Tập truyện ĐI TÌM MỘT CƠN MƠ


Lưu trữ tư  liệu, 

@@@

 

 

ĐI TÌM MỘT CƠN MƠ

Tập truyện

 

 

Một thời má đỏ,

 

Em một thời má đỏ

Ta một thời long đong

 (Chỉ lửa là rất thật-NCN)

 

Anh lên Châu Mộc, theo lời mời của Quân, người bạn thân, cán bộ quản lý Văn phòng khu vực Tây Bắc của một cơ quan báo chí lớn. Quân sắp đến tuổi nghỉ hưu, vốn yêu mến miền đất thơ mộng này, muốn tìm một mảnh đất rộng để làm nhà vườn, đặng an nhàn tuổi già. Quân bảo: “Tôi biết ông cũng yêu quý vùng đất này chẳng kém gì tôi, cuối tuần ông lên đây chơi với tôi, cùng tôi tìm đất, biết đâu, ông cũng động lòng, kiếm một mảnh đất… Đồng bệnh tương lân mà, tôi và ông đều tương tư vùng đất này, bởi cả hai ta, cùng để lại nơi đây một mối tình dang dở, một thời… nhỉ”. Nghe vậy, anh cười: “Mối tình dang dở ư? Có thể với ông là đúng, song với tôi, thì chưa hẳn… Nhưng thật tình, tôi yếu mến miền đất thơ mộng này, có khi còn hơn ông!”. Cả hai cười vang.

          Quân đưa xe về Hà Nội đón anh lên. Chiều cuối tuần, xe ngược lên châu Mộc. Qua Thung Khe, cơn giông kéo lên đầy trời, may là đầu hè nên không bị sương mù. Trời đổ mưa nặng hạt.  Quân lặng nhìn quang cảnh đồi núi gội mưa, cảm thán:”Tôi rất thích ngồi xe ngắm trời mưa, ông ạ”. Cậu lái xe nghe vậy hài hước: “ Ôi, sếp thích, nhưng em khổ sếp ơi. Lái xe đường núi trong mưa thế này, cực lắm, sếp à”. Chúng tôi phá lên cười, rồi lặng đi nhìn mưa rơi hồi lâu, hình như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Anh chợt nhớ, động lòng thốt lên mấy câu thơ:” Ơi một thời khao khát/ Em thì còn trẻ măng/ Ngước cái nhìn ngơ ngác/ Ta vờ ngó vầng trăng/ Chỉ lửa là rất thật/ Bừng lên cháy hết lòng/ Em một thời má đỏ/ Ta một thời long đong”… Quân nghe, nói mơ màng như đẩu đâu ấy” Ừ,… đúng là em một thời má đỏ, … ông nhỉ?’. Anh cùng ờ như mơ hồ…

 

          Mưa dứt từ lúc nào, xe lên tới cao nguyên Châu Mộc. Cao nguyên sau cơn mưa gột rửa, tươi mát yên lành trong màu xanh  mướt của ngô và chè. Những năm rồi, anh qua lại vùng đất này nhiều lần, nhưng mỗi lần mỗi ngỡ ngàng. Lần này, là sự ngỡ ngàng về vẻ tươi mới và có gì đó khang khác của cao nguyên mà anh chưa nhận ra.

 

          Lấy phòng khách sạn, tắm rửa sạch sẽ, mọi người đi ăn nhà hàng theo lời mời của một người bạn với Quân. Món ăn bản địa, ẩm thực Thái Mường lạ miệng. Cụng ly chúc tụng, nên ai cũng ngà ngà, một trạng thấy đầy hưng phấn. Anh cao hứng đọc thơ, là thơ tình, về mảnh đất này, nên mọi người đều vui lắm.

          Đêm về, tưởng là ngủ được ngay, nhưng không ngờ, anh lại khó ngủ làm sao…


#

          Ngày ấy, cách đây gần bốn mươi năm rồi, anh đang học năm cuối đại học Nông nghiệp. Lớp của anh lên đây thực tập, đồng thời học nốt mấy môn học phù hợp với điều kiện thực tế của Nông trường Bộ ở đây.

          Mấy chiếc xe khách Hải Âu đã chở đoàn sinh viên vượt dốc Cun, rồi Thung Khe lên với Mộc Châu. Ngày đó, khi xe ì ạch leo đèo, cả đám sinh viên, phần lớn quê các tỉnh đồng bằng, lần đầu lên miền núi, đã tranh nhau ghé nhìn qua cửa kính phong cảnh núi non hùng vĩ  của vùng cửa ngõ Tây Bắc, thích thú lắm. Khi đó, một chàng sinh viên lớn tuổi, là bộ đội chuyển ngành, cảm khái khi cất tiếng đọc mấy câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây sung ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, khiến mọi ngượi lặng đi…Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chưa nhiều người biết, song sức gợi của nó thì cả người không yêu thơ cũng cảm thấy gai người. Đường sá nhỏ hẹp, quanh co,  nhiều đoạn xóc này người, rồi cuối cùng cao nguyên châu Mộc cũng hiện ra trong màn sương chiều se lạnh. Đêm ấy, mọi người được bố trí nghỉ ở nhà khách Nông trường Bộ, sau một buổi tối lang thang ra những nương chè.

Thời gian cả lớp ở lại đây chừng mươi ngày để học nội quy chung, học nốt vài môn học, rồi sau đó chia ra từng nhóm nhỏ, về thực tập tại các đội sản xuất cụ thể. Dạo ấy, Nông trường Mộc Châu được chính phủ Cuba giúp đỡ xây dựng nên khang trang và quy củ lắm. Các đội sản xuất được phân chia theo các loại hình công việc chuyện biệt hoặc kết hợp, chẳng hạn chuyên trồng chè, chuyên trồng cỏ và nuôi bò sữa, hoặc kết hợp cả trồng chè và nuôi bò sữa…

Anh được phân về một đội sản xuất cách xa trung tâm Nông trường Bộ chừng dăm cây số, chuyên về đồng cỏ và bò sữa. Từ trung tâm phải ngược dốc vào sâu tít nơi rải rác có những bản người Mường, người Thái, người Mông Hoa. Đội sản xuất này, có khoảng gần trăm công nhân, phần lớn chưa lập gia đình, ở tập thể tại khu lán trại đơn giản kiểu nhà cấp 4, giường tầng. Để nhường chỗ cho cánh sinh viên thực tập ở, các công nhân phải dồn lại, nhường riêng một khu nhà cho khách.

Ở đội sản xuất này, chỉ có chừng gần chục nam giới, trong đó có vị Đội trưởng. Còn lại là nữ, chủ yếu độ tuổi trên đôi mươi, đều quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Tây, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình… Tay đội trưởng, tên Thiết, tuổi ngoài ba chục, đã có vợ con, và thật hợp với cái tên của mình, người y còi đen xắt lại, thêm hiếng một mắt, nhìn khá gớm ghiếc. Nghe đám công nhân nữ xì xào với nhau, y rất tinh ranh, ghê gớm và là một sát thủ tình trường. Cánh sinh viên thì bảo nhau, chẳng qua, thời chiến tranh vừa rồi, con trai mạnh khỏe ra trận hết, chỉ còn lại ít đàn ông đui què mẻ sứt ở nhà, nên của hiếm mà thành tinh thôi. Chuyện làng quê thời chiến thiếu đàn ông, không lạ, nhưng không thể sánh với chuyện nông trường thiếu đàn ông. Cái tỷ lệ, một đàn ông với mười đàn bà đang độ tuổi thanh xuân bị dồn vào một chỗ thì mới ghê gớm làm sao. Đàn bà sung sức, lại thừa mứa như thế, bị dồn nén nơi xó rừng, dễ làm họ rực lên…

