong chuyến về Hà Nội họp tổng kết cuối
năm, đã kỳ công rước một cành đào Mộc Châu tuyệt đẹp tặng tôi chơi Tết, kèm một
lời nhắn “Hôm nào đào nở đẹp, anh nhớ
chụp ảnh gửi qua mạng cho em xem với, cũng là để kiểm tra xem em chọn đào có
chuẩn không, có hợp gu thẩm mỹ của anh không?”. Thật cảm động với thịnh
tình đó.
Nhưng có chút không may, trước Tết vài
ngày, tôi gặp trục trặc về sức khỏe. Ngồi ru rú một chỗ với sự đau nhức của
thân thể, lòng kém vui và không đủ độ hưng phấn để thưởng hết cái đẹp của cành
đào núi từ lúc lác đác chớm nở đến độ mãn khai. Khách đến chúc tết nhà, ai cũng
tấm tắc khen cành đào quá tuyệt, trong khi chủ nhà chỉ đủ sức nhếch mép cười và
gật gù cho phải phép. Mấy ngày chính Tết, đào nở rộ, đẹp lắm, tôi cũng gắng
chụp vài bức ảnh, chát hình lên, báo cáo cô phóng viên nọ, đặng tỏ lòng tri ân
người tặng đào...
Sau vài tuần nằm bệnh viện, khi xuất
viện thì cành đào cũng đã bỏ đi rồi. Nó được chặt nhỏ thành cành, khúc để đủ bỏ
vào xe rác. Người chưa khỏe nên có chút tiêng tiếc nhưng không đủ cảm xúc để
viết gì.
Nay, nhân được đọc một tản văn ngắn
của người bạn thân nơi phương Nam xa xôi về hoa đào, người mà hình như, tết nào
cùng dành những dòng viết về cái đẹp, cái mỏng manh, cái thời khắc, cái rụng
rơi trôi chảy của cánh đào và nỗi nhớ hoa đào, tôi viết những dòng này, như một
sự tri ân với người còn trân quý và say mê hoa đào hơn tôi nhiều!...
Và tôi, cầu mong, người ấy hạnh ngộ và
may mắn, hơn nàng Đại Ngọc của nhà văn Tào Tuyết Cần trong tác phẩm bất hủ “Hồng Lâu Mộng” chỉ biết khóc thương khi
chôn hoa đào và ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình mai sau...
Hạnh ngộ và may mắn nhé, người mang “nỗi nhớ hoa đào”!...
Ngày nào mà chẳng là ngày của mẹ ?,...
Ngày 13 tháng 5 năm nay (2018), cả thiên hạ um lên,
gọi là Ngày của mẹ. Ngày xưa, ở xứ
ta, có thấy ai nói gì về cái ngày này đâu. Thôi thì, thời đại mới,
international mà, giao thoa và du nhập văn hóa ngoại lai, là chuyện bình
thường, nên có thêm, nếm ngày này ngày nọ cũng chả chết ai. Hễ Tây có cái gì
thì rồi trước sau, Ta cũng có cái đó. Còn cái Ta có thì chưa chắc Tây nó màng.
Ấy là cái lý của kẻ mạnh, kẻ được xem là văn minh mà...
Trước hết, tôi phải nói lời xin lỗi, với hết thảy
những ai thích và tung hô cái ngày này, tức là cái ngày được gọi là Ngày của Mẹ ấy, bởi thực ra, dù là du
nhập, thì nó cũng rất chi là hữu ích, chí ít là nhắc nhở mỗi con người ta, nghĩ
về và biết ơn công lao sinh thành và dưỡng dục của mẹ mình, dù là mẹ còn sống
hay đã khuất núi. Vậy là tốt chứ sao?!
Song thú thật, cho đến tận bây giờ, tôi mới tò mò tìm
hiểu xem, Ngày của Mẹ là như thế nào,
khi mà các phương tiện truyền thông phát triển, nhất là mạng xã hội, khi xứ ta
cũng bàn nhiều đến ngày này. Rất dễ dàng để biết rõ về ngày này, từ tên gọi,
nguồn gốc, xuất xứ và ý nghĩa của nó...
"Ngày của
Mẹ được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ 2 của tháng 5 hằng năm, nhằm tôn vinh
những người mẹ trên khắp thế giới, thể hiện tình yêu thương của con với người
đã sinh ra mình... Ngày của Mẹ tên tiếng Anh là Mother’s Day, là một ngày lễ truyền thống của nhiều quốc gia trên
thế giới...". Đấy, ngắn gọn nhất những gì người ta đã viết về nó...
Thì ra, ngày này có nguồn gốc từ thời Hy La cổ đại,
trước Công nguyên khá lâu, khi người dân xứ này có tục làm lễ cúng tế các nữ
thần, nhất là thần Rhea-mẹ các nhiều vị thần Hy Lạp, La Mã vốn được họ tôn thờ.
Điều này thì tôi được biết khi đọc bộ sách Thần
thoại Hy Lạp từ ngày còn đi học. Rồi nữa, lại cũng có quan điểm cho là nó
có xuất xứ từ nước Anh hồi đầu thế kỷ 17... Với xứ Tây, họ vốn sớm rành mạch
kiểu "tiền bạc phân minh, ái tình sòng phẳng", quan hệ vợ-chồng, cha
mẹ-con cái cũng rất rạch ròi, thì việc có một ngày trong năm được coi là Ngày của Mẹ là rất cần thiết.
Mà thôi, cũng chẳng cần phải truy nguyên thêm nữa, khi
vấn đề tôi muốn nói ở đây, ấy là vị trí và vai trò của người phụ nữ Phương Đông (cụ thể là hình tượng Người Mẹ)
trong mỗi gia đình quan trọng đến mức nào? Với Trung Quốc, một đất nước đông
dân nhất thế giới, lại mấy nghìn năm chịu ảnh hưởng của Nho giáo, người phụ nữ
không được coi trọng ("Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô"), thì người phụ nữ-người mẹ ở mỗi gia đình trong
thực tế rất quan trọng nhưng trong quan niệm lại bị coi nhẹ; Còn với xứ ta, vốn
tôn thờ Đạo Mẫu, thì dù có bị Nho giáo chi phối ít nhiều, người mẹ luôn giữ vai
trò quan trọng với mỗi gia đình, cả về quan niệm và thực tế đời sống xã hội ...
Tôi nghĩ, ở xứ sở này, có ngày nào không phải là Ngày của Mẹ cơ chứ?! Trong mỗi mái nhà,
chỉ cần vắng bóng người phụ nữ (người mẹ)
một ngày thôi, mọi việc sẽ rối tung cả lên... Người mẹ, hiển hiện mọi lúc mọi nơi,
người mẹ là biểu hiện của sự lo toan, sự ổn định và yên ấm, là trung tâm kết
nối của các mối quan hệ riêng chung ... Vậy thì, ngày nào cũng có thể xem là Ngày của Mẹ, Vậy thôi!... Với mỗi chúng
ta, mẹ mình, mẹ của các con, mẹ của các cháu mình, về cơ bản, đều có thiên chức
và thói quen tập nhiễm giống nhau... Cứ thế, nước mắt chảy xuôi ... Lại nghĩ,
dân gian từ xa xưa có câu "Mất cha
thì ăn cơm với cá, mất mẹ thì liếm lá đầu đường" là gì... Nói vậy, hẳn
phải có cơ sở, lý do của nó ...
Thôi, cũng chằng cần lý sự nữa mà làm gì. Mỗi người,
chỉ cần nhìn và ngẫm nghĩ về bà nội, bà ngoại của mình, rồi mẹ mình, và mẹ của
các con mình, là đủ thấu hiểu, ở cái xứ sở này, một năm 365 ngày: Ngày nào cũng là ngày của Mẹ !...
Vinh hạnh thay !
Và cũng nhọc nhằn lắm thay!!!...
Ngày xưa,
tôi có một người bạn,...
Ngày xưa, tôi có một bạn, anh tên là Lê Kim Liên. Một
cái tên đẹp, nhưng đọc lên, người ta ngỡ là con gái. Khi được hỏi, tại sao là
con trai mà lại mang cái tên đầy nữ tính thế, anh giải thích, đơn giản, mang họ
Lê, người xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê hương của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Cha mẹ anh đặt tên cho anh như vậy, là thể hiện sự tự hào về mảnh đất
đã sinh ra Người, vị anh hùng dân tộc, đã sáng lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, danh nhân Văn hóa thế giới...
Anh cỡ tuổi tôi. Học xong Trung cấp nghề cơ khí Máy
nông nghiệp ở ngoài Bắc, anh được điều vào công tác tại Ban Nông Lâm nghiệp
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, trước tôi gần 2 năm. Ngày ấy, huyện Tri Tôn có
khá nhiều người được điều động từ miền Bắc vào công tác, cắm ở các ngành nghề
khác nhau. Chuyên viên tổ chức HTX nông nghiệp, có 2 bác lớn tuổi quê Thái
Bình, một nguyên là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp, một nguyên là Chủ tịch UBND xã ở
ngoài quê; ngành Thủy lợi, có anh S, kỹ sư; ngành Ngân hàng có anh M, tốt
nghiệp Cao đẳng Ngân hàng; ngành Giáo dục, có các anh Ph, anh D, anh TA; ngành
Nông nghiệp có anh V, Lê Kim Liên, và tôi, cùng anh T (nguyên bộ đội chuyển ngành học trước tôi một khóa ở Đại học Nông nghiệp
I Hà Nội, nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam). Ngoài ra, còn một vài
người nữa ở các ngành nghề khác như Bưu điện, Thương nghiệp, ...
Mùa mưa bão năm 1981, tôi và anh T,
cùng một số anh chị em khác, tốt nghiệp các khóa 20 và 21 của Đại học Nông
nghiệp I Hà Nội, nhận quyết định của Bộ vào nhận công tác ở các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long. Trên đường vào, chúng tôi gặp trắc trở, mưa bão gây sạt lở nhiều
đoạn trên đèo Cù Mông và đèo Cả, khiến tàu Thống Nhất (xe lửa) hành trình Bắc-Nam là 72 giờ, thành một tuần mới đến được Ga
Sài Gòn sau mấy lần tăng-bo qua những đoạn sạt lở. Xuống miền Tây, về thị xã
Long Xuyên, nộp giấy tờ, đợi thêm mươi ngày nữa, tôi và anh T nhận quyết định
của Ban Tổ chức chính quyền tỉnh điều tiếp xuống công tác tại Ban Nông Lâm
nghiệp huyện Tri Tôn. Khi ấy, huyện này mới được tách ra từ huyện cũ Bảy Núi
thành hai huyện là Tịnh Biên và Tri Tôn.
Lúc đó, thị trấn Tri Tôn là huyện lỵ
mới, lại vừa qua cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979 với Khơ-me Đỏ, nên hoang
tàn và đơn sơ lắm. Ban Nông Lâm nghiệp huyện đóng tại một vườn chùa cũ, không
chủ, nhưng nghe đâu, người chủ cũ bỏ ra nước ngoài vào thời điểm Giải phóng
miền
Cả huyện có hơn chục người miền Bắc
vào công tác, cùng hoàn cảnh nên mọi người biết nhau cả, và cũng nhanh chóng
làm quen, chơi với nhau. Tiếng là vậy, song còn hợp tính hợp nết thì mới thân nhau
được. Những ngày đầu, tôi và anh T ăn bếp ăn tập thể cơ quan, còn Liên cơm gia
đình, lại thêm, mỗi vụ máy cày xuống đồng, anh đi liền cả tháng chỉ đạo cày bừa
ở địa bàn, thi thoảng đáo về cơ quan, nên quan hệ bạn bè chỉ sơ sơ vậy thôi.
Sau hơn nửa năm, anh T chán chường, xin về phép dài, khi trở vào, làm thủ tục
thôi việc. Tôi thông cảm với hoàn cảnh anh T, là bộ đội chuyển ngành, đã có vợ
và hai con, nhà ở ngoại thành Hà Nội, nên không chấp nhận cuộc sống xa nhà đằng
đặc như thế này. Anh T về Bắc, tôi chống chếnh một thời gian, chỉ trông chờ vào
chủ nhật, lập nhóm nhậu nhẹt với M, cán bộ Ngân hàng và D, giáo viên trường
THPT huyện mà thôi. May mà, khi ấy Liên thấy ở nhờ nhà anh V lâu ngày cũng sinh
bất tiện, nên thôi, sang kê giường ỏ ngay khu nhà để máy kéo của Ban Nông Lâm,
và ăn cơm bếp tập thể như tôi. Vậy là cùng hoàn cảnh, tôi và Liên thân nhau
hơn.
Tên thì như con gái, nhưng Liên là
người khá đẹp trai và đầy nam tính. Anh cao gần mét bảy, thân thể khỏe mạnh, cơ
bắp săn chắc, mặt vuông chữ điền, cái nhìn lại khá mơ mộng. Cái quý ở anh, tính
tình cởi mở, xuề xòa, hay cười, hàm răng trắng đều và mỗi khi cười là tít hết
cả mắt. Thêm nữa, anh hay giúp đỡ người khác, nhất là những việc nặng nhọc. Sau
này, bếp ăn tập thể tan, tôi và Liên, hai thằng người Bắc, tự chợ búa, nấu cơm
chung với nhau. Tôi chúa ngại việc chợ búa, nên Liên đảm nhiệm việc đi chợ,
xách nước, chẻ củi, còn tôi thì nấu ăn. Thỉnh thoảng Liên nhày vào bếp, tranh
phần nấu nướng, nhất là chế các món ăn đặc trưng xứ Nghệ quê mình.
Sau này, cơ quan làm thêm một ngôi nhà
mới, mấy gian giữa là nơi làm việc chung, hai phòng đầu hồi, một dành làm Kho
thuốc Thú y, một dành cho tôi ở. Tôi rủ Liên dọn vào đấy ở chung, bởi nơi ở tạm
của anh tại Nhà để máy kéo trống huếch trống hoác, mái tôn rất nóng, lại nặng
mùi xăng dầu máy, rất khổ. Khổ nỗi, ngay phía sau ngôi nhà mới, cách một hàng
rào là gò đất cao trội hẳn lên, dân trong khu vực dành làm nghĩa địa, vì đồng
ruộng quanh năm ngập nươc, mộ mới mộ cũ lẫn lộn, kinh lắm. Những ngày Liên ở
nhà, đêm ngủ, chúng tôi mở cửa sổ sau để gió đồng lùa cho mát, còn những ngày
anh vào vụ cày, đi địa bàn, một mình tôi ở nhà, thì ban đêm, dù nóng mấy, tôi
đều đóng tịt của sổ sau vì sợ bóng sợ vía cái nghĩa địa liền kề đó, nhất là mỗi
khi có mộ mới chôn. Ngày ấy, chưa có điện lưới, điện chạy máy phát, đèn đỏ
quạch, và cũng chỉ có tử chập tối đến chừng mười giờ đêm là tắt hẳn. Đêm ngủ,
vẫn phải hãm đèn dầu hỏa bằng hạt đỗ để lấy ánh sáng, đặng biết lối đi và cũng
đỡ cô độc, đỡ sợ.
` Về chuyện gia dình, khi ấy, Liên đã cưới
vợ được vài năm rồi, nhưng vì xa xôi cách trở, mỗi năm chỉ đi phép cả đi lần về
chừng già nửa tháng, nên vợ chồng Liên vẫn chưa có con. Còn tôi, khi bước chân
vô Nam, tôi để lại miền Bắc người mẹ già sống một mình và người bạn gái, người
Hà Nội, vốn là bạn học cũ của tôi thời gia đình cô sơ tán về vùng quê tôi, khi
ấy được điều động đi dạy ở một trường Trung học phổ thông thuộc vùng xa của Hải
Dương. Những buổi tối rỗi rãi, hai thằng hay làm xị đế, mồi nhậu thường đơn
giản là ít khô cá đuối nướng, xoài xanh chấm với nước mắm pha đường thốt-nốt, ngà
ngà say thì nghêu ngao hát với nhau cho đỡ buồn. Hổi tốt nghiệp xong, chờ quyết
định phân công, để đỡ sốt ruột, tôi mượn cây ghi ta của một người quen, bập
bùng tập đàn như mèo cào. Khi vào Tri Tôn, đi làm có lương, thiếu thốn nhưng
tôi cố tiết kiệm mua một cây ghi ta, tập tành nhiều, tuy chẳng có khiếu thì
cũng đàn được vài bài. Liên đàn cũng vậy. Những lúc như thế này, hai thằng thay
nhau ôm đàn, chỉ chốc lát là hết mấy bài tủ, thế là vỗ đàn rầm rầm, hát tầm
phào, chẳng bài nào ra bài nào cả. Liên hát khá hay, hết nhạc Trịnh lại sang
nhạc sến, dòng bolero sầu bi, ảo não. Tôi thì chỉ hát hùa theo chốc lát, chán, lại
tự đọc thơ mình. Chốc chốc, Liên kêu to “Vợ
ơi, nhớ vợ quá“. Kêu vậy, rồi cười khà khà, mặt đỏ bừng, mắt típ lại, vừa
khôi hài, lại có gì đó tội nghiệp. Những tưởng, nhậu cho say, cho quên đi ngày
tháng, hát hò cho đỡ buồn, nhưng rồi lại buồn hơn. Mỏi miệng, khản cổ, chẳng ai
thèm hát nữa. Rồi Liên mang chuyện vợ mình ra kể. Tôi cũng rỉ rả chuyện về bạn
gái của mình... Kể chán thì ngủ. Lại một ngày mới ...
Ngày đó, tôi biết Liên yêu và nhớ vợ anh
lắm. Mà phàm có vợ rồi, lại canh cánh chuyện sinh con đẻ cái, thứ nghĩa vụ
không thể coi thường. Liên rất chăm viết thư cho vợ. Chữ anh viết khá đẹp. Đặc
biệt, khi viết tên và địa chỉ người nhận trên phong bì thư, anh nắn nót lắm,
nên đến giờ nghĩ lại, tôi vẫn nhớ. Nếu không nhầm, vợ Liên tên là Hoài Phương,
mang họ gì thì tôi nhớ không chính xác, còn địa chỉ, cô ấy công tác ở Phòng Tài
chính của huyện Kỳ Sơn, một huyện miền núi biên giới giáp Lào của tỉnh Nghệ An.
Đều chăm viết thư như nhau, nên cả tôi và Liên cùng có chung một nỗi đợi chở và
niềm vui mỗi khi nhận được thư từ miền Bắc gửi vào… Lâu lâu, khi có tiền, Liên
lại tự đi chợ, lựa mua vải vóc, ra bưu điện huyện, gói kiện gửi cho vợ anh may
quần áo.
Mấy năm đó, nếu năm nào không nghỉ
phép ra Bắc, thì tôi lại mò sang tỉnh Minh Hải (khi ấy chưa chia tách lại thành Cà Mau, Bạc Liêu như bây giờ) để
thăm mấy người bạn cùng lớp đại học, công tác ở đấy. Song cũng vui là được đón
bạn đến chơi. Vui nhất, là một chiều, tôi và Liên đang hì hụi nấu cơm thì nghe
có tiếng ai hỏi thăm tên tôi ở phía ngoài, ngẩng nhìn lên, thấy một người trang
phục quân đội chỉnh tề, áo có gù vai, mũ sĩ quan, kiểu trang phục như đội danh
dự trong các lễ nghi quốc gia. Thì ra, đấy là anh Nguyễn Sĩ Bình, một người bạn
học của tôi ở Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Anh Nguyễn Sĩ Bình hơn tôi
vài tuổi, là sĩ quan được quân đội cử đi học và học sau tôi vài khóa. Chúng tôi
quen và chơi với nhau từ hồi sinh viên, cùng bạn ngày đó còn có Trịnh Bá Ninh,
sau này là Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam. Dịp nghỉ phép ra Bắc
trước đó, tôi có ghé về trường cũ thăm anh Nguyễn Sĩ Bình, và được anh cho
biết, sau tốt nghiệp, anh sẽ xin về là phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Không
ngờ là sự thật, anh Nguyễn Sĩ Bình vừa nhiệm sở, làm phóng viên tại Ban Đại
diện Báo QĐND tại thành phố Hồ Chí Minh, chuyến công tác đầu, anh chọn đi địa
bàn Miền Tây Nam bộ, để có điều kiện đến Tri Tôn, An Giang thăm tôi. Vui và cảm
động lắm. Anh, khi ấy có bút danh là Sĩ Bình, được tôi đưa đi thăm thú mấy địa
danh nổi tiếng trong vùng, ấy là Ba Chúc, nơi xảy ra vụ thảm sát dân thường của
Khơ-me Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam, và đồi Tức Dụp, quả đồi được
mệnh danh là đồi 2 triệu đô la, bởi
trong chiến tranh chống Mỹ, máy bay của Mỹ Ngụy đã bắn phá khu căn cứ du kích
cách mạng nơi đây một khối lượng bom đạn giá trị tương đương vậy. Tôi và Liên
rất vui, tất bật chợ búa, nấu ăn, đón tiếp anh Sĩ Bình. Liên coi bạn tôi như
bạn anh. Sẵn có máy ảnh, anh Sĩ Bình đạo diễn, chụp cho chúng tôi rất nhiều
ảnh. Khi về lại thành phố Hồ Chí Minh, anh Sĩ Bình rửa ảnh và gừi lại cho tôi
và Liên cả tập ảnh, chia nhau mỗi người giữ một nửa.
Cứ thế, thấm thoắt, mỗi người một công
một việc. Lúc cả hai đều ở văn phòng Ban, lúc người này người kia đi địa bàn
công tác. Liên khá quảng giao, anh có nhiều bạn bè chiến hữu người địa phương
cùng ở Trạm Máy kéo với anh. Còn tôi, cũng vậy, ngoài mối quan hệ với bạn bè
trí thức từ Bắc vào, như anh V, anh Ph, rồi M. D,... tôi còn quý mến, nhở vả
mấy người chị gốc Bắc lấy chồng là cán bộ tập kết; và nữa, anh chàng Châu Vôn,
người Khơ-me bản địa, là thủ kho Kho thuốc thú y, người hay chuyện trò với tôi
mỗi tối, khi Liên đi địa bàn và cả thời gian sau này...
Chừng năm 1985 gì đó, Liên sau chuyến
đi phép về Nghệ An, khi quay trở vào, anh làm thủ tục xin chuyển công tác ra
Bắc. Tôi nhớ không nhầm, thì anh xin về làm việc tại một nông trường hay đơn vị
nào đó thuộc địa bàn huyện Tân Kỳ, Nghệ An. Thời gian ấy, tôi bận công việc,
còn Liên thì bận thủ tục giấy tờ, rồi gặp gỡ chia tay với gia đình người quen
và bạn hữu để ra hẳn Bắc, nên cũng chẳng mấy khi hai thằng trò chuyện, tâm sự.
Liên có làm một bữa cơm chia tay tôi và mấy anh em trí thức người Bắc. Hôm Liên
đi, tôi tiễn anh ra bến xe khách huyện, để anh lên thị xã Long Xuyên, rồi tiếp
lên Sài Gòn, đáp tàu ra Vinh... Xe chạy, tôi và Liên đều bùi ngùi. Cùng đàn ông
cả với nhau mà mắt rân rấn nước. Liên được về bên gia đình, người thân, còn
tôi, rồi sẽ ra sao đây? Trông người lại ngẫm đến ta, người xưa bảo vậy, đến bao
giờ thì mình được về gần mẹ, gần người yêu đây? Thấy tương lai xa vời và mờ mịt
quá...
Sự ra đi của Liên, trước đó là anh T,
rồi cuộc đến thăm của anh bạn nhà báo Sĩ Bình... tất cả dồn nén trong tôi,
khiến tôi cảm thấy nặng nề và cô độc một thời gian. Song đấy, cũng là động lực
để tôi quyết định một điều gì đó. Và tôi chọn, ấy là viết báo. Tôi cắm đầu viết
báo, kiểu nghiệp dư thôi. Tôi cộng tác với Báo
Nhân dân, báo Nông nghiệp, các
chương trình của Đài Tiếng nói Việt
Khi về công tác tại Đài TNVN ở Hà Nội,
tôi và Liên còn giữ mối liên hệ, đã vài lần thư từ cho nhau. Rồi có một lần,
khi đó tôi còn chưa lập gia đình, tôi nhận được thư Liên, hình như vẫn từ địa
chỉ nơi anh công tác ở huyện Tân Kỳ thì phải? Anh có than thở với tôi về chuyện
khó khăn trong đường con cái... Tôi có thư hồi đáp, cũng chỉ biết an ủi, sẻ
chia với Liên mà thôi. Sau đó thì bặn tin. Đến nay, gần ba mươi năm trôi qua
rồi. thi thoảng, tôi vẫn nhớ đến Liên giữa bộn bề công việc. Ngày trước, phương
tiện thông tin chỉ qua thư từ và cấp lắm mới có điện thoại cố định, chứ đâu
tiện lợi và nhanh chóng như bây giờ, nên trên đường đời gian khó, sơ sảy, lơ
đãng một chút là mất tin nhau ngay. Và thế là, con người ta mất hút đâu đó nơi
chân trời góc biển...
Tôi đã nghỉ hưu, dù vẫn đang làm
chuyên môn cho một cơ quan báo chí, thì điều quan trọng bây giờ vẫn là sự an nhàn
của người cao tuổi, sau ngót bốn chục năm công tác. Và nếu còn làm việc công,
thì giờ đây, Liên cũng đến tuổi nghỉ hưu. Như nhiều người cao tuổi khác, tôi
cũng hay nghĩ xa xôi, hồi tưởng lại thời tuổi trẻ long đong của mình. May mà,
nhờ sự tiện lợi của mạng xã hội, tôi có được thông tin, thậm chí gặp lại được
nhiều người quen cũ, bạn học cũ từ thời phổ thông, đại học của mình. Tôi nhớ
đến những người quen ở Tri Tôn, và cũng đã dăm ba lần trở lại mảnh đất ấy. Anh
V, anh Ph vẫn sống ở Tri Tôn, còn M và D đều lập nghiệp và định cư ở thành phố
Hồ Chí Minh. Nhóm ba người, tôi-M và D cũng hay gặp nhau, mỗi khi tôi vào trong
ấy, hay các vị ấy ra Hà Nội. Duy chỉ có Liên là mất tăm, anh bạn người xứ Nghệ
của tôi ơi, chúng ta đã một thời đồng cam cộng khổ với nhau ở mảnh đất Tri Tôn
xa ngút ngàn cuối đất, trong khoảng 5 năm (1981-1985)...
Mới gần đây, tôi lục tìm các tập tài
liệu cũ, lật giở Album, thấy còn mấy tấm ảnh do nhà báo Sĩ Bình chụp cho trong
chuyến anh thăm tôi ở Tri Tôn, có mấy tấm ảnh chung, tôi với Liên, và ảnh chung
với nhiều người khác nữa. Tự nhủ, chọn một vài tấm có ảnh Liên ngày ấy, đưa lên
mạng xã hội, cùng với bài viết này, hy vọng, Liên đang ở đâu đó, biết được, mà
phản hồi...
Hay ai đó, biết anh, mà mách giùm cho!?...
Ngày xưa, tôi có một người bạn !... Anh là Lê Kim
Liên...
Người bạn Khơ-me của tôi,
Chau Von, tên phiên âm La-tinh từ mẫu tự Khmer (Khơ-me), gọi theo kiểu Việt hóa là Châu
Vôn. Ấy là người bạn dân tộc Khơ-me Nam Bộ của tôi từ hơn ba mươi năm trước...
Trong vòng gần 7 năm công tác ở Ban
Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (1981-1987), tôi được điều động loanh quanh qua mấy chức danh như
cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, Trại phó Trại chăn nuôi, Phó Giám đốc Nông trường
chăn nuôi, rồi Trạm phó Trạm Thú y. Ngoại trừ những người bạn người miền Bắc
được điều động vào đây, giống như tôi, thì tôi còn có một số đồng nghiệp và bạn
bè người Nam, người gốc địa phương... Trong số những đồng nghiệp và bạn bè
người
Sở dĩ, Chau Von gắn bó với tôi hơn
những người khác, là có lý do của nó. Số là, khi mới vào nghề, Chau Von thỉnh
thoảng được điều động tham đoàn công tác do tôi phụ trách, xuống xã thực hiên
các đợt tiêm phòng định kỳ cho gia súc. Khi cơ quan xây dựng thêm một ngôi nhà
ngói mới, theo kiểu 3 gian hai chái, thì 3 gian giữa dành nơi làm việc chung,
một chái dành cho tôi ở, còn chái kia làm Kho thuốc Thú y, mà Chau Von lại đảm
nhiệm thủ kho. Là người cẩn thận và có trách nhiệm, nên hằng tuần, anh ngủ lại
giữ kho thuốc đến già nửa số đêm. Hôm nào, không ngủ lại đêm, Chau Von cẩn thận
chốt cửa sổ, khóa kỹ của chính và không quên dặn tôi “Đêm có gì, anh để ý, ngó kho thuốc giùm tui nghe”. Như tôi đã kể
trong một bài biết khác, là sau ngôi nhà của chúng tôi, liền kề với hàng rào
cây dại, là một gò đất nổi hẳn lên trên đồng nước, được dùng làm nghĩa địa của
khu dân cư ở đấy. Để vào được nghĩa địa, đường đi xuyên tâm qua khu vườn rộng
của Ban Nông Lâm nghiệp huyện. Một lần, có một đám tang được chôn cất ở nghĩa
địa này, người ta rước quan tài đi theo lối cổng phụ, xuyên qua Ban Nông Lâm,
tắt ngang đầu phòng làm Kho thuốc của Chau Von, để ra nghĩa địa ngày đằng sau.
Tối ấy, mới sâm sẩm, đã thấy Chau Von mò sang phòng tôi, hỏi: “Anh Nhạc, theo anh thì có ma thật không?”.
Tôi hiểu, Châu Von bị ám ảnh bởi đám rước ma ban ngày, nên giải thích loanh
quanh một hồi, không phủ nhận và cũng không bảo là có ma thật. Nghe rồi, Chau
Von cười bẽn lẽn, lại hỏi: “Thế anh có sợ
ma không? Tui là tui cũng thấy sờ sợ”. Tôi trả lời: “Có chứ... nhưng mà, thực ra là sợ bóng tối,... sợ bóng sợ vía vậy thôi”.
Chau Von gượng cười, so vai tỏ vẻ ái ngại, rồi trở về phòng mình, chốt chặt
cửa, hãm đèn dầu hỏa cả đêm. Thực lòng, tôi cũng nhát, kín cửa chẳng khác gì
anh. Mấy hôm sau, không thấy Chau Von đến ngủ đêm, một mình, tôi càng thấy ớn.
Chừng mươi ngày, nỗi sợ ấy cũng qua đi...
Những đêm ngủ lại, tôi và Chau Von hay
chuyện trò, tán gẫu với nhau. Khi thì anh sang phòng tôi, lúc tôi sang phòng
Chau Von, cứ ngày này tháng khác, câu chuyện giữa chúng tôi vẫn quanh quẩn công
việc chuyên môn, gia đình, tập tục văn hóa sinh hoạt Bắc
Nói tiếng Việt khá thạo, nhưng nghe và hiểu được kiến
thức qua tiếng Việt, vói Chau Von, quả thật không dễ. Vậy nên, anh khá khôn mỗi
khi tôi giảng giải gì đó cho anh, nghe xong, anh xin phép nói lại những gì anh
hiểu được qua việc tiếp nhận, nếu đúng ý tôi, anh cười vui lắm, còn chưa đúng
thì nhờ tôi nói lại đến hiểu được mới thôi... Chau Von rất thích tôi kể về văn
hóa, phong tục đời sống xã hội ngoài Bắc, và những gì anh nghe người ta nói về
thủ đô Hà Nội, qua tôi, để kiểm chứng lại xem có đúng như vậy không?
Nói vậy, Chau Von đã học hỏi được khá
nhiều kiến thức chuyên môn xã hội từ nơi tôi qua những câu chuyện hàng ngày.
Ngược lại, tôi cũng học được một số kiến thức văn hóa, tập tục của dân tộc
Khơ-me. Từ khi, anh bạn Lê Kim Liên, người
Tôi nhớ, nhà Chau Von ở xã Núi Tô.
Ngày ấy, hàng năm, mỗi dịp tết Cholchnamthmay, gia đình anh làm bánh trái cúng
tết theo phong tục cổ truyền, Chau Von đều mang bánh đến mời tôi ăn. Có một
lần, vào dịp tết Dolta thì phải, Chau Von mời tôi về nhà anh ăn tết. Anh dùng
xe đạp chở tôi về nhà anh trong Phum Sóc gì đó, tôi không nhớ, chỉ biết thuộc
xã Núi Tô mà thôi. Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ tuyến đường ấy, qua xã Núi Tô, đến
xã Cô Tô, và xa nhất là xã An Phước (có
tên cũ là Ô Lâm), quá nữa là sang đất huyện Hòn Đất của Kiên Giang rồi. Ở
nhà anh, tôi được hưởng không khí tết gia đình ấm cúng, được ăn bữa cơm gia
đình, để ít nhiều có được sự hình dung về nếp sinh hoạt của gia đình người
Khơ-me Nam Bộ, dù chỉ một ngày. Khi ấy, Chau Von vẫn còn đủ cha-mẹ, anh đã lấy
vợ và có con, sống chung trong một ngôi nhà. Hôm ấy, Chau Von đã giảng giải cho
tôi nhiều chi tiết trong nếp sinh hoạt của một gia đình người Khơ-me, rồi anh
còn dắt tôi đi loanh quanh trong Sóc nhà anh, giới thiệu cách bố trí nhà ở, cấu
trúc cơ bản của một ngôi nhà Khơ-me truyền thống như thế nào. Là một nhân viên
thú y, Chau Von cũng hiểu phong tục nhốt bò trong nhà chung với người ở là
không hợp vệ sinh, đang phổ biến trong các phum sóc ngày ấy, nhưng vận động đề
bà con bỏ hẳn tập tục ấy cũng không dễ chút nào.
Chau Von có dạy tôi một số câu cửa
miệng, xã giao đơn giản của người Khơ-me Nam Bộ, nên hôm ấy, tôi có thể chào
hỏi người nhà của anh, và nhất là khi đi dạo, ra điểm vui chơi cộng đồng của
phum sóc, biết cách trả lời, đùa lại những câu trêu đùa thông dụng của đám con
gái... Chau Von còn dạy tôi và tôi đã tập tọe hát được vài câu một bài hát phổ
biến trong các lễ tết của người Khơ-me Nam Bộ ngày đó. Giờ thì tôi quên hết cả
rồi. Chau Von cũng khá tinh nghịch, kiểu nghịch ngầm, anh chủ động dạy tôi mấy
câu tiếng Khơ-me, đại loại kiểu “tán gái”.
Có lần, khi đi tiêm chích phòng bệnh cho gia súc ở các xã, khi đến phum sóc
Khơ-me, có lần, chúng tôi tình cờ bắt gặp một đám gần chục cô gái, nhưng người
thì mặc váy áo xa-rông đầy đủ, có mấy cô thì chỉ mặc váy, còn từ ngang lưng trở
lên lại để trần, lộ phần thân trên với những bờ vai, cánh tay trọn trịa rám nâu
và cặp nhũ hoa thật tuyệt. Chợt thấy chúng tôi, các cô gái ré lên, cười rúc
rích, chạy túa ra, còn lại mấy cô váy áo chỉnh tề, những cô để trần mình thì
chui vội vàng trong nhà, thậm chí có cô không kịp chạy trốn thì cởi nhanh chiếc
khăn rằn đang vấn trên đầu thắt ngang ngực, đủ che kín cặp nhũ hoa. Chống thẹn,
các cô hỏi như trêu ngược lại bọn tôi, tôi chợt nhớ những câu Chau Von dạy tán
gái, bèn mang ra dùng, giờ tôi còn nhớ mang màng, hình như “on xalanh bòn tê?” ( hiểu là: em có yêu anh không?), thì lập tức bị “mắng vốn”,... Về kể lại, Chau Von cười
khoái lắm, mắt đầy vẻ tinh ranh. Thì ra, Chau Von “chơi khăm” tôi. Chuyện vui là thế, chẳng hề hấn gì. Anh còn giảng
giải cho tôi rằng, những cô gái đã lấy chồng rồi, thì khi ở nhà, họ hay để
trần, không mặc áo. Còn gái chưa chồng, thì luôn phải váy áo đầy đủ, Chẳng hay,
giờ còn phong tục ấy không?
Tôi ra Bắc, bẵng đi hơn hai chục năm,
bỗng một chiều, tôi nhận được một cuộc điện thoại, số máy lạ, nghe lơ lớ, cưng
cứng đầu kia giọng nam, xưng tên là Chau Von ở Tri Tôn. Tôi nhớ anh ngay và rất
vui mừng, chúng tôi hội thoại với nhau chừng hồi lâu, đủ để cho nhau biết những
thông tin cơ bản hiện tại của mỗi người. Chau Von cho biết anh cũng đã nghỉ
việc, nhưng vẫn sử dụng vốn nghề để chữa trị cho gia súc các gia đình người
quen và bà con nơi anh ở. Thì ra, Châu Von vẫn nhớ đến tôi, anh tìm đã tìm đến
những gia đình gốc bắc ở Tri Tôn để lấy thông tin và xin số điện thoại của tôi.
Trong mấy năm rồi, thi thoảng anh gọi điện cho tôi. Tôi cũng đã trở lại thị
trấn Tri Tôn mấy lần, nhưng lần nào cũng vội, nên không gặp lại Chau Von được. Mới
đây, qua mạng xã hội, con gái út của Chau Von hiện đang làm việc ở Phòng Thương
binh & xã hội huyện Tri Tôn đã làm quen và chuyển lời thăm hỏi của Chau Von
đến tôi. Tôi có tìm lại và scaner tấm ảnh cũ chụp chung tôi và anh bên gốc dừa
ngay trước Kho thuốc Thú y từ năm 1983, gửi qua cô bé Soc Dom, con gái út của
anh. Mới đây, cô bé cũng chát gửi tôi tấm ảnh chụp chung gia đình Chau Von với
giai gái, rể và cháu nội ngoại. Rồi cô bé còn sử dụng facetime để tôi và Chau
Von nói chuyện thấy được mặt nhau... Bạn già
một thời, lâu ngày thấy nhau, thật vui.
Khi viết bài này, tôi có điện thoại và
nói chuyện với Chau Von khá lâu, đặng cập nhật thêm thông tin về nhau, bởi hôm
trước, thấy nhau qua facetime, nhưng do thời tiết trong đó mưa gió nên rớt
mạng, chưa nói được mấy. Chau Von có chút tâm tư, khi anh nghỉ việc ở Trạm Thú
y huyện, vì đã không chịu bổ túc thêm bằng cấp, nên chỉ được hưởng bảo hiểm xã
hội một lần, có chút thiệt thòi. Giờ anh sống chủ yếu bằng làm ruộng và nuôi
bò. Qua điện thoại, Chau Von cũng kịp nhắc đến nhiều kỷ niệm chung giữa tôi và
anh ngày ấy, nhắc đến những bạn bè, và đồng nghiệp, cả người Việt và người
Khơ-me...
Mừng là anh còn mạnh khỏe và gia đình con cháu đề
huề...
Bệnh viện ký sự
1.
Thế là y phải nhập viện. Viện ở đây là bệnh viện. Cầm
cái bệnh án, cô bác sĩ ở bệnh viện BM bút phê “Abces mô mềm ngực phải. Điều trị nội trú”, y vẫn còn băn khoăn “Thế điều trị ngoại trú có được không chị ơi?”.
Cô bác sĩ bảo “Không được đâu bác ơi”.
Y lại gặng “Bệnh nhẹ mà, điều trị ngoại
trú cũng được mà”. Cô bác sĩ cương quyết “Không nhẹ đâu bác ơi, phải nội trú thôi”. Y ngần ngại, chào cảm ơn,
rồi cùng vợ tim đến cửa tiếp nhận bệnh nhân nội trú của khoa CXK. Lại thủ tục,
một hồi, vợ y nhận quần áo bệnh nhân rồi dẫn y tìm đến số giường buồng người ta
ghi trong phiếu. Đây rồi, buồng số 206, giường 29B. Ngó vào buồng bệnh, người
ốm đau, phần lớn 2 người 1 giường, lại thêm đám người nhà đi chăm người bệnh,
ngổn ngang người là người. Đưa mắt tìm giường số 29B, thấy một ông lão cỡ tám
chục cái xuân xanh nằm chéo giường mê mệt và đang được truyền dịch, thêm một
người nhà ngồi bên mép giường gương mặt thiểu não. Y ngán ngẩm ôm cái ổ ép-xe
đau nhức trước ngực phải ngồi xuống một băng ghế kê ngoài hành lang buồng bệnh.
Nhìn đồng hồ, 11h45 ngày 01.3 và thứ 5. Vợ y đi một hồi và mang về cho y suất
cơm bệnh viện trong hộp nhựa. Khi vợ tất tưởi về nhà để lấy tư trang chuẩn bị
cho y cuộc sống nội trú bệnh viện thì y uể oải nhai suất cơm. Đói, mệt và đau
nhức, lại thêm nỗi lo tinh thần, y cố ăn hết phần thức ăn và nửa số cơm. Công
bằng mà nói, suất cơm 30 nghìn đồng cũng không đến nỗi nào.
Một ông già thấp lùn, người gập xuống
với cái đai đeo thắt lưng chống đau, ghé bên ghế bảo “Bác làm ơn cho tôi ngồi ghé chút, đau và mỏi quá”. Y dịch người
nhường phần ghế với sự cảm thông. Người đời bảo “Đồng bệnh tương lân” mà. Ông già gục người xuống mặt bàn, nhắm mắt
lim dim như ngủ, một lát choàng dậy, bắt chuyện “Tôi đau lưng lắm, hơn tuần nay chỉ ngủ ngồi thế này thôi. Không nắm
được. Giường bệnh tôi ở 205 đây nhưng có chỗ nào mà nằm đâu. Sao lại đông người
thế? Ờ, bác bệnh gì ?”. Y trả lời qua loa rồi cũng gục xuống mặt bàn như
ông già, cố chợp mắt cho đỡ mỏi mệt.
Chăng biết y có chợp được mắt chút nào
không, choàng dậy vì tiếng loa phát oang oang nhắc đã đến giờ các y bác sĩ làm
việc, đề nghị các bệnh nhân tuân thủ mặc quần áo bệnh nhân, còn người nhà phải
ra ban công đằng sau ngồi. Rồi có vài vị trang phục blu trắng ra gặp y, đo
nhiệt độ xem có sốt hay không, hỏi bệnh một hồi. Tiếp đó là đám trẻ con, ấy là
mấy đứa sinh viên Cao đẳng Y tế, xùm vào hỏi, đại loại mấy câu hỏi theo kiều
bài học thuộc lòng, như: Bác tên gì, bị
bệnh gì, nhập viện từ bao giờ, có sốt không, đau đớn chỗ nào, có khó thở không?...
Y thấy ngán ngẩm bởi cứ phải trả lời các câu hỏi lặp đi lặp lại như vậy. Y lại
tự nhủ, thôi thì giúp các cháu nó học vậy, cứ xem như giúp con cháu mình ở nhà
học hành, trả bài ấy.
Vợ và con gái út của y, hai mẹ con tay
xách nách mang đồ đoàn cho y nằm viện, Lại chờ đợi. Chừng 3h chiều, y bắt đầu
được diều trị. Vì cái giường mang số 29B của y, vẫn cụ già mê mệt năm choán
hết, nên bị bác sĩ bảo y, thôi cứ nằm nhờ một chỗ nào đó, tạm để truyền thuốc
cái đã. Thế là y ghé ngay một chiếc giường ngay cạnh cửa kính hành lang, ở đấy
có một bệnh nhân nam, đồ chừng ngoài bảy chục tuổi, gương mặt lộ rõ sự thông
mình và vẻ quắc thước, cũng đang nằm truyền dịch. Đành trở đầu đuôi. Sau khi
test thử, ý được truyền một loại kháng sinh, đọc vỏ hộp có tên gọi Voxin, chai dịch truyền to tướng.
Qua gần 2 giờ đồng hồ nằm truyền, chai
dịch nhỏ chậm giọt một, mới hết cỡ ¾. Y bắt đầu khổ sở. Sự khổ sở này không đến
từ chỗ ép-xe đau nhức, mà là sự buồn cái gọi là tiểu tiện (gọi tắt là đi tè cho tiện). Y đi cái khoản này từ
đầu buổi chiều, đến giờ là gần 5 tiếng đồng hồ còn gì. Y nhăn nhó chịu đựng, có
hai khả năng xảy ra nếu cái việc bất nhã kia không được giải quyết, ấy là y sẽ
tè ra quần, hoặc là y sẽ vỡ bóng đái. Thật tệ hại cho cái sự thiếu hiểu biết.
May mà lúc ấy, một điều dường viên bước vào, y chẳng ngại gì, trình bày ngay
cái nỗi khổ của mình. Vị này quyết ngay, thật đơn giản “Bác khóa cái chốt màu đỏ trên dây truyền, bê cả bộ đi vệ sinh thoải
mái, nhớ đừng để chệch kim truyền ra khỏi ven, xong vào lại truyền nốt”.
Ôi, được lời như cởi tấm lòng, vợ y giúp cho cái việc bê bộ dây chai lọ ấy ra
nhà vệ sinh nam. Xong việc, y khoan khoái, sung sướng làm sao. Rốt cuộc, sẩm
tối thì chai dịch cũng hết. Vợ y lại thông báo tin vui, ấy là mình đằng ký
giường bệnh tự nguyện dịch vụ, đã có giường trống. Hai vợ chồng, thu dọn đồ
đoàn để sang nhận giường bệnh mới, số 58 phóng 209. Khi chào cảm ơn bác bệnh
nhân già vừa cho nằm cạnh, bác này nảo “”Bác
may nhỉ, tôi đăng ký mấy hôm nay rồi mà chưa có giường loại một người trống đấy”.
Chỉ biết ầm ừ thôi.
Nhận giường bệnh mới, mượn thêm chăn
ga gối, xong xuôi mới quanh quất nhìn ngó, nhận diện và chào hỏi các bệnh nhân
cùng buồng. Sau bữa cơm tối muộn do vợ nấu ở nhà mang vào, y nằm ngả lưng, lòng
dạ thanh thản cứ như mình đã khỏi hẳn bệnh. Chợt một vị áo blu trắng vào, gọi
tên y, bảo sang ngay phòng siêu âm bên cạnh để kiểm tra thêm. Lúc này, đã hết
giờ làm việc chính, trong phòng siêu âm chỉ còn kíp trực dăm người gì đó. Đây
chính là cái phòng siêu âm chiều hôm trước, khi khám ban đầu, y đã phải chầu
trực chờ gọi tên, giờ thì riêng mình y. Họ siêu âm cho ý kỹ lắm, vừa hỏi bệnh,
vừa bắt y thở ra hít vào thật sâu, rồi bàn tán. Cô nhân viên siêu âm chính,
nghi ngờ y bị viêm phổi, mấy vị khác, có cả đám học sinh thực tập thì bảo
không, đã chụp cắt lớp vi tính rồi, kết luận không viêm phổi, mà chỉ bị khối
ép-xe chèn ép gây tắc mạch một góc trên thùy phổi phải. Hình như họ có ý định
chuyển y sang khoa hô hấp thì phải. Y thấy ngại, đúng ra là hơi sợ, bèn lên
tiếng cãi lại. Rồi cũng xong, y về buồng bệnh, đã hơn 9 giờ đêm. Lại truyền
dịch tiếp, chai dịch nhỏ hơn và tốc độ nhỏ giọt cũng nhanh hơn. Gần 10 giờ đêm,
người ta tắt hết đèn buồng bệnh, để ngủ. Ai đó bật cho y chiếc đèn chụp đầu
giường loại dành riêng cho theo dõi việc truyền. Y ngủ thiếp đi, choàng mở mắt
thì thấy một bóng nữ áo trắng đang lúi húi tháo kim truyền cho y. Đêm ấy, y ngủ
mê mệt, tuy giữa đêm, y vẫn phải trở dậy ra nhà vệ sinh làm cái việc rất chi là sung sướng, mà hồi
chiều đã khiến y xuýt nữa vỡ cái bong bóng của quý.
Ngày đầu nằm viện của y là vậy. Sẽ còn
dài dài và nhiều chuyện hay ho mà y đã chứng kiến ngay tại buồng bệnh này và dự
định sẽ kể ra đây, đặng hầu chuyện mọi người,...
2.
Mệt mởi và đau nhức, nhưng y cũng thiếp đi, cho đến
khi ngoài hành lang, tiếng ai đó cất lên “Đổi
nước đi các bác ơi”. Đèn phòng bệnh bật sáng, mọi người mắt nhắm mắt mở
xách phích cũ ra đổi lấy phích mới. Y ngồi dậy, liếc điện thoại, mới có 5 rưỡi.
Sao sớm thế nhỉ. Lại lục đục xếp hàng chờ đi vệ sinh. Khốn nạn, vệ sinh nam có
hai cái để tiểu tiện thì tắc hỏng mất một. Lộn xộn, nữ tràn sang cả phòng nam,
nhưng vì cái sự cấp bách, nên hầu như chẳng thấy ai ngượng cả, cứ thản nhiên
như có mỗi mình vậy...
Các cụ ta xưa dạy cấm có sai câu nào,
“sểnh nhà ra thất nghiệp”. vào đây,
sáng dậy đánh răng rửa mặt và đi tè
một cái cũng nhục. Sau mươi năm cuộc đời, từ thuở cha sinh mẹ đẻ y ra đến giờ,
cũng nhiều lúc nhức đầu xổ mũi, ốm cảm xì xằng, đau chỗ này yếu chỗ nọ, toàn
mua thuốc tự chữa, chưa bao giờ y phải vào viện một lần, một ngày. Quả là,
nhiều lần y vào viện này viện nọ, nhưng mà để thăm người quen, đồng nghiệp ốm
đau thôi. Trước đây, cơ quan y ở gần 3 cái bệnh viện trung ương to đùng (VĐ, C và K), khi nghỉ hưu đi làm thêm ở
chỗ mới thì ngày nào y cũng đi về theo tuyến đường Thanh Nhàn-Lạc Trung, ngang
qua cổng 2 bệnh viện nữa (TN, UB).
Nhà y ở thì gần ngay BM và bệnh viện QT, nhãn tiền thấy bàn dân thiên hạ vào
viện nườm mượp như đi trảy hội. Giờ thì đến lần y rồi...
Nửa nằm nửa ngồi trên giường bệnh, y
cứ nghĩ lan man như vậy. Đợi vợ mang ăn sáng vào, lúc này y mới quan sát hết
phòng bệnh đặng nhận diện ai là bệnh nhân, ai là người nhà. Đêm qua, y đã nhận
thấy, giường bệnh số 59, ngay cạnh y không có bệnh nhân, dù trên giường chăn ga
gối và bộ quần áo bệnh nhân có đủ, mà thay vào đó, mấy vị người nhà nằm nhờ.
Đang nghĩ ngợi, chợt một người đàn ông mắt kính đen, áo khoác thô, dáng người
thấp đậm, gương mặt khó đoán tuổi, đi đến giường 59 ngồi xuống, đặt túi ni-lông
trong có vài chiếc bánh mì lên kệ đầu giường bệnh, hất hàm hỏi y “Bệnh nhân mới à? Vào tối qua?”. Y vâng,
thì lại bảo “Chiều qua, tớ chuồn, còn
chưa thấy cậu mà”.
Chỉ ít phút sau, chẳng cần phải hỏi
nhưng y cũng biết được nhân thân người đàn ông này, là do ông ta tự khai tồng
tộc ra hết. Tên Ph (họ tên đầy đủ là UDPh),
74 tuổi, nhà ở phố Lạc Trung gần Đài truyền hình VTC, một vợ ba con, nhập viện
do bị Gút, vào đây giữ giường cả tuần nay nhưng tối là về nhà ngủ, sáng sớm lại
vào... Bô lô ba la một hồi, ông Ph. bảo “Tớ
ra hành lang sau làm điếu thuốc cho đỡ them cái đã”. Vừa lúc ấy, người đàn
ông trung tuổi, tóc húi cua, áo bay bộ đội, chăm vợ ốm nằm giường 57, hé cửa
kính gọi vào “Bác Ph ơi,... mời cả bác
mới nữa, ra ngoài này làm chén trà với chúng em cho vui. Em vừa tráng ấm pha
trà mới, nóng giòn đây. Còn chán mới đến giờ truyền thuốc”. Thì ra, ngoài
ban công, cả một hội gồm bệnh nhân, người nhà đang trà lá, chuyện phiếm rôm rả.
Ai đó đã sáng tạo, cắt khoét mấy chiếc chai, bình nhựa đựng nước, làm thành
chiếc điếu cày, chuyền tay nhau hút thuốc lào xì xoẹt, phả khói mù mịt ...
Sau hai tuần trà sáng và chiều, y biết
thêm về anh chàng áo bay bộ đội. Chàng tên Q., 55 tuổi, bộ đội nghỉ hưu với
lương hàm tương đương thượng tá, nhà ở Điện Biên, đi chăm vợ bị ốm. Vợ tên Th.
giáo viên tiểu học nghĩ hưu, bị bệnh khớp dạng thấp, lại thêm chút tiền sử bệnh
tim; họ có duy nhất một cậu con trai hiện đang học Đại học Y khoa Thái Bình năm
cuối, đang thực tập tốt ngiệp. Họ đã là người quen thuộc của khoa bệnh này từ
vài năm nay. Để chữa căn bệnh này, Th đã qua 8 lần truyền hóa chất sinh học, đỡ
đau khớp và có thể đi lại, làm việc nhẹ nhàng. Đây là lần thứ 9 họ nhập viện.
Ăn tết Mậu Tuất xong xuôi, họ chọn ngày về Hà Nội, nhập khoa để truyền lần thứ
9 với dự tính chỉ mất có 3 ngày là xong và hy vọng cải thiện thêm các khớp
xương. Vậy mà, trước khi truyền, bác sĩ cẩn thận cho khám sàng lọc, chiếu chụp
và thử máu, người ta nghi Th bị viêm phổi kẽ, thậm chí mắc lao phổi. Thế là mất
cả tuần rồi mà vẫn chữa có kết quả chính xác, còn truyền sinh học thì cũng
không được, với lý do, sau khi truyền, hệ miễn dịch cơ thể rất kém nên có thể
mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, lây chéo, hoặc khời phát bệnh mới do vi trùng
tiềm tàng... Với tổng mức lương hưu cả hai người (chồng > 9 triệu, vợ 6 triệu), nhà có đất trồng rau, hoa quả,
nuôi dăm chục gà đẻ trứng, rủng rỉnh ăn không xuể, bán lấy tiền kha khá...
nhưng, cứ đi viện thường xuyên thế này thì có núi cũng lở. Lần nay, vượt cả sự
tính, lo bệnh tình, lo việc nhà bỏ không bề bộn, nên cứ mỗi lần nghe điện thoại
của người quen hỏi thăm, hoặc gọi điện cho ai đó, Th lại rân rấn nước mắt sụt
sịt khóc. Những lúc như vậy, Q đang nổ như rang chuyện phiếm đến mấy cũng im
bặt, len lén vào an ủi vợ.
Chiều thứ 6 cuối tuần, độ chừng giờ
cơm tối, có 3 bệnh nhân mới chuyến đến phòng 209, thế vào 3 giường trống có
bệnh nhân xuát viện lúc chiều. Ấy là một nữ cao tuổi vốn bị tai biến, một nữ
cao tuổi khác, bộ dạng người phố quý-xơ-tộc,
chân đau nhưng mồm chẳng đau tý nào nên từ lúc nhận giường thì chỉ thấy tiếng
bà ta át cả phòng bệnh, và một nam, ấy chính là bác già mà chiều hôm trước y
nằm ghé giường để truyền nhờ chai thuốc đầu tiên. Nhận ra nhau, y chào trước,
bác già khẽ cười bảo y “Ồ, có duyên ta
lại gặp nhau nhỉ”...
3.
Ngày thứ ba tính từ lúc y nhập viện, là thứ 7 cuối
tuần, bệnh viện nghỉ hành chính, chỉ còn các ca trực cấp cứu và điều trị thường
xuyên. Buổi sáng, giờ khám bệnh và làm thuốc muộn hơn thường ngày chút ít. Vậy
là hội trà lá có thêm thời gian tán chuyện. Uống trà, trà vụn cặn, lại chỉ có 3
chén hạt mít, không đủ, các cốc thủy tinh, cốc giấy loại dùng một lần đầu được
huy động hết để phục vụ hội trà. Chuyện trò, y lại biết thêm mấy người nữa.
Bác nam già, bệnh nhân giường 53B.
người quen hôm trước nữa của y, tên H, 76 tuổi, nguyên cán bộ giảng dạy Đại học
Kinh tế quốc dân, quê Thái Bình, bị ép-xe khớp vai phải do tụ cầu vàng; X, cao gày như cán bút, ngoài sáu chục, quê Nam Định,
đi chăm vợ bị gai đôi cột sống; T, ngoài năm chục tuổi, thấp lẳn, cùng vợ đi
chăm mẹ, bà cụ từng bị tai biến mạch máu não, nay thêm chứng đau lưng, chỉ nằm
một chỗ; và một tay đầu trọc, to béo, bị câm điếc bẩm sinh, không rõ tên, nghe
nói nhập viện do đau lưng, đi lại chống gậy.
Trong cái buồng bệnh này, xem ra,
người nhà đi chăm bệnh nhân lại nhiều chuyện hơn. Đương nhiên, người bệnh,
ngoài nỗi đau, sự chịu đựng, lại thêm tinh thần lo lắng, lấy đâu ra mà lắm lời
nhiều chuyện, ngoài thời gian đi chiếu chụp, còn lại là thời gian truyền thuốc
và tranh thủ ngủ bù cho ban đêm mất ngủ. Có chăng, hỏi chuyện nhau là để biết
thêm kiến thức về căn bệnh mình đang mang và kỹ năng chăm sóc bệnh sau này
thôi. Còn người nhà, bảo họ không lo lắng gì thi tội cho họ quá, song bản thân
họ khỏe mạnh, chỉ lo ngày 3 bữa ăn và giúp giập thêm, nên những lúc người bệnh
bận, họ chỉ còn biết tụ họp nhau ngoài ban công chuyện phiếm trên trời dưới
biển cho hết ngày giờ. Rôm rả nhất là Q và T, hai anh chàng này có vẻ hợp cạ. Q
là bộ đội, sĩ quan, từng đi đây đó, biết nhiều chuyện; còn T vốn dân xứ Thanh,
gia đình lên Đại Từ, Thái Nguyên làm kinh tế mới, lại có nghề thuốc nam gia
truyền nên kinh tế khá giả. Tuần trà sáng, T hào hứng khoe mình là Phó Chủ tịch
Hội thuốc nam địa phương, rồi chuyện hội ăn nhậu ở quê, nhậu dài dài mà chẳng
ngại hại tim gan phèo phổi vì biết nghề thuốc. Vậy mà, tuần trà chiều, đã thấy
mặt T rầu rầu, hỏi thì anh chàng phọt ra “Trưa
nay, nhận cú điện thoại từ thằng bạn nhậu ở quê báo tin, thằng V bạn em, là Chủ
tịch hội thuốc nam mới đột tử sáng nay. Bọn nó hỏi em có về đưa đám thằng V
không, ... lại gạ bảo em lên thay thằng V làm chủ tịch hội thuốc nam... Còn lâu
em mới thay nhá”. Rồi T còn bùi ngùi kể, mới hôm mống 6 tết rồi, thằng V
muốn tụ họp hội thuốc nam, đã mổ cả một con dê mời toàn hội đánh chén thỏa thuê
khai xuân mới. Khi Q hỏi thằng V sao đột tử, T bảo, nghe nói viêm gan cấp tính,
men gan cao chót vót, cấp cứu không kịp. Rồi T lầu bầu “Không hiểu sao lại thế, thuốc nam nhà thằng này rất siê, lại chuyên trị
về gan mà lị”. Nghe vậy, y nghĩ bụng, rõ là dao sắc không gọt được chuôi.
Chán chê, cả hội quay sang chuyện gã
Trọc, trong khi gã ngồi riêng một góc với cốc trà loãng trên tay và miệng phì
phèo điếu thuốc lá, chốc chốc lại liếc nhìn miệng mọi người phỏng đoán xem
người ta nói gì, và có nõi xấu mình không. Hồ sơ bệnh án, gã có cái tên khá hay
(B.N.A), bị điếc câm bẩm sinh, tóc húi trọc, nên gọi là gã Trọc cho ấn tượng,
54 tuổi, độc thân, sống một mình trong căn hộ khang trang đầy đủ tiện nghi.
Hoàn cảnh nhân thân gã là do người nhà kể và mọi người thâu tóm lại vậy. Nhà gã
đông anh em, gã là áp út, do tật nguyền vậy nên cha mẹ anh chị em rất thương.
Khi cha mẹ mất, mọi người lo cho gã chỗ ở riêng, lại quy định suất đóng góp để
sao cho mỗi tháng gã có đủ 8 triệu tiêu pha. Mọi chuyện sẽ bình thường nếu như
gã không bị chứng đau lưng và dị ứng ngứa mẩn. Gã đòi đi bệnh viện, và sau vài
lần như thế, gã mắc hội chứng “thích bệnh
viện”. Cứ lý mà suy đoán, thường ngày gã thui thủi một mình, xem tivi thì
cũng chỉ nhìn hình, đi bệnh viện, có đông người, lại được quan tâm săn sóc hơn
bình thường, gã yêu sách gì cùng được thực hiện, gã thích là đương nhiên thôi.
Xuất viện về dăm ngày, gã lại dở chứng nhăn nhó giả bệnh trọng, năn nỉ van lạy
đòi đi viện. Vào viện, cũng khám xét, chiếu chụp đủ kiểu nhưng bệnh chỉ có thế,
nên vài ba ngày, cùng lắm một tuần là phải xuất viện. Nghe nói, gã đã từng
tuyệt thực mấy ngày liền để được đưa đi cấp cứu. Ở viện, bác sĩ thấy mặt gã đã
phát chán, cho uống vài loại thuốc bổ cho xong, nhưng đâu hết chuyện, thấy bệnh
nhân khác được truyền thuốc mà gã chỉ được uống thuốc thôi thì gã cho là không
bình đẳng chút nào, gã hậm hức, bực bội lắm, nên mỗi khi có bác sĩ thăm khám,
gã cố tình nôn khạc, nhăn nhó, rớm nước mắt, ấn tay vào lưng làm hiệu đau
lắm... Còn chuyện ăn của gã cũng khác người, điều này thì y chứng kiến. Gã đòi
ăn hết món này đến món khác, nhưng khi mua về thì gã lắc đầu, ậm ọe chê, thậm
chí ngậm chút vào mồm rồi khạc nhổ hết ra chậu. Khi ăn uống gã toàn nằm, trong
khi đó, gã một tay chống ba-toong đi dạo suốt không sao. Ban đêm, mọi người ngủ
hết, chốc chốc gã lại dậy, đi tua như một bóng ma, rồi trở về, ăn hết cả chùm
nho, cái bánh bao như chơi. Có lần, y nghe người chị gã than thở “Cứ làm trò ra thế, làm tình làm tội mọi
người. lãng phí, mỗi lần nhập viện là cả đống tiền, có biết đâu, mọi người kiếm
được đồng tiền vất vả đến thế nào...”.
Chuyện này còn tái diễn, trước khi y
xuất viện vào ngày, gã Trọc lại nhập viện vào đúng phòng bệnh này, và thật
không may cho y, gã Trọc nằm ở giường 59, ngay sát giường của y, với hiện trạng
bệnh như cũ. Đúng ngày nghỉ cuối tuần, nên để gã nhập viện được, người nhà nghĩ
mẹo là đưa y vào cấp cứu rồi chuyển từ cấp cứu lên khoa này. Nhìn thấy y, gã
Trọc làm hiệu chào người quen cũ. Đầu tuần, khi thăm khám, bác sĩ nhận ra y, chán ngán. bèn gọi người nhà, nói
phải xuất viện ngay. Người nhà năn nỉ xin thêm vài ngày thì nhận được câu trả
lời dứt khoát “Chúng tôi đã làm hết mọi
thứ cần thiết rồi, về nhà uống thuốc theo đơn. Các bác thông cảm, bệnh viện
không phải nhà trọ, ở đây chỉ dành cho những bệnh nhân nặng”...
4.
Phòng bệnh y nằm, không phải là loại dịch vụ tốt nhất,
dạng trung, 350 nghìn đồng/ ngày giường. đi vệ sinh chung, trong phòng ngoài
một va-la-bô thì có một chiếc tivi treo tường đầu kỹ thuật số, chỉ có chế độ
bật công tắc, mặc định mức âm thanh và kênh VTV1. Ấy vậy, từ hôm y vào đến nay,
tivi bật đi bật lại, vẫn đứng hình, cảnh nữ phóng viên cầm mic đứng ngoài phổ
gì đấy. trông rõ vô duyên. Còn cái chậu rửa thì bị tắc, ứ tràn cả xuống nền
nhà, vậy cũng chẳng thấy ai ngó ngàng sửa chữa gì cả.
Chiều thứ bảy, phòng bệnh vắn, mấy
chàng ngườu nhà cũng bàn chuyện chán rồi. Một ai đó, nhìn cái chậu rửa ứ tắc
thở ngắn than dài. Thấy vậy, Q nổi máu bực lên, bèn rủ X, “Thua cái tivi rồi, còn cái chậu rửa này, chả lẽ anh em mình cũng thua
nốt? Anh em mình thử tháo ra xem sao”. Thế là hai người hì hục tháo vặn một
hồi, cuối cùng cũng được. Họ lôi ra cả một cái rẻ rửa bát lọt xuống chèn tắc ở
họng dưới. Vậy là chậu rửa thông tắc, khiến cả phòng bệnh sung sướng. Bữa cơm
chiều ấy, ba anh chàng Q-X-T rủ nhau ra quán ngoài phố ăn cơm với ý đồ cụng ly
có chút cay cho nó máu, gọi là chút mừng công. Họ có rủ y và bác H nhưng cả hai
đều từ chối. Thế là ba tay kéo nhau đi sẩm tôi mới về.
Y khen Q là người tháo vát, lại chịu
khỏ và hay giúp người. Th, vợ Q bảo “Vâng,
nhà em tính vậy đấy, nhưng mà... việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng... Bộ
đội mà, ra ngoài giúp dân quen rồi, nhưng đi vắng biền biệt thế, bao nhiêu việc
nhà, trông cả vào tay em... Khi nghỉ hưu, ở nhà vẫn quen tính vậy, bác ạ....
Lại thêm, hễ rảnh tay, là mấy ông hưu với rủ nhau bài cây, tá lả hết ngày hết
buổi bác ơi”. Lúc Q về, thấy vợ đang
rôm chuyện với y, đùa vui “Chắc nhà em
lại kể tội em với bác chứ gì”. Y đùa lại “Anh em chúng tôi đang nói xấu chú đây”. Q toét miệng cười “Vâng, em biết tội em rồi... Sau đận này, em
sẽ ngoan, tu chí đây, bác ạ”. Th. cười mắng yêu chồng “Được thế thì mừng quá. Em chỉ mong có thế bác ạ. Với lại, chân tay cứ đau
khớp thế này, em có tham công tiếc việc thì cũng đành chịu. Nhà em không làm
thì ai đây”.
Sau mấy ngày, vợ y mang cơm vào cho y,
thấy vợ chồng Q-Th hay chuyện, cũng hỏi han chuyện trò, biết bệnh của Th, nói
là Th nên tập một số động tác yoga, hy vọng tập luyện lâu dài sẽ cải thiện được
sự vận động. Chiều hôm ấy, vợ y mang cơm sớm hơn mọi ngày, dành thời gian dạy
cho Th dăm động tác yoga đơn giản, dễ tập và có thể đem lại hiệu quả. Về cái
khoản này, vợ y đã theo lớp tập bảy, tám năm nay, nhờ thế mà việc nhà quần quật
vẫn dẻo dai. Điều đó, cho thấy tác dụng nhãn tiền của yoga. Vợ y còn “đe’ sẽ dạy cho y tập yoga, y ầm ừ nhưng
rồi bỏ qua. Có lẽ, sau đận này, cũng phải tập yoga thôi.
Về sức khỏe, người ta hay bảo nhau “Lúc còn trẻ, bán sức khỏe đi để lấy tiền.
Khi về già, lại bỏ ra bao nhiêu tiền mua lại sức khỏe, nhưng đâu có được”.
Ngẫm nghĩ thấy quá đúng. Giờ đây, các điểm công cộng, phấn đông chỉ thấy người
già luyện tập thể dục, trong khi cánh trẻ thì đêm thức rõ khuya, sáng thì dậy
muộn, thậm chí ngày nghỉ có thể ngủ cả ngày.
Nói vậy, y cảm thấy ái ngại, khi biết bệnh nhân giường 60B, cạnh giường gã
Trọc, ấy là cô gái trẻ mới 22 tuổi, mặt non choẹt như học sinh phổ thông, vậy
mà đã lấy chồng, có con 6 tháng tuổi, nhập viện trước y cả tuần vì chứng thấp
khớp chạy vào tim. Cu cậu chồng cô bé, cũng non, ăn mặc như thằng cu bơ cù bất.
Đôi vợ chồng trẻ chăm nhau, nhõng nhẽo như trẻ con. Mà đúng, vợ chồng trẻ con.
Nghe nói, đầu tuần, cô bé xuất viện, nhưng không phải khỏi bệnh về nhà, mà chỉ
về nhà tạm thời ít ngày, để sau đó nhập viện Tim mạch chữa bệnh tiếp. Rõ khổ.
Bệnh nhân, vào đây, mỗi người mỗi
bệnh, có thể na ná như nhau, nhưng không giống nhau; hoàn cành gia đình cũng
mỗi người mỗi khác, tự mình chăm mình, người nhà đi theo chăm sóc, hoặc giả
thuê người chăm sóc. Dịch vụ y tế tăng chóng mặt, nằm giường phổ thông thì phải
chấp nhận 2-3 người nằm chung. Giường hẹp, phòng đông người ngột ngạt, đến
người khỏe cũng nhược người, huống chi người bệnh. Lại thêm người đi theo, tối
trải chiếu, ni-lông, tấm bìa các-tông xuống nền, ngủ la liệt như lợn. Còn thuê
phòng dịch vụ tự nguyện thì bét nhất cũng 350 ngàn đồng/ ngày giường, mà số
giường cũng có hạn, không có mà thuê. Ai ở tỉnh xa, đi viện mươi ngày, kèm thêm
người nhà đi chăm sóc là đi tong vài chục triệu, bay số tiên còm cõi kiếm cả
năm cũng nên. Y đã chứng kiến, nhiều người không dám ăn suất cơm viện, bởi mỗi
suất là 30 ngàn đồng, trong khi chịu khó đi ra phố, quán cơm bình dân chỉ giá
20 ngàn. Mỗi lần đi ăn về, có người ngồi đếm mớ tiền lẻ nhàu nát, vuốt cho phẳng
rồi xếp lại với nhau, mặt mũi cứ tần ngần, nhẩm tính từng ngày. Đấy là chỉ tính
tiền ăn, tiền thuốc thôi, chứ chiếu chụp hình ảnh mới tốn kém nhiều. Ai không
có bảo hiểm thì thật khốn nạn cái thân, bao nhiêu tiền cho đủ. Mà bây giờ, miễn
bàn, đi khám bệnh, bác sĩ hỏi dăm câu chiếu lệ, hỏi cho phải phép, để định
hướng vậy thôi, còn đâu cứ phải chiếu chụp cái đã ...
5.
Khi phần đông người là vạn bất đắc dĩ, là khổ sở, tốn
kém, thì lại có người nhập viện tưng bừng như đi hội, người ra vào thăm nom
sáng chiều tối tấp nập. Nói như vậy, không có nghĩa là người đó thích nhập
viện, bởi đã là bệnh tật thì nặng hay nhẹ đều khổ rồi.
Bà Phg là một trong số đó. Năm nay bảy chục cái xuân
xanh, vóc người nhỏ nhắn trắng trẻo, gương mặt cho thấy hồi trẻ là người có nhan
sắc, nhưng cũng thể hiện sự sắc sảo, ghê gớm, và kiểu cách thì ra vẻ quý-xờ-tộc, người kẻ chợ. Từ lúc bà
Phg nhập viện, bà điều khiển cả phòng bệnh như nhà của bà vậy. Nghe đâu, bà ta
có con gái làm bác sĩ ở khoa nào đó của bệnh viện này, nên mỗi khi phải chiếu
chụp gì đó, cô con gái bác sĩ điện thoại nhờ và trước, nên bà không phải xếp
thứ tự như các bệnh nhân khác, chỉ đi một loáng là xong ngay. Rõ là “nhất thân, nhì quen”. Bà Phg nói liên
tục, chỉ đạo này nọ, từ chuyện khép cửa, đến để ghế vào đâu, tắt mở tivi thế
nào, tắt quạt bật quạ ra saot, tóm lại, là tất tần tật la cứ phải theo ý muốn
của bà hết. Ngoài việc chỉ đạo, bà hỏi thăm bệnh và tranh luận với tất cả mọi
người, tiếp đó là kể chuyện gia đình bà, khoe con này, cháu nọ khôn ngoan, giàu
có. Chưa đủ, nhà bà thuê cho bà chị C, một người đàn bà nông thôn nạ dòng
chuyên nghề chăm bệnh nhân để chăm sóc bà, và bà luôn miệng sai vặt (đương nhiên, cho bõ tiền công thuê mướn),
giáo dục, nhắc nhở, phê phán chị C vì chưa làm bà vừa ý. Có lúc, bà nổi cáu,
mắng mỏ, dọa đuổi, hoặc dọa không trả tiền công cho chị C. Tóm lại, chỉ trừ lúc
bà Phg ngủ là người ta không thấy tiếng bà, và mỗi tối, cứ tầm 9 giờ là đòi tắt
tivi, tắt hết đèn để bà ngủ... Khách khứa, người nhà bà vào thăm đông và nói
chuyện ồn ào thì không sao, nhưng khách của người khác là bà tỏ vẻ khó chịu ra
mặt. Cánh đàn ông nhăn mặt rỉ tai nhau “ thôi
thì nhịn như nhịn cơm sống vậy”
...
Người nữa, ấy là anh chàng D, ngoài bốn chục tuổi,
trắng trẻo đẹp giai ra mặt, ít nói và hầu như không giao tiếp với ai, kể cả
người ở giường bệnh kế bên là bà Phg lắm lời, D được người nhà và đồng nghiệp
thăm hỏi khá đông. Qua câu chuyện của khách thăm, đồ đoán, D có chút chức vị
trong một doanh nghiệp nào đó. Lúc chuyện phiếm, Q ghé tai y thì thầm “Bác ạ, em nghe vợ chồng tay này bảo nhau,
phong bì của khách thăm hỏi lên đến bốn, năm mươi triệu đấy. Chắc tay này là
lãnh đạo doanh nghiệp nên phong bì mới
nhiều vậy”. D không chuyện trò với ai, và chỉ có mỗi một niềm vui, ấy là
nghịch chiếc điện thoại đắt tiền, bất kể ngày hay đêm. Nhiều đêm, y trở dậy đi
vệ sinh, vẫn thấy D ngồi ghế ngoài hành lang, cắm mặt vào chiếc điện thoại.
Nghe nói, D bị bệnh gì đó, đau khớp và cơ, nhưng vẫn chưa tìm ra nguyên nhân,
hễ không dùng thuốc là sốt cao, có lần, D tỏ ra lo lắng sợ mình bị K...
Đầu tuần, khi đôi vợ chồng trẻ ranh xuất viện, giường
bệnh đó có ngay bệnh nhân mới tiếp quản. Ông này ngót sáu chục, tên V, người
thấp đậm, to béo, trán hói, chân sưng húp không đi được mà phải ngồi xe lăn, từ
phòng bệnh khác chuyển sang. Lúc mới nhập phòng, con trai đưa vào, nhưng ở lại
chăm sóc lại là một người đàn bà nạ dòng to béo, gương mặt hao hao ông V, nên
mọi người đồ đoán là em gái chi đấy. Ông V ít nói, nhưng hễ nói là cáu gắt với
người theo chăm mình. Ông ta sốt liên miên, được chăm sóc đặc biệt hơn, suốt
ngày truyền dịch. Nhưng lúc tỉnh táo, ông V điện thoại liên miên, mời mọc, chỉ
đạo này nọ người ở nhà chuẩn bị cho đám giỗ đầu mẹ đẻ ông ta ở quê. Một buổi,
có mấy người vào thăm, trong đó có một bà già, và khi vừa nhìn thấy ông V, bà này
đã ngào ngào khóc, lớn tiếng bảo ”Sao
cháu tôi lại đến nông nỗi này... Thế mấy đứa con mày đâu, sao không trông bố mà
lại để cái nhà cô này trông?” ý ám chỉ người đàn bà đang chăm bệnh ông
V. Người đàn bà nạ dòng chào bà già, lấy
ghế để bà ngồi rồi với vẻ sợ sệt, len lén ra khỏi phòng bệnh, đi đâu mất cho
đến khi khách về hết mới thấy quay trở lại. Khi ông V nói là ông cho đám con về
quê lo việc giỗ thì bà già mắng “Thì ít
nhất cũng phải có một đứa ở lại trông mày chứ, sao lại phó thác hết vào con mụ
này... Cháu bà mà mệnh hệ gì thì con này, mày chết với bà”. Sau một hồi
khóc lóc và lớn lối, bà già dúi cho ông cháu ít tiền rồi đi. Người đàn bà kia
trở lại, làu nhàu “Chỉ được cái to mồm,
tiếng là thương xót lắm nhưng ngồi với cháu được mấy phút. Cứ thử một đêm chăm
cháu rồi xem...”.
Sau mọi người vỡ lẽ ra, ông V có mấy con với người vợ
trước, chẳng hiểu bỏ vợ hay chết vợ, hiện tại V đang chung sống như vợ chồng
với người đàn bà đang chăm bệnh ông ta đây. Người đàn bà này cũng đã có 2 mặt
con với người chồng đã mất của cô ta. Ông V chuyển bệnh sau khi đi làm ca đêm
về, lại phong phanh quần áo cộc đi tập thể dục rồi tắm. Chắc là cảm lạnh, cảm
nhập tâm, sốt cao rồi chuyển bệnh nặng. Điều trị tích cực mà vài ngày sau thì
bệnh ông V nặng hơn, khó thở, phải thở máy và sau một đêm trợ lực mọi nhẽ tại
phòng bệnh, ông V phải chuyển sang phòng cấp cứu của khoa và sau đó chuyển tiếp
sang A9 với tình trạng mười phần chết bảy. Mọi người bảo, ông bị tiểu đường
nặng nay phá lung tung, nhưng bác sĩ lại chẩn, ông V ăn kiêng quá dẫn đến tình
trạng mất cân bằng dinh dưỡng. Nghe vậy, cả phòng bệnh lại có cớ bàn tán sôi
nổi rằng, bị tiểu đường thì có nên ăn kiêng hay không và nếu ăn kiêng thì ở mức
độ nào cho phải ?...
6.
Sáng đầu tuần, sau dăm ngày truyền kháng sinh, như bác
sĩ khoa ngoại hội chẩn, y phải làm thêm mấy xét nghiệm máu như kiểm tra HIV,
tốc độ đông máu và siêu âm tim, rồi y được chỉ định sang phòng Tiểu phẫu của khoa khác để là thủ thuật
mổ ổ ép-xe. Mặc dù có tiêm thuốc tê nhưng y cũng phải mấy bận đau cong người
lên khi bác sĩ phẩu thuật ép dịch mủ trảo ra. Y tỉnh táo đủ nghe hết trong khi
phẫu thuật, mấy phẫu thuật viên nói chuyện với nhau về tình trạng bệnh của y,
kể cả việc họ gọi điện xin ý kiến chuyên môn của bác sĩ trưởng khoa, và những
câu tán đùa nhau. Y cũng cảm giác được đầu ống hút khua khoắng và chạy sè sè
tạo lực hút trên màng khung xương ngực phải để hút chất dịch mủ trong ổ viêm,
giống như người ta hút bùn loãng khi nạo vét ao hồ vậy. Người ta khâu vết mổ
lại, không quên việc đặt một cái ống dẫn lưu để dịch mủ ra tiếp thời gian hậu
phẫu. Lúc ấy, vừa 12 giờ trưa, mấy cậu bác sĩ trẻ, vừa đỡ ý ngồi dậy, vừa thở
như trút ra gánh nặng, bảo nhau “Rồi cũng
xong việc. Được ăn trưa rồi đây”. Nghe vậy, y hiểu, ca bệnh của y phức tạp
hơn so với những gì mấy cậu bác sĩ này nghĩ. May mà, cũng ổn. Với chiếc áo bệnh
nhân loang lổ bởi dịch ổ viêm làm bẩn, y tự cầm cái túi bóng ni-lông đựng chất
dịch cùng dây dợ lòng thòng với sự áp tải của vợ đi xuyên mấy dãy hành lang dài
dặc để trở về phòng bệnh cũ.
Thay áo sạch, rửa tay, y đói meo, ăn ngấu nghiến chiếc
bánh bao nóng hổi vợ y kịp mua cho. Trưa ấy, như trút được gánh nặng, mặc dù
bụng y còn vơi bởi chiếc bánh bao quá nhỏ so với cái dạ dày rỗng kiệt sau khi
chịu đựng ca phẫu thuật, y ngủ một giấc ngon lành cho đến 2 giờ chiều. Tỉnh
ngủ, y nằm trên giường, lắng lại, cảm giác như người khỏi hẳn bệnh, quên cả
chiếc ống dẫn lưu như cái vòi lòng thòng từ ngực y trồi ra với chiếc túi treo
móc lủng lẳng dưới gầm giường chứa đến vài trăm li dịch ổ viêm...
Trong số đàn ông ở phòng bệnh này, y hợp chuyện và hay
nói chuyện với 2 người, ấy là Q. và bác H. Nếu Q xuề xòa, thoải mái bao nhiêu
thì bác H lại kỹ càng câu chữ và khá hóm ngầm. Q hay động chân tay giúp người
bày đỡ người khác, thì bác H lại giữ mình để không phiền toái đến bất cứ ai. Q
thích chuyện đời sống dân dã và vui đâu chầu đấy, những câu chuyện vui ngoài xã
hội, thì bác H lại thích chuyện chính trị, chuyện thâm cung bí sử xưa nay. Với
cả hai người này, y đều vui chuyện được và cũng không cần phải ý tứ gì lắm. Có tối,
y và bác H kéo nhau ra ghế hành lang ngồi chuyện trò đến khuya những câu chuyện
triều chính ẩn khúc, chuyện nhiều nghi vấn trong lịch sử và hiện đại ... Dù bác
ta khá kín tiếng, rồi y cũng biết được nhân thân của bác H... Với chiều cao
1m75, xống mũi cao, gương mặt có nét châu Âu, nên lúc trẻ được nhiều cô gái say
đắm. Là sinh viên, rồi nhập ngũ, bị thương xuất ngũ, học tiếp đại học và trở
thành giảng viên đại học. Bác H từng được cho sang Nga làm nghiên cứu sinh
nhưng lại từ chối (theo bác H tự nhận là
thiếu chí tiến thủ), cưới vợ quê (giữ
lời hứa của hai người cha gả con cho nhau). Trước khi nghỉ hưu, bác H bị
tai nạn xe máy, vỡ xương vai, đúng vết thương cũ thời chiến tranh, kết quả phải
thay khớp vai bằng hợp kim, kỹ thuật y khoa tiên tiến ở thời điểm ấy. Hai chục
năm sau, ổ khớp ấy thành ổ viêm do tụ cầu vàng gây ra. Trừ mấy ngày nghỉ tết
Mậu Tuất, bác đã có cả tháng truyền kháng sinh. Ở tuổi này, gia đình yên ấm tại
thành phố TB, hai con gái đầu trưởng thành cả, riêng cậu út thì tuy học đại học
“hơi lâu mới tốt nghiệp”, có lúc ham
chơi không chịu học, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua, hiện đã có việc làm và yên
bề gia thất. Bác H bảo “Tớ 76 rồi, trời
cho được mươi năm nữa cũng tốt, còn không, cũng chẳng có gì phải ân hận cả”
.
Cái tâm sự kiểu này, hóa ra không phải riêng bác H, mà
còn là ý nghĩ của ông Ph, bệnh nhân giường 59. Bị gút nặng và cứ mỗi tối là
chuồn vê nhà ngủ, sau hơn tuần uống thuốc, ông Ph bớt đau chân, những tưởng
xuất viện đến nơi thì trong một lần chụp cắt lớp CT, người ta phát hiện ra một
khối u ở dưới thùy phổi phải. Bác sĩ điều trị khuyên ông nên sinh thiết tế bào
để kiểm tra u lành hay ác, đặng còn chữa trị kịp thời. Ông Ph kiên quyết không
chịu và chỉ một mực đòi xuất viện. Người ta mời anh con trai ông Ph gặp riêng
nhằm thuyết phục ông. Sau vài ngày, ông Ph không nghe, cuối cùng đành cho ông
xuất viện với tờ giấy cam đoan tự nguyện, lưu trong hồ sơ bệnh án, là để tránh
việc đổ lỗi cho bệnh viện sau này. Lúc thu dọn đồ đạc, thu chăn ga trang phục
trả lại viện, ông Ph bảo y “Bác à, iem
năm nay 74 tuổi rồi, ba con đều phương trưởng, cháu nội ngoại dăm đứa, iem cần
gì nữa đâu. Thây kệ cái u, iem là iem nhất định không có chọc ngoáy, dao kéo gì
sất. Sống chết nó có số cả, thêm được bao nhiêu hay chừng ấy. Động vào, có khi
củ tỏi sớm cũng nên, bác nhỉ”. Mặc dù hơn y cả chục tuổi, song ông vẫn xưng
hô “iem iem” theo kiểu người nhà quê
như vậy. Ông Ph chào hết lượt mọi người trong phòng bệnh, xách túi đồ đạc, mắt
kính đen, lũn cũn theo chân cậu con trai cao ngồng ra về. Rồi cái khối u trong
phổi ông Ph ra sao, còn bỏ ngỏ, nhưng cũng có cái để người trong phòng bệnh bàn
ra tán vào mãi về quan niệm sống của người già nói chung, về số phận con người,
về cái sống cái chết ...
7.
Bà cụ hơn tám mươi, mẹ của T sau dăm
ngày điều trị không hiệu quả, người ta khuyên chuyển sang khoa khác thì hợp
hơn. T đi, Q bớt một người bạn hay chuyện. Nhưng nghe đâu, họ vẫn gặp nhau ở
ngoài quán ăn, cụng với nhau vài cốc bia cho đỡ nhạt mồm. Không có T, Q tỏ ra
buồn, chỉ thỉnh thoảng chuyện với y và bác H mà thôi. Được cái, Q tỏ ra quan
tâm đến mọi người, ai nhờ việc gì cũng giúp, như đi gọi điều dưỡng viên, đi lấy
kết quả chiếu chụp hộ người này, người nọ, chẳng nề hà việc gì, nhiều khi đi lo
giúp việc người, lúc vợ cần gọi lại không thấy đâu. Những lúc như vậy, Th-vợ Q
lại rền rĩ, khiến y phải nói đỡ hộ Q,
khen ngợi Q tốt bụng lấy phúc này nọ, Th mới thôi, nhưng vẻ mặt vẫn ra
chiều rầu rĩ lắm.
Trong số các bệnh nhân tại phòng này, ai cũng có người
nhà đi kèm, chăm sóc cả ngày lẫn đêm, duy chỉ có y và bác H là đêm không có ai
chăm cả. Đơn giản, bởi chỉ có hai người là chân khỏe, đi lại bình thường, tay
cũng làm được việc vặt, tránh việc nặng thôi . Vì thế, không những ngày, ban
đêm, Q hay giúp y và bác H nhiều việc vặt.
Sau hôm mổ ổ ep-xe xong, ông bà bên thông gia với y
biết tin vào thăm. Y hăng hái kể lể chuyện bệnh tật cả tiếng đồng hồ, lúc khách
về, vợ y mang cơm tối vào, phát hiện túi đụng chất dịch dẫn lưu không chỉ có
dịch mà căng đầy những hơi, sợ quá bèn gọi điều dưỡng vào, xử lý xì hơi đi. Vợ
y về rồi, thì có một điều dưỡng vào hỏi y có thấy khó thở không. Y ngạc nhiên
vì thấy mình bình thường, nhưng nhân viên này yêu cầu y phải đi chụp X quang
ngay lập tức, vì bác sĩ trực ca lo rằng chân ống dẫn lưu đặt sâu quá có thể
chọc thủng màng phổi nên mới sinh hơi, khí nhiều như vậy. Thấy thế, Q bào sẽ
đưa y đi chụp. Y định tự đi thì họ yêu cầu phải ngồi xe đẩy vì sợ khi đi, có
thể chân ống dẫn lưu sẽ phá rách màng phổi thì gay go to. Nghe họ phán vậy y
đang đi phăm phăm, bỗng thấy lo lo. Ừ thôi, cứ nghe họ, bác sĩ có chuyên môn,
họ phán vậy có lý, ngộ nhỡ ra,... có hối cũng muộn... Thế là, Q lại hì hụi mượn
xe lăn, đẩy y đi chụp X quang. Đêm ấy, y thấy lo nên khó ngủ, chụp rồi nhưng
chẳng biết thế nào, cả tối thì phấp phỏng chờ xem có sao không, nhưng không thấy
nhân viên nào trờ lại nên y nghĩ là sau khi xem phim chụp, họ thấy ổn nên
thôi... Lo chán, y cũng thiếp đi, cho đến khi tiếng rao “Các bác ơi, đổi nước”, y mới giật mình tỉnh dậy.
Về cái ống dẫn lưu, cái vòi bạch tuộc cắm từ ngực y,
xem ra cũng phức tạp. Mấy ngày đầu, dịch dẫn lưu tràn ra 200 li, rồi 300 li, y
cứ giữ nguyên như thế, vì nghĩ để bác sĩ điều trị biết, định lượng, ‘đong đếm” về khía cạnh chuyên môn... Sau
mấy ngày, bác sĩ thăm khám, chẳng thấy ai nói gì, cũng không ai bảo y trút cái
của nợ ấy đi, nên y cứ cam tâm giữ nguyên mấy trăm li dịch ấy trong cái túi
đựng dịch. Cho đến khi, thấy cô nhân viên điều dưỡng mở chốt xì bớt khí nội
sinh đề phòng căng quá mà vỡ túi, nhưng cũng không đổ dịch đi, nên y càng tin
là phải giữ nguyên. Song đeo đẳng cái bịch non một nửa ”chất quý” ấy cũng khốn
khổ cho y lắm cơ. Mặc dù y khá sáng dạ, nhưng chỉ nghĩ ra cái mẹo, mỗi khi ra
khỏi giường bệnh, y đút cái bịch dịch của quý ấy vào chiếc túi áo bệnh nhân
rộng thùng thình, nom đỡ chướng mắt thôi. Ngẫm nghĩ, thấy chẳng nhân viên y tế
nào có ý định “đong đếm” cái bịch của
quý ấy, y bèn loay hoay thử tháo chốt cái bịch nhưng không tài nào được, nên
đành phải nhờ anh chàng Q với bàn tay sắt của lính trợ giúp, cuối cùng cũng mở
được cái chốt ở đáy bịch, đặng trút hết thứ nặng nợ ấy vào toa-lét. Thấy nhờ vả
thế cũng không tiện, rồi y cũng học được cách tự tay tháo chốt thải dịch, cho
đỡ phiền hà ...
Chưa hết, một chiều, cô bác sĩ trẻ ngày ngày vẫn thăm
bệnh cho y dắt theo một chàng bác sĩ, nghe đâu bên khoa Ngoại, cái nơi đã mổ
chich khối ép-xe của y, vào thăm bệnh y. Sau chút ngắm nghía cái bịch và dây
dẫn lưu lòng thòng, chàng ta xì một cái, rồi dẫn cô bác sĩ ra ngoài, chốc lát
trở lại. Chàng bác sĩ tự tay thị phạm, vừa làm vứa hướng dẫn nàng bác sĩ, vứt
bỏ cái bịch đựng và cả mớ dây dẫn lưu lòng thòng ấy đi, thay vào đó là một
xi-lanh nhựa to, được tạo áp lục âm, kiểu như người ta rút thuốc vào ống kim
tiêm ấy. Thế là từ đấy, y chỉ phải mang cái xi-lanh áp lực âm ấy, được nối với
phần gốc ống dẫn lưu, và mỗi khi đi đâu, y chỉ việc cho nó vào túi áo bệnh nhân
rộng, thật gọn gàng và kín đáo. Cũng kể từ đấy, y mạnh dạn đi đây đó, xa hơn
cái phòng bệnh và toa-lét, kể cả việc sáng dậy đi bách bộ thể dục, hoặc ra
ngoài ăn sáng hay chuồn về nhà gội đầu và kiếm bữa cơm gia đình buổi chiều.
Như trút được gánh nặng...
8.
Đây là lần đầu tiên y vào viện. Và đương nhiên, y sợ
bệnh viện, sợ phải nằm viện đến mức nào. Nhớ là, hôm bác sĩ phòng khám bút phê
y phải nhập viện điều trị nội trú, y đã nằng nặc đòi ngoại trú, với lý do bệnh
nhẹ, nhưng thực lòng, y ngại, đúng ra là sợ bệnh viện.
Vậy mà, sau 12 ngày nội trú, bác sĩ điều trị thăm bệnh
và phán rằng, y phải xuất viện, với lý do, bệnh của y, mười phần đã bớt bảy, đã
có phác đồ điều trị rõ ràng, vả lại, theo nội quy, một đợt điều trị nội trú ở
đây, nếu không có gì đặc biệt, chỉ đúng 12 ngày là phải xuất viện. Cứ theo vậy,
có nghĩa là y phải xuất viện ngay, bệnh viện tuyến dưới sẽ chữa trị nốt phần
còn lại. Thực lòng, y sợ nằm viện lắm rồi, nhưng ngực y vẫn còn đó cái ống dẫn
lưu và mỗi ngày, dịch từ ổ ép-xe vẫn ra chút chút, giờ chuyển bệnh viện tuyến
sau nào đó, y vẫn phải mang theo cái cục
nợ ấy, rồi biết đâu, lại chiếu chụp lại từ đầu thì phiến toái, rầy ra lắm.
Đơn giản, bởi ở cái xứ ta, chẳng hiểu sao, bệnh viện này, không thèm công nhận
kết quả chiếu chụp, chẩn đoán bệnh và phác đồ điều trị của bệnh viện kia. Đâu
đã hết, có thể lại nội trú, lại người nhà phục vụ, thôi thì cả tá thứ lôi thôi
theo cùng... Nghĩ thế, y nằn nì, cô bác sĩ điều trị bảo, là bác sĩ trưởng khoa
chỉ thị vậy, có gì cứ thử trình bày với trưởng khoa xem vị ấy quyết định thế
nào. Chẳng hiểu, bộ dạng y ra sao, cải bản mặt y nhăn nhó, thực thà thế nào, mà
vị trưởng khoa đồng ý cho y thêm 2 ngày nữa, đủ để truyền đủ phác đồ truyền
thuốc 2 tuần (14 ngày). Thế rồi, qua
2 ngày thêm lại là nghỉ cuối tuần, vậy là y yên tâm đợi đến đầu tuần sau chờ
phán xét, cứ như “ngày phán xử cuối cùng”
ấy. May ra, lúc đó, có thể người ta sẽ rút cái vòi bạch tuộc từ ngực y ra cũng
nên.
Có một chuyện, y thấy cũng không nên bỏ qua, ấy là
bệnh nhân mới nhận phòng, thay vào giường bệnh 55, nơi bà mẹ bị tai biến của T
nằm trước đó. Đấy cũng là một bà già ngoài bảy chục tuổi. Bà này đau khớp chân,
nhưng cái miệng lại rất khỏe mạnh. Mỗi khi, người nhà đỡ bà ta ngồi dậy, hoặc
xê dịch cái chân của bà thì bà oai oái kêu đau, rồi rền rĩ và lầu bầu mãi.
Người bệnh đau và kêu thì rõ rồi, nhưng người lành đi chăm bệnh cũng sung sướng
gì đâu, chẳng tới mức “giường cứt chiếu
đái” thì cũng lăn lộn khuân bê, tất tưởi thuốc men, cơm cháo, lúc đêm hôm
thì thức canh cho người bệnh ngủ, chỉ tranh thủ nằm ghé, hoặc trải chiếu xuống
nền nhà chợp mắt được chăng hay chớ cho lại sức mà thôi. Nghĩ cũng cực cho họ
lắm. Vậy nên, người bệnh cũng phải nghĩ cho họ, biết thương họ chứ. Đằng này,
bà già cứ yêu sách này nọ, như hành tội người nhà đi theo, lúc ngủ im thì thôi,
còn không, chốc chốc lại léo nhéo này nọ đủ kiểu. Tôi nghe, cũng thấy sốt ruột,
thấy ái ngại cho những người nhà của bà ta. Thưởng là, chăm bệnh ban đêm cho bà
này, có cô con gái, đứa cháu gái đang là sinh viên ngoại ngữ, và ông chồng già
của bà. Đứa cháu gái thì thức khuya, chát chít cheo chéo cả đêm khiến mọi người
khó ngủ, còn ông chồng già thì mồm sặc mùi rượu, nói năng lung tung theo kiểu
nát rượu, đến nỗi bà vợ chốc chốc phải lên tiếng nhắc nhở, cảnh báo ông ta chớ
nói nhăng nói cuội “kẻo công an họ gô cổ
cho đấy”. Anh con trai của bà này, kiểu người nhanh nhẹn và hay chuyện, chỉ
chăm bệnh ban ngày. Hỏi ra, họ dân Hưng Yên, cùng quê gốc với y.
Là người cùng quê, nên anh này càng hay chuyện. Có
lần, ngồi hóng gió hành lang ban công lúc chiều muộn, chỉ có hai người với
nhau, anh này bắt chuyện với y, rồi dần dà cụ tỉ bao nhiêu là chuyện. Nhà họ có
dăm anh chị em, nhưng mỗi anh ta la trai, nên thành trưởng. Bố mẹ anh ta ở
riêng, hai ông bà chăm nhau. Các con gom góp thêm để phụng dưỡng cha mẹ già.
Hình như, họ không hợp với cô con dâu, nên anh chàng này cũng bị cha mẹ ghét
lây. Cứ theo anh ta, tiếng thế, nhưng tất cả các việc lớn nhỏ, nhà anh ta phải
cáng đáng là chính, trong khi các cụ thì,”cụ
bà lắm điều, cụ ông nát rượu”, rồi động tý là rêu rao với hàng xóm láng
giếng “chúng tôi không thèm nhờ vả gì vọ
chồng chúng nó”. Chàng ta than thở với y “Ông ạ, các cụ nhà cháu vậy đấy. Thôi thì nhà cháu, vợ chồng khuyên bảo
nhau, con cái đâu có quyền chọn cha mẹ, các cụ có thế nào đi chăng nữa thì vẫn
là cha mẹ mình. Mình ăn ở, hiếu đễ thế nào, thì họ hàng, làng xóm người ta biết,
ông giời cũng biết cả ... Bà cháu bệnh thế này, truyền đạm, truyền thuốc, toàn
nhà cháu lo cả. Các chị em gái cháu, tiếng thế, cũng chỉ trông giúp dăm buổi
vậy thôi... Chưa biết đến lúc xuất viện ra sao, hiện giờ, nhà cháu đóng tiền
tạm ứng viện phí đã hơn ba chục triệu rồi đấy... Cả một đống tiền”...
Chàng ta thở dài. Y cũng chỉ biết vài câu an ủi, động
viên mà thôi...
9.
Y có một tuần trước khi xuất viện, trong yên lặng, là
bởi vợ chồng Q-Th và bác H đều xuất viện cùng một ngày. Bác H, sau khi siêu âm
và thử máu kiểm tra, căn bệnh ép-xe khớp vai trái của bác ấy cơ bản đã hết
viêm, còn việc bác ấy có quyết định thay ở khớp đã từng được thay từ 20 năm
trước sau một tai nạn xe máy ở cửa ga Hàng Cỏ, bằng một khớp mới với chất liệu
tiên tiến hay không là quyền ở bác H. Song cứ như tâm sự của bác ấy với y thì “Thôi, tớ đã 76 tuổi rồi ... chỉ cần không bị
viêm là ổn”. Còn Th, vợ của Q, còn mấy xét nghiệm chưa có kết quả, thì cũng
không thể nằm đây mà chờ được, bởi mỗi ngày trôi qua là cả triệu bạc trôi theo,
trong khi lợn gà, vườn tược ở nhà bề bộn ra đáy. Cứ xuất viện đã, kết quả xét
nghiệm thế nào, bác sĩ của khoa sẽ thông báo qua điện thoại. Nếu may mắn, theo
lịch hẹn tái khám, vào trung tuần tháng sau (tháng 4), họ sẽ lại nhập viện để
truyền sinh học lần thứ 9. Bác H thì có bà vợ già và cậu con trai út từ quê
lên, kịp bắt xe về Thái Bình trong ngày. Còn vợ chồng nhà Q thì đến điểm đón xe
tuyết lên Điện Biên, chạy thông đêm, rạng sáng hôm sau về đến nhà. Buổi tối hôm
ấy, y cẩn thận gọi điện biết bác H đã về đến nhà, còn vợ chồng nhà Q đã đón
được xe, y mới yên tâm. Có gì đó buồn buồn thiêu thiếu, Chẳng gì, y cũng chuyện
trò và khá thân quý họ trong nửa tháng qua. Nhìn hai cái giường 53B và 57 của
họ, được lấp ngay bằng những bệnh nhân mới, y cứ bâng khuâng làm sao, phần vì
nhớ họ, phần vì nghĩ đến mình, không biết hôm nào được ra. Y chỉ biết hết cắm
mặt vào chiếc smartphone G.Note 3 cũ kỹ, lại ngếch mắt lên màn hình tivi, ơn
trời, từ chiều ấy, bà con có cái mà xem, vì bỗng nhiên sau nửa táng đứng hình
nó lên hình bình thường và léo nhéo suốt nếu quên tắt, mặc dù chẳng ai chữa ...
Vẫn còn nhiều chuyện, nhưng thôi, cứ xem đây là phần Vĩ thanh của thiên ký sự này, bởi nói
dai thành nhạt trò... Những câu chuyện, những thân phận, tâm tư... y kể ra đây,
mới chỉ là những điều mắt thấy tai nghe ở một phòng bệnh cụ thể của một khoa
bệnh thôi, nhìn rộng ra, thì còn bao điều để bàn....
Trước hết, về sự quá tải ở bệnh viện, người ta đã tốn
bao công sức, giấy mực để bàn rồi, y chỉ chiêm nghiệm rút ra vài điều như sau.
Xưa nay, cái chợ vốn được xem như một
thiết chế văn hóa của xã hội nói, giờ đây, có thể mở rộng khái niệm này, từ chợ
cóc, chợ truyền thống, siêu thị đến thị trường nói chung. Tóm lại, đây là cái
nơi để người ta mua bán hàng hóa, và bao giờ cũng đông đúc. Đông như đi chợ mà.
Cùng với cái chợ, đông đúc không kém, ấy là lễ
hội. Và lễ hội ngày nay, cũng xem như cái chợ, chợ mua bán tinh thần, “buôn thần bán thánh” mà. Tôn giáo, tín
ngưỡng đều bị thương mại hóa tuốt. Giờ thêm nữa, đông đúc như đi bệnh viện. Cái này, hẳn chỉ có ở xứ ta thôi.
Người ta cứ kêu ca, người dân, ngành y tế, cơ quan quản lý nói chung, rằng tại
sao người bệnh không điều trị ở các cơ sở y tế tuyến dưới mà lại đổ về hết các
bệnh viện trung ương, cứ như vậy, hởi làm sao không quá tải cơ chứ? Xin thưa,
cơ sở y tế tuyến dưới, lấy đâu ra các trang thiết bị y tế hiện đại đắt tiền; kể
cả khi có được các thiết bị y tế hiện đại, thì lấy đâu ra y bác sĩ giỏi; và khi
không có đồng bộ 2 yếu tố này, thì càng không có yếu tố thứ 3, ấy là niềm tin
của người bệnh; thôi thì, gặp ca nào khó một chút, cứ kính chuyển lên tuyến
trên cho nó lành, kẻo không, ngộ nhỡ làm sao, người nhà bệnh nhân họ đập cho
toi mạng; còn người bệnh thì mang tâm lý, đằng nào cũng mất tiền, có đắt hơn
chăng nữa, nhưng cho nó chắc, cho yên tâm... Vậy đấy!
Từ sự quá tải, sẽ lập tức gây hiệu ứng sang tâm lý và
chất lượng chữa trị của nhân viên ngành y. Không có gì nằm ngoài nguyên lý cung-cầu. Một khi, cầu lớn hơn
cung (>), bên cung sẽ có điều kiện áp đặt ý muốn chủ quan của mình. Và đây,
chính là những yếu tố của thị trường chứ đâu. Không phải ngẫu nhiên, mà những
câu chuyện nảy sinh trong ngành y như, nạn thuốc giả, thuốc kém chất lượng, sự
phiền nhiễu của nhân viên y tế, sự lợi dụng nhằm trục lợi trong bảo hiểm y tế,
việc tăng giá trong khám chữa bệnh vè dịch vụ y tế; còn phía người bệnh là sự
mất lòng tin vào ngành y dẫn đến tâm lý đưa tiền lót tay, hoặc căm tức mà trút
giận vào nhân viên y tế khi xảy ra sự cố, tai biến y khoa v.v...
Như vậy, từ một thời, người dân và cả xã hội nói
chung, coi nghề y như một nghề cao quý cứu người với sự tôn kính mặc định đạo
đức, xuống thấp thành bình thường, thành thị trường, thậm chí là nơi kiếm ăn,
trục lợi, làm giàu bất chính... Vâng, nói như vậy, có thể là quá, bởi số đông
thầy thuốc, ngành y vẫn giữ được phẩm chất tốt, đạo đức nghề nghiệp trong sáng,
song than ôi, người xưa dạy rồi mà “con
sâu bỏ dầu nồi canh” là thế. Đã nói là nghề, thì nghề gì cũng có nguyên lý
nghề, đạo đức nghề của nó cơ mà. Xin ví dụ, mở rộng, như nghề mãi dâm (bán dâm, xin lỗi, chưa được công nhận
là nghề ở xứ ta) cũng có đạo đức nghề cả đấy. Rồi nữa, nghề giáo, một nghề cao quý như nghề y xưa nay, cũng đã thành thị
trường cả rồi, lại xin lỗi, giờ đây
đang có nhiệu việc lộn xộn, nhưng không phải là mất đi hẳn sự cao quý, tôn
kính, mất đi đạo đức nghề, mà chỉ là sự suy giảm... Thêm nữa, nghề văn chương, nghệ thuật, báo chí,
xưa nay vốn được khoác lên mình xứ mệnh cao cả là thông tin sự thật, truyền bá
văn hóa tư tưởng, truyền bá mỹ cảm về cái đẹp,... thì nay, cũng thị trường cả
rồi; tiếp tục xin lỗi, và không thiếu
gì tiêu cực, không thiếu kẻ bồi bút...
Viện dẫn vậy, là để chia sẻ với nghề y và ngành y tế
mà thôi...
Xin kết thúc thiên phóng sự này, bằng một bài thơ có
tên “Chợ đau”. Đây là một trong số
mấy bài thơ mà y sáng tác trong thời gian ngót ba tuần nằm bệnh viện, là để tự
xoa dịu mình, tự kỷ ám thị cho bớt nỗi đau nhức thân thể, bớt sự lo lắng trong
lòng và nỗi sợ tinh thần:
Như là chợ, bày những đau
Nén trào nước mắt nhìn nhau gượng cười
Đau tâm nhức thể, người ơi
Cái đau thừa ứ, đầy vơi nỗi lòng...
Xin
dành tặng bài thơ và những dòng viết này cho nhưng nhân vật được kể trong thiên
phóng sự!
10.
Vĩ thanh
( hay Gặp nhau ở Tuần Giáo )
Tôi và vợ chồng Q-Th vẫn giữ liên lạc qua điện thoại
với nhau. Theo hẹn của Bệnh viện, trung tuần tháng 4, hai vợ chồng họ sẽ lại về
Hà Nội, khám lại để nhập viện truyền dịch sinh học chữa viêm khớp lần thứ 9.
Hôm họ về, tôi điện thoại hỏi thăm, thì Q cho biết là đang gặp một vài trở
ngại. Ấy là, còn một xét nghiệm nữa, nhưng họ quên không mang theo giấy hẹn,
nên cũng không lấy được kết quả; thêm nũa, mấy cô bác sĩ quen mặt, quen bệnh
với minh thì người đã chuyển sang làm việc ở khoa khác, người lại đi học chuyên
khoa, thế là chẳng biết bấu víu vào đâu. Bác sĩ ở phòng khám trực, kê đơn uống
thuốc và lại hẹn, khi nào hết lịch trình thuốc uống, về khám lại, lúc ấy mới
quyết định có tiếp tục truyền dịch sinh học hay không. Thế là dự định mời vợ
chồng Q-Th thăm nhà, dùng bữa của y không thành. Theo lời hứa, vợ chồng họ tự
tay làm bột nghệ từ sản phẩm vườn nhà theo đơn đặt hàng của vợ y. Hàn huyên
chốc lát, họ lại ngược xe đêm về Điện Biên.
Lại chờ một cái hẹn sau...
Và cái hẹn ấy đã thành hiện thực.
Lần này, ở Tuần Giáo, Điện Biên.
Nhớ là, khi còn ở phòng điều trị bệnh viện, thân nhau
hơn, vợ chồng Q-Th mời rất thật lòng “Khi
nào bác lên Tây Bắc, dù ở Sơn La hay lên Điện Biên, bớt chút thời gian, quá bộ
vào thăm nhà, chơi với vợ chồng em, ăn bữa cơm gia đình, thì vui quá... Nhà
chúng em, già nuôi sẵn, rau cỏ trong vườn cũng nhiều, đúng là thực phẩm sạch ...
Người miền núi chúng em cứ thật thà thế, được bác thăm nhà là quý lắm, bác ơi.”.
Y cười, hứa là sẽ đến tận nơi, thăm nhà họ ngay tận Tuần Giáo vào một ngày gần
nhất. Trước đây, khi còn làm việc, năm nào y cũng đi Tây Băc công tác dăm ba
lần, còn giờ, đã nghỉ hưu, việc đi Tây Bắc không khó, nhưng cũng không dễ như
trước nữa.
Và rồi, cơ hội đã đến, y nhận được lời mời lên Tây Bắc
của một Văn phòng cơ quan báo chí có trụ sở ở trên đó. Cùng đi với y, còn có
một nhà báo kỳ cựu, người từng là phóng viên chuyên trách với mấy đởi Chủ tịch
nước, và cũng rất thông thạo địa bàn này.
Xe ngược dốc Cun, rồi băng qua Thung Khe lên cao nguyên
Châu Mộc trong cơn mưa chiều nặng hạt. Những câu chuyện đường dài của người làm
báo, những câu thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, và những bài thơ hay
về Tây Bắc được đọc lên trong nỗi hoài niệm buồn vui... Điều đó, khiến cho y
nghĩ nhiều về sự tình cờ và duyên gặp gỡ, về sự thú vị của cuộc đời, cho y thêm
quyết tâm, thu xếp chuyến đi này để quá bộ lên Tuần Giáo thăm vợ chồng Q-Th như
lời hứa hôm nào.
Và rồi, y được toại nguyện, song trước khi ghé Tuần
Giáo thăm nhà Q-Th, lịch trình chuyến đi phải vượt qua Tuần Giáo lên khu di
tích Mường Phăng. Đoàn đi Mường Phăng từ Sơn La, ngoài y và cựu nhà báo nọ, còn
có một cán bộ lãnh đạo của Sở Thông tin truyền thông tỉnh Sơn La. Y và Q, đã
điện thoại thông tin cho nhau, nhận lời sẽ ăn bữa cơm trưa với gia đình Q-Th.
Đường xa, rừng núi, hẹn cơm mà trễ là chuyện thường. Vậy nên, mặc dù cố mấy,
cũng phải tầm quá trưa sang chiều, đoàn của y mới về tới thị trấn Tuần Giáo. Q
đợi sẵn ở điểm hẹn, đưa mọi người về nhà. Quang cảnh nhà vườn gần giống với
hình dung của y khi nghe họ kể lúc ở bệnh viện. Nhà gạch đơn giản, mảnh sân
gạch nhỏ, còn lại là vườn rau và chuồng nuôi gia cầm. Mâm cơm đã sẵn, thịt gà
luộc, lòng gà xào giá mướp, rau cài xanh nấu canh... sạch sẽ và thơm ngon. Cả
chủ và khách đều đói bụng, rượu phá mật ong rừng do Q tự chế, được rót ra. Cùng
tiếp khách với vợ chồng họ, có một người bạn thân, đồng thời cũng là cán bộ
Huyện đội với Q lúc chưa nghỉ hưu. Chủ khách thân tình, chẳng cần xã giao, ấy
là phong tục của người miền núi, ấy là sự tự nhiên chân thành của người lính,
người làm báo.
Câu chuyện qua lại, vẫn là chuyện về người lính,
chuyện bên lề của cánh nhà báo, chuyện sức khỏe và ốm đau bệnh tật, nguyên cớ
để y và vợ chồng Q-Th gặp nhau, nên quen... Mừng là mọi sự đều tiến triển tốt
sau khi y và vợ chồng họ chia tay ở bệnh viện, sức khỏe y khá lên, còn Th thì
cũng đỡ đau khớp, có thể túc tắc việc nhà, còn với Q, thì sau đận trông vợ tại
bệnh viện vừa rồi, cũng chí thú việc nhà hơn trước. Mừng nữa, cậu con trai độc
nhất của họ đã qua kỳ thực tập và vừa thi tốt nghiệp xong, sắp trở thành bác
sĩ. Niềm vui ấy của mỗi người như được nhân lên trong cuộc hội ngộ này...
Cuộc vui mấy, cũng đến lúc phải chia tay. Chủ khách
chụp chung với nhau vài pô ảnh kỷ niệm. Câu chuyện của y với vợ chồng họ, cho
vị cựu nhà báo nọ thêm sự chiêm nghiệm về cuộc sống; Cho vị cán bộ Thông tin
truyền thông sắp nghỉ hưu bài học và ý thức giữ gìn sức khỏe ở lứa tuổi xế
chiều,...
Mấy tháng nữa, vợ chống họ vẫn phải về Hà Nội, tái
khám cho lịch trình điều trị tiếp theo. Vẫn còn đó những nỗi lo, vất vả tiếp
theo. Mong là, mọi chuyện thuận lợi...
Và còn đó, cái hẹn mời vợ chồng họ thăm nhà y...
Người đi bạn với phù vân,
Hoan hô Phẫu thuật thần kinh
Mổ não rất giỏi, thơ tình cũng hay.
Người ấy là bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, chuyên khoa phẫu
thuật thần kinh ở Bệnh viên E, Hà Nội. Còn câu thơ kiểu Bút Tre kia là của
Nguyễn Vinh Hùng, em trai ruột của Nguyễn Vinh Dũng, đùa vui mà khen anh mình
vậy,...
Tôi mới gặp bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng
đúng một lần, qua vài tiếng trò chuyện thôi, nhưng biết đến anh thì trước đấy
vài năm. Số là, tôi có trang cá nhân ở một mạng xã hội, là Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.com) từ năm 2009, và ở
đấy, tôi có những người bạn, với tư cách là blogger
hay tư cách bạn đọc thường xuyên. Trong số đó, có những người là “người của công chúng”, là cây bút được
bạn đọc biết đến, như Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ
Trương Hữu Lợi, nhà văn Trần Tâm, nhà văn Nguyễn Cao Thâm, Lưu Quốc Hòa, Nguyễn
Trọng Huân, Trần Hồng Giang v .v… So với
nhiều bạn hữu và người quen của tôi xuất hiện trên blogtiengviet.com (BTV), mà các blogger gọi vui một cách
nôm na, là Xóm Lá, thì Nguyễn Vinh
Dũng là người đến muộn. Tuy đến muộn, nhưng Nguyễn Vinh Dũng nhanh chóng trở
thành một blogger ấn tượng, và vì thế, anh khá thân với nhiều blogger khác và được đông đảo bạn
đọc biết đến…
Nickname
mà Nguyễn Vinh Dũng sử dụng ngay từ ngày đầu tiên xuất hiện trong Xóm Lá là phauthuattk, lâu ngày, mọi người viết tắt, thành PTtk, rồi tắt nữa, là Phẫu. Và kể từ đây, Nguyễn Vinh Dũng trở
thành người nổi tiếng trong Xóm Lá…
Anh Phẫu, chàng Phẫu, hoặc chỉ một từ Phẫu là đủ, để ghi nhận sự có mặt của anh
trong Xóm Lá xôm trò này. Ở Blog Tiếng Việt nói riêng và mạng xã hội
nói chung, một ai đó muốn có một tài khoản, một trang cá nhân, không khó, vì
chỉ sau một số thao thác kỹ thuật là được. Song để nuôi dưỡng, để mọi người
biết đến, ghi nhận sự có mặt của mình, nể trọng mình, thì khó đấy. Riêng với
Phẫu, anh đã làm được cái việc khó ấy, một cách dễ dàng, tự nhiên. Tôi nghĩ,
đấy là phẩm chất, cá tính bẩm sinh, là kiến thức và bản lĩnh của người từng
trải …
Với tôi, không nhớ chính xác Phẫu xuất
hiện, ghi cảm nhận (comment) trên
trang Ngẫm & Viết của tôi khi nào và cụ thể bài viết gì, nhưng
Phẫu nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi, bởi qua một vài cảm nhận, anh đã thể
hiện rõ sự hiểu biết, tính phản biện cao qua giọng điệu hóm hỉnh pha chút chọc
ngoáy gây chuyện. Vậy mà tôi khoái ngay anh chàng Phẫu này từ “thuở ban đầu”… Phẫu nhanh chóng đứng vào
hàng ngũ của những blogger, những bạn đọc sắc sảo có tiếng ở đây trước khi anh
xuất hiện, mà tôi được biết và thường xuyên giao lưu, như: Người Qua đường, Phạm Huy Việt, Nguyễn Vĩnh Tuyền, Lê Văn, Lu Bim, Sĩ
Liêm, Chử Thu Hằng, Ru đêm-Thúy Tím, Mùa Thu vàng, Nhược Mộng, Biển Lặng, Ví
giặm, Hoàng Kim, Hoa Mai, Trịnh Tuyên, Việt An v.v…
Phải nói, tính tương tác cao của mạng
xã hội này, cho phép mọi người bộc lộ ý kiến cá nhân về những bài viết của các
blogger. Cái cách Phẫu đến với bà con Xóm Lá cũng rất khác người, ấy là không
cần sự rào đón, chào hỏi nhẹ nhàng làm quen, như phần đồng mọi ngưới hay làm,
thay vào đó, là ý kiến sắc sảo, là nhận định riêng, không a-dua, không bị ảnh
hưởng bởi hiệu ứng đám đông. Ngần ấy, khiến nhiều người để ý và nể trọng Phẫu.
Đấy là nét chính phác họa nên một diện mạo Phẫu với tư cách là người đọc và ghi
cảm nhận, vậy còn Phẫu với tư cách một cây bút, thì các sáng tác và bài viết
của anh ra sao?
Tựu chung, các bài viết của Phẫu, có
thể gom lại thành mấy dạng, nhiều nhất là câu chuyện hoài niệm về tuổi thơ đi
học ở quê, chuyện quân ngũ và chuyện về các người thân; dạng thứ hai, là những
bài viết ngắn, kiến giải các bức xúc xã hội, dân sinh có tính thời sự, và ở
đây, anh không ngại những đụng chạm mang tính chính trị; một dạng nữa, ấy là
các câu chuyện nghề nghiệp, cụ thể là chuyện từ tai nghe mắt thấy tay làm trong
công việc của một bác sĩ chuyên khoa Phẫu thuật thần kinh của anh. Phẫu khá
chịu khó cập nhật trang cá nhân, thay bài viết mới, đôi ba ngày một bài, lâu
nhất thì cũng chỉ một tuần. Chính vì vậy, tuy lập trang khá muộn, nhưng bài
viết lại nhanh chóng đầy lên. Và đấy cũng là cơ sở để tôi nhìn nhận ra một diện
mạo Phẫu với tư cách một cây bút.
Là một cây bút nghiệp dư, chịu khó
viết, nhớ đâu, thấy gì, kể nấy, nên tôi không đánh giá những bài viết của Phẫu
về khía cạnh văn chương chữ nghĩa, mà nhìn nhận ở nội dung đề cập, tính chính
kiến và chất nhân văn của mỗi bài viết của anh. Văn anh, nhiều chỗ còn ẩu, cũng
không thiếu lỗi chính tả, thế những, ẩn giấu dưới những câu chữ ngổn ngang ấy (tôi hình dung chữ viết tay của anh, từ con
người và tính cách mà suy, hẳn chữ không đẹp, nhất là “chữ bác sĩ”), luôn
thấy sự hóm hỉnh, thông minh lấp lánh đâu đó. Thực lòng, tôi không nhớ hết
những bài viết của Phẫu, song tôi ấn tượng nên có thể gom những bài viết thành
các dạng cụ thể như vậy…
Ấn tượng nhất, ấy là chuyện kể dài kỳ,
mà Phẫu còn đặt thành chương, hồi kiểu như truyện trinh thám, kiếm hiệp ngày
xưa, có tên “Thằng Cường”. Đọc một số
chương, đối chiếu với những gì biết về cuộc đời Phẫu, dù tóm lược, cũng thấy
ngay, “Thằng Cường” chính là chuyện
về bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, là Phẫu cho đến bây giờ. Nghĩa là, truyện mang tính
tự thuật, song không phải là hồi ký. Cái hay, cái thích trong truyện này, ấy là
suy nghĩ thật, kể cả những điều khó nói, mà thường người ta hay giấu đi, chẳng
hạn như nỗi sợ hãi, sự hèn mọn, sự phản kháng… của một người lính có học, chuẩn
bị dấn thân vào nơi nguy hiểm, chết chóc… Tính chất tự thú ấy, giờ đây, tôi
cũng đã đọc được ở đâu đó của những nhân vật thành danh bước ra từ cuộc chiến.
Chuyện về người thân, viết nhiều nhất,
cả văn và thơ, ấy là người mẹ của Phẫu. Người mẹ mà Phẫu từng nhớ: ”Ta ước nơi xưa một nếp nhà/ Có vải, có chuối
có cỏ hoa/ Đèn ta trước cửa đêm đêm đợi/ Theo gió suơng về bóng mẹ ta”,...
Người mẹ, mà Nguyễn Vinh Hùng, em ruột của Phẫu cũng đã nhớ lại mà viết: “Hôm nay trời rét lắm/ Thôi! chị Thuấn ở nhà/
Đưa cái áo bông hoa/ Để cho Khang nó mặc/ Dũng, Hùng đâu, ra đây/ Sao phong
phanh thế này/ Lật áo lên mẹ đếm/ Một...hai...ba…chưa đủ,/ Độn thêm cái này
vào/ Ở bên trong ai thấy!/ Thế rồi mẹ đi cấy/ Mặc một áo phong phanh/ Mẹ bảo,
cấy cho nhanh/ Hình như…cũng đỡ rét”… Vậy là đủ hiểu, Phẫu và các anh chị
em trong gia đình anh yêu thương và kính trọng người mẹ đến mức nào.
Cũng chuyện người thân, Phẫu dành tình
cảm đặc biệt cho cô con gái út của anh. Được biết, Phẫu có ba con, hai trai
trước và gái út. Tôi đặc biệt ấn tượng, một câu chuyện anh kể lại, rằng ngày
gái út của anh còn nhỏ xíu, cháu bé có một chút khiếm khuyết nhỏ, không ảnh
hưởng gì đến sức khỏe cũng như thẩm mỹ, nhưng để giải thích cho gái út khi bé
băn khoăn về khiếm khuyết chút xíu ấy, Phẫu đã nghĩ ra hẳn một câu chuyện, như
truyện cổ tích pha ngụ ngôn, kể cho cô bé nghe, và sau đó, cô bé không còn băn
khoăn gì nữa. Thật là tuyệt vời, tôi nghĩ vậy, phải có lòng thương yêu con gái
út vô bờ bến, Phẫu mới nghĩ ra được một câu chuyện “cổ tích” hợp lý và hay đến vậy. Dường như, gái út cũng rất yêu kính
cha mình. Bằng chứng là, buổi chiều muộn, Phẫu lái xe đến trụ sở Đài TNVN ở 58
Quán Sứ (Hà Nội) đón tôi, để cùng đến
thăm nhà Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, đang đi thì Phẫu có điện thoại. Anh nghe máy,
và qua đối thoại trên phone, tôi ít nhiều hiểu được nội dung cuộc đàm thoại.
Phẫu giải thích, con gái út anh, cô bé đang là sinh viên đại học, hỏi bố có ăn
cơm tối không ở nhà không, và khi anh cho biết là đang đi đâu, ăn cơm khách với
ai, thì cô bé nhắc bố mình, nhớ đừng về muộn, không uống rượu bia khi lái xe.
Vậy thôi, đủ thấy, cha con anh, không những yêu quý, mà còn thân tình như bạn
bè…
Chuyện về nghề nghiệp, tôi nhớ là có
đọc một câu chuyện,vừa là chuyện nghề, vừa là chuyện người thân, ấy là về vợ
anh, một bác sĩ, khi ấy còn chưa làm công tác quản lý ở một bệnh viện ngành tại
Hà Nội như bây giờ. Chuyện rằng, nếu không nhầm, đại loại, vợ anh một lần bị
tai nạn, thương tích khá nặng, chấn thương sọ não hay cột sống gì đó, cần phải
phẫu thuật gấp, đặng mới cứu sống, vừa tránh bị di chứng sau này. Thế nhưng, khi
cấp cứu tại bệnh viện chị ấy công tác, song không hiểu sao, lại không có bác sĩ
phẫu thuật giỏi, đứng chính ca mổ. Phẫu được tin, đến ngay phòng bệnh, nơi vợ anh
đang được cấp cứu, chờ mổ. Với đội ngũ bác sĩ, nhân viên y tế ở đây, anh và họ
đều quen biết nhau, đơn giản bởi đây là nơi vợ anh công tác, thêm nữa, chắc
trong nhiều năm làm nghề, anh cũng thường xuyên tham gia hội chẩn, thậm chí,
được mời tham gia phẫu thuật, điều trị bệnh nhân của bệnh viện này. Nhìn cảnh
vợ đang hôn mê, chờ phẫu thuật mà chưa có bác sĩ giỏi cầm dao mổ chính, trong
khi bác sĩ mới vào nghề có đấy, nhưng chỉ phụ tá được thôi. Phẫu sốt ruột lắm,
bởi kinh nghiệm chuyên môn, anh hiểu, mỗi giây phút trôi qua, vợ anh khó có cơ
cứu sống. Thế nhưng, quy định chuyên môn không cho phép, dù có giỏi đến mấy,
bác sĩ phẫu thuật chính cũng không được phép cầm dao mổ cho người thân ruột
thịt của mình, bởi nỗi lo tâm lý và tình cảm không ổn định, dễ gây ảnh hưởng
xấu đến việc dao kéo, dễ sai sót khi phẫu thuật dẫn đến ca mổ không thành công.
Vậy nên, dù giỏi và giàu kinh nghiệm, Phẫu cũng không được phép cầm dao trong
ca mổ vợ mình. Tình thế lúc ấy thật khẩn cấp, và cuối cùng, không thể chờ bác
sĩ của bệnh viện kịp đến, ca trực cấp cứu hôm ấy, đành phải chấp nhận đề nghị
của Phẫu xin được cầm dao cho ca mổ chính vợ anh, để anh ký vào tờ giấy cam
đoan xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về ca phẫu thuật này. Anh đã vào cuộc với
một sự bình tĩnh, bản lĩnh cao cường, cho đến khi, bác sĩ chính của bệnh viện
đến nơi thì cũng là thời điểm Phẫu hoàn thành ca mổ xuất sắc. Tất cả đều thở
phào nhẹ nhõm, sung sướng vô bờ. Phẫu như kiệt sức. May mắn, vợ anh qua khỏi,
hồi phục dần, trở lại công việc bình thường, không bị di chứng gì. Nghe đâu, vợ
anh còn phát triển, trờ thành một cán bộ quản lý của bệnh viện này. Qua những
gì Phẫu kể lại trong bài viết của mình, có thể thấy được tay nghề chuyên môn và
bản lĩnh nghề nghiệp của anh cao tới cỡ nào rồi.
Một câu chuyện nữa của Phẫu kể lại và
tôi cũng nhớ vì quá ấn tượng. Ấy là một ca cấp cứu tai nạn giao thông chấn
thương sọ não rất nặng. Đêm ấy, không phải ca trực của anh. Phẫu bảo, anh ngồi
xem mạng, gần nửa đêm thì định đi ngủ, vừa lúc ấy thì điện thoại réo. Anh nghe
máy, đầu kia, bác sĩ trực ca đêm cùng khoa với anh, nhờ anh tư vấn cho một ca
cấp cứu chấn thương sọ não vì tai nạn giao thông của một nam thanh niên rất
trẻ. Bác sĩ trực ca tỏ ra thiếu tự tin, lo xử lý không thành công ca này, sợ nạn
nhân sẽ tử vong trên bàn mổ, và yêu cầu, nếu có thể, Phẫu đến ngay để giúp anh
ta xử lý ca này. Không chần chừ, Phẫu lao ngay đén viện vì nhà anh gần đó. Và
anh đã chịu trách nhiệm chính ca phẫu thuật sọ não cấp cứu đó. Đến gần 5 giờ
sáng, ca mổ hoàn tất với sự thành công vượt quá sự mong đợi của gia đình nạn
nhân. Khi Phẫu về phòng mình, thì người nhà bệnh nhân theo đến, đưa anh một
phong bì tiền, nói là họ muốn cảm ơn anh và cả ca trực đã vất vả đêm hôm dồn
hết sức để cấp cứu con họ qua cơn nguy hiểm chết người. Phẫu lung túng, không
nhận, song gia đình bệnh nhân nhất mực thành tâm, họ bảo không nhận thì họ sẽ
áy náy như kẻ vô ơn. Cuối cùng, Phẫu đành nhận, vừa để gia đình nạn nhân hài
lòng, và anh nghĩ, còn cả ca trực nữa, nếu thêm chút quà cảm ơn này, hẳn họ
cũng sẽ vui, niềm vui ở đây, không phải vì thêm được đôi ba trăm ngàn đồng, mà
vui vì rốt cục, sự cố gắng của họ đã được đền đáp, một con người trẻ trung được
sống lại…Thiết nghĩ, sẽ chẳng một ai chê trách gì Phẫu và các đồng nghiệp của
anh khi nhận món quà cảm ơn chân thành này. Tôi nghĩ, đây không phải là sự vòi
vĩnh, cầu lợi nghề nghiệp, nó thật sự là một biểu hiện của văn hóa biết ơn,
theo truyền thống văn hóa Việt nói riêng và văn hóa Phương Đông nói chung. Trở
lại bài viết của Phẫu, anh thành thật thú nhận nỗi băn khoăn của mình khi thay
mặt kíp mổ nhận món quà cảm ơn này với sự lung túng kèm chút băn khoăn trong
lòng, song anh cũng không quên sự hài hước vốn có của mình, khi mô hình hóa lại
vết mổ hình sao trên cái đầu trọc lóc của nạn nhân với lời bình hóm hình rằng “Rồi đây, liệu cậu nhóc có biết quý cái
mạng sống mà cha mẹ nó sẵn sàng đánh đổi mọi thứ và các y bác sĩ phải cố gắng
hết sức để giành giật lại cho nó, rằng liệu nó có thay đổi này, nọ…”. Đọc,
rồi cười thầm về sự dí dỏm, lại thêm phần nể trọng tính trách nhiệm của Phẫu…
Tiếng
là khá thân và nể trọng nhau, nhưng tôi và Nguyễn Vinh Dũng chỉ gặp nhau đúng
một lần, khi anh rủ tôi cũng đến thăm nhà Gs Nguyễn Lân Dũng. Phẫu nhận lời mời
và hẹn đến thăm giáo sư, nhưng anh bảo ngại đi một mình. Hôm ấy, Gs Nguyễn Lân
Dũng mời chúng tôi ăn bữa cơm tối ở quán cơm giáp ngay nhà ông trên phố Trần
Thánh Tông. Cơm đúng kiểu cơm gia đình, lạc rang, thịt rang, đậu rán, canh cua,
cà pháo. Tôi và Phẫu nhấp chút bia gọi là có, anh bảo, còn phải lái xe, và cũng
hứa với gái út rồi. Chuyện nghề y, chuyện văn chương, xã hội. Tôi nhớ, anh có
lý giải sơ qua, việc tại sao, anh đã là thạc sĩ, là bác sĩ chuyên khoa, nhưng
lại không tiếp tục nghiên cứu để lấy bằng tiến sĩ. Phẫu có bảo, anh đang biên
soạn một cuốn sách về chuyên môn và sẽ cho xuất bản, rồi cả chuyện anh chỉ còn
già một năm nữa là nghỉ hưu, sẽ tiếp tục hành nghề y ra sao, khi đã nhận lời
làm việc cho một phòng khám tư nhân của bạn bè...
Gặp nhau chỉ vậy thôi, nhưng cả trước
và sau cuộc gặp ấy, tôi và Phẫu giao lưu thường xuyên trên trang cá nhân của
mỗi người. Khi cần lắm mới alo cho nhau, bởi do tính chất công việc, tôi thì
họp hành liên miên, còn Phẫu thì bận việc chuyên môn, nhất là hay phải tham gia
phẫu thuật. Vậy nên, cứ hẹn nhau chung chung, rằng khi nào rảnh thì gặp
nhau,... Biết tôi chơi bóng bàn kha khá, Phẫu thích thú lắm, và còn hẹn, khi
nào rảnh rang thì qua bên cơ quan tôi giao lưu bóng bàn với tôi và đội bóng bàn
VOV, bởi anh chơi khá tốt và cũng ham môn thể thao này...
Tôi thích cách làm quen trực diện, gạt bỏ nếp xã giao
thông thường và tính trách nhiệm cao ở con người này, ngay từ ngày đầu, mặc dù
các cảm nhận của Phẫu cho những bài viết của tôi, đều gai gai, có gì đó trêu ngươi.
Tôi lặng lẽ sang trang cá nhân của Phẫu, đọc một số bài viết của anh, không để
lại cảm nhận gi, bởi tôi nghĩ, qua đây, có thể ít nhiều kiểm chứng được kiến
văn và tính cách của chủ nhân. Tôi cũng cảm nhận được và chấp nhận cái sự “chọc ngoáy” của anh, và hiểu đó còn là “phép thử” dành cho tôi… Sau này, khi đã
thân nhau, qua các cuộc đàm thoại, Phẫu cười sảng khoái, tự thú là đã thử tôi thật.
Phẫu hay trêu tôi, rằng “... lão
Tôi biết, bản tính của Phẫu là người
thích phiêu du, nhưng điều kiện một bác sĩ phẫu thuật chính ở một bệnh viện lớn
khiến anh không dễ bứt ra khỏi công việc để đi đây đó. Vậy nên, khi có điều
kiện đi đâu đó xa vì công việc hay việc riêng, Phẫu đều tìm cách tranh thủ tách
ra, tìm gặp người quen. Chính vậy, một lần, trong chuyến công tác miền Tây Nam bộ,
tôi từ Cần Thơ sang Cao Lãnh (Đồng Tháp)
và trên đường lên Sài Gòn, tôi thu xếp ghé thăm Sáu Miệt Vườn, một blogger có tiếng của BTV. Qua cầu Rạch Miễu, rồi
men sâu vào miệt vườn ven sông Hàm Luông, sau mấy lần nối máy nhận chỉ dẫn, tôi
mới tìm được nơi ở của Sáu Miệt Vườn.
Những tưởng, mình là người đầu tiên ở ngoài Bắc lần mò vào tận đây thăm người
quen, vậy mà tôi nhầm, trước đó không lâu, Phẫu đã tìm đến đây rồi. Trong câu
chuyện của mình, Sáu Miệt Vườn luôn
nhắc đến anh Vinh Dũng với sự kinh trọng trìu mến, rằng anh ấy là người hiểu
biết, giản dị và đầy sự cảm thông, chia sẻ này nọ... Nghe nói, Phẫu đã nghỉ qua
đêm ở đây để nhậu, đàn hát kiểu lính tráng thoải mái, và chuyện trò với Sáu Miệt Vườn cho đã đời… Thực lòng, tôi
không bằng Phẫu trong giao lưu với bạn bè…
Có vài lần, anh tự lái xe của mình đi
công việc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi lên điểm cao dừng chân của cung
đường đèo Ô Quy Hồ (Lào Cai-Lai Châu)
và sau đó là Cổng Trời Quản Bạ (Hà Giang),
Phẫu nghỉ chân, nối điện thoại nói chuyện với tôi, rằng anh đang cảm nhận xem,
có gì đó giống với sự cảm nhận mà anh đọc được từ những sáng tác thơ văn của
tôi trước đó. Điều ấy, tôi thấy vui vì sáng tác của mình đã tác động đến bạn
văn chương, thôi thúc được bạn tìm đến các nơi mà mình từng trải qua…
Nhớ là, có lần, tôi góp ý khá nhiều về
lỗi câu chữ và chính tả trong truyện dài “Thằng
Cường”, kể cả về nội dung, cách nhìn nhận, sự đánh giá về “cái được-mất” của cuộc chiến đã qua dưới
lăng kính của một người lính trận còn sống sót đến thời hậu chiến, Phẫu bảo, cứ
nhớ gì và nghĩ thế nào viết ra cái đã, rồi sẽ đọc chậm, đọc kỹ và chỉnh sửa
sau. Phẫu lo, nếu cứ cân nhắc này nọ, rồi băn khoăn nên hay không nên, thì sẽ
ngại mà thui chột mất. Điều ấy đúng,
nhất là với người viết không chuyên như anh.
Và rồi, câu chuyện kể về “Thằng Cường”, hiện thân của Nguyễn Vinh
Dũng ấy, dừng lại đột ngột,... Vào một
buổi sáng oi nồng cuối tuần, mùa hè năm 2015, Phẫu bị đột quỵ ngay giữa trận
đấu bóng bàn khi anh đang thi đấu với các anh em bạn bè thuộc CLB Bóng bàn Cầu
Giấy, mà anh là thành viên. Tin anh mất, tôi đọc được vào sáng hôm sau, cũng là
qua các trang cá nhân của bạn bè Xóm Lá.
Tôi bàng hoàng, khó tin, bởi thể trạng anh khỏe mạnh săn chắc, lại thêm anh vốn
là bác sĩ cơ mà?...
Gia đình, người thân, đồng nghiệp, bạn
bè và đặc biệt là nhóm bạn Xóm Lá và các thành viên CLB Bóng bàn Cầu Giấy rất
đông đến viếng, tiễn đưa anh ở chính nơi anh làm việc. Trong câu chuyện bên lề,
có vị lãnh đạo của Bệnh viện bảo, “ông
này chủ quan lắm, chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của bản thân, những lần cơ
quan tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên của bệnh viện, ông
ấy có khám xét gì đâu...”. Cũng là một lời trách về sự chủ quan. Phẫu ơi,
chẳng riêng gì anh đâu, người ta bảo, bác sĩ thường hay chủ quan về trạng thái
sức khỏe và bệnh tật của mình. Chẳng rõ, đúng sai, âu cũng xem như một sự an
ủi?... Hôm ấy, tôi có chú ý đến cô con gái út của anh, cháu có nét giống bố.
Con gái rượu, người mà Phẫu nhất mực quan tâm, đã khiến anh ngày nào nghĩ ra
một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cô bé. Giờ đây, tôi vẫn hay nghĩ về cô
bé, cháu đã tốt nghiệp đại học và đi làm rồi cũng nên?...
Sự ra đi của Phẫu khiến tôi bâng khuâng mất một dạo.
Quả thật, không có anh, BTV như trống vắng hẳn đi, chí ít, đối với tôi, với Sáu Miệt Vườn, và còn những ai nữa
đây ? ... Tôi biết, riêng trong BTV, có những người còn quý mến anh lăm lắm...
Đấy thực sự là niềm hạnh ngộ với Phẫu, và tôi tin, anh biết điều đó. Tôi hay
vào blog của Phẫu, đọc lại những bài viết của anh, đọc sâu về những bài viết ngày
đầu anh mới gia nhập BTV, khi đó, tôi còn chưa biết đến anh. Tôi cảm nhận, ẩn
sâu với vẻ ngoài thô ráp, góc cạnh, thậm chí có gì bỗ bã, là sự cảm thông sâu
sắc, là sự cam chịu pha lẫn sự phản kháng vô vọng trước cái xấu và sự bất công,
là những nỗi đau đời... chung quy, chúng đầy ắp chất nhân văn...
Chừng nửa năm sau, Vinh Hùng, em trai
Phẫu, thông báo là đã lần ra được password trang cá nhân của anh, đã xin phép
gia đình anh, mở lại trang phauthuattk trên BTV, đặng đăng lại một số bài viết
cũ của anh, trong đó, đặc biệt là truyện dài “Thằng Cường”. Bạn hữu lại thấy thấp thoáng bóng dáng Phẫu đâu đó
nơi trang viết trong cuộc đời Thằng Cường.
Đã có mấy chục số được đăng lại, nhưng rồi, bỗng một ngày nào đó, không còn
thấy hiển thị của trang ấy nữa. Không ai biết vì sao, nhưng chắc có lý do của
nó. Vinh Hùng và gia đình Phẫu, cùng một số bạn bè là các blogger của BTV,
trong đó có tôi, đã bày tỏ sự mong muốn được gom lại tất cả những sáng tác của
Phẫu, đặng lựa chọn và biên tập, xuất bản thành sách. Mong muốn ấy cũng đã từng
được Vinh Hùng và gia đình Phẫu ủng hộ, song giờ đây, chưa rõ việc ấy tiến
triển ra sao rồi? Tôi đã vào trang blog cá nhân của Vinh Hùng, nhắn hỏi, nhưng
vẫn chưa có hồi đáp. Đành chờ vậy thôi...
Khi còn làm việc, những năm trước tuổi
nghỉ hưu, Phẫu hay tranh thủ về quê. Có vẻ anh thèm cảnh vườn rau ao cá, thèm
cảnh bờ đê với những cánh diều bay lượn chiều hè, thèm dòng sông quê nhỏ bé
hiền hòa với những lũy tre mát rượi ngả bóng, thèm ngôi chùa làng thoang thoảng
khói hương tình lặng thiền định. Nhớ là, một lần, về quê ra, Phẫu đưa lên trang
cá nhân mấy cái ảnh chụp anh trần trùng trục lội ao giăng lưới bắt cá cùng
những lời chua hóm hỉnh. Chia sẻ cùng anh, tôi xúc cảm thành thơ tặng Phẫu: “Về quê/ ta tắm ao làng,/ rồi đi câu cá / chẳng
màng / được/ không/ lang thang/ với ngọn gió đồng/ chiều về// ra lại bến sông/
thuở nào,/ Đêm/ thao thức / với trăng sao/ chùa bên/ hoa huệ/ ngạt ngào lên
hương,/ chợp đi/ một giấc bình thường/ tinh mơ / nghe thoảng/ giọt sương/ mơ hồ
...”. Phẫu đọc được, vẻ khoái lắm.
Nghề của anh, mỗi ca mổ cấp cứu, là
chứng kiến ranh giới giữa sự sống và cái chết, những tưởng anh sẽ chai sạn với
chuyện sinh tử, nhưng không, tâm hồn anh nhạy cảm, mong manh lắm. Một lần, ghi
cảm nhận cho một bài thơ của tôi về quê cha đất tổ, Phẫu đã suy ngẫm và chiêm
nghiệm gì đó, mà anh ghi “... Có lần, đi
một mình trong sân bênh viện lúc đêm khuya, nhìn cái bóng của mình trên mặt
đất, tôi như thấy bóng ông bà, tổ tiên mình lẩn khuất trong đó...”. Điều
ấy, cho thấy, Phẫu cảm nhận chuyện đi ở bình thường như bao quy luật khác của
cuộc đời?...
Lại một mùa hè nữa. Những ngày nắng
như chàm lửa, bạn bè lại nhớ đến Phẫu. Đã là mùa hè thứ ba kể từ khi anh đi xa.
Phẫu, “người đi bạn với phù vân, cõi
không lẫn với những vì sao đêm”, anh thực sự “phiêu du trên cánh nhẹ êm,/ mong manh đậu chiếc lá mềm vườn quê,/ làm
mưa ướt cỏ triền đê,/ hòa làn gió thổi tái tê trời chiều,/ làm sương đẫm những
thương yêu,/ làm nỗi nhớ của bao nhiêu lòng người”...
Người thân và những bạn bè vẫn luôn
nhớ anh. Mong một ngày gần nhất, được thấy những bài viết của anh, tập hợp
trong một cuốn sách, với tên tác giả đầy đủ và trang trọng-Nguyễn Vinh Dũng.
Còn ở Blog Tiếng Việt, xin anh, hãy cứ
để mọi người nhắc đến anh với biệt danh giản dị - Phẫu, ...
Người lãng
du giữa cõi tình,...
Tôi biết đến anh với bút danh Lê Lãng Du không lâu.
Cách đây độ dăm bảy năm, tôi biết đến cái tên này là
qua trang blog của anh trên Blogtiengviet.net
(Blog TV). Đọc thông tin cá nhân, biết anh cỡ tuổi với tôi, là cán bộ ngành
thương nghiệp, sinh sống ở gần thành phố
Buôn-mê-thuột, Tây Nguyên.
Bài đăng trên trang của anh phần lớn là thơ. Anh thay
bài mới khi mau khi thưa, song không bỏ cuộc hoặc ngắt quãng như nhiều người
khác. Tôi bận bịu, phần bản tính không mấy vồ vập người chưa quen, song vẫn giữ
lễ, nên thơ anh, bài đọc, bài không, và thi thoảng tôi ghi chút cảm nhận, mang
tính xã giao là chính. Tuy nhiên, cũng cảm thấy, thơ anh, có bài khá, rồi đó
đây ở bài này bài nọ có những câu thơ hay…Với người lấy thơ làm khuây, được như
vậy là ổn.
Rồi một lần tôi vào Tây Nguyên, đang
mùa mưa, buổi tối ở khách sạn buồn hiu hắt, ngoài trời thì mưa ràn rạt, lúc mau
lúc thưa, mùi cà phê quán đèn mờ ngoài phố thoảng vào thơm ảo não. Buồn thì mở Blog TV, đọc lướt qua các trang và tôi
đã dừng lại ở trang của Lê Lãng Du. Lúc ấy, cái địa chỉ cá nhân Buôn-mê-thuột
của anh đã thu hút tôi. Theo số điện thoại ghi trên đó, tôi bấm máy gọi và đầu
kia anh nghe máy, trả lời. Sau màn chào hỏi, giới thiệu, chúng tôi trò chuyện
thân tình ngay, vì thực ra, giữa chúng tôi, đã biết nhau qua mạng cũng vài ba
năm rồi. Anh nói là ở cách thành phố vài ba chục cây số, và hẹn hôm sau sẽ lên
Buôn-mê-thuột gặp tôi, đặng anh em biết mặt nhau.
Y hẹn, gần trưa hôm sau, anh báo đã
đến khách sạn tôi đang ở. Cùng đi với anh có một phụ nữ cũng đã luống tuổi, anh
giới thiệu là bạn gái của mình. Chúng tôi có khoảng một tiếng trò chuyện, hàn
huyên đủ thứ. Anh mời tôi ra quán dùng bữa trưa với hai người. Tôi đành từ chối
vì đã có hẹn rồi. Chia tay nhau với chút lưu luyến, hẹn dịp khác sễ ngồi với
nhau, để nâng chén và bàn về thơ phú. Tôi tặng anh vài tập thơ của tôi mang
theo…
Lần đầu gặp gỡ là vậy. Song đấy cũng
là cái cớ để sau đó, tôi đọc thơ anh đều, cẩn thận và chăm ghi comment hơn. Cứ thế, mà thành thân
thiết, và mỗi lần, tôi vào Tây Nguyên, nếu thu xếp được thời gian, là à ới gọi
nhau. Tôi cũng đã vài lần cùng các đồng nghiệp ở Tây nguyên đến thăm tệ xá của
Lê Lãng Du. Còn anh, khi ra Hà Nội, cũng đã một lần tìm đến thăm tôi ở trụ sở
cơ quan, 58 Quán Sứ, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cùng bù khú, chuyện văn
chương thơ phú.
Có lẽ, nhờ vậy, để giờ đây, khi có ý
định in thơ, Lê Lãng Du gửi cho tôi tập bản thảo dày dặn, tôi đọc và nhận diện
được ngay khuôn mặt thơ anh.
Đọc thơ Lê Lãng Du, tôi mạn phép gọi
anh là Người lãng du giữa cõi tình. Đành rằng, người làm thơ thường là người nệ
tình, song với riêng Lê Lãng Du, anh chìm đắm vào cõi tình, đánh mất cả bản
thân. Anh lang thang, la cà đây đó trong mảnh vườn tình ái do mình tạo ra,
không biết để tìm ai, tìm cái gì ở đó ?... Theo dấu chân anh, hồi lâu, cảm giác
anh sa đà mà thành lạc lối chăng? Nhưng đến khi tưởng như anh mất tăm đâu đó
trong cõi tình, thì Lê Lãng Du chợt tỉnh lại, ý thức được rằng, mình đang ở đâu
trên cõi thực, mình đã từng và đang có ai, có cái gì, dù là mong manh thôi,
song đang ở ngay bên mình, phải biết níu giữ, kèo không, rồi một ngày mất nốt,
thì lại hối tiếc! Anh có dành cái tình của mình cho người thân, quê hương bản
quán, phong cảnh sông núi, gió trăng, song như vậy, cũng là để dồn tụ về cái tình
riêng của mình dành cho người tình đã có, đang có và sẽ có ! ?...
Để hiểu tâm tư, hiểu cõi tình của Lê Lãng Du, thiết
nghĩ, nên biết đôi điều về cuộc đời anh. Tên thật, Lê Lãng, quê gốc Quảng Trị,
mảnh đất khô cằn đầy nắng gió ấy đã từng sinh ra nhiều thi nhân. Anh phiêu bạt
đó đây rồi trụ lại với mảnh đất Tây Nguyên, theo nghề thương nghiệp sinh sống.
Anh có gia đình, con cái đề huề, nhưng rồi vợ chồng chia tay nhau. Dường như,
để tìm sự thiếu hụt, để cân bằng mình, anh làm thơ, cũng đeo đuổi một vài bóng
hồng đâu đó, nhưng không thành, bù lại, anh có chút lưng vốn thơ tình … Rồi một
ngày nọ, cách đây chừng dăm năm, anh làm quen qua không gian ảo, một người phụ
nữ đã luống tuổi, gốc gác Hà thành, cũng từng có gia đình con cái riêng, nhưng
lại bị thiệt thòi đường gia thất. Và rồi, họ bập vào nhau thành đôi, mà nên
ngãi vợ chồng. Hiện anh chị sống riêng với nhau trong căn hộ mặt phố tại một
thì trấn cách thành phố không xa, có cửa hàng photocopy nhỏ. Đã vài lần thăm
nhà và dùng cơm với anh chị, quan sát cách họ chăm sóc nhau, tôi hiểu là họ yêu
quý, tôn trọng nhau, và hẳn là hài lòng với cuộc sống này…
Khi yên bề gia thất, Lê Lãng Du vẫn
làm thơ đều đều. Có điều, giờ chủ đề thơ anh đa dạng hơn, thực tế hơn. Ở đấy,
có bóng dáng, tình cảm của anh dành cho người phụ nữ của mình:
Về đây mở
quán để mưu sinh
Phố nhỏ vùng
ven thật thanh bình
Sớm mai chồng
vợ cùng thức dậy
Mở cửa dọn
hàng đón bình minh
Vợ quét nhà,
chồng ra nấu nước
Người rửa ly,
người dọn loanh quanh
Kê vài chiếc
ghế màu nho nhỏ
Bày lên bàn
ấm chén trà xanh
Lòng vui khi
thấy vài khách đến
Đon đả mời
chào chẳng lạ quen …
Song đâu đó, người thơ vẫn nén tiếng thở dài, dường
như tiếc nuối chi, từ trong sâu thẳm quá khứ:
Đắm say một
chút duyên hờ
Mong manh tơ
tưởng bến bờ tương tư…
Khát khao
tình đã cuối chiều
Miên man
trăng gió hồn xiêu cuối trời
Giờ bùa yêu
đã phai rồi
Em quay về
chốn xa xôi thủa nào
Mình ta đêm
gió lao xao
Nhớ nhung
bóng cũ nghẹn ngào cảm thương ..
Lại nữa, mơ tưởng, mộng ảo… hình bóng nào đó còn lởn
vờn phía sau và chờn vờn ở phía trước:
Tương tư tóc
bạc lưng trời
Ngất ngây như
vướng bùa người bỏ ta
Cỏ tình cỏ lạ
xót xa
Sao ta tìm
hái để mà vương mang?
Như tôi đã nhận định, Lê Lãng Du là người nệ tình,
chính vì vậy, cứ có cảm xúc là viết. Anh không chủ ý lập tứ, hoặc có tứ đi
chăng nữa thì khi thể hiện ra thành câu chữ cũng không mấy rõ. Tình cảm và chữ
nghĩa theo nhau tràn ra. Cứ như anh viết lấy được. Thơ thường dài dòng, giọng
điệu kể chuyện, và nhiều khi thực quá, nên cảm giác bài thơ bề bộn, ngổn ngang
câu từ. May mà, trong cái thực có cái tình, vậy nên, bài thơ có chỗ bấu vứu để
mà đứng được. Cái quý của thơ Lê Lãng Du là vậy. Nói thế, không có nghĩa là
thực, là kể hết, bất chợt, ta thấy anh biến ảo, và chìm đắm vào cõi mộng:
Thả vào em
một chiều mong
Hay:
Tương tư tóc
bạc lưng trời,
Hoặc lòng nặng trĩu những ưu tư:
Sớm nào quán
vắng buồn man mác
Nhìn ra quan
lộ ngóng xe qua
Vội vàng xuôi
ngược về đâu đó?
Quạnh nhớ về
nơi chốn quê nhà,
Còn nhiều lắm những bài thơ được, những câu thơ hay,
song tôi chỉ viện dẫn một chút, đặng ký họa chân dung Lê Lãng Du-con người thơ…
Bao nhiêu cũng chẳng là đủ, mà thêm một chút sẽ là thừa, tôi nghĩ vậy.
Lê Lãng Du thích uống rượu và uống được rượu, song anh
không ham hố men cay, chỉ uống khi có bạn hữu chơi nhà. Khi say, anh thật nhất.
Và có lẽ, trong một lần say, anh dốc bầu tâm sự, nỗi niềm ẩn chứa trong lòng
mình, bấy lâu nay, về cuộc đời, tình cảm luyến ái, văn chương thơ phú…
Say thì cũng
đã say rồi
Liêu xiêu mấy
bước lại ngồi xuống đây
Giả vờ một
chút thơ ngây
Lả lơi, hờ
hững vừa đầy hồn hoa
Cho người khờ
khạo cùng ta
Se se áo mỏng
ngọc ngà trong nhau
Chút thương
giấu dưới nỗi đau
Ươm ươm môi
chín úa nhàu tâm tư.
Cõi tình của anh là đây chăng, ơi người lãng du ?
Và cũng là chân dung tự họa của Lê Làng Du.
Tôi nghĩ vậy !..../.
Người đi
giữa thực và mơ,
1. Có thể, nhiều người sẽ tự nhận mình như vậy. Song
người tôi ám chỉ ở đây là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền,
Mặc dù cho đến nay, Nguyễn Vĩnh Tuyền
chưa từng xuất bản một tập thơ nào, nhưng anh đã từng sáng tác hàng nghìn bài
thơ, và khi vui đâu đó với anh em, bạn bè, thi hữu, anh xuất bản miệng vài ba
bài, hăng lên thì dăm bảy bài là thường.
Nguyễn Vĩnh Tuyền, tuổi Ất Dậu, sinh
năm 1945, hơn tôi vừa đúng một giáp, nhưng chúng tôi chơi với nhau là bạn vong
niên. Tôi biết anh và lập túc thân ngay với Nguyễn Vĩnh Tuyền từ thời điểm mùa
thu năm 2009, khi đó tôi đang phụ trách Văn phòng VOV miền Trung, đóng tại
thành phố Đà Nẵng, và là người mới tò te của Xóm Lá (tên gọi nôm na thân mật
của cộng đồng blogger, Blog Tiếng Việt). Lúc ấy, Nguyễn Vĩnh Tuyền đã là người
cũ, và thuộc hàng đại ca của Xóm Lá rồi. Rón rén bước chân vào Xóm Lá, tôi thấy
anh tung tẩy thơ phú, xướng họa, đùa rỡn khắp Xóm. Có lẽ, với tính cách như
vậy, anh nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết với khá nhiều người,
trong đó có tôi. Tôi xa nhà, từ Hà Nội luân chuyển công tác vào Đà Nẵng, nên
ngoài công việc, tôi dành nhiều thời gian rảnh rỗi đặng giao du với bà con Xóm
Lá giải khuây. Nguyễn Vĩnh Tuyền là một trong số ít người ở Xóm Lá, hiểu hoàn
cảnh và chia sẻ cùng tôi sự trống vắng đó. Thêm nữa, tôi biết anh là cha đẻ của
Nguyễn Vĩnh Tiến, một kiến trúc sư trẻ có tài thơ nhạc, là tác giả của ca khúc Bà tôi, và trước đó là bài thơ Chiếc roi tre được trao giải cao nhất
một cuộc thi thơ, nên có phần nể trọng anh. Phải vậy, mà hai chúng tôi nhanh
chóng kết thần, rồi coi nhau như anh em ruột thịt từ ngày ấy?
Đầu năm 2010, tôi ra lại Hà Nội, văn
phòng làm việc của tôi ngay tại trụ sở 58 Quán Sứ. Cùng thành viên. Xóm Lá ở
đấy còn có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, rồi sau nữa, thêm
nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhạc sĩ Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh Kính, nhà thơ Nguyễn
Thanh Vân, nhà thơ Chử Thu Hằng nhà văn Nguyễn Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa…
nên tháng đôi lần, hễ có điều kiện là à ới tụ họp, chuyện văn chương thơ phú
rôm rả. Bầu không khí ấp cúng như thế, Nguyễn Vĩnh Tuyền càng có cớ để ra thơ…
Công việc của tôi hay phải đi đây đó,
bản tính lại yêu thích miền núi, nên nhiều chuyến đi, tôi hay rủ Nguyễn Vính
Tuyền đi cùng, và thế là, anh em chúng tôi lại trên từng cây số… Tây Bắc thì
Hòa Bình-Sơn La-Điện Biên-Lai Châu-Lào Cai-Yên Bái; Việt Bắc thì Tuyên Quang-Hà
Giang-Cao Bằng-Bắc Cạn; Đông Bắc thì Bắc Giang-Lạng Sơn-Quảng Ninh…Mỗi năm mới,
chúng tôi thường thu xếp về Phủ Lý thăm nhà văn Lưu Quốc Hòa, hoặc vào xứ Thanh
thăm nhà văn Trịnh Tuyên, cùng các blogger miền Thanh-Nghệ… Lang thang đây đó,
vui nhiều và viết cũng nhiều…
Tiếng là có trong tay gia tài hàng
ngàn bài thơ, nhưng nói đến việc tập hợp thành tập thì Nguyễn Vĩnh Tuyền lại
ngại. Đúng ra, anh lười. Trước hết, Nguyễn Vĩnh Tuyền lười việc tìm lại thơ
mình. Mỗi cao hứng, hay mất ngủ, anh đều viết được. Viết như thể, cuộc đời anh
chỉ có Thơ là trọng, ấy vậy, viết xong là quăng quật ngay. Thơ anh rải rác đâu
đó, anh chẳng nhớ, và cũng không thuộc. Anh thuộc khá nhiều thơ của con trai
mình, nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, song với thơ mình, tôi cam đoan, anh
thuộc không nổi chục bài. Lười tìm lại thơ, và cả lười biên tập. Viết ra đấy,
nhưng có khi chẳng thèm đọc lại, quẳng lên blog hoặc Facebook cá nhân là xong,
và hầu như không biên tập lại bao giờ. Cứ như anh chẳng chịu trách nhiệm gì,
đúng ra, là anh vô trách nhiệm với những đứa con tình thần của mình. Và coi đó
là việc của người khác,,, Ứng xử với thơ mình như vậy, nhưng trong đời sống,
anh lại là người rất chăm chỉ việc nhà, chu toàn chăm sóc vợ,con, các cháu nội
ngoại mình. Không những thế, anh chu đáo và trách nhiệm với quê hương, họ hàng
và bạn bè gần xa…
Có hai người hay giục anh tập hợp thơ
thành tập, ấy là Nguyễn Vĩnh Tiến, và tôi.
Nguyễn Vĩnh Tiến thì giành việc đặt tên tập thơ, còn tôi, biên tập bài
và viết chút gì đấy, xem như phác họa chân dung Nguyễn Vĩnh Tuyền.
Lâu nay, âm âm trong suy nghĩ của tôi,
nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là người đi giữa thực và mơ,…
2.
Tự thân, Nguyễn Vĩnh Tuyền cũng nhận vậy:
nửa khuya mưa bóng mây
lâm thâm ngoài ngõ hẻm
mềm mơ cơn thức dậy
ảo-thực ấy? ...sinh vần
lạc lẫn từ
ăn vay
thơ tái sinh màu nhớ
thoại ngữ đêm sang ngày...
Trước hết, hãy cũng Nguyễn Vĩnh Tuyền
du ngoạn vào cõi mơ của anh. Thực tình, tôi thích cõi mơ ấy:
mưa chi xối đất mẻ trời
buồn chi lây khổ cả người không dưng
em ơi, thương nhớ quá chừng
xin đừng buồn nữa ngõ lưng chừng… đời!.
và đây nữa:
ai người vấp lối hợp tan
cho tình anh được lấp san cùng tình….
đỉnh non thơm mấy nụ thơm
đã nghe nức nở dỗi hờn hạt mưa
đã nghe luyến nhớ đầy trưa
muốn ôm muôn giọt mau thưa ngợp chiều
Sao không phát sáng đổi màu
Để sông trăng lạnh trên đầu trôi trôi
Rượu trời nhàn nhạt nơi môi
Nâng lên đặt xuống chỗ ngồi vắng tanh
Buông neo tạm bến nhớ nhung
tránh cơn sóng vỗ chập chùng gió mưa
Giấc vui gói kín mạn trưa
bờ tình che kín gió lùa ngang sông
Phôi phai lạc tận bến mơ
nhổ neo!
...đi tiếp nước cờ mai sau?.
... tất cả đang lũ quét vào máu và da thịt nhau
thế là anh biến thành khúc thức buồn tẻ mang mang
giữa cánh đồng đời lao xao sóng nước
tâm thức mơ hồ
những đường cong mịn màng mơ hồ
những lạch khe dòng mương lượn uốn dồn đổ mọi thứ ra sông
(ôi dòng sông bình an đầy hoa mây trắng xám trôi trôi...)
nước gỗ mục dều rác giành giật nhau cõng nắng, cõng mây;
một cuộc đua - một dọc trời mải miết
Anh chờ bên phía lề đau
Em bên lề khổ hai màu lệch chênh
Lề đường lề của bồng bềnh
Nhịp phách thì rõ, tiếng xênh lại chìm
Kể cả khi Nguyễn Vĩnh Tuyền giật mình, sợ rồi cứ mê mải thế
sẽ lạc lối xứ mơ, những muốn quay trở về cõi thực, thì cõi mơ vẫn níu kéo:
Giật mình!
... một phút chiếu, giường
Tiếng chuông cửa?
... Tiếng ngày thường!
Tan mơ?...
Để rồi một sớm tơ vương
có người sắm chiếu trải giường …tương tư
Dưới mưa cuốc bộ cùng mưa
bước chân vừa gấp vừa thưa với tình…
lang thang mãi chốn long đong
chiều nay ánh mắt bỗng long lanh chiều
Cố quên sao được nguồn cơn
ngày dài đêm ngắn chập chờn dòng mơ
Tưởng tan tác khúc ca chiều…
bấc khô dầu cạn,
Và
cứ chập chờn thế này, thử hỏi làm sao Nguyễn Vĩnh Tuyền có thể bước chân ra
khỏi con thuyền mộng cơ chứ ?:
ai khêu lửa tình?
Lạ đôi tinh tú rong chơi
vui miền cực lạc quên nơi sinh thành
có nhà bác học chiêm tinh
ngạc nhiên sao mới cố tìm cho ra
lục soi khắp cõi ta bà
trăm năm dư lẻ vậy mà công không…
Chiều nay gió thoảng ngang đồng
tự dưng đôi cánh bướm hồng? Rong chơi…
Vẫn là cuối đất cùng giời
cơ duyên đốm lửa khuất nơi vô tình
Đây rồi! Một nét lung linh
ồ! Kia một dáng nguyên trinh mong tìm
Vậy
thôi, chẳng dám sa đà nữa, bởi sợ rồi mình cũng sẽ bị Nguyễn Vĩnh Tuyền huyễn
hoặc, mà ngồi chung con thuyền mộng cùng anh lang bạt kỳ hổ trong xứ mơ do anh
viễn tưởng, mê sảng giăng mắc lưới tình, đặng rình bắt cả Nhện đã thành tinh
?...
P16
Thụy Khuê có một căn phòng,...
Căn phòng ấy rộng vừa 9
m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của Bộ Nông
nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày xưa”,
nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện của ngày xưa
!...
Căn phòng rộng vừa 9 m2 ấy
là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.
Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều
lần nhắc đến tên anh, trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên
nhắc lại đôi chút, để bạn đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba
người, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời
phổ thông với nhau, lứa học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc
Mỹ (1972-1975). Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3
Nam Sách (Hải Dương), cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng
Quang, thị xã Hải Dương (cũ) để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp
10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975), thì có thêm tôi, và
Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số người khác nữa. Sau này, thân
thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4 người (Trần Đăng Khoa-Trịnh
Bá Ninh-Nguyễn
Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập
thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá
Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của
tỉnh Hải Hưng (cũ), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở
về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến
dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại
thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo
học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang
công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân
bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo
Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên
nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua
nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên
giới Tây
Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ đô và công
việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu dạt phương
xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để ba chúng
tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.
Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó, Trịnh
Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu, mặc
thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các bộ
ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc gia
đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan. Vẫn
không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá Ninh
cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời
gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2
trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang
nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn
phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa,
ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế
nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì
thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy
bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ
thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành
chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách
cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng
sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc
xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy
rồi.
Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của
khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy
Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy
Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập thể
của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là kiến
trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là chuồng
nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời Tây, đầu
thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên P16 Thụy
Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ Nông nghiệp
đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu P16 Thụy Khuê
làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.
Cơ ngơi vừa 9 m2, ấy là cơ đồ giang sơn của
nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh ở với nhau thì đâu có gì đáng
nói. Cái chính, đây là nơi đi lại, tá túc của không biết bao nhiêu người thân
và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng anh em ruột thịt thì đủ hai bên quê,
nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương), nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây);
bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và
nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông nghiệp … thêm bạn bè của M cũng
lắm. Có những ngày cao điểm, căn phòng 9 ấy (9 mét vuông), người ngủ
đêm, trên giường dưới nền vừa đúng 9 người, bình quân mặt bằng, 1 người/1 m2,
và để bớt ngột ngạt, đủ dưỡng khí cho từng ấy con người hít thở, cửa ra vào mở
toang. Mở của như vậy, hoàn toàn yên tâm, không sợ trộm, bời vì, khu P16 an
ninh tốt, nếu có trộm vào nhà, kiểu gì cũng đụng chạm vào người, và cuối cùng,
trộm có khéo đến mức không đụng chạm vào ai thì trong nhà cũng chẳng có gì mà
lấy... Có vẻ hài hước đấy, nhưng sự thực là vậy...
Nhân sự thưởng
xuyên hay thi thoảng tá túc căn phòng 9 của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh cũng
đáng nể lắm. Nổi tiếng và đáng nể nhất là nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cặp
đôi bạn bè Nình-Khoa có chút đặc biệt thân tình hơn người khác chút, ở chỗ,
cùng quê Nam Sách (Hải Dương); cùng học Trưởng cấp 3 Nam Sách (tuy
khác lớp); và cùng Đội tuyển học sinh giỏi Văn tình Hải Hưng (cũ)
thi Kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng
4.1975). Trần Đăng Khoa vốn nổi tiếng, anh quan hệ rộng và có khá nhiều
người quen ở Hà Nội, và thế, anh có nhiều nơi chốn để lui tới, mỗi khi anh về
Hà Nội, tuy nhiên, đến đâu thì anh cũng phải giữ kẽ, thậm chí, phải diễn chút,
song khi về căn phòng 9 ấy, anh hoàn toàn tự do, tự nhiên như anh là chủ vậy,
ăn uống, ngả ngốn, kềnh cang, buôn chuyện, "hồn nhiên như cô tiên"...
Vi thế, mà có cả một quàng thời gian dài, dù là đi chiến trường C, dù vê Hải
Quân, hay sau này đi học tại Đại học Gorky (Liên
Xô), thì mỗi khi đặt chân về Hà Nội, căn phòng 9 của Trịnh Bá Ninh cũng coi
như "giang sơn" của Trần
ĐăngKhoavậy.
Lui tới đây thường xuyên, cũng phải kể đến,
nhà báo Nguyễn Sĩ Bình (nguyên Phó Cơ quan đại diện báo Quân Đội nhân dân
tại Tp. Hồ Chí Minh, vốn quen biết với tôi và Trịnh Bá Ninh từ thời cùng học ở
Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội). Cùng ở báo Quân Đội nhân dân, hay lui tới
căn phòng 9 ấy, có nhà thơ Mai Nam Thắng và Nguyễn Đình Xuân. Với Nguyễn Đình
Xuân, khi mới về nhận công tác tại Báo QĐND và tập tọng làm thơ, vốn quê Nam
Sách với Trịnh Bá Ninh, vào cuối tuần Nguyễn Đình Xuân thường đến căn phòng 9,
chuyện thơ phú, gửi bài cộng tác, rồi lân la làm quen với cô con gái mới lớn
xinh xắn của vị hàng xóm chung vách với căn phòng 9, và trở thành con rể của vị
hàng xóm này. Nói vui, thật "lãi mẹ đẻ lãi con"...
Ngày
ấy, những chàng trai chưa vợ, nói chung, đều ước muốn có được một tổ ấm bé nhỏ
như thế, vậy nên, lui tới đây, để có được một chút cảm giác yên ổn, ấm áp gia
đình. Mấy người, Trần Đăng Khoa, Mai Nam Thắng, Nguyễn Đình Xuân và tôi là
khách thường xuyên của căn phòng này. Và đã là khách, thì cơm nước, rượu chè,
thậm chí ngủ lại là chuyện thường. Vợ chồng công chức, lương ba cọc ba đồng của
thời bao cấp, lo đủ ăn đã vất vả rồi, lại thêm đám khách thường xuyên không mời
mà đến như cánh anh em bạn bè độc thân chúng tôi, không lo sao được. Ấy vậy mà,
Trịnh Bá Ninh xem như không có gì, còn M, vợ anh, thì lúc nào cũng tươi như
hoa, có khách đến nhà là quý... Cơm bữa, ngoài rau dưa, có hai món thường trực,
ấy là lạc rang và đậu rán. Lạc rang, với dân làm trong ngành nông nghiệp, xem
như món "nhà giồng được".
Gọi vậy cho vui, chứ thực ra, để có lạc, M phải nhận lạc củ về bóc vỏ, trả
nhân, phần dôi dư thì để lại làm thực phẩm chính cho gia đình. Tiện cái, lạc
nhân nguyên vỏ lụa rang mặn để ăn cơm, chế biến chút thì giã nhỏ rồi đem nấu
với dưa chua hay rau muống, ăn khá ngon miệng; còn khi có khách, lạc nhân rang
lên, thế là có đồ nhắm, đưa cay đôi ba chén rượu quốc lủi. Thi thoảng, có món
trứng và cá. Cá mua tem phiếu, toàn cá biển, cá nục ướp là nhất rồi, còn lại
toàn loại cá đồng tiền, thân mỏng tang, toàn xương, nhưng kho nồi áp suất, mằn
mặn một chút, nhừ cả xương, chịu khó nhai kỹ, cũng bùi và ngon đáo để. Đại loại
vậy. Gần như bữa cơm tối nào, nhà cũng có khách. Sau này, để thêm thắt thu nhập,
M nuôi gà công nghiệp, và thế, Ninh lại phải làm chuồng nuôi nhốt, tận dụng chỗ
trống ban công đầu hồi, rồi vận dụng mối quan hệ, nhờ cậy, mua được ít cám gà.
Đã có lần, thức ăn cho gà hết, Ninh bận đi công tác, nhờ tôi cầm giấy giới
thiệu đi nhận cám gà thay anh...
Những năm tháng ấy, thiếu thốn và nghèo, nhưng mà vui,
thứ giàu có nhất, là tình người. Tôi là người qua lại và tá túc ở đấy nhiều
nhất, nên thấu hiểu điều đó. Thời kỳ tôi còn công tác ở Bảy Núi, An Giang, hầu
như năm nào cùng đi phép, qua lại đây thường xuyên. Tôi không những tá túc, ăn
nhờ ở đậu nơi căn phòng 9 ấy, còn được Trịnh Bá Ninh động viên và anh giúp tôi
viết bài cộng tác các báo. Anh còn đưa tôi đi gặp gỡ, làm quen với một số nhà
báo, nhà văn đã thành danh, là để tôi quen với bầu không khí báo chí, văn
chương ngày ấy, đặng tôi lấy đó mà cố gắng, không bỏ cuộc. Kể cả khi tôi đã xin
được về Đài Tiếng nói Việt
Cũng hay qua lại căn phòng 9 ấy, còn có Nguyễn Tuấn
Phong (hiện là Phó trưởng ban Ban Đối
ngoại Trung ương), rồi PSG.Ts Nguyễn Hữu Sơn (Phó viện trưởng Viện Văn học Việt
Có một chuyện, anh bạn Việt An định cư ở thành phố Hổ
Chí Minh, không biết đã từng ghé căn phòng 9 ấy chưa, hay chỉ nghe kể, cứ đùa
rằng: "Căn phòng như vậy, lúc nào
cũng đông người tá túc, thế mà không hiểu vợ chồng nhà này, loay hoay thế nào
vẫn đẻ được cậu con trai bụ mẫm, khỏe mạnh, thông minh". Là đùa vui,
nghĩ cũng thấy hay hay, cu cậu bụ mẫm, thông minh ấy, nay đã là tiến sĩ dược
học đang làm việc ở Mỹ, và nghe đâu, đề tài nghiên cứu khoa học mà cậu ta tham
gia là thuốc chữa HIV.
Căn phòng 9 m2 ấy, dường như ám ảnh
và theo đuổi Trịnh Bá Ninh mãi, bởi sau dăm, bảy năm ở đáy, anh đổi nhà, chuyển
nhượng lại cho một cặp vợ chồng già hưu trí, mua một căn hộ khác nằm sâu tận
cùng một ngõ hẹp tối om ở phố Nguyễn Khuyến, và thật trùng hợp, căn hộ này diện
tích mặt bằng cũng chừng 9 m2 thôi, có điều, nó được chồng 3 tầng, vị chi tổng
diện tích dưới ba chục mét vuông... Lại thêm một lần chuyển đổi nữa, nhà mới
rộng ra. Nhưng khi nhà rộng, lại chỉ có hai vợ chồng hưu ở với nhau, bởi cả hai
đứa con cùng du học và nghiên cứu ở Mỹ. Như một trò đùa, lúc có nhà rộng thì
khách lại thưa, bởi vì giờ đây, bạn bè, người thân, ai cũng có nhà cửa và gia
đình riêng của mình. Thu xếp mãi, may ra, năm chỉ một đôi lần đến chơi nhà nhau
và ở ăn cơm... Ăn uống, tiệc tùng gì thì mời nhau ra quán cho tiện...
Căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, cùng với những vị
khách không mời mà đến ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. Dù chưa lâu, song đã
thành cổ tích !?...
Quang Dũng & bản hùng ca Tây Tiến,
Quang Dũng, là một
nhà thơ xuất sắc của nền thi ca Việt
Song Quang Dũng không
phải là nhà thơ dạng “một bài” mà thành danh như vài ba nhà thơ khác cùng thế
hệ với ông. Cùng với Tây Tiến, ông còn có Đôi mắt người Sơn Tây, Mây đầu ô,
Đường trăng, Bố Hạ, Đêm Bạch hạc …
Cho dù, Quang Dũng còn
sống đến mài sau này (ông mất năm 1988), nhưng tôi không có duyên gặp gỡ, mặc
dù khi đó, tôi đã trưởng thành và là người yêu văn chương. Rất đơn giản, ngày
ấy, các nhà thơ nhà văn, là của hiếm, là những cao nhân, được cã xã hội coi
trọng, nên không phải cứ muốn là gặp được. Vậy nên, những người như Nguyễn Đình
Thi, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận. Chế Lan Viên, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài
và Quang Dũng… đều được kể lại qua người này kẻ nọ, được thêu dệt, “giai thoại
hóa” như những huyền thoại sống vậy…
Phải đến khi, tôi
đã thành một cây bút trẻ, đã có vài ba tập sách được xuất bản, và khi ấy, bầu
không khí báo chí văn chương khá cởi mở, thì mọi người mới được biết những câu
chuyện đằng sau, những chuyện bếp búc, thậm chí những chuyện mà trước đây được
xem là cấm kỵ, là “thâm cung bí sử” của Làng Văn Việt được công bố trên báo
chí, thì người ta mới “à ra thế”, mới vỡ lẽ, rằng…Và Quang Dũng, là một người
như vậy…
Chuyện kể rằng, hồi tham gia Đoàn quân
Tây Tiến và làm cán bộ tuyên huấn, Quang Dũng hào hoa lắm. Trai ven đô, được
học hành tử tế, có trình độ học vấn, giỏi chữ Hán (có thông tin là học trường
sĩ quan Hoàng Phố, chẳng rõ thực hư) và biết tiếng Pháp, thêm tài thơ phú là
oách lắm, cùng đó, dáng người to cao, nên phong độ hào hoa là phải thôi. Không
những được thuộc cấp nể phục, đi đến đâu cũng được bà con, nhất là phái nữ địa
phương quý mến, ngưỡng mộ…
Cũng lại chuyện kể, giai
thoại rằng, dạo ông công tác ở địa bàn Thanh Hoa (có lẽ thời gian ông làm cán
bộ tuyên huấn, và văn nghệ Liên khu III), mỗi khi đi công tác đâu, Quang Dũng
diện quân phục chỉn chu, cưỡi trên lung ngựa, trông oai hùng lắm. Thế nhưng,
dáng vè hào hoa phong nhã đó, là một lợi thế, song cũng đem lại cho ông không
ít phiền toái, ấy là sự ghen ghét đố kỵ của một số người, ngay cả những chiến
hữu, đồng đội của mình. Gì chứ, tai tiếng phong cách tiểu tư sản là cái chắc,
nhất là với ông, vốn chân thực, không quen thói quanh co biện hộ. .
Còn về đời sống, nhất là
quãng thời gian dài, Quang Dũng chịu án Nhân Văn Giai Phẩm, và làm biên tập
viên của Báo Văn nghệ, rồi Nhà xuất bản Văn học, cả thời gian ông nghỉ hưu của
thời chiến tranh và bao cấp, có rất nhiều câu chuyện và giai thoại về ông. Tôi
đọc được đâu đó khá nhiều câu chuyện, nhưng nhớ và ám ảnh hơn cả là chuyện ông
thường xuyên quét lá khô trong công viên Thống Nhất về đun nấu; là chuyện
ăn cơm nhai kỹ vừa thấy ngon và đỡ tốn gạo; và câu chuyện ứa nước mắt, ấy là
khi được một ai đó mời ăn quà xôi ở một hàng xôi ngon nổi tiếng Hà thành, ông
giữ lễ ăn cầm chừng mặc dù vốn ăn khỏe và vẫn thèm ăn nữa… Ôi, thật chẳng biết
nói gì nữa, chỉ thấy thương cảm và ái ngại cho một người như tài năng và hào
hoa như ông…
Đọc tác
phẩm của Quang Dũng, chưa từng gặp mặt, và nghe kể, cùng xem nhiều giai thoại
về ông. nhưng giờ đây, tất cả những gì tôi biết về ông, bỗng sống dậy, hiển
hiện mồn một trong tôi, khi tôi đến thăm Khu di tích về Trung đoàn Tây Tiến
được khánh thành vài năm nay tại Thị trấn Mộc Châu (Sơn La),… Ở đó, trưng bày
khá nhiều hiện vật, tài liệu, hình ảnh về Binh đoàn Tây Tiến, song đậm nét hơn
cả là những gì liên quan đến Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến của ông. Bức tượng
bán thân nhà thơ Quang Dũng trong phục quân đội, áo trấn thủ, đầu mũ
ca-nô đội lệch, nên dáng vẻ người chiến sĩ oai hùng pha chút hào hoa lãng tử.
Ngắm nhìn bức tượng, ngẫm thấy đúng chất con người nhà thơ-chiến sĩ Quang Dũng-
cái cá thể-lại đúng chất người chiến sĩ của Binh đoàn Tây Tiến thực tế ngày
đó,- cái nét chung,- ấy là những chiến sĩ vốn là các chàng trai Hà Nội hào hoa,
kiến thức, sẵn sàng lên đường bất chấp hiểm nguy…
Chất
Quang Dũng-Tây Tiến còn thể hiện ở kết cấu của Khu di tích Tây Tiến, đó chính
là bài thơ,vốn mang tính chất và hơi thở của Tây Tiến, vừa thể hiện quá trình
hoạt động của Binh đoàn, thế nên, người thiết kế đã có ý tưởng lấy thơ ra để mô
hình hóa công trình này… Thật tài tình thay, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa các
yếu tố: Người-Thơ-Ý tưởng-Công trình, là một. Vậy nên, từ phòng trưng bày, bước
ra không gian tưởng niệm, mỗi bước, mỗi ngẫm nghĩ, thấy hiện lên mồn một từng
câu thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Càng thấy được ý tưởng và sự hợp lý, khi nước
chân vào Khu di tích, thoạt đầu nghe hướng dẫn viên đọc bài thơ Tây Tiến, tiếp
đó là phong trưng bày với điểm nhấn là tượng nhà thơ Quang Dũng với văn bản bài
thơ của ông, ấy là cái cách làm cho khách tham quan thức dậy cảm xúc về Tây
Tiến trong lòng trước khi hòa mình vào không gian trải ra của bài thơ Tây Tiến
được mô hình hóa thành cảm quan chung của khu tưởng niệm, và rồi để lắng lại
vào tâm khảm về một quá khứ hào hùng…
Tôi đã
cảm nhận về Binh đoàn Tây Tiến và nhà thơ Quang Dũng, cùng những đồng đội của
ông ngày ấy, được hình tượng hóa trong bài thơ xưa và không gian di tích, tưởng
niệm hôm nay…
Chắc
chắn, bài thơ Tây Tiến về Binh đoàn Tây Tiến bi hùng,” đoàn quân không mọc tóc”
ngày ấy, sẽ còn sống mãi, và như vậy, tác giả bài thơ đó, một trong số những
bài thơ hay nhất của nền thi ca hiện đại Việt Nam, nhà thơ Quang Dũng, cùng
những bài thơ khác của ông, cũng sẽ sống trong lòng nhân gian…
Và như vậy, người đời sẽ
kể tiếp thành huyền thoại về nhà thơ Quang Dũng và thơ ca của ông!...
Phải chăng, lỗi từ hệ thống ?
Chuyện sai phạm
trong khâu chấm thi, kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển Đại học, cao đẳng năm
2018 ở Hà Giang đang gây nên xôn xao và bức xúc xã hội. Tôi định không viết gì,
bởi báo chí và mạng xã hội đã nói quá nhiều rồi. Song ngẫm nghĩ, thấy cần thiết
phải kiến giải đôi điều, bởi đây là suy nghĩ nung nấu của tôi về một số vướng
mắc của ngành giáo dục nước ta từ lâu nay. Chuyện sai phạm ở Hà Giang hiện tại,
chỉ là hệ lụy, là giọt nước làm tràn ly, từ những lỗi cơ bản mang tính hệ
thống. tôi cho là vậy...
Đương
nhiên, sai phạm trong sự việc ở Hà Giang, trước hết, cá nhân Vũ Trọng Lương,
người trực tiếp có hành vi sai phạm, phải chịu trách nhiệm, nhưng tôi nghĩ, còn
có những người khác liên đới, cũng sẽ phải chịu trách nhiệm cùng. Nhưng thôi,
xin không bàn cụ thể sự việc này, để bàn việc lớn hơn, mà tôi muốn nhắm tới
trong bài viết này, ấy là, lỗi hệ thống trong ngành giáo dục ở nước ta.
Lỗi hệ thống ấy của ngành
Giáo dục ở xứ ta, được dán một cái nhãn là “loay
hoay”. Thực ra, có thể hình tượng hóa chính xác nhất, là tình trạng “gà mắc tóc”, ấy là sự loanh quanh, lúng
túng, vướng vứu, loay loay mãi không gỡ chân ra được. Nói như vậy, không phải
là tôi phủ nhận những bước tiến lớn và thành tích không nhỏ của ngành Giáo dục
trong hơn nửa thế kỷ qua. Song việc nêu công trạng của ngành Giáo dục không
thuộc phạm vi đề cập của bài viết này, xin không bàn ở đây.
Khi
còn chiến tranh phân miền, mỗi miền Bắc-Nam theo một hệ thống giáo dục phổ
thông khác nhau, Miền Bắc, vốn theo hệ 10/10 được dụng ở Liên Xô cũ và các nước
XHCN, còn miền Nam, theo hệ 12/12 như các nước Âu Mỹ. Sau năm 1975, sự cần
thiết phải thống nhất một chương trình giáo dục phổ thông, được đặt ra. Khi có
sự lựa chọn thống nhất cả nước theo hệ 12/12, thì vấn đề đặt ra tiếp theo, là
chương trình học và bộ sách giáo khoa cho các bậc học phổ thông thế nào cho hợp
lý, nghĩa là tích hợp được những điểm ưu và hạn chế điểm khuyết của hai hệ
thống cũ. Từ đây, ngành Giáo dục ở ta bắt đầu bộc lộ rõ sự lúng túng, loay hoay
trong giải quyết vấn đề …
Cụ
thể, với các môn học thuộc khoa học tự nhiên, nhất là Toán học, chương trình
học lại quá cao, quá khó, đến mức không cần thiết. Tuy nhiên, khoa học tự nhiên
cơ bản, là những định lý, định luật, công thức mang tính nguyên lý, vấn đề lựa
chọn phù hợp khi cần cài cách, đơn giản là giảm tải đến mức nào thôi. Còn với
các môn khoa học xã hội, nhất là Văn học, Lịch sử, lựa chọn tác giả, tác phẩm
nào, giai đoạn văn học nào, văn học trong nước ngoài ta sao; và với
Lịch sử thì tiến trình và việc nhìn nhận, đánh giá các giai đoạn thế nào cho
khách quan, công tâm… là cả một câu chuyện dài và phức tạp, khó
thống nhất được ý kiến. Kể từ đó, việc thay sách giáo khoa liên tục được thực
hiện, vừa gây sự xáo trộn, bất ổn, lại tốn kém một khoản kinh phí khổng lồ cho
lĩnh vực này. Người ta còn cho rằng, việc giao khoán, trúng thầu dự án, đề án
biên soạn sách giáo khoa ít nhiều chịu sự chi phối của nhóm lợi ích, hơn là
việc quan tâm đến tính khoa học nghiêm cẩn của công việc? Các nhà nghiên cứu và
quản lý giáo dục của ta được cử đi tham quan, học hỏi các nước có nền giáo dục
tiên tiến trên thế giới, song dường như việc học hỏi nước ngoài lại làm cho
tình hình phức tạp hơn, bởi mỗi vị một kiểu, ai cũng cho rằng việc mình được
học hỏi ở đâu đó, tốt hơn, tiến bộ hơn, đáng được áp dụng hơn. Thật đúng là
cảnh “sư khen sư giỏi, vãi nói vãi tài”.
Cứ thế, loay hoay một hồi, đã “gà mắc tóc”
lại càng rối rắm, khó gỡ rối hơn… Đấy, còn chưa tính đến một cái tội tày đình,
ấy là có một thời gian, ngành giáo dục đùng đùng áp đặt việc cải cách chữ viết
tiếng Việt, khiến cả xã hội bày tỏ sự không đồng tình…
Thời
chúng tôi đi học, các môn thi tốt nghiệp THPT tùy theo năm, tất cả thi bằng
hình thức tự luận, và đương nhiên để vào bậc đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, phải qua một kỳ thi nữa. Đã như thế nhiều năm, thành nếp, và để
duy trì như vậy, hẳn người ta phải thấy được tính ưu việt của nó. Xã hội phát
triển trong thời mở cửa, việc cử các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục ra nước
ngoài học hỏi kinh nghiệm, rồi việc sinh viên đi du học tăng lên, khiến người
ta phải nhìn nhận lại nền giáo dục nước nhà một cách nghiêm túc, đặng cải cách
giáo dục cho phù hợp với xu thế hội nhập. Đương nhiên là vậy, và cũng không có
gì đáng chê trách tư tưởng cầu tiến bộ. Tuy nhiên, học hỏi rồi, đề xuất và
quyết sách ra sao, mới là vấn đề đáng bàn. Việc lấy cái gì của Tây để áp vào Ta
thật không phải là chuyện automatic
là xong, vậy nên, mới có cái sự để mà bàn, ấy
là phần lớn việc cải cách, cứ “vừa áp
dụng đã bất cập” ngay rồi. Vì thế, miệng lưỡi nhân gian gọi là “cải tiến-cải lùi” và người ta lại ước ao
“bao giờ cho đến ngày xưa”. Hoài cổ
ư, ở đây không có ý đó, bởi sự tiến bộ luôn luôn đươc chào đón, khi mà nó thật
sự hợp lý, hữu ích cho cộng đồng xã hội, mà lại phù hợp với xu thế chung thế
giới.
Lỗi hệ thống trong
ngành Giáo dục ở xứ ta còn biểu hiện rõ sự cực đoan, nhất là trong việc thi cử.
Để lý giải việc này, có lẽ phải dài dòng chút ít. Ấy là, việc thi cử ở xứ ta
vốn xuất phát điểm từ quan niệm “học để
làm quan” từng tồn tại nhiều thế kỷ ở một số quốc gia chịu sự ảnh hưởng của
nền khoa bảng Trung Hoa, như Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan. Vậy nên, hình thức
thi tự luận ở tất cả các môn không những được áp dụng cho các kỳ thi, mà còn
được sử dụng trong việc làm các bài kiểm tra kiến thức lấy điểm để đánh giá
trình độ, khả năng tiếp nhận các môn học hàng ngày ở tất cả các cấp học. Phải
thừa nhận, với hình thức thi này, để đạt được kết quả cao, ngoài kiến thức, học
sinh-sinh viên còn phải có khả năng diễn đạt vấn đề một cách mạch lạc. Như vậy,
cho thấy, hình thức thi tự luận không hoàn toàn là ưu việt tuyệt đối, còn có
những khiếm khuyết nhất định. Việc thi tự luận, lâu ngày cũng nảy sinh thói
quen giáo điều, tầm chương trích cú và sáo mòn… và với những học sinh có kiến
thức tốt nhưng khả năng diễn đạt yếu thì chịu không ít thiệt thòi ; thêm nữa,
còn đó là sự tốn kém về kinh phí và sự chi phối cảm tính ít nhiều trong khâu
chấm thi…
Cải tiến trong thi
cử, thay hình thức thi tự luận bằng hình thức trắc nghiệm có những ưu điểm của
nó. Đó là, xét về tổng thể, cơ bản đánh giá được kiến thức của học sinh, và có
thể áp dụng được công nghệ hiện đại vào việc chấm thi, nên tiết kiệm được thời
gian và tài chính, cũng khắc phục được yếu tố cảm tính trong khâu chấm thi. Tôi
nghĩ, chắc đây là lý do để Bộ Giáo dục và Đào tạo sau một vài năm thử nghiệm,
đã quyết định thi bằng hình thức trắc nghiệm các môn thi với toàn bộ nội dung
bài thi (trừ môn Văn vẫn thi tự luận).
Tuy nhiên, kể cả
những môn khoa học tự nhiên, điển hình là môn Toán, mỗi bài còn có các cách
giải khác nhau, và chỉ có tư duy tốt mới đưa ra được phép giải ngắn gọn và chặt
chẽ nhất, cái mà người ta gọi là “vẻ đẹp
của toán học”. Sự cực đoan ở đây, ấy là từ thái cực tất cả thi tự luận, thì
nay chạy tuột sang thái cực kia thì trắc nghiệm (trừ môn Văn). Thi trắc nghiệm, chấm máy, tôi cho rằng, sự may rủi
vẫn nhiều, vì theo xác suất, vẫn có rất nhiều thí sinh không có kiến thức thật,
lại đạt kết quả cao. Và đây cũng là kẽ hở, lỗ hổng để người ta trục lợi bằng
việc can thiệp vào hệ thống máy móc một cách dễ dàng (như vừa xảy ra ở Hà Giang trong kỳ thi THPT 2018)... Những câu hỏi,
được dư luận xã hội đặt ra, là liệu cùng với Hà Giang, có còn xảy ra với Lạng
Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Bạc Liêu và địa phương nào khác; rồi liệu có phải chỉ
xảy ra ở kỳ thi năm nay, hay đã có từ năm trước? Một mất mười ngờ, là lẽ đương
nhiên. Và hậu quả, việc bắt buộc phải tổ chức thanh kiểm tra, chấm khảo sát là
một sự “cực chẳng đã”, và “lợi bất cập hại”. Song sự tốn kém về
công sức, tiền bạc không lớn bằng sự bất an về mặt xã hội, sự “sang chấn về tâm lý”, nhất là với các
học sinh liên quan v.v...
Theo tôi, là nên tính
tới việc kết hợp cả hai hình thức tự luận và trắc nghiệm trong kỳ thi này, với
tất cả các môn thi (kể cả Văn và Toán),
nhưng tỷ lệ phần thi trắc nghiệm không được vượt quá 50% khối lượng nội dung
mỗi bài thi. Như vậy, khâu chấm thi có thể phức tạp hơn một chút, nhưng tôi
tin, sẽ đánh giá khá chính xác hơn cả kiến thức và năng lực của học sinh. Còn
việc tiêu cực, gian lận trong thi cử, thì có tổ chức thi theo cách nào, khi
muốn, người ta cũng sẽ tìm cách để lợi dụng. Vấn đề đặt ra là lợi ích kép, vừa
đủ cơ sở để đánh giá đúng kiến thức và trình độ học sinh, mà lại hạn chế đến
thấp nhất sự tiêu cực, gian lận.
Thêm nữa, tôi nghĩ,
cũng nên cân nhắc một cách nghiêm túc và khoa học, để đưa ra quyết định, việc
tích hợp kỳ thi như hiện nay, hay tách riêng thành hai kỳ thi như trước đó? Thậm
chí, bỏ kỳ thi tốt nghiệp THPT mà chỉ có một kỳ thi duy nhất là tuyển vào Đại
học và Cao đẳng?
Con người ta, ở bất
cứ quốc gia nào, sau chuyện miếng ăn, cái mặc để tồn tại, thì kế ngay đó, là
sức khỏe (Y tế) và học hành (Giáo dục). Với suy nghĩ vậy, xin có mấy
lời bàn !?...
Những đứa trẻ ngày ấy,
Mới gần đây, tôi đi ăn đám giỗ người bác ruột, bác
trai là con cả rồi kế đến là mẹ tôi. Bà ngoại tôi có tới chín người con, xưa
cũng thuộc diện khá giả, nhưng nhà đông con, nên cơ bản vẫn phải tần tảo mới
khỏi lo thiếu đói. Cả nhà bên ngoại, bác trai cả sớmđược cho ăn học, nhưng lại
lười học, hay trốn học rong chơi nên cũng chẳng có bằng cấp và nghề ngỗng gì.
Mẹ tôi lớn một chút đã phải phụ giúp quán cơm cho người bà trẻ ở phố Mã Mây, Hà
Nội để thêm thắt giúp gia đình. Nhà ngoại tôi đông anh chị em, sau mỗi người
mỗi hoàn cảnh, nhưng được cái đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ nhau lắm. Đám giỗ
bác Cả, các nhà đều có đại diện tham dự. Sau bác Cả, thì mẹ tôi và mấy dì liền
kề cũng đã mất rồi. Buổi giỗ, ăn gọi là, chủ yếu chuyện trò nhắc những chuyện
ngày xưa. Thế hệ anh chị em con chú con bác, đôi con dì, con cô con cậu trong
chín người bên ngoại ngang hàng tôi cũng mấy chục. Đến nay, những ai đi làm nhà
nươc cũng nghỉ hưu cả rồi. Năm đôi ba lần giỗ tết, ngồi với nhau, kể chuyện
ngày xưa là phải thôi,
Những năm chiến tranh chống Mỹ Ngụy,
có hai địa điểm tập trung trẻ con trong đại gia đình bên ngoại tôi, đông nhất,
là ngôi nhà ngói đại khoa trong mảnh vườn rộng năm sào Bắc Bộ ở Chợ Đường Cái
(Hưng Yên), và căn nhà bác Cả tôi sống, ngay mặt phố gần ngã tư Khâm Thiên (Hà
Nội). Khi máy bay Mỹ còn ném bom ra miền Bắc, nhất là những đợt cao điểm, thì
đám trẻ con con bác Cả và mấy đứa con cậu tôi ở Hà Nội, sơ tán về nhà bà ngoại
tôi hết. Sau 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972 máy bay Mỹ oanh tạc Hà Nội dữ dội,
thủ đô yên hàn, Hội nghị Pa-ri được ký kết, thì mỗi kỷ nghỉ hè, đám trẻ con ở
quê lại thay nhau ra Hà Nội chơi, và nơi tá túc là căn nhà của bác Cả ở gần ngã
tư Khâm Thiên. Sỏ dĩ đám trẻ con quê thích được ra nhà bác Cả, bởi ở đây, thế
nào đám trẻ cũng được bác Cả cho đi xem xiếc...
Với riêng tôi, có chút khác. Nhà tôi, trước nằm trong
ngõ Trúc Lạc, thuộc phố Phó Đức Chính, tôi sống ở đấy từ lúc sinh ra đến năm 7
tuổi thì về quê. Thế nên, ký ức về phố phường luôn chập chờn trong tôi. Sau
này, lớn lên, đi học, cứ mỗi kỳ nghỉ hè, tôi đều đòi bố mẹ đưa tôi ra nhà bác
Cả, như để sống lại những năm bé tí mình còn ở phố. Ra chơi nhà bác Cả, thường
là nửa tháng. Mỗi lần như vậy, tôi thích lắm, bởi không chỉ đám trẻ con bác, mà
ở trong khu vực nhà bác Cả, mặt phố, sân sau, ngõ trong, cả thẩy có hơn chục
gia đình, nên rất đông trẻ con. Các nhà ở đây gắn bó với nhau, bởi chiến tranh
thiếu thốn và chết chóc, bởi cả khu dùng chung một vòi nước, một nhà tắm, một
nhà vệ sinh công cộng. Va chạm nhau cũng nhiều, nhưng rồi mọi chuyện đều xí xóa
hết. Ngày ấy, chỉ vật chất là thiếu thốn, chứ tình người thì thừa thãi. Chi
chục nhà, nhung hơn ba chục đứa trẻ, tha hồ mà vui đùa. Tuy không gian chật hẹp
của cái sân chung, lại bị chiếm dụng để các nhà đặt bếp than, rồi phi đựng nước
sạch, rồi khoảng không trên cao là chằng chịt dây thép phơi quần áo, thì đám
trẻ con vẫn biết thu xếp chỗ để chơi, các trò chơi dân gian ngày ấy như dánh
chuyền, nhảy dây, chơi bi, chơi ô ăn quan...
Niềm vui lớn nhất, ấy là được xem
xiếc, mà là xiếc trung ương hẳn hoi. Ngày ấy, cái rạp xiếc trung ương đã tọa
lạc ở một góc công viên Thống Nhất, đúng vị trí bây giờ. Như vậy, có thể suy
ra, nó tồn tại ở đấy đã hơn nửa thế kỷ nay. Nhà bác Cả tôi làm nghề giặt là
quần áo, nhà lại gần rạp Xiếc, chỉ ngang qua bến xe khách Kim Liên là đến. Rạp
Xiếc Trưng ương, toàn bộ quần áo biểu diễn của các diễn viên và nhạc công đều
mang thuê nhà bác Cả tôi giặt là. Vì là chỗ quen biết, thân tình, nên tất cả
trẻ con của bác Cả tôi, cùng hết thảy đám trẻ con ngõ đó đều được vào xem xiếc
miễn phí, tức là không phải bỏ tiền để mua vé. Không những thế, hầu như tất cả
lũ trẻ con cháu trong gia đình bên ngoại tôi, trong đó có tôi, mỗi mùa hè ra
chơi nhà bác Cả, đều được các anh chị con bác Cả đưa vào rạp, xem xiếc miễn
phí. Năm nào cũng thế, đến nỗi tôi gần như thuộc lòng các tiết mục xiếc, lâu
lâu rạp có một vài tiết mục mới, tôi cũng biết. Tôi còn thuộc cả điệu nhạc mở
màn và điệu nhạc kết thúc mỗi buổi diễn, mà mọi người gọi đùa bản nhạc đó là “nhạc tính số tiền”. Ra đấy chơi, tôi
nhanh chóng hòa nhập với đám trẻ lớn nhở ở đó, bởi dẫu sao tôi cũng đã sinh ra
và có một số năm sống ở Hà Nội, nên dễ thich nghi. Thỉnh thoảng, có đứa đùa
trêu tôi là “thằng nhà quê”, thì mấy anh chị con bác Cả lớn tiếng đứng ra bênh
vực tôi ngay.
Có một điều, mấy chục đứa trẻ ở đấy
đều phải nể phục tôi, ấy là tôi có tài kể chuyện. Những chuyện từ Tam Quốc, Tây Du ký, Thủy Hử được
tôi mang ra kể cho chúng nghe. Nhiều đứa trong số chúng nó, đã được xem phim “Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung” và “Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh”
rồi, biết chút ít về Tây Du ký nên
háo hức lắm. Buổi tối mùa hè, thời tiết nóng bức, vài chục đứa trẻ bắc thang
leo lên sân thượng tầng hai, trải chiếu ngủ đêm ở trên đó cho mát. Gió trời mát
rượi, lồng lộng trăng sao, tôi bắt đầu kể chuyện cho cả đám nghe. Ngày ấy, tôi
hầu như thuộc hết cả Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du ký và một chuyện kiếm hiệp có tên là “Lục Kiềm đồng” dài cỡ nghìn trang. Tôi cũng không hiểu vì sao, ngày
ấy, trí nhở của tôi lại tuyệt vời đến vậy. Khi kể, không những tình tiết câu
chuyện, tôi còn thuộc cả những đoạn hội thoại trong truyện. Thường mỗi tối như
vậy, tôi chỉ kẻ một, hai chương hồi gì đó. Cứ câu dầm thế. Có tối tôi mệt, hoăc
giả làm cao không kể, khiến cả bọn phải nằn nì, thì tôi mới kể. Vì thế, chúng
coi trọng tôi lắm. Đám con cái nhà bác Cả cùng lấy làm hãnh diện vì có một
thằng em ở quê ra, mà lại làu làu sử sách, truyện cổ như vậy. Có đến vài ba mùa
hè như vậy, mỗi khi tôi nghỉ hè ra chơi nhà bác Cả, đám trẻ hân hoan, và tôi
bỗng trở thành trung tâm của bầy trẻ ở ngõ phố ấy... Trong đám trẻ ngày ấy, tôi
có chú ý đến dăm đứa, trai thì hoặc nghịch ngợm hoặc có tài lẻ chi đó, còn gái,
lẽ dĩ nhiên là đứa xinh xắn dễ thương...
Trở lại câu chuyện trong đám giỗ bác Cả
tôi. Nhớ chuyện ngày xưa, tôi hỏi thăm mấy đứa trẻ ngày ấy mà tôi còn nhớ mặt
thuộc tên... Hỏi cậu H. thì bảo là đã chết. Anh chàng này dính vào buôn bán ma
túy, ra tù vào tội vài lần, rồi dính tiếp vào các cuộc thanh toán lẫn nhau.
Ngày ấy, H là đứa lớn nhất, khỏe mạnh và táo tợn, có lần, tôi làm cao không kể
chuyện, H nài tôi không được bèn dọa “Mày
không kể, tao bê mày lên rồi lẳng mày từ trể nóc nhà xuống đất”, khiến tôi
sợ mà phải kể... Hỏi tiếp đến B. Gái, lại nghe bảo, cũng bệnh tật mà chết vài
năm nay rồi. Cậu B này ngày ấy tuổi ngang bọn tôi, nhưng phổng phao như người
lớn, da trắng môi đỏ bảnh trai thư sinh và đặc biệt điệu bộ và cách nói năng
như con gái. Vậy nên, cậu ta mới có biệt danh là B. Gái. Lũ trẻ chúng tôi hồi đó chưa hiểu gì về tính lưỡng giới,
chỉ nhìn điệu bộ bên ngoài mà gọi thế thôi. B. Gái ít hòa nhập, cậu ta có tài
xiếc ảo thuật, nghe nói sau này có đi biểu diễn ảo thuật một thời gian, và cũng
có vợ con hẳn hoi... B. Gái có một đứa em gái, cũng tên H, khá phổng phao xinh
xắn. Mỗi khi kể chuyện, tôi hay nhìn vào gương mặt hồn nhiên của cô bé này. Cô
bé sớm dậy thì, bố mẹ mất cả, lớn lên chút, loanh quanh thế nào dính chuyện có
thai với cậu H ngổ ngáo, buộc thành đôi, nên duyên vợ chồng. Khi H dính chuyện
ma túy thì vợ H thành người phân phối lẻ. Chồng tù thì vợ được cho tại ngoại để
nuôi con. Giờ chồng chết, cuộc sống của gia đình họ bươn chải, vất vả lắm...
Hỏi tiếp đến cậu Th, thì nói, nhà ấy đã chuyển đi nơi khác, vì góc phố nơi có
nhà của Th. đã được sang nhượng cùng mấy chủ hộ khác, để người ta lấy đất xây
bệnh viện tư nhân. Thảo nào, lâu nay mỗi khi ngang qua góc phố ấy, tôi thấy một
bệnh viện tư mọc lên. Cái cậu Th. này xưa là cậu bé tốt tính. Nhà Th. có một
chiếc xe ngựa kéo, bố cậu ta chuyên nghề chở thuê bằng xe ngựa. Ngày ấy, ở phố,
nuôi một con ngựa thồ là chuyện không dễ chút nào với những phiền toái như
chuồng nhốt, phân thải, cỏ rả làm thức ăn cho ngựa. Mỗi khi tôi kể chuyện kiếm
hiệp, cậu chàng nghe chăm chú đến há hốc mồm, khuôn mặt thì mừng vui lo âu,
biểu cảm theo tình tiết câu chuyện. Cậu ta hay rúi cho tôi khi thì thanh kẹo
lạc, lúc mấy cái kẹo vừng, quà bớt lại mỗi khi cậu chàng theo bố áp tải xe
ngựa...
Những đứa trẻ ngõ phố nhà bác Cả tôi
ngày ấy, mỗi tính mỗi nết, sau mỗi cuộc đời số phận. Vài đứa đã thành sương
khói hư vô cả rồi. Ngẫm nghĩ mà buồn. Nhưng chẳng thể ước ao một cách vô lý, ấy
là con người ta cứ mãi trẻ con, và cuộc đời cứ mãi gian khổ để mà người ta
thương yêu, đùm bọc nhau!... Đoạn mặt tiền phố ít thay đổi, nhưng cả hai góc
phố mỗi đầu, đều đã được người ta trưng mua để xây dựng công trình to hơn cho
mục đích kinh doanh. Thế gian biến cải vũng lên đồi kia mà. Chín anh chị em con
của bà ngoại tôi, đã non nửa đi vào cõi xa xăm, mấy cậu dì út cũng đã gần tám
mươi tuổi. Kể từ ngày ấy, đã già nửa thế kỷ trôi qua còn gỉ. Mấy anh chị em con
bác Cả và cái thằng tôi bé con hay chuyện ngày ấy, giờ đầu đã bạc cả rồi, và
mỗi khi có dịp gặp nhau, quây quần, nâng ly rượu, lại bồi hổi nhắc chuyện ngày
xưa !...
Nhớ làm sao,
bữa bún chả chiều cuối năm của mẹ.
Trong các món ăn chế từ bún, tôi thích
nhất món bún chả.
Sở thích này, với riêng tôi, có nhiều
nguyên nhân.
Trước hết, cứ tạm coi, sở thích như
một khái niệm đi, để ta bắt đầu từ trực quan sinh động. Cái mùi chả nướng, tẩm
ướp rồi quạt trên than hoa, nó mới sinh động, hấp dẫn làm sao! Quả là, tôi khó
tìm được loại mùi vị nào tương đồng để đem so sánh. Nhưng thôi, chẳng cần so
sánh làm gì, chỉ biết, mùi vị ấy quyến rũ lắm lắm. Bún, chả, rau thơm, chấm với
loại nước chấm pha chuyên dụng, tất cả hòa quện, kích thích các loại giác
quan... Tuyệt làm sao. Riêng tôi, thích chả miếng, chấm với nước mắm cốt, không
pha phách gì, thêm chút tòi giã, là ngon nhất.
Từ bún chả trực quan sinh động, đến
bún chả trong văn chương. Người Hà Nội cũ, hay hết thảy những ai yêu văn chương
xứ ta, biết đến những áng văn trữ tình của Thạch Lam, sách “Hà Nội, 36 phố phường”, ông ca ngợi món
bún chả trong chương sách tả về hàng quà: “...
Người Hà Nội, ăn thì ngày nào cũng ăn, nhưng thường không để ý. Nếu chúng ta về
ở tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà ở
Hà Nội ngon là chừng nào. Cùng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, thế mà
sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm
ngon đi...”. Vậy nên, bún chả Hà thành ngon, xứng với câu ca, “Ngàn năm bảo vật đất Thăng Long/ Bún chả là
đây có phải không?”... Cũng như người ta, ai đã từng đọc tản văn “Bóng
xưa” của nhà văn Pháp, Anatole France (Giải Nobel Văn học năm 1921), thì khi bước chân vào vườn Lucxamburg
lúc thu sang, dạo gót và ngắm nhìn những chiếc là vàng rơi rơi rồi đậu trên vai
các pho tượng trắng, mới cảm hết sự thơ mộng và tuyệt diệu làm sao!...
Với riêng tôi, xin nhắc lại điều này,
món bún chả tuyệt ngon, còn bởi, ký ức về bữa bún chả chiều cuối năm của mẹ
tôi...
Ngày ấy, từ gần nửa thế kỷ trước. Gia
đình tôi chuyển từ Hà Nội về định cư ở quê, thuộc Hưng Yên, cách Hà Nội hơn hai
chục cây số. Ở quê, gia đình tôi lấy việc làm bánh cuốn, bánh đa và mì gạo làm
kế sinh nhai. Thời chiến tranh, gian khổ và thiếu thốn mọi bề, mỗi dịp năm hết
tết đến, mọi nhà, lo sao có được cân giò, nồi thịt đông, liễn dưa hành, chục
bánh chưng đã bạc mặt rồi. Nhà tôi cũng thế. Song có chút khác, ấy là, chiều
tất niên, năm nào cũng vậy, mẹ tôi làm món bún chả. Mẹ tôi, tuy sinh ở quê,
nhưng lớn một chút là ra Hà Nội, làm quán cơm với người nhà ở khu phố cổ, nên
tài nấu nướng của mẹ tôi khá lắm. Món bún chả, thường làm không khó, nhưng để
chế biến cho ngon, kiểu bún chả Hà thành, thì cũng phải có chút tài và khéo léo
riêng. Thường là sáng ba mươi tết, nhà tôi vẫn nhóm lò than, làm mẻ bánh đa mì
gạo cuối năm. Đến tầm trưa, cơm ăn tạm qua loa, dẹp hàng họ sang một bên, cả
nhà bắt tay vào làm cỗ tết. Bố tôi cời than cũ, thêm than mới, bắc nồi đồng to
luộc bánh chưng. Còn mẹ tôi, bắt tay làm cỗ tất niên, cùng với xôi, gà và vài
món xào nấu măng miến, thứ đặc biệt hấp dẫn cả nhà, ấy là bún chá. Nguyên liệu
thịt lợn để làm món chả, được chuẩn bị từ trước, duy có bún thì phải chờ mua. Ở
quê tôi, ngày ấy, ít nhà làm bún, nên phải chờ hàng bún rong từ xã bên cạnh
sang bán. Thông lệ, sáng ba mươi tết đến tầm ngang trưa, những hàng bún rong đi
các xóm, làng rao bán, hoặc đổi. Không có tiền mua, thì bún đổi lấy thóc hoặc
gạo theo tỷ lệ nào đó. Mấy chị em chúng tôi, cứ vừa giúp việc bố mẹ, vưa dỏng
tai lên chờ nghe tiếng rao đổi bún. Có được bún rồi, mới thở phào hết lo. Nhớ
là, có năm duy nhất, đến tận giữa trưa ba mươi tết, vẫn không có hàng bún rong
nào đi qua làng, mà cũng chẳng biết tìm mua ở đâu. Cuối cùng, mẹ tôi sáng tạo,
chữa cháy bằng cách, lấy bột tráng bánh đa, pha loãng ra, tăng tỷ lệ hàn the
cho thêm độ dai, tráng thành bánh đa, để nguội, rồi dùng dao thái thành sợi,
thay cho bún. Vạn bất đắc dĩ, phải làm thế, đương nhiên, giả bún thì không ngon
bằng bún thật, nhưng chẳng sao, miễn là có món bún chả. Như vậy, lại rất đặc
biệt. Bữa bún chả ấy, lúc ăn, mới thấm nỗi niềm của sự gian khó và thiếu thốn.
Đấy là bữa bún chả nhớ đời.
Lại tiếp chuyện bún chả. Sẵn bếp than
hồng, lưng chiều, mẹ tôi đem than hoa nướng cho bén lửa, rồi gắp ra chiếc chậu
nhôm, quạt chả. Cả mấy chị em quây quanh phụ giúp, thực ra là thèm cái mùi chả
nướng quyến rũ mà thôi. Đã có lần, thèm quá, không chịu nổi, tôi lén nhón một
miệng đút tọt vào miệng, chả còn nóng xuýt bỏng mồm. Mẹ tôi thấy, nhưng chỉ
mắng yêu “Này con, không khéo bỏng mồm
bỏng miệng đấy... Với lại, chả chưa lấy phần riêng ra để cúng đâu, cấm ăn trước
các cụ... Mà này, con trai xem cho biết thôi, chứ không có chuyện quanh quẩn bếp núc đâu nhé,...
phải có chí khí mà quan tâm những việc lớn, để sau này lập thân lập nghiệp, chứ
con?”. Mẹ tôi mắng khéo vậy, rồi bà cười, nụ cười ứa nước mắt. Lại một bài
học nhớ đời!...
Những năm sau đó, khi bố tôi mất và
người chị lớn về nhà chồng, nhà chỉ còn ba người, mẹ, người chị gái kế trên và
tôi cùng theo học đại học, tết hàng năm, theo nếp cũ, mẹ vẫn làm bún chả Có điều, đời sống bớt khó khăn, mẹ chủ động
làm nhiều, trước là để cúng các cụ và bố tôi, sau là cả nhà quây quần thưởng
thức. Có thêm cả nhà chị gái lớn, chồng con chị ấy nên bữa bún chả chiều cuối
năm đông vui, rôm rả hơn.
Có một cái tết, tôi nhớ lắm, ấy là tết
năm 1987 sang 1988. Khi ấy, tôi vừa chuyển từ An Giang về Hà Nội, làm báo
chuyên nghiệp ở Đài Tiếng nói Việt
Sau này, tôi lập gia đình chưa được
bao lâu thì mẹ tôi ốm nặng rồi mất. Tết đầu tiên, khi tôi có nơi ăn chốn ở
riêng, tôi nhắc vợ, bữa cơm tất niên, kiểu gì cùng phải làm món bún chả. Tôi
giải thích lý do cho vợ nghe. Thật là trùng hợp, gia đình bên vợ tôi đông những
tám anh chị em, và bữa cơm chiều ba mươi tết nào, mẹ vợ tôi cũng làm bún chả.
Ngẫu nhiên mà hai nhà có nếp giống nhau. Thế là từ bấy, bữa cơm tất niên hằng
năm, không cần phải ai nhắc, định vị là món bún chả...
Thực lòng, đã nhiều năm nay, cỗ tết có
đầy đủ, sơn hào hải vị gì đi chăng nữa, với tôi, ngon nhất và ý nghĩa nhất, vẫn
chỉ là bữa bún chả chiều tất niên!...
Nỗi khát sa mưa
và ký ức mùa nước nổi.
Sáng ra, trời mát trong, dìu dịu hơi
thu với chút hanh heo. Nắng nhẹ nhàng lan tỏa. Lập Thu đã hơn nửa tháng nay mà
trời vẫn nồng oi khó chịu. Vẫn biết là thời tiết lúc chuyển mùa là thế, nhưng
lòng vẫn thắc thỏm đợi thu về. Và rồi, sau những ngày hòa vào sự ồn ào bận rộn
với lễ kỷ niệm ngày thành lập cơ quan mình từng có hơn ba chục năm công tác,
giờ là chút lắng lại. Đợt gió mùa đầu tiên đã tràn về, thoạt đầu là cơm mưa
giông chiều hôm trước với ì oàng tiếng sấm và mưa xối xả, trắng trời trắng
đất...
Ngày mới lên, bên ly cà phê đen, chầm
chậm nhấp môi, theo dõi một phóng sự hình về mùa nước nổi miền Tây
Ai cùng biết, phương
Tôi đã sống như thế trong nhiều mùa
mưa nắng miệt châu thổ Mê-kông. Mỗi mùa khô, sáng ra, vầng mặt trời đỏ ối lên
cao, cả châu thổ mênh mông ngàn ngạt bầu không khí khô nóng khô, như chiếc chảo
rang khổng lồ úp xuống đồng bằng, chút hơi ẩm sương đêm trên cây lá nhanh chóng
bay hơi tan biến vào thinh không nắng gió. Những con đường lớn nhỏ, mỗi lần xe
qua bốc theo làn bụi đỏ như những cơn giông bụi vần vụ lên cao mãi không tan
nổi. Người ta giải khát mình bằng những ly nước trà, cà phê loãng toẹt đầy
những đá lạnh. Một khi người ta khát khao chờ đợi thì thời gian lại như ngừng
trôi. Mùa khô nhích từng bước chậm chạp tựa rùa bò để đi nốt quãng ngày cuối
cùng cùa mình. Nó làm người ta sốt ruột đến mức mỗi chiều muộn, cảm nhận, mặt
trời dùng dằng, nấn ná mãi chẳng buồn lặn... Thèm cả chút hơi đêm dịu bớt len
vào giấc ngủ trằn trọc vì nóng bức.
Những tháng này này, phải lang trên
đường xuyên qua những làn bụi, hoặc ngồi trên những chiếc xuồng tam bản, võ
lãi, bo bo chạy trên kinh rạch cạn nước sục những váng phèn đỏ, lại càng thèm
mùa con nước mênh mông. Lâu lâu, nghe tin đâu đó, cháy rừng tràm rừng đước do
nắng nóng và sự bất cẩn của những người gác kèo đốt ong, mà lòng người như có
lửa đốt...
Tôi sống những tháng ngày như thế.
Cùng đã bước đi trên mặt đồng khô hạn nứt nẻ, đất nhiễm phèn, toác ra cứng như
sắt, theo chân những người dân Khmer Nam bộ từ các phum sóc đi lấy nước về
dùng. Những giếng nước ngoài đồng, cạn tận đáy, dẫu liên tục rịn ra thì vẫn
không xuể, làm mọi người xúm đông, chờ đến lượt mình, vục từng ca nước mát chắt
vào thùng chứa mang về nhà. Mạnh nước ngầm chảy ri rỉ sốt ruột, ngày đêm như vắt kiệt lòng đất để
mang lại chút nước mát cho con người. Có cảm giác, nước ngọt đường lấy từ ngọn
cây thốt-nốt trên cao kia còn nhiều hơn cả nước giếng đất ngầm ... Mùa khô là
thế đấy.
Tôi cứ tự hỏi, những kẻ không may lạc
lối trên sa mạc hay trôi dạt giữa đại dương mênh mông, thì cơ cực khổ sở thế
nào, và nỗi thèm khát nước ngọt khiếp nhược ra sao, chứ nỗi khát sa mưa của dân
Miền Tây ngày ấy thì tôi từng chứng kiến và cảm nhận được ...
Và sự kiên nhẫn chờ đợi, nỗi khát sa
mưa của con người và cỏ cây rồi cũng được đền bù, khi mùa mưa đến với những cơn
giông đầu mùa xuất hiện thưa thớt, và mỗi dầy thêm...
Mùa mưa, mùa nước nổi, đến sớm bao
nhiêu, thi nỗi lo càng bớt... Khác miền Bắc, mưa lũ đột ngột, xối xả, tràn lấp
và xô đổ tất cả, rồi cuốn phăng đi, những đồi núi, cầu đường, nhà cửa, tài sản,
con người, mà nhiều khi, chỉ chốc lát, là mất tất... lũ miền Tây dù có lên
nhanh thì cùng vẫn là nhẹ nhàng, như an ủi, vỗ về con người ta. Vậy nên, dân
miền Tây mới gọi mùa sa mưa là mùa nước nổi. Nước lên đến đâu, nhà cửa và con
người nổi lên theo đó. Chỉ có trong kinh rạch, sông ngòi, đồng ruộng mênh mông
nước ấy, là nguồn tài sản vô kể do thiên nhiên ban tặng.
Sau vài năm lũ muộn và nhỏ, năm nay Mậu Tuất, lũ sớm
trước cả tháng trời. Hễ cứ được mùa nhãn là mưa nhiều nước to, người xưa truyền
vậy, cấm có sai. Mưa nhiều, cả Bắc chí
Cá linh, loài cá tự nhiên cho đến nay,
vẫn không thể nuôi được. Nguồn gốc loài cá này là từ Biển Hồ bên xứ Cao Mên
(Campuchia). Đến mùa, cá mẹ đẻ trứng, rồi trứng cá nở thành cá bột, gặp đúng
mùa sa mưa, cứ thế, cá bột theo dòng nước trôi xuôi, vừa đi vừa ăn phù du mùa
mưa lũ mà lớn dần. Khi về đến sông Cửu Long xứ ta, thì cá linh đã lớn bằng đầu
đũa rồi, ấy là cá linh non. Cỡ này, cá linh ngon nhất. Người ta dánh bắt, chế
biến thành các món ăn, và món nào cũng tuyệt cả. Phổ biến là cá linh tẩm bột
chiên ròn, ăn nhai cả xương, ngon lắm. Rồi đó, đem nấu canh chua, hoặc bỏ vào
lẩu, lâu dài hơn thì chế mắm cá linh. Cá linh để lớn to bằng ngón tay cái, chân
cái là già rồi, khi ấy chỉ đem kho tiêu hoặc làm mắm là ngon.
Ngày tôi còn ở An Giang, ấy là từ hơn
ba chục năm trước, mỗi mùa nước nổi, cá linh nhiều cơ man, các chợ lớn nhỏ từ
Long Xuyên về Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, đâu đâu người ta bán cá
linh, nhiều vô kể. Cá linh nhiều đến nỗi rẻ lắm, ê hề, vãn chợ, không ai mua,
nên mới có câu vi von “rẻ như cá linh”.
Nhưng rẻ thế cũng đâu có hè hấn gì. Người đánh bắt, bán cứ bán thế thôi, bán
không xuể, vui lòng mang vể đổ vào chum vại làm mắm, bán dần. Ngày nào, bữa
nào, cũng cá linh, ăn diết sinh chán. Chẳng bù cho bây giờ, cá linh là đặc sản
quý hiếm. Hiếm là bởi, lũ nhiều năm nhỏ và muộn vì thủy điện đầu nguồn chặn
nước, và nữa, nhiều diện tích bị ngăn bằng đê bao để gieo trồng lúa, làm diện
tích đồng bằng ngập nước hẹp lại, giảm môi trường thủy sinh. Lạm dụng thuốc trừ
sâu, hủy diệt môi sinh, cũng là một nguyên nhân. Con người đông lên gấp bội,
nên ngoài khai thác cho nhu cầu dân sinh tại chỗ, cá linh và một số sản vật
khác còn bị săn lùng, khai thác triệt để cho mục đích thương mại, phục vụ thú
ăn của dân đô thị ... Thế nên, cái gì thuộc về tự nhiên đều dần nên hiếm cả...
Nghĩ mà buồn!...
Biết là vậy, nhưng để chuyển biến tư
duy bảo vệ môi sinh thành việc làm cụ thể, thật khó lắm thay. Nói vậy, để trở
lại một quan điểm mang tính chiến lược, ấy là, hãy trả lại miền sông nước Tây
Vẫn đang mùa nước nổi, trong khi chờ
đợi sự chuyển biến thuộc tầm quốc kế dân sinh, thì hãy biết chia vui cùng bà
con miệt vườn miền Tây sông nước, với tràn trề sản vật đặc trưng mùa nước nổi
!...
Nhận xét
Đăng nhận xét