Nơi tận cùng xứ sở,

 


Lưu trữ bản thảo tập sách, 

@@@

Nơi tận cùng xứ sở

 

 NGUYỄN CHU NHẠC,

CHỈ LỬA LÀ RẤT THẬT

( Thay cho Tựa )

 

 “Chỉ lửa là rất thật

Bừng lên cháy hết lòng

Em một thời má đỏ

Ta một thời long đong”

Chẳng hiểu, Nguyễn Chu Nhạc có ngụ ý cho đấy là “tuyên ngôn” hay không nhưng việc anh chọn khổ thơ đó để in ở bìa 4 tập thơ mới của mình và anh cũng lấy luôn tên của bài thơ đó để làm tên chung cho cả tập thơ thứ 6 của mình, cũng khiến tôi phải đoán già đoán non “người báo, người văn, người thơ” này có “ứng” vậy không? Mà ứng hay không thì chưa biết nhưng có điều chắc chắn rằng với “lửa”, với “long đong” thì chừng như thấy đúng.

Lần đầu tiên, chúng tôi gặp lại nhau sau mười sáu năm xa mái trường phổ thông. Mà lần gặp lại ấy cũng đã gần ba mươi năm rồi.

Nguyên là, sau tết năm 1975 thì tôi đi bộ đội liền tù tì hơn mười năm. Cùng đó, Nguyễn Chu Nhạc đỗ vào trường đại học nông nghiệp, và tốt nghiệp, anh đi một mạch vào An Giang công tác. Lần gặp lại nhau khá bất ngờ và bất ngờ đến nỗi tôi chẳng kịp nhận ra người bạn học cũ nữa. Số là, buổi ấy, mấy chúng tôi trong nhóm văn chương “Bông hồng vàng”  rủ nhau đến Nhà Thái Học trong Văn Miếu ngồi đàm đạo thơ văn cho nó sang (như cách nói vui của cánh viết văn trẻ hồi đó). Nguyễn Chu Nhạc được mời đến và người chủ trì cuộc vui đã giới thiệu ngắn gọn “Nhà văn Nguyễn Chu Nhạc nói thấy nhóm anh em bọn mình tụ họp nên đến chơi cùng”. Tôi tròn mắt nhìn cái “ông” vóc người nho nhỏ nhưng đã là “nhà văn” ấy rất ngưỡng vọng. Tiếp đó, người chủ trì cuộc vui chỉ tay lần lượt giới thiệu từng người, người ấy chỉ tay vào tôi định nói thì Nguyễn Chu Nhạc cười thân thiện “Khỏi phải giới thiệu. Tôi với ông này học cùng nhau”. Kinh ngạc. Tôi cố vắt óc nhớ lại xem mình có “vinh hạnh” được học cùng với ông “nhà văn” này ở đâu. Chịu. Nguyễn Chu Nhạc không nhận ra điều đó. Anh vẫn nói cười vui vẻ trước những câu hỏi đầy thán phục của “bọn tập viết”.

Mãi mấy năm sau, khi về trường cấp 3 Bần Yên Nhân (Mỹ Hào, Hưng Yên) họp khóa phổ thông tôi mới “giật mình”. Thì ra cái thằng Nhạc bé con con nhưng là học sinh giỏi văn cấp tỉnh, học sinh giỏi văn toàn quốc năm nào đúng là học cùng lớp với tôi thật. Đâu như lứa học sinh giỏi văn toàn quốc ấy có Trần Đăng Khoa, có Trịnh Bá Ninh, có Trương Nhuận và có mấy người nữa tôi đều quen biết. Tôi bắt tay Nguyễn Chu Nhạc và ngượng nghịu nói câu “đánh lảng” về “sự quên bạn”  hôm nào.

Mà cũng tại tôi, thường xuyên đọc báo hồi cuối những năm tám mươi đầu những năm chín mươi thấy dường như tuần nào cũng có bài tản văn của tác giả Nguyễn Chu Nhạc. Khi thì ở báo Hà Nội mới, khi thì trên báo Nhân dân chủ nhật, lúc lại báo Người Hà Nội... thấy hay hay mà tại sao tôi lại không quan tâm đến tác giả ấy là người như thế nào. Những bài tản văn ngăn ngắn, xinh xinh, có giọng điệu dễ tiếp nhận, diễn đạt chân thật, nội dung lại nhẹ nhàng, gần gũi cứ như thấy làng thấy xóm vậy, tôi rất thích thú. Thích thú quá đến nỗi tôi tự cho rằng người viết những bài tản văn thế này chắc chắn phải “xa xôi” lắm nên mình đâu có vinh hạnh được quen biết. Người ta “giỏi” thế kia mà.

 

Hồi học phổ thông tôi vốn nghịch ngợm nên nói đến học là “lảng”, vậy thế, dù rất biết Nguyễn Chu Nhạc học văn giỏi, nhưng tôi cũng chẳng  mấy “mặn mà”, hì, bọn lười học là như vậy đó. Cứ nghĩ, kết thân nó, có khi lại cho là mình “nhăm nhăm” liếc sang chép bài; Kết thân với nó hóa ra là mình hết được nghịch được chơi ư? Nghĩ thế, nên tôi với Nguyễn Chu Nhạc cũng sơ sơ, là học cùng lớp mà thôi. Kể cũng lạ nhỉ, Nguyễn Chu Nhạc học văn rất giỏi, sinh ra ở Hà Nội, về quê học sơ tán vậy mà chẳng hiểu sao cậu ta lại thi vào học ngành nông nghiệp? Không lẽ, cái chữ “nghiệp” trong nông nghiệp lại ứng với “lửa” và với “long đong” như Nguyễn Chu Nhạc “tuyên bố”. Ồ, vậy mà chuẩn không cần chỉnh. Này nhé: “Ngô đang mùa vào hạt/ mặc đá trơ dưới chân/ nắng lửa trên đầu/ đêm đêm/ đá toát mồ hôi/ cùng người rạo rực...”.

Ở An Giang đâu như dăm bảy năm gì đó thì Nguyễn Chu Nhạc bất ngờ “rẽ ngoặt” cuộc đời. Chàng “kỹ sư canh nông” người bé nhỏ, những tưởng an phận với ruộng với đồng thuần nhất chợt thành “ông nhà báo”. Mà lại bước một bước dài từ xa tắp tận vùng Tứ giác Long Xuyên ra Thủ đô Hà Nội mới tài. Nguyễn Chu Nhạc về đầu quân cho Đài Tiếng nói Việt Nam và cuộc đời nhà báo đã ứng với “long đong” thật. Làm báo nên anh được đi nhiều nơi, được đến nhiều vùng. Cũng có thời kỳ, Nguyễn Chu Nhạc đi thường trú mấy năm ở Đà Nẵng nữa kia.

Đó là những tháng năm “cây bút” Nguyễn Chu Nhạc tỏ ra sung sức. Tôi đã “trách nhầm”, khi cho rằng, anh quyết định thi vào đại học nông nghiệp là “sai lầm”. Thì ra, tôi đã thiển cận trước những bước đi của cuộc đời. Gắn bó với ruộng đồng, mê mải với những lần đi cơ sở tìm hiểu và viết báo, đó là những thời gian “vàng” để anh thu thập thông tin, lưu trữ tư liệu, để viết văn. Tôi không muốn đề cập nghề báo của Nguyễn Chu Nhạc bởi đơn giản đã là nhà báo thì dĩ nhiên phải làm báo, đấy là trách nhiệm, là việc “làm công ăn lương”, mà tôi muốn nói về văn chương của anh. Cái gốc năng khiếu học văn của cậu học sinh giỏi văn năm nào, chỉ “tạm lánh” đâu đó, để rồi gặp đất là bùng lên mạnh mẽ, bùng lên dữ dội, và cuối cùng là Nguyễn Chu Nhạc dấn thân sâu sắc vào con đường văn chương đầy long đong và cũng đầy lửa nóng.

Thì ra, “Giữa những ngày giá rét/thèm chút lửa bếp quê/thèm bát canh dưa nóng/cá niêu đất kho khê/ Thèm ngắm em áo ấm/khăn choàng đỏ bờ vai/khẽ nghiêng đầu tư lự/ta mơ về trẻ trai” lại là câu nói tự đáy lòng. Thoạt đầu, tưởng chỉ là sự “tiếc nuối”, ấy vậy mà nó lại trở thành “mục tiêu” phấn đấu của anh. Nguyễn Chu Nhạc viết báo để nuôi mộng viết văn và viết văn để khẳng định việc viết báo. Còn nhớ, có lần, Nguyễn Chu Nhạc nói vui nhưng rất thật rằng “Ông ạ, viết văn sống làm sao được. Viết báo lấy tiền để làm vốn cho viết văn”.

Từ năm 1993, Nguyễn Chu Nhạc bắt đầu tập hợp những bài tản văn, những truyện ngắn đã viết và đã in để in sách. Lại nữa, chẳng hiểu “tính” thế nào mà anh chọn một cái tên cũng rất “quê mùa” nghĩa là cũng rất “long đong” cũng rất “lửa cháy” để đặt tên cho cuốn sách đầu tay. Tập truyện ngắn “Đêm nguyệt thực” ra đời với những câu chuyện cứ như lấy từ gan ruột mình, lấy từ quê mình, lấy từ trường mình ra vậy. Văn xuôi, in mấy tập, song phải mãi cho tới năm 2011, Nguyễn Chu Nhạc mới cho in tập thơ đầu tiên. Tập thơ “Chút thu” này lại cũng cho ta cái cảm giác hình như cái ý nghĩ “long đong và lửa” vẫn lẩn khuất đâu đó. Kể từ đó, anh làm thơ nhiều hơn, xuất bản thơ đều đều. Thơ của Nguyễn Chu Nhạc giản dị và chân thật và dường như, anh gắn liền thơ với mùa thu. Phải chăng mùa thu, mùa chim làm tổ lại chính là “cái mùa” cho thơ nẩy nở. Một loạt các tập thơ được in sau đó đều có “thu” mới biết Nguyễn Chu Nhạc dù có long đong hay lửa nóng thì vẫn “chung tình”. Chuyện chung tình ở một thi nhân quả là “xưa nay hiếm”? Những tên sách, đại loại như “Cho thu dung dằng thêm chút nữa” hay “Một chiếc lá vàng động cả thu”, rồi “Ừ nhỉ, thu thật rồi đấy” ta đều thấy đâu đó bóng dáng của hoài niệm và thương nhớ.

Phải đến năm 2017, năm mà lứa chúng tôi đều đến tuổi nghỉ hưu thì Nguyễn Chu Nhạc cho in tập thơ “Chỉ lửa là rất thật”. Tôi đã thật thà đồ rằng, hình như anh muốn cho ta thấy ở cõi đời này mọi thứ đều “phù phiếm” mọi thứ đều thành “hư vô”; chỉ có lửa mới là thật. Đúng quá rồi, bạn thơ của tôi ơi: “Rồi thì người cũng đến/mang theo cả mùa đông/mặc ai ngoài kia lạnh/ riêng ta ấm trong lòng”. Đúng quá rồi, Nhạc ạ: “Ta hiểu rồi như lửa/ nóng mấy cũng tàn phai/ nhưng giờ chưa phải lúc/ kệ mùa đông bên ngoài”.

Tập “Chỉ lửa là rất thật” khá dầy dặn cả về số trang và cả về số bài, đã cho thấy, dường như có sự “tổng kết” ở đây? Cũng cho ta thấy sự “long dong” bởi những chuyến đi..., cho ta thấy “lửa” bởi những đau đáu trong hồn thi nhân. Dường như, ở đây, Nguyễn Chu Nhạc muốn đưa ra những ghi chép thực tế của mình, muốn “thơ hóa” mọi ngóc ngách của nghề báo, bởi bóng dáng cuộc sống với từng hơi thở đậm nét trong nhiều câu thơ?

Chỉ lửa là rất thật” cho ta thấy một Tây Bắc mờ sương, một Tây Nguyên nắng gió, một xứ Huế mộng mơ, thấy hình bóng quê nhà ở “Cuối năm ta lại về quê”, những hồi ức tuổi thơ chưa khi nào nguôi ngoai trong tâm tưởng, để rồi, thấy nhuốm vẻ long đong. Ta còn thấy những hoa sen, hoa đại, hoa đào rừng, thấy hoa lộc vừng đỏ, hoa gạo đầu làng... những màu hoa nhường ấy cũng toàn là màu của lửa...

Thế mới biết “tuyên ngôn” của Nguyễn Chu Nhạc là thật. Lời nói của anh thật như là lửa vậy. Ngọn lửa tâm hồn đang bốc lên, những mong được cháy mãi...

Giờ đây, ngọn lửa thật ấy, lại bập bùng đâu đó, nơi cuốn văn xuôi mới mà Nguyễn Chu Nhạc đang cho xuất bản, tập “Ở nơi tận cùng xứ sở”. Hãy chờ xem, ngọn lửa chân tình ấy bừng cháy !...

 

 

 

Sống chậm,…

 

Tôi bắt đầu nghỉ hưu, sau gần 40 năm công tác, và tròn 30 năm làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV).

Mặc dù ngay sau đó, tôi hợp đồng làm việc với Đài Truyền hình kỹ thuật số (VTC), một thành viên lớn thuộc đại gia đình nhà VOV, với tính chất công việc là thành viên Tư vấn và Hội đồng nghiệm thu chương trình của VTC (cụ thể là VTC3-Kênh Thể thao- Văn hóa). Công việc đơn thuần chuyên môn nghiệp vụ báo chí mà thôi. Tuy vẫn là việc hàng ngày, song so với công việc trước đây thì giãn ra nhiều. Cũng xem là thư nhàn hơn. Ấy, còn là một cách sống chậm... Sống chậm, nhưng cũng phải làm quen, thậm chí, phải tập để thích nghi,...

Tôi lại bắt tay làm một cuốn sách mới, tạm lấy tên là Rong chơi với một chữ Tình, nhẩn nha chuyện cũ, chuyên mới, ghi chép lại những việc, sự chiêm nghiệm sau nhiều năm làm báo,... Hẳn sẽ có người hỏi về cái tên sách, rong chơi ư, và sao chỉ với một chữ TÌNH ?...

         Nghề làm báo, suy cho cùng, cũng là một cuộc rong chơi dài, có điều, sự rong chơi với tinh thần trách nhiệm, ... Và trong cuộc rong chơi vô kỳ hạn ấy, nếu thiếu đi một chữ Tình thì sẽ là vô vị,... Nó chỉ thú vị và bổ ích khi lòng ta ôm ấp một chữ Tình, ấy là cái tình của con người, trước là gia đình, bạn hữu, người thân, đồng nghiệp, và rộng ra là xã hội, con người với nhau; thứ nữa là cái tình với thiên nhiên cây cỏ...

 

Vâng, sống chậm...

Hãy tập cách sống chậm.

          Tôi đã nhủ mình như vậy.

          Đúng ra, tự lệnh cho mình cần phái như thế,

          Nửa năm trước, nhận cái thông báo mang tính khuôn mẫu, rằng từ ngày này, tháng này, năm này, ông ( bà )… sẽ nghỉ hưu, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, rằng từ nay, ông ( ba ) rút dần ra khỏi công việc công sở. v,v,,,  Trước đây với cương vị công tác của mình, hằng năm, mình phải ký nháy bao nhiêu văn bản như vậy. Giờ thì đến lượt mình, lẽ dĩ nhiên, người khác ký nháy cái văn bản gửi cho mình, Nhưng rồi đâu có được giãn công việc như tinh thần của thông báo.. Phần vì việc công sở luôn bề bộn, nhiều sự kiện lớn nhỏ, cả sự kiện trọng đại, mà mình vốn được tín nhiệm trong các kiểu công việc, sự kiện lớn, nên vẫn bị cấp trên chỉ định, thế là lại lao vào việc như thiêu thân. Công bằng mà nói, tự thân cũng chưa quen với sự nhàn rỗi. Gần bốn chục năm nay, lang thang đây đó, có bao giờ được thư nhàn đâu. Nợ cơm áo gia đình vợ con, nghiệp báo chí, văn chương đeo đuổi mà nên thế rồi,

          Đã nhiều năm rồi, sáng sáng, 7 giờ ra khỏi nhà, cho đến 7 giờ tối mới mò về đến nhà. Cuối tuần, ngày nghỉ, vẫn thường xuyên dính việc công. Năm này qua năm khác, mãi thành nếp, nay không dễ mà thay đổi thói quen ngay được.

          Một tháng, trước cái đích nghỉ hưu, cũng vậy. Anh em đồng nghiệp tứ xứ gọi điện í ới mời mọc, nể mọi người lại búc vé, bay vào với anh em, bè bạn. Gọi là đi chơi thăm thú đây đó, nhưng cũng lại đi quần quật, nhậu quần quật, còn mệt hơn ở nhà. Một sự vất vả kiều khác chứ đâu phải là thư giãn. Lại càng không phải là làm quen với cách sống chậm.

          Rồi còn nửa tháng, một tuần, thì hết ban này đến đơn vị nọ, nhóm này nhóm kia mời dự cơm chia tay. Nể nhau, lại ngồi nhâm nhi, trưa có, tối có. Vui đấy, nhưng cũng buồn đấy và thêm phần bề bộn. Lại nữa, cả thàng cả tuần, mỗi này tha lôi những đồ souvenir gần chục năm nay mua sắm, tích cóp, bày cả ở văn phòng làm việc tại cơ quan, nay mang về nhà, rồi xếp xếp đặt đặt, cũng ra chiều vất vả lắm. Cái sự mêt mỏi dồn lại,…

          Rồi còn một ngày. Ngày cuối tại vị ở công sở, lại phải ký tá giấy tờ, văn bản, ký biên bản bàn giao công việc cho người kế vị mình… Thêm nữa, đồ riêng tư còn gì thì tha nốt về nhà. Từ sang sớm, thông trua, đến tận 8 giờ tối mới xong. Bã người và trống rỗng.

          Bữa cơm tối tại gia, làm ly bia đá cho đớ háo. Nửa nằm nửa ngồi, cái remot tivi trong tay nháy liên tục, hết kênh này kênh kia mà chẳng buồn xem cái gì. Chợt nhớ, từ nay trở đi, mình sẽ phải thường xuyên xem các kênh của VTC, đặng để biết, vì ngay sau đây, mình sẽ trở thành một trong những chuyên gia tư vấn và hội đồng nghiệm thu chương trình của Đài này. Đảo một hồi, mấy kênh, ngó nghiêng, xem xét, và ngẫm nghĩ để tự đưa ra một vài nhận xét. Mỏi mắt, ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay…

Trở dậy, cũng đã khuya, làm vài việc vặt, rồi đi nghỉ.

Lâu lắm rồi, trước khi đi ngủ, không cần đặt chuông báo thức, mà tắt hết cả mấy chiếc điện thoại di động.

Ừm, động thái đầu tiên của lối sống chậm là đây chăng?

Hình như, ngoài trời trở gió ?

Đợt gió mùa đầu tiên của mùa đông này..

Lắc rắc mưa thì phải ?...

 

 

2. Như gió thoảng qua,

 

 

Có những lúc, ngồi một mình trong phòng làm việc, không muốn làm gì và viết gì. Lòng trống vắng không tưởng. Và thường, để phá vỡ cái trạng thái ấy, tôi hay vào mạng, tìm đến một vài địa chỉ quen thuộc của mấy trang cá nhân, đọc bài này bài kia, hy vọng lấy lại được cảm xúc, đặng làm việc tiếp; hoặc tìm sự khơi gợi mong manh, viết một chút gì đấy.

          Chiều nay, mới đầu đông mà trời khá lạnh. Ngoài hành lang gió lùa hun hút lạnh giá, trong phòng thì ấm áp. Sau giấc ngủ trưa thức dậy bởi tiếng ồn ào phía ngoài. Bâng lâng một lát mà chẳng biết và chảng thiết làm gì. Nhấp vài ngụm cà phê sáng pha nhiều còn dư, cho thêm nước ấm thành loãng, đầu óc vẫn u u minh minh. Thẫn người, và rồi theo thói quen,  lại tìm vào vài trang quen, bâng quơ lướt bất cứ bài viết nào…

          Nhìn các địa chỉ liên kết, nháy vào một cái nick theo cảm tính tức thì, đọc nhanh tên các chuyên mục, tên bài viết, bao quát tổng thể giao diện thấy khá bắt mắt, ấn tượng. Mở vài ba bài viết cụ thể, đọc thấy là lạ, hay hay… Đọc thêm chút nữa, đoán chủ bút là nữ giới. Thơ, tản văn, tạp bút, đủ món như một mâm cỗ đầy đặn … nhưng xem kỹ, những bài viết ở đây đăng cũng đã vài năm nay rồi. Lối viết bộc lộ cá tính, chữ nghĩa trau chuốt, có chút điệu đàng làm dáng, nhưng đầy tâm trạng. Tự nhiên lại đồ đoán chủ bút là người làm nghề gì, sống như thế nào nhỉ, Kiểu người như thế giờ không nhiều, nhất là vào thời cuộc xã hội xô bồ như lúc này. Và nữa, đã vài năm nay không đăng bài viết mới, vậy chủ bút đi đâu, có chuyện gì xảy ra không, giờ  ra sao, mà lại bỏ bê vậy?

          Tự nhiên, ta hình dung ra hang loạt những sự kiện ẩn sau mỗi bài viết đó; tiếp nữa, lại hình dung những sự kiện chuyển dịch kể từ đó cho đến nay; rồi cả quáng thời gian dài trở về trước của bài viết… Nghĩ thế và thấy thú vị… Là mình cứ tưởng tượng ra vậy, chứ thực ra cuộc đời đơn giản hơn nhiều. Lại chợt nghĩ, lâu lắm rồi mình không viết một truyện ngắn nào, kể từ khi xuất bản gần chục tập truyện ngắn, và truyện ngắn “Mỹ nhân mộng” về chuyện tình bất hủ thế gian giữa vua Đường Minh Hoàng và nàng Dương Quý Phi, một trong Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa kim cổ, thì ta cũng viết cách đây dăm năm rồi,...

          Và, lại muốn viết một cái gì đấy, …

 

 

3. Hóng chuyện, rồi bàn...

 

 

Vừa mới đây, tình cờ tôi xem một chương trình trên kênh truyền hình nọ, loáng thoáng thấy đưa tin, một chàng ca sĩ trẻ tuổi nhưng khá nổi tiếng, của làng giải trí Hàn Quốc, K-pop, tự tử chết vì trầm cảm.

Nghe vậy, thấy cũng chẳng có gì lạ, bởi mấy năm gần đây, nhiều ngôi sao ca nhạc, điện ảnh của Hàn Quốc, rồi Ấn Độ và Mỹ thi nhau tự tử, phần lớn vì áp lực công việc và xã hội, phần nữa, vì tự thân sa đọa trong cờ bạc, sex và nghiệp ngập, dẫn đến bế tắc, và kết quả là tìm đến cái chết để giải thoát cho mình…

Như thế đã là cũ rồi, bởi xưa hơn, thi hào trẻ tuổi tài năng của nước Nga, đã từng thốt lên câu thơ vĩnh biệt: “Trên đời này, chết là điều chẳng mới/ Nhưng sống, thật tình cũng chẳng mới gì hơn”. Hai câu kết bài thơ “Thôi chào nhé, bạn ơi, chào nhé” của C.A. Exenin (S.A. Yesenin) qua bản dịch của nhà thơ Anh Ngọc, bấy lâu nay đã được các nhà phê bình văn học, các nhà nghiên cứu về tâm lý xã hội mang ra phân tích, bàn luận, và chẳng có hồi kết. Song chắc chắn, nguyên nhân khiến một ai đó quên sinh, không thể nằm ngoài yếu tố tự thân trong điều kiện xã hội nhất định…

Tôi cho rằng, triết lý này, chắc là có từ xa xưa, chẳng qua đến Exenin, nhà thơ này diễn đạt bằng thơ mà thôi. Và ngay ở Việt Nam, nửa đầu thế kỷ 20, phong trào Thơ Mới, nhà thơ xứ ta, Xuân Diệu trong bài thơ “Giục giã” đã kêu lên: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” là gì. Lẽ chăng, triết lý ấy, to tát hơn là tư tưởng ấy, đã tác động đến xã hội nói chung, và trở nên ám ảnh với một số cá nhân đặc biệt nào đó ? …

Trở lại chuyện về chàng ca sĩ trẻ tuổi của làng K-pop tự vẫn, thì vẫn kênh truyền hình nọ đưa tin, đã có tới 8 người hâm mộ anh chàng này (fan hâm mộ, fan cuồng), bắt chước thần tượng của mình, tự vẫn chết theo. Đương nhiên, một ai đó lấy cái chết cho sự tự giải thoát, họ có lý do của mình, nhưng một khi, đã trở thành hiện tượng, trào lưu xã hội, thì chuyện ấy đã trở thành không bình thường rồi. Có gì quai quái ở hiện tượng này nhỉ?

Từ việc tự vẫn của chàng ca sĩ K-pop là Kim Jong-hyun của nhóm nhạc đình đám Shinee, khi mới 27 tuổi; cùng với đó, người ta cũng nói đến cái câu lạc bộ quái gở có tên là CLB 27, nghĩa là câu lạc bộ của những người nổi tiếng, chết ở tuổi 27, do tự tử; và nữa, là rất nhiều fan cuồng tự tử chết theo, cho thấy một xu hướng bất thường và quái đản đang thành hình trong làng giải trí trẻ ở qui mô thế giới nói chung.

Thử nhìn nhận hiện tượng quái gở này từ một vài góc độ gia đình và xã hội, xem sao?

Một thế giới phân cực, chiến tranh đây đó liên miên, không một quốc gia, dân tộc, tôn giáo nào được yên ổn, ngay cả những quốc gia hùng mạnh, từng lãnh đạo và chi phối thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, EU thì cũng vậy. IS, tổ chức nhà nước Hồi giáo tự xưng với sự cực đoan lên đỉnh điểm, đã kích động các cá nhân cực đoan sẵn sàng mang mạng sống của mình ra để đánh đổi lấy sự phong thánh hoặc danh dự hão huyền, thử hỏi, có sự ảnh hưởng đến con người hay không?

Một thế giới với sự làm giàu, tranh đoạt bằng mọi giá, cùng đó là mọi hình thức vui chơi giải trí nhằm thỏa mãn sự bung xả của con người, dễ xô đảy người ta đến bế tắc, tuyệt vọng, và việc tìm đến cái chết để giải thoát là đương nhiên.

Thời đại của gia đình truyền thống bị phá vỡ, quyền con người bị lạm dụng, được đẩy lên thành sự vị kỷ, nhất là ở các quốc gia Phương Đông như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, há chẳng phải là một nguyên nhân hay sao?

Những giá trị đạo đức, và văn hóa truyền thống đang bị băng hoại, tan giã, thậm chí còn bị mang ra để bông phèng, nhạo báng,… trong khi các giá trị mới chưa kịp hình thành, hoặc còn manh nha nhưng chưa được khẳng định. Và như vậy, sự bế tắc về mặt xã hội là không thể tránh khỏi?

Sự ra đời của internet và sự phát triển thần tốc của công nghệ thông tin dẫn đến sự ra đời của nhiều mạng xã hội, với sự tiện lợi của chúng, khiến con người ta khép mình trong phòng kín, giảm tiếp xúc và hoạt động xã hội, sống với thế giới ảo, từ đó gây nên một số hội chứng về thần kinh. Mạng xã hội cũng làm cho người ta vốn cách xa về địa lý và không hề quen biết trong đời sống thật, chốc lát trở nên thân thiết, chia sẻ với nhau, và như vậy, việc truyền bá suy nghĩ, ý tưởng mang tính biệt lập của cá nhân đến số đông một cách dễ dàng, nhanh chóng tức thì, để rồi, người ta, hoặc lôi kéo, hoặc có thể phỉ báng, nhục mạ người khác theo kiểu hội chứng đám đông … Và đây, chính là mảnh đất màu mỡ cho việc truyền bá các tư tưởng, ý nghĩ cực đoan, bệnh hoạn, đầu độc con người, xã hội v.v…

Sẽ còn có những nguyên nhân khác nữa chưa thật rõ ràng, song chắc chắn, hiện tượng xã hội này đã khiến con người ta không còn được yên ổn, trong khi, những nhà tâm lý và quản lý xã hội lại tỏ ra lúng túng, chỉ biết đối diện, nhưng chưa biết phải giải quyết ra sao !?...

 

 

4. Ngày xưa,.. một thuở,

 

Hôm rồi, đi dự tiệc cưới, con một cô em đồng nghiệp cũ. Trước đây, cô này về cơ quan trước tôi chút ít, tuy cô kém tôi dăm tuổi, sau này, hai anh em cùng phòng làm việc với nhau, tôi làm trưởng, cô làm phó. Rồi qua thời gian, hễ tôi nhích lên một bước thì cô cũng nhích theo một bước. Chúng tôi đùa, bảo là “anh em mình thành đôi bạn cùng tiến”. Chú rể, con cô bạn, lại là đồng nghiệp cùng phòng làm việc với con trai tôi. Như vậy, có thể gọi vui là “họ hàng ba bề bốn bên“ đấy.

Cùng một cơ quan, nên người dự tiệc cưới cũng phần đông là người cơ quan cả, và hầu như mọi người biết nhau. Ngồi theo mâm cho phải phép thôi, chứ khi dự tiệc, mọi người chạy ngang dọc, sà vào mâm nọ mâm kia, cụng ly cho tình cảm. Để ý, thấy giữa đông vui là vậy, thực khách là tự nhiên chia thành mấy nhóm khác nhau. Nhóm trẻ, đây là dịp để các cô cậu trưng diện trang phục đầu tóc, một này mốt nọ.

Nhóm đông nhất là nhóm trung, độ tuổi tầm trên dưới bốn mươi. Họ chững chạc và chin chắn, ăn diện lịch sự và trang nhã, và nhiều người trong số này đã thành danh, hoặc có chút địa vị tại công sở. Họ nhỏ nhẹ chuyện đời chuyện nghề với nhau, và rất tự tin trong xã giao.

Và một nhóm nữa, ấy là nhóm của những người cao tuổi, đã nghỉ hưu một vài năm đến hàng chục năm rồi. Có thể ghép thêm số ít người sắp đến tuổi nghỉ hưu chung vào đây vì xét về tâm lý thì khá tương đồng. Tôi thuộc nhóm này, tuy nhiên, thử đứng tách bạch ra mà quan sát, nhìn nhận sẽ thấy những điều khá thú vị…

Tôi nhớ, cách đây chừng dăm năm, vào dịp đầu năm xuân mới, CLB cán bộ hưu trí của cơ quan tôi đứng ra tổ chức cuộc gặp mặt đầu xuân cho cán bộ nhân viên hưu trí của cơ quan. Hội trường gần 500 chỗ mà chật cứng, nhiều người thiếu chỗ phải đứng ở ngoài sảnh thành từng nhóm chuyện phiếm với nhau. Không ai kêu ca về viêc ấy cả, mà đều thấy vui vì có cơ hội để tập trung đông người đã nghỉ hưu, đặng gặp gỡ và hỏi thăm nhau. Thường ra, lúc còn đi làm, hay gặp nhau ở cơ quan, lúc nghỉ hưu, khi cần mới ớ người, rằng ông này, bà kia, cụ nọ… nhà ở đâu nhỉ? Có muốn đi thăm nhau cũng khó, cũng ngại. Được cơ quan mời gặp mặt, cứ đến một điểm, ăn uống, quà cáp, mời chào, không quan trọng. Quý ở chỗ là mọi người được gặp nhau. Nhìn thấy nhau, biết là còn khỏe, mà dẫu không khỏe thì vẫn còn sống, rồi nữa, thăm hỏi chuyện con cháu phương trưởng ra sao? Thôi thì trăm thứ chuyện, dây cà ra dây muống…

Tại cuộc gặp mặt này, có một vị phó thủ trưởng cơ quan, cũng sắp tuổi hưu, được phân công thay mặt lãnh đạo cơ quan tham dự và phát biểu ý kiến. Sau buổi gặp mặt ấy, khi ngồi với nhau dăm ba người. mạn đàm, vị lãnh đạo ấy bảo: “Cuộc gặp mặt vừa rồi, nghe các cụ hưu nhà mình nói chuyện với nhau và phát biểu ý kiến, mình rút ra mấy điều rằng, sao các cụ thật thà thế, lẩm cẩm thế và sống khổ thế? Khi về hưu, mình cố gắng sẽ không sa vào tình trạng như vậy …”.

Tôi gật gù chia sẻ cùng anh. Rồi ngẫm nghĩ, gạt đi sự tự ái vì sĩ diện, những điều nhận xét ấy về người nghỉ hưu nói chung, và các cụ hưu ở cơ quan tôi, có phần đúng. Còn vị lãnh đạo nọ, người đã đưa ra mấy nhận xét của riêng mình về người nghỉ hưu, sau này, ông không hề đến cơ quan cũ, mặc dù vào các dịp lễ lạt, cơ quan cũ gửi giấy mời trân trọng thì ông cũng không đến, nên tôi không có điều kiện để kiểm chứng xem ông ta có thực hiện đúng lời mình đã hứa hay không ?

Giờ đã bắt đầu nghỉ hưu theo chế độ Nhà nước, tuy còn túc tắc làm chuyên môn theo hợp đồng cho một cơ quan truyền thông lớn, tôi đã bắt đầu thấm những điều này…

 

 

 

5. Như một sự giữ lửa!?...

 

 

Tôi có thói quen, gọi là quan niệm cũng được, và có lẽ, cũ kỹ, gia trưởng chăng? Ấy là, hằng năm, vào các dịp lễ tết chính, như Tết Nguyên đán, Tết Dương lịch chẳng hạn, là nhất quyết không có chuyện đi chơi xa, hay du lịch đâu đó. Có chăng là về quê, thăm nhà họ hàng, người thân mà thôi. Tuy chưa già, song tôi thuộc típ người cũ, thêm nữa lại là trưởng gia, trưởng tộc. nên cả nghĩ làm vậy?

Tôi nhiễm điều này từ bố mẹ tôi. Bố tôi vốn dân Nho học, rồi sau lại Tây học tân thời, tuy trong cuộc sống thường ngày, ông khá thỏa mái, cởi mở, có phần cảm thông, dễ tính nữa, song hết thảy những gì thuộc về lễ nghĩa, đạo lý thì lại rất cẩn trọng. Ông không ép người khác phải theo mình, nhưng với bản than thì nghiêm cẩn. Tôi nhớ, hồi còn nhỏ, ông đã hay giải thích, cắt nghĩa các phong tục tập quán cổ truyền, tâm linh tôn giáo cho tôi hiểu, vì lẽ, tôi sẽ phải thay ông làm trưởng, và thường bắt tôi đứng giữ lễ cùng ông trước bàn thờ tổ tiên vào các dịp lễ trọng, Để dễ hiểu và phù hợp với đời sống hiện đại, ông chỉ dạy cách khấn Nôm thôi, nhưng khá bài bản. Mẹ tôi vốn con nhà gia giáo, nên ủng hộ việc đó. Cứ thế, mãi thành nếp nhà bao nhiêu năm rồi. Sau này, khi song thân mất đi, theo thói quen đã ăn sâu vào máu thịt, tôi duy trì nếp sống ấy như một sự tự nguyện, đầy thành tâm.

Sau này, trong gia đình mình, vợ tôi cũng theo nếp này, và các con tôi cũng vậy luôn, chúng tôi thủ không hề thắc mắc gì. Song đấy là những năm trước, khi các con tôi còn nhỏ tuổi, vật chất còn thiếu thốn, mà ngoài xã hội cũng chưa có trào lưu du lịch vào mỗi dịp lễ tết, nên bằng lòng vậy. Dăm bảy năm gần đây, xã hội thay đổi nhanh chóng, vật chất khá lên, khiến mô hình gia đình truyền thống với các tập tục văn hóa xưa cũ bị tác động mạnh, nên ít nhiều thay đổi. Những gia đình trẻ, ông bà chủ trẻ, ăn nhập văn hóa, văn minh phương Tây rất nhanh, suy nghĩ vì thế mà khác đi nhiều. Đấy là chuyện bình thường, là sự giao thoa văn hóa trong thời kỳ hội nhập. Xã hội nảy sinh trào lưu du lịch trong các kỳ nghỉ. Không riêng gì những dịp lễ trọng như Tết Nguyên đán, Tết Dương lịch, Quốc khánh mà các kỳ nghỉ khác, người ta cũng đua đi du lịch, đi chơi xa, như một sự bù đắp, và như một cái mốt vậy …

Và rồi, như một lẽ tự nhiên, cái trào lưu, xu hướng xã hội ấy, cũng lan đến gia đình tôi. Cá nhân tôi, từ sự phản ứng yếu ớt, dần đến sự thỏa hiệp, chấp nhận… Và dịp Tết Dương lịch năm nay (2018), lần đầu tiên, cái gia đình bé nhỏ của tôi đã chẽ thành ba nhánh chảy theo các hướng khác nhau. Vợ và con gái út tôi, mua tua du lịch tâm linh đi Myanmar chiêm bái Chùa Vàng, đất Phật; con trai lớn, vừa mới lập gia đình, thì mấy ngày nghỉ ấy, chúng tất bật mua sắm, làm cơm mời khách là bạn bè của chúng và gia đình bên vợ nó,…

Riêng tôi, một mình một kiểu. Mặc dù vợ chồng con trai mời dùng cơm chung, rồi nữa, mấy bạn bè thân chèo kéo, song tôi đều tìm cách từ chối khéo. Một mình, tuy ăn uống đơn giản nhưng vẫn đủ lễ nghi trên bàn thờ, cơm nhà tự mình nấu, mì tôm, cơm nóng hay cơm nguội rang, miễn là tiện, túc tắc đủ ngày ba bữa với ly cay nhỏ. Đọc sách, xem mạng, viết bài… cũng thú lắm thay!...

Và, như một thói quen, một sự tự nguyện thành tâm, tôi dành một ngày để về quê, hương khói nơi ngôi thờ tự, thăm thú, trò chuyện với anh chị và mấy nhà hàng xóm ở quê,…

Giống cha, mẹ tôi ngày trước, như một sự giữ lửa !?...

 

 

6. Một câu hỏi khó,...

 

 

 

Có một lần, nhân một cuộc gặp mặt vào dịp cuối năm, một nhà thơ đàn anh, về hưu đã hơn chục năm rồi, tâm sự rằng, lâu lắm rồi, ông chẳng làm một bài thơ nào; rằng để chống thiếu, và cũng là thử sức mình trong một lĩnh vực nghệ thuật khác, ông cầm cọ vẽ ...

Rồi một dịp gặp gỡ khác, khi đứng riêng với nhau, tôi hỏi thăm ông xem dạo này ông còn vẽ tranh hay không. Vẻ mặt ưu tư, ông bảo, ý là khi trước, mình háo hức vậy thôi, chứ đâu có học hội họa ngày nào, xem tranh của bạn, thấy hay hay, cao hứng thì thử cầm cọ vậy thôi... Rồi loắng ngoắng dăm ba bức, tuy cũng có cái mình thấy ưng ý, nhưng chẳng biết có phải là tranh hay không nữa?...Tôi giữ ý, không dám hỏi ông về thơ, là bởi lần trước, ông đã từng than là cạn cảm xúc thi ca, và  hào hứng chuyện vẽ tranh, nên chỉ dám hỏi thứ ông đang hào hứng mà thôi. Vậy ra, nghệ thuật nào cũng có cái khó của nó, và cũng cần phải có năng khiếu mới đeo đuổi, đánh đu được...

Chợt ông hỏi lại tôi, cách xưng hô khiêm tốn lắm: "Mình hỏi thật ông nhé, nếu cho được chọn,... ông thích có được một tập thơ hay, hay là, một tập truyện hay?". Sở dĩ, ông hỏi tôi vậy, bởi ông biết tôi với tư cách là người sáng tác văn học đã ba chục năm nay, và cũng biết tôi vốn là người làm thơ, rồi bỏ bẵng thơ hàng chục năm để viết truyện ngắn, tản văn, xuất bản liên tục, nhưng mấy năm gần đây, lại ít viết văn xuôi mà sáng tác và in thơ đều đều. Với ông, thời xứ ta còn hiếm người sáng tác văn học, ông đã làm thơ, vào Hội và từng có thời gian giữ một cương vị đứng đầu của một trong mấy cột trụ làng văn học nghệ thuật nước nhà. Ông từng có mấy bài thơ hay, được người ta chọn bình, và được tuyển chọn vào vài ba tuyển tập thơ ca xứ Việt. Với người làm thơ, được như thế, thật không dễ gì. Vậy mà giờ đây, ông hỏi tôi thế, trong giây lát, tôi biết trả lời ông ra sao? Quả là một câu hỏi khó, chí ít là đối với tôi.

Và rồi tôi đã trả lời ông, sau giây lát cân nhắc: "Bác ạ, em nghĩ,...  có thể viết được một tập truyện hay, nhưng... thật khó để sáng tác được một tập thơ hay... Vậy thôi ạ.". Ông à lên một tiếng, gương mặt đăm chiêu như giãn ra, thư thái hơn. Rồi tôi cảm thấy, dường như ông đang cười nhẹ. Sau đó, cả cả hai người, tịnh không ai nói thêm gì về chuyện sáng tác thơ, văn hay vẽ tranh nữa, mà bàn sang chuyện khác, hòa chung vào câu chuyện của đám đông.

Tôi biết, thực ra tôi đã lảng tránh câu hỏi của nhà thơ đàn anh nọ, chỉ trả lời một cách gián tiếp, tùy ông hiểu sao cũng được, bằng cái cách đá lại quả bóng  về ông. Cho đến bây giờ, thi thoảng năm gặp lại một lần, câu chuyện giữa nhà thơ đàn anh nọ và tôi, đơn thuần chỉ là chuyện về sức khỏe và sinh hoạt đời thường ...

Tôi không biết, hôm ấy, ông nghĩ gì và có hài lòng về câu trả lời của tôi hay không? Còn tôi, khi công việc bận rộn, hay thư nhàn hơn như lúc này, tôi vẫn cố viết hằng ngày. Tôi cũng không mấy quan xiêm, cân nhắc là  mình nên làm thơ, viết tản văn, ký sự, truyện ngắn, hay phê bình và chân dung văn học, tuy cũng ít nhiều hiểu mình mạnh ở thể loại nào.

          Đơn giản, tôi cho rằng, mình nghĩ và viết ra được là quan trọng nhất. Còn lại ... hậu xét!...

 

 

 

 

7. Lắng nghe tiếng sáo, tiếng tiêu ...

 

 

 

Ngày chủ nhật, tôi dạy sớm vì có chút công việc chuyên môn. Xong việc, mở cửa ngó ra ngoài, tiết trời đẹp, rét vừa và khô ráo, khác hẳn cả tuần rồi hết mưa tí tách dai dẳng lại mưa phùn lây nhây. Lòng hào hứng, muốn nhào ra đường đi chơi đây đó cho giãn gân cốt và được phóng tầm mắt. Nhưng bây giờ, đi đâu cũng phải có địa chỉ, chứ không thể như cánh trẻ, cứ đi rồi mới tìm cảm hứng được. Mở điện thoại, sau mấy cú phôn cho hội bạn già, bạn hưu, thì người ở quê, người đang đi thăm thú đâu đó, người lại gặp trục trặc về sức khỏe... Vậy thôi. Ăn sáng và cafe đủ rồi, đành ngồi vào máy, cập nhật tin tức trên mạng trước đã cho khỏi lạc hậu thông tin. Đường link dẫn vào Fb của người bạn đang sinh sống tại vùng Tây Bắc, thấy có clip sáo Mông, bèn nháy vào nghe thử. Thấy hay quá, nên cứ theo địa chỉ giới thiệu trên YouTube, nghe liền một loạt những bài sáo Mông, sáo trúc, các bản như Tình ca Tây bắc, Tiếng hát giữa rừng Pắc-bó, Gặp nhau giữa rừng mơ, Đi học ... Lan man, tiếp sang một loạt bản hòa tấu sáo trúc của nghệ sĩ Hoàng Anh livestream từ New York, như Bèo dạt mây trôi, Trúc xinh, Trước ngày hội bắn, Trên đường chiến thắng, Ai ra xứ Huế, Mẹ yêu con v.v... Rồi nữa, các bản độc tấu của các nghệ sĩ sáo trúc hàng đầu của xứ mình như Đinh Linh, Ngọc Tú, Tương Nhuệ... Thật là một bữa tiệc âm nhạc tuyệt vời cho ngày nghỉ cuối tuần mà chẳng cần phải đi đâu xa.

Chưa hết, cứ theo đà, lan sang cả những bản nhạc tiêu Trung Hoa mà trước đây tôi mới nghe qua trong các phim cổ trang võ hiệp như Tây Du ký (Tây vương nữ quốc), Thủy Hử (Túy Hồng nhan), Xạ điêu anh hùng truyện (Bích Hải triều sinh khúc) chuyển thể từ tiểu thuyết chưởng Kim Dung, và một số bản khác như Họa tâm, Tuyết hoa thần kiếm v.v... Mỗi bản một sắc thái riêng và đều rất hay...

Tự nhiên, lại nhớ, ngày xưa, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, nghệ sĩ sáo trúc Đinh Thìn biểu diễn, tâm hồn ngây ngất. Và hình như, những bản sáo trúc ngày ấy đã thấm vào lòng tôi từ bao giờ chẳng rõ, chỉ biết đã góp phần nuôi dưỡng và thúc đẩy hoài bão học hành, để được đi đây đó, và khát khao sáng tác văn thơ... Tôi biết ơn về những giai điệu sáo trúc ấy. Giờ nghe lại những giai điệu ấy, dù là người khác biểu diễn với bản phối hiện đại hơn cho phù hợp với thời cuộc, thì vẫn hấp dẫn tôi lắm. Nghe mà như an ủi, vỗ về và gột rửa tâm hồn mình vậy!...

Trong các nhạc cụ dân tộc, bộ gõ, đàn bầu, đàn tranh, sáo trúc, nhị ... mỗi thứ một độc đáo, một hay riêng, song với tôi, thích nhất là nhị và sáo trúc. Cùng dân dã, gần gụi, đời thường, nhưng nhị có cái nỉ non, da diết, não lòng, còn sáo trúc thì bay bổng, mênh mông, thanh tao và trong sáng...

Tự thân, mình hiểu và biết ơn cuộc sống về những điều đơn giản ấy.

 

 

8. Chuyện tết Ta hay tết Tây,

 

 

Lại chuyện ăn tết Ta hay tết Tây?

Đây không phải là chuyện mới, bởi từ vài ba năm trước, có mấy vị thuộc diện người của công chúng, trong đó có một nữ tiến sĩ, công khai đặt vấn đề rằng, thay vì ăn tết Ta (tết Âm lịch, Nguyên đán cổ truyền), thì xứ ta cũng nên ăn tết Tây (tết Dương lịch) như nhiều nước phát triển, cho tiết kiệm mà lại phù hợp với thời đại tiên tiến hiện nay. Cũng đã có nhiều ý kiến bàn luận về vấn đề này trên các phương tiên thông tin đại chúng và trang cá nhân, bày tỏ ý kiến của mình, đồng tình cũng có, nhưng chủ yếu là không đồng tình, thậm chí phản đối gay gắt với đề xuất này. Tôi đã có một bài viết nhan đề “Tết cổ truyền, một giá trị văn hóa Việt không thể thay đổi”, đặng khẳng định giá trị bền vững của tết Âm lịch cổ truyền trong nền tảng văn hóa của người Việt.

Năm nay, trước tết Nguyên đán, vị tiến sĩ nọ, lại một lần nữa lên tiếng đòi thay tết Nguyên đán cổ truyền bằng việc ăn tết Tây, (tết Dương lịch) như các nước Âu Mỹ, cùng nhiều nước phát triển khác và chỉ cần nghỉ 3 ngày là đủ. Dĩ nhiên, để biện luận cho đề xuất của mình, vị này đã nêu ra những lý do, như tiết kiệm về kinh tế, tăng thời gian lao động trong năm, phù hợp với các nước phương phát triển đang ăn tết Dương lịch sẽ thuận lợi cho việc ký kết làm ăn kinh tế … Tôi không phản đối những lợi ích mà vị tiến sĩ này nêu ra, tuy đây mới chỉ là suy đoán đơn thuần, và cũng chỉ ở một khía cạnh hẹp của vấn đề mà thôi.

Xin nhấn mạnh, vị tiến sĩ nọ, khi bàn chỉ thấy được các lợi ích suy đoán từ văn minh vật chất, mà chuẩn là văn minh Âu Mỹ. Ở đây, vấn đề cốt yếu thuộc về văn hóa vả những lợi ích từ góc độ văn hóa tinh thần Việt mang lại, nó có ý nghĩa lớn lao, sâu xa, thấm vào máu thịt con người ta từ hàng ngàn năm nay rồi…

Để công bằng, trước khi nói về văn hóa Việt trong chiếc nôi chung của hệ tư tưởng, văn hóa phương Đông, tôi mạn phép bàn chút ít về tết Dương lịch. Các nước phương Tây, và một số nước phát triển khác ăn tết Dương lịch, vì đây là cách tính toán và phân chia tiết đoạn thời gian theo lịch pháp Công lịch, phù hợp với điều kiện địa lý, thiên văn, xã hội, tôn giáo và lịch sử hình thành, và đã trở thành văn hóa của họ mấy nghìn năm rồi. Nói vậy, trong đời sống dân gian, ở đây đó mỗi quốc gia, người dân vẫn duy trì tập quán ăn tết riêng của họ với quy mô nhỏ, vùng miền, khu vực. Điều đó cho thấy, văn hóa có tính bền vũng rất cao. Thêm nữa, những quốc gia ăn tết Dương, phần lớn là những nước theo Công giáo (Thiên chúa giáo), nên cùng với tết, còn có ngày lễ Giáng sinh (Noel), kết nối thành một chuỗi sự kiện với các phong tục như cây thông Noel, ông già Tuyết trên chiếc xe trượt do tuần lộc kéo, rồi ngày hội mua sắm (ngày thứ Sáu đen tối) vv… Và cũng đừng nghĩ họ ăn uống đơn giản tiết kiệm đâu. Với chục ngày đến nữa tháng nghỉ tết, đây là dịp họ thư giãn tinh thần, xả tress sau cả một năm làm lụng, tiêu pha vui chơi, chuẩn bị tinh thần cho một năm làm việc mới.

Cũng vậy, phong tục ăn tết Nguyên đán ở xứ Việt mình, cùng các nước khác như Trung Quốc lục địa, Đài Loan, Triều Tiên, hoặc như các nước ăn tết theo Phật giáo Tiểu thừa (Bunpimay của Lào, Cholchnamthomay của Campuchia)… có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng của người dân nước mình. Ở đây, nó vừa có ý nghĩa tinh thần lớn lao, vừa khẳng định bản lĩnh văn hóa của mình trước sự xâm lăng về văn hóa tinh thần của văn hóa văn minh Âu Mỹ nói chung. Nói như vậy, không có nghĩa là ta chối từ văn hóa văn minh Âu Mỹ, bởi hiện nay đang có sự giao thoa về văn hóa và chúng ta vẫn biết tiếp nhận có chọn lọc. Cũng đừng nói đơn thuần, tết nhất ăn uống, mua sắm tốn kém, bởi lao động là để phục vụ cho nhu cầu đời sống của chính chúng ta kia mà, chứ đâu có phải như lão già keo kiệt Grang-đê của Balzac, chỉ biết bóp mồm bóp miệng, khoái mỗi việc ngày ngày dốc tiền vàng ra đếm chỉ để ngắm và nghe tiếng va chạm leng keng của chúng.

Thêm nữa, việc tổ chức ăn tết theo phong tục cổ truyền, còn là dịp để kích cầu tiêu dùng, là cơ hội để kinh doanh du lịch (du lịch nội địa và du lịch quốc tế đến Việt Nam thưởng tết) v.v…

Tôi xin kể một câu chuyện có thật về phong tục và tính bến vững của tết âm lịch cổ truyền xứ ta ở góc độ gia đình. Ấy là câu chuyện bên ngoại của tôi. Bà ngoại tôi có hơn chục người con, dần theo năm tháng, các gia đình bên ngoại tôi phát triển, làm ăn tứ tán, và nhà nào cũng đông con cháu. Ông ngoại tôi mất sớm, còn bà ngoại và một cậu út sống trong khu vườn nhà của tổ tiên để lại rộng cỡ 5 sào đất, với ngôi nhà cổ cửa bức bàn, lợp ngói ta. Chẳng biết quy ước này hình thành từ bao giờ, song tôi biết, khi tôi còn bé xíu, thì cứ hằng năm, vào ngày mồng 2 tết, tất cả các con cháu của bà, dù sinh sống ở đâu, hễ có điều kiện đều về, trước là chúc thọ bà, sau là anh chị em, con cháu gặp gỡ nhau, ăn bữa cơm trưa mồng 2 tết, rồi lại tứ tán, ai về nhà nấy. Sau này, bà ngoại tôi mất đi, thì cậu út vẫn duy trì phong tục ấy, mồng 2 tết các nhà về thắp hương tổ tiên, chúc tết gia đình cậu út, anh chị em và con cháu hàn huyên, có những năm đông người cỡ hơn trăm, cơm trưa mồng 2 vài chục mâm… Thật vui và đầm ấm, ý nghĩa. Cứ thế vài ba chục năm nay. Lâu ngày, cũng có cái mệt, cái phiền cho cậu út. Cậu bèn đề xuất một cách khác, ấy là việc tụ tập con cháu trong đại gia đình được thực hiện vào ngày mồng một tết Dương lịch, còn mồng 2 tết Âm lịch, ai có điều kiện thì về, chứ không theo quy ước cũ. Cậu út thông báo đến các nhà trước gần nữa năm vào ngày giỗ bà ngoại tôi, mọi người gập gù ra chiều tán thưởng. Thế nhưng, mồng 1 tết Dương năm ấy, ngoài nhà cậu út, nhà một người dì tôi sống cạnh đấy, thì chỉ còn người cháu trưởng là lóc cóc từ Hà Nội về quê ăn tết Dương, Cậu út buồn quá vì quy ước mới không được thực hiện. Và rồi, mồng 2 tết Âm ấy, mọi người theo thói quen cũ lại về, tuy không đông đủ như những năm trước. Cậu út cười trừ, bảo thôi, giờ cứ theo quy ước cũ, mọi nhà về quê vào ngày mồng 2…

Chuyện ấy cũng đã dăm năm nay rồi. Không một ai nhắc lại nữa, và chẳng cần thông báo, theo thói quen, mồng 2 tết Nguyên đán, các nhà lại nô nức về quê …

 

 

 

9. Văn chương thiên hạ trong mắt tôi,...

 

 

Tôi tự nhận mình là một con mọt sách. Bản thân đã đọc hàng ngàn, vạn cuốn sách. Song chữ nghĩa sách vở trong thiên hạ thì ức triệu, chẳng một ai có thể đọc xuể. Thế nên, cái mà mình để mắt đến chỉ là giọt nước trong biển cả, hạt cát trong sa mạc mà thôi, chẳng thể làm suy suyển cái gì và ảnh hưởng một ai !

          Song le, dẫu phần đọc được của mình chỉ bé tí tẹo, kiến văn còn hạn hạn hẹp và thiển cận, thì mình cũng có ý thích riêng, cách nghĩ riêng và quyền đánh giá riêng.

          Có thể coi đây là tự bạch của tôi về văn chương thiên hạ:

          Nền thi ca xuất sắc nhất: Thơ Đường (Trung Quốc).

          Nền tiểu thuyết xuất sắc nhất : Tiểu thuyết Pháp.

          Nền văn học dân gian xuất sắc nhất : Trung Quốc.

          Nền tư tưởng triết học giàu giá trị văn học: Trung Hoa cổ đại- Hy La cổ đại - Ấn Độ cổ đại - Pháp cận đại.

          Nhà văn nghĩ đến đầu tiên : Tào Tuyết Cần.

          Nhà văn xuất sắc nhất : Tào Tuyết Cần- Lev Nikolaievits Tolstoi- Yasunari Kawabata- Honoré de Balzac.

          Nhà thơ xuất sắc nhất : Lý Bạch- Rabindranath Tagore- Sergei Alesandrovits Exenin-  Nguyễn Du.

          Nhà soạn kịch xuất sắc nhất : Sophokles  - William Shakespeare- Anton Pavlovits Tsekhov - Tào Ngu.

          Nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc nhất : A.P. Tsekhov- Guy de Maupassant- Ivan Alekseyevits Bunin - Stefan Zweig .

          Nhà văn viết cho thiếu nhi xuất sắc nhất : Maksim Gorki

          Nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc nhất : Erich Maria Remarque.

          Nhà văn viết về thiên nhiên hay nhất : Mikhail Mikhailovish Prishvin

          Nhà văn viết về tình yêu hay nhất : I.S. Turgenev.

          Nhà văn viết chân dung văn học xuất sắc nhất : Konstantin Georgijevitsh Pautovsky.

          Nhà văn kể truyện cổ tích hay nhất : Hans Christian Andersen.

          Nhà văn viết về cái ác xuất sắc nhất: Phedor Mikhailovits Dostoievki

          Nhà văn kể truyện ngụ ngôn hay nhất : Jean de La Fontaine.

          Nhà văn viết truyện lịch sử xuất sắc nhất : Thi Nại Am, Alecxandre Dumas Cha - Walter Scott .

          Nhà văn viết truyện kiếm hiệp xuất sắc nhất : Kim Dung.

          Nhà văn viết truyện trinh thám hay nhất : Arthur Conan Doyle.

          Nhà văn viết tạp văn hay nhất : Lỗ Tấn, Giả Bình Ao.

          Tác phẩm hấp dẫn nhất : Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung).

          Tiểu thuyết xuất sắc nhất : Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)- Chiến tranh và Hòa bình (L.N. Tolstoi)-Don Kihoté  (M.de Cervantes)- Nhà thờ Đức bà Paris (Victor Hugo)

          Tác phẩm thần thoại hay nhất : Thần thoại Hy Lạp.

          Tác phẩm sử thi hay nhất : Mahabharata (Ấn Độ).

          Trường ca hay nhất : Iliade - Odyssée (Homère) - Evgeni Onegin (Aleksandr Sergeevits Pushkin).

          Tác phẩm kịch hay nhất : Âm mưu và tình yêu (F. Schillier)

          Tác phẩm du ký hay nhất : Bút ký người đi săn (I.Turgeniev).

          Tác phẩm văn học ấn tượng nhất : Ruồi Trâu (Ethel Lilian Voinits)

          Tác phẩm viễn tưởng hay nhất : Hai vạn dặm dưới biển (Jules Verne).

          Tác phẩm cho thiếu nhi hay nhất : Không gia đình (Herto Malot)- Hoàng tử bé (Antoine de Saint-Exupéry) - Cánh buồm đỏ thắm (Aleksandr Grin ).

          Tác phẩm ấn tượng nhất đầu đời : Pinocchio- cậu bé  người gỗ (Carlo Collodi)

          Tác phẩm văn học ly kỳ nhất : Rôbinxơn Crusô (Daniel Defoe)

          Tác phẩm văn học kỳ quái xuất sắc : Liêu Trai chí dị (Bồ Tùng Linh)-  Đồi gió hú (Emile Bronti) - Người cười (Victor Hugo).

          Tác phẩm văn học bi tráng nhất : Taras Bulba (Nikolai Vasilievits Gogol).

          Truyện danh nhân xuất sắc nhất : Napoleon Bonaparte (E. Taclé)

          Tiểu thuyết hoành tráng nhất : Sông Đông êm đềm (M.K. Sholokhov)

          Tiểu thuyết văn học khó đọc nhất : Đi tìm thời gian đã mất (Marcel  Proust).

          Tác phẩm văn xuôi giàu chất thơ nhất: Những vì sao (Alphonse Daudet)- Chuyện núi đồi và thảo nguyên (Tsinghit Aimatov)-

          Tác phẩm văn học viết về con vật hay nhất : Tiếng gọi nơi hoang dã (Jack London).

          Tác phẩm văn học khôi hài nhất : Đất vỡ hoang (M.K. Sholokhov).

          Tác phẩm văn học thác loạn nhất : Kim Bình Mai.(Tiếu Tiếu Sinh).

          Tác phẩm có nhân vật điển hình hóa nhất : Ơgieni Grandé (O. Balzac) - Otelo (W. Sheakspeare)- Don Juan & Tartuff (Molière) - A.Q. chính truyện (Lỗ Tấn)

          Tác phẩm văn học dựa trên nhân vật có thật xuất sắc nhất : Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân), Thủy Hử (Thi Nại Am).

          Tác phẩm triết học giàu tính văn học nhất: Nam Hoa Kinh (Trang Tử).

          Tác phẩm triết học-văn học lý thú nhất : Đạo Đức Kinh (Lão Tử).

          Tác phẩm triết học-văn học giàu tính giáo khoa nhất : Luận Ngữ (Khổng Tử) .

          Tác phẩm sử giàu tính văn học nhất : Sử ký (Tư Mã Thiên).

Tác phẩm lý luận & phê bình văn học thích nhất: Tùy Viên thi thoại (Viên Mai).

          Tác phẩm bộ ba thích nhất : Bông hồng vàng-Một mình với mùa thu- Bình minh mưa (K.G. Pautovsky) , Thời thơ ấu-Kiếm sống-Những trường đại học của tôi (M. Gorki) , Ngàn cánh hạc-Xứ Tuyết-Tiếng rền của núi  (Y. Kawabata).

          Nhân vật nữ thích nhất : Acxinhia (Sông Đông êm đềm)

          Nhân vật nam thích nhất : Ác-tơ -Ruồi Trâu (Ruồi Trâu).

          Nhân vật đáng ghét nhất : Iagô  (Kịch Ôtelô).

 

Nhắc lại, đây là ý thích và sự đánh giá, quan điểm của riêng tôi!...

 

 

 

 

 

10. Nghĩ & Viết,

 

 

Đúng ra, tôi đã có thể có một cuốn sách riêng về phê bình văn học từ chục năm trước. Giờ thì tôi phải kỳ cạch viết lại. Thật theo đúng nghĩa đen. Tôi đã sớm có ý định viết tiểu luận và phê bình văn học từ lâu rồi, khi mình còn sung sức, hăng hái, và còn dành thời gian để đọc nhiều... (như lời khuyên của một nhà văn-nhà phê bình văn học đàn anh, người đã từng hơn một lần khuyên tôi nên dành nhiều công sức cho mảng phê bình văn học, bởi ông nhận ra, tôi có khả năng làm việc ấy).

Số là, tôi đã viết tiểu luận hàng ngày, xếp mục theo số và đã có 34 đề mục đã được viết ra, thế  mà chỉ một động tác sai trên máy vi tính, bỗng chớp mắt thành công cốc, toàn bộ mất tăm. Ngày ấy, trình độ IT của tôi ú ớ lắm, mà cả đám người quanh tôi cũng gà mờ nốt, nên chẳng một ai biết cách, bày cho tôi hoặc giúp tôi lấy lại những bài viết đã vô tình bị xóa đi (delete), mà thực ra, khi ấy, tôi cũng không hiểu vì sao lại mất hết.  Giờ thì việc ấy ngon ơ. Ôi, mặt trái của hiện đại hay là sự ngu dốt của cá nhân ? Cả hai …

Khi ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ. Biết là khó lấy lại được, tôi còn duy tâm, lẩn thẩn nhẩm cộng con số 34 mục ấy thành con số 7 (3+4= 7), mà 7 là thất, và thất còn là mất. Thảo nào, sao nó không mất ngay từ mấy mục đầu cơ chứ?  Thấy tôi than thở tiếc rẻ, một cậu trẻ tuổi, người đã loay hoay toát mồ hôi mà chẳng lấy lại được gì giúp tôi, vừa giấu dốt vừa tìm cách an ủi tôi, bảo :"Thôi đành anh ạ, nhưng mà anh lại có điều kiện để sáng tác lại, biết đâu đấy, còn hay hơn". Đúng vậy chăng ? Thôi thì đấy cách duy nhất… Viết lại, rất có thể không bằng, song biết đâu đấy, lại hay hơn thật chăng ?… 

Viết.

Đúng là một nghề cực khó.

Tại sao lại chọn nghề này nhỉ? Số phận đưa đảy. Mặc dù từ nhỏ tôi đã mê đọc sách và trở thành một con mọt sách, song cũng chẳng bao giờ nghĩ đến gắn đời mình vào chuyện viết lách. Có lẽ manh nha từ cái ngày tôi học lớp 8 Trường cấp 3 Văn Lâm. Ngày ấy, thày giáo dạy văn là thầy Lê Thường, người Hà Nội. Thấy tôi học khá văn và chữ viết đẹp nên thầy hay nhờ tôi chép lại một số bài tập làm văn khá của học sinh do thày chọn lựa làm tư liệu giảng dạy riêng. Rồi thêm, những câu chuyện về anh em nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa (Trần Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa) cùng một số bài thơ của cu cậu này, mà nhiều buổi lên lớp thầy Lê Thường hay mang ra nói chuyện, đã phần nào nhen nhóm đốm lửa nhỏ về văn chương trong lòng tôi. Và cái đốm lửa nhỏ xíu ấy dù có ấp ủ đến nhường nào cũng chẳng cháy lên thành tia lửa được nếu như không có một chuyện tình cờ khác. Ấy là vào mùa xuân năm 1975, tôi tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 cấp tỉnh và trúng tuyển vào đội tuyển của tỉnh tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, được triệu tập về bồi dưỡng 3 tháng ở trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương. Ở đấy, trong 21 thành viên, có Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh, đấy là những người sau đó ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống, nghề nghiệp và chuyện theo nghề viết của tôi sau này. Và thế là đốm lửa đã thành tia lửa. Lẽ dĩ nhiên, con đường nghề nghiệp, văn chương đã và sẽ còn là con đường gian truân, song bước đầu là thế …

Tôi nhớ, hơn một lần Trần Đăng Khoa nói rằng, về cái việc viết phê bình, bình luận văn học thì dân viết chuyên nghiệp (ý nói những người chỉ chuyên về lý luận và phê bình văn học) còn khuya mới bằng được dân viết văn một khi họ nhúng tay vào làm việc này. Trần Đăng Khoa còn viện dẫn đến nhà văn Nguyễn Tuân, người đã từng nói thế và làm thế. Thêm một bằng chứng là chính bản thân Trần Đăng Khoa, khi viết phê bình cũng đặc sắc và nhanh chóng nổi tiếng chẳng kém gì sáng tác thơ xưa kia, khi còn nhỏ. Và quả là, so với một số nhà lý luận phê bình của Việt Nam được đánh giá là xuất sắc hiện nay thì rõ ràng Trần Đăng Khoa không hề thua kém gì, nếu không muốn nói là còn nhỉnh hơn nhiều nhà lý l;uận, phê bình văn học chuyên nghiệp.

Nêu ra ý này, là tôi muốn nhắm đến một hiện tượng xuất sắc khác là phê bình Nguyễn Huy Thiệp. Với tập Giăng lưới bắt chim, ông sớm thuộc vào hàng những người viết phê bình và tiểu luận văn học xuất sắc, chí ít theo ý tôi là vậy!

 

 

 

 

 

11. Hiện tượng & hiệu ứng U23 VN, 2018...

 

 

Sau chiến thắng lịch sử của bóng đá Việt Nam, U23 của ta chiến thắng U23 Qatar sau 120 phút thi đấu và loạt sút luân lưu 11m, để có mặt tại trận chung kết, tôi định không viết gì, ngoài chuyện phiếm bên lề, chuyện vui lúc trà dư tửu hậu. Nhưng rồi, cảm giác như có lỗi nếu mình không viết một chút gì đó, bởi đây là thời khắc lịch sử hiếm có, sẽ chẳng bao giờ lặp lại.

Vậy thì viết, song viết gì và viết khi nào?

Tôi chọn thời điểm viết bài này vào giữa khoảng thời gian, sau khi kết thúc trận đấu với Qatar và trận chung kết với U23 Uzbekistan. Sở dĩ vậy, là để, đủ thời gian bình tĩnh mà nhìn nhận những chiến thắng của U23 VN một cách công tâm; đồng thời, cũng muốn đi trước khi đã biết kết quả trận chung kết, nếu ta thắng, lại bảo được rồi thì tha hồ bốc phét, còn nếu thua, thì "chó chết hết chuyện".

Xin không bàn về hiệu ứng xã hội từ kỳ tích này, mà chỉ bàn về chuyên môn. Để lý giải "Hiện tượng U23 VN" tại Vòng chung kết bóng đá U23 Châu Á, tại Trung Quốc, 2018, tôi đặt ra 5 câu hỏi và tự trả lời,...

Nguyên nhân chiến thắng của U23 VN:

Thứ nhất: Chiến thắng từ thực lực đội U23 VN.

Điều này thì đã rõ.

Thể lực, đủ sức chạy 120 phút, lên công về thủ mà không hụt hơi, liền mấy trận như vậy, dù thời gian nghỉ ngơi kém đội bạn.

Tinh thần, vững vàng, thể hiện ở chỗ, dẫn trước không hưng phấn, chủ quan; bị dẫn trước, không nao núng, sụp đổ, rồi vỡ trận, hoặc buông xuôi cho xong; ngay cả khi bị xử ép, cũng không nóng đầu gây sự mà chấp nhận một cách điềm tĩnh; sự đoàn kết, đồng lòng, kết dính trong toàn đội và từng vị trí...

Thứ hai: Chiến thắng từ tài ba của Huấn luyện viên,

Điều này, cũng đã rõ.

Giả thiết, cũng vẫn nhưng con người này, hoặc chất lượng cầu thủ tương, thậm chí cao hơn (đã từng có), nhưng được dẫn dắt bởi một ông Thầy khác (HLV), chắc chắn kết quả sẽ không bằng. Xưa nay, quân hùng phải có Tướng giỏi mới thành công (còn thêm thiên thời, địa lợi). Ông Park, không phải thầy Phù thủy có phép màu, mà là một huấn luyện viên chuyên nghiệp, có tính kỷ luận cao, khoa học, chính xác trong tuyển chọn cầu thủ vào đội tuyển, trong lựa chọn, thay người trong các trận đấu, và quan trọng hơn, là biết cách khơi dậy tiềm năng, lòng tự trọng của mỗi cầu thủ, sử dụng đấu pháp hợp lý cho từng trận đấu và từng thời điểm cụ thể trên sân...

Thứ ba: Chiến thắng nhờ sự coi thường của đối thủ,

Điều này cũng rõ. Trước giải, U23 VN bị xem là vật lót đường, nói chung là các đội ở khu vực Đông Nam Á cũng vậy. Khi U23 VN vào vóng Tứ kết, các đối thủ không dám coi thường nữa, tuy nhiên, họ vẫn cho là ăn may, nên nôn nóng giải quyết trận đấu trong 2 hiệp chính. Và nữa, sự tự kỷ ám thị, lo lắng bị thua đội chiếu dưới dẫn đến sự thiếu tỉnh táo trong toàn đội và mỗi cầu thủ, trong khi, U23 VN đá với một tinh thần không có gì để mất...

Thứ tư: Chiến thắng từ sự may mắn.

Điều này là có. Xưa nay, không riêng gì bóng đá, thể thao, mà những việc khác, mỗi kết quả chiến thắng, mỗi thành công, bao giờ cũng có phần của sự may mắn.

Thứ năm: Chiến thắng từ tất cả những lý do trên gộp lại,

Điều này là đương nhiên. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó, kết quả hẳn sẽ không ngoạn mục như vậy.

 

Và các dự đoán tương lai:

Thứ nhất: Kết quả trận chung kết,

Xét về thực lực trước trận chung kết, U23 Uzbekistan có vẻ nhỉnh hơn một chút, song đã vào được đến đây, thì cơ hội thắng chia đều cho cả hai, tức là tỷ lệ 50/50. Tuy nhiên, những ngày qua, từ một đội bị đánh giá là vật lót đường, U23 VN đã đã đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, đến mức, sau chiến thắng đội U23 Qatar, nhiều người đã phải thốt lên "Không tin được dù đó là sự thật", nên giờ đây, thắng hay thua cũng không mấy quan trọng, bởi việc vào đến Chung kết đã là một giấc mơ, một kết quả không tưởng rồi, song cũng chẳng có lý do gì để người ta không mơ tiếp giấc mơ Vô địch. Đấy là điều mong muốn của hết thảy dân Việt ta, nhưng nếu không thắng, người ta có tiếc nuối, chứ không ai nỡ trách cứ, bởi đến đây, đã là tuyệt vời lắm rồi... Riêng tôi, chọn U23 ở kèo dưới, và khi chọn như vậy, không phải là tôi không tin tưởng vào U23 VN, hay như không 'biểu hiện lòng yêu nước", đơn giản, khi thi đấu gì đó, nhất là thể thao nói chung và bóng đá nói riêng, bị đánh giá thấp hơn sẽ cho một tâm lý thi đấu thoải mái, không chịu áp lực phải thắng, và đấy, thực sự là một lợi thế không nhỏ.

Tôi nghĩ, về lý trí mà xét đoán, U23 VN không thắng, nhưng về tình cảm lại mong thắng. Và mong muốn của tôi lúc này, là dự đoán của tôi sai.

Thứ hai: Từ đội U23 VN hiện tại, nhìn nhận, đánh giá về bóng đá trẻ VN.

Xuất phát điểm của nền bóng đã Việt Nam là từ Phong trào. Khi được chọn về các CLB, hay đội tuyển, các cầu thủ được tập luyên thêm, nhưng chỉ có tính chất bổ trợ trên nền tảng năng khiếu vốn có. Sau này, có một số lò đào tạo cầu thủ từ lứa tuổi nhỏ, như Thể Công, Thanh Hóa, Nghệ An... song chất lượng vẫn chưa cao. Phải từ khi, Học viện Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai ra đời, với sự tài trợ từ Arsenal (Anh Quốc), chất lượng đào tạo cầu thủ từ lứa tuổi nhỏ mới được nâng cao. Cùng với đó là việc tổ chức các giải quốc nội và cử đội tham gia các sân chơi bóng đá trẻ các cấp độ Asean, Asia, và cao hơn nữa, cũng tạo điều kiện cho bóng đá trẻ cọ xát, vươn lên. Nhìn chung, bóng đá trẻ Việt Nam mới ở mức lạc quan mà thôi,...

Thứ ba: U23 là tương lai tươi sáng của Đội tuyển Quốc gia,

Tôi không nghĩ vậy, bởi các lý do sau đây,

Từ thực tế những năm qua, cho thấy, chúng ta đã từng có các đội trẻ như U16, U19, U21 và U23 chất lượng cao và thi đấu tốt (đương nhiên, xét về kết quả thì không vang dội như U23 hiện nay) ở các giải đấu quốc tế khu vực, châu lục, thế giới, nhưng khi trưởng thành, thì không mấy đóng góp cho đội tuyển quốc gia.

Nhưng tại sao vậy?

Từ sự tha hóa bởi chính các cầu thủ, đã từng có các tài năng bóng đá trẻ như Văn Quyến, Quốc Anh, Quốc Vượng v.v... nhưng rồi lối sống và lòng tham đã loại thải họ bằng sự sa sút phong độ, bằng nạn cá cược, án kỷ luật, và thậm chí tù tội....

Từ sự lôi kéo, can thiệp, và nuông chiều theo chiều hướng tiêu cực bởi các lực lượng khác như ông bầu, huấn luyện viên, đồng đội, thậm chí trọng tài và xã hội đen,... Điều ấy, nhanh chóng hoặc dần dần biến tướng họ thành con người khác. Trẻ em như tờ giấy trắng, một số đã tự bôi bẩn mình và để người khác nhuộm đen họ.

Tâm lý và thực tế ở xứ ta, cho thấy, thành tích của bóng đá, hay các môn thể thao khác phần lớn mang tính chất hình tượng "Phù Đổng", bỗng một ngày kia... tuy rằng đã có một số thành tích vang dội, nhưng chỉ như vậy, nó vẫn là kết quả của bệnh thành tích, sẽ không lâu bền bởi sự thiếu căn cốt. Căn bệnh khó chữa này có tên là "sự thiếu chuyên nghiệp". Hiện nay, không riêng gì bóng đá, nền thể thao ở xứ ta nói chung, đang mắc nặng căn bệnh này!...

Điều này, tôi thật sự không mong muốn.

Dẫu sao, kỳ tích của U23 VN tại VCK U23 Châu Á, chúng ta cũng có cái để mà hy vọng!... Và nếu như, điều đáng tiếc xảy ra, họ để tuột mất chức vô địch, thì khi trở về, họ vẫn được đón tiếp như những nhà Vô địch...

 

@ PS: Cập nhật lúc 18h30 ngày 27.01. 2018:

 

Vậy là cuộc chơi đã kết thúc.

Chắc chắn, trận đấu này sẽ đi vào lịch sử bóng đá Việt Nam, thậm chí, lịch sử bóng đá Châu Á, và bóng đá thế giới, bởi:

Cái cách mà hai đội Việt Nam & Uzbekistan đi đến trận Chung kết, na ná như nhau,

Thời tiết trên sân khắc nghiệt và rất đặc biệt, nhất là với riêng đội U23 VN, đá bóng mà như đi trượt tuyết vậy.

Lần thứ 3, U23 VN định đưa trận đấu vào loạt sút luân lưu 11m cân não, nhưng bất thành, bởi bàn thua ở phút cuối cùng, phút 120 của cầu thủ Sidorov vào thay người ở phút 119. Quá tam ba bận, khó lắm thay.

Có chút kém vui, chút tiếc nuối, ấy là dự đoán của tôi đưa ra về kết quả cuối cùng, trước trận chung kết đã đúng, mặc lòng tôi mong nó sai, nhưng bóng đá là vậy...

Cho dù thế nào, các chiến binh U23 VN dưới sự dẫn dắt của ông Thầy xứ kim chi, HLV Park Hang Seo đã là nhà Vô địch trong lòng người hâm mộ bóng đá Việt Nam !...

Và nếu tôi không nhầm, đây sẽ là thành tích cao nhất của vị huấn luyện viên này, kể cả khi ông vẫn tiếp tục dẫn dắt đội U23 và Đội tuyển bóng đá Việt Nam, ngay cả khi ông đi tìm kiếm vận may ở nơi khác đi chăng nữa,...

Mong là, thành công này, sẽ là một sự doping về tinh thần, một cú huých đích đáng cho bóng đá xứ ta nhích lên !...

 

 

 

 

12. Phỏng vấn nhà văn Võ Huy Tâm

 

 

Trong hành trình làm báo của mình, gặp gỡ, hỏi chuyện các nhà văn, nhà thơ hoặc các văn nghệ sĩ khác, để phục vụ cho nghiệp vụ báo chí của mình hay đơn thuần thỏa chí tò mò, bao giờ cũng có cái ký thú riêng. Với tôi, trong tư cách của người làm báo chuyên nghiệp, hoặc tư cách của một người sáng tác văn thơ, tôi đã từng gặp một số vị nổi tiếng trong làng văn chương xứ ta, như Văn Cao, Anh Thơ, Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Tào Mạt, Ma Văn Kháng, Phạm Hổ, Võ Huy Tâm, Phùng Quán, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Huy Thiệp v.v... song có lẽ, cuộc gặp gỡ và phỏng vấn nhà văn Võ Huy Tâm là cho tôi ấn tượng mạnh và thú vị nhất.

Số là, năm 1995, nhằm kỷ niệm 50 cách mạng Tháng Tám thành công, tôi làm chủ biên, cùng hai đồng nghiệp là nhà báo Nguyễn Huấn và Trần Nhật Minh, được Ban biên tập Văn hóa Xã hội của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) giao thực hiện một chương trình Tạp chí truyền thanh với thời lượng 45 phút, về chủ đề này. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, chúng tôi quyết định chọn cái tứ của Tạp chí, ấy là so sánh sự thay đổi về đời sống ở thời điểm trước năm 1945 với thời điểm hiện tại của hai thành phần cốt cán là nông dân và công nhân. Và để thể hiện điều này, chúng tôi chọn sự biểu hiện thông qua các tác phẩm văn học hiện thực ở thời điểm trước năm 1945, của hai nhà văn tiêu biểu là Ngô Tất Tố ( với Tắt đèn, Việc làng ) và Võ Huy Tâm ( với Vùng Mỏ ). Với mảng nông dân, vì nhà văn Ngô Tất Tố đã mất từ lâu, nên chúng tôi tìm đến quê hương của nhà văn Ngô Tất Tố ở Mai Lâm, Đông Anh (Hà Nội) để gặp gỡ người thân của ông và bà con nông dân trong vùng,... Xin phép không kể ở đây. Còn mảng công nhân, có vẻ thuận lợi hơn, khi nhà văn Võ Huy Tâm đang sống ở Cẩm Phả, Quảng Ninh. May mắn, ở thời điểm ấy, Võ Huy Tâm sau một thời gian dài sống trong ngôi nhà tạm trong vùng núi để dạy chữ cho đám trẻ thất học, đã về lại phố, ở ngôi nhà tầng mới khang trang do các công ty Than trợ giúp dựng tặng...

Để gặp được nhà văn Võ Huy Tâm, chúng tôi phải bắt đầu và nhờ cậy nhà văn Dương Hướng, khi đó đang làm việc ở Hải Quan Quảng Ninh và đã trở thành nổi tiếng bởi tiểu thuyết Bến không chồng rồi. Dương Hướng vui vẻ nhận lời, nhưng anh bảo cũng không rõ địa chỉ cụ thể nhà của Võ Huy Tâm, nên chỉ dẫn chúng tôi đến nhà của nhà thơ Trần Ngọc Tảo, hy vọng nhà thơ biết rõ. Khi đến nhà Trần Ngọc Tảo thì vợ ông cho biết là ông vắng nhà, cũng vừa ra khỏi nhà thôi, nghe đâu như đến nhà của nhà văn Tô Ngọc Hiến, rồi rủ thêm ai nữa đi rượu thịt cầy. Nguyễn Huấn nửa cười nửa mếu, bảo: "Trời mưa gió thế này, các bố nhà mình đi rượu thịt chó là nhất trần đời, còn gì bằng nữa, trong khi các con đang khổ ái thế này đây, mấy bố ơi". Tôi thì ngao ngán thật sự. Đận ấy, không hiểu áp thấp nhiệt đới chi đó mà trời Đông bắc mưa tầm tã. Đã gần trưa rồi mà vẫn chưa được việc gì, trong khi công việc gấp, kiểu gì đêm tối cũng phải về đến Hà Nội. Lúc ấy, chưa có điện thoại di động như bây giờ, đành kéo về phòng làm việc của nhà văn Dương Hướng. Lại điện thoại một hồi, rồi Dương Hướng cũng hỏi được địa chỉ nhà riêng của Võ Huy Tâm.

Tạm biệt Dương Hướng, xe chúng tôi nhằm hướng Cẩm Phả trong trời mưa không dứt, lúc thưa lúc mau, qua Cọc 6, rồi thị xã Cẩm Phả cũng hiện ra trong màn mưa. Đường phố ngập sũng, nhiều lúc mưa mau kính gạt nước không xuể, lại dò dẫm hỏi đường một hồi, cuối cùng cũng tìm đúng nhà của ông. Bà vợ ông ra mở cửa, lúc ấy đã quá ngọ.

Vừa mời khách, bà vừa gọi ớ lên gác: "Ông ơi, có các nhà báo của Đài Tiếng nói Việt nam, từ Hà Nội xuống, muốn gặp ông đây này". Nghe tiếng ông í ới trên gác mà mùng. Ông xuống cầu thang, miệng nói oang oang, nhưng chân loạng choạng, tay bám thành cầu thang mà xuống. Sau một hồi giao đãi, tôi hiểu ông đã ngà ngà say. Mà ông cũng tự nhận là vừa cơm trưa xong, có làm dăm ba chén, vừa mới lên gác ngủ trưa thì chúng tôi ập đến. Tôi trực tiếp phỏng vấn, Trần Nhật Minh thì chuẩn bị máy và bấm máy thu, còn Nguyễn Huấn lăng xăng vòng ngoài, chủ yếu lựa góc chụp ảnh bằng cái máy ảnh nhãn hiệu Pratica cũ kỹ của mình. Tuy vẫn chủ động đặt câu hỏi, song tôi mặc cho ông nói thoải mái, chủ yếu là những gì liên quan đến thực tế và quá trình ông viết tiểu thuyết Vùng Mỏ. Ông cao hứng, nói rộng ra nhiều chuyện, đặc biệt ông còn nhớ hết một bài vè dài mô tả đời sống thợ thuyền ở vùng than thời Pháp thuộc. Buồn cười nhất, vì ông đang ngà ngà, lại quá cao hứng, nên tôi liên tục phải điều chỉnh khoảng cách hợp lý từ chiếc micro đến miệng ông sao cho âm lượng thu thanh vừa đủ, không quá to, quá nhỏ. Thấy vậy, hình như ông cũng ý thức được điều này, nên đang cao hứng ông lại hạ giọng như thì thầm, hoặc im bặt giây lát,... Tôi chỉnh chiếc mic gần miệng ông thì ông lại ngả người ngửa đầu ra phía sau, cứ như ông sợ, hay né tránh chiếc mic vậy. Thấy tôi như đánh vật với chiếc mic, Nguyễn Huấn và Trần Nhật Minh bụm miệng cười.

Ngộ nhất, đang trả lời phòng vấn, chợt Võ Huy Tâm nhớ ra, và à lên, gọi vợ: "Bà nó, lên gác lấy cái chai rượu của tôi đang uống dở, chạy ù ra phố, mua thêm rượu về đây để tôi đãi các chú nhà báo ở Đài Tiếng nói Việt nam". Vợ ông thần người ra ngần ngại, phần vì ông đã say mèm, phần vì ngoài trời mưa gió là thế, nhưng hiếu khách thì không thể không đi, nên khi bà lên gác lấy chai, chúng tôi đã can bằng được ông và nhất quyết từ chối, lấy cớ xong việc phải về Hà Nội gấp cho việc dàn dựng chương trình này. Vậy ông mới thôi.

Xong việc, ông khoe là dạo này có làm thơ, rồi tự mình lên gác lấy xuống mươi bài thơ của ông được đánh máy trên giấy xấu, tặng cho tôi và anh em trong đoàn công tác dọc chơi. Những bài thơ ấy, tôi đã đọc kỹ, viết giới thiệu trên đài báo, "Võ Huy Tâm, một chút thơ để lại đời", và sau này, tôi có cho in trong tập sách chân dung văn học của tôi (Trời đất thu hay lòng ta thu-NXB Dân trí, 2016). Tôi cũng không rõ, những bài thơ ấy, ông đã in ở báo chí hay tập sách nào chưa?

Rời nhà Võ Huy Tâm, trời đã sang chiều, mưa cũng đã ngớt dần, đường phố Cẩm Phả vẫn ngập chìm trong nước. Lúc ấy, ai cũng cảm thấy đói meo, bảo nhau tìm một quán ăn nào ăn tạm cho đỡ đói. Tuy đói mệt là vậy, nhưng ai cũng vui vì được việc, vì sự thú vị hài hước từ cuộc gặp gỡ và phỏng vấn nhà văn...

Đây cùng là một kỷ niệm đầy ấn tượng và đáng nhớ trong hành trình làm báo với riêng tôi !...

 

 

 

Nhàn đàm về thư pháp

                                             

 

Mỗi mùa xuân về, mỗi dịp Tết cổ truyền dân tộc, cùng với các phong tục ẩm thực, có nhiều thú chơi cây hoa, trò chơi dân gian, diễn xướng, nhưng thiếu thư họa thì ngày Tết cũng kém đi sự thú vị, tao nhã và ý nghĩa về khía cạnh đời sống văn hóa tinh thần.

Người xưa có câu "Thứ nhất chơi chữ, thứ nhì chơi tranh", hẳn có cái lý của nó. Chơi chữ ở đây, được hiểu là nghệ thuật Thư pháp, mà cụ thể hơn là nghệ thuật viết chữ Hán, cùng với hàm ý chứa đựng trong chữ nghĩa, còn có nghệ thuật thể hiện như một bức tranh; thậm chí còn có cả nghệ thuật vẽ tranh (thủy mặc với các chủ đề sơn thủy, hoa điểu, cây thú, các điển tích ...) trong cùng một tác phẩm, ấy là thư họa.

Trước hết, nghệ thuật thư pháp là dựa trên nền tảng chữ Nho (chữ Hán), vốn cấu trúc cơ bản có tính tượng hình, hội ý là chủ yếu, nên tự thân đã mang tính chất đồ họa rồi. Đấy là cơ sở để người Trung Hoa sáng tạo ra nghệ thuật thư pháp, rồi theo đó, cũng với sự chi phối về văn hóa nói chung, đã có sự lan tỏa sang các nước và vùng lãnh thổ đã, đang và từng sử dụng chữ Hán và nền giáo dục khoa bảng như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Hongkong, Macau, Singapore...

Với Trung Quốc, quốc gia sáng tạo ra nghệ thuật thư pháp, người ta đã tìm thấy dấu vết của bộ môn nghệ thuật này từ thời cổ đại, trên mai rùa, hang động, mộ cổ v.v... Sau này, người được nhắc nhiều và đem lại dấu ấn trong nghệ thuật thư pháp đầu tiên là Lý Tư, vị Tể tướng dưới triều đại Tần Thủy hoàng. Kế tiếp, là những cái tên như Âu Dương Tuân, Chử Toại Lương, và huy hoàng nhất là Vương Hy Chi đời Đông Tấn, người được xưng tụng là Thánh thư, với tác phẩm thư pháp trứ danh là Thiếp Lan Đình, được người đời xem là đệ nhất thư pháp Đông Tây kim cổ. Cùng đó, là những thư pháp gia nổi tiếng như Trương Húc, Liễu Công Quyền, Nhan Chân Khanh, Triệu Mạnh Phủ, Mễ Phất, Hoàng Đình Kiên, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương, Trịnh Bản Kiều... Các hoàng đế Trung Hoa cũng nhiều người có tài thư họa, mà điển hình là Tống Huy Tông (đời Tống), Khang Hy, Càn Long (đời Thanh). Chủ tịch Mao Trạch Đông, và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân cũng được xem là những người có tài thư pháp

Riêng Việt Nam, thời Bắc thuộc, sử sách cũng có ghi chép ít nhiều về nghệ thuật thư pháp, sau khi Thái thú Sĩ Nhiếp (Nam Giao học tổ) truyền bá chữ Hán vào nước ta, tuy nhiên, chưa có thư pháp gia tiêu biểu nào. Rõ nét nhất, phải bắt đầu từ thời Lý-Trần với các nhà thư pháp Hàn Nôm tiêu biểu như vua Lý Nhân Tông, Thiền tăng Thích Thiệu Tuệ, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Phàm Hàm; các Hoàng đế thời Trần là Trần Duệ Tông, Trần Hiến Tông; Lê Hiến Tông rồi các triều đại kế sau là Lê-Mạc như Lê Thánh Tông đều là các thư pháp gia. Có thể kể đến những thư pháp gia nổi tiếng là Nguyễn Tùng, Bùi Sĩ Nho, Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ, chúa Trịnh Sâm, Nguyễn Huy Oánh; đến thời Nguyễn thì thư pháp gia nở rộ, từ các vị vua là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, đến các quan lại, nhà Nho như Ngô Thì Vị, Trần Cân, Cao Bá Quát, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Tư Giản, Bùi Dương Lịch, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Thuật, Ngô Thế Trạch, Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Khuyến, Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, v.v...

Sau này, bẵng đi một thời gian dài, với sự phổ biến phổ thông của chữ Quốc ngữ, và ngoại ngữ là tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, thì chữ Hán (cùng với sụ suy thoái của nền giáo dục khoa bảng nói chung) thì chữ Hán dần bị xao nhãng. Thêm nữa, các cuộc cách mạng, chiến tranh chống ngoại xâm (Pháp, Mỹ), thì không mấy ai còn nói đế thư pháp Hán Nôm nữa, kể cả mỗi dịp Tết Nguyên đán. Người ta chỉ lo sắm sửa bánh chưng, giò chả, hoa đào, hoa mai, chứ không quan tâm đến câu đối, xin chữ đầu năm. Vậy nên, bài thơ Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên mới làm người ta xao lòng đến vậy: “Mỗi khi hoa dào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bầy mực Tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua... / Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ? “...

Cuộc sống dần lo đủ, chiến tranh đã qua lâu, như người xưa nói,  Phú quý sinh lễ nghĩa, nhiều phong tục chơi xuân, chơi Tết dần phục hồi như chọi gà, cờ người, múa lân,...thì phong tục văn hóa chơi câu đối, tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, xin chữ đầu năm cũng hồi sinh...

Thoạt đầu, đó đây, người ta thấy xuất hiện tác phẩm thư pháp của các nhà Hán Nôm như Tào Mạt, Nguyễn Văn Bách, Lê Xuân Hòa... rồi nữa, một số người viết thư pháp bắt đầu xuất hiện bên hè phố cổ, phố cũ, cho chữ vào mỗi dịp xuân tết như Lam Sơn Hồng Thanh, Cung Khắc Lược,... Sự xuất hiện của nhà thư pháp trẻ Lê Quốc Việt, cùng nhóm Thư pháp Tiền vệ của ông đồ trẻ này, đã đem đến sân chơi thư pháp một sinh khí mới, khiến nhiều người trẻ tuổi theo học thư pháp, mà các cụ đồ già cũng phải luyện chữ thêm để không bị tụt hậu sau cánh trẻ. Dần dà, kéo theo nhiều ông đồ vốn từng học chữ Hán, tưởng vốn chữ ấy cất kỹ vào kho, thì nay lôi ra, ngồi luyện bút lông, mực Nho, để mỗi dịp năm mới tràn ra tường ngoài Văn Miếu ngồi cho chữ...

Tôi có biết chút chữ Nho, chủ yếu tự học từ gốc rễ nhà Nho của fia đình, mươi năm nay, cũng tập tọng bút lông, chủ yếu là luyện chữ, học thư pháp qua sách vở, đặng để mỗi dịp Tết cổ truyền, tự viết cho mình làm vui, hoặc tặng cho người thân và bạn bè mà thôi. Bản thân yêu nghệ thuật thư pháp, nên tôi tự sưu tầm, gom góp cho mình được vài chục bức thư họa, của Trung Hoa có, của các ông đồ xứ ta có. Gần đây, tôi có giao du với vài ba nhà thư pháp, thấy thích mà làm quen thôi, trong só đó, tôi thân với nhà thư pháp Thạch Sơn Nguyễn Tường Khải (ông đồ này quê Thạch Thất, Sơn Tây, nên lấy hiệu là Thạch Sơn). Ông tuổi nhỉnh hơn tôi chút, hồi đại học từng học Trung Văn, công tác nhì nhằng, rồi nghỉ hưu, khi tiếng Anh lên ngôi, tiếng Trung, tiếng Nga thất thế, tưởng chẳng có việc gì làm, nhưng rồi, vốn chữ nghĩa và kiến văn của ông lại được trưng ra với đời, nhờ sự hồi phục của tục lệ xin chữ đầu năm. Tôi quý Nguyễn Tường Khải, ở chỗ, không như nhiều ông đõ khác, chỉ đợi mỗi dịp xuân tết thì ra ngồi cho chữ với vốn liếng vài chục câu chữ đại tự quen thuộc, ông đã mầy mò, luyện chữ bằng cách thủ bút thư pháp những bài thơ Hán Nôm nổi tiếng xưa nay, như Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư, Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ... thậm chí, ông còn thử sức với Thiếp Lan đình nổi tiếng theo mẫu hành thảo của Vương Hy Chi xưa ... Tôi còn được biết, Thạch Sơn Nguyễn Tường Khải đã từng  được nhờ thủ bút bài thơ Hán Nôm tặng một lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước vào dịp Tết Bính Thân ( 2016 )...

Có lần, Thạch Sơn Nguyễn Tường Khải nhẩn nha tâm sự rằng "Nhu cầu con người ta là vô hạn, thỏa mãn nhu cầu về vật chất đã khó, song thỏa mãn nhu cầu về hưởng thụ văn hóa còn khó hơn ...".

Tôi hiểu, nhà thư pháp Nguyễn Tường Khải muốn đặt cái nghiệp "cho chữ" mà ông đang đeo đuổi vào hoàn cảnh này!... Giờ thì ông và các ông đồ bạn hữu đang thỏa sức vung bút như rồng bay phượng múa nơi Hồ Văn, Văn Miếu dịp xuân Mậu Tuất này, đặng đem lại niềm hứng khởi tinh thần cho mọi người !...

 

 

 

 

 

 

 

14. Non xanh nguyên vẻ cũ,...

 

 

Đây là một câu thơ trong bài thơ Lâm Giang tiên của Dương Thận, một thi sĩ đời Minh ở Trung Quốc. Nếu chỉ có vậy, hẳn bài thơ này sẽ ít người biết, nhưng nó đã trở thành nổi tiếng, bởi bài thơ này đã được phổ nhạc, thành bài hát đầu phim Tam Quốc diễn nghĩa, một bộ phim truyền hình lịch sử được chiếu trên truyền hình Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác bấy lâu nay, làm say mê triệu triệu người xem. Xin không bàn đến tính âm nhạc hào hùng bi tráng của ca khúc này, mà chỉ bàn về phần lời mà thôi. Ấy là bài thơ Lâm Giang tiên của Dương Thận thi sĩ nọ...

Sở dĩ, tôi bàn về bài thơ này, là bởi, tôi cảm thấy hài lòng khi vừa sưu tầm được một bức thư pháp thể hiện Lâm Giang tiên do Nhà thư pháp Đỗ Tụ thủ bút.

         

Bản chữ Hán:

臨江仙

滾滾長江東逝水,

浪花淘盡英雄。

是非成敗轉頭空。

青山依舊在,

幾度夕陽紅。

 

白髮漁樵江渚上,

慣看秋月春風。

一壺濁酒喜相逢。

古今多少事,

都付笑談中。

 

Bản âm Hán Việt:

Lâm giang tiên

 

Cổn cổn Trường Giang đông thệ thuỷ,

Lãng hoa đào tận anh hùng.

Thị phi thành bại chuyển đầu không.

Thanh sơn y cựu tại,

Kỷ độ tịch dương hồng.

 

Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,

Quán khan thu nguyệt xuân phong.

Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.

Cổ kim đa thiểu sự,

Đô phó tiếu đàm trung.

 

          Dịch thơ:

 

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông

          Sóng vùi dập hết anh hùng

          Được, thua, phải, trái, thoắt thành không

          Non xanh nguyên vẻ cũ

          Mấy độ bóng tà hồng!

 

          Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi

          Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong

          Một bầu rượu vui vẻ tương phùng.

          Xưa nay bao nhiêu việc

          Phó mặc nói cười suông

          ( Phan Kế Bính dịch )

 

Bài thơ giàu nhạc điệu, bi tráng và da diết làm sao, vừa khơi gợi mà lại an ủi, vỗ về nỗi đau của con người, Như một triết lý nhân sinh về chiến tranh, khiến người ta cảm hoài không thôi,... Thực lòng, khổ 2 bài thơ này, học giả Phan Kế Bính dịch chữ nghĩa quá. Tôi yêu cách dịch mộc như lời bài hát trong phim hơn "Bạn ngư tiều giãi giàu trên bãi/ Tính đã quen gió mát trăng trong/ Một bầu rượu cũ vui bầu bạn/ Chuyện đời tan trong chén rượu nồng".

 

Tôi có thói quen, cứ mỗi độ xuân tết, tôi hay lang lang ra Hồ Văn, Văn Miếu-Quốc tử giám, thưởng thức và trò chuyện với các ông Đồ thời nay, rồi sưu tầm nhừng bức thư pháp ưng ý. Tôi đặc biệt thích những thư pháp thể hiện cổ thi Hán Nôm, vì ngoài giá trị về hình thể thư pháp, mình còn được thưởng thức hàm ý chữ nghĩa cao thâm của triết học và thi ca. Thế nên, những bài thơ như: Xuân hiểu của  Mạnh Hạo Nhiên, Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, Lương Châu từ của Vương Hàn, Tĩnh dạ tư của Lý Bạch,... hay Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiên sư, Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan,v.v... được thể hiện bằng thư pháp, tôi đều thích thú và cố gắng sưu tầm.

Năm nay, trước tết Nguyên đán, tôi rủ một người bạn học, tên Hoàng Gia Trình, cùng chơi hội chữ Hồ Văn. Bạn tôi là người từng học Trung Văn, lại là tín đồ của tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa (Đông Chu liệt quốc, Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du ký, Thủy Hử truyện, Hồng Lâu mộng, Túy Đường diễn nghĩa, Kim Bình Mai, Thanh Cung mười ba triều v.v...) và truyện kiếm hiệp Kim Dung. Tôi và anh có thể hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm đàm thoại với nhau về sách vở loại này. Vậy nên, hai chúng tôi vừa thưởng ngoạn thư pháp vừa trò chuyện về lịch sử và các nhân vật... Rồi chúng tôi sà vào một thư quán của ông đồ có chòm râu dài bạc trắng, ấy là Đõ Tụ. Phong thái và chòm râu bạc của ông Đồ này đã ấn tượng, song mấy bức thư pháp ồng treo trên vách quán hấp dẫn chúng tôi hơn, đó là mấy bức chép Phong Kiều dạ bạc, Lâm Giang tiênCáo tật thị chúng. Nét chữ cứng cáp nhưng vẫn khoáng đạt, uyển chuyển với thể chữ Hành và Hành Thảo khiến chúng tôi thích thú. Vậy là hai chúng tôi cùng ông đồ Đỗ Tụ đàm đạo một hồi và kết quả là tôi có trong tay bức thư pháp Lâm Giang tiên trên giấy dó và Hoàng Gia Trình có Cáo tật thị chúng trên giấy điệp.

Trời mưa xuân rắc bụi nước mờ mịt làm khu Hồ Văn bỗng trở nên sương khói chiều muộn...

 

 

 

Nỗi nhớ hoa Đào

( Viết cho người tri kỷ )

 

          Với riêng tôi, có 3 loài hoa tôi yêu thích, mà mỗi khi thấy, trong lòng tôi lại dâng lên những xúc cảm sâu xa và mỹ cảm về cái đẹp. Ấy là, hoa đào (phải là đào phai rừng núi), hoa mai trắng (là mai quân tử, hàn mai) và hoa thủy tiên,... Tại sao lại như vậy? Thật khó giải thích ngọn ngành. Đơn giản, cứ coi như một sở thích tự nhiên, hay cũng có thể xem như một sự tập nhiễm, từ khi nào chẳng rõ ?...

          Nhưng hãy khoan, chưa vội bàn về ý thích loài mai trắng và thủy tiên, chỉ nói về hoa đào núi... trước hết, như một sự đền đáp cho người bạn thân của tôi ở phương Nam xa xôi, nơi không có hoa đào nở mỗi độ xuân về, Tết đến với nỗi nhớ hoa đào của người ấy,...

          Mùa xuân xứ Bắc, tết Nguyên đán, đã là sự mặc định từ xa xưa, bánh chưng xanh, câu đối đỏ và hoa đào. Thiếu một trong ba thứ ấy, tết là chưa đầy đủ, cả về vật chất và tinh thần.

          Còn với tôi, bản chất ham đọc sách, nghề nghiệp, công việc hay đi đây đó, cộng thêm chút lãng tử, lãng mạn thơ văn trong mình, nên tôi đặc biệt yêu thích hoa đào núi. Khác với loại hoa đào được trồng và chiết cành, chăm bón cầu kỳ nơi vườn tược, loài đào rừng núi vốn là đào ăn quả, cành lá tự nhiên, thân khỏe, sống trong điều kiện khí hậu địa chất khắc nghiệt, nên đậm chất hoang dại. Đấy chính là sự khác biệt, làm nên vẻ đẹp riêng có.

          Ở rừng núi phía Bắc, có 4 vùng đào núi nổi tiếng xưa nay, ấy là: Mộc Châu (Sơn La), Sa-pa, Y Tý (Lào Cai), Đồng Văn (Hà Giang) và Mẫu Sơn (Lạng Sơn). Cùng là đào núi, nên chúng có những đặc điểm tự nhiên giống nhau như thân cành chắc khỏe, sần sùi, thế cây đa dạng, mà chỉ khác nhau ở hoa, độ dày cánh và màu sắc thôi. Đào Mộc Châu, Mẫu Sơn  và Sa-pa là những vùng núi đất trộn đá, khí hậu lạnh ít nhiều giống nhau, cánh mỏng manh, khi nụ và chớm nở màu hồng, khi nở mãn thì sang màu trắng ngà, rồi trắng tinh. Còn đào Y Tý và Đồng Văn là những vùng núi đá, nên cánh hoa dày và bên hơn, lúc chớm hay mãn vẫn giữ màu hồng, chỉ đậm nhạt khác nhau mà thôi.

          Nhiều năm nay, mỗi dịp tết, cứ sau độ rằm tháng Chạp, tôi thường mua một cành đào nho nhỏ, giống đào Nhật Tân, nay được trồng ở các vùng lân cận, cằm bình, chơi tết sớm. Là để được hưởng bầu không khí tết trước, là thỏa mãn ít nhiều sở thích yêu hoa đào, và còn có ý chờ đợi một cành đào rừng núi chơi chính Tết.

          Bạn bè, người quen của tôi, nhiều người biết sở thích này, nên vào mỗi dịp xuân tết, bao giờ cũng gửi cho tôi đào núi, đủ chơi ở nhà và cả văn phòng công sở. Có những năm, nhân chuyến công tác miền núi, thậm chí, tôi rủ bạn tự đi đến một trong những vùng đào rừng nổi tiếng ấy, tự kiếm cho mình những cành đào ưng ý.

          Xuân Mậu Tuất này, một nữ phóng viên truyền hình đóng ở khu vực Tây Bắc, trong chuyến về Hà Nội họp tổng kết cuối năm, đã kỳ công rước một cành đào Mộc Châu tuyệt đẹp tặng tôi chơi Tết, kèm một lời nhắn “Hôm nào đào nở đẹp, anh nhớ chụp ảnh gửi qua mạng cho em xem với, cũng là để kiểm tra xem em chọn đào có chuẩn không, có hợp gu thẩm mỹ của anh không?”. Thật cảm động với thịnh tình đó.

          Nhưng có chút không may, trước Tết vài ngày, tôi gặp trục trặc về sức khỏe. Ngồi ru rú một chỗ với sự đau nhức của thân thể, lòng kém vui và không đủ độ hưng phấn để thưởng hết cái đẹp của cành đào núi từ lúc lác đác chớm nở đến độ mãn khai. Khách đến chúc tết nhà, ai cũng tấm tắc khen cành đào quá tuyệt, trong khi chủ nhà chỉ đủ sức nhếch mép cười và gật gù cho phải phép. Mấy ngày chính Tết, đào nở rộ, đẹp lắm, tôi cũng gắng chụp vài bức ảnh, chát hình lên, báo cáo cô phóng viên nọ, đặng tỏ lòng tri ân người tặng đào...

          Sau vài tuần nằm bệnh viện, khi xuất viện thì cành đào cũng đã bỏ đi rồi. Nó được chặt nhỏ thành cành, khúc để đủ bỏ vào xe rác. Người chưa khỏe nên có chút tiêng tiếc nhưng không đủ cảm xúc để viết gì.

          Nay, nhân được đọc một tản văn ngắn của người bạn thân nơi phương Nam xa xôi về hoa đào, người mà hình như, tết nào cùng dành những dòng viết về cái đẹp, cái mỏng manh, cái thời khắc, cái rụng rơi trôi chảy của cánh đào và nỗi nhớ hoa đào, tôi viết những dòng này, như một sự tri ân với người còn trân quý và say mê hoa đào hơn tôi nhiều!...

          Và tôi, cầu mong, người ấy hạnh ngộ và may mắn, hơn nàng Đại Ngọc của nhà văn Tào Tuyết Cần trong tác phẩm bất hủ “Hồng Lâu Mộng” chỉ biết khóc thương khi chôn hoa đào và ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình mai sau...

          Hạnh ngộ và may mắn nhé, người mang “nỗi nhớ hoa đào”!...

 

 

 

 

 

Ngày nào mà chẳng là ngày của mẹ ?,...

 

 

Ngày 13 tháng 5 năm nay (2018), cả thiên hạ um lên, gọi là Ngày của mẹ. Ngày xưa, ở xứ ta, có thấy ai nói gì về cái ngày này đâu. Thôi thì, thời đại mới, international mà, giao thoa và du nhập văn hóa ngoại lai, là chuyện bình thường, nên có thêm, nếm ngày này ngày nọ cũng chả chết ai. Hễ Tây có cái gì thì rồi trước sau, Ta cũng có cái đó. Còn cái Ta có thì chưa chắc Tây nó màng. Ấy là cái lý của kẻ mạnh, kẻ được xem là văn minh mà...

Trước hết, tôi phải nói lời xin lỗi, với hết thảy những ai thích và tung hô cái ngày này, tức là cái ngày được gọi là Ngày của Mẹ ấy, bởi thực ra, dù là du nhập, thì nó cũng rất chi là hữu ích, chí ít là nhắc nhở mỗi con người ta, nghĩ về và biết ơn công lao sinh thành và dưỡng dục của mẹ mình, dù là mẹ còn sống hay đã khuất núi. Vậy là tốt chứ sao?!

Song thú thật, cho đến tận bây giờ, tôi mới tò mò tìm hiểu xem, Ngày của Mẹ là như thế nào, khi mà các phương tiện truyền thông phát triển, nhất là mạng xã hội, khi xứ ta cũng bàn nhiều đến ngày này. Rất dễ dàng để biết rõ về ngày này, từ tên gọi, nguồn gốc, xuất xứ và ý nghĩa của nó...

"Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ 2 của tháng 5 hằng năm, nhằm tôn vinh những người mẹ trên khắp thế giới, thể hiện tình yêu thương của con với người đã sinh ra mình... Ngày của Mẹ tên tiếng Anh là Mother’s Day, là một ngày lễ truyền thống của nhiều quốc gia trên thế giới...". Đấy, ngắn gọn nhất những gì người ta đã viết về nó...

Thì ra, ngày này có nguồn gốc từ thời Hy La cổ đại, trước Công nguyên khá lâu, khi người dân xứ này có tục làm lễ cúng tế các nữ thần, nhất là thần Rhea-mẹ các nhiều vị thần Hy Lạp, La Mã vốn được họ tôn thờ. Điều này thì tôi được biết khi đọc bộ sách Thần thoại Hy Lạp từ ngày còn đi học. Rồi nữa, lại cũng có quan điểm cho là nó có xuất xứ từ nước Anh hồi đầu thế kỷ 17... Với xứ Tây, họ vốn sớm rành mạch kiểu "tiền bạc phân minh, ái tình sòng phẳng", quan hệ vợ-chồng, cha mẹ-con cái cũng rất rạch ròi, thì việc có một ngày trong năm được coi là Ngày của Mẹ là rất cần thiết.

Mà thôi, cũng chẳng cần phải truy nguyên thêm nữa, khi vấn đề tôi muốn nói ở đây, ấy là vị trí và vai trò của người phụ nữ Phương Đông (cụ thể là hình tượng Người Mẹ) trong mỗi gia đình quan trọng đến mức nào? Với Trung Quốc, một đất nước đông dân nhất thế giới, lại mấy nghìn năm chịu ảnh hưởng của Nho giáo, người phụ nữ không được coi trọng ("Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô"), thì người phụ nữ-người mẹ ở mỗi gia đình trong thực tế rất quan trọng nhưng trong quan niệm lại bị coi nhẹ; Còn với xứ ta, vốn tôn thờ Đạo Mẫu, thì dù có bị Nho giáo chi phối ít nhiều, người mẹ luôn giữ vai trò quan trọng với mỗi gia đình, cả về quan niệm và thực tế đời sống xã hội ...

Tôi nghĩ, ở xứ sở này, có ngày nào không phải là Ngày của Mẹ cơ chứ?! Trong mỗi mái nhà, chỉ cần vắng bóng người phụ nữ (người mẹ) một ngày thôi, mọi việc sẽ rối tung cả lên... Người mẹ, hiển hiện mọi lúc mọi nơi, người mẹ là biểu hiện của sự lo toan, sự ổn định và yên ấm, là trung tâm kết nối của các mối quan hệ riêng chung ... Vậy thì, ngày nào cũng có thể xem là Ngày của Mẹ, Vậy thôi!... Với mỗi chúng ta, mẹ mình, mẹ của các con, mẹ của các cháu mình, về cơ bản, đều có thiên chức và thói quen tập nhiễm giống nhau... Cứ thế, nước mắt chảy xuôi ... Lại nghĩ, dân gian từ xa xưa có câu "Mất cha thì ăn cơm với cá, mất mẹ thì liếm lá đầu đường" là gì... Nói vậy, hẳn phải có cơ sở, lý do của nó ...

Thôi, cũng chằng cần lý sự nữa mà làm gì. Mỗi người, chỉ cần nhìn và ngẫm nghĩ về bà nội, bà ngoại của mình, rồi mẹ mình, và mẹ của các con mình, là đủ thấu hiểu, ở cái xứ sở này, một năm 365 ngày: Ngày nào cũng là ngày của Mẹ !...

Vinh hạnh thay !

Và cũng nhọc nhằn lắm thay!!!...

 

 

Ngày xưa, tôi có một người bạn,...

 

 

Ngày xưa, tôi có một bạn, anh tên là Lê Kim Liên. Một cái tên đẹp, nhưng đọc lên, người ta ngỡ là con gái. Khi được hỏi, tại sao là con trai mà lại mang cái tên đầy nữ tính thế, anh giải thích, đơn giản, mang họ Lê, người xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cha mẹ anh đặt tên cho anh như vậy, là thể hiện sự tự hào về mảnh đất đã sinh ra Người, vị anh hùng dân tộc, đã sáng lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, danh nhân Văn hóa thế giới...

Anh cỡ tuổi tôi. Học xong Trung cấp nghề cơ khí Máy nông nghiệp ở ngoài Bắc, anh được điều vào công tác tại Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, trước tôi gần 2 năm. Ngày ấy, huyện Tri Tôn có khá nhiều người được điều động từ miền Bắc vào công tác, cắm ở các ngành nghề khác nhau. Chuyên viên tổ chức HTX nông nghiệp, có 2 bác lớn tuổi quê Thái Bình, một nguyên là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp, một nguyên là Chủ tịch UBND xã ở ngoài quê; ngành Thủy lợi, có anh S, kỹ sư; ngành Ngân hàng có anh M, tốt nghiệp Cao đẳng Ngân hàng; ngành Giáo dục, có các anh Ph, anh D, anh TA; ngành Nông nghiệp có anh V, Lê Kim Liên, và tôi, cùng anh T (nguyên bộ đội chuyển ngành học trước tôi một khóa ở Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam). Ngoài ra, còn một vài người nữa ở các ngành nghề khác như Bưu điện, Thương nghiệp, ...

          Mùa mưa bão năm 1981, tôi và anh T, cùng một số anh chị em khác, tốt nghiệp các khóa 20 và 21 của Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, nhận quyết định của Bộ vào nhận công tác ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Trên đường vào, chúng tôi gặp trắc trở, mưa bão gây sạt lở nhiều đoạn trên đèo Cù Mông và đèo Cả, khiến tàu Thống Nhất (xe lửa) hành trình Bắc-Nam là 72 giờ, thành một tuần mới đến được Ga Sài Gòn sau mấy lần tăng-bo qua những đoạn sạt lở. Xuống miền Tây, về thị xã Long Xuyên, nộp giấy tờ, đợi thêm mươi ngày nữa, tôi và anh T nhận quyết định của Ban Tổ chức chính quyền tỉnh điều tiếp xuống công tác tại Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn. Khi ấy, huyện này mới được tách ra từ huyện cũ Bảy Núi thành hai huyện là Tịnh Biên và Tri Tôn.

          Lúc đó, thị trấn Tri Tôn là huyện lỵ mới, lại vừa qua cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979 với Khơ-me Đỏ, nên hoang tàn và đơn sơ lắm. Ban Nông Lâm nghiệp huyện đóng tại một vườn chùa cũ, không chủ, nhưng nghe đâu, người chủ cũ bỏ ra nước ngoài vào thời điểm Giải phóng miền Nam năm 75. Thế nên, nhà cửa cũ nát xen với nhà dựng tạm, vách và mái đều bằng tôn. Công sở đã vậy nên nhà ở cho cán bộ công nhân viên từ nơi khác đến, nhất là những người thuộc diện đều động từ miền Bắc vào như chúng tôi, rất khó khăn. Tôi và anh T được xếp ở chung một phòng cũ, diện tích chừng mươi mét vuông. Vậy là còn khá, chứ Lê Kim Liên, dù vào trước, vẫn không có chỗ ở, nên anh phải ở nhờ nhà anh V, khi đó là Trạm trưởng Trạm Thú y huyện, quê ngoài Quảng Bình, tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc, vào công tác từ ngay những năm đầu sau giải phóng. Anh V đã đưa vợ con từ quê vào sinh sống. Vì có gia đình riềng, nên anh V được huyện cho mượn tạm chút đất vườn trống gần cơ quan, cất mấy gian nhà lá thưng vách lá dừa, mái tôn, để ở. Vì là người miền Trung với nhau, dễ thông cảm và giúp đỡ nhau, Liên ở nhờ đấy, góp tiền ăn cơm chung với gia đình anh V cũng tiện đôi đường.

          Cả huyện có hơn chục người miền Bắc vào công tác, cùng hoàn cảnh nên mọi người biết nhau cả, và cũng nhanh chóng làm quen, chơi với nhau. Tiếng là vậy, song còn hợp tính hợp nết thì mới thân nhau được. Những ngày đầu, tôi và anh T ăn bếp ăn tập thể cơ quan, còn Liên cơm gia đình, lại thêm, mỗi vụ máy cày xuống đồng, anh đi liền cả tháng chỉ đạo cày bừa ở địa bàn, thi thoảng đáo về cơ quan, nên quan hệ bạn bè chỉ sơ sơ vậy thôi. Sau hơn nửa năm, anh T chán chường, xin về phép dài, khi trở vào, làm thủ tục thôi việc. Tôi thông cảm với hoàn cảnh anh T, là bộ đội chuyển ngành, đã có vợ và hai con, nhà ở ngoại thành Hà Nội, nên không chấp nhận cuộc sống xa nhà đằng đặc như thế này. Anh T về Bắc, tôi chống chếnh một thời gian, chỉ trông chờ vào chủ nhật, lập nhóm nhậu nhẹt với M, cán bộ Ngân hàng và D, giáo viên trường THPT huyện mà thôi. May mà, khi ấy Liên thấy ở nhờ nhà anh V lâu ngày cũng sinh bất tiện, nên thôi, sang kê giường ỏ ngay khu nhà để máy kéo của Ban Nông Lâm, và ăn cơm bếp tập thể như tôi. Vậy là cùng hoàn cảnh, tôi và Liên thân nhau hơn.

          Tên thì như con gái, nhưng Liên là người khá đẹp trai và đầy nam tính. Anh cao gần mét bảy, thân thể khỏe mạnh, cơ bắp săn chắc, mặt vuông chữ điền, cái nhìn lại khá mơ mộng. Cái quý ở anh, tính tình cởi mở, xuề xòa, hay cười, hàm răng trắng đều và mỗi khi cười là tít hết cả mắt. Thêm nữa, anh hay giúp đỡ người khác, nhất là những việc nặng nhọc. Sau này, bếp ăn tập thể tan, tôi và Liên, hai thằng người Bắc, tự chợ búa, nấu cơm chung với nhau. Tôi chúa ngại việc chợ búa, nên Liên đảm nhiệm việc đi chợ, xách nước, chẻ củi, còn tôi thì nấu ăn. Thỉnh thoảng Liên nhày vào bếp, tranh phần nấu nướng, nhất là chế các món ăn đặc trưng xứ Nghệ quê mình.

          Sau này, cơ quan làm thêm một ngôi nhà mới, mấy gian giữa là nơi làm việc chung, hai phòng đầu hồi, một dành làm Kho thuốc Thú y, một dành cho tôi ở. Tôi rủ Liên dọn vào đấy ở chung, bởi nơi ở tạm của anh tại Nhà để máy kéo trống huếch trống hoác, mái tôn rất nóng, lại nặng mùi xăng dầu máy, rất khổ. Khổ nỗi, ngay phía sau ngôi nhà mới, cách một hàng rào là gò đất cao trội hẳn lên, dân trong khu vực dành làm nghĩa địa, vì đồng ruộng quanh năm ngập nươc, mộ mới mộ cũ lẫn lộn, kinh lắm. Những ngày Liên ở nhà, đêm ngủ, chúng tôi mở cửa sổ sau để gió đồng lùa cho mát, còn những ngày anh vào vụ cày, đi địa bàn, một mình tôi ở nhà, thì ban đêm, dù nóng mấy, tôi đều đóng tịt của sổ sau vì sợ bóng sợ vía cái nghĩa địa liền kề đó, nhất là mỗi khi có mộ mới chôn. Ngày ấy, chưa có điện lưới, điện chạy máy phát, đèn đỏ quạch, và cũng chỉ có tử chập tối đến chừng mười giờ đêm là tắt hẳn. Đêm ngủ, vẫn phải hãm đèn dầu hỏa bằng hạt đỗ để lấy ánh sáng, đặng biết lối đi và cũng đỡ cô độc, đỡ sợ.

`        Về chuyện gia dình, khi ấy, Liên đã cưới vợ được vài năm rồi, nhưng vì xa xôi cách trở, mỗi năm chỉ đi phép cả đi lần về chừng già nửa tháng, nên vợ chồng Liên vẫn chưa có con. Còn tôi, khi bước chân vô Nam, tôi để lại miền Bắc người mẹ già sống một mình và người bạn gái, người Hà Nội, vốn là bạn học cũ của tôi thời gia đình cô sơ tán về vùng quê tôi, khi ấy được điều động đi dạy ở một trường Trung học phổ thông thuộc vùng xa của Hải Dương. Những buổi tối rỗi rãi, hai thằng hay làm xị đế, mồi nhậu thường đơn giản là ít khô cá đuối nướng, xoài xanh chấm với nước mắm pha đường thốt-nốt, ngà ngà say thì nghêu ngao hát với nhau cho đỡ buồn. Hổi tốt nghiệp xong, chờ quyết định phân công, để đỡ sốt ruột, tôi mượn cây ghi ta của một người quen, bập bùng tập đàn như mèo cào. Khi vào Tri Tôn, đi làm có lương, thiếu thốn nhưng tôi cố tiết kiệm mua một cây ghi ta, tập tành nhiều, tuy chẳng có khiếu thì cũng đàn được vài bài. Liên đàn cũng vậy. Những lúc như thế này, hai thằng thay nhau ôm đàn, chỉ chốc lát là hết mấy bài tủ, thế là vỗ đàn rầm rầm, hát tầm phào, chẳng bài nào ra bài nào cả. Liên hát khá hay, hết nhạc Trịnh lại sang nhạc sến, dòng bolero sầu bi, ảo não. Tôi thì chỉ hát hùa theo chốc lát, chán, lại tự đọc thơ mình. Chốc chốc, Liên kêu to “Vợ ơi, nhớ vợ quá“. Kêu vậy, rồi cười khà khà, mặt đỏ bừng, mắt típ lại, vừa khôi hài, lại có gì đó tội nghiệp. Những tưởng, nhậu cho say, cho quên đi ngày tháng, hát hò cho đỡ buồn, nhưng rồi lại buồn hơn. Mỏi miệng, khản cổ, chẳng ai thèm hát nữa. Rồi Liên mang chuyện vợ mình ra kể. Tôi cũng rỉ rả chuyện về bạn gái của mình... Kể chán thì ngủ. Lại một ngày mới ...

          Ngày đó, tôi biết Liên yêu và nhớ vợ anh lắm. Mà phàm có vợ rồi, lại canh cánh chuyện sinh con đẻ cái, thứ nghĩa vụ không thể coi thường. Liên rất chăm viết thư cho vợ. Chữ anh viết khá đẹp. Đặc biệt, khi viết tên và địa chỉ người nhận trên phong bì thư, anh nắn nót lắm, nên đến giờ nghĩ lại, tôi vẫn nhớ. Nếu không nhầm, vợ Liên tên là Hoài Phương, mang họ gì thì tôi nhớ không chính xác, còn địa chỉ, cô ấy công tác ở Phòng Tài chính của huyện Kỳ Sơn, một huyện miền núi biên giới giáp Lào của tỉnh Nghệ An. Đều chăm viết thư như nhau, nên cả tôi và Liên cùng có chung một nỗi đợi chở và niềm vui mỗi khi nhận được thư từ miền Bắc gửi vào… Lâu lâu, khi có tiền, Liên lại tự đi chợ, lựa mua vải vóc, ra bưu điện huyện, gói kiện gửi cho vợ anh may quần áo.

          Mấy năm đó, nếu năm nào không nghỉ phép ra Bắc, thì tôi lại mò sang tỉnh Minh Hải (khi ấy chưa chia tách lại thành Cà Mau, Bạc Liêu như bây giờ) để thăm mấy người bạn cùng lớp đại học, công tác ở đấy. Song cũng vui là được đón bạn đến chơi. Vui nhất, là một chiều, tôi và Liên đang hì hụi nấu cơm thì nghe có tiếng ai hỏi thăm tên tôi ở phía ngoài, ngẩng nhìn lên, thấy một người trang phục quân đội chỉnh tề, áo có gù vai, mũ sĩ quan, kiểu trang phục như đội danh dự trong các lễ nghi quốc gia. Thì ra, đấy là anh Nguyễn Sĩ Bình, một người bạn học của tôi ở Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Anh Nguyễn Sĩ Bình hơn tôi vài tuổi, là sĩ quan được quân đội cử đi học và học sau tôi vài khóa. Chúng tôi quen và chơi với nhau từ hồi sinh viên, cùng bạn ngày đó còn có Trịnh Bá Ninh, sau này là Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam. Dịp nghỉ phép ra Bắc trước đó, tôi có ghé về trường cũ thăm anh Nguyễn Sĩ Bình, và được anh cho biết, sau tốt nghiệp, anh sẽ xin về là phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Không ngờ là sự thật, anh Nguyễn Sĩ Bình vừa nhiệm sở, làm phóng viên tại Ban Đại diện Báo QĐND tại thành phố Hồ Chí Minh, chuyến công tác đầu, anh chọn đi địa bàn Miền Tây Nam bộ, để có điều kiện đến Tri Tôn, An Giang thăm tôi. Vui và cảm động lắm. Anh, khi ấy có bút danh là Sĩ Bình, được tôi đưa đi thăm thú mấy địa danh nổi tiếng trong vùng, ấy là Ba Chúc, nơi xảy ra vụ thảm sát dân thường của Khơ-me Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam, và đồi Tức Dụp, quả đồi được mệnh danh là đồi 2 triệu đô la, bởi trong chiến tranh chống Mỹ, máy bay của Mỹ Ngụy đã bắn phá khu căn cứ du kích cách mạng nơi đây một khối lượng bom đạn giá trị tương đương vậy. Tôi và Liên rất vui, tất bật chợ búa, nấu ăn, đón tiếp anh Sĩ Bình. Liên coi bạn tôi như bạn anh. Sẵn có máy ảnh, anh Sĩ Bình đạo diễn, chụp cho chúng tôi rất nhiều ảnh. Khi về lại thành phố Hồ Chí Minh, anh Sĩ Bình rửa ảnh và gừi lại cho tôi và Liên cả tập ảnh, chia nhau mỗi người giữ một nửa.

          Cứ thế, thấm thoắt, mỗi người một công một việc. Lúc cả hai đều ở văn phòng Ban, lúc người này người kia đi địa bàn công tác. Liên khá quảng giao, anh có nhiều bạn bè chiến hữu người địa phương cùng ở Trạm Máy kéo với anh. Còn tôi, cũng vậy, ngoài mối quan hệ với bạn bè trí thức từ Bắc vào, như anh V, anh Ph, rồi M. D,... tôi còn quý mến, nhở vả mấy người chị gốc Bắc lấy chồng là cán bộ tập kết; và nữa, anh chàng Châu Vôn, người Khơ-me bản địa, là thủ kho Kho thuốc thú y, người hay chuyện trò với tôi mỗi tối, khi Liên đi địa bàn và cả thời gian sau này...

          Chừng năm 1985 gì đó, Liên sau chuyến đi phép về Nghệ An, khi quay trở vào, anh làm thủ tục xin chuyển công tác ra Bắc. Tôi nhớ không nhầm, thì anh xin về làm việc tại một nông trường hay đơn vị nào đó thuộc địa bàn huyện Tân Kỳ, Nghệ An. Thời gian ấy, tôi bận công việc, còn Liên thì bận thủ tục giấy tờ, rồi gặp gỡ chia tay với gia đình người quen và bạn hữu để ra hẳn Bắc, nên cũng chẳng mấy khi hai thằng trò chuyện, tâm sự. Liên có làm một bữa cơm chia tay tôi và mấy anh em trí thức người Bắc. Hôm Liên đi, tôi tiễn anh ra bến xe khách huyện, để anh lên thị xã Long Xuyên, rồi tiếp lên Sài Gòn, đáp tàu ra Vinh... Xe chạy, tôi và Liên đều bùi ngùi. Cùng đàn ông cả với nhau mà mắt rân rấn nước. Liên được về bên gia đình, người thân, còn tôi, rồi sẽ ra sao đây? Trông người lại ngẫm đến ta, người xưa bảo vậy, đến bao giờ thì mình được về gần mẹ, gần người yêu đây? Thấy tương lai xa vời và mờ mịt quá...

          Sự ra đi của Liên, trước đó là anh T, rồi cuộc đến thăm của anh bạn nhà báo Sĩ Bình... tất cả dồn nén trong tôi, khiến tôi cảm thấy nặng nề và cô độc một thời gian. Song đấy, cũng là động lực để tôi quyết định một điều gì đó. Và tôi chọn, ấy là viết báo. Tôi cắm đầu viết báo, kiểu nghiệp dư thôi. Tôi cộng tác với Báo Nhân dân, báo Nông nghiệp, các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN)... Và rồi, sau đó chừng hai năm, với sự cố gắng không ngừng, cùng chút may mắn, tôi được tiếp nhận về làm phóng viên chính thức của Đài TNVN. Một sự thật mà chính bản thân tôi cũng không ngờ,... Một anh chàng kỹ sư nông nghiệp, lại công tác ở một ban nông lâm nghiệp huyện miền núi biên giới xa tít tắp mãi cuối trời Nam, cầm quyết định bước chân vào cổng Trụ sở 58 Quán Sứ lừng danh khi ấy, làm phóng viên nhà Đài,... Thật khó tin!?...

          Khi về công tác tại Đài TNVN ở Hà Nội, tôi và Liên còn giữ mối liên hệ, đã vài lần thư từ cho nhau. Rồi có một lần, khi đó tôi còn chưa lập gia đình, tôi nhận được thư Liên, hình như vẫn từ địa chỉ nơi anh công tác ở huyện Tân Kỳ thì phải? Anh có than thở với tôi về chuyện khó khăn trong đường con cái... Tôi có thư hồi đáp, cũng chỉ biết an ủi, sẻ chia với Liên mà thôi. Sau đó thì bặn tin. Đến nay, gần ba mươi năm trôi qua rồi. thi thoảng, tôi vẫn nhớ đến Liên giữa bộn bề công việc. Ngày trước, phương tiện thông tin chỉ qua thư từ và cấp lắm mới có điện thoại cố định, chứ đâu tiện lợi và nhanh chóng như bây giờ, nên trên đường đời gian khó, sơ sảy, lơ đãng một chút là mất tin nhau ngay. Và thế là, con người ta mất hút đâu đó nơi chân trời góc biển...

          Tôi đã nghỉ hưu, dù vẫn đang làm chuyên môn cho một cơ quan báo chí, thì điều quan trọng bây giờ vẫn là sự an nhàn của người cao tuổi, sau ngót bốn chục năm công tác. Và nếu còn làm việc công, thì giờ đây, Liên cũng đến tuổi nghỉ hưu. Như nhiều người cao tuổi khác, tôi cũng hay nghĩ xa xôi, hồi tưởng lại thời tuổi trẻ long đong của mình. May mà, nhờ sự tiện lợi của mạng xã hội, tôi có được thông tin, thậm chí gặp lại được nhiều người quen cũ, bạn học cũ từ thời phổ thông, đại học của mình. Tôi nhớ đến những người quen ở Tri Tôn, và cũng đã dăm ba lần trở lại mảnh đất ấy. Anh V, anh Ph vẫn sống ở Tri Tôn, còn M và D đều lập nghiệp và định cư ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm ba người, tôi-M và D cũng hay gặp nhau, mỗi khi tôi vào trong ấy, hay các vị ấy ra Hà Nội. Duy chỉ có Liên là mất tăm, anh bạn người xứ Nghệ của tôi ơi, chúng ta đã một thời đồng cam cộng khổ với nhau ở mảnh đất Tri Tôn xa ngút ngàn cuối đất, trong khoảng 5 năm (1981-1985)...

          Mới gần đây, tôi lục tìm các tập tài liệu cũ, lật giở Album, thấy còn mấy tấm ảnh do nhà báo Sĩ Bình chụp cho trong chuyến anh thăm tôi ở Tri Tôn, có mấy tấm ảnh chung, tôi với Liên, và ảnh chung với nhiều người khác nữa. Tự nhủ, chọn một vài tấm có ảnh Liên ngày ấy, đưa lên mạng xã hội, cùng với bài viết này, hy vọng, Liên đang ở đâu đó, biết được, mà phản hồi...

Hay ai đó, biết anh, mà mách giùm cho!?...

Ngày xưa, tôi có một người bạn !... Anh là Lê Kim Liên...

 

 

 

 

 

 

Người bạn Khơ-me của tôi,

 

         

Chau Von, tên phiên âm La-tinh từ mẫu tự Khmer (Khơ-me), gọi theo kiểu Việt hóa là Châu Vôn. Ấy là người bạn dân tộc Khơ-me Nam Bộ của tôi từ hơn ba mươi năm trước...

          Trong vòng gần 7 năm công tác ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (1981-1987), tôi được điều động loanh quanh qua mấy chức danh như cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, Trại phó Trại chăn nuôi, Phó Giám đốc Nông trường chăn nuôi, rồi Trạm phó Trạm Thú y. Ngoại trừ những người bạn người miền Bắc được điều động vào đây, giống như tôi, thì tôi còn có một số đồng nghiệp và bạn bè người Nam, người gốc địa phương... Trong số những đồng nghiệp và bạn bè người Nam, thân và gắn bó với tôi nhất, không ai khác, chính là người bạn Khơ-me này. Chau Von kém tôi vài ba tuổi, xưng hô bề dưới với tôi, lộn xộn lúc xưng em, khi xưng tui theo kiều Nam Bộ... Tôi cũng không mấy để ý.

          Sở dĩ, Chau Von gắn bó với tôi hơn những người khác, là có lý do của nó. Số là, khi mới vào nghề, Chau Von thỉnh thoảng được điều động tham đoàn công tác do tôi phụ trách, xuống xã thực hiên các đợt tiêm phòng định kỳ cho gia súc. Khi cơ quan xây dựng thêm một ngôi nhà ngói mới, theo kiểu 3 gian hai chái, thì 3 gian giữa dành nơi làm việc chung, một chái dành cho tôi ở, còn chái kia làm Kho thuốc Thú y, mà Chau Von lại đảm nhiệm thủ kho. Là người cẩn thận và có trách nhiệm, nên hằng tuần, anh ngủ lại giữ kho thuốc đến già nửa số đêm. Hôm nào, không ngủ lại đêm, Chau Von cẩn thận chốt cửa sổ, khóa kỹ của chính và không quên dặn tôi “Đêm có gì, anh để ý, ngó kho thuốc giùm tui nghe”. Như tôi đã kể trong một bài biết khác, là sau ngôi nhà của chúng tôi, liền kề với hàng rào cây dại, là một gò đất nổi hẳn lên trên đồng nước, được dùng làm nghĩa địa của khu dân cư ở đấy. Để vào được nghĩa địa, đường đi xuyên tâm qua khu vườn rộng của Ban Nông Lâm nghiệp huyện. Một lần, có một đám tang được chôn cất ở nghĩa địa này, người ta rước quan tài đi theo lối cổng phụ, xuyên qua Ban Nông Lâm, tắt ngang đầu phòng làm Kho thuốc của Chau Von, để ra nghĩa địa ngày đằng sau. Tối ấy, mới sâm sẩm, đã thấy Chau Von mò sang phòng tôi, hỏi: “Anh Nhạc, theo anh thì có ma thật không?”. Tôi hiểu, Châu Von bị ám ảnh bởi đám rước ma ban ngày, nên giải thích loanh quanh một hồi, không phủ nhận và cũng không bảo là có ma thật. Nghe rồi, Chau Von cười bẽn lẽn, lại hỏi: “Thế anh có sợ ma không? Tui là tui cũng thấy sờ sợ”. Tôi trả lời: “Có chứ... nhưng mà, thực ra là sợ bóng tối,... sợ bóng sợ vía vậy thôi”. Chau Von gượng cười, so vai tỏ vẻ ái ngại, rồi trở về phòng mình, chốt chặt cửa, hãm đèn dầu hỏa cả đêm. Thực lòng, tôi cũng nhát, kín cửa chẳng khác gì anh. Mấy hôm sau, không thấy Chau Von đến ngủ đêm, một mình, tôi càng thấy ớn. Chừng mươi ngày, nỗi sợ ấy cũng qua đi...

          Những đêm ngủ lại, tôi và Chau Von hay chuyện trò, tán gẫu với nhau. Khi thì anh sang phòng tôi, lúc tôi sang phòng Chau Von, cứ ngày này tháng khác, câu chuyện giữa chúng tôi vẫn quanh quẩn công việc chuyên môn, gia đình, tập tục văn hóa sinh hoạt Bắc Nam, và phong tục tập quán người dân tộc Khơ-me Nam Bộ của anh. Về trình độ học vấn, chuyên môn. Chau Von chỉ mới qua bậc Trung học cơ sở, còn nghề nghiệp thì nghe đâu cũng chỉ sơ cấp hoặc qua vài lớp tập huấn cơ sở gì đó thôi. Tuy nhiên, Chau Von là người chịu khó tìm hiểu học hỏi. Hầu như, mỗi khi Ban Nông Lâm nghiệp mở lớp tập huấn chuyên môn, anh đều tham dự và ghi chép rất cẩn thận. Có gì không hiểu, buổi tối rỗi rãi, anh lại hỏi tôi tỉ mỉ, và gần như không bao giờ tôi từ chối, giảng giải kỹ cho anh. Nhiều khi, bốc đồng, tôi nói những kiến thức cao hơn, Chau Von ngẩn mặt không hiểu, nhưng chẳng bao giờ ngắt ngang lời, mà đọi tôi ngừng, mới  đề nghị tôi nói những gì anh có thể hiểu được thôi,... Khổ sở nhất đối với Chau Von, ấy là tháng nào, làm quyết toán sổ sách, kiểm kê thuốc bán ra, không may, con số thực kiểm lệch với con số thống kê trên sổ sách, anh bứt tóc vò trán, than thở vào ra không yên, cứ tự hỏi mình là tại sao lại chênh lệch như vậy? Vô phúc, lần nào, số thuốc kiểm kê bán ra lại nhiều hơn số thống kê theo sổ, điều đó có nghĩa là anh phải bù tiền, thì trông bộ dạng Chau Von thiểu não lắm. Tiền lương đã thấp, lại phải bù trừ do thiếu hụt thì còn có là bao. Đã hơn một lần, Chau Von thổ lộ với tôi, rằng anh sẽ xin chuyển làm việc khác chứ không làm thủ kho nữa, nhưng nói vậy rồi lại thôi. Những lần như vậy, thấy thương anh, song tôi cũng không biết làm gì để giúp anh được...

Nói tiếng Việt khá thạo, nhưng nghe và hiểu được kiến thức qua tiếng Việt, vói Chau Von, quả thật không dễ. Vậy nên, anh khá khôn mỗi khi tôi giảng giải gì đó cho anh, nghe xong, anh xin phép nói lại những gì anh hiểu được qua việc tiếp nhận, nếu đúng ý tôi, anh cười vui lắm, còn chưa đúng thì nhờ tôi nói lại đến hiểu được mới thôi... Chau Von rất thích tôi kể về văn hóa, phong tục đời sống xã hội ngoài Bắc, và những gì anh nghe người ta nói về thủ đô Hà Nội, qua tôi, để kiểm chứng lại xem có đúng như vậy không?

          Nói vậy, Chau Von đã học hỏi được khá nhiều kiến thức chuyên môn xã hội từ nơi tôi qua những câu chuyện hàng ngày. Ngược lại, tôi cũng học được một số kiến thức văn hóa, tập tục của dân tộc Khơ-me. Từ khi, anh bạn Lê Kim Liên, người Nam Đàn, Nghệ An chuyển hẳn về quê ngoài Bắc công tác, tôi va Chau Von gắn bó với nhau hơn. Ngày ấy, tôi chịu khó viết báo nghiệp dư lắm, đặng theo đuổi giấc mơ trờ thành nhà báo chuyên nghiệp. Tôi cộng tác với báo Nhân Dân và báo Nông nghiệp, chuyên mục nông nghiệp, nông thôn, nông dân (giờ đây ta quan gọi chung là Tam nông). Riêng với Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), tôi cộng tác với mấy chương trình, chuyên mục phát thanh như: viết bút ký và tạp văn cho mục Văn nghệ, câu chuyện truyền thanh cho chương trình Phụ nữ, câu chuyện truyền thanh cho mục Chuyện Buôn-Sóc-Bản-Mường và mục Tìm hiểu văn hóa các dân tộc Việt Nam của chương trình Đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tôi nhớ, ngày ấy chuyên mục riêng về văn hóa các dân tộc Việt Nam do nhà báo Hoàng Đồng biên soạn, phụ trách. Khác nhiều chương trình phát thanh đều do các Phát thanh viên chuyện nghiệp đọc, tiết mục này, nhà báo Hoàng Đồng tự trình bày. Giọng anh trầm ấm, thong thả và nhấn nhá những điểm cần thiết, nên tôi thích lắm. Qua việc tìm hiểu từ tư liệu đến thực tế đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc Khơ-me vùng Bảy Núi, cộng với việc tìm hiểu thêm và kiểm chứng qua Chau Von, tôi đã viết được những bài báo về mảng đề tài này, như: Lễ hội đua bò ở Bảy Núi, phong tục tết Cholchlamthmay, tết Dolta của dân tộc Khơ-me, rồi nữa, các bài giới thiệu về kiến trúc chùa Khơ-me Nam bộ, về các hình thức sân khấu, diễn xướng, dân ca, dân vũ trong nghệ thuật dân gian Khơ-me Nam bộ là Lạc-khon, Aday, Yuke, Lam-thon v.v... Sau này, khi về Đài TNVN làm việc, tình cờ và may mắn, nhà báo Hoàng Đồng lại trực tiếp phụ trách phòng chuyên môn của tôi. Anh vẫn nhớ và nhắc lại những bài báo tôi viết cho chuyên mục của anh. Thật lòng mà nói, Chau Von có công lao ít nhiều cho những bài báo của tôi về mảng đề tài văn hóa, phong tục Khơ-me Nam Bộ, và như vậy, nói một cách hình tượng, anh đóng góp một số viên gạch giúp tôi lát đường, đặng đi đến đích, trở thành người làm báo chuyên nghiệp tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Thâm tâm, tôi biết ơn Chau Von về điều đó.

          Tôi nhớ, nhà Chau Von ở xã Núi Tô. Ngày ấy, hàng năm, mỗi dịp tết Cholchnamthmay, gia đình anh làm bánh trái cúng tết theo phong tục cổ truyền, Chau Von đều mang bánh đến mời tôi ăn. Có một lần, vào dịp tết Dolta thì phải, Chau Von mời tôi về nhà anh ăn tết. Anh dùng xe đạp chở tôi về nhà anh trong Phum Sóc gì đó, tôi không nhớ, chỉ biết thuộc xã Núi Tô mà thôi. Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ tuyến đường ấy, qua xã Núi Tô, đến xã Cô Tô, và xa nhất là xã An Phước (có tên cũ là Ô Lâm), quá nữa là sang đất huyện Hòn Đất của Kiên Giang rồi. Ở nhà anh, tôi được hưởng không khí tết gia đình ấm cúng, được ăn bữa cơm gia đình, để ít nhiều có được sự hình dung về nếp sinh hoạt của gia đình người Khơ-me Nam Bộ, dù chỉ một ngày. Khi ấy, Chau Von vẫn còn đủ cha-mẹ, anh đã lấy vợ và có con, sống chung trong một ngôi nhà. Hôm ấy, Chau Von đã giảng giải cho tôi nhiều chi tiết trong nếp sinh hoạt của một gia đình người Khơ-me, rồi anh còn dắt tôi đi loanh quanh trong Sóc nhà anh, giới thiệu cách bố trí nhà ở, cấu trúc cơ bản của một ngôi nhà Khơ-me truyền thống như thế nào. Là một nhân viên thú y, Chau Von cũng hiểu phong tục nhốt bò trong nhà chung với người ở là không hợp vệ sinh, đang phổ biến trong các phum sóc ngày ấy, nhưng vận động đề bà con bỏ hẳn tập tục ấy cũng không dễ chút nào.

          Chau Von có dạy tôi một số câu cửa miệng, xã giao đơn giản của người Khơ-me Nam Bộ, nên hôm ấy, tôi có thể chào hỏi người nhà của anh, và nhất là khi đi dạo, ra điểm vui chơi cộng đồng của phum sóc, biết cách trả lời, đùa lại những câu trêu đùa thông dụng của đám con gái... Chau Von còn dạy tôi và tôi đã tập tọe hát được vài câu một bài hát phổ biến trong các lễ tết của người Khơ-me Nam Bộ ngày đó. Giờ thì tôi quên hết cả rồi. Chau Von cũng khá tinh nghịch, kiểu nghịch ngầm, anh chủ động dạy tôi mấy câu tiếng Khơ-me, đại loại kiểu “tán gái”. Có lần, khi đi tiêm chích phòng bệnh cho gia súc ở các xã, khi đến phum sóc Khơ-me, có lần, chúng tôi tình cờ bắt gặp một đám gần chục cô gái, nhưng người thì mặc váy áo xa-rông đầy đủ, có mấy cô thì chỉ mặc váy, còn từ ngang lưng trở lên lại để trần, lộ phần thân trên với những bờ vai, cánh tay trọn trịa rám nâu và cặp nhũ hoa thật tuyệt. Chợt thấy chúng tôi, các cô gái ré lên, cười rúc rích, chạy túa ra, còn lại mấy cô váy áo chỉnh tề, những cô để trần mình thì chui vội vàng trong nhà, thậm chí có cô không kịp chạy trốn thì cởi nhanh chiếc khăn rằn đang vấn trên đầu thắt ngang ngực, đủ che kín cặp nhũ hoa. Chống thẹn, các cô hỏi như trêu ngược lại bọn tôi, tôi chợt nhớ những câu Chau Von dạy tán gái, bèn mang ra dùng, giờ tôi còn nhớ mang màng, hình như “on xalanh bòn tê?” ( hiểu là: em có yêu anh không?), thì lập tức bị “mắng vốn”,... Về kể lại, Chau Von cười khoái lắm, mắt đầy vẻ tinh ranh. Thì ra, Chau Von “chơi khăm” tôi. Chuyện vui là thế, chẳng hề hấn gì. Anh còn giảng giải cho tôi rằng, những cô gái đã lấy chồng rồi, thì khi ở nhà, họ hay để trần, không mặc áo. Còn gái chưa chồng, thì luôn phải váy áo đầy đủ, Chẳng hay, giờ còn phong tục ấy không?

          Tôi ra Bắc, bẵng đi hơn hai chục năm, bỗng một chiều, tôi nhận được một cuộc điện thoại, số máy lạ, nghe lơ lớ, cưng cứng đầu kia giọng nam, xưng tên là Chau Von ở Tri Tôn. Tôi nhớ anh ngay và rất vui mừng, chúng tôi hội thoại với nhau chừng hồi lâu, đủ để cho nhau biết những thông tin cơ bản hiện tại của mỗi người. Chau Von cho biết anh cũng đã nghỉ việc, nhưng vẫn sử dụng vốn nghề để chữa trị cho gia súc các gia đình người quen và bà con nơi anh ở. Thì ra, Châu Von vẫn nhớ đến tôi, anh tìm đã tìm đến những gia đình gốc bắc ở Tri Tôn để lấy thông tin và xin số điện thoại của tôi. Trong mấy năm rồi, thi thoảng anh gọi điện cho tôi. Tôi cũng đã trở lại thị trấn Tri Tôn mấy lần, nhưng lần nào cũng vội, nên không gặp lại Chau Von được. Mới đây, qua mạng xã hội, con gái út của Chau Von hiện đang làm việc ở Phòng Thương binh & xã hội huyện Tri Tôn đã làm quen và chuyển lời thăm hỏi của Chau Von đến tôi. Tôi có tìm lại và scaner tấm ảnh cũ chụp chung tôi và anh bên gốc dừa ngay trước Kho thuốc Thú y từ năm 1983, gửi qua cô bé Soc Dom, con gái út của anh. Mới đây, cô bé cũng chát gửi tôi tấm ảnh chụp chung gia đình Chau Von với giai gái, rể và cháu nội ngoại. Rồi cô bé còn sử dụng facetime để tôi và Chau Von nói chuyện thấy được mặt nhau... Bạn già  một thời, lâu ngày thấy nhau, thật vui.

          Khi viết bài này, tôi có điện thoại và nói chuyện với Chau Von khá lâu, đặng cập nhật thêm thông tin về nhau, bởi hôm trước, thấy nhau qua facetime, nhưng do thời tiết trong đó mưa gió nên rớt mạng, chưa nói được mấy. Chau Von có chút tâm tư, khi anh nghỉ việc ở Trạm Thú y huyện, vì đã không chịu bổ túc thêm bằng cấp, nên chỉ được hưởng bảo hiểm xã hội một lần, có chút thiệt thòi. Giờ anh sống chủ yếu bằng làm ruộng và nuôi bò. Qua điện thoại, Chau Von cũng kịp nhắc đến nhiều kỷ niệm chung giữa tôi và anh ngày ấy, nhắc đến những bạn bè, và đồng nghiệp, cả người Việt và người Khơ-me...

Mừng là anh còn mạnh khỏe và gia đình con cháu đề huề...

         

 

 

 

 

 

Bệnh viện ký sự

 

          1.

          Thế là y phải nhập viện. Viện ở đây là bệnh viện. Cầm cái bệnh án, cô bác sĩ ở bệnh viện BM bút phê “Abces mô mềm ngực phải. Điều trị nội trú”, y vẫn còn băn khoăn “Thế điều trị ngoại trú có được không chị ơi?”. Cô bác sĩ bảo “Không được đâu bác ơi”. Y lại gặng “Bệnh nhẹ mà, điều trị ngoại trú cũng được mà”. Cô bác sĩ cương quyết “Không nhẹ đâu bác ơi, phải nội trú thôi”. Y ngần ngại, chào cảm ơn, rồi cùng vợ tim đến cửa tiếp nhận bệnh nhân nội trú của khoa CXK. Lại thủ tục, một hồi, vợ y nhận quần áo bệnh nhân rồi dẫn y tìm đến số giường buồng người ta ghi trong phiếu. Đây rồi, buồng số 206, giường 29B. Ngó vào buồng bệnh, người ốm đau, phần lớn 2 người 1 giường, lại thêm đám người nhà đi chăm người bệnh, ngổn ngang người là người. Đưa mắt tìm giường số 29B, thấy một ông lão cỡ tám chục cái xuân xanh nằm chéo giường mê mệt và đang được truyền dịch, thêm một người nhà ngồi bên mép giường gương mặt thiểu não. Y ngán ngẩm ôm cái ổ ép-xe đau nhức trước ngực phải ngồi xuống một băng ghế kê ngoài hành lang buồng bệnh. Nhìn đồng hồ, 11h45 ngày 01.3 và thứ 5. Vợ y đi một hồi và mang về cho y suất cơm bệnh viện trong hộp nhựa. Khi vợ tất tưởi về nhà để lấy tư trang chuẩn bị cho y cuộc sống nội trú bệnh viện thì y uể oải nhai suất cơm. Đói, mệt và đau nhức, lại thêm nỗi lo tinh thần, y cố ăn hết phần thức ăn và nửa số cơm. Công bằng mà nói, suất cơm 30 nghìn đồng cũng không đến nỗi nào.

          Một ông già thấp lùn, người gập xuống với cái đai đeo thắt lưng chống đau, ghé bên ghế bảo “Bác làm ơn cho tôi ngồi ghé chút, đau và mỏi quá”. Y dịch người nhường phần ghế với sự cảm thông. Người đời bảo “Đồng bệnh tương lân” mà. Ông già gục người xuống mặt bàn, nhắm mắt lim dim như ngủ, một lát choàng dậy, bắt chuyện “Tôi đau lưng lắm, hơn tuần nay chỉ ngủ ngồi thế này thôi. Không nắm được. Giường bệnh tôi ở 205 đây nhưng có chỗ nào mà nằm đâu. Sao lại đông người thế? Ờ, bác bệnh gì ?”. Y trả lời qua loa rồi cũng gục xuống mặt bàn như ông già, cố chợp mắt cho đỡ mỏi mệt.

          Chăng biết y có chợp được mắt chút nào không, choàng dậy vì tiếng loa phát oang oang nhắc đã đến giờ các y bác sĩ làm việc, đề nghị các bệnh nhân tuân thủ mặc quần áo bệnh nhân, còn người nhà phải ra ban công đằng sau ngồi. Rồi có vài vị trang phục blu trắng ra gặp y, đo nhiệt độ xem có sốt hay không, hỏi bệnh một hồi. Tiếp đó là đám trẻ con, ấy là mấy đứa sinh viên Cao đẳng Y tế, xùm vào hỏi, đại loại mấy câu hỏi theo kiều bài học thuộc lòng, như: Bác tên gì, bị bệnh gì, nhập viện từ bao giờ, có sốt không, đau đớn chỗ nào, có khó thở không?... Y thấy ngán ngẩm bởi cứ phải trả lời các câu hỏi lặp đi lặp lại như vậy. Y lại tự nhủ, thôi thì giúp các cháu nó học vậy, cứ xem như giúp con cháu mình ở nhà học hành, trả bài ấy.

          Vợ và con gái út của y, hai mẹ con tay xách nách mang đồ đoàn cho y nằm viện, Lại chờ đợi. Chừng 3h chiều, y bắt đầu được diều trị. Vì cái giường mang số 29B của y, vẫn cụ già mê mệt năm choán hết, nên bị bác sĩ bảo y, thôi cứ nằm nhờ một chỗ nào đó, tạm để truyền thuốc cái đã. Thế là y ghé ngay một chiếc giường ngay cạnh cửa kính hành lang, ở đấy có một bệnh nhân nam, đồ chừng ngoài bảy chục tuổi, gương mặt lộ rõ sự thông mình và vẻ quắc thước, cũng đang nằm truyền dịch. Đành trở đầu đuôi. Sau khi test thử, ý được truyền một loại kháng sinh, đọc vỏ hộp có tên gọi Voxin, chai dịch truyền to tướng.

          Qua gần 2 giờ đồng hồ nằm truyền, chai dịch nhỏ chậm giọt một, mới hết cỡ ¾. Y bắt đầu khổ sở. Sự khổ sở này không đến từ chỗ ép-xe đau nhức, mà là sự buồn cái gọi là tiểu tiện (gọi tắt là đi tè cho tiện). Y đi cái khoản này từ đầu buổi chiều, đến giờ là gần 5 tiếng đồng hồ còn gì. Y nhăn nhó chịu đựng, có hai khả năng xảy ra nếu cái việc bất nhã kia không được giải quyết, ấy là y sẽ tè ra quần, hoặc là y sẽ vỡ bóng đái. Thật tệ hại cho cái sự thiếu hiểu biết. May mà lúc ấy, một điều dường viên bước vào, y chẳng ngại gì, trình bày ngay cái nỗi khổ của mình. Vị này quyết ngay, thật đơn giản “Bác khóa cái chốt màu đỏ trên dây truyền, bê cả bộ đi vệ sinh thoải mái, nhớ đừng để chệch kim truyền ra khỏi ven, xong vào lại truyền nốt”. Ôi, được lời như cởi tấm lòng, vợ y giúp cho cái việc bê bộ dây chai lọ ấy ra nhà vệ sinh nam. Xong việc, y khoan khoái, sung sướng làm sao. Rốt cuộc, sẩm tối thì chai dịch cũng hết. Vợ y lại thông báo tin vui, ấy là mình đằng ký giường bệnh tự nguyện dịch vụ, đã có giường trống. Hai vợ chồng, thu dọn đồ đoàn để sang nhận giường bệnh mới, số 58 phóng 209. Khi chào cảm ơn bác bệnh nhân già vừa cho nằm cạnh, bác này nảo “”Bác may nhỉ, tôi đăng ký mấy hôm nay rồi mà chưa có giường loại một người trống đấy”. Chỉ biết ầm ừ thôi.

          Nhận giường bệnh mới, mượn thêm chăn ga gối, xong xuôi mới quanh quất nhìn ngó, nhận diện và chào hỏi các bệnh nhân cùng buồng. Sau bữa cơm tối muộn do vợ nấu ở nhà mang vào, y nằm ngả lưng, lòng dạ thanh thản cứ như mình đã khỏi hẳn bệnh. Chợt một vị áo blu trắng vào, gọi tên y, bảo sang ngay phòng siêu âm bên cạnh để kiểm tra thêm. Lúc này, đã hết giờ làm việc chính, trong phòng siêu âm chỉ còn kíp trực dăm người gì đó. Đây chính là cái phòng siêu âm chiều hôm trước, khi khám ban đầu, y đã phải chầu trực chờ gọi tên, giờ thì riêng mình y. Họ siêu âm cho ý kỹ lắm, vừa hỏi bệnh, vừa bắt y thở ra hít vào thật sâu, rồi bàn tán. Cô nhân viên siêu âm chính, nghi ngờ y bị viêm phổi, mấy vị khác, có cả đám học sinh thực tập thì bảo không, đã chụp cắt lớp vi tính rồi, kết luận không viêm phổi, mà chỉ bị khối ép-xe chèn ép gây tắc mạch một góc trên thùy phổi phải. Hình như họ có ý định chuyển y sang khoa hô hấp thì phải. Y thấy ngại, đúng ra là hơi sợ, bèn lên tiếng cãi lại. Rồi cũng xong, y về buồng bệnh, đã hơn 9 giờ đêm. Lại truyền dịch tiếp, chai dịch nhỏ hơn và tốc độ nhỏ giọt cũng nhanh hơn. Gần 10 giờ đêm, người ta tắt hết đèn buồng bệnh, để ngủ. Ai đó bật cho y chiếc đèn chụp đầu giường loại dành riêng cho theo dõi việc truyền. Y ngủ thiếp đi, choàng mở mắt thì thấy một bóng nữ áo trắng đang lúi húi tháo kim truyền cho y. Đêm ấy, y ngủ mê mệt, tuy giữa đêm, y vẫn phải trở dậy ra nhà vệ sinh làm cái việc rất chi là sung sướng, mà hồi chiều đã khiến y xuýt nữa vỡ cái bong bóng của quý.

          Ngày đầu nằm viện của y là vậy. Sẽ còn dài dài và nhiều chuyện hay ho mà y đã chứng kiến ngay tại buồng bệnh này và dự định sẽ kể ra đây, đặng hầu chuyện mọi người,...

 

          2.

          Mệt mởi và đau nhức, nhưng y cũng thiếp đi, cho đến khi ngoài hành lang, tiếng ai đó cất lên “Đổi nước đi các bác ơi”. Đèn phòng bệnh bật sáng, mọi người mắt nhắm mắt mở xách phích cũ ra đổi lấy phích mới. Y ngồi dậy, liếc điện thoại, mới có 5 rưỡi. Sao sớm thế nhỉ. Lại lục đục xếp hàng chờ đi vệ sinh. Khốn nạn, vệ sinh nam có hai cái để tiểu tiện thì tắc hỏng mất một. Lộn xộn, nữ tràn sang cả phòng nam, nhưng vì cái sự cấp bách, nên hầu như chẳng thấy ai ngượng cả, cứ thản nhiên như có mỗi mình vậy...

          Các cụ ta xưa dạy cấm có sai câu nào, “sểnh nhà ra thất nghiệp”. vào đây, sáng dậy đánh răng rửa mặt và đi tè một cái cũng nhục. Sau mươi năm cuộc đời, từ thuở cha sinh mẹ đẻ y ra đến giờ, cũng nhiều lúc nhức đầu xổ mũi, ốm cảm xì xằng, đau chỗ này yếu chỗ nọ, toàn mua thuốc tự chữa, chưa bao giờ y phải vào viện một lần, một ngày. Quả là, nhiều lần y vào viện này viện nọ, nhưng mà để thăm người quen, đồng nghiệp ốm đau thôi. Trước đây, cơ quan y ở gần 3 cái bệnh viện trung ương to đùng (VĐ, C và K), khi nghỉ hưu đi làm thêm ở chỗ mới thì ngày nào y cũng đi về theo tuyến đường Thanh Nhàn-Lạc Trung, ngang qua cổng 2 bệnh viện nữa (TN, UB). Nhà y ở thì gần ngay BM và bệnh viện QT, nhãn tiền thấy bàn dân thiên hạ vào viện nườm mượp như đi trảy hội. Giờ thì đến lần y rồi...

          Nửa nằm nửa ngồi trên giường bệnh, y cứ nghĩ lan man như vậy. Đợi vợ mang ăn sáng vào, lúc này y mới quan sát hết phòng bệnh đặng nhận diện ai là bệnh nhân, ai là người nhà. Đêm qua, y đã nhận thấy, giường bệnh số 59, ngay cạnh y không có bệnh nhân, dù trên giường chăn ga gối và bộ quần áo bệnh nhân có đủ, mà thay vào đó, mấy vị người nhà nằm nhờ. Đang nghĩ ngợi, chợt một người đàn ông mắt kính đen, áo khoác thô, dáng người thấp đậm, gương mặt khó đoán tuổi, đi đến giường 59 ngồi xuống, đặt túi ni-lông trong có vài chiếc bánh mì lên kệ đầu giường bệnh, hất hàm hỏi y “Bệnh nhân mới à? Vào tối qua?”. Y vâng, thì lại bảo “Chiều qua, tớ chuồn, còn chưa thấy cậu mà”.

          Chỉ ít phút sau, chẳng cần phải hỏi nhưng y cũng biết được nhân thân người đàn ông này, là do ông ta tự khai tồng tộc ra hết. Tên Ph (họ tên đầy đủ là UDPh), 74 tuổi, nhà ở phố Lạc Trung gần Đài truyền hình VTC, một vợ ba con, nhập viện do bị Gút, vào đây giữ giường cả tuần nay nhưng tối là về nhà ngủ, sáng sớm lại vào... Bô lô ba la một hồi, ông Ph. bảo “Tớ ra hành lang sau làm điếu thuốc cho đỡ them cái đã”. Vừa lúc ấy, người đàn ông trung tuổi, tóc húi cua, áo bay bộ đội, chăm vợ ốm nằm giường 57, hé cửa kính gọi vào “Bác Ph ơi,... mời cả bác mới nữa, ra ngoài này làm chén trà với chúng em cho vui. Em vừa tráng ấm pha trà mới, nóng giòn đây. Còn chán mới đến giờ truyền thuốc”. Thì ra, ngoài ban công, cả một hội gồm bệnh nhân, người nhà đang trà lá, chuyện phiếm rôm rả. Ai đó đã sáng tạo, cắt khoét mấy chiếc chai, bình nhựa đựng nước, làm thành chiếc điếu cày, chuyền tay nhau hút thuốc lào xì xoẹt, phả khói mù mịt ...

          Sau hai tuần trà sáng và chiều, y biết thêm về anh chàng áo bay bộ đội. Chàng tên Q., 55 tuổi, bộ đội nghỉ hưu với lương hàm tương đương thượng tá, nhà ở Điện Biên, đi chăm vợ bị ốm. Vợ tên Th. giáo viên tiểu học nghĩ hưu, bị bệnh khớp dạng thấp, lại thêm chút tiền sử bệnh tim; họ có duy nhất một cậu con trai hiện đang học Đại học Y khoa Thái Bình năm cuối, đang thực tập tốt ngiệp. Họ đã là người quen thuộc của khoa bệnh này từ vài năm nay. Để chữa căn bệnh này, Th đã qua 8 lần truyền hóa chất sinh học, đỡ đau khớp và có thể đi lại, làm việc nhẹ nhàng. Đây là lần thứ 9 họ nhập viện. Ăn tết Mậu Tuất xong xuôi, họ chọn ngày về Hà Nội, nhập khoa để truyền lần thứ 9 với dự tính chỉ mất có 3 ngày là xong và hy vọng cải thiện thêm các khớp xương. Vậy mà, trước khi truyền, bác sĩ cẩn thận cho khám sàng lọc, chiếu chụp và thử máu, người ta nghi Th bị viêm phổi kẽ, thậm chí mắc lao phổi. Thế là mất cả tuần rồi mà vẫn chữa có kết quả chính xác, còn truyền sinh học thì cũng không được, với lý do, sau khi truyền, hệ miễn dịch cơ thể rất kém nên có thể mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, lây chéo, hoặc khời phát bệnh mới do vi trùng tiềm tàng... Với tổng mức lương hưu cả hai người (chồng > 9 triệu, vợ 6 triệu), nhà có đất trồng rau, hoa quả, nuôi dăm chục gà đẻ trứng, rủng rỉnh ăn không xuể, bán lấy tiền kha khá... nhưng, cứ đi viện thường xuyên thế này thì có núi cũng lở. Lần nay, vượt cả sự tính, lo bệnh tình, lo việc nhà bỏ không bề bộn, nên cứ mỗi lần nghe điện thoại của người quen hỏi thăm, hoặc gọi điện cho ai đó, Th lại rân rấn nước mắt sụt sịt khóc. Những lúc như vậy, Q đang nổ như rang chuyện phiếm đến mấy cũng im bặt, len lén vào an ủi vợ.

          Chiều thứ 6 cuối tuần, độ chừng giờ cơm tối, có 3 bệnh nhân mới chuyến đến phòng 209, thế vào 3 giường trống có bệnh nhân xuát viện lúc chiều. Ấy là một nữ cao tuổi vốn bị tai biến, một nữ cao tuổi khác, bộ dạng người phố quý-xơ-tộc, chân đau nhưng mồm chẳng đau tý nào nên từ lúc nhận giường thì chỉ thấy tiếng bà ta át cả phòng bệnh, và một nam, ấy chính là bác già mà chiều hôm trước y nằm ghé giường để truyền nhờ chai thuốc đầu tiên. Nhận ra nhau, y chào trước, bác già khẽ cười bảo y “Ồ, có duyên ta lại gặp nhau nhỉ”...

 

          3.

          Ngày thứ ba tính từ lúc y nhập viện, là thứ 7 cuối tuần, bệnh viện nghỉ hành chính, chỉ còn các ca trực cấp cứu và điều trị thường xuyên. Buổi sáng, giờ khám bệnh và làm thuốc muộn hơn thường ngày chút ít. Vậy là hội trà lá có thêm thời gian tán chuyện. Uống trà, trà vụn cặn, lại chỉ có 3 chén hạt mít, không đủ, các cốc thủy tinh, cốc giấy loại dùng một lần đầu được huy động hết để phục vụ hội trà. Chuyện trò, y lại biết thêm mấy người nữa.

          Bác nam già, bệnh nhân giường 53B. người quen hôm trước nữa của y, tên H, 76 tuổi, nguyên cán bộ giảng dạy Đại học Kinh tế quốc dân, quê Thái Bình, bị ép-xe khớp vai phải do tụ cầu vàng; X, cao gày như cán bút, ngoài sáu chục, quê Nam Định, đi chăm vợ bị gai đôi cột sống; T, ngoài năm chục tuổi, thấp lẳn, cùng vợ đi chăm mẹ, bà cụ từng bị tai biến mạch máu não, nay thêm chứng đau lưng, chỉ nằm một chỗ; và một tay đầu trọc, to béo, bị câm điếc bẩm sinh, không rõ tên, nghe nói nhập viện do đau lưng, đi lại chống gậy.

          Trong cái buồng bệnh này, xem ra, người nhà đi chăm bệnh nhân lại nhiều chuyện hơn. Đương nhiên, người bệnh, ngoài nỗi đau, sự chịu đựng, lại thêm tinh thần lo lắng, lấy đâu ra mà lắm lời nhiều chuyện, ngoài thời gian đi chiếu chụp, còn lại là thời gian truyền thuốc và tranh thủ ngủ bù cho ban đêm mất ngủ. Có chăng, hỏi chuyện nhau là để biết thêm kiến thức về căn bệnh mình đang mang và kỹ năng chăm sóc bệnh sau này thôi. Còn người nhà, bảo họ không lo lắng gì thi tội cho họ quá, song bản thân họ khỏe mạnh, chỉ lo ngày 3 bữa ăn và giúp giập thêm, nên những lúc người bệnh bận, họ chỉ còn biết tụ họp nhau ngoài ban công chuyện phiếm trên trời dưới biển cho hết ngày giờ. Rôm rả nhất là Q và T, hai anh chàng này có vẻ hợp cạ. Q là bộ đội, sĩ quan, từng đi đây đó, biết nhiều chuyện; còn T vốn dân xứ Thanh, gia đình lên Đại Từ, Thái Nguyên làm kinh tế mới, lại có nghề thuốc nam gia truyền nên kinh tế khá giả. Tuần trà sáng, T hào hứng khoe mình là Phó Chủ tịch Hội thuốc nam địa phương, rồi chuyện hội ăn nhậu ở quê, nhậu dài dài mà chẳng ngại hại tim gan phèo phổi vì biết nghề thuốc. Vậy mà, tuần trà chiều, đã thấy mặt T rầu rầu, hỏi thì anh chàng phọt ra “Trưa nay, nhận cú điện thoại từ thằng bạn nhậu ở quê báo tin, thằng V bạn em, là Chủ tịch hội thuốc nam mới đột tử sáng nay. Bọn nó hỏi em có về đưa đám thằng V không, ... lại gạ bảo em lên thay thằng V làm chủ tịch hội thuốc nam... Còn lâu em mới thay nhá”. Rồi T còn bùi ngùi kể, mới hôm mống 6 tết rồi, thằng V muốn tụ họp hội thuốc nam, đã mổ cả một con dê mời toàn hội đánh chén thỏa thuê khai xuân mới. Khi Q hỏi thằng V sao đột tử, T bảo, nghe nói viêm gan cấp tính, men gan cao chót vót, cấp cứu không kịp. Rồi T lầu bầu “Không hiểu sao lại thế, thuốc nam nhà thằng này rất siê, lại chuyên trị về gan mà lị”. Nghe vậy, y nghĩ bụng, rõ là dao sắc không gọt được chuôi.

          Chán chê, cả hội quay sang chuyện gã Trọc, trong khi gã ngồi riêng một góc với cốc trà loãng trên tay và miệng phì phèo điếu thuốc lá, chốc chốc lại liếc nhìn miệng mọi người phỏng đoán xem người ta nói gì, và có nõi xấu mình không. Hồ sơ bệnh án, gã có cái tên khá hay (B.N.A), bị điếc câm bẩm sinh, tóc húi trọc, nên gọi là gã Trọc cho ấn tượng, 54 tuổi, độc thân, sống một mình trong căn hộ khang trang đầy đủ tiện nghi. Hoàn cảnh nhân thân gã là do người nhà kể và mọi người thâu tóm lại vậy. Nhà gã đông anh em, gã là áp út, do tật nguyền vậy nên cha mẹ anh chị em rất thương. Khi cha mẹ mất, mọi người lo cho gã chỗ ở riêng, lại quy định suất đóng góp để sao cho mỗi tháng gã có đủ 8 triệu tiêu pha. Mọi chuyện sẽ bình thường nếu như gã không bị chứng đau lưng và dị ứng ngứa mẩn. Gã đòi đi bệnh viện, và sau vài lần như thế, gã mắc hội chứng “thích bệnh viện”. Cứ lý mà suy đoán, thường ngày gã thui thủi một mình, xem tivi thì cũng chỉ nhìn hình, đi bệnh viện, có đông người, lại được quan tâm săn sóc hơn bình thường, gã yêu sách gì cùng được thực hiện, gã thích là đương nhiên thôi. Xuất viện về dăm ngày, gã lại dở chứng nhăn nhó giả bệnh trọng, năn nỉ van lạy đòi đi viện. Vào viện, cũng khám xét, chiếu chụp đủ kiểu nhưng bệnh chỉ có thế, nên vài ba ngày, cùng lắm một tuần là phải xuất viện. Nghe nói, gã đã từng tuyệt thực mấy ngày liền để được đưa đi cấp cứu. Ở viện, bác sĩ thấy mặt gã đã phát chán, cho uống vài loại thuốc bổ cho xong, nhưng đâu hết chuyện, thấy bệnh nhân khác được truyền thuốc mà gã chỉ được uống thuốc thôi thì gã cho là không bình đẳng chút nào, gã hậm hức, bực bội lắm, nên mỗi khi có bác sĩ thăm khám, gã cố tình nôn khạc, nhăn nhó, rớm nước mắt, ấn tay vào lưng làm hiệu đau lắm... Còn chuyện ăn của gã cũng khác người, điều này thì y chứng kiến. Gã đòi ăn hết món này đến món khác, nhưng khi mua về thì gã lắc đầu, ậm ọe chê, thậm chí ngậm chút vào mồm rồi khạc nhổ hết ra chậu. Khi ăn uống gã toàn nằm, trong khi đó, gã một tay chống ba-toong đi dạo suốt không sao. Ban đêm, mọi người ngủ hết, chốc chốc gã lại dậy, đi tua như một bóng ma, rồi trở về, ăn hết cả chùm nho, cái bánh bao như chơi. Có lần, y nghe người chị gã than thở “Cứ làm trò ra thế, làm tình làm tội mọi người. lãng phí, mỗi lần nhập viện là cả đống tiền, có biết đâu, mọi người kiếm được đồng tiền vất vả đến thế nào...”.

          Chuyện này còn tái diễn, trước khi y xuất viện vào ngày, gã Trọc lại nhập viện vào đúng phòng bệnh này, và thật không may cho y, gã Trọc nằm ở giường 59, ngay sát giường của y, với hiện trạng bệnh như cũ. Đúng ngày nghỉ cuối tuần, nên để gã nhập viện được, người nhà nghĩ mẹo là đưa y vào cấp cứu rồi chuyển từ cấp cứu lên khoa này. Nhìn thấy y, gã Trọc làm hiệu chào người quen cũ. Đầu tuần, khi thăm khám, bác sĩ  nhận ra y, chán ngán. bèn gọi người nhà, nói phải xuất viện ngay. Người nhà năn nỉ xin thêm vài ngày thì nhận được câu trả lời dứt khoát “Chúng tôi đã làm hết mọi thứ cần thiết rồi, về nhà uống thuốc theo đơn. Các bác thông cảm, bệnh viện không phải nhà trọ, ở đây chỉ dành cho những bệnh nhân nặng”...

         

          4.

          Phòng bệnh y nằm, không phải là loại dịch vụ tốt nhất, dạng trung, 350 nghìn đồng/ ngày giường. đi vệ sinh chung, trong phòng ngoài một va-la-bô thì có một chiếc tivi treo tường đầu kỹ thuật số, chỉ có chế độ bật công tắc, mặc định mức âm thanh và kênh VTV1. Ấy vậy, từ hôm y vào đến nay, tivi bật đi bật lại, vẫn đứng hình, cảnh nữ phóng viên cầm mic đứng ngoài phổ gì đấy. trông rõ vô duyên. Còn cái chậu rửa thì bị tắc, ứ tràn cả xuống nền nhà, vậy cũng chẳng thấy ai ngó ngàng sửa chữa gì cả.

          Chiều thứ bảy, phòng bệnh vắn, mấy chàng ngườu nhà cũng bàn chuyện chán rồi. Một ai đó, nhìn cái chậu rửa ứ tắc thở ngắn than dài. Thấy vậy, Q nổi máu bực lên, bèn rủ X, “Thua cái tivi rồi, còn cái chậu rửa này, chả lẽ anh em mình cũng thua nốt? Anh em mình thử tháo ra xem sao”. Thế là hai người hì hục tháo vặn một hồi, cuối cùng cũng được. Họ lôi ra cả một cái rẻ rửa bát lọt xuống chèn tắc ở họng dưới. Vậy là chậu rửa thông tắc, khiến cả phòng bệnh sung sướng. Bữa cơm chiều ấy, ba anh chàng Q-X-T rủ nhau ra quán ngoài phố ăn cơm với ý đồ cụng ly có chút cay cho nó máu, gọi là chút mừng công. Họ có rủ y và bác H nhưng cả hai đều từ chối. Thế là ba tay kéo nhau đi sẩm tôi mới về.

          Y khen Q là người tháo vát, lại chịu khỏ và hay giúp người. Th, vợ Q bảo “Vâng, nhà em tính vậy đấy, nhưng mà... việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng... Bộ đội mà, ra ngoài giúp dân quen rồi, nhưng đi vắng biền biệt thế, bao nhiêu việc nhà, trông cả vào tay em... Khi nghỉ hưu, ở nhà vẫn quen tính vậy, bác ạ.... Lại thêm, hễ rảnh tay, là mấy ông hưu với rủ nhau bài cây, tá lả hết ngày hết buổi bác ơi”.  Lúc Q về, thấy vợ đang rôm chuyện với y, đùa vui “Chắc nhà em lại kể tội em với bác chứ gì”. Y đùa lại “Anh em chúng tôi đang nói xấu chú đây”. Q toét miệng cười “Vâng, em biết tội em rồi... Sau đận này, em sẽ ngoan, tu chí đây, bác ạ”. Th. cười mắng yêu chồng “Được thế thì mừng quá. Em chỉ mong có thế bác ạ. Với lại, chân tay cứ đau khớp thế này, em có tham công tiếc việc thì cũng đành chịu. Nhà em không làm thì ai đây”.

          Sau mấy ngày, vợ y mang cơm vào cho y, thấy vợ chồng Q-Th hay chuyện, cũng hỏi han chuyện trò, biết bệnh của Th, nói là Th nên tập một số động tác yoga, hy vọng tập luyện lâu dài sẽ cải thiện được sự vận động. Chiều hôm ấy, vợ y mang cơm sớm hơn mọi ngày, dành thời gian dạy cho Th dăm động tác yoga đơn giản, dễ tập và có thể đem lại hiệu quả. Về cái khoản này, vợ y đã theo lớp tập bảy, tám năm nay, nhờ thế mà việc nhà quần quật vẫn dẻo dai. Điều đó, cho thấy tác dụng nhãn tiền của yoga. Vợ y còn “đe’ sẽ dạy cho y tập yoga, y ầm ừ nhưng rồi bỏ qua. Có lẽ, sau đận này, cũng phải tập yoga thôi.

          Về sức khỏe, người ta hay bảo nhau “Lúc còn trẻ, bán sức khỏe đi để lấy tiền. Khi về già, lại bỏ ra bao nhiêu tiền mua lại sức khỏe, nhưng đâu có được”. Ngẫm nghĩ thấy quá đúng. Giờ đây, các điểm công cộng, phấn đông chỉ thấy người già luyện tập thể dục, trong khi cánh trẻ thì đêm thức rõ khuya, sáng thì dậy muộn, thậm chí ngày nghỉ có thể ngủ cả ngày.

          Nói vậy, y cảm thấy ái ngại, khi  biết bệnh nhân giường 60B, cạnh giường gã Trọc, ấy là cô gái trẻ mới 22 tuổi, mặt non choẹt như học sinh phổ thông, vậy mà đã lấy chồng, có con 6 tháng tuổi, nhập viện trước y cả tuần vì chứng thấp khớp chạy vào tim. Cu cậu chồng cô bé, cũng non, ăn mặc như thằng cu bơ cù bất. Đôi vợ chồng trẻ chăm nhau, nhõng nhẽo như trẻ con. Mà đúng, vợ chồng trẻ con. Nghe nói, đầu tuần, cô bé xuất viện, nhưng không phải khỏi bệnh về nhà, mà chỉ về nhà tạm thời ít ngày, để sau đó nhập viện Tim mạch chữa bệnh tiếp. Rõ khổ.

          Bệnh nhân, vào đây, mỗi người mỗi bệnh, có thể na ná như nhau, nhưng không giống nhau; hoàn cành gia đình cũng mỗi người mỗi khác, tự mình chăm mình, người nhà đi theo chăm sóc, hoặc giả thuê người chăm sóc. Dịch vụ y tế tăng chóng mặt, nằm giường phổ thông thì phải chấp nhận 2-3 người nằm chung. Giường hẹp, phòng đông người ngột ngạt, đến người khỏe cũng nhược người, huống chi người bệnh. Lại thêm người đi theo, tối trải chiếu, ni-lông, tấm bìa các-tông xuống nền, ngủ la liệt như lợn. Còn thuê phòng dịch vụ tự nguyện thì bét nhất cũng 350 ngàn đồng/ ngày giường, mà số giường cũng có hạn, không có mà thuê. Ai ở tỉnh xa, đi viện mươi ngày, kèm thêm người nhà đi chăm sóc là đi tong vài chục triệu, bay số tiên còm cõi kiếm cả năm cũng nên. Y đã chứng kiến, nhiều người không dám ăn suất cơm viện, bởi mỗi suất là 30 ngàn đồng, trong khi chịu khó đi ra phố, quán cơm bình dân chỉ giá 20 ngàn. Mỗi lần đi ăn về, có người ngồi đếm mớ tiền lẻ nhàu nát, vuốt cho phẳng rồi xếp lại với nhau, mặt mũi cứ tần ngần, nhẩm tính từng ngày. Đấy là chỉ tính tiền ăn, tiền thuốc thôi, chứ chiếu chụp hình ảnh mới tốn kém nhiều. Ai không có bảo hiểm thì thật khốn nạn cái thân, bao nhiêu tiền cho đủ. Mà bây giờ, miễn bàn, đi khám bệnh, bác sĩ hỏi dăm câu chiếu lệ, hỏi cho phải phép, để định hướng vậy thôi, còn đâu cứ phải chiếu chụp cái đã ...

         

 

5.

Khi phần đông người là vạn bất đắc dĩ, là khổ sở, tốn kém, thì lại có người nhập viện tưng bừng như đi hội, người ra vào thăm nom sáng chiều tối tấp nập. Nói như vậy, không có nghĩa là người đó thích nhập viện, bởi đã là bệnh tật thì nặng hay nhẹ đều khổ rồi.

Bà Phg là một trong số đó. Năm nay bảy chục cái xuân xanh, vóc người nhỏ nhắn trắng trẻo, gương mặt cho thấy hồi trẻ là người có nhan sắc, nhưng cũng thể hiện sự sắc sảo, ghê gớm, và kiểu cách thì ra vẻ quý-xờ-tộc, người kẻ chợ. Từ lúc bà Phg nhập viện, bà điều khiển cả phòng bệnh như nhà của bà vậy. Nghe đâu, bà ta có con gái làm bác sĩ ở khoa nào đó của bệnh viện này, nên mỗi khi phải chiếu chụp gì đó, cô con gái bác sĩ điện thoại nhờ và trước, nên bà không phải xếp thứ tự như các bệnh nhân khác, chỉ đi một loáng là xong ngay. Rõ là “nhất thân, nhì quen”. Bà Phg nói liên tục, chỉ đạo này nọ, từ chuyện khép cửa, đến để ghế vào đâu, tắt mở tivi thế nào, tắt quạt bật quạ ra saot, tóm lại, là tất tần tật la cứ phải theo ý muốn của bà hết. Ngoài việc chỉ đạo, bà hỏi thăm bệnh và tranh luận với tất cả mọi người, tiếp đó là kể chuyện gia đình bà, khoe con này, cháu nọ khôn ngoan, giàu có. Chưa đủ, nhà bà thuê cho bà chị C, một người đàn bà nông thôn nạ dòng chuyên nghề chăm bệnh nhân để chăm sóc bà, và bà luôn miệng sai vặt (đương nhiên, cho bõ tiền công thuê mướn), giáo dục, nhắc nhở, phê phán chị C vì chưa làm bà vừa ý. Có lúc, bà nổi cáu, mắng mỏ, dọa đuổi, hoặc dọa không trả tiền công cho chị C. Tóm lại, chỉ trừ lúc bà Phg ngủ là người ta không thấy tiếng bà, và mỗi tối, cứ tầm 9 giờ là đòi tắt tivi, tắt hết đèn để bà ngủ... Khách khứa, người nhà bà vào thăm đông và nói chuyện ồn ào thì không sao, nhưng khách của người khác là bà tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Cánh đàn ông nhăn mặt rỉ tai nhau “ thôi thì nhịn như nhịn cơm sống vậy” ...

Người nữa, ấy là anh chàng D, ngoài bốn chục tuổi, trắng trẻo đẹp giai ra mặt, ít nói và hầu như không giao tiếp với ai, kể cả người ở giường bệnh kế bên là bà Phg lắm lời, D được người nhà và đồng nghiệp thăm hỏi khá đông. Qua câu chuyện của khách thăm, đồ đoán, D có chút chức vị trong một doanh nghiệp nào đó. Lúc chuyện phiếm, Q ghé tai y thì thầm “Bác ạ, em nghe vợ chồng tay này bảo nhau, phong bì của khách thăm hỏi lên đến bốn, năm mươi triệu đấy. Chắc tay này là lãnh đạo doanh  nghiệp nên phong bì mới nhiều vậy”. D không chuyện trò với ai, và chỉ có mỗi một niềm vui, ấy là nghịch chiếc điện thoại đắt tiền, bất kể ngày hay đêm. Nhiều đêm, y trở dậy đi vệ sinh, vẫn thấy D ngồi ghế ngoài hành lang, cắm mặt vào chiếc điện thoại. Nghe nói, D bị bệnh gì đó, đau khớp và cơ, nhưng vẫn chưa tìm ra nguyên nhân, hễ không dùng thuốc là sốt cao, có lần, D tỏ ra lo lắng sợ mình bị K...

Đầu tuần, khi đôi vợ chồng trẻ ranh xuất viện, giường bệnh đó có ngay bệnh nhân mới tiếp quản. Ông này ngót sáu chục, tên V, người thấp đậm, to béo, trán hói, chân sưng húp không đi được mà phải ngồi xe lăn, từ phòng bệnh khác chuyển sang. Lúc mới nhập phòng, con trai đưa vào, nhưng ở lại chăm sóc lại là một người đàn bà nạ dòng to béo, gương mặt hao hao ông V, nên mọi người đồ đoán là em gái chi đấy. Ông V ít nói, nhưng hễ nói là cáu gắt với người theo chăm mình. Ông ta sốt liên miên, được chăm sóc đặc biệt hơn, suốt ngày truyền dịch. Nhưng lúc tỉnh táo, ông V điện thoại liên miên, mời mọc, chỉ đạo này nọ người ở nhà chuẩn bị cho đám giỗ đầu mẹ đẻ ông ta ở quê. Một buổi, có mấy người vào thăm, trong đó có một bà già, và khi vừa nhìn thấy ông V, bà này đã ngào ngào khóc, lớn tiếng bảo ”Sao cháu tôi lại đến nông nỗi này... Thế mấy đứa con mày đâu, sao không trông bố mà lại để cái nhà cô này trông?” ý ám chỉ người đàn bà đang chăm bệnh ông V.  Người đàn bà nạ dòng chào bà già, lấy ghế để bà ngồi rồi với vẻ sợ sệt, len lén ra khỏi phòng bệnh, đi đâu mất cho đến khi khách về hết mới thấy quay trở lại. Khi ông V nói là ông cho đám con về quê lo việc giỗ thì bà già mắng “Thì ít nhất cũng phải có một đứa ở lại trông mày chứ, sao lại phó thác hết vào con mụ này... Cháu bà mà mệnh hệ gì thì con này, mày chết với bà”. Sau một hồi khóc lóc và lớn lối, bà già dúi cho ông cháu ít tiền rồi đi. Người đàn bà kia trở lại, làu nhàu “Chỉ được cái to mồm, tiếng là thương xót lắm nhưng ngồi với cháu được mấy phút. Cứ thử một đêm chăm cháu rồi xem...”.

Sau mọi người vỡ lẽ ra, ông V có mấy con với người vợ trước, chẳng hiểu bỏ vợ hay chết vợ, hiện tại V đang chung sống như vợ chồng với người đàn bà đang chăm bệnh ông ta đây. Người đàn bà này cũng đã có 2 mặt con với người chồng đã mất của cô ta. Ông V chuyển bệnh sau khi đi làm ca đêm về, lại phong phanh quần áo cộc đi tập thể dục rồi tắm. Chắc là cảm lạnh, cảm nhập tâm, sốt cao rồi chuyển bệnh nặng. Điều trị tích cực mà vài ngày sau thì bệnh ông V nặng hơn, khó thở, phải thở máy và sau một đêm trợ lực mọi nhẽ tại phòng bệnh, ông V phải chuyển sang phòng cấp cứu của khoa và sau đó chuyển tiếp sang A9 với tình trạng mười phần chết bảy. Mọi người bảo, ông bị tiểu đường nặng nay phá lung tung, nhưng bác sĩ lại chẩn, ông V ăn kiêng quá dẫn đến tình trạng mất cân bằng dinh dưỡng. Nghe vậy, cả phòng bệnh lại có cớ bàn tán sôi nổi rằng, bị tiểu đường thì có nên ăn kiêng hay không và nếu ăn kiêng thì ở mức độ nào cho phải ?...

 

 

6.

Sáng đầu tuần, sau dăm ngày truyền kháng sinh, như bác sĩ khoa ngoại hội chẩn, y phải làm thêm mấy xét nghiệm máu như kiểm tra HIV, tốc độ đông máu và siêu âm tim, rồi y được chỉ định sang phòng Tiểu phẫu của khoa khác để là thủ thuật mổ ổ ép-xe. Mặc dù có tiêm thuốc tê nhưng y cũng phải mấy bận đau cong người lên khi bác sĩ phẩu thuật ép dịch mủ trảo ra. Y tỉnh táo đủ nghe hết trong khi phẫu thuật, mấy phẫu thuật viên nói chuyện với nhau về tình trạng bệnh của y, kể cả việc họ gọi điện xin ý kiến chuyên môn của bác sĩ trưởng khoa, và những câu tán đùa nhau. Y cũng cảm giác được đầu ống hút khua khoắng và chạy sè sè tạo lực hút trên màng khung xương ngực phải để hút chất dịch mủ trong ổ viêm, giống như người ta hút bùn loãng khi nạo vét ao hồ vậy. Người ta khâu vết mổ lại, không quên việc đặt một cái ống dẫn lưu để dịch mủ ra tiếp thời gian hậu phẫu. Lúc ấy, vừa 12 giờ trưa, mấy cậu bác sĩ trẻ, vừa đỡ ý ngồi dậy, vừa thở như trút ra gánh nặng, bảo nhau “Rồi cũng xong việc. Được ăn trưa rồi đây”. Nghe vậy, y hiểu, ca bệnh của y phức tạp hơn so với những gì mấy cậu bác sĩ này nghĩ. May mà, cũng ổn. Với chiếc áo bệnh nhân loang lổ bởi dịch ổ viêm làm bẩn, y tự cầm cái túi bóng ni-lông đựng chất dịch cùng dây dợ lòng thòng với sự áp tải của vợ đi xuyên mấy dãy hành lang dài dặc để trở về phòng bệnh cũ.

Thay áo sạch, rửa tay, y đói meo, ăn ngấu nghiến chiếc bánh bao nóng hổi vợ y kịp mua cho. Trưa ấy, như trút được gánh nặng, mặc dù bụng y còn vơi bởi chiếc bánh bao quá nhỏ so với cái dạ dày rỗng kiệt sau khi chịu đựng ca phẫu thuật, y ngủ một giấc ngon lành cho đến 2 giờ chiều. Tỉnh ngủ, y nằm trên giường, lắng lại, cảm giác như người khỏi hẳn bệnh, quên cả chiếc ống dẫn lưu như cái vòi lòng thòng từ ngực y trồi ra với chiếc túi treo móc lủng lẳng dưới gầm giường chứa đến vài trăm li dịch ổ viêm...

Trong số đàn ông ở phòng bệnh này, y hợp chuyện và hay nói chuyện với 2 người, ấy là Q. và bác H. Nếu Q xuề xòa, thoải mái bao nhiêu thì bác H lại kỹ càng câu chữ và khá hóm ngầm. Q hay động chân tay giúp người bày đỡ người khác, thì bác H lại giữ mình để không phiền toái đến bất cứ ai. Q thích chuyện đời sống dân dã và vui đâu chầu đấy, những câu chuyện vui ngoài xã hội, thì bác H lại thích chuyện chính trị, chuyện thâm cung bí sử xưa nay. Với cả hai người này, y đều vui chuyện được và cũng không cần phải ý tứ gì lắm. Có tối, y và bác H kéo nhau ra ghế hành lang ngồi chuyện trò đến khuya những câu chuyện triều chính ẩn khúc, chuyện nhiều nghi vấn trong lịch sử và hiện đại ... Dù bác ta khá kín tiếng, rồi y cũng biết được nhân thân của bác H... Với chiều cao 1m75, xống mũi cao, gương mặt có nét châu Âu, nên lúc trẻ được nhiều cô gái say đắm. Là sinh viên, rồi nhập ngũ, bị thương xuất ngũ, học tiếp đại học và trở thành giảng viên đại học. Bác H từng được cho sang Nga làm nghiên cứu sinh nhưng lại từ chối (theo bác H tự nhận là thiếu chí tiến thủ), cưới vợ quê (giữ lời hứa của hai người cha gả con cho nhau). Trước khi nghỉ hưu, bác H bị tai nạn xe máy, vỡ xương vai, đúng vết thương cũ thời chiến tranh, kết quả phải thay khớp vai bằng hợp kim, kỹ thuật y khoa tiên tiến ở thời điểm ấy. Hai chục năm sau, ổ khớp ấy thành ổ viêm do tụ cầu vàng gây ra. Trừ mấy ngày nghỉ tết Mậu Tuất, bác đã có cả tháng truyền kháng sinh. Ở tuổi này, gia đình yên ấm tại thành phố TB, hai con gái đầu trưởng thành cả, riêng cậu út thì tuy học đại học “hơi lâu mới tốt nghiệp”, có lúc ham chơi không chịu học, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua, hiện đã có việc làm và yên bề gia thất. Bác H bảo “Tớ 76 rồi, trời cho được mươi năm nữa cũng tốt, còn không, cũng chẳng có gì phải ân hận cả” .

Cái tâm sự kiểu này, hóa ra không phải riêng bác H, mà còn là ý nghĩ của ông Ph, bệnh nhân giường 59. Bị gút nặng và cứ mỗi tối là chuồn vê nhà ngủ, sau hơn tuần uống thuốc, ông Ph bớt đau chân, những tưởng xuất viện đến nơi thì trong một lần chụp cắt lớp CT, người ta phát hiện ra một khối u ở dưới thùy phổi phải. Bác sĩ điều trị khuyên ông nên sinh thiết tế bào để kiểm tra u lành hay ác, đặng còn chữa trị kịp thời. Ông Ph kiên quyết không chịu và chỉ một mực đòi xuất viện. Người ta mời anh con trai ông Ph gặp riêng nhằm thuyết phục ông. Sau vài ngày, ông Ph không nghe, cuối cùng đành cho ông xuất viện với tờ giấy cam đoan tự nguyện, lưu trong hồ sơ bệnh án, là để tránh việc đổ lỗi cho bệnh viện sau này. Lúc thu dọn đồ đạc, thu chăn ga trang phục trả lại viện, ông Ph bảo y “Bác à, iem năm nay 74 tuổi rồi, ba con đều phương trưởng, cháu nội ngoại dăm đứa, iem cần gì nữa đâu. Thây kệ cái u, iem là iem nhất định không có chọc ngoáy, dao kéo gì sất. Sống chết nó có số cả, thêm được bao nhiêu hay chừng ấy. Động vào, có khi củ tỏi sớm cũng nên, bác nhỉ”. Mặc dù hơn y cả chục tuổi, song ông vẫn xưng hô “iem iem” theo kiểu người nhà quê như vậy. Ông Ph chào hết lượt mọi người trong phòng bệnh, xách túi đồ đạc, mắt kính đen, lũn cũn theo chân cậu con trai cao ngồng ra về. Rồi cái khối u trong phổi ông Ph ra sao, còn bỏ ngỏ, nhưng cũng có cái để người trong phòng bệnh bàn ra tán vào mãi về quan niệm sống của người già nói chung, về số phận con người, về cái sống cái chết ...

 

 

7.

          Bà cụ hơn tám mươi, mẹ của T sau dăm ngày điều trị không hiệu quả, người ta khuyên chuyển sang khoa khác thì hợp hơn. T đi, Q bớt một người bạn hay chuyện. Nhưng nghe đâu, họ vẫn gặp nhau ở ngoài quán ăn, cụng với nhau vài cốc bia cho đỡ nhạt mồm. Không có T, Q tỏ ra buồn, chỉ thỉnh thoảng chuyện với y và bác H mà thôi. Được cái, Q tỏ ra quan tâm đến mọi người, ai nhờ việc gì cũng giúp, như đi gọi điều dưỡng viên, đi lấy kết quả chiếu chụp hộ người này, người nọ, chẳng nề hà việc gì, nhiều khi đi lo giúp việc người, lúc vợ cần gọi lại không thấy đâu. Những lúc như vậy, Th-vợ Q lại rền rĩ, khiến y phải nói đỡ hộ Q,  khen ngợi Q tốt bụng lấy phúc này nọ, Th mới thôi, nhưng vẻ mặt vẫn ra chiều  rầu rĩ lắm.

Trong số các bệnh nhân tại phòng này, ai cũng có người nhà đi kèm, chăm sóc cả ngày lẫn đêm, duy chỉ có y và bác H là đêm không có ai chăm cả. Đơn giản, bởi chỉ có hai người là chân khỏe, đi lại bình thường, tay cũng làm được việc vặt, tránh việc nặng thôi . Vì thế, không những ngày, ban đêm, Q hay giúp y và bác H nhiều việc vặt.

Sau hôm mổ ổ ep-xe xong, ông bà bên thông gia với y biết tin vào thăm. Y hăng hái kể lể chuyện bệnh tật cả tiếng đồng hồ, lúc khách về, vợ y mang cơm tối vào, phát hiện túi đụng chất dịch dẫn lưu không chỉ có dịch mà căng đầy những hơi, sợ quá bèn gọi điều dưỡng vào, xử lý xì hơi đi. Vợ y về rồi, thì có một điều dưỡng vào hỏi y có thấy khó thở không. Y ngạc nhiên vì thấy mình bình thường, nhưng nhân viên này yêu cầu y phải đi chụp X quang ngay lập tức, vì bác sĩ trực ca lo rằng chân ống dẫn lưu đặt sâu quá có thể chọc thủng màng phổi nên mới sinh hơi, khí nhiều như vậy. Thấy thế, Q bào sẽ đưa y đi chụp. Y định tự đi thì họ yêu cầu phải ngồi xe đẩy vì sợ khi đi, có thể chân ống dẫn lưu sẽ phá rách màng phổi thì gay go to. Nghe họ phán vậy y đang đi phăm phăm, bỗng thấy lo lo. Ừ thôi, cứ nghe họ, bác sĩ có chuyên môn, họ phán vậy có lý, ngộ nhỡ ra,... có hối cũng muộn... Thế là, Q lại hì hụi mượn xe lăn, đẩy y đi chụp X quang. Đêm ấy, y thấy lo nên khó ngủ, chụp rồi nhưng chẳng biết thế nào, cả tối thì phấp phỏng chờ xem có sao không, nhưng không thấy nhân viên nào trờ lại nên y nghĩ là sau khi xem phim chụp, họ thấy ổn nên thôi... Lo chán, y cũng thiếp đi, cho đến khi tiếng rao “Các bác ơi, đổi nước”, y mới giật mình tỉnh dậy.

Về cái ống dẫn lưu, cái vòi bạch tuộc cắm từ ngực y, xem ra cũng phức tạp. Mấy ngày đầu, dịch dẫn lưu tràn ra 200 li, rồi 300 li, y cứ giữ nguyên như thế, vì nghĩ để bác sĩ điều trị biết, định lượng, ‘đong đếm” về khía cạnh chuyên môn... Sau mấy ngày, bác sĩ thăm khám, chẳng thấy ai nói gì, cũng không ai bảo y trút cái của nợ ấy đi, nên y cứ cam tâm giữ nguyên mấy trăm li dịch ấy trong cái túi đựng dịch. Cho đến khi, thấy cô nhân viên điều dưỡng mở chốt xì bớt khí nội sinh đề phòng căng quá mà vỡ túi, nhưng cũng không đổ dịch đi, nên y càng tin là phải giữ nguyên. Song đeo đẳng cái bịch non một nửa ”chất quý” ấy cũng khốn khổ cho y lắm cơ. Mặc dù y khá sáng dạ, nhưng chỉ nghĩ ra cái mẹo, mỗi khi ra khỏi giường bệnh, y đút cái bịch dịch của quý ấy vào chiếc túi áo bệnh nhân rộng thùng thình, nom đỡ chướng mắt thôi. Ngẫm nghĩ, thấy chẳng nhân viên y tế nào có ý định “đong đếm” cái bịch của quý ấy, y bèn loay hoay thử tháo chốt cái bịch nhưng không tài nào được, nên đành phải nhờ anh chàng Q với bàn tay sắt của lính trợ giúp, cuối cùng cũng mở được cái chốt ở đáy bịch, đặng trút hết thứ nặng nợ ấy vào toa-lét. Thấy nhờ vả thế cũng không tiện, rồi y cũng học được cách tự tay tháo chốt thải dịch, cho đỡ phiền hà ...

Chưa hết, một chiều, cô bác sĩ trẻ ngày ngày vẫn thăm bệnh cho y dắt theo một chàng bác sĩ, nghe đâu bên khoa Ngoại, cái nơi đã mổ chich khối ép-xe của y, vào thăm bệnh y. Sau chút ngắm nghía cái bịch và dây dẫn lưu lòng thòng, chàng ta xì một cái, rồi dẫn cô bác sĩ ra ngoài, chốc lát trở lại. Chàng bác sĩ tự tay thị phạm, vừa làm vứa hướng dẫn nàng bác sĩ, vứt bỏ cái bịch đựng và cả mớ dây dẫn lưu lòng thòng ấy đi, thay vào đó là một xi-lanh nhựa to, được tạo áp lục âm, kiểu như người ta rút thuốc vào ống kim tiêm ấy. Thế là từ đấy, y chỉ phải mang cái xi-lanh áp lực âm ấy, được nối với phần gốc ống dẫn lưu, và mỗi khi đi đâu, y chỉ việc cho nó vào túi áo bệnh nhân rộng, thật gọn gàng và kín đáo. Cũng kể từ đấy, y mạnh dạn đi đây đó, xa hơn cái phòng bệnh và toa-lét, kể cả việc sáng dậy đi bách bộ thể dục, hoặc ra ngoài ăn sáng hay chuồn về nhà gội đầu và kiếm bữa cơm gia đình buổi chiều.

Như trút được gánh nặng...

 

8. 

Đây là lần đầu tiên y vào viện. Và đương nhiên, y sợ bệnh viện, sợ phải nằm viện đến mức nào. Nhớ là, hôm bác sĩ phòng khám bút phê y phải nhập viện điều trị nội trú, y đã nằng nặc đòi ngoại trú, với lý do bệnh nhẹ, nhưng thực lòng, y ngại, đúng ra là sợ bệnh viện.

Vậy mà, sau 12 ngày nội trú, bác sĩ điều trị thăm bệnh và phán rằng, y phải xuất viện, với lý do, bệnh của y, mười phần đã bớt bảy, đã có phác đồ điều trị rõ ràng, vả lại, theo nội quy, một đợt điều trị nội trú ở đây, nếu không có gì đặc biệt, chỉ đúng 12 ngày là phải xuất viện. Cứ theo vậy, có nghĩa là y phải xuất viện ngay, bệnh viện tuyến dưới sẽ chữa trị nốt phần còn lại. Thực lòng, y sợ nằm viện lắm rồi, nhưng ngực y vẫn còn đó cái ống dẫn lưu và mỗi ngày, dịch từ ổ ép-xe vẫn ra chút chút, giờ chuyển bệnh viện tuyến sau nào đó, y vẫn phải mang theo cái cục nợ ấy, rồi biết đâu, lại chiếu chụp lại từ đầu thì phiến toái, rầy ra lắm. Đơn giản, bởi ở cái xứ ta, chẳng hiểu sao, bệnh viện này, không thèm công nhận kết quả chiếu chụp, chẩn đoán bệnh và phác đồ điều trị của bệnh viện kia. Đâu đã hết, có thể lại nội trú, lại người nhà phục vụ, thôi thì cả tá thứ lôi thôi theo cùng... Nghĩ thế, y nằn nì, cô bác sĩ điều trị bảo, là bác sĩ trưởng khoa chỉ thị vậy, có gì cứ thử trình bày với trưởng khoa xem vị ấy quyết định thế nào. Chẳng hiểu, bộ dạng y ra sao, cải bản mặt y nhăn nhó, thực thà thế nào, mà vị trưởng khoa đồng ý cho y thêm 2 ngày nữa, đủ để truyền đủ phác đồ truyền thuốc 2 tuần (14 ngày). Thế rồi, qua 2 ngày thêm lại là nghỉ cuối tuần, vậy là y yên tâm đợi đến đầu tuần sau chờ phán xét, cứ như “ngày phán xử cuối cùng” ấy. May ra, lúc đó, có thể người ta sẽ rút cái vòi bạch tuộc từ ngực y ra cũng nên.

Có một chuyện, y thấy cũng không nên bỏ qua, ấy là bệnh nhân mới nhận phòng, thay vào giường bệnh 55, nơi bà mẹ bị tai biến của T nằm trước đó. Đấy cũng là một bà già ngoài bảy chục tuổi. Bà này đau khớp chân, nhưng cái miệng lại rất khỏe mạnh. Mỗi khi, người nhà đỡ bà ta ngồi dậy, hoặc xê dịch cái chân của bà thì bà oai oái kêu đau, rồi rền rĩ và lầu bầu mãi. Người bệnh đau và kêu thì rõ rồi, nhưng người lành đi chăm bệnh cũng sung sướng gì đâu, chẳng tới mức “giường cứt chiếu đái” thì cũng lăn lộn khuân bê, tất tưởi thuốc men, cơm cháo, lúc đêm hôm thì thức canh cho người bệnh ngủ, chỉ tranh thủ nằm ghé, hoặc trải chiếu xuống nền nhà chợp mắt được chăng hay chớ cho lại sức mà thôi. Nghĩ cũng cực cho họ lắm. Vậy nên, người bệnh cũng phải nghĩ cho họ, biết thương họ chứ. Đằng này, bà già cứ yêu sách này nọ, như hành tội người nhà đi theo, lúc ngủ im thì thôi, còn không, chốc chốc lại léo nhéo này nọ đủ kiểu. Tôi nghe, cũng thấy sốt ruột, thấy ái ngại cho những người nhà của bà ta. Thưởng là, chăm bệnh ban đêm cho bà này, có cô con gái, đứa cháu gái đang là sinh viên ngoại ngữ, và ông chồng già của bà. Đứa cháu gái thì thức khuya, chát chít cheo chéo cả đêm khiến mọi người khó ngủ, còn ông chồng già thì mồm sặc mùi rượu, nói năng lung tung theo kiểu nát rượu, đến nỗi bà vợ chốc chốc phải lên tiếng nhắc nhở, cảnh báo ông ta chớ nói nhăng nói cuội “kẻo công an họ gô cổ cho đấy”. Anh con trai của bà này, kiểu người nhanh nhẹn và hay chuyện, chỉ chăm bệnh ban ngày. Hỏi ra, họ dân Hưng Yên, cùng quê gốc với y.

Là người cùng quê, nên anh này càng hay chuyện. Có lần, ngồi hóng gió hành lang ban công lúc chiều muộn, chỉ có hai người với nhau, anh này bắt chuyện với y, rồi dần dà cụ tỉ bao nhiêu là chuyện. Nhà họ có dăm anh chị em, nhưng mỗi anh ta la trai, nên thành trưởng. Bố mẹ anh ta ở riêng, hai ông bà chăm nhau. Các con gom góp thêm để phụng dưỡng cha mẹ già. Hình như, họ không hợp với cô con dâu, nên anh chàng này cũng bị cha mẹ ghét lây. Cứ theo anh ta, tiếng thế, nhưng tất cả các việc lớn nhỏ, nhà anh ta phải cáng đáng là chính, trong khi các cụ thì,”cụ bà lắm điều, cụ ông nát rượu”, rồi động tý là rêu rao với hàng xóm láng giếng “chúng tôi không thèm nhờ vả gì vọ chồng chúng nó”. Chàng ta than thở với y “Ông ạ, các cụ nhà cháu vậy đấy. Thôi thì nhà cháu, vợ chồng khuyên bảo nhau, con cái đâu có quyền chọn cha mẹ, các cụ có thế nào đi chăng nữa thì vẫn là cha mẹ mình. Mình ăn ở, hiếu đễ thế nào, thì họ hàng, làng xóm người ta biết, ông giời cũng biết cả ... Bà cháu bệnh thế này, truyền đạm, truyền thuốc, toàn nhà cháu lo cả. Các chị em gái cháu, tiếng thế, cũng chỉ trông giúp dăm buổi vậy thôi... Chưa biết đến lúc xuất viện ra sao, hiện giờ, nhà cháu đóng tiền tạm ứng viện phí đã hơn ba chục triệu rồi đấy... Cả một đống tiền”...

Chàng ta thở dài. Y cũng chỉ biết vài câu an ủi, động viên mà thôi...

 

9.

Y có một tuần trước khi xuất viện, trong yên lặng, là bởi vợ chồng Q-Th và bác H đều xuất viện cùng một ngày. Bác H, sau khi siêu âm và thử máu kiểm tra, căn bệnh ép-xe khớp vai trái của bác ấy cơ bản đã hết viêm, còn việc bác ấy có quyết định thay ở khớp đã từng được thay từ 20 năm trước sau một tai nạn xe máy ở cửa ga Hàng Cỏ, bằng một khớp mới với chất liệu tiên tiến hay không là quyền ở bác H. Song cứ như tâm sự của bác ấy với y thì “Thôi, tớ đã 76 tuổi rồi ... chỉ cần không bị viêm là ổn”. Còn Th, vợ của Q, còn mấy xét nghiệm chưa có kết quả, thì cũng không thể nằm đây mà chờ được, bởi mỗi ngày trôi qua là cả triệu bạc trôi theo, trong khi lợn gà, vườn tược ở nhà bề bộn ra đáy. Cứ xuất viện đã, kết quả xét nghiệm thế nào, bác sĩ của khoa sẽ thông báo qua điện thoại. Nếu may mắn, theo lịch hẹn tái khám, vào trung tuần tháng sau (tháng 4), họ sẽ lại nhập viện để truyền sinh học lần thứ 9. Bác H thì có bà vợ già và cậu con trai út từ quê lên, kịp bắt xe về Thái Bình trong ngày. Còn vợ chồng nhà Q thì đến điểm đón xe tuyết lên Điện Biên, chạy thông đêm, rạng sáng hôm sau về đến nhà. Buổi tối hôm ấy, y cẩn thận gọi điện biết bác H đã về đến nhà, còn vợ chồng nhà Q đã đón được xe, y mới yên tâm. Có gì đó buồn buồn thiêu thiếu, Chẳng gì, y cũng chuyện trò và khá thân quý họ trong nửa tháng qua. Nhìn hai cái giường 53B và 57 của họ, được lấp ngay bằng những bệnh nhân mới, y cứ bâng khuâng làm sao, phần vì nhớ họ, phần vì nghĩ đến mình, không biết hôm nào được ra. Y chỉ biết hết cắm mặt vào chiếc smartphone G.Note 3 cũ kỹ, lại ngếch mắt lên màn hình tivi, ơn trời, từ chiều ấy, bà con có cái mà xem, vì bỗng nhiên sau nửa táng đứng hình nó lên hình bình thường và léo nhéo suốt nếu quên tắt, mặc dù chẳng ai chữa ...

Vẫn còn nhiều chuyện, nhưng thôi, cứ xem đây là phần Vĩ thanh của thiên ký sự này, bởi nói dai thành nhạt trò... Những câu chuyện, những thân phận, tâm tư... y kể ra đây, mới chỉ là những điều mắt thấy tai nghe ở một phòng bệnh cụ thể của một khoa bệnh thôi, nhìn rộng ra, thì còn bao điều để bàn....

Trước hết, về sự quá tải ở bệnh viện, người ta đã tốn bao công sức, giấy mực để bàn rồi, y chỉ chiêm nghiệm rút ra vài điều như sau. Xưa nay, cái chợ vốn được xem như một thiết chế văn hóa của xã hội nói, giờ đây, có thể mở rộng khái niệm này, từ chợ cóc, chợ truyền thống, siêu thị đến thị trường nói chung. Tóm lại, đây là cái nơi để người ta mua bán hàng hóa, và bao giờ cũng đông đúc. Đông như đi chợ mà. Cùng với cái chợ, đông đúc không kém, ấy là lễ hội. Và lễ hội ngày nay, cũng xem như cái chợ, chợ mua bán tinh thần, “buôn thần bán thánh” mà. Tôn giáo, tín ngưỡng đều bị thương mại hóa tuốt. Giờ thêm nữa, đông đúc như đi bệnh viện. Cái này, hẳn chỉ có ở xứ ta thôi. Người ta cứ kêu ca, người dân, ngành y tế, cơ quan quản lý nói chung, rằng tại sao người bệnh không điều trị ở các cơ sở y tế tuyến dưới mà lại đổ về hết các bệnh viện trung ương, cứ như vậy, hởi làm sao không quá tải cơ chứ? Xin thưa, cơ sở y tế tuyến dưới, lấy đâu ra các trang thiết bị y tế hiện đại đắt tiền; kể cả khi có được các thiết bị y tế hiện đại, thì lấy đâu ra y bác sĩ giỏi; và khi không có đồng bộ 2 yếu tố này, thì càng không có yếu tố thứ 3, ấy là niềm tin của người bệnh; thôi thì, gặp ca nào khó một chút, cứ kính chuyển lên tuyến trên cho nó lành, kẻo không, ngộ nhỡ làm sao, người nhà bệnh nhân họ đập cho toi mạng; còn người bệnh thì mang tâm lý, đằng nào cũng mất tiền, có đắt hơn chăng nữa, nhưng cho nó chắc, cho yên tâm... Vậy đấy!

Từ sự quá tải, sẽ lập tức gây hiệu ứng sang tâm lý và chất lượng chữa trị của nhân viên ngành y. Không có gì nằm ngoài nguyên lý cung-cầu. Một khi, cầu lớn hơn cung (>), bên cung sẽ có điều kiện áp đặt ý muốn chủ quan của mình. Và đây, chính là những yếu tố của thị trường chứ đâu. Không phải ngẫu nhiên, mà những câu chuyện nảy sinh trong ngành y như, nạn thuốc giả, thuốc kém chất lượng, sự phiền nhiễu của nhân viên y tế, sự lợi dụng nhằm trục lợi trong bảo hiểm y tế, việc tăng giá trong khám chữa bệnh vè dịch vụ y tế; còn phía người bệnh là sự mất lòng tin vào ngành y dẫn đến tâm lý đưa tiền lót tay, hoặc căm tức mà trút giận vào nhân viên y tế khi xảy ra sự cố, tai biến y khoa v.v...

Như vậy, từ một thời, người dân và cả xã hội nói chung, coi nghề y như một nghề cao quý cứu người với sự tôn kính mặc định đạo đức, xuống thấp thành bình thường, thành thị trường, thậm chí là nơi kiếm ăn, trục lợi, làm giàu bất chính... Vâng, nói như vậy, có thể là quá, bởi số đông thầy thuốc, ngành y vẫn giữ được phẩm chất tốt, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, song than ôi, người xưa dạy rồi mà “con sâu bỏ dầu nồi canh” là thế. Đã nói là nghề, thì nghề gì cũng có nguyên lý nghề, đạo đức nghề của nó cơ mà. Xin ví dụ, mở rộng, như nghề mãi dâm (bán dâm, xin lỗi, chưa được công nhận là nghề ở xứ ta) cũng có đạo đức nghề cả đấy. Rồi nữa, nghề giáo, một nghề cao quý như nghề y xưa nay, cũng đã thành thị trường cả rồi, lại xin lỗi, giờ đây đang có nhiệu việc lộn xộn, nhưng không phải là mất đi hẳn sự cao quý, tôn kính, mất đi đạo đức nghề, mà chỉ là sự suy giảm... Thêm nữa, nghề văn chương, nghệ thuật, báo chí, xưa nay vốn được khoác lên mình xứ mệnh cao cả là thông tin sự thật, truyền bá văn hóa tư tưởng, truyền bá mỹ cảm về cái đẹp,... thì nay, cũng thị trường cả rồi; tiếp tục xin lỗi, và không thiếu gì tiêu cực, không thiếu kẻ bồi bút...

Viện dẫn vậy, là để chia sẻ với nghề y và ngành y tế mà thôi...

Xin kết thúc thiên phóng sự này, bằng một bài thơ có tên “Chợ đau”. Đây là một trong số mấy bài thơ mà y sáng tác trong thời gian ngót ba tuần nằm bệnh viện, là để tự xoa dịu mình, tự kỷ ám thị cho bớt nỗi đau nhức thân thể, bớt sự lo lắng trong lòng và nỗi sợ tinh thần:

Như là chợ, bày những đau

Nén trào nước mắt nhìn nhau gượng cười

Đau tâm nhức thể, người ơi

Cái đau thừa ứ, đầy vơi nỗi lòng...

Xin dành tặng bài thơ và những dòng viết này cho nhưng nhân vật được kể trong thiên phóng sự!

 

 

10.

Vĩ thanh (  hay Gặp nhau ở Tuần Giáo )

 

Tôi và vợ chồng Q-Th vẫn giữ liên lạc qua điện thoại với nhau. Theo hẹn của Bệnh viện, trung tuần tháng 4, hai vợ chồng họ sẽ lại về Hà Nội, khám lại để nhập viện truyền dịch sinh học chữa viêm khớp lần thứ 9. Hôm họ về, tôi điện thoại hỏi thăm, thì Q cho biết là đang gặp một vài trở ngại. Ấy là, còn một xét nghiệm nữa, nhưng họ quên không mang theo giấy hẹn, nên cũng không lấy được kết quả; thêm nũa, mấy cô bác sĩ quen mặt, quen bệnh với minh thì người đã chuyển sang làm việc ở khoa khác, người lại đi học chuyên khoa, thế là chẳng biết bấu víu vào đâu. Bác sĩ ở phòng khám trực, kê đơn uống thuốc và lại hẹn, khi nào hết lịch trình thuốc uống, về khám lại, lúc ấy mới quyết định có tiếp tục truyền dịch sinh học hay không. Thế là dự định mời vợ chồng Q-Th thăm nhà, dùng bữa của y không thành. Theo lời hứa, vợ chồng họ tự tay làm bột nghệ từ sản phẩm vườn nhà theo đơn đặt hàng của vợ y. Hàn huyên chốc lát, họ lại ngược xe đêm về Điện Biên.

Lại chờ một cái hẹn sau...

 

Và cái hẹn ấy đã thành hiện thực.

Lần này, ở Tuần Giáo, Điện Biên.

Nhớ là, khi còn ở phòng điều trị bệnh viện, thân nhau hơn, vợ chồng Q-Th mời rất thật lòng “Khi nào bác lên Tây Bắc, dù ở Sơn La hay lên Điện Biên, bớt chút thời gian, quá bộ vào thăm nhà, chơi với vợ chồng em, ăn bữa cơm gia đình, thì vui quá... Nhà chúng em, già nuôi sẵn, rau cỏ trong vườn cũng nhiều, đúng là thực phẩm sạch ... Người miền núi chúng em cứ thật thà thế, được bác thăm nhà là quý lắm, bác ơi.”. Y cười, hứa là sẽ đến tận nơi, thăm nhà họ ngay tận Tuần Giáo vào một ngày gần nhất. Trước đây, khi còn làm việc, năm nào y cũng đi Tây Băc công tác dăm ba lần, còn giờ, đã nghỉ hưu, việc đi Tây Bắc không khó, nhưng cũng không dễ như trước nữa.

Và rồi, cơ hội đã đến, y nhận được lời mời lên Tây Bắc của một Văn phòng cơ quan báo chí có trụ sở ở trên đó. Cùng đi với y, còn có một nhà báo kỳ cựu, người từng là phóng viên chuyên trách với mấy đởi Chủ tịch nước, và cũng rất thông thạo địa bàn này.

Xe ngược dốc Cun, rồi băng qua Thung Khe lên cao nguyên Châu Mộc trong cơn mưa chiều nặng hạt. Những câu chuyện đường dài của người làm báo, những câu thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, và những bài thơ hay về Tây Bắc được đọc lên trong nỗi hoài niệm buồn vui... Điều đó, khiến cho y nghĩ nhiều về sự tình cờ và duyên gặp gỡ, về sự thú vị của cuộc đời, cho y thêm quyết tâm, thu xếp chuyến đi này để quá bộ lên Tuần Giáo thăm vợ chồng Q-Th như lời hứa hôm nào.

Và rồi, y được toại nguyện, song trước khi ghé Tuần Giáo thăm nhà Q-Th, lịch trình chuyến đi phải vượt qua Tuần Giáo lên khu di tích Mường Phăng. Đoàn đi Mường Phăng từ Sơn La, ngoài y và cựu nhà báo nọ, còn có một cán bộ lãnh đạo của Sở Thông tin truyền thông tỉnh Sơn La. Y và Q, đã điện thoại thông tin cho nhau, nhận lời sẽ ăn bữa cơm trưa với gia đình Q-Th. Đường xa, rừng núi, hẹn cơm mà trễ là chuyện thường. Vậy nên, mặc dù cố mấy, cũng phải tầm quá trưa sang chiều, đoàn của y mới về tới thị trấn Tuần Giáo. Q đợi sẵn ở điểm hẹn, đưa mọi người về nhà. Quang cảnh nhà vườn gần giống với hình dung của y khi nghe họ kể lúc ở bệnh viện. Nhà gạch đơn giản, mảnh sân gạch nhỏ, còn lại là vườn rau và chuồng nuôi gia cầm. Mâm cơm đã sẵn, thịt gà luộc, lòng gà xào giá mướp, rau cài xanh nấu canh... sạch sẽ và thơm ngon. Cả chủ và khách đều đói bụng, rượu phá mật ong rừng do Q tự chế, được rót ra. Cùng tiếp khách với vợ chồng họ, có một người bạn thân, đồng thời cũng là cán bộ Huyện đội với Q lúc chưa nghỉ hưu. Chủ khách thân tình, chẳng cần xã giao, ấy là phong tục của người miền núi, ấy là sự tự nhiên chân thành của người lính, người làm báo.

Câu chuyện qua lại, vẫn là chuyện về người lính, chuyện bên lề của cánh nhà báo, chuyện sức khỏe và ốm đau bệnh tật, nguyên cớ để y và vợ chồng Q-Th gặp nhau, nên quen... Mừng là mọi sự đều tiến triển tốt sau khi y và vợ chồng họ chia tay ở bệnh viện, sức khỏe y khá lên, còn Th thì cũng đỡ đau khớp, có thể túc tắc việc nhà, còn với Q, thì sau đận trông vợ tại bệnh viện vừa rồi, cũng chí thú việc nhà hơn trước. Mừng nữa, cậu con trai độc nhất của họ đã qua kỳ thực tập và vừa thi tốt nghiệp xong, sắp trở thành bác sĩ. Niềm vui ấy của mỗi người như được nhân lên trong cuộc hội ngộ này...

Cuộc vui mấy, cũng đến lúc phải chia tay. Chủ khách chụp chung với nhau vài pô ảnh kỷ niệm. Câu chuyện của y với vợ chồng họ, cho vị cựu nhà báo nọ thêm sự chiêm nghiệm về cuộc sống; Cho vị cán bộ Thông tin truyền thông sắp nghỉ hưu bài học và ý thức giữ gìn sức khỏe ở lứa tuổi xế chiều,...

Mấy tháng nữa, vợ chống họ vẫn phải về Hà Nội, tái khám cho lịch trình điều trị tiếp theo. Vẫn còn đó những nỗi lo, vất vả tiếp theo. Mong là, mọi chuyện thuận lợi...

Và còn đó, cái hẹn mời vợ chồng họ thăm nhà y...

 

          

 

Người đi bạn với phù vân,

 

 

Hoan hô Phẫu thuật thần kinh

Mổ não rất giỏi, thơ tình cũng hay.

         

Người ấy là bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, chuyên khoa phẫu thuật thần kinh ở Bệnh viên E, Hà Nội. Còn câu thơ kiểu Bút Tre kia là của Nguyễn Vinh Hùng, em trai ruột của Nguyễn Vinh Dũng, đùa vui mà khen anh mình vậy,...

          Tôi mới gặp bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng đúng một lần, qua vài tiếng trò chuyện thôi, nhưng biết đến anh thì trước đấy vài năm. Số là, tôi có trang cá nhân ở một mạng xã hội, là Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.com) từ năm 2009, và ở đấy, tôi có những người bạn, với tư cách là blogger hay tư cách bạn đọc thường xuyên. Trong số đó, có những người là “người của công chúng”, là cây bút được bạn đọc biết đến, như Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhà văn Trần Tâm, nhà văn Nguyễn Cao Thâm, Lưu Quốc Hòa, Nguyễn Trọng Huân, Trần Hồng Giang  v .v… So với nhiều bạn hữu và người quen của tôi xuất hiện trên blogtiengviet.com (BTV), mà các blogger gọi vui một cách nôm na, là Xóm Lá, thì Nguyễn Vinh Dũng là người đến muộn. Tuy đến muộn, nhưng Nguyễn Vinh Dũng nhanh chóng trở thành một blogger ấn tượng, và vì thế, anh khá thân  với nhiều blogger khác và được đông đảo bạn đọc biết đến…

          Nickname mà Nguyễn Vinh Dũng sử dụng ngay từ ngày đầu tiên xuất hiện trong Xóm Láphauthuattk, lâu ngày, mọi người viết tắt, thành PTtk, rồi tắt nữa, là Phẫu. Và kể từ đây, Nguyễn Vinh Dũng trở thành người nổi tiếng trong Xóm Lá… Anh Phẫu, chàng Phẫu, hoặc chỉ một từ Phẫu là đủ, để ghi nhận sự có mặt của anh trong Xóm Lá xôm trò này. Ở Blog Tiếng Việt nói riêng và mạng xã hội nói chung, một ai đó muốn có một tài khoản, một trang cá nhân, không khó, vì chỉ sau một số thao thác kỹ thuật là được. Song để nuôi dưỡng, để mọi người biết đến, ghi nhận sự có mặt của mình, nể trọng mình, thì khó đấy. Riêng với Phẫu, anh đã làm được cái việc khó ấy, một cách dễ dàng, tự nhiên. Tôi nghĩ, đấy là phẩm chất, cá tính bẩm sinh, là kiến thức và bản lĩnh của người từng trải …

          Với tôi, không nhớ chính xác Phẫu xuất hiện, ghi cảm nhận (comment) trên trang Ngẫm & Viết của tôi khi nào và cụ thể bài viết gì, nhưng Phẫu nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi, bởi qua một vài cảm nhận, anh đã thể hiện rõ sự hiểu biết, tính phản biện cao qua giọng điệu hóm hỉnh pha chút chọc ngoáy gây chuyện. Vậy mà tôi khoái ngay anh chàng Phẫu này từ “thuở ban đầu”… Phẫu nhanh chóng đứng vào hàng ngũ của những blogger, những bạn đọc sắc sảo có tiếng ở đây trước khi anh xuất hiện, mà tôi được biết và thường xuyên giao lưu, như: Người Qua đường, Phạm Huy Việt, Nguyễn Vĩnh Tuyền, Lê Văn, Lu Bim, Sĩ Liêm, Chử Thu Hằng, Ru đêm-Thúy Tím, Mùa Thu vàng, Nhược Mộng, Biển Lặng, Ví giặm, Hoàng Kim, Hoa Mai, Trịnh Tuyên, Việt An v.v…

          Phải nói, tính tương tác cao của mạng xã hội này, cho phép mọi người bộc lộ ý kiến cá nhân về những bài viết của các blogger. Cái cách Phẫu đến với bà con Xóm Lá cũng rất khác người, ấy là không cần sự rào đón, chào hỏi nhẹ nhàng làm quen, như phần đồng mọi ngưới hay làm, thay vào đó, là ý kiến sắc sảo, là nhận định riêng, không a-dua, không bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng đám đông. Ngần ấy, khiến nhiều người để ý và nể trọng Phẫu. Đấy là nét chính phác họa nên một diện mạo Phẫu với tư cách là người đọc và ghi cảm nhận, vậy còn Phẫu với tư cách một cây bút, thì các sáng tác và bài viết của anh ra sao?

          Tựu chung, các bài viết của Phẫu, có thể gom lại thành mấy dạng, nhiều nhất là câu chuyện hoài niệm về tuổi thơ đi học ở quê, chuyện quân ngũ và chuyện về các người thân; dạng thứ hai, là những bài viết ngắn, kiến giải các bức xúc xã hội, dân sinh có tính thời sự, và ở đây, anh không ngại những đụng chạm mang tính chính trị; một dạng nữa, ấy là các câu chuyện nghề nghiệp, cụ thể là chuyện từ tai nghe mắt thấy tay làm trong công việc của một bác sĩ chuyên khoa Phẫu thuật thần kinh của anh. Phẫu khá chịu khó cập nhật trang cá nhân, thay bài viết mới, đôi ba ngày một bài, lâu nhất thì cũng chỉ một tuần. Chính vì vậy, tuy lập trang khá muộn, nhưng bài viết lại nhanh chóng đầy lên. Và đấy cũng là cơ sở để tôi nhìn nhận ra một diện mạo Phẫu với tư cách một cây bút.

          Là một cây bút nghiệp dư, chịu khó viết, nhớ đâu, thấy gì, kể nấy, nên tôi không đánh giá những bài viết của Phẫu về khía cạnh văn chương chữ nghĩa, mà nhìn nhận ở nội dung đề cập, tính chính kiến và chất nhân văn của mỗi bài viết của anh. Văn anh, nhiều chỗ còn ẩu, cũng không thiếu lỗi chính tả, thế những, ẩn giấu dưới những câu chữ ngổn ngang ấy (tôi hình dung chữ viết tay của anh, từ con người và tính cách mà suy, hẳn chữ không đẹp, nhất là “chữ bác sĩ”), luôn thấy sự hóm hỉnh, thông minh lấp lánh đâu đó. Thực lòng, tôi không nhớ hết những bài viết của Phẫu, song tôi ấn tượng nên có thể gom những bài viết thành các dạng cụ thể như vậy…

          Ấn tượng nhất, ấy là chuyện kể dài kỳ, mà Phẫu còn đặt thành chương, hồi kiểu như truyện trinh thám, kiếm hiệp ngày xưa, có tên “Thằng Cường”. Đọc một số chương, đối chiếu với những gì biết về cuộc đời Phẫu, dù tóm lược, cũng thấy ngay, “Thằng Cường” chính là chuyện về bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, là Phẫu cho đến bây giờ. Nghĩa là, truyện mang tính tự thuật, song không phải là hồi ký. Cái hay, cái thích trong truyện này, ấy là suy nghĩ thật, kể cả những điều khó nói, mà thường người ta hay giấu đi, chẳng hạn như nỗi sợ hãi, sự hèn mọn, sự phản kháng… của một người lính có học, chuẩn bị dấn thân vào nơi nguy hiểm, chết chóc… Tính chất tự thú ấy, giờ đây, tôi cũng đã đọc được ở đâu đó của những nhân vật thành danh bước ra từ cuộc chiến.

          Chuyện về người thân, viết nhiều nhất, cả văn và thơ, ấy là người mẹ của Phẫu. Người mẹ mà Phẫu từng nhớ: ”Ta ước nơi xưa một nếp nhà/ Có vải, có chuối có cỏ hoa/ Đèn ta trước cửa đêm đêm đợi/ Theo gió suơng về bóng mẹ ta”,... Người mẹ, mà Nguyễn Vinh Hùng, em ruột của Phẫu cũng đã nhớ lại mà viết: “Hôm nay trời rét lắm/ Thôi! chị Thuấn ở nhà/ Đưa cái áo bông hoa/ Để cho Khang nó mặc/ Dũng, Hùng đâu, ra đây/ Sao phong phanh thế này/ Lật áo lên mẹ đếm/ Một...hai...ba…chưa đủ,/ Độn thêm cái này vào/ Ở bên trong ai thấy!/ Thế rồi mẹ đi cấy/ Mặc một áo phong phanh/ Mẹ bảo, cấy cho nhanh/ Hình như…cũng đỡ rét”… Vậy là đủ hiểu, Phẫu và các anh chị em trong gia đình anh yêu thương và kính trọng người mẹ đến mức nào.

          Cũng chuyện người thân, Phẫu dành tình cảm đặc biệt cho cô con gái út của anh. Được biết, Phẫu có ba con, hai trai trước và gái út. Tôi đặc biệt ấn tượng, một câu chuyện anh kể lại, rằng ngày gái út của anh còn nhỏ xíu, cháu bé có một chút khiếm khuyết nhỏ, không ảnh hưởng gì đến sức khỏe cũng như thẩm mỹ, nhưng để giải thích cho gái út khi bé băn khoăn về khiếm khuyết chút xíu ấy, Phẫu đã nghĩ ra hẳn một câu chuyện, như truyện cổ tích pha ngụ ngôn, kể cho cô bé nghe, và sau đó, cô bé không còn băn khoăn gì nữa. Thật là tuyệt vời, tôi nghĩ vậy, phải có lòng thương yêu con gái út vô bờ bến, Phẫu mới nghĩ ra được một câu chuyện “cổ tích” hợp lý và hay đến vậy. Dường như, gái út cũng rất yêu kính cha mình. Bằng chứng là, buổi chiều muộn, Phẫu lái xe đến trụ sở Đài TNVN ở 58 Quán Sứ (Hà Nội) đón tôi, để cùng đến thăm nhà Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, đang đi thì Phẫu có điện thoại. Anh nghe máy, và qua đối thoại trên phone, tôi ít nhiều hiểu được nội dung cuộc đàm thoại. Phẫu giải thích, con gái út anh, cô bé đang là sinh viên đại học, hỏi bố có ăn cơm tối không ở nhà không, và khi anh cho biết là đang đi đâu, ăn cơm khách với ai, thì cô bé nhắc bố mình, nhớ đừng về muộn, không uống rượu bia khi lái xe. Vậy thôi, đủ thấy, cha con anh, không những yêu quý, mà còn thân tình như bạn bè…

          Chuyện về nghề nghiệp, tôi nhớ là có đọc một câu chuyện,vừa là chuyện nghề, vừa là chuyện người thân, ấy là về vợ anh, một bác sĩ, khi ấy còn chưa làm công tác quản lý ở một bệnh viện ngành tại Hà Nội như bây giờ. Chuyện rằng, nếu không nhầm, đại loại, vợ anh một lần bị tai nạn, thương tích khá nặng, chấn thương sọ não hay cột sống gì đó, cần phải phẫu thuật gấp, đặng mới cứu sống, vừa tránh bị di chứng sau này. Thế nhưng, khi cấp cứu tại bệnh viện chị ấy công tác, song không hiểu sao, lại không có bác sĩ phẫu thuật giỏi, đứng chính ca mổ. Phẫu được tin, đến ngay phòng bệnh, nơi vợ anh đang được cấp cứu, chờ mổ. Với đội ngũ bác sĩ, nhân viên y tế ở đây, anh và họ đều quen biết nhau, đơn giản bởi đây là nơi vợ anh công tác, thêm nữa, chắc trong nhiều năm làm nghề, anh cũng thường xuyên tham gia hội chẩn, thậm chí, được mời tham gia phẫu thuật, điều trị bệnh nhân của bệnh viện này. Nhìn cảnh vợ đang hôn mê, chờ phẫu thuật mà chưa có bác sĩ giỏi cầm dao mổ chính, trong khi bác sĩ mới vào nghề có đấy, nhưng chỉ phụ tá được thôi. Phẫu sốt ruột lắm, bởi kinh nghiệm chuyên môn, anh hiểu, mỗi giây phút trôi qua, vợ anh khó có cơ cứu sống. Thế nhưng, quy định chuyên môn không cho phép, dù có giỏi đến mấy, bác sĩ phẫu thuật chính cũng không được phép cầm dao mổ cho người thân ruột thịt của mình, bởi nỗi lo tâm lý và tình cảm không ổn định, dễ gây ảnh hưởng xấu đến việc dao kéo, dễ sai sót khi phẫu thuật dẫn đến ca mổ không thành công. Vậy nên, dù giỏi và giàu kinh nghiệm, Phẫu cũng không được phép cầm dao trong ca mổ vợ mình. Tình thế lúc ấy thật khẩn cấp, và cuối cùng, không thể chờ bác sĩ của bệnh viện kịp đến, ca trực cấp cứu hôm ấy, đành phải chấp nhận đề nghị của Phẫu xin được cầm dao cho ca mổ chính vợ anh, để anh ký vào tờ giấy cam đoan xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về ca phẫu thuật này. Anh đã vào cuộc với một sự bình tĩnh, bản lĩnh cao cường, cho đến khi, bác sĩ chính của bệnh viện đến nơi thì cũng là thời điểm Phẫu hoàn thành ca mổ xuất sắc. Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm, sung sướng vô bờ. Phẫu như kiệt sức. May mắn, vợ anh qua khỏi, hồi phục dần, trở lại công việc bình thường, không bị di chứng gì. Nghe đâu, vợ anh còn phát triển, trờ thành một cán bộ quản lý của bệnh viện này. Qua những gì Phẫu kể lại trong bài viết của mình, có thể thấy được tay nghề chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp của anh cao tới cỡ nào rồi.

          Một câu chuyện nữa của Phẫu kể lại và tôi cũng nhớ vì quá ấn tượng. Ấy là một ca cấp cứu tai nạn giao thông chấn thương sọ não rất nặng. Đêm ấy, không phải ca trực của anh. Phẫu bảo, anh ngồi xem mạng, gần nửa đêm thì định đi ngủ, vừa lúc ấy thì điện thoại réo. Anh nghe máy, đầu kia, bác sĩ trực ca đêm cùng khoa với anh, nhờ anh tư vấn cho một ca cấp cứu chấn thương sọ não vì tai nạn giao thông của một nam thanh niên rất trẻ. Bác sĩ trực ca tỏ ra thiếu tự tin, lo xử lý không thành công ca này, sợ nạn nhân sẽ tử vong trên bàn mổ, và yêu cầu, nếu có thể, Phẫu đến ngay để giúp anh ta xử lý ca này. Không chần chừ, Phẫu lao ngay đén viện vì nhà anh gần đó. Và anh đã chịu trách nhiệm chính ca phẫu thuật sọ não cấp cứu đó. Đến gần 5 giờ sáng, ca mổ hoàn tất với sự thành công vượt quá sự mong đợi của gia đình nạn nhân. Khi Phẫu về phòng mình, thì người nhà bệnh nhân theo đến, đưa anh một phong bì tiền, nói là họ muốn cảm ơn anh và cả ca trực đã vất vả đêm hôm dồn hết sức để cấp cứu con họ qua cơn nguy hiểm chết người. Phẫu lung túng, không nhận, song gia đình bệnh nhân nhất mực thành tâm, họ bảo không nhận thì họ sẽ áy náy như kẻ vô ơn. Cuối cùng, Phẫu đành nhận, vừa để gia đình nạn nhân hài lòng, và anh nghĩ, còn cả ca trực nữa, nếu thêm chút quà cảm ơn này, hẳn họ cũng sẽ vui, niềm vui ở đây, không phải vì thêm được đôi ba trăm ngàn đồng, mà vui vì rốt cục, sự cố gắng của họ đã được đền đáp, một con người trẻ trung được sống lại…Thiết nghĩ, sẽ chẳng một ai chê trách gì Phẫu và các đồng nghiệp của anh khi nhận món quà cảm ơn chân thành này. Tôi nghĩ, đây không phải là sự vòi vĩnh, cầu lợi nghề nghiệp, nó thật sự là một biểu hiện của văn hóa biết ơn, theo truyền thống văn hóa Việt nói riêng và văn hóa Phương Đông nói chung. Trở lại bài viết của Phẫu, anh thành thật thú nhận nỗi băn khoăn của mình khi thay mặt kíp mổ nhận món quà cảm ơn này với sự lung túng kèm chút băn khoăn trong lòng, song anh cũng không quên sự hài hước vốn có của mình, khi mô hình hóa lại vết mổ hình sao trên cái đầu trọc lóc của nạn nhân với lời bình hóm hình rằng “Rồi đây, liệu cậu nhóc có biết quý cái mạng sống mà cha mẹ nó sẵn sàng đánh đổi mọi thứ và các y bác sĩ phải cố gắng hết sức để giành giật lại cho nó, rằng liệu nó có thay đổi này, nọ…”. Đọc, rồi cười thầm về sự dí dỏm, lại thêm phần nể trọng tính trách nhiệm của Phẫu…

                   Tiếng là khá thân và nể trọng nhau, nhưng tôi và Nguyễn Vinh Dũng chỉ gặp nhau đúng một lần, khi anh rủ tôi cũng đến thăm nhà Gs Nguyễn Lân Dũng. Phẫu nhận lời mời và hẹn đến thăm giáo sư, nhưng anh bảo ngại đi một mình. Hôm ấy, Gs Nguyễn Lân Dũng mời chúng tôi ăn bữa cơm tối ở quán cơm giáp ngay nhà ông trên phố Trần Thánh Tông. Cơm đúng kiểu cơm gia đình, lạc rang, thịt rang, đậu rán, canh cua, cà pháo. Tôi và Phẫu nhấp chút bia gọi là có, anh bảo, còn phải lái xe, và cũng hứa với gái út rồi. Chuyện nghề y, chuyện văn chương, xã hội. Tôi nhớ, anh có lý giải sơ qua, việc tại sao, anh đã là thạc sĩ, là bác sĩ chuyên khoa, nhưng lại không tiếp tục nghiên cứu để lấy bằng tiến sĩ. Phẫu có bảo, anh đang biên soạn một cuốn sách về chuyên môn và sẽ cho xuất bản, rồi cả chuyện anh chỉ còn già một năm nữa là nghỉ hưu, sẽ tiếp tục hành nghề y ra sao, khi đã nhận lời làm việc cho một phòng khám tư nhân của bạn bè...

          Gặp nhau chỉ vậy thôi, nhưng cả trước và sau cuộc gặp ấy, tôi và Phẫu giao lưu thường xuyên trên trang cá nhân của mỗi người. Khi cần lắm mới alo cho nhau, bởi do tính chất công việc, tôi thì họp hành liên miên, còn Phẫu thì bận việc chuyên môn, nhất là hay phải tham gia phẫu thuật. Vậy nên, cứ hẹn nhau chung chung, rằng khi nào rảnh thì gặp nhau,... Biết tôi chơi bóng bàn kha khá, Phẫu thích thú lắm, và còn hẹn, khi nào rảnh rang thì qua bên cơ quan tôi giao lưu bóng bàn với tôi và đội bóng bàn VOV, bởi anh chơi khá tốt và cũng ham môn thể thao này...

Tôi thích cách làm quen trực diện, gạt bỏ nếp xã giao thông thường và tính trách nhiệm cao ở con người này, ngay từ ngày đầu, mặc dù các cảm nhận của Phẫu cho những bài viết của tôi, đều gai gai, có gì đó trêu ngươi. Tôi lặng lẽ sang trang cá nhân của Phẫu, đọc một số bài viết của anh, không để lại cảm nhận gi, bởi tôi nghĩ, qua đây, có thể ít nhiều kiểm chứng được kiến văn và tính cách của chủ nhân. Tôi cũng cảm nhận được và chấp nhận cái sự “chọc ngoáy” của anh, và hiểu đó còn là “phép thử” dành cho tôi… Sau này, khi đã thân nhau, qua các cuộc đàm thoại, Phẫu cười sảng khoái, tự thú là đã thử tôi thật. Phẫu hay trêu tôi, rằng “... lão Chu làm thơ cứ như cái Phong vũ biểu… Hễ giời đất hắt hơi xổ mũi là  lão cũng thơ ngay được… Tài thế không biết,…”. Hiểu là bạn trêu mình, song quả là nhận xét ấy của Phẫu không sai, với những bài thơ “chuyển mùa” của tôi, và dường như, ngoài Phẫu, không mấy ai cảm nhận và bộc lộ thẳng như vậy. Phẫu chốt “thơ lão như phong vũ biểu thật … nhưng mà tớ thích, bởi sức gợi của ý tứ, câu chữ… thơ lão khiến tớ phải nghĩ ngợi này nọ…nó làm cho tớ không yên…”. Sự chân thành ấy của Phẫu, làm tôi cũng phải nghĩ ngợi, tự nhìn nhận một cách nghiêm túc các sáng tác của mình. Thực lòng, tôi đồng tình với quan niệm của người xưa, mà tôi từng đọc được ở đâu đó, rằng “thơ cốt ở gợi, rồi mới đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu…”, nên chủ định, thơ không cần quá dụng công, và cũng không gò ép, buộc thơ phải gánh vác sứ mệnh này nọ,… Tôi nghĩ, cứ giản dị, gợi mở, liên tưởng…, chẳng rõ, đấy có phải là thi pháp hay không, nhưng tôi đã kiên trì với phong cách ấy… Và nhận xét của Phẫu làm tôi yên tâm phần nào, chí ít anh cũng hiểu và chia sẻ cùng tôi…

          Tôi biết, bản tính của Phẫu là người thích phiêu du, nhưng điều kiện một bác sĩ phẫu thuật chính ở một bệnh viện lớn khiến anh không dễ bứt ra khỏi công việc để đi đây đó. Vậy nên, khi có điều kiện đi đâu đó xa vì công việc hay việc riêng, Phẫu đều tìm cách tranh thủ tách ra, tìm gặp người quen. Chính vậy, một lần, trong chuyến công tác miền Tây Nam bộ, tôi từ Cần Thơ sang Cao Lãnh (Đồng Tháp) và trên đường lên Sài Gòn, tôi thu xếp ghé thăm Sáu Miệt Vườn, một blogger có tiếng của BTV. Qua cầu Rạch Miễu, rồi men sâu vào miệt vườn ven sông Hàm Luông, sau mấy lần nối máy nhận chỉ dẫn, tôi mới tìm được nơi ở của Sáu Miệt Vườn. Những tưởng, mình là người đầu tiên ở ngoài Bắc lần mò vào tận đây thăm người quen, vậy mà tôi nhầm, trước đó không lâu, Phẫu đã tìm đến đây rồi. Trong câu chuyện của mình, Sáu Miệt Vườn luôn nhắc đến anh Vinh Dũng với sự kinh trọng trìu mến, rằng anh ấy là người hiểu biết, giản dị và đầy sự cảm thông, chia sẻ này nọ... Nghe nói, Phẫu đã nghỉ qua đêm ở đây để nhậu, đàn hát kiểu lính tráng thoải mái, và chuyện trò với Sáu Miệt Vườn cho đã đời… Thực lòng, tôi không bằng Phẫu trong giao lưu với bạn bè…

          Có vài lần, anh tự lái xe của mình đi công việc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi lên điểm cao dừng chân của cung đường đèo Ô Quy Hồ (Lào Cai-Lai Châu) và sau đó là Cổng Trời Quản Bạ (Hà Giang), Phẫu nghỉ chân, nối điện thoại nói chuyện với tôi, rằng anh đang cảm nhận xem, có gì đó giống với sự cảm nhận mà anh đọc được từ những sáng tác thơ văn của tôi trước đó. Điều ấy, tôi thấy vui vì sáng tác của mình đã tác động đến bạn văn chương, thôi thúc được bạn tìm đến các nơi mà mình từng trải qua…

          Nhớ là, có lần, tôi góp ý khá nhiều về lỗi câu chữ và chính tả trong truyện dài “Thằng Cường”, kể cả về nội dung, cách nhìn nhận, sự đánh giá về “cái được-mất” của cuộc chiến đã qua dưới lăng kính của một người lính trận còn sống sót đến thời hậu chiến, Phẫu bảo, cứ nhớ gì và nghĩ thế nào viết ra cái đã, rồi sẽ đọc chậm, đọc kỹ và chỉnh sửa sau. Phẫu lo, nếu cứ cân nhắc này nọ, rồi băn khoăn nên hay không nên, thì sẽ ngại mà  thui chột mất. Điều ấy đúng, nhất là với người viết không chuyên như anh.

          Và rồi, câu chuyện kể về “Thằng Cường”, hiện thân của Nguyễn Vinh Dũng ấy, dừng lại đột ngột,...  Vào một buổi sáng oi nồng cuối tuần, mùa hè năm 2015, Phẫu bị đột quỵ ngay giữa trận đấu bóng bàn khi anh đang thi đấu với các anh em bạn bè thuộc CLB Bóng bàn Cầu Giấy, mà anh là thành viên. Tin anh mất, tôi đọc được vào sáng hôm sau, cũng là qua các trang cá nhân của bạn bè Xóm Lá. Tôi bàng hoàng, khó tin, bởi thể trạng anh khỏe mạnh săn chắc, lại thêm anh vốn là bác sĩ cơ mà?...

          Gia đình, người thân, đồng nghiệp, bạn bè và đặc biệt là nhóm bạn Xóm Lá và các thành viên CLB Bóng bàn Cầu Giấy rất đông đến viếng, tiễn đưa anh ở chính nơi anh làm việc. Trong câu chuyện bên lề, có vị lãnh đạo của Bệnh viện bảo, “ông này chủ quan lắm, chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của bản thân, những lần cơ quan tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên của bệnh viện, ông ấy có khám xét gì đâu...”. Cũng là một lời trách về sự chủ quan. Phẫu ơi, chẳng riêng gì anh đâu, người ta bảo, bác sĩ thường hay chủ quan về trạng thái sức khỏe và bệnh tật của mình. Chẳng rõ, đúng sai, âu cũng xem như một sự an ủi?... Hôm ấy, tôi có chú ý đến cô con gái út của anh, cháu có nét giống bố. Con gái rượu, người mà Phẫu nhất mực quan tâm, đã khiến anh ngày nào nghĩ ra một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cô bé. Giờ đây, tôi vẫn hay nghĩ về cô bé, cháu đã tốt nghiệp đại học và đi làm rồi cũng nên?...

Sự ra đi của Phẫu khiến tôi bâng khuâng mất một dạo. Quả thật, không có anh, BTV như trống vắng hẳn đi, chí ít, đối với tôi, với Sáu Miệt Vườn, và còn những ai nữa đây ? ... Tôi biết, riêng trong BTV, có những người còn quý mến anh lăm lắm... Đấy thực sự là niềm hạnh ngộ với Phẫu, và tôi tin, anh biết điều đó. Tôi hay vào blog của Phẫu, đọc lại những bài viết của anh, đọc sâu về những bài viết ngày đầu anh mới gia nhập BTV, khi đó, tôi còn chưa biết đến anh. Tôi cảm nhận, ẩn sâu với vẻ ngoài thô ráp, góc cạnh, thậm chí có gì bỗ bã, là sự cảm thông sâu sắc, là sự cam chịu pha lẫn sự phản kháng vô vọng trước cái xấu và sự bất công, là những nỗi đau đời... chung quy, chúng đầy ắp chất nhân văn...

          Chừng nửa năm sau, Vinh Hùng, em trai Phẫu, thông báo là đã lần ra được password trang cá nhân của anh, đã xin phép gia đình anh, mở lại trang phauthuattk trên BTV, đặng đăng lại một số bài viết cũ của anh, trong đó, đặc biệt là truyện dài “Thằng Cường”. Bạn hữu lại thấy thấp thoáng bóng dáng Phẫu đâu đó nơi trang viết trong cuộc đời Thằng Cường. Đã có mấy chục số được đăng lại, nhưng rồi, bỗng một ngày nào đó, không còn thấy hiển thị của trang ấy nữa. Không ai biết vì sao, nhưng chắc có lý do của nó. Vinh Hùng và gia đình Phẫu, cùng một số bạn bè là các blogger của BTV, trong đó có tôi, đã bày tỏ sự mong muốn được gom lại tất cả những sáng tác của Phẫu, đặng lựa chọn và biên tập, xuất bản thành sách. Mong muốn ấy cũng đã từng được Vinh Hùng và gia đình Phẫu ủng hộ, song giờ đây, chưa rõ việc ấy tiến triển ra sao rồi? Tôi đã vào trang blog cá nhân của Vinh Hùng, nhắn hỏi, nhưng vẫn chưa có hồi đáp. Đành chờ vậy thôi...

          Khi còn làm việc, những năm trước tuổi nghỉ hưu, Phẫu hay tranh thủ về quê. Có vẻ anh thèm cảnh vườn rau ao cá, thèm cảnh bờ đê với những cánh diều bay lượn chiều hè, thèm dòng sông quê nhỏ bé hiền hòa với những lũy tre mát rượi ngả bóng, thèm ngôi chùa làng thoang thoảng khói hương tình lặng thiền định. Nhớ là, một lần, về quê ra, Phẫu đưa lên trang cá nhân mấy cái ảnh chụp anh trần trùng trục lội ao giăng lưới bắt cá cùng những lời chua hóm hỉnh. Chia sẻ cùng anh, tôi xúc cảm thành thơ tặng Phẫu: “Về quê/ ta tắm ao làng,/ rồi đi câu cá / chẳng màng / được/ không/ lang thang/ với ngọn gió đồng/ chiều về// ra lại bến sông/ thuở nào,/ Đêm/ thao thức / với trăng sao/ chùa bên/ hoa huệ/ ngạt ngào lên hương,/ chợp đi/ một giấc bình thường/ tinh mơ / nghe thoảng/ giọt sương/ mơ hồ ...”. Phẫu đọc được, vẻ khoái lắm.

          Nghề của anh, mỗi ca mổ cấp cứu, là chứng kiến ranh giới giữa sự sống và cái chết, những tưởng anh sẽ chai sạn với chuyện sinh tử, nhưng không, tâm hồn anh nhạy cảm, mong manh lắm. Một lần, ghi cảm nhận cho một bài thơ của tôi về quê cha đất tổ, Phẫu đã suy ngẫm và chiêm nghiệm gì đó, mà anh ghi “... Có lần, đi một mình trong sân bênh viện lúc đêm khuya, nhìn cái bóng của mình trên mặt đất, tôi như thấy bóng ông bà, tổ tiên mình lẩn khuất trong đó...”. Điều ấy, cho thấy, Phẫu cảm nhận chuyện đi ở bình thường như bao quy luật khác của cuộc đời?...

          Lại một mùa hè nữa. Những ngày nắng như chàm lửa, bạn bè lại nhớ đến Phẫu. Đã là mùa hè thứ ba kể từ khi anh đi xa. Phẫu, “người đi bạn với phù vân, cõi không lẫn với những vì sao đêm”, anh thực sự “phiêu du trên cánh nhẹ êm,/ mong manh đậu chiếc lá mềm vườn quê,/ làm mưa ướt cỏ triền đê,/ hòa làn gió thổi tái tê trời chiều,/ làm sương đẫm những thương yêu,/ làm nỗi nhớ của bao nhiêu lòng người”...

          Người thân và những bạn bè vẫn luôn nhớ anh. Mong một ngày gần nhất, được thấy những bài viết của anh, tập hợp trong một cuốn sách, với tên tác giả đầy đủ và trang trọng-Nguyễn Vinh Dũng.

          Còn ở Blog Tiếng Việt, xin anh, hãy cứ để mọi người nhắc đến anh với biệt danh giản dị - Phẫu, ...

 

 

         

 

         

         

Người lãng du giữa cõi tình,...

 

 

Tôi biết đến anh với bút danh Lê Lãng Du không lâu.

Cách đây độ dăm bảy năm, tôi biết đến cái tên này là qua trang blog của anh trên Blogtiengviet.net (Blog TV). Đọc thông tin cá nhân, biết anh cỡ tuổi với tôi, là cán bộ ngành thương  nghiệp, sinh sống ở gần thành phố Buôn-mê-thuột, Tây Nguyên.

Bài đăng trên trang của anh phần lớn là thơ. Anh thay bài mới khi mau khi thưa, song không bỏ cuộc hoặc ngắt quãng như nhiều người khác. Tôi bận bịu, phần bản tính không mấy vồ vập người chưa quen, song vẫn giữ lễ, nên thơ anh, bài đọc, bài không, và thi thoảng tôi ghi chút cảm nhận, mang tính xã giao là chính. Tuy nhiên, cũng cảm thấy, thơ anh, có bài khá, rồi đó đây ở bài này bài nọ có những câu thơ hay…Với người lấy thơ làm khuây, được như vậy là ổn.

          Rồi một lần tôi vào Tây Nguyên, đang mùa mưa, buổi tối ở khách sạn buồn hiu hắt, ngoài trời thì mưa ràn rạt, lúc mau lúc thưa, mùi cà phê quán đèn mờ ngoài phố thoảng vào thơm ảo não. Buồn thì mở Blog TV, đọc lướt qua các trang và tôi đã dừng lại ở trang của Lê Lãng Du. Lúc ấy, cái địa chỉ cá nhân Buôn-mê-thuột của anh đã thu hút tôi. Theo số điện thoại ghi trên đó, tôi bấm máy gọi và đầu kia anh nghe máy, trả lời. Sau màn chào hỏi, giới thiệu, chúng tôi trò chuyện thân tình ngay, vì thực ra, giữa chúng tôi, đã biết nhau qua mạng cũng vài ba năm rồi. Anh nói là ở cách thành phố vài ba chục cây số, và hẹn hôm sau sẽ lên Buôn-mê-thuột gặp tôi, đặng anh em biết mặt nhau.

          Y hẹn, gần trưa hôm sau, anh báo đã đến khách sạn tôi đang ở. Cùng đi với anh có một phụ nữ cũng đã luống tuổi, anh giới thiệu là bạn gái của mình. Chúng tôi có khoảng một tiếng trò chuyện, hàn huyên đủ thứ. Anh mời tôi ra quán dùng bữa trưa với hai người. Tôi đành từ chối vì đã có hẹn rồi. Chia tay nhau với chút lưu luyến, hẹn dịp khác sễ ngồi với nhau, để nâng chén và bàn về thơ phú. Tôi tặng anh vài tập thơ của tôi mang theo…

          Lần đầu gặp gỡ là vậy. Song đấy cũng là cái cớ để sau đó, tôi đọc thơ anh đều, cẩn thận và chăm ghi comment hơn. Cứ thế, mà thành thân thiết, và mỗi lần, tôi vào Tây Nguyên, nếu thu xếp được thời gian, là à ới gọi nhau. Tôi cũng đã vài lần cùng các đồng nghiệp ở Tây nguyên đến thăm tệ xá của Lê Lãng Du. Còn anh, khi ra Hà Nội, cũng đã một lần tìm đến thăm tôi ở trụ sở cơ quan, 58 Quán Sứ, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cùng bù khú, chuyện văn chương thơ phú.

          Có lẽ, nhờ vậy, để giờ đây, khi có ý định in thơ, Lê Lãng Du gửi cho tôi tập bản thảo dày dặn, tôi đọc và nhận diện được ngay khuôn mặt thơ anh.

          Đọc thơ Lê Lãng Du, tôi mạn phép gọi anh là Người lãng du giữa cõi tình. Đành rằng, người làm thơ thường là người nệ tình, song với riêng Lê Lãng Du, anh chìm đắm vào cõi tình, đánh mất cả bản thân. Anh lang thang, la cà đây đó trong mảnh vườn tình ái do mình tạo ra, không biết để tìm ai, tìm cái gì ở đó ?... Theo dấu chân anh, hồi lâu, cảm giác anh sa đà mà thành lạc lối chăng? Nhưng đến khi tưởng như anh mất tăm đâu đó trong cõi tình, thì Lê Lãng Du chợt tỉnh lại, ý thức được rằng, mình đang ở đâu trên cõi thực, mình đã từng và đang có ai, có cái gì, dù là mong manh thôi, song đang ở ngay bên mình, phải biết níu giữ, kèo không, rồi một ngày mất nốt, thì lại hối tiếc! Anh có dành cái tình của mình cho người thân, quê hương bản quán, phong cảnh sông núi, gió trăng, song như vậy, cũng là để dồn tụ về cái tình riêng của mình dành cho người tình đã có, đang có và sẽ có ! ?...

Để hiểu tâm tư, hiểu cõi tình của Lê Lãng Du, thiết nghĩ, nên biết đôi điều về cuộc đời anh. Tên thật, Lê Lãng, quê gốc Quảng Trị, mảnh đất khô cằn đầy nắng gió ấy đã từng sinh ra nhiều thi nhân. Anh phiêu bạt đó đây rồi trụ lại với mảnh đất Tây Nguyên, theo nghề thương nghiệp sinh sống. Anh có gia đình, con cái đề huề, nhưng rồi vợ chồng chia tay nhau. Dường như, để tìm sự thiếu hụt, để cân bằng mình, anh làm thơ, cũng đeo đuổi một vài bóng hồng đâu đó, nhưng không thành, bù lại, anh có chút lưng vốn thơ tình … Rồi một ngày nọ, cách đây chừng dăm năm, anh làm quen qua không gian ảo, một người phụ nữ đã luống tuổi, gốc gác Hà thành, cũng từng có gia đình con cái riêng, nhưng lại bị thiệt thòi đường gia thất. Và rồi, họ bập vào nhau thành đôi, mà nên ngãi vợ chồng. Hiện anh chị sống riêng với nhau trong căn hộ mặt phố tại một thì trấn cách thành phố không xa, có cửa hàng photocopy nhỏ. Đã vài lần thăm nhà và dùng cơm với anh chị, quan sát cách họ chăm sóc nhau, tôi hiểu là họ yêu quý, tôn trọng nhau, và hẳn là hài lòng với cuộc sống này…

          Khi yên bề gia thất, Lê Lãng Du vẫn làm thơ đều đều. Có điều, giờ chủ đề thơ anh đa dạng hơn, thực tế hơn. Ở đấy, có bóng dáng, tình cảm của anh dành cho người phụ nữ của mình:

 

Về đây mở quán để mưu sinh

Phố nhỏ vùng ven thật thanh bình

Sớm mai chồng vợ cùng thức dậy

Mở cửa dọn hàng đón bình minh

 

Vợ quét nhà, chồng ra nấu nước

Người rửa ly, người dọn loanh quanh

Kê vài chiếc ghế màu nho nhỏ

Bày lên bàn ấm chén trà xanh

 

Lòng vui khi thấy vài khách đến

Đon đả mời chào chẳng lạ quen …

 

Song đâu đó, người thơ vẫn nén tiếng thở dài, dường như tiếc nuối chi, từ trong sâu thẳm quá khứ:

 

Đắm say một chút duyên hờ

Mong manh tơ tưởng bến bờ tương tư…

 

Khát khao tình đã cuối chiều

Miên man trăng gió hồn xiêu cuối trời

Giờ bùa yêu đã phai rồi

Em quay về chốn xa xôi thủa nào

Mình ta đêm gió lao xao

Nhớ nhung bóng cũ nghẹn ngào cảm thương ..

 

Lại nữa, mơ tưởng, mộng ảo… hình bóng nào đó còn lởn vờn phía sau và chờn vờn ở phía trước:

 

Tương tư tóc bạc lưng trời

Ngất ngây như vướng bùa người bỏ ta

Cỏ tình cỏ lạ xót xa

Sao ta tìm hái để mà vương mang?

 

Như tôi đã nhận định, Lê Lãng Du là người nệ tình, chính vì vậy, cứ có cảm xúc là viết. Anh không chủ ý lập tứ, hoặc có tứ đi chăng nữa thì khi thể hiện ra thành câu chữ cũng không mấy rõ. Tình cảm và chữ nghĩa theo nhau tràn ra. Cứ như anh viết lấy được. Thơ thường dài dòng, giọng điệu kể chuyện, và nhiều khi thực quá, nên cảm giác bài thơ bề bộn, ngổn ngang câu từ. May mà, trong cái thực có cái tình, vậy nên, bài thơ có chỗ bấu vứu để mà đứng được. Cái quý của thơ Lê Lãng Du là vậy. Nói thế, không có nghĩa là thực, là kể hết, bất chợt, ta thấy anh biến ảo, và chìm đắm vào cõi mộng:

Thả vào em một chiều mong

Hay:

Tương tư tóc bạc lưng trời,

 

Hoặc lòng nặng trĩu những ưu tư:

 

Sớm nào quán vắng buồn man mác

Nhìn ra quan lộ ngóng xe qua

Vội vàng xuôi ngược về đâu đó?

Quạnh nhớ về nơi chốn quê nhà,

 

Còn nhiều lắm những bài thơ được, những câu thơ hay, song tôi chỉ viện dẫn một chút, đặng ký họa chân dung Lê Lãng Du-con người thơ… Bao nhiêu cũng chẳng là đủ, mà thêm một chút sẽ là thừa, tôi nghĩ vậy.

Lê Lãng Du thích uống rượu và uống được rượu, song anh không ham hố men cay, chỉ uống khi có bạn hữu chơi nhà. Khi say, anh thật nhất. Và có lẽ, trong một lần say, anh dốc bầu tâm sự, nỗi niềm ẩn chứa trong lòng mình, bấy lâu nay, về cuộc đời, tình cảm luyến ái, văn chương  thơ phú…

 

Say thì cũng đã say rồi

Liêu xiêu mấy bước lại ngồi xuống đây

Giả vờ một chút thơ ngây

Lả lơi, hờ hững vừa đầy hồn hoa

 

Cho người khờ khạo cùng ta

Se se áo mỏng ngọc ngà trong nhau

Chút thương giấu dưới nỗi đau

Ươm ươm môi chín úa nhàu tâm tư.

 

Cõi tình của anh là đây chăng, ơi người lãng du ?

Và cũng là chân dung tự họa của Lê Làng Du.

Tôi nghĩ vậy !..../.

 

 

 

Người đi giữa thực và mơ,

 

 

1. Có thể, nhiều người sẽ tự nhận mình như vậy. Song người tôi ám chỉ ở đây là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền,

          Mặc dù cho đến nay, Nguyễn Vĩnh Tuyền chưa từng xuất bản một tập thơ nào, nhưng anh đã từng sáng tác hàng nghìn bài thơ, và khi vui đâu đó với anh em, bạn bè, thi hữu, anh xuất bản miệng vài ba bài, hăng lên thì dăm bảy bài là thường.

          Nguyễn Vĩnh Tuyền, tuổi Ất Dậu, sinh năm 1945, hơn tôi vừa đúng một giáp, nhưng chúng tôi chơi với nhau là bạn vong niên. Tôi biết anh và lập túc thân ngay với Nguyễn Vĩnh Tuyền từ thời điểm mùa thu năm 2009, khi đó tôi đang phụ trách Văn phòng VOV miền Trung, đóng tại thành phố Đà Nẵng, và là người mới tò te của Xóm Lá (tên gọi nôm na thân mật của cộng đồng blogger, Blog Tiếng Việt). Lúc ấy, Nguyễn Vĩnh Tuyền đã là người cũ, và thuộc hàng đại ca của Xóm Lá rồi. Rón rén bước chân vào Xóm Lá, tôi thấy anh tung tẩy thơ phú, xướng họa, đùa rỡn khắp Xóm. Có lẽ, với tính cách như vậy, anh nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết với khá nhiều người, trong đó có tôi. Tôi xa nhà, từ Hà Nội luân chuyển công tác vào Đà Nẵng, nên ngoài công việc, tôi dành nhiều thời gian rảnh rỗi đặng giao du với bà con Xóm Lá giải khuây. Nguyễn Vĩnh Tuyền là một trong số ít người ở Xóm Lá, hiểu hoàn cảnh và chia sẻ cùng tôi sự trống vắng đó. Thêm nữa, tôi biết anh là cha đẻ của Nguyễn Vĩnh Tiến, một kiến trúc sư trẻ có tài thơ nhạc, là tác giả của ca khúc Bà tôi, và trước đó là bài thơ Chiếc roi tre được trao giải cao nhất một cuộc thi thơ, nên có phần nể trọng anh. Phải vậy, mà hai chúng tôi nhanh chóng kết thần, rồi coi nhau như anh em ruột thịt từ ngày ấy?

          Đầu năm 2010, tôi ra lại Hà Nội, văn phòng làm việc của tôi ngay tại trụ sở 58 Quán Sứ. Cùng thành viên. Xóm Lá ở đấy còn có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, rồi sau nữa, thêm nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhạc sĩ Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh Kính, nhà thơ Nguyễn Thanh Vân, nhà thơ Chử Thu Hằng nhà văn Nguyễn Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa… nên tháng đôi lần, hễ có điều kiện là à ới tụ họp, chuyện văn chương thơ phú rôm rả. Bầu không khí ấp cúng như thế, Nguyễn Vĩnh Tuyền càng có cớ để ra thơ…

          Công việc của tôi hay phải đi đây đó, bản tính lại yêu thích miền núi, nên nhiều chuyến đi, tôi hay rủ Nguyễn Vính Tuyền đi cùng, và thế là, anh em chúng tôi lại trên từng cây số… Tây Bắc thì Hòa Bình-Sơn La-Điện Biên-Lai Châu-Lào Cai-Yên Bái; Việt Bắc thì Tuyên Quang-Hà Giang-Cao Bằng-Bắc Cạn; Đông Bắc thì Bắc Giang-Lạng Sơn-Quảng Ninh…Mỗi năm mới, chúng tôi thường thu xếp về Phủ Lý thăm nhà văn Lưu Quốc Hòa, hoặc vào xứ Thanh thăm nhà văn Trịnh Tuyên, cùng các blogger miền Thanh-Nghệ… Lang thang đây đó, vui nhiều và viết cũng nhiều…

          Tiếng là có trong tay gia tài hàng ngàn bài thơ, nhưng nói đến việc tập hợp thành tập thì Nguyễn Vĩnh Tuyền lại ngại. Đúng ra, anh lười. Trước hết, Nguyễn Vĩnh Tuyền lười việc tìm lại thơ mình. Mỗi cao hứng, hay mất ngủ, anh đều viết được. Viết như thể, cuộc đời anh chỉ có Thơ là trọng, ấy vậy, viết xong là quăng quật ngay. Thơ anh rải rác đâu đó, anh chẳng nhớ, và cũng không thuộc. Anh thuộc khá nhiều thơ của con trai mình, nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, song với thơ mình, tôi cam đoan, anh thuộc không nổi chục bài. Lười tìm lại thơ, và cả lười biên tập. Viết ra đấy, nhưng có khi chẳng thèm đọc lại, quẳng lên blog hoặc Facebook cá nhân là xong, và hầu như không biên tập lại bao giờ. Cứ như anh chẳng chịu trách nhiệm gì, đúng ra, là anh vô trách nhiệm với những đứa con tình thần của mình. Và coi đó là việc của người khác,,, Ứng xử với thơ mình như vậy, nhưng trong đời sống, anh lại là người rất chăm chỉ việc nhà, chu toàn chăm sóc vợ,con, các cháu nội ngoại mình. Không những thế, anh chu đáo và trách nhiệm với quê hương, họ hàng và bạn bè gần xa…

          Có hai người hay giục anh tập hợp thơ thành tập, ấy là Nguyễn Vĩnh Tiến, và tôi.  Nguyễn Vĩnh Tiến thì giành việc đặt tên tập thơ, còn tôi, biên tập bài và viết chút gì đấy, xem như phác họa chân dung Nguyễn Vĩnh Tuyền.

          Lâu nay, âm âm trong suy nghĩ của tôi, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là người đi giữa thực và mơ,…

 

          2. Tự thân, Nguyễn Vĩnh Tuyền cũng nhận vậy:

 

nửa khuya mưa bóng mây
lâm thâm ngoài ngõ hẻm
mềm mơ cơn thức dậy
ảo-thực ấy? ...sinh vần

lạc lẫn từ ăn vay
thơ tái sinh màu nhớ 
thoại ngữ đêm sang ngày...

 


           Trước hết, hãy cũng Nguyễn Vĩnh Tuyền du ngoạn vào cõi mơ của anh. Thực tình, tôi thích cõi mơ ấy:

 

mưa chi xối đất mẻ trời
buồn chi lây khổ cả người không dưng
em ơi, thương nhớ quá chừng
xin đừng buồn nữa ngõ lưng chừng… đời!.

và đây nữa:

 

ai người vấp lối hợp tan
cho tình anh được lấp san cùng tình….

 

đỉnh non thơm mấy nụ thơm 
đã nghe nức nở dỗi hờn hạt mưa
đã nghe luyến nhớ đầy trưa
muốn ôm muôn giọt mau thưa ngợp chiều

 

Sao không phát sáng đổi màu
Để sông trăng lạnh trên đầu trôi trôi
Rượu trời nhàn nhạt nơi môi
Nâng lên đặt xuống chỗ ngồi vắng tanh

 

Buông neo tạm bến nhớ nhung
tránh cơn sóng vỗ chập chùng gió mưa
Giấc vui gói kín mạn trưa
bờ tình che kín gió lùa ngang sông

Phôi phai lạc tận bến mơ
nhổ neo!
 
        ...đi tiếp nước cờ mai sau?.

 

... tất cả đang lũ quét vào máu và da thịt nhau 
thế là anh biến thành khúc thức buồn tẻ mang mang
 
giữa cánh đồng đời lao xao sóng nước
 
tâm thức mơ hồ
 
những đường cong mịn màng mơ hồ
 
những lạch khe dòng mương lượn uốn dồn đổ mọi thứ ra sông
 
(ôi dòng sông bình an đầy hoa mây trắng xám trôi trôi...)
 
nước gỗ mục dều rác giành giật nhau cõng nắng, cõng mây;

 một cuộc đua - một dọc trời mải miết 

 

Anh chờ bên phía lề đau
Em bên lề khổ hai màu lệch chênh
Lề đường lề của bồng bềnh
Nhịp phách thì rõ, tiếng xênh lại chìm

 

          Kể cả khi Nguyễn Vĩnh Tuyền giật mình, sợ rồi cứ mê mải thế sẽ lạc lối xứ mơ, những muốn quay trở về cõi thực, thì cõi mơ vẫn níu kéo:

 

Giật mình!
... một phút chiếu, giường
Tiếng chuông cửa?
 
... Tiếng ngày thường!
 
Tan mơ?...

 

Để rồi một sớm tơ vương
có người sắm chiếu trải giường …tương tư

 

Dưới mưa cuốc bộ cùng mưa 
bước chân vừa gấp vừa thưa với tình…

 

lang thang mãi chốn long đong
chiều nay ánh mắt bỗng long lanh chiều

Cố quên sao được nguồn cơn
ngày dài đêm ngắn chập chờn dòng mơ

 

Tưởng tan tác khúc ca chiều…
bấc khô dầu cạn,

 

          Và cứ chập chờn thế này, thử hỏi làm sao Nguyễn Vĩnh Tuyền có thể bước chân ra khỏi con thuyền mộng cơ chứ ?:

 

ai khêu lửa tình?
Lạ đôi tinh tú rong chơi
vui miền cực lạc quên nơi sinh thành
có nhà bác học chiêm tinh
ngạc nhiên sao mới cố tìm cho ra
lục soi khắp cõi ta bà
trăm năm dư lẻ vậy mà công không…

 

Chiều nay gió thoảng ngang đồng
tự dưng đôi cánh bướm hồng? Rong chơi…

 

Vẫn là cuối đất cùng giời
cơ duyên đốm lửa khuất nơi vô tình

Đây rồi! Một nét lung linh
ồ! Kia một dáng nguyên trinh mong tìm

 

          Vậy thôi, chẳng dám sa đà nữa, bởi sợ rồi mình cũng sẽ bị Nguyễn Vĩnh Tuyền huyễn hoặc, mà ngồi chung con thuyền mộng cùng anh lang bạt kỳ hổ trong xứ mơ do anh viễn tưởng, mê sảng giăng mắc lưới tình, đặng rình bắt cả Nhện đã thành tinh ?...

 

 

 

 

 

P16 Thụy Khuê có một căn phòng,...

        

 

           Căn phòng ấy rộng vừa 9 m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày xưa”, nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện của ngày xưa !...

           Căn phòng rộng vừa 9 m2 ấy là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.

Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều lần nhắc đến tên anh, trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên nhắc lại đôi chút, để bạn đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba người, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời phổ thông với nhau, lứa học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ (1972-1975). Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3 Nam Sách (Hải Dương), cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương () để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975), thì có thêm tôi, và Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số người khác nữa. Sau này, thân thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4 người (Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh-Nguyễn Chu Nhạc- Nguyễn Việt An).

        Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của tỉnh Hải Hưng (), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên giới Tây Nam, giải phóng Campuhia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.

         

           Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ đô và công việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu dạt phương xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để ba chúng tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.

          Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó, Trịnh Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu, mặc thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các bộ ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc gia đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan. Vẫn không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá Ninh cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2 trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa, ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy rồi.

           Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập thể của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là kiến trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là chuồng nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời Tây, đầu thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên P16 Thụy Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ Nông nghiệp đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu P16 Thụy Khuê làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.

         Cơ ngơi vừa 9 m2, ấy là cơ đồ giang sơn của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh ở với nhau thì đâu có gì đáng nói. Cái chính, đây là nơi đi lại, tá túc của không biết bao nhiêu người thân và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng anh em ruột thịt thì đủ hai bên quê, nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương), nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây); bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông nghiệp … thêm bạn bè của M cũng lắm. Có những ngày cao điểm, căn phòng 9 ấy (9 mét vuông), người ngủ đêm, trên giường dưới nền vừa đúng 9 người, bình quân mặt bằng, 1 người/1 m2, và để bớt ngột ngạt, đủ dưỡng khí cho từng ấy con người hít thở, cửa ra vào mở toang. Mở của như vậy, hoàn toàn yên tâm, không sợ trộm, bời vì, khu P16 an ninh tốt, nếu có trộm vào nhà, kiểu gì cũng đụng chạm vào người, và cuối cùng, trộm có khéo đến mức không đụng chạm vào ai thì trong nhà cũng chẳng có gì mà lấy... Có vẻ hài hước đấy, nhưng sự thực là vậy...
         Nhân sự thưởng xuyên hay thi thoảng tá túc căn phòng 9 của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh cũng đáng nể lắm. Nổi tiếng và đáng nể nhất là nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cặp đôi bạn bè Nình-Khoa có chút đặc biệt thân tình hơn người khác chút, ở chỗ, cùng quê Nam Sách (Hải Dương); cùng học Trưởng cấp 3 Nam Sách (tuy khác lớp); và cùng Đội tuyển học sinh giỏi Văn tình Hải Hưng () thi Kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975). Trần Đăng Khoa vốn nổi tiếng, anh quan hệ rộng và có khá nhiều người quen ở Hà Nội, và thế, anh có nhiều nơi chốn để lui tới, mỗi khi anh về Hà Nội, tuy nhiên, đến đâu thì anh cũng phải giữ kẽ, thậm chí, phải diễn chút, song khi về căn phòng 9 ấy, anh hoàn toàn tự do, tự nhiên như anh là chủ vậy, ăn uống, ngả ngốn, kềnh cang, buôn chuyện, "hồn nhiên như cô tiên"... Vi thế, mà có cả một quàng thời gian dài, dù là đi chiến trường C, dù vê Hải Quân, hay sau này đi học tại Đại học Gorky (Liên Xô), thì mỗi khi đặt chân về Hà Nội, căn phòng 9 của Trịnh Bá Ninh cũng coi như "giang sơn" của Trần ĐăngKhoavậy. 

         Lui tới đây thường xuyên, cũng phải kể đến, nhà báo Nguyễn Sĩ Bình (nguyên Phó Cơ quan đại diện báo Quân Đội nhân dân tại Tp. Hồ Chí Minh, vốn quen biết với tôi và Trịnh Bá Ninh từ thời cùng học ở Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội). Cùng ở báo Quân Đội nhân dân, hay lui tới căn phòng 9 ấy, có nhà thơ Mai Nam Thắng và Nguyễn Đình Xuân. Với Nguyễn Đình Xuân, khi mới về nhận công tác tại Báo QĐND và tập tọng làm thơ, vốn quê Nam Sách với Trịnh Bá Ninh, vào cuối tuần Nguyễn Đình Xuân thường đến căn phòng 9, chuyện thơ phú, gửi bài cộng tác, rồi lân la làm quen với cô con gái mới lớn xinh xắn của vị hàng xóm chung vách với căn phòng 9, và trở thành con rể của vị hàng xóm này. Nói vui, thật "lãi mẹ đẻ lãi con"...
          Ngày ấy, những chàng trai chưa vợ, nói chung, đều ước muốn có được một tổ ấm bé nhỏ như thế, vậy nên, lui tới đây, để có được một chút cảm giác yên ổn, ấm áp gia đình. Mấy người, Trần Đăng Khoa, Mai Nam Thắng, Nguyễn Đình Xuân và tôi là khách thường xuyên của căn phòng này. Và đã là khách, thì cơm nước, rượu chè, thậm chí ngủ lại là chuyện thường. Vợ chồng công chức, lương ba cọc ba đồng của thời bao cấp, lo đủ ăn đã vất vả rồi, lại thêm đám khách thường xuyên không mời mà đến như cánh anh em bạn bè độc thân chúng tôi, không lo sao được. Ấy vậy mà, Trịnh Bá Ninh xem như không có gì, còn M, vợ anh, thì lúc nào cũng tươi như hoa, có khách đến nhà là quý... Cơm bữa, ngoài rau dưa, có hai món thường trực, ấy là lạc rang và đậu rán. Lạc rang, với dân làm trong ngành nông nghiệp, xem như món "nhà giồng được". Gọi vậy cho vui, chứ thực ra, để có lạc, M phải nhận lạc củ về bóc vỏ, trả nhân, phần dôi dư thì để lại làm thực phẩm chính cho gia đình. Tiện cái, lạc nhân nguyên vỏ lụa rang mặn để ăn cơm, chế biến chút thì giã nhỏ rồi đem nấu với dưa chua hay rau muống, ăn khá ngon miệng; còn khi có khách, lạc nhân rang lên, thế là có đồ nhắm, đưa cay đôi ba chén rượu quốc lủi. Thi thoảng, có món trứng và cá. Cá mua tem phiếu, toàn cá biển, cá nục ướp là nhất rồi, còn lại toàn loại cá đồng tiền, thân mỏng tang, toàn xương, nhưng kho nồi áp suất, mằn mặn một chút, nhừ cả xương, chịu khó nhai kỹ, cũng bùi và ngon đáo để. Đại loại vậy. Gần như bữa cơm tối nào, nhà cũng có khách. Sau này, để thêm thắt thu nhập, M nuôi gà công nghiệp, và thế, Ninh lại phải làm chuồng nuôi nhốt, tận dụng chỗ trống ban công đầu hồi, rồi vận dụng mối quan hệ, nhờ cậy, mua được ít cám gà. Đã có lần, thức ăn cho gà hết, Ninh bận đi công tác, nhờ tôi cầm giấy giới thiệu đi nhận cám gà thay anh...

Những năm tháng ấy, thiếu thốn và nghèo, nhưng mà vui, thứ giàu có nhất, là tình người. Tôi là người qua lại và tá túc ở đấy nhiều nhất, nên thấu hiểu điều đó. Thời kỳ tôi còn công tác ở Bảy Núi, An Giang, hầu như năm nào cùng đi phép, qua lại đây thường xuyên. Tôi không những tá túc, ăn nhờ ở đậu nơi căn phòng 9 ấy, còn được Trịnh Bá Ninh động viên và anh giúp tôi viết bài cộng tác các báo. Anh còn đưa tôi đi gặp gỡ, làm quen với một số nhà báo, nhà văn đã thành danh, là để tôi quen với bầu không khí báo chí, văn chương ngày ấy, đặng tôi lấy đó mà cố gắng, không bỏ cuộc. Kể cả khi tôi đã xin được về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo chuyên nghiệp, thì vẫn cảnh nằm bàn, ái ngại làm sao. Vậy nên, qua lại đây, vẫn luôn cho tôi cảm giác tin cậy và ấm cúng gia đình. Tôi biết ơn vợ chồng Trịnh Bá Ninh vì tất thảy những gì họ làm cho tôi... Trịnh Bá Ninh có bản tinh hài hước, nên cảm giác, chẳng khó khăn nào là quá sức anh, chẳng có gì là không thể vượt qua. Giờ nghĩ lại những bữa cơm đạm bạc, nhớ lại những câu nói hài hước của Trịnh Bá Ninh, mà anh bạn Việt An hay lấy ra đùa, "nhà chật có cái hay, mình cứ ngồi giữa nhà, điều hành được mọi việc, cứ quờ tay ra là lấy được mọi thứ",...lòng tôi bùi ngùi làm sao...

Cũng hay qua lại căn phòng 9 ấy, còn có Nguyễn Tuấn Phong (hiện là Phó trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương), rồi PSG.Ts Nguyễn Hữu Sơn (Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam), PGS. Ts Trịnh Bá Đĩnh (Viện Văn học VN), anh ruột của Trịnh Bá Ninh... Giờ đây, mỗi khi chúng tôi ngồi với nhau, lúc trà dư tửu hậu, khi nhiều người đã thành danh và cao tuổi cả rồi, hay nhắc lại "chuyện ngày xưa" thì hầu như, chuyện về căn phòng 9m2 ở P16 Thụy Khuê ấy luôn là trung tâm của mọi cầu chuyện. Tôi biết, còn có một vài người, ngày ấy, khi họ mới tập tọng báo chí, văn chương, nhưng ở tỉnh lẻ, mỗi khi về thủ đô, cũng ghé thăm và tá túc nơi căn phòng đó, nhưng sau này, đã thành danh, giàu có ở Hà Nội, họ đã quên chuyện về căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, và lẽ dĩ nhiên, cũng "quên" cả chủ nhân của nó. Chuyện đời là vậy, chẳng trách mà làm gì, nhưng chạnh buồn!... Có lần, chỉ hai người với nhau, tôi nhắc đến vài cái tên đó, Trịnh Bá Ninh phảy tay, cười bảo: "Ông vẫn còn nhớ à? Tôi thì quên lâu rồi ông ơi... Nhớ mà làm gì... Cuộc đời, những chuyện như vậy là thường tình". Ừ, như vậy lại hay!...

Có một chuyện, anh bạn Việt An định cư ở thành phố Hổ Chí Minh, không biết đã từng ghé căn phòng 9 ấy chưa, hay chỉ nghe kể, cứ đùa rằng: "Căn phòng như vậy, lúc nào cũng đông người tá túc, thế mà không hiểu vợ chồng nhà này, loay hoay thế nào vẫn đẻ được cậu con trai bụ mẫm, khỏe mạnh, thông minh". Là đùa vui, nghĩ cũng thấy hay hay, cu cậu bụ mẫm, thông minh ấy, nay đã là tiến sĩ dược học đang làm việc ở Mỹ, và nghe đâu, đề tài nghiên cứu khoa học mà cậu ta tham gia là thuốc chữa HIV.

           Căn phòng 9 m2 ấy, dường như ám ảnh và theo đuổi Trịnh Bá Ninh mãi, bởi sau dăm, bảy năm ở đáy, anh đổi nhà, chuyển nhượng lại cho một cặp vợ chồng già hưu trí, mua một căn hộ khác nằm sâu tận cùng một ngõ hẹp tối om ở phố Nguyễn Khuyến, và thật trùng hợp, căn hộ này diện tích mặt bằng cũng chừng 9 m2 thôi, có điều, nó được chồng 3 tầng, vị chi tổng diện tích dưới ba chục mét vuông... Lại thêm một lần chuyển đổi nữa, nhà mới rộng ra. Nhưng khi nhà rộng, lại chỉ có hai vợ chồng hưu ở với nhau, bởi cả hai đứa con cùng du học và nghiên cứu ở Mỹ. Như một trò đùa, lúc có nhà rộng thì khách lại thưa, bởi vì giờ đây, bạn bè, người thân, ai cũng có nhà cửa và gia đình riêng của mình. Thu xếp mãi, may ra, năm chỉ một đôi lần đến chơi nhà nhau và ở ăn cơm... Ăn uống, tiệc tùng gì thì mời nhau ra quán cho tiện...

Căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, cùng với những vị khách không mời mà đến ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. Dù chưa lâu, song đã thành cổ tích !?...

 

 

 

 

 

 

Quang Dũng & bản hùng ca Tây Tiến,

 

 

Quang Dũng, là một nhà thơ xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại, tôi nghĩ vậy. Có thể, ai đó không đồng tình, đương nhiên, mỗi người có cái quyền đánh giá của riêng mình, song tôi tin, với phần lớn người yêu văn thơ ở xứ sở này, thì Quang Dũng, chỉ với bài thơ Tây Tiên, ông đã xứng đáng là nhà thơ xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại rồi…

Song Quang Dũng không phải là nhà thơ dạng “một bài” mà thành danh như vài ba nhà thơ khác cùng thế hệ với ông. Cùng với Tây Tiến, ông còn có Đôi mắt người Sơn Tây, Mây đầu ô, Đường trăng, Bố Hạ, Đêm Bạch hạc …

Cho dù, Quang Dũng còn sống đến mài sau này (ông mất năm 1988), nhưng tôi không có duyên gặp gỡ, mặc dù khi đó, tôi đã trưởng thành và là người yêu văn chương. Rất đơn giản, ngày ấy, các nhà thơ nhà văn, là của hiếm, là những cao nhân, được cã xã hội coi trọng, nên không phải cứ muốn là gặp được. Vậy nên, những người như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận. Chế Lan Viên, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài và Quang Dũng… đều được kể lại qua người này kẻ nọ, được thêu dệt, “giai thoại hóa” như những huyền thoại sống vậy…

Phải  đến khi, tôi đã thành một cây bút trẻ, đã có vài ba tập sách được xuất bản, và khi ấy, bầu không khí báo chí văn chương khá cởi mở, thì mọi người mới được biết những câu chuyện đằng sau, những chuyện bếp búc, thậm chí những chuyện mà trước đây được xem là cấm kỵ, là “thâm cung bí sử” của Làng Văn Việt được công bố trên báo chí, thì người ta mới “à ra thế”, mới vỡ lẽ, rằng…Và Quang Dũng, là một người như vậy…

Chuyện kể rằng, hồi tham gia Đoàn quân Tây Tiến và làm cán bộ tuyên huấn, Quang Dũng hào hoa lắm. Trai ven đô, được học hành tử tế, có trình độ học vấn, giỏi chữ Hán (có thông tin là học trường sĩ quan Hoàng Phố, chẳng rõ thực hư) và biết tiếng Pháp, thêm tài thơ phú là oách lắm, cùng đó, dáng người to cao, nên phong độ hào hoa là phải thôi. Không những được thuộc cấp nể phục, đi đến đâu cũng được bà con, nhất là phái nữ địa phương quý mến, ngưỡng mộ…

Cũng lại chuyện kể, giai thoại rằng, dạo ông công tác ở địa bàn Thanh Hoa (có lẽ thời gian ông làm cán bộ tuyên huấn, và văn nghệ Liên khu III), mỗi khi đi công tác đâu, Quang Dũng diện quân phục chỉn chu, cưỡi trên lung ngựa, trông oai hùng lắm. Thế nhưng, dáng vè hào hoa phong nhã đó, là một lợi thế, song cũng đem lại cho ông không ít phiền toái, ấy là sự ghen ghét đố kỵ của một số người, ngay cả những chiến hữu, đồng đội của mình. Gì chứ, tai tiếng phong cách tiểu tư sản là cái chắc, nhất là với ông, vốn chân thực, không quen thói quanh co biện hộ. .

Còn về đời sống, nhất là quãng thời gian dài, Quang Dũng chịu án Nhân Văn Giai Phẩm, và làm biên tập viên của Báo Văn nghệ, rồi Nhà xuất bản Văn học, cả thời gian ông nghỉ hưu của thời chiến tranh và bao cấp, có rất nhiều câu chuyện và giai thoại về ông. Tôi đọc được đâu đó khá nhiều câu chuyện, nhưng nhớ và ám ảnh hơn cả là chuyện ông thường xuyên quét lá khô trong công viên Thống Nhất về đun nấu;  là chuyện ăn cơm nhai kỹ vừa thấy ngon và đỡ tốn gạo; và câu chuyện ứa nước mắt, ấy là khi được một ai đó mời ăn quà xôi ở một hàng xôi ngon nổi tiếng Hà thành, ông giữ lễ ăn cầm chừng mặc dù vốn ăn khỏe và vẫn thèm ăn nữa… Ôi, thật chẳng biết nói gì nữa, chỉ thấy thương cảm và ái ngại cho một người như tài năng và hào hoa như ông…

Đọc tác phẩm của Quang Dũng, chưa từng gặp mặt, và nghe kể, cùng xem nhiều giai thoại về ông. nhưng giờ đây, tất cả những gì tôi biết về ông, bỗng sống dậy, hiển hiện mồn một trong tôi, khi tôi đến thăm Khu di tích về Trung đoàn Tây Tiến được khánh thành vài năm nay tại Thị trấn Mộc Châu (Sơn La),… Ở đó, trưng bày khá nhiều hiện vật, tài liệu, hình ảnh về Binh đoàn Tây Tiến, song đậm nét hơn cả là những gì liên quan đến Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến của ông. Bức tượng bán thân nhà thơ  Quang Dũng trong phục quân đội, áo trấn thủ, đầu mũ ca-nô đội lệch, nên dáng vẻ người chiến sĩ oai hùng pha chút hào hoa lãng tử. Ngắm nhìn bức tượng, ngẫm thấy đúng chất con người nhà thơ-chiến sĩ Quang Dũng- cái cá thể-lại đúng chất người chiến sĩ của Binh đoàn Tây Tiến thực tế ngày đó,- cái nét chung,- ấy là những chiến sĩ vốn là các chàng trai Hà Nội hào hoa, kiến thức, sẵn sàng lên đường bất chấp hiểm nguy… 

Chất Quang Dũng-Tây Tiến còn thể hiện ở kết cấu của Khu di tích Tây Tiến, đó chính là bài thơ,vốn mang tính chất và hơi thở của Tây Tiến, vừa thể hiện quá trình hoạt động của Binh đoàn, thế nên, người thiết kế đã có ý tưởng lấy thơ ra để mô hình hóa công trình này… Thật tài tình thay, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa các yếu tố: Người-Thơ-Ý tưởng-Công trình, là một. Vậy nên, từ phòng trưng bày, bước ra không gian tưởng niệm, mỗi bước, mỗi ngẫm nghĩ, thấy hiện lên mồn một từng câu thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Càng thấy được ý tưởng và sự hợp lý, khi nước chân vào Khu di tích, thoạt đầu nghe hướng dẫn viên đọc bài thơ Tây Tiến, tiếp đó là phong trưng bày với điểm nhấn là tượng nhà thơ Quang Dũng với văn bản bài thơ của ông, ấy là cái cách làm cho khách tham quan thức dậy cảm xúc về Tây Tiến trong lòng trước khi hòa mình vào không gian trải ra của bài thơ Tây Tiến được mô hình hóa thành cảm quan chung của khu tưởng niệm, và rồi để lắng lại vào tâm khảm về một quá khứ hào hùng…

Tôi đã cảm nhận về Binh đoàn Tây Tiến và nhà thơ Quang Dũng, cùng những đồng đội của ông ngày ấy, được hình tượng hóa trong bài thơ xưa và không gian di tích, tưởng niệm hôm nay… 

Chắc chắn, bài thơ Tây Tiến về Binh đoàn Tây Tiến bi hùng,” đoàn quân không mọc tóc” ngày ấy, sẽ còn sống mãi, và như vậy, tác giả bài thơ đó, một trong số những bài thơ hay nhất của nền thi ca hiện đại Việt Nam, nhà thơ Quang Dũng, cùng những bài thơ khác của ông, cũng sẽ sống trong lòng nhân gian…

Và như vậy, người đời sẽ kể tiếp thành huyền thoại về nhà thơ Quang Dũng và thơ ca của ông!... 

 

 

Phải chăng, lỗi từ hệ thống ?

 

         

 Chuyện sai phạm trong khâu chấm thi, kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển Đại học, cao đẳng năm 2018 ở Hà Giang đang gây nên xôn xao và bức xúc xã hội. Tôi định không viết gì, bởi báo chí và mạng xã hội đã nói quá nhiều rồi. Song ngẫm nghĩ, thấy cần thiết phải kiến giải đôi điều, bởi đây là suy nghĩ nung nấu của tôi về một số vướng mắc của ngành giáo dục nước ta từ lâu nay. Chuyện sai phạm ở Hà Giang hiện tại, chỉ là hệ lụy, là giọt nước làm tràn ly, từ những lỗi cơ bản mang tính hệ thống. tôi cho là vậy...

          Đương nhiên, sai phạm trong sự việc ở Hà Giang, trước hết, cá nhân Vũ Trọng Lương, người trực tiếp có hành vi sai phạm, phải chịu trách nhiệm, nhưng tôi nghĩ, còn có những người khác liên đới, cũng sẽ phải chịu trách nhiệm cùng. Nhưng thôi, xin không bàn cụ thể sự việc này, để bàn việc lớn hơn, mà tôi muốn nhắm tới trong bài viết này, ấy là, lỗi hệ thống trong ngành giáo dục ở nước ta.

Lỗi hệ thống ấy của ngành Giáo dục ở xứ ta, được dán một cái nhãn là “loay hoay”. Thực ra, có thể hình tượng hóa chính xác nhất, là tình trạng “gà mắc tóc”, ấy là sự loanh quanh, lúng túng, vướng vứu, loay loay mãi không gỡ chân ra được. Nói như vậy, không phải là tôi phủ nhận những bước tiến lớn và thành tích không nhỏ của ngành Giáo dục trong hơn nửa thế kỷ qua. Song việc nêu công trạng của ngành Giáo dục không thuộc phạm vi đề cập của bài viết này, xin không bàn ở đây.

          Khi còn chiến tranh phân miền, mỗi miền Bắc-Nam theo một hệ thống giáo dục phổ thông khác nhau, Miền Bắc, vốn theo hệ 10/10 được dụng ở Liên Xô cũ và các nước XHCN, còn miền Nam, theo hệ 12/12 như các nước Âu Mỹ. Sau năm 1975, sự cần thiết phải thống nhất một chương trình giáo dục phổ thông, được đặt ra. Khi có sự lựa chọn thống nhất cả nước theo hệ 12/12, thì vấn đề đặt ra tiếp theo, là chương trình học và bộ sách giáo khoa cho các bậc học phổ thông thế nào cho hợp lý, nghĩa là tích hợp được những điểm ưu và hạn chế điểm khuyết của hai hệ thống cũ. Từ đây, ngành Giáo dục ở ta bắt đầu bộc lộ rõ sự lúng túng, loay hoay trong giải quyết vấn đề …

          Cụ thể, với các môn học thuộc khoa học tự nhiên, nhất là Toán học, chương trình học lại quá cao, quá khó, đến mức không cần thiết. Tuy nhiên, khoa học tự nhiên cơ bản, là những định lý, định luật, công thức mang tính nguyên lý, vấn đề lựa chọn phù hợp khi cần cài cách, đơn giản là giảm tải đến mức nào thôi. Còn với các môn khoa học xã hội, nhất là Văn học, Lịch sử, lựa chọn tác giả, tác phẩm nào, giai đoạn văn học nào, văn học trong  nước ngoài ta sao; và với Lịch sử thì tiến trình và việc nhìn nhận, đánh giá các giai đoạn thế nào cho khách quan, công tâm…  là cả một câu chuyện dài và phức tạp, khó thống nhất được ý kiến. Kể từ đó, việc thay sách giáo khoa liên tục được thực hiện, vừa gây sự xáo trộn, bất ổn, lại tốn kém một khoản kinh phí khổng lồ cho lĩnh vực này. Người ta còn cho rằng, việc giao khoán, trúng thầu dự án, đề án biên soạn sách giáo khoa ít nhiều chịu sự chi phối của nhóm lợi ích, hơn là việc quan tâm đến tính khoa học nghiêm cẩn của công việc? Các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục của ta được cử đi tham quan, học hỏi các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, song dường như việc học hỏi nước ngoài lại làm cho tình hình phức tạp hơn, bởi mỗi vị một kiểu, ai cũng cho rằng việc mình được học hỏi ở đâu đó, tốt hơn, tiến bộ hơn, đáng được áp dụng hơn. Thật đúng là cảnh “sư khen sư giỏi, vãi nói vãi tài”. Cứ thế, loay hoay một hồi, đã “gà mắc tóc” lại càng rối rắm, khó gỡ rối hơn… Đấy, còn chưa tính đến một cái tội tày đình, ấy là có một thời gian, ngành giáo dục đùng đùng áp đặt việc cải cách chữ viết tiếng Việt, khiến cả xã hội bày tỏ sự không đồng tình…

          Thời chúng tôi đi học, các môn thi tốt nghiệp THPT tùy theo năm, tất cả thi bằng hình thức tự luận, và đương nhiên để vào bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, phải qua một kỳ thi nữa. Đã như thế nhiều năm, thành nếp, và để duy trì như vậy, hẳn người ta phải thấy được tính ưu việt của nó. Xã hội phát triển trong thời mở cửa, việc cử các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục ra nước ngoài học hỏi kinh nghiệm, rồi việc sinh viên đi du học tăng lên, khiến người ta phải nhìn nhận lại nền giáo dục nước nhà một cách nghiêm túc, đặng cải cách giáo dục cho phù hợp với xu thế hội nhập. Đương nhiên là vậy, và cũng không có gì đáng chê trách tư tưởng cầu tiến bộ. Tuy nhiên, học hỏi rồi, đề xuất và quyết sách ra sao, mới là vấn đề đáng bàn. Việc lấy cái gì của Tây để áp vào Ta thật không phải là chuyện automatic là xong, vậy nên, mới có cái sự để mà bàn, ấy là phần lớn việc cải cách, cứ “vừa áp dụng đã bất cập” ngay rồi. Vì thế, miệng lưỡi nhân gian gọi là “cải tiến-cải lùi” và người ta lại ước ao “bao giờ cho đến ngày xưa”. Hoài cổ ư, ở đây không có ý đó, bởi sự tiến bộ luôn luôn đươc chào đón, khi mà nó thật sự hợp lý, hữu ích cho cộng đồng xã hội, mà lại phù hợp với xu thế chung thế giới.

Lỗi hệ thống trong ngành Giáo dục ở xứ ta còn biểu hiện rõ sự cực đoan, nhất là trong việc thi cử. Để lý giải việc này, có lẽ phải dài dòng chút ít. Ấy là, việc thi cử ở xứ ta vốn xuất phát điểm từ quan niệm “học để làm quan” từng tồn tại nhiều thế kỷ ở một số quốc gia chịu sự ảnh hưởng của nền khoa bảng Trung Hoa, như Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan. Vậy nên, hình thức thi tự luận ở tất cả các môn không những được áp dụng cho các kỳ thi, mà còn được sử dụng trong việc làm các bài kiểm tra kiến thức lấy điểm để đánh giá trình độ, khả năng tiếp nhận các môn học hàng ngày ở tất cả các cấp học. Phải thừa nhận, với hình thức thi này, để đạt được kết quả cao, ngoài kiến thức, học sinh-sinh viên còn phải có khả năng diễn đạt vấn đề một cách mạch lạc. Như vậy, cho thấy, hình thức thi tự luận không hoàn toàn là ưu việt tuyệt đối, còn có những khiếm khuyết nhất định. Việc thi tự luận, lâu ngày cũng nảy sinh thói quen giáo điều, tầm chương trích cú và sáo mòn… và với những học sinh có kiến thức tốt nhưng khả năng diễn đạt yếu thì chịu không ít thiệt thòi ; thêm nữa, còn đó là sự tốn kém về kinh phí và sự chi phối cảm tính ít nhiều trong khâu chấm thi…

Cải tiến trong thi cử, thay hình thức thi tự luận bằng hình thức trắc nghiệm có những ưu điểm của nó. Đó là, xét về tổng thể, cơ bản đánh giá được kiến thức của học sinh, và có thể áp dụng được công nghệ hiện đại vào việc chấm thi, nên tiết kiệm được thời gian và tài chính, cũng khắc phục được yếu tố cảm tính trong khâu chấm thi. Tôi nghĩ, chắc đây là lý do để Bộ Giáo dục và Đào tạo sau một vài năm thử nghiệm, đã quyết định thi bằng hình thức trắc nghiệm các môn thi với toàn bộ nội dung bài thi (trừ môn Văn vẫn thi tự luận).

Tuy nhiên, kể cả những môn khoa học tự nhiên, điển hình là môn Toán, mỗi bài còn có các cách giải khác nhau, và chỉ có tư duy tốt mới đưa ra được phép giải ngắn gọn và chặt chẽ nhất, cái mà người ta gọi là “vẻ đẹp của toán học”. Sự cực đoan ở đây, ấy là từ thái cực tất cả thi tự luận, thì nay chạy tuột sang thái cực kia thì trắc nghiệm (trừ môn Văn). Thi trắc nghiệm, chấm máy, tôi cho rằng, sự may rủi vẫn nhiều, vì theo xác suất, vẫn có rất nhiều thí sinh không có kiến thức thật, lại đạt kết quả cao. Và đây cũng là kẽ hở, lỗ hổng để người ta trục lợi bằng việc can thiệp vào hệ thống máy móc một cách dễ dàng (như vừa xảy ra ở Hà Giang trong kỳ thi THPT 2018)... Những câu hỏi, được dư luận xã hội đặt ra, là liệu cùng với Hà Giang, có còn xảy ra với Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Bạc Liêu và địa phương nào khác; rồi liệu có phải chỉ xảy ra ở kỳ thi năm nay, hay đã có từ năm trước? Một mất mười ngờ, là lẽ đương nhiên. Và hậu quả, việc bắt buộc phải tổ chức thanh kiểm tra, chấm khảo sát là một sự “cực chẳng đã”, và “lợi bất cập hại”. Song sự tốn kém về công sức, tiền bạc không lớn bằng sự bất an về mặt xã hội, sự “sang chấn về tâm lý”, nhất là với các học sinh liên quan v.v...

Theo tôi, là nên tính tới việc kết hợp cả hai hình thức tự luận và trắc nghiệm trong kỳ thi này, với tất cả các môn thi (kể cả Văn và Toán), nhưng tỷ lệ phần thi trắc nghiệm không được vượt quá 50% khối lượng nội dung mỗi bài thi. Như vậy, khâu chấm thi có thể phức tạp hơn một chút, nhưng tôi tin, sẽ đánh giá khá chính xác hơn cả kiến thức và năng lực của học sinh. Còn việc tiêu cực, gian lận trong thi cử, thì có tổ chức thi theo cách nào, khi muốn, người ta cũng sẽ tìm cách để lợi dụng. Vấn đề đặt ra là lợi ích kép, vừa đủ cơ sở để đánh giá đúng kiến thức và trình độ học sinh, mà lại hạn chế đến thấp nhất sự tiêu cực, gian lận.

Thêm nữa, tôi nghĩ, cũng nên cân nhắc một cách nghiêm túc và khoa học, để đưa ra quyết định, việc tích hợp kỳ thi như hiện nay, hay tách riêng thành hai kỳ thi như trước đó? Thậm chí, bỏ kỳ thi tốt nghiệp THPT mà chỉ có một kỳ thi duy nhất là tuyển vào Đại học và Cao đẳng?

Con người ta, ở bất cứ quốc gia nào, sau chuyện miếng ăn, cái mặc để tồn tại, thì kế ngay đó, là sức khỏe (Y tế) và học hành (Giáo dục). Với suy nghĩ vậy, xin có mấy lời bàn !?...

 

 

 

 

Những đứa trẻ ngày ấy,

 

 

          Mới gần đây, tôi đi ăn đám giỗ người bác ruột, bác trai là con cả rồi kế đến là mẹ tôi. Bà ngoại tôi có tới chín người con, xưa cũng thuộc diện khá giả, nhưng nhà đông con, nên cơ bản vẫn phải tần tảo mới khỏi lo thiếu đói. Cả nhà bên ngoại, bác trai cả sớmđược cho ăn học, nhưng lại lười học, hay trốn học rong chơi nên cũng chẳng có bằng cấp và nghề ngỗng gì. Mẹ tôi lớn một chút đã phải phụ giúp quán cơm cho người bà trẻ ở phố Mã Mây, Hà Nội để thêm thắt giúp gia đình. Nhà ngoại tôi đông anh chị em, sau mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng được cái đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ nhau lắm. Đám giỗ bác Cả, các nhà đều có đại diện tham dự. Sau bác Cả, thì mẹ tôi và mấy dì liền kề cũng đã mất rồi. Buổi giỗ, ăn gọi là, chủ yếu chuyện trò nhắc những chuyện ngày xưa. Thế hệ anh chị em con chú con bác, đôi con dì, con cô con cậu trong chín người bên ngoại ngang hàng tôi cũng mấy chục. Đến nay, những ai đi làm nhà nươc cũng nghỉ hưu cả rồi. Năm đôi ba lần giỗ tết, ngồi với nhau, kể chuyện ngày xưa là phải thôi,

          Những năm chiến tranh chống Mỹ Ngụy, có hai địa điểm tập trung trẻ con trong đại gia đình bên ngoại tôi, đông nhất, là ngôi nhà ngói đại khoa trong mảnh vườn rộng năm sào Bắc Bộ ở Chợ Đường Cái (Hưng Yên), và căn nhà bác Cả tôi sống, ngay mặt phố gần ngã tư Khâm Thiên (Hà Nội). Khi máy bay Mỹ còn ném bom ra miền Bắc, nhất là những đợt cao điểm, thì đám trẻ con con bác Cả và mấy đứa con cậu tôi ở Hà Nội, sơ tán về nhà bà ngoại tôi hết. Sau 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972 máy bay Mỹ oanh tạc Hà Nội dữ dội, thủ đô yên hàn, Hội nghị Pa-ri được ký kết, thì mỗi kỷ nghỉ hè, đám trẻ con ở quê lại thay nhau ra Hà Nội chơi, và nơi tá túc là căn nhà của bác Cả ở gần ngã tư Khâm Thiên. Sỏ dĩ đám trẻ con quê thích được ra nhà bác Cả, bởi ở đây, thế nào đám trẻ cũng được bác Cả cho đi xem xiếc...

Với riêng tôi, có chút khác. Nhà tôi, trước nằm trong ngõ Trúc Lạc, thuộc phố Phó Đức Chính, tôi sống ở đấy từ lúc sinh ra đến năm 7 tuổi thì về quê. Thế nên, ký ức về phố phường luôn chập chờn trong tôi. Sau này, lớn lên, đi học, cứ mỗi kỳ nghỉ hè, tôi đều đòi bố mẹ đưa tôi ra nhà bác Cả, như để sống lại những năm bé tí mình còn ở phố. Ra chơi nhà bác Cả, thường là nửa tháng. Mỗi lần như vậy, tôi thích lắm, bởi không chỉ đám trẻ con bác, mà ở trong khu vực nhà bác Cả, mặt phố, sân sau, ngõ trong, cả thẩy có hơn chục gia đình, nên rất đông trẻ con. Các nhà ở đây gắn bó với nhau, bởi chiến tranh thiếu thốn và chết chóc, bởi cả khu dùng chung một vòi nước, một nhà tắm, một nhà vệ sinh công cộng. Va chạm nhau cũng nhiều, nhưng rồi mọi chuyện đều xí xóa hết. Ngày ấy, chỉ vật chất là thiếu thốn, chứ tình người thì thừa thãi. Chi chục nhà, nhung hơn ba chục đứa trẻ, tha hồ mà vui đùa. Tuy không gian chật hẹp của cái sân chung, lại bị chiếm dụng để các nhà đặt bếp than, rồi phi đựng nước sạch, rồi khoảng không trên cao là chằng chịt dây thép phơi quần áo, thì đám trẻ con vẫn biết thu xếp chỗ để chơi, các trò chơi dân gian ngày ấy như dánh chuyền, nhảy dây, chơi bi, chơi ô ăn quan...

          Niềm vui lớn nhất, ấy là được xem xiếc, mà là xiếc trung ương hẳn hoi. Ngày ấy, cái rạp xiếc trung ương đã tọa lạc ở một góc công viên Thống Nhất, đúng vị trí bây giờ. Như vậy, có thể suy ra, nó tồn tại ở đấy đã hơn nửa thế kỷ nay. Nhà bác Cả tôi làm nghề giặt là quần áo, nhà lại gần rạp Xiếc, chỉ ngang qua bến xe khách Kim Liên là đến. Rạp Xiếc Trưng ương, toàn bộ quần áo biểu diễn của các diễn viên và nhạc công đều mang thuê nhà bác Cả tôi giặt là. Vì là chỗ quen biết, thân tình, nên tất cả trẻ con của bác Cả tôi, cùng hết thảy đám trẻ con ngõ đó đều được vào xem xiếc miễn phí, tức là không phải bỏ tiền để mua vé. Không những thế, hầu như tất cả lũ trẻ con cháu trong gia đình bên ngoại tôi, trong đó có tôi, mỗi mùa hè ra chơi nhà bác Cả, đều được các anh chị con bác Cả đưa vào rạp, xem xiếc miễn phí. Năm nào cũng thế, đến nỗi tôi gần như thuộc lòng các tiết mục xiếc, lâu lâu rạp có một vài tiết mục mới, tôi cũng biết. Tôi còn thuộc cả điệu nhạc mở màn và điệu nhạc kết thúc mỗi buổi diễn, mà mọi người gọi đùa bản nhạc đó là “nhạc tính số tiền”. Ra đấy chơi, tôi nhanh chóng hòa nhập với đám trẻ lớn nhở ở đó, bởi dẫu sao tôi cũng đã sinh ra và có một số năm sống ở Hà Nội, nên dễ thich nghi. Thỉnh thoảng, có đứa đùa trêu tôi là “thằng nhà quê”, thì mấy anh chị con bác Cả lớn tiếng đứng ra bênh vực tôi ngay.

          Có một điều, mấy chục đứa trẻ ở đấy đều phải nể phục tôi, ấy là tôi có tài kể chuyện. Những chuyện từ Tam Quốc, Tây Du ký, Thủy Hử được tôi mang ra kể cho chúng nghe. Nhiều đứa trong số chúng nó, đã được xem phim “Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung” và “Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh” rồi, biết chút ít về Tây Du ký nên háo hức lắm. Buổi tối mùa hè, thời tiết nóng bức, vài chục đứa trẻ bắc thang leo lên sân thượng tầng hai, trải chiếu ngủ đêm ở trên đó cho mát. Gió trời mát rượi, lồng lộng trăng sao, tôi bắt đầu kể chuyện cho cả đám nghe. Ngày ấy, tôi hầu như thuộc hết cả Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du ký và một chuyện kiếm hiệp có tên là “Lục Kiềm đồng” dài cỡ nghìn trang. Tôi cũng không hiểu vì sao, ngày ấy, trí nhở của tôi lại tuyệt vời đến vậy. Khi kể, không những tình tiết câu chuyện, tôi còn thuộc cả những đoạn hội thoại trong truyện. Thường mỗi tối như vậy, tôi chỉ kẻ một, hai chương hồi gì đó. Cứ câu dầm thế. Có tối tôi mệt, hoăc giả làm cao không kể, khiến cả bọn phải nằn nì, thì tôi mới kể. Vì thế, chúng coi trọng tôi lắm. Đám con cái nhà bác Cả cùng lấy làm hãnh diện vì có một thằng em ở quê ra, mà lại làu làu sử sách, truyện cổ như vậy. Có đến vài ba mùa hè như vậy, mỗi khi tôi nghỉ hè ra chơi nhà bác Cả, đám trẻ hân hoan, và tôi bỗng trở thành trung tâm của bầy trẻ ở ngõ phố ấy... Trong đám trẻ ngày ấy, tôi có chú ý đến dăm đứa, trai thì hoặc nghịch ngợm hoặc có tài lẻ chi đó, còn gái, lẽ dĩ nhiên là đứa xinh xắn dễ thương...

          Trở lại câu chuyện trong đám giỗ bác Cả tôi. Nhớ chuyện ngày xưa, tôi hỏi thăm mấy đứa trẻ ngày ấy mà tôi còn nhớ mặt thuộc tên... Hỏi cậu H. thì bảo là đã chết. Anh chàng này dính vào buôn bán ma túy, ra tù vào tội vài lần, rồi dính tiếp vào các cuộc thanh toán lẫn nhau. Ngày ấy, H là đứa lớn nhất, khỏe mạnh và táo tợn, có lần, tôi làm cao không kể chuyện, H nài tôi không được bèn dọa “Mày không kể, tao bê mày lên rồi lẳng mày từ trể nóc nhà xuống đất”, khiến tôi sợ mà phải kể... Hỏi tiếp đến B. Gái, lại nghe bảo, cũng bệnh tật mà chết vài năm nay rồi. Cậu B này ngày ấy tuổi ngang bọn tôi, nhưng phổng phao như người lớn, da trắng môi đỏ bảnh trai thư sinh và đặc biệt điệu bộ và cách nói năng như con gái. Vậy nên, cậu ta mới có biệt danh là B. Gái. Lũ trẻ chúng tôi hồi đó chưa hiểu gì về tính lưỡng giới, chỉ nhìn điệu bộ bên ngoài mà gọi thế thôi. B. Gái ít hòa nhập, cậu ta có tài xiếc ảo thuật, nghe nói sau này có đi biểu diễn ảo thuật một thời gian, và cũng có vợ con hẳn hoi... B. Gái có một đứa em gái, cũng tên H, khá phổng phao xinh xắn. Mỗi khi kể chuyện, tôi hay nhìn vào gương mặt hồn nhiên của cô bé này. Cô bé sớm dậy thì, bố mẹ mất cả, lớn lên chút, loanh quanh thế nào dính chuyện có thai với cậu H ngổ ngáo, buộc thành đôi, nên duyên vợ chồng. Khi H dính chuyện ma túy thì vợ H thành người phân phối lẻ. Chồng tù thì vợ được cho tại ngoại để nuôi con. Giờ chồng chết, cuộc sống của gia đình họ bươn chải, vất vả lắm... Hỏi tiếp đến cậu Th, thì nói, nhà ấy đã chuyển đi nơi khác, vì góc phố nơi có nhà của Th. đã được sang nhượng cùng mấy chủ hộ khác, để người ta lấy đất xây bệnh viện tư nhân. Thảo nào, lâu nay mỗi khi ngang qua góc phố ấy, tôi thấy một bệnh viện tư mọc lên. Cái cậu Th. này xưa là cậu bé tốt tính. Nhà Th. có một chiếc xe ngựa kéo, bố cậu ta chuyên nghề chở thuê bằng xe ngựa. Ngày ấy, ở phố, nuôi một con ngựa thồ là chuyện không dễ chút nào với những phiền toái như chuồng nhốt, phân thải, cỏ rả làm thức ăn cho ngựa. Mỗi khi tôi kể chuyện kiếm hiệp, cậu chàng nghe chăm chú đến há hốc mồm, khuôn mặt thì mừng vui lo âu, biểu cảm theo tình tiết câu chuyện. Cậu ta hay rúi cho tôi khi thì thanh kẹo lạc, lúc mấy cái kẹo vừng, quà bớt lại mỗi khi cậu chàng theo bố áp tải xe ngựa...

          Những đứa trẻ ngõ phố nhà bác Cả tôi ngày ấy, mỗi tính mỗi nết, sau mỗi cuộc đời số phận. Vài đứa đã thành sương khói hư vô cả rồi. Ngẫm nghĩ mà buồn. Nhưng chẳng thể ước ao một cách vô lý, ấy là con người ta cứ mãi trẻ con, và cuộc đời cứ mãi gian khổ để mà người ta thương yêu, đùm bọc nhau!... Đoạn mặt tiền phố ít thay đổi, nhưng cả hai góc phố mỗi đầu, đều đã được người ta trưng mua để xây dựng công trình to hơn cho mục đích kinh doanh. Thế gian biến cải vũng lên đồi kia mà. Chín anh chị em con của bà ngoại tôi, đã non nửa đi vào cõi xa xăm, mấy cậu dì út cũng đã gần tám mươi tuổi. Kể từ ngày ấy, đã già nửa thế kỷ trôi qua còn gỉ. Mấy anh chị em con bác Cả và cái thằng tôi bé con hay chuyện ngày ấy, giờ đầu đã bạc cả rồi, và mỗi khi có dịp gặp nhau, quây quần, nâng ly rượu, lại bồi hổi nhắc chuyện ngày xưa !...

         

 

 

 

 

Nhớ làm sao,

bữa bún chả chiều cuối năm của mẹ.

 

          Trong các món ăn chế từ bún, tôi thích nhất món bún chả.

          Sở thích này, với riêng tôi, có nhiều nguyên nhân.

          Trước hết, cứ tạm coi, sở thích như một khái niệm đi, để ta bắt đầu từ trực quan sinh động. Cái mùi chả nướng, tẩm ướp rồi quạt trên than hoa, nó mới sinh động, hấp dẫn làm sao! Quả là, tôi khó tìm được loại mùi vị nào tương đồng để đem so sánh. Nhưng thôi, chẳng cần so sánh làm gì, chỉ biết, mùi vị ấy quyến rũ lắm lắm. Bún, chả, rau thơm, chấm với loại nước chấm pha chuyên dụng, tất cả hòa quện, kích thích các loại giác quan... Tuyệt làm sao. Riêng tôi, thích chả miếng, chấm với nước mắm cốt, không pha phách gì, thêm chút tòi giã, là ngon nhất.

          Từ bún chả trực quan sinh động, đến bún chả trong văn chương. Người Hà Nội cũ, hay hết thảy những ai yêu văn chương xứ ta, biết đến những áng văn trữ tình của Thạch Lam, sách “Hà Nội, 36 phố phường”, ông ca ngợi món bún chả trong chương sách tả về hàng quà: “... Người Hà Nội, ăn thì ngày nào cũng ăn, nhưng thường không để ý. Nếu chúng ta về ở tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà ở Hà Nội ngon là chừng nào. Cùng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi...”. Vậy nên, bún chả Hà thành ngon, xứng với câu ca, “Ngàn năm bảo vật đất Thăng Long/ Bún chả là đây có phải không?”... Cũng như người ta, ai đã từng đọc tản văn “Bóng xưa” của nhà văn Pháp, Anatole France (Giải Nobel Văn học năm 1921), thì khi bước chân vào vườn Lucxamburg lúc thu sang, dạo gót và ngắm nhìn những chiếc là vàng rơi rơi rồi đậu trên vai các pho tượng trắng, mới cảm hết sự thơ mộng và tuyệt diệu làm sao!...

          Với riêng tôi, xin nhắc lại điều này, món bún chả tuyệt ngon, còn bởi, ký ức về bữa bún chả chiều cuối năm của mẹ tôi...

          Ngày ấy, từ gần nửa thế kỷ trước. Gia đình tôi chuyển từ Hà Nội về định cư ở quê, thuộc Hưng Yên, cách Hà Nội hơn hai chục cây số. Ở quê, gia đình tôi lấy việc làm bánh cuốn, bánh đa và mì gạo làm kế sinh nhai. Thời chiến tranh, gian khổ và thiếu thốn mọi bề, mỗi dịp năm hết tết đến, mọi nhà, lo sao có được cân giò, nồi thịt đông, liễn dưa hành, chục bánh chưng đã bạc mặt rồi. Nhà tôi cũng thế. Song có chút khác, ấy là, chiều tất niên, năm nào cũng vậy, mẹ tôi làm món bún chả. Mẹ tôi, tuy sinh ở quê, nhưng lớn một chút là ra Hà Nội, làm quán cơm với người nhà ở khu phố cổ, nên tài nấu nướng của mẹ tôi khá lắm. Món bún chả, thường làm không khó, nhưng để chế biến cho ngon, kiểu bún chả Hà thành, thì cũng phải có chút tài và khéo léo riêng. Thường là sáng ba mươi tết, nhà tôi vẫn nhóm lò than, làm mẻ bánh đa mì gạo cuối năm. Đến tầm trưa, cơm ăn tạm qua loa, dẹp hàng họ sang một bên, cả nhà bắt tay vào làm cỗ tết. Bố tôi cời than cũ, thêm than mới, bắc nồi đồng to luộc bánh chưng. Còn mẹ tôi, bắt tay làm cỗ tất niên, cùng với xôi, gà và vài món xào nấu măng miến, thứ đặc biệt hấp dẫn cả nhà, ấy là bún chá. Nguyên liệu thịt lợn để làm món chả, được chuẩn bị từ trước, duy có bún thì phải chờ mua. Ở quê tôi, ngày ấy, ít nhà làm bún, nên phải chờ hàng bún rong từ xã bên cạnh sang bán. Thông lệ, sáng ba mươi tết đến tầm ngang trưa, những hàng bún rong đi các xóm, làng rao bán, hoặc đổi. Không có tiền mua, thì bún đổi lấy thóc hoặc gạo theo tỷ lệ nào đó. Mấy chị em chúng tôi, cứ vừa giúp việc bố mẹ, vưa dỏng tai lên chờ nghe tiếng rao đổi bún. Có được bún rồi, mới thở phào hết lo. Nhớ là, có năm duy nhất, đến tận giữa trưa ba mươi tết, vẫn không có hàng bún rong nào đi qua làng, mà cũng chẳng biết tìm mua ở đâu. Cuối cùng, mẹ tôi sáng tạo, chữa cháy bằng cách, lấy bột tráng bánh đa, pha loãng ra, tăng tỷ lệ hàn the cho thêm độ dai, tráng thành bánh đa, để nguội, rồi dùng dao thái thành sợi, thay cho bún. Vạn bất đắc dĩ, phải làm thế, đương nhiên, giả bún thì không ngon bằng bún thật, nhưng chẳng sao, miễn là có món bún chả. Như vậy, lại rất đặc biệt. Bữa bún chả ấy, lúc ăn, mới thấm nỗi niềm của sự gian khó và thiếu thốn. Đấy là bữa bún chả nhớ đời.

          Lại tiếp chuyện bún chả. Sẵn bếp than hồng, lưng chiều, mẹ tôi đem than hoa nướng cho bén lửa, rồi gắp ra chiếc chậu nhôm, quạt chả. Cả mấy chị em quây quanh phụ giúp, thực ra là thèm cái mùi chả nướng quyến rũ mà thôi. Đã có lần, thèm quá, không chịu nổi, tôi lén nhón một miệng đút tọt vào miệng, chả còn nóng xuýt bỏng mồm. Mẹ tôi thấy, nhưng chỉ mắng yêu “Này con, không khéo bỏng mồm bỏng miệng đấy... Với lại, chả chưa lấy phần riêng ra để cúng đâu, cấm ăn trước các cụ... Mà này, con trai xem cho biết thôi, chứ  không có chuyện quanh quẩn bếp núc đâu nhé,... phải có chí khí mà quan tâm những việc lớn, để sau này lập thân lập nghiệp, chứ con?”. Mẹ tôi mắng khéo vậy, rồi bà cười, nụ cười ứa nước mắt. Lại một bài học nhớ đời!...

          Những năm sau đó, khi bố tôi mất và người chị lớn về nhà chồng, nhà chỉ còn ba người, mẹ, người chị gái kế trên và tôi cùng theo học đại học, tết hàng năm, theo nếp cũ, mẹ vẫn làm bún chả  Có điều, đời sống bớt khó khăn, mẹ chủ động làm nhiều, trước là để cúng các cụ và bố tôi, sau là cả nhà quây quần thưởng thức. Có thêm cả nhà chị gái lớn, chồng con chị ấy nên bữa bún chả chiều cuối năm đông vui, rôm rả hơn.

          Có một cái tết, tôi nhớ lắm, ấy là tết năm 1987 sang 1988. Khi ấy, tôi vừa chuyển từ An Giang về Hà Nội, làm báo chuyên nghiệp ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Người chị gái kế trên tôi làm ở Bộ Nông nghiệp, cũng đã lấy chồng rồi có con. Mẹ tôi thương chị tôi vất vả, bèn gửi nhà nhờ mấy đứa cháu ở quê trông giùm, ra ở cùng chị tôi giữ cháu. Tết năm ấy, mẹ tôi nhắc tôi trước là hai mẹ con sẽ về quê ăn tết, vì vẫn phải tết nhất, cúng các cụ đầy đủ. Năm ấy, đơn vị tôi xin được con lợn to hàng tạ. mổ ra, chia nhau, mỗi suất được dăm cân thịt, rồi xương xẩu, nội tạng đủ cả. Sáng ba mươ tếti, tôi đèo mẹ, cùng đó thịt thà, đồ tết lỉnh kỉnh trên chiếc xe đạp cà tàng. Gần trưa thì về đến nhà. Hai mẹ con ăn qua loa cho xong bữa, lấy sức, rồi trần ra lo tết. Nhà bỏ lâu ngày, bụi bặm nhiều. Tôi lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn, lau chùi, chuẩn bị bàn thờ. Mẹ tôi thì đôn đáo, lọc thịt, mua sắm thêm rau cỏ gia giảm, rồi lăn ra mà chế biến, nấu nướng... Chị gái tôi lấy chồng ở xã bên, chiều muộn, anh chị đèo nhau đến mang theo dăm chiếc bánh chưng và nửa cân giò lụa. Thế là đầy đủ. Vừa chập tối, mọi thứ cũng tinh tươm. Và rồi, cái mùi vị quen thuộc quyến rũ của món bún chả, hòa cùng mùi của lửa đốt đống rấm, làm cho không gian nhà vườn ấm cúng và náo nức hẳn lên trong hơi gió mùa đông bắc tràn về. Trong cái rét mướt cuối năm, ngồi bên mâm cơm tất niên, vẫn món chủ đạo là bún chả, mấy mẹ con vừa ăn uống, trò chuyện mà lòng rưng rưng. Đấy cũng là cái tết ấm cúng, sau vài ba năm tôi xa nhà, biền biệt phương Nam, không về ăn tết ở quê.

          Sau này, tôi lập gia đình chưa được bao lâu thì mẹ tôi ốm nặng rồi mất. Tết đầu tiên, khi tôi có nơi ăn chốn ở riêng, tôi nhắc vợ, bữa cơm tất niên, kiểu gì cùng phải làm món bún chả. Tôi giải thích lý do cho vợ nghe. Thật là trùng hợp, gia đình bên vợ tôi đông những tám anh chị em, và bữa cơm chiều ba mươi tết nào, mẹ vợ tôi cũng làm bún chả. Ngẫu nhiên mà hai nhà có nếp giống nhau. Thế là từ bấy, bữa cơm tất niên hằng năm, không cần phải ai nhắc, định vị là món bún chả...

          Thực lòng, đã nhiều năm nay, cỗ tết có đầy đủ, sơn hào hải vị gì đi chăng nữa, với tôi, ngon nhất và ý nghĩa nhất, vẫn chỉ là bữa bún chả chiều tất niên!...

 

         

 

 

 

 

Nỗi khát sa mưa

và ký ức mùa nước nổi.

 

          Sáng ra, trời mát trong, dìu dịu hơi thu với chút hanh heo. Nắng nhẹ nhàng lan tỏa. Lập Thu đã hơn nửa tháng nay mà trời vẫn nồng oi khó chịu. Vẫn biết là thời tiết lúc chuyển mùa là thế, nhưng lòng vẫn thắc thỏm đợi thu về. Và rồi, sau những ngày hòa vào sự ồn ào bận rộn với lễ kỷ niệm ngày thành lập cơ quan mình từng có hơn ba chục năm công tác, giờ là chút lắng lại. Đợt gió mùa đầu tiên đã tràn về, thoạt đầu là cơm mưa giông chiều hôm trước với ì oàng tiếng sấm và mưa xối xả, trắng trời trắng đất...

          Ngày mới lên, bên ly cà phê đen, chầm chậm nhấp môi, theo dõi một phóng sự hình về mùa nước nổi miền Tây Nam bộ. Những hình ảnh tươi mới sống động về những sản vật và niềm vui con người trong mùa nước nổi, khơi gợi trong tôi và ký ức ngày nào bừng dậy về nỗi khát sa mua và niềm vui náo nức mỗi mùa nước nổi...

          Ai cùng biết, phương Nam chỉ có hai mùa mưa nắng, quen gọi là mùa khô và mùa sa mưa. Mùa mưa, thường bắt đầu từ cuối tháng tư đầu tháng năm, khi mùa hạ miền Bắc bắt đầu. Nếu như sống trong mùa mưa, ta sẽ quen dần với cơn mưa giông thường vào mỗi buổi chiều, mà quên đi, để rồi bỗng một hôm nào đó, chợt nhận ra, hình như mưa thưa dần, ấy là lúc mùa khô bén mảng. Đó cũng là lúc, ta bắt đầu nghe ngoài Bắc có những đợt gió mùa đông bắc đầu tiên. Cứ thế, nhẹ nhàng như không, ngoài chút tiêng tiếc cái không khí ẩm ướt và bầu không cây vườn, đường phố sạch tinh khôi sau mỗi cơn mưa chiều... Mùa khô lén dần rồi đấy. Những khi mùa khô thật sự hiển hiện, nắng chang chang mỗi ngày và cứ thế đến mấy tháng trời, con người cùng đất đai, cây cỏ gần kiệt đi trong cái nóng khô khát, ta mới thấy nhớ và thèm khát cơn mưa làm sao. Nỗi khát sa mưa cứ ngày một lớn dần, như ăn vào đầu óc, tiềm thức, để mỗi sáng dậy, nhìn nắng sớm soi vào khung cửa, tràn ngập sân vườn, lòng lại tự hỏi, bao giờ thì mùa sa mưa đến nhỉ?...

          Tôi đã sống như thế trong nhiều mùa mưa nắng miệt châu thổ Mê-kông. Mỗi mùa khô, sáng ra, vầng mặt trời đỏ ối lên cao, cả châu thổ mênh mông ngàn ngạt bầu không khí khô nóng khô, như chiếc chảo rang khổng lồ úp xuống đồng bằng, chút hơi ẩm sương đêm trên cây lá nhanh chóng bay hơi tan biến vào thinh không nắng gió. Những con đường lớn nhỏ, mỗi lần xe qua bốc theo làn bụi đỏ như những cơn giông bụi vần vụ lên cao mãi không tan nổi. Người ta giải khát mình bằng những ly nước trà, cà phê loãng toẹt đầy những đá lạnh. Một khi người ta khát khao chờ đợi thì thời gian lại như ngừng trôi. Mùa khô nhích từng bước chậm chạp tựa rùa bò để đi nốt quãng ngày cuối cùng cùa mình. Nó làm người ta sốt ruột đến mức mỗi chiều muộn, cảm nhận, mặt trời dùng dằng, nấn ná mãi chẳng buồn lặn... Thèm cả chút hơi đêm dịu bớt len vào giấc ngủ trằn trọc vì nóng bức.

          Những tháng này này, phải lang trên đường xuyên qua những làn bụi, hoặc ngồi trên những chiếc xuồng tam bản, võ lãi, bo bo chạy trên kinh rạch cạn nước sục những váng phèn đỏ, lại càng thèm mùa con nước mênh mông. Lâu lâu, nghe tin đâu đó, cháy rừng tràm rừng đước do nắng nóng và sự bất cẩn của những người gác kèo đốt ong, mà lòng người như có lửa đốt...

          Tôi sống những tháng ngày như thế. Cùng đã bước đi trên mặt đồng khô hạn nứt nẻ, đất nhiễm phèn, toác ra cứng như sắt, theo chân những người dân Khmer Nam bộ từ các phum sóc đi lấy nước về dùng. Những giếng nước ngoài đồng, cạn tận đáy, dẫu liên tục rịn ra thì vẫn không xuể, làm mọi người xúm đông, chờ đến lượt mình, vục từng ca nước mát chắt vào thùng chứa mang về nhà. Mạnh nước ngầm chảy ri rỉ  sốt ruột, ngày đêm như vắt kiệt lòng đất để mang lại chút nước mát cho con người. Có cảm giác, nước ngọt đường lấy từ ngọn cây thốt-nốt trên cao kia còn nhiều hơn cả nước giếng đất ngầm ... Mùa khô là thế đấy.

          Tôi cứ tự hỏi, những kẻ không may lạc lối trên sa mạc hay trôi dạt giữa đại dương mênh mông, thì cơ cực khổ sở thế nào, và nỗi thèm khát nước ngọt khiếp nhược ra sao, chứ nỗi khát sa mưa của dân Miền Tây ngày ấy thì tôi từng chứng kiến và cảm nhận được ...

          Và sự kiên nhẫn chờ đợi, nỗi khát sa mưa của con người và cỏ cây rồi cũng được đền bù, khi mùa mưa đến với những cơn giông đầu mùa xuất hiện thưa thớt, và mỗi dầy thêm...

          Mùa mưa, mùa nước nổi, đến sớm bao nhiêu, thi nỗi lo càng bớt... Khác miền Bắc, mưa lũ đột ngột, xối xả, tràn lấp và xô đổ tất cả, rồi cuốn phăng đi, những đồi núi, cầu đường, nhà cửa, tài sản, con người, mà nhiều khi, chỉ chốc lát, là mất tất... lũ miền Tây dù có lên nhanh thì cùng vẫn là nhẹ nhàng, như an ủi, vỗ về con người ta. Vậy nên, dân miền Tây mới gọi mùa sa mưa là mùa nước nổi. Nước lên đến đâu, nhà cửa và con người nổi lên theo đó. Chỉ có trong kinh rạch, sông ngòi, đồng ruộng mênh mông nước ấy, là nguồn tài sản vô kể do thiên nhiên ban tặng.

        Sau vài năm lũ muộn và nhỏ, năm nay Mậu Tuất, lũ sớm trước cả tháng trời. Hễ cứ được mùa nhãn là mưa nhiều nước to, người xưa truyền vậy, cấm có sai. Mưa nhiều, cả Bắc chí Nam đều nước lớn. Ngoài Bắc đã mấy lần xả lũ, úng thủy nơi nơi, đường biến thành sông, đi lại khó khăn trắc trở, thì phương Nam lại hài hòa làm sao. Người dân miền Tây hân hoan đón lũ. Trừ ít lúa tăng vụ bị ngập nước chưa kịp gặt, thiệt hại chút đỉnh, còn lại chẳng hề hấn gì. Niềm vui nối tiếp niềm vui. Các phiên chợ quê đầy ắp và tươi rói sắc màu sản vật mùa nước nổi. Rau thì bông điên điển, lục bình, hoa súng và muống đồng, vật thì các loại tôm cua ốc ếch và cơ man là cá. Cá lớn nhỏ, đủ loại, và cá thiên nhiên thường là ngon hơn cá nuôi. Trong số đó, không thể không kể đến cá linh....

          Cá linh, loài cá tự nhiên cho đến nay, vẫn không thể nuôi được. Nguồn gốc loài cá này là từ Biển Hồ bên xứ Cao Mên (Campuchia). Đến mùa, cá mẹ đẻ trứng, rồi trứng cá nở thành cá bột, gặp đúng mùa sa mưa, cứ thế, cá bột theo dòng nước trôi xuôi, vừa đi vừa ăn phù du mùa mưa lũ mà lớn dần. Khi về đến sông Cửu Long xứ ta, thì cá linh đã lớn bằng đầu đũa rồi, ấy là cá linh non. Cỡ này, cá linh ngon nhất. Người ta dánh bắt, chế biến thành các món ăn, và món nào cũng tuyệt cả. Phổ biến là cá linh tẩm bột chiên ròn, ăn nhai cả xương, ngon lắm. Rồi đó, đem nấu canh chua, hoặc bỏ vào lẩu, lâu dài hơn thì chế mắm cá linh. Cá linh để lớn to bằng ngón tay cái, chân cái là già rồi, khi ấy chỉ đem kho tiêu hoặc làm mắm là ngon.

          Ngày tôi còn ở An Giang, ấy là từ hơn ba chục năm trước, mỗi mùa nước nổi, cá linh nhiều cơ man, các chợ lớn nhỏ từ Long Xuyên về Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, đâu đâu người ta bán cá linh, nhiều vô kể. Cá linh nhiều đến nỗi rẻ lắm, ê hề, vãn chợ, không ai mua, nên mới có câu vi von “rẻ như cá linh”. Nhưng rẻ thế cũng đâu có hè hấn gì. Người đánh bắt, bán cứ bán thế thôi, bán không xuể, vui lòng mang vể đổ vào chum vại làm mắm, bán dần. Ngày nào, bữa nào, cũng cá linh, ăn diết sinh chán. Chẳng bù cho bây giờ, cá linh là đặc sản quý hiếm. Hiếm là bởi, lũ nhiều năm nhỏ và muộn vì thủy điện đầu nguồn chặn nước, và nữa, nhiều diện tích bị ngăn bằng đê bao để gieo trồng lúa, làm diện tích đồng bằng ngập nước hẹp lại, giảm môi trường thủy sinh. Lạm dụng thuốc trừ sâu, hủy diệt môi sinh, cũng là một nguyên nhân. Con người đông lên gấp bội, nên ngoài khai thác cho nhu cầu dân sinh tại chỗ, cá linh và một số sản vật khác còn bị săn lùng, khai thác triệt để cho mục đích thương mại, phục vụ thú ăn của dân đô thị ... Thế nên, cái gì thuộc về tự nhiên đều dần nên hiếm cả... Nghĩ mà buồn!...

          Biết là vậy, nhưng để chuyển biến tư duy bảo vệ môi sinh thành việc làm cụ thể, thật khó lắm thay. Nói vậy, để trở lại một quan điểm mang tính chiến lược, ấy là, hãy trả lại miền sông nước Tây Nam bộ về loại hình sinh thái ngập nước như xưa cũ... Như thế, lợi ích sẽ lớn hơn, phong phú hơn, và quan trọng  nữa về mặt tinh thần văn hóa xã hội sẽ có cơ sở để bào tồn và phát triển bền vững. Điều này, nhiều nhà khoa học và quản lý xã hội cũng đã hiểu và tán đồng.

          Vẫn đang mùa nước nổi, trong khi chờ đợi sự chuyển biến thuộc tầm quốc kế dân sinh, thì hãy biết chia vui cùng bà con miệt vườn miền Tây sông nước, với tràn trề sản vật đặc trưng mùa nước nổi !...

         

 

 

 

 

 




 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhận xét