Mang tiếng nhiều phụ nữ như thế, nhưng ở đội sản xuất này anh cũng chỉ để ý và nhớ tên được mấy người mà thôi. Và đương nhiên, phụ nữ để nam giới thuộc mặt nhớ tên giữa đám đông ắt phải có gì đặc biệt, xinh hoặc xấu, hoặc tính tình có gì đó khác lạ. Người đầu tiên, để anh lưu tâm, ấy là Duyên, một kỹ thuật viên, cỡ tuổi anh, quê dưới xuôi, vóc dáng tầm thước, da nâu, gương mặt không hẳn xinh nhưng ưa nhìn và khá lạnh. Người thứ hai, là Hương, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt khá xinh, hay cười nói, nhí nhảnh kiểu trẻ mới lớn. Người thứ ba, ấy là Lan, tạng người có da có thịt, gương mặt tròn trịa, hàm răng trắng đều, tính tình xởi lởi, dễ chịu. Và cuối cùng là Tẻo, tên xấu, người thấp lùn, gương mặt có gì đó dị dạng, lại mắc chứng điên tình. Ngày làm việc, rồi các bữa cơm tập thể, anh hay gặp họ, nhưng thi thoảng hỏi chơi mấy câu tầm phào, theo kiểu mà người ta hay nói cửa miệng là ”trai sinh viên, gái nông trường”, tán tỉnh chút cho vui . Với Duyên, cô gái này luôn giữ ý đúng mực giữa đám đông, không chủ động chuyện bao giờ, chỉ trả lời khi bị hỏi, và luôn có ý phòng thủ. Cánh nam sinh viên bảo nhau “con bé này kiêu lắm”, nhưng nghe đâu, cô đã từng yêu sâu nặng và rồi thất tình với một chàng sinh viên Hà Nội hào hoa nào đó, dạng về đây thực tập từ vài năm trước đó, nên tính tình sinh ra vậy.

Với Hương, anh đã vài lần nói chuyện, thậm chí, đã có lần, anh cùng cô bé này ra đồng cỏ chăn bò. Buổi sáng, lùa bò ra đồng cỏ, thả rông để chúng gặm cỏ và vận động cho thoải mái. Nhũng con bò sữa lang trắng đen, giống của nước ngoài, điểm xuyết trên nền cỏ xanh, giữa quang cảnh núi non, trông thật thơ mộng. Hương thả bò rồi tìm một gốc cây có bóng mát ngồi, canh chừng. Có anh bên cạnh, cô hát véo von, hết bài này sang bài khác. Anh cũng dở bài tán, đọc lên mấy câu thơ tình của mình, khiến cô bé thich lắm. Cô khen thơ hay rồi bắt đọc thơ nữa, nhưng anh thì lại chán. Anh vờ chiều nhưng cũng không thích cái tính trẻ con của cô bé. Tuổi đôi mươi, học hết cấp hai rồi lên đây, tính trẻ con là phải thôi. Riêng cô bé này có biệt tài, dăm chục con bò cô chăn thả, cô thuộc dáng hình của từng con, đến mức ở rất xa, hễ chỉ đến con nào, cô cũng đoán trúng phóc tên số của con ấy. Anh đã thử tài cô mầy bận và cô chưa bao giờ sai.

Còn với Lan, anh chuyện trò nhiều hơn cả, bởi tính cô xởi lởi, tự nhiên, không né tránh kiểu Duyên và cũng không làm ra vẻ trẻ trung hồn nhiên như Hương. Lan quê Thái Bình, kém anh  vài tuổi và đã có thâm niên tại nông trường dăm năm rồi. Một sáng chủ nhật, khi anh vẩn vơ bên đường, có ý quan sát quang cảnh, thì bắt gặp Lan. Cô rủ anh cùng đi hái nấm với cô, anh vui lắm. Lan bảo, mùa hè, sau những ngày có mưa, nấm sẽ mọc nhiều. Điều này thì anh hiểu, vì hồi còn ở quê, những ngày mưa nhiều, khi đi thả trâu cùng đám trẻ làng, anh cũng đã từng lấy được nhiều nấm, loại nấm cỏ, từng cái to nhỏ như trứng gà, như củ khoai tây nảy nhan nhản ở sườn bờ mương. Hái về, thái thành lát xào lên, hoặc xắt đôi kho kỹ với tương, ăn rất ngon. Anh và Lan tha thẩn trên đồng cỏ, vừa dõi mắt trên mặt đồng cỏ tìm nấm, vừa hỏi chuyện nhau. Cô kể, hồi ở quê, thỉnh thoảng được đi xem chiếu phim, thấy cảnh nông trường ở Liên Xô, có những cánh đồng lúa mì bát ngát, những đàn bò sữa cao lớn gặm cỏ nhởn nhơ trên thảm cỏ xanh bao la, thì cô thích lắm, ước ao một ngày kia thoát ly khỏi làng que nghèo, trở thành công nhân nông trường. Vậy khi có người làng sống ở trên này, về thăm quê, bảo ở đây đang tuyển công nhân nông trường, giống như cảnh phim cô đã xem thì cô háo hức muốn đi ngay. Và cô đã trở thành công nhân nông trường Châu Mộc. Tuy không đẹp mơ mộng như phim ảnh thì công việc cô đang làm cũng tạm ổn. Chỉ mỗi tội, ở đây ít nam giới, mà chị em thì quá đông. Lan bảo, ông giám đốc nông trường thương các cô lắm. Có lần ông nói vui rằng, nếu pháp luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ, thì ông sẽ lấy mười vợ để giúp một số cô có gia đình. Lại có lần, ông giám đốc bảo, cứ tình cảnh này thì các nữ công nhân bỏ nông trường về quê lấy chồng hết, rồi ông lại ước ao, ở gần đây, có vài đơn vị bộ đội thì tốt quá. Ông giám đốc, còn kêu gọi các chàng sinh viên hãy lưu tâm giúp ông điều đó, tuy nhiên, không phải là cái cách, mỗi đợt sinh viên về thực tập, kết thúc mỗi đợt, để lại vài ba cô công nhân bụng mang dạ chửa và sau đó là những đứa trẻ không cha…mà phải thực sự gắn bó với nông trường, lấy vợ và ở lại đây.  Đấy là những gì Lan nói cùng anh khi hai người đi hái nấm với nhau. Chốc lát, chiếc làn cô mang theo đã đầy ắp những trái nấm trắng ngà nhìn thật ngon mắt. Trời đang nắng đẹp chợt mây đen kéo lên rất nhanh, và cơn mưa bóng mây đổ xuống, hai người vừa chạy vừa cười đùa, khi trú được vào một lán trại thì quần áo cả hai gần như ướt hết. Lan tỏ ra ái ngại khi quần áo ướt bết vào thân hình cô. Biết cô ngượng, anh vờ nhìn lảng ra đồng cỏ, song thế cũng đủ để cảm nhận được sự hấp dẫn toát ra từ dáng vè thanh xuân đầy sức sống nơi cô. Cầu vồng bảy sắc bừng giăng chân dãy núi xa xa, anh nhìn trộm Lan và vờ nhìn cầu vồng than:’Tưởng mưa bóng mây thì nhanh, nhưng không ngờ lâu tạnh thế nhỉ?”. Cô chỉ ầm ờ, lén gỡ từng mảng quần áo ướt bết vào người, mặt đỏ bừng…

#

Và một lần, nhóm sinh viên của anh trực kỹ thuật đêm. Đêm ấy, Lan là công nhân trực kỹ thuật chính. Chập tối, Lan thông báo, rất có thể đêm nay, sẽ có bò đẻ, bởi theo bảng theo dõi kỹ thuật và thăm khám thực tế, khả năng sẽ có vài con bò mẹ sinh nở nay mai. Thế nhưng, anh bạn cùng ca trực với an bảo là thấy người ơn ớn như sốt, xin về trước vì ngại sương đêm sẽ ốm. Vậy là, chi còn lại có anh và Lan, nên anh có chút gì đó hồi hộp... 

Lan luôn chân luôn tay, nhóm bếp củi rồi bắc lên một nồi nước to, nói là để có nước sôi sát trùng dụng cụ, chuẩn bị cho bò đẻ. Anh ngồi canh chừng bếp lửa, thêm củi, gạt tàn. Đêm mùa hè mà sương dày đặc. Anh hỏi bâng quơ:

- Này em, mùa hè ở đây lạnh vậy sao?

- Khí hậu cao nguyên mà anh… Thế mới nuôi được bò sữa chứ, anh  - cô cười – Ôi, em quên mất, anh là kỹ sư đến nơi rồi mà em lại đi giải thích cho anh. Em xin lỗi nhé.

Cô cất miệng hát một đoạn chèo, hình như điệu Đường trường thu không thì phải, nghe man mát buồn...

Thấy anh vẫn ngồi im lặng, Lan gợi chuyện:

- Em hỏi đùa nhé,... anh tên Mạnh, nhưng sao cứ nhan nhát làm sao ấy... Dáng dấp thì  thư sinh ... cứ như là... con gái ấy – Cô lại cười – Hay là, anh ...

Lan bỏ lửng, lại hát tiếp câu chèo đang bỏ lửng.

- Thì bố mẹ mình để mãi toàn con gái, út ít đến mình là trai, nên đặt tên vậy cho vẻ khí thế... Cha mẹ sinh con, trời sinh tính mà...Anh cũng đang cố làm cho mạnh mẽ đây – Anh chống chế, đùa lại.

- Thì cứ như em đây, tên khai sinh trong giấy tờ là Lang, khoai lang ấy. Chả là mẹ em đẻ rơi em ở ruộng khoai lang, nhà đông con nên đặt tên là Lang cho dễ nuôi, mà anh. Tên làm sao, người bao hao làm vậy, thế nên người em giờ cứ nuột nà nhẵn nhụn như củ khoai lang đấy thây – Cô cười to khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chuyện hơn – Bọn con gái ở đây trêu em, bảo là, ai lại tên Lang, khoai lang cơ chứ, quê mùa chết ấy. Thế rồi, chúng nó cắt của em cái chữ “g” thành ra Lan. Gọi thế hay anh nhỉ? Mà anh có thấy, ở đây, hoa phong lan rừng đẹp tuyệt vời không?... Giờ thì mọi người ở đây toàn gọi em là Lan thôi...- Cô dừng chuyện, giọng buồn buồn -  Này anh, nghe nói hôm trước, cái con bé Tẻo nó xông vào chỗ các anh quấy quả đấy à?

- Ừ, … nhưng mà…nghe nói cô ấy bị căn bệnh oái oăm gì thì phải?

- Vâng anh, chẳng rõ, nhưng người ta bảo nó điên tình... là cái bệnh phát do thiếu đàn ông ấy. Nó phát bệnh như vậy mấy lần rồi… Rõ khổ cái Tẻo, người gợm như vậy, đàn ông nào nó màng. Đến như chúng em đây, nghĩ chẳng đến nỗi nào mà cũng chẳng có ma nào thèm ngó nữa là... Lâu lâu, rồi bọn em cũng đến phát bệnh như nó mất...

Lan như xịu xuống. Quả là, vài hôm trước, tối muộn, khi cánh con trai tán gẫu chán chê, đang định đi ngủ, thì của nhà bật mở tung. Tẻo xông vào, miệng huyên thuyên không rõ, choàng ôm chặt một cậu giường gần ngay cửa vào. Cậu ta sợ quá, vùng người gỡ tay Tẻo ra nhưng cô này ôm chặt quá, miệng cô lại sùi bọt như người lên cơn động kinh. Mấy cậu khác sợ quá, ré lên, quáng quàng nhảy bắn ra khỏi nhà. Một cậu liều xông vào gỡ giúp cậu kia, gỡ được rồi cùng bỏ chạy hết ra ngoài. Tẻo gầm gừ, chừng mắt đuổi theo, cho đến khi mấy cô công nhân chạy đến, ôm ghì và lôi Tẻo về khu nhà nữ công nhân. Anh cũng hoảng, lần đầu tiên biết thế nào là điên tình.

-Giá cứ sống ở quê, tuổi này như em chắc con bồng con bế cả rồi. Nghe nói ở quê, chiến tranh hết, mấy năm nay, bộ đội phục viên, xuất ngũ về đông lắm. Dẫu chẳng được người lành lặn, thì thương binh, cụt chân cụt tay cung chả sao, miễn là còn cái ấy... Lan nhìn anh cười - Biết đâu lại vớ được chàng trung úy cũng nên,- và cô cất tiếng hát đùa “ tình tang tình, em đi rình trung úy…”

Cô cười to khiến anh bật cười theo, thú vị :

- Người như em, kiểu gì mà chẳng lấy được chàng trung úy, mà thiếu tá cho oách, em ơi... Nhưng mà thôi, chẳng lẽ. giờ bỏ về? Chịu khó ở đây săn một chàng kỹ sư nào đó, em ạ.

- Vậy à? Em chẳng tin – Cứ  hết đợt sinh viên này về, rồi đi... rồi lại đợt khác, mà có đứa nào bắt chết được ai đâu... Giọng cô buồn hẳn – Đấy, cứ như cái Duyên, anh biết rồi đấy, xinh và duyên thế, năm trước có một chàng kháu đáo để, ngỏ lời yêu nó. Những tưởng mặn nồng, cưới nhau đến nơi rồi, mà nó cũng được chàng đưa về tận thủ đô thăm nhà, giới thiệu với cha mẹ... Nhưng rồi, nàng trở lên, ỉu xìu, thất tình, nghe nói chàng vẫn thiết tha lắm, song cha mẹ thì đâu có chấp nhận cô con dâu là công nhân chăn bò nơi xó xỉnh rừng xanh núi đỏ, cơ chứ?...

Lan bỏ lơi câu chuyện, nhưng thấy anh lặng lẽ cời củi bếp, lại tiếp:

- May mà, còn chưa kịp vác cái trống ỏng, kẻo ê mặt mà lại nuôi con một mình – Lan chép miệng – Cũng chẳng biết thế là may hay không... Có khi, có thai, kiếm được đứa con, nếp tẻ gì cũng được, phòng thân, ngộ nhỡ sau này “chống ề” thì cũng có đứa con nương tựa tuổi già...

Quả là, chuyện này, anh không dễ nói, vì chính anh nay cũng đã thành người của câu chuyện đó rồi. Biết nói gì, thanh minh cho người ta à? Còn anh thì sao, nếu ở vào hoàn cảnh như chàng sinh viên nọ?

- Anh biết không, có mấy chị lơn lớn tuổi ở đội này, cũng đang nuôi con một mình đấy. Anh để ý, có vai ba ngôi nhà tranh bên rìa đường đi vào bản người Mông, là nhà của các chị ấy đấy. Nhỡ có con rồi , sinh hoạt tập thể cũng khó, nên Nông trường cám cảnh, cho mượn đất làm nhà tạm để ở... - Lan tiếp câu chuyện.

- Thế có biết cha mấy đứa trẻ là ai không? Họ có biết và quan tâm đến chuyện này không? Anh thăm dò.

- Em cũng chẳng rõ nữa ...- Cô xa xôi, rồi giọng tự nhiên đanh lại – Thà có con rơi với các chàng sinh viên, còn đáng hơn có con với con khỉ đột gớm giếc ở đây...

- Là em... muốn nói tới tay Thiết, đội trưởng phải không? Anh dò đoán vì ít nhiều nghe mọi người rì rầm về con người này.

- Đồ khỉ đột. Gớm giếc lắm... – Cô như nghẹn giọng - Hắn chăn bọn con gái, nhất là đứa nào người gợm mặt mũi sáng sủa chút,… hắn giống như chuyện con dê đực, sáng ra đứng cửa chuồng canh từng con cái một để làm cái chuyện súc vật ấy..

- Đến vậy sao? Anh ái ngại, so người, bất lực. Chẳng hiểu Lan có nhìn thấy bộ dạng và cử chỉ của anh không?

- May mà, năm nào cũng có những đợt sinh viên về đây thực tập. Có các đoàn khách, lão ta đành bớt đi, giả bộ xởi lởi, là sợ mang tiếng này nọ đấy thôi. Còn không, chỉ có người ở đây với nhau, lão ấy dữ lắm, như quỷ ám ấy, anh ạ. Các anh về đây bao lâu, bọn em được dễ thở và thoải mái bấy nhiêu... Ngay như tối nay, vì lão ấy nghĩ em trực cùng một nhóm vài ba người, chứ mà biết chỉ còn em và anh thôi thì thế nào lão ấy cũng mò ra... Mà cũng chả biết đâu, lão ấy lại lù lù xuất hiện ngay bây giờ, cứ như ma xó ấy - Cô nói giọng ớn lạnh, anh nghe cũng gai người.

- Chắc là... lão ấy thích em?... – Anh nói nhỏ và có gì đó như ghen tuông - Đúng thế chứ ?...

- Cũng chẳng rõ ... Em ghê sợ lão ta – Em chẳng được cứng cõi như cái Duyên, nó đã thẳng thừng cự tuyệt lão ấy. Lão ấy thích nó lắm. Không xơ múi gì, nên lão ấy căm nó, anh ạ. Em thì ... em, cứ sờ sợ là...

- Sợ gì lão ấy, còn có ... mọi người - Anh xuýt buộc miệng- còn có anh,- thì kịp ngưng, đổi cách nói.

Thực tình, anh làm gì có sức, có quyền, có điều kiện và kể cả sự can đảm kiểu “người hùng cứu mỹ nhân” cơ chứ?!... Vả lại, anh có định ăn đời ở kiếp đây đâu, chẳng qua, vài tháng thực tập rồi về. Hoặc giả, có anh hùng anh trưởng, ra mặt bệnh vực cô thì chỉ tội mua thù chuốc oán cho cô mà thôi. Nghĩ vậy, máu yêng hùng trong anh dịu lại. Lan chuẩn bị xong công việc, cô lấy đâu ra mấy bắp ngô, củ sắn, ra bếp lửa ngồi bên anh, lặng lẽ cho ngô và sắp vào bếp than hồng nướng.

- Thức đêm là hay đói lắm anh à. Anh em mình chịu khó nướng, lát nữa ăn – À, nếu có bò đẻ, mai kia em sẽ chiêu đãi anh món sữa đầu. Ngon lắm anh ạ. Anh đã ăn sữa đầu bao giờ chưa? – Rồi không đợi anh trả lời –cô liến thoắng – Sữa đầu không lấy làm thương phẩm được vì nó quá nhiều chất béo, dễ sinh men làm hỏng sữa, nên mọi người được lấy ăn thoải mái. Chỉ cần nấu chừng khoảng bảy, tám mươi độ là nó đóng bánh đặc sệt lại, bổ và ngon tuyệt.

Anh và cô, lặng lẽ nướng ngô sắn. Anh liếc trộm, má cô đỏ hồng lên, gương mặt tròn xinh có phần quyến rũ, mắt to đen nhìn vào ngọn lửa đầy xa xôi. Lòng anh dâng lên một mối thương cảm. Bản thân, anh đã trải qua mối tình đầu, từng thất tình và thất vọng, anh hiểu được sự trống vắng, cô lẻ. Cứ mãi nơi này, tìm đâu ra một bóng đàn ông cho ra hồn? Rồi anh lại tự hỏi mình, với Lan, tình cảm của anh ra sao? Anh có thích cô không? Rõ ràng là có. Nhưng anh cũng thích và còn để ý đến Duyên, đến Hương. Vậy tức là anh chơi trò phiêu lưu theo kiểu tìm cảm hứng tình cảm thoáng qua rồi. Thực lòng, anh có bị cuốn hút bởi vẻ đẹp lành  lạnh, xa cách và bí ẩn của Duyên, song anh cũng thích sự thân thiện, xởi lởi, chân thành và sự khỏe mạnh đầy nữ tính của Lan. Còn về tương quan, rõ ràng, anh và Lan hay chuyện trò và gấn gũi, thân tình với nhau hơn. Giờ đây, anh được ngồi sát bên cô, cảm nhận được sức hút, mùi vị đàn bà từ nơi cô, trong một phong cảnh nên thơ huyền bí như ảo, đồng cỏ mênh mông chìm trong sương đêm, se lạnh, trăng muộn cuối tháng mờ tỏ đầu núi, bếp lửa bập bùng... Cảm nhận sự gần gụi, anh lại nghĩ xa... Lúc mới lên đây, còn ở nhà khách Nông trường Bộ, anh đã từng bắt quen với một dược sĩ nghiên cứu sinh điển trai  lịch thiệp đang là nghiên cứu sinh về cây dược liệu cho đề tài Phó tiến sĩ của anh ta; rồi anh cũng đã xem đoàn làm phim lên đây quay nhiều cảnh cho bộ phim truyện về đề tài vận động người Mông vào nông trường, với cô diễn viên xinh đẹp thủ vai chính; rồi chính anh, bắt gặp chàng dược sĩ và nàng diễn viên xinh đẹp sóng đôi tình tứ đi chơi đêm hút bóng vào đồng cỏ; lại cũng anh, chứng kiến cảnh một anh chàng cao to đẹp giai râu quai nón như tài tử xi-nê nước ngoài, từ Hà Nội lên, chẳng rõ là chồng hay người yêu của nữ diễn viên nọ, cãi cự nhau, động thủ kiểu ghen tuông... Tình yêu và tình dục, là vậy ư?... Giờ đây, anh và cô, như hút vào nhau. Ban nãy, cô đã đùa trêu anh, tên là Mạnh nhưng lại đầy thư sình và nhát quá đấy thôi... Cô cũng nói chuyện, nhiều chàng sinh viên về đây, khi về xuôi đã để lại giọt máu rơi của mình,... rồi cả chuyện, các nữ công nhân chủ động kiếm đứa con phòng nương tựa sau này... lại cả chuyện tay Thiết quỷ ám, luôn rình rập, gạ gẫm các nữ công nhân, trong đó có cả cô... Hẳn là, cô có ý bóng gió, xa xôi? Chắc là, cô đang muốn điều gì đó ở anh?

Lan lấy ra ngô và sắn  đã chín – Anh ăn đi, nóng mới ngon – Giục anh ăn, cô thừ người, rồi như nén tiếng thở dài, cất giọng hát một đoạn chèo điệu sử rầu buồn thảm, trong vở Quan âm Thị Kính, khi Thị Kính phải đi xin ăn để nuôi con của Thị Màu… Anh ăn ngô nướng, nghe mà lòng nghẹn thắt, khó nuốt... Có gì như trách cứ, ai oán... Cô trách anh sao?  Trong khi anh lại ý thức trách nhiệm, vì nhà trường đã phổ biến nội quy thực tập, đặc biệt lưu ý, các sinh viên nam phải giữ mối quan hệ nghiêm túc, đúng mực với các nữ công nhân nông trường, tránh việc quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân, và nếu ai vi phạm, tuy mức độ mà xử phạt, có thể không cho thi tốt nghiệp, hoặc đuổi học. Nghĩ mà kinh.

Cô bỏ lửng câu hát, nín thinh, rồi nghe như có tiếng nức nở. Anh se sắt thương cảm, lại có gì đó bừng dậy sức nóng đàn ông...

- Thương Thị Kính, anh nhỉ ... nhưng Thị Màu còn tội nghiệp, đáng thương hơn, ... nàng ta có lỗi gì đâu... anh nhỉ?...- cô cảm động.

Anh bừng tỉnh, choàng tay qua người cô, kéo riết về phía mình– Không sao mà – Anh chỉ nói được có thế - Cô ngả hẳn đầu vào bờ vai anh. Anh vuốt tóc, chạm vào má cô, cảm nhận được những giọt nước mắt. Bàn tay cô dẫn dắt bàn tay anh tìm kiếm... Anh mụ mị đi và hai người xoay lại ập vào nhau, nụ hôn dính chặt, những cánh tay xoắn xuýt, cái ghì xiết lại...

- Ôi thôi chết,... – Cô bừng tỉnh, gỡ môi khỏi cái hôn nghẹt thở, ngơ ngác, thất thần... – Anh ơi, con bò sắp sinh rồi !...

Cô vùng khỏi vòng tay ôm của anh, cuống quýt, chân tay luýnh quýnh như thừa, không biết phải làm gì. Anh choáng váng, vẫn u minh chưa hiểu ra sao. Cô giục anh:

- Anh vào đây, giúp em với, bò mẹ đang sinh. Em vừa thoáng nghe tiếng bò mẹ, em biết...

Cô chạy vội vào chuồng ngay cạnh đấy, nơi nhốt con bò mẹ đang sinh, khi anh vào đến nơi, thấy cô đang loay hoay, đỡ phần đầu và hai chân trước con bê đã thòi ra giữa hai chân sau con bò mẹ. Chấn tĩnh, cô tỏ ra thành thạo với công việc, anh thì loanh quanh vòng ngoài, chờ cô sai bảo việc gì thì làm theo việc nấy. Tự thân, thấy ngường ngượng, nghĩ mình sắp thành kỹ sư rồi, ngoài mớ lý thuyết suông ra, thực tế công việc thì phụ giúp cho cô không xong. Ca sinh suôn sẻ, chú bê ra ngoài, lóng ngóng một chút cũng đứng lên được khi cô nâng đỡ. Bò mẹ liếm láp cho con vẻ an lành, trìu mến, và bê con đã biết rụi đầu vào bụng, tìm vú mẹ.  Cô dọn dẹp cho sạch sẽ. Anh quay lại bếp lửa thì khẽ giật mình khi thấy tay Thiết đội trưởng đã lù lù ngồi đấy rồi. Anh khẽ chào. Hắn nhìn anh bằng con mắt rưỡi, đầy vẻ dò la, nghi ngờ, mặt lạnh như tiền bảo:

- Tôi đến đây từ nãy, không đánh tiếng, thử xem anh chị làm ăn thế nào. Ca đẻ suôn sẻ nhỉ. Được đấy, cô Lang ơi...

Hắn nói to, gọi cô bằng tên tục. Lúc ấy, cô mới biết sự có mặt của hắn, và vâng dạ cho qua chuyện. Hắn nhìn anh chằm chằm, ỡm ờ:

- Này cậu, ca trực của sinh viên các cậu tối nay, tưởng có mấy người cơ mà, sao lại chỉ mỗi mình cậu vậy?

Anh giải thích sơ qua lý do sao lại có mình anh trực, hắn ngúc ngắc cái đầu nhỏ như chim sẻ, nhìn cô, dò trống không:

- Chắc không có chuyện gì chứ ? Cô, cậu?

- Chuyện gì là chuyện gì ạ? Em không hiểu – cô bình thản, và hình như cô cố giấu đi cái cười mỉa.

Anh không sợ gì hắn, nhưng trong lòng cũng sinh ái ngại. Hồi nãy, nếu bò mẹ không sinh con đúng lúc ấy, thì không biết, trong vòng ôm của nhau, anh và cô sẽ ra sao ? Rồi hắn xuất hiện, bắt quả tang hai người... và làm toáng lên... rồi nữa, chuyện này sẽ đi đến đâu?... Anh nhìn cô, nhìn hắn, cố làm như vô sự. Hắn bảo:

- Thôi khuya rồi, công việc cũng xong rồi... Cậu về đi, không phải trực nữa. Tôi đợi cô Lang dọn dẹp xong rồi về sau – Hắn đuổi khéo anh.

Điều anh lo ngại, là anh về rồi, chỉ còn hắn với cô, hắn sẽ làm gì cô? Cưỡng bức chăng, khi rõ ràng hẳn tỏ ra ghen tức với anh, và thái độ của hắn có gì đó đầy mưu mô, thủ đoạn? Anh nhìn cô dò hỏi. Cô vẫn bình thản, lấy mảnh giấy báo, gói mấy bắp ngô và củ sắn đã chín, đưa cho anh, nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như ra hiệu rằng hãy yên tâm:

- Xong cả rồi, anh Mạnh về đi, anh cầm cả gói ngô sắn nướng này về cho mấy anh chị sinh viên cùng ăn. Em cũng xong ca trực rồi, về luôn đây. Anh yên tâm, em không sợ ma đâu... – Cô bật cười – mà có anh Thiết đây,…ma nó cũng sợ mất vía. Anh Thiết nhỉ?

- Vâng... hắn xẵng giọng – Các cô ở đây, tôi thấy, có cô nào sợ ma đâu,... Còn cô, ma nó sợ cô thì có...

Anh ôm bọc ngô sắn trong tay, bước thấp bước cao. Quãng đường từ trại trực về chỗ anh ở chỉ già trăm mét mà anh đi mãi, bởi chốc chốc, lại ngoái đầu nhìn về hướng trại, nghe ngóng, xem có động tĩnh gì không. Về đến khu nhà ở, anh nép vào đầu hồi ngầm quan sát, cho đến khi nhác thấy bóng hai người đi về gần đấy, và anh nghe tiếng cô nói chuyện khá to, cứ như là thầm báo với anh, rằng cô không sao, chằng có chuyện gì xảy ra…

Đêm ấy, anh mất ngủ, đầu óc cứ ong ong những gì vừa xảy ra ... Anh thiếp đi và bừng tỉnh dậy, lắng nghe, trời còn tinh mơ. Anh nhẹ ra khỏi giường khi mọi người vẫn còn ngủ. Mở cửa nhìn ra, trời đất thảo nguyên ban mai thật tinh nguyên...

 

 

           

            Cũng như đêm năm nào, anh khó ngủ, cứ miên man trôi dạt trong dòng ký ức. Đêm năm nao mất ngủ, khi ấy, anh chộn rộn bởi sự bột phát tình cảm và lo lắng cho cô bị tay đội trưởng ma quỷ xâm hại. Giờ đây, là sự thức dậy của tiềm thức và sự chiêm nghiệm cuộc đời. Anh đã trải qua những mối tình, được mất, cuộc sống cũng thành bại, đây đó. Cao nguyên châu Mộc không còn sự tinh khiết, trinh nguyên và hoang sơ của ngày xưa, mang vẻ đẹp mộc mạc của cô gái quê pha chút rung núi, còn bây giờ có vẻ đẹp của sự kiến tạo, kiểu vẻ đẹp của thiếu phụ biết son phấn ăn diện và làm dáng. Non sông thay đổi là thường tình, nhưng lòng anh thì đã đằm một châu Mộc xưa cũ rồi.

          Mươi năm gần đây, do tính chất công việc, năm nào anh cũng ngang qua vùng đất thảo nguyên này vài ba lần. Cũng có đêm ngủ lại, cùng đó là các cuộc rượu say nghiêng ngả. Nhớ có lần, trong một tiệc vui, anh có khoe, mình đã từng thực tập ở đây, rằng này nọ. .. Chuyện sinh ra chuyện, có một cậu thanh niên điển trao nhận vui, bảo:” Này bố…có khi bố là bố đẻ của con đấy… Ngày xưa, bố thực tập ở đội ấy chứ gì, mẹ con cũng là công nhân ở đội ấy đấy… Tính thời gian bố ở đấy, so với tuổi con hiện nay, rất có thể, con là con rơi của bố, bố ơi !...”. Rồi cứ một lần gọi “Bố”, cu cậu lại chuốc anh một chén rượu. Hăng lên, anh cũng gọi cậu ta là “con”, rồi cả tiệc cụng ly, reo hò rôm rả, bảo chúc mừng cho bố con nhận nhau. Lúc say, cu cậu rụi đầu vào vai anh lè nhè: “Bố ơi, bố còn miếng đất nào ở Hà Nội không? Bố cho con nhé… Con sẽ đưa mẹ con về dưới ấy… sống cả đời trên này,…chán lắm rồi, bố ạ… Cho bõ cái công, bố bỏ rơi hai mẹ con ngần ấy năm trời…”. Anh say, cứ ầm à cho qua chuyện. Cu cậu nhè nhè: “Hay là…Bố sợ con đòi đất à?... Thôi, đất cát, chuyện ấy tính sau… Hôm nay, nhân bố con mình gặp nhau,… bố là bố cứ kỷ niệm thằng con giai bố quả máy ảnh G11 này,..”. Miệng nói, tay cu cậu giằng giằng chiếc máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực anh. Chuyện vui là vậy, nhưng anh cũng đã ngầm hỏi đây đó, xem còn dấu tích gì của Lan không. Nghe đâu, cô lấy chồng vài năm sau đó, giờ nhà cửa con cái ở đấy, cũng gần nơi đội sản xuất cũ. Giờ đây, nông trường sản xuất tập trung xưa cũ không còn, thay vào đó là công ty cổ phần, đât đai, nương chè, đồng cỏ, bò sữa đều giao khoán hộ. Chuyện về cô nghe vậy, song chẳng rõ thực hư, nhưng thời gian quá lâu, nên giờ đây nghĩ lại, chỉ chút xao lòng, nhẹ như một tiếng thở dài…

          Khó ngủ lại hay dậy sớm. Sáng ra, anh tỉnh ngủ, kéo của kính phòng nơi tầng cao khách sạn, nhìn ra xa. Vẫn còn đó những cánh đồng chè, nhưng nhà cửa đã san sát. Cứ tốc độ này, nếu không gìn giữ, thì chẳng mấy Châu Mộc sẽ mất đi thứ quý nhất, ấy là khí hậu cao nguyên đặc trưng, sương mù và se lạnh ngay giữa mù hè. Anh nhìn quanh quất, thử tìm hướng đi vào đội sản xuất năm xưa anh thực tập. Anh mất phương hướng bởi giờ đây chẳng còn gì dấu vết xưa. Cảnh thay thì người cũng đổi là thế.

          Sau bữa ăn sáng, anh cán bộ địa chính đến khách sạn, đón đoàn của anh đi thăm khu di tích Trung đoàn Tây Tiến mới được xây dựng vài năm nay. Rồi nữa, ghé thăm thác Giải yếm, một thác nước rất đẹp đang được khai thác thành khu vui chơi giải trí. Gần trưa, cậu cán bộ địa chính mới đưa Quân đi tìm đất mua làm trang trại. Loanh quanh vài ba chỗ, Quân xem có vể không thích. Định thôi thì chợt anh cán bộ địa chính nhớ ra, dẫn mọi người loanh quanh một hồi nữa, đến một khu vườn trại, phía trước là tường cao, có cồng ra vào chắc chắn. Người chủ bán đất vưa kịp phóng xe máy đến, dẫn Quân và cậu địa chính vào xem đất vườn. Nắng lên, mệt vì đêm qua mất ngủ, anh ngồi lại trong xe, lim dim ngủ. Chợt anh nghe tiếng người nói to, choàng tỉnh. Nhìn ra, trước cổng vườn, Quân và anh địa chính đang nói chuyện với nữ chủ vườn. Nhìn kỹ, anh ngây người bởi cô chủ giống Lan quá. Lúc nãy, cô mặc áo chống nắng, kính râm và mũ bảo hiểm che kín nên anh không tường mặt. Có lẽ nào là Lan, cô công nhân anh quen biết ngày nào? Người thì giống, tính độ già đi sau từng ấy năm cũng tương đồng. Duy chỉ có tên thì không đúng. Anh nghe rõ cậu địa chính gọi chủ vườn là Linh. Còn cô, tên Lan, và gọi theo tên tục là Lang, đâu phải là Linh. Không phải chăng? Hay cô lại đổi tên? Hoặc giả, vì lý do nào khác nữa?

          Anh chộn rộn, khó tả. Chưa định thần, thì mọi người chào chia tay nhau và cô chủ đóng cổng khuất vào bên trong. Trở lại xe, Quân khen đất được, nhưng mua hết thì nhiều tiền quá. Quân phân vân, bảo sẽ rủ người chung vốn mua cả khu vườn trại, rồi vui miệng rủ anh. Hay là, anh nảy ý định, nếu Quân quyết, anh sẽ chung mua. Biết đâu, gặp lại, đúng là cô ấy?...

          Ngày ấy, anh không quên Lan. Sau đêm đó, chừng hơn nửa tháng, nhóm của anh rút về Nông trường Bộ, thị trấn Nông trường ngày nay. Có lần, trước khi về xuôi, anh và mấy đứa bạn thân rủ nhau đi thăm bản người Mông. Bọn anh đi nhờ được xe tải của quân đội. ngang qua đó, song lúc về, phải đi bộ, anh nán lại, tranh thủ ghé vào thăm. Chỉ gặp Duyên và Hương, còn Lan lại ra chơi thị trấn thăm nhà người quen từ sang, chưa về. Không gặp lại cô, anh buồn, không hẳn vì nhớ nhung tức thì, song ít nhiều, anh và cô có điều riêng với nhau để mà nhớ mãi về sau…

          Kết thúc đợt thực tập, anh cũng không gặp lại Lan. Thực lòng, anh e ngại và chưa đủ sức mạnh tình cảm để một mình trở lại đó, chia tay riêng với cô. Khi về trường, anh có viết vài bức thư gửi lên, trong đó có thư cho Lan. Và cũng chỉ riêng cô hồi đáp thư  anh. Thư ngắn gọn, nét chữ to tròn, ngồ ngộ. Nội dung, tình cảm chung chung và có gì đó xã giao, anh cố tìm nhưng không thấy chút gì riêng tư ở đó. Và câu chuyện chấm dứt, khi anh gửi cô thư nữa, nhưng không có hồi đáp. Cũng có thể, anh tốt nghiệp ra trường, nên thư cô gửi lại thất lạc chăng? Và rồi, trước khi nhận quyết định vào Nam công tác, anh gặp lại người bạn học cũ ở Hà Nội, là giáo viên đi nhận công tác ở một trường học gần quê anh. Anh đi xa, để lại sau lưng, một người mẹ già, và một mối tình với người bạn giáo viên ấy…

          Rồi anh cũng thất bại trong chuyến đi xa và mối tình để lại. Lại những cuộc kiếm tìm mới, anh lập gia đình khi đã cứng tuổi. Thi thoảng, anh vẫn nghĩ đến cô, phảng phất như một một lặng buổn xưa cũ…

          Giờ gặp lại nhau ư, rất có thể là vậy? Nhưng chẳng để làm gì, anh còn nhớ đến cô, song chắc gì cô còn nhớ đến anh.

          Hay chăng, cứ để câu chuyện cũ là một ký ức đẹp và buồn!... ./.

 

 

 

Một ngày ở quê

 

                                     

          Tôi nhận được giấy mời từ quê do trưởng thôn ký, đại khái thông báo việc tổ chức lễ khánh thành đình làng sau một thời gian tu sửa. Vợ tôi bảo: “ Chuyện đình đám thờ cúng là việc hệ trọng. Nhà mình cũng phải góp thêm ít tiền công đức nữa chứ...”. Tôi gàn, bảo về trước dự lễ xem sao đã, rồi tranh thủ thắp hương mộ các cụ, để cuối năm xây lại mấy phần mộ lâu năm đã bị hư hại nhiều.

          Thế là tôi về quê. Tiện và sướng làm sao, xe buýt tuyến ngoại tỉnh cứ dăm phút một chuyến, mà đi nửa chặng hết có hơn chục ngàn đồng. thêm một cuốc xe ôm chừng ba cây số mới tới quê. Cậu xe ôm chở tôi mặt non choẹt đòi đắt gấp rưỡi. Tôi chê đắt thì cậu ta cười khơ khớ: “ Bác ơi, cháu hữu nghị lắm rồi đấy… Cháu chở hội cờ bạc, cũng từ thành phố về đây chơi, gấp đôi gấp ba họ cũng ok. Họ thua được cả trăm triệu ấy chứ, đâu thèm ỉ eo mấy đồng bạc bọ”. Tôi không ngạc nhiên về những chuyện cờ bạc, ma tuý, kao-rao-kê và mại dâm về quê, song cũng hơi ngạc nhiên bởi không ngờ qui mô sòng bạc ở đây lại lớn đến vậy. “Thế chính quyền địa phương, và công an ở đây không ra tay à ?”. Cậu xe ôm ôi dào to tướng:” Bác ơi, chúng mua hết cả, nhưng  rồi cũng toi!...”. Tôi cứng lưỡi, chẳng biết nói gì. Cậu xe ôm thấy tôi im lặng, lại bắt chuyện: “Bác quê đây à? Thôn nào đấy?”. Tôi trả lời, cậu ta bảo: “Đúng rồi, hôm nay, thôn ấy hội làng, khánh thành việc tu sửa đình làng, nghe đâu trước đó còn xây cả nghè tiến sĩ nữa. Trống phách ầm ĩ từ chiều qua,”. Tôi ừ hữ cho qua chuyện. Vào làng, tôi bách bộ ra thẳng sân đình vì muốn dự chính lễ. Vừa kịp, sân đình cờ quạt, trống chiêng tưng bừng khai lễ…

 Đình làng tôi thờ Thành hoàng là Thái sư Lý Đạo Thành, một nhân vật lịch sử quê châu Cổ Pháp, Kinh Bắc, từng là trụ cột dưới hai triều vua Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Vốn là người thông minh dĩnh ngộ, tài cao đức trọng, thanh liêm chính trực, đương thời, khi vua Lý Thánh Tông xuất kinh đi đánh dẹp quân Chiêm, ông và Nguyên phi Ỷ Lan đã được nhà vua giao nhiếp chính. Sau này, khi nhà vua băng hà, Lý Nhân Tông lên ngôi lúc mới bày tuổi, ông cùng hai vị Hoàng thái hậu là Thượng Dương và Linh Nhân Ỷ Lan cùng giúp vua bé việc triều chính thì xảy ra sự chia rẽ, tranh giành quyền lực và sự chi phối nhà vua giữa hai vị này. Ông đứng về phía bà Thượng Dương, trong khi Thái úy Lý Thường Kiệt nghiêng về bà Linh Nhân Ỷ Lan. Cuộc tranh giành phân định, bà Linh Nhân Ỷ Lan là mẹ đích của vua Lý Nhân Tông, thắng thế, bà Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ của vua cha phải chết, còn Thái sư Lý Đạo Thành bị giáng chức và bị biếm vào quản xứ Nghệ An, cho đến khi quân Tống xâm lược, mới được gọi về triều phục chức và ông góp công lớn trong việc đánh thắng giặc Tống và ổn định triều chính, đặc biệt là các chính sách phát triển dân sinh. Lý Đạo Thành chết trẻ, sau được phong làm Thành hoàng ở nhiều làng mạc quanh vùng Kinh Bắc, trong đó có làng tôi. Nhiều đời nay, dân làng lấy làm tự hào vì được thờ phụng vị Thành hoàng dày công đức với dất nước và dân chúng. Chính vì vậy, sau nhiều năm. ngôi đình được sử dụng làm kho chứa, rồi lớp mầm non, khi phong trào khôi phục các chùa chiền, miếu mạo nở rộ, nhất là khi ngôi chùa cổ Linh Hương ở làng bên được tôn tạo thì bà con hô hào, hùn nhau đóng góp công đức, khôi phục lại đình làng.

          Tôi tìm đến bàn ghi công đức, thực hiện nghĩa vụ, rồi quay ra xem lễ, một vài người làng cao tuổi nhận ra tôi gật đầu, mìm cười chào. Bỗng có ai đó vỗ nhẹ vào vai tôi, ngoảnh ra, thì ra Đăng, một người em họ bên bà nội tôi. Lâu rồi mới gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Hai anh em đứng xem lễ một lát, Đăng rủ tôi ra ngoài cầu sông chuyện trò cho đỡ ngột ngạt. Có lẽ,  mấy chục năm rồi, tôi mới ra lại cầu sông cửa đình này, nơi lưu giữ bao kỷ niệm tuổi thơ tôi ngày còn đi học, khi nhà tôi từ Hà Nội chuyển về quê sinh sống những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Cầu sông đã xây mới, không còn sứt mẻ ngày nào, nhưng nước sông mùa cuối năm cạn gần đáy và lên mùi khó chịu. Riêng cây đa già cỗi thêm, nhưng thân cành chẳng mấy sum suê, còn cây bàng tơ ngày xưa đã dần thành cổ thụ. Chẳng gì cùng một phần ba thế kỷ đã qua. Đăng cười bảo:

          - Bác à, chẳng hay bác có rỗi rãi thì ở quê vài ngày... lâu lâu anh em mình mới gặp nhau, chuyện trò cho đã những năm tháng xa...

          - Mình định chiều ra lại Hà Nội. Lát tranh thủ ra đồng thắp hương mộ ông bà và các cụ...

          - Bác ạ, em đề nghị thế này... Bác cứ xong việc hương khói đi. Chiều nay về nhà em chơi, mừng cho em có cái nhà mới khang trang, tối nay bác ngủ lại nhà em một đêm, anh em mình làm dăm chén rượu, chuyện trò đôi câu... là em còn có chuyện muốn thưa với bác, lại cũng muốn xin ý kiến bác một việc quan trọng,...

          Thấy tôi ầm ừ định từ chối, Đăng dấn tới:

          - Hay bác chê nhà em nghèo, nông dân chính hiệu? Bác đồng ý đi cho em vui – Đặng cười cầu tài – Bác không biết đấy thôi, cháu nhà em nó nối mạng, lập cho em cái Phây-búc, là để tiện vào mạng xem tin tức thời sự, xã hội,... Bác ạ, em vẫn mò vào đọc trộm cái Phây-búc của bác đấy. Gớm, thơ văn bác lai láng, chuyện làng quê, chuyện tình tang đủ cả... Em thực sự kính phục bác đấy.

          Biết là khó từ chối, nhất là ngại việc Đặng nghĩ mình chê bai này nọ. Nghĩ bụng, cái nhà tay Đăng này thật khéo nói, nhung mà cũng không phải là người lẻo mép. Trong số những người cùng lứa với tôi, ở lại làng, Đăng là người có kiến thức nhất. Thời chiến tranh, Đăng nhập ngũ, làm y tá y sĩ gì đó, phục viên về, làm ở Trạm y tế xã, nghe nói có học thêm Đông y, giờ nghỉ, vẫn nhận chữa bệnh ở nhà, cũng là người có uy tín ở làng xã. Thôi kệ, cứ xem sao đã... Mình hay phải đi đi về về làng xóm, cầu thân với người như vậy, âu cũng là cái hay.

          Tôi tha thẩn bày lễ, thắp hương trên mộ ông bà nội, cha mẹ ở nghĩa địa làng, đợi tàn hương hóa vàng, ngồi tạm ở Nghè tiến sĩ đợi. Cuối làng tôi, đường ra cánh đồng rộng, ngoài nghĩa địa làng, có có đôi giếng đất cổ, và ở mỗi giếng đất, trên bờ có một cây si và một cây đa, tuổi cây đến nay cũng ngót trăm năm rồi. Hai giếng đất này ngày xưa làng chuyên lấy nước về ăn, đến khi xây dụng hợp tác xã nông nghiệp, làng có phong trào giếng khơi, mỗi nhà đều đào riêng, nên giếng đất chung bỏ không dùng, lâu ngày thành ao tù nước đọng. Còn nghè tiến sĩ thì làm mới, cũng là mong muốn phục hồi cái sự học, bởi ngày xưa, thời Lê Trịnh, làng từng có một vị đậu Tiến sĩ...

@

 

          Ngày nhỏ, khi từ Hà Nội chuyển về quê sinh sống ngày năm đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ, trong căn nhà mái rạ tường đất, để cho con biết lịch sử và văn hóa làng, bố tôi, thưởng kể chuyện cho tôi nghe. Bao nhiêu là chuyện, nay tôi quên nhiều, nhưng chuyện này thì tôi nhớ lắm...

          Rằng Thành hoàng làng tôi thờ ở đình là Thái sư Lý Đạo Thành, một vị quan đầu triều tài ba, thanh liêm, đức độ. Song không chỉ vậy, làng tôi, ngay gò đất cao cổng khu đất cũ của ông nội tôi do các cụ xưa để lại, đồn là nơi trú ngụ của một vị thần giữ của. Mà thần giữ của này, tục gọi là Cô Yêu, thường hiện lên dưới hình bóng đàn bà quần áo trắng toát, đầu đội nón thúng quai thao, dật dờ tha thướt, như kiểu chị Hai đi hội Lim quan họ, vào những đêm trăng suông sương mở. Với hình bóng ấy, Cô Yêu là nỗi ám ảnh cho hết thảy những ai hay phải đêm hôm khuya sớm. Không những thế, Cô Yêu không ai thờ cúng, nên đói khát, hay trêu ghẹo, quấy đảo người trần, nhất là đám trẻ con trong làng vốn leo trèo bẻ cành hái hoa quả dại nơi gò đất Cô trú ngụ. Đồn rằng, nhiều đứa trẻ bị Cô Yêu làm ốm, nhưng khi nhà chúng sửa lễ cúng và cầu khẩn, là Cô cho khỏi liền. Ông nội tôi, một nhà Nho được xem là nhiều chữ nhất hàng xã, thì cử mấy khoa thi cuối cùng của Triều Nguyễn, đều thất bại. về mở lớp dạy chữ Nho tại gia, thấy như vậy lấy làm bực tức, bèn đánh tiếng thách Cô Yêu. Thế là một đêm trăng suông mùa hè, Cô Yêu hiện hình băng qua đám học trò ngủ la liệt ngoài hiên và sàn nhà, chống tay đầu giường nhòm thẳng vào mặt ông nội tôi. Ông tôi bàng hoàng vùng dậy, bám theo, bóng Cô lướt ra sân vườn rồi mất hút vào gò đất. Ngay sau đó, ông cụ cho xây một miếu nhỏ ngay trên gò, tuần rằm mùng một, bày lễ vật hương khói. Từ đấy, Cô Yêu không quấy đảo làm bệnh tật cho ai nữa. Âu cũng là một việc phúc đức. Thế nhưng, ông nội tôi lại bị ám ảnh hình bóng Cô Yêu, thể chất vốn ốm yếu, mấy năm sau nên trọng bệnh rồi mất, khi mới ngoài bốn chục tuổi. Bố tôi bảo, đêm Cô Yêu hiện hình, bố tôi bé tý, ngủ chung giường với ông nội tôi, cũng bị ông tôi lay thức dậy, chỉ cho xem bóng dáng Cô nhưng bố tôi chẳng thấy gì. Bố tôi lớn lên, thể chất mạnh khỏe, tính cách bạo dạn, bảo là, yêu ma thường chỉ bắt nạt những người yếu bóng vía thôi...

          `Chuyện về Cô Yêu không chỉ có thế. Nguyên là, làng bên, giáp với làng tôi, có ngôi cổ tự Linh Hương, được cho là xây dựng từ thời Lý, theo lệnh của bà Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan để sãm hối việc bày mưu sát hại Hoàng thái hậu Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ của vua Lý Thánh Tông. Trải qua nhiều thế kỷ, đến nay, ngôi cổ tự sau nhiều lần hưng phế, vẫn còn một bệ đá khổng lồ hình sư tử đá đội tòa sen được chạm khắc tinh xảo, vốn là bệ tượng Phật Thích Ca màu ni. Kể rằng, bệ đá hình sư tử này, xưa kia là một con sư tử thành tinh ở xứ người từng ăn thịt nhiều người, rồi bị Đức Phật cảm hóa, giác ngộ thành tảng đá. Cơ duyên, tảng đá ấy được chọn chế tác thành bệ Phật hình sư tử đội tòa sen, đặt ở chùa này, tục gọi Sấm Đá. Yên phận theo nhà Phật vậy, nhưng bản năng thú tính xưa vẫn ngọ ngậy, lâu lâu thoát ra ngoài. Tinh Sấm Đá biết được thân phận Cô Yêu xưa vốn là một cô gái vùng đất Quan họ, nổi tiếng xinh đẹp hát hay. Cô gái này con nhà nghèo ở một làng ven sông Cầu, thời Bắc thuộc, thủ phủ xứ ta đóng tại Luy Lâu, nên được một viên quan nhỏ người Tàu, tậu về lấy tiếng làm vợ lẽ. Cô gái được giữ đồng trinh để rồi phù chú thành thần giữ của cho nhà viên quan đó, trước khi về lại xứ Tàu. Tinh Sấm Đá si mê và theo đuổi Cô Yêu, như nợ duyên tình dở dang nảo nao kiếp trước. Khốn nỗi, Cô Yêu chỉ đỏng đảnh đưa tình với Tinh Sấm Đá, chứ thâm tâm, Cô vừa say mê, vừa ngưỡng mộ đến sùng kính vị Thành hoàng làng Lý Đạo Thành, vốn người cùng quê, lại đức cao vọng trọng một thời. Thành hoàng giữ đạo Nho, nghiêm cẩn, không màng danh lợi, tình ái. Và khi bị lâm vào tình trạng khó xử, ngài không muốn phũ phàng, hắt hủi Cô Yêu, mà cũng chẳng muốn gây thù chuốc oán với Tinh Sấm Đá. Cuộc tình tay ba đuổi bắt ấy xuyên qua nhiều thế kỷ, lâu lâu các vị ấy dậy sóng là người làng hoặc lâm vào tính trạng úng lụt, sâu bệnh, mất mùa, đói kém, hoặc dịch bệnh chết người. hoặc xảy ra cảnh giặc giã chiếm làng đốt nhà...

          Chuyện xưa là vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn chuyện Cô Yêu hiện hình đòi ông nội tôi xây miếu thờ, hay chuyện Tinh Sấm Đá gầm lên rung nhà chuyển đất, thị uy oai linh, khi người Pháp cho làm con đường xe lửa Hà Nội-Hải Phòng chạy ngang qua vùng đất này. Ấy vậy, khi cách mạng thành công, chính phủ và nhà nươc dân chủ mới ra đời, thay thế cho chế độ tập quyền nhà Nguyễn, rồi sau này là cải cách điền địa, tiếp đến phong trào văn hóa mới, câu chuyện rắc rối giữa ba vị không còn nữa. Đất vườn nhà tôi được Đội Cải cách lấy đem chia cho các nhà bần cố nông, miếu Cô Yêu bị bỏ hoang, không ai hương khói, thậm chí âm phần bị đào bới tìm của, nhưng Cô Yêu nào thấy bóng vía;  đình làng tôi được trưng dụng làm kho chứa đồ đạc do Đội cải cách tịch thu của các nhà địa chủ về để chia cho dân nghèo, rồi sau biến thành lớp tiểu học, mầm non, trẻ con thài bậy, thành hoàng cũng đâu dám ỉ eo gì; còn chùa cổ Linh Hương làng bên cũng bị đập phá hoang tàn, tượng Phật bỏ trôi sông hoặc vứt nổi dập dềnh nơi ao chùa, bệ tượng Sấm Đá trơ trọi nắng mưa, hàng ngày bị bọn trẻ làng, học trò chúng tôi leo trèo, vẽ bẩn, tè bậy, cũng đâu thấy Tinh Sấm Đá nổi giận... Thế mới hay, cái uy của dương gian, khi mạnh lên thì lấn át tất cả, đến thần thánh linh thiêng, hay yêu ma quỷ quyệt đều bạt vía kinh hồn mà bay ráo!...

 

@

          Dọn lễ hóa vàng nơi phần mộ các cụ xong, trời vừa đứng bóng. Nghe ngóng, nơi đình làng, lễ hội đã tàn, đến phần tiệc tùng, cô bàn. Theo lệ, những nhà có giấy mời, đóng góp công đức, đều được dự tiệc cơm rượu. Tôi ngại, tránh việc ăn uống, vào cửa Nghè tiến sỹ, ngồi ghé, mở túi lấy gói xôi lạc muối vừng và chai nước do vợ chuẩn bị mang theo từ nhà, dùng bữa trưa. Nghỉ cho xuôi bụng, gọi điện báo vợ việc ở lại quê đến mai, tôi thả bộ một đoạn bờ sông làng, như tìm lại dấu vết kỷ niệm xưa thời đi học. Lưng chiều, đợt gió bấc tràn về, trời lắc rắc mưa rét, tôi trở vào làng, tìm đến nhà chú em họ Đăng.

Vẫn nhớ lối vào nhà Đăng, gần cuối làng, con ngõ cũ, chỉ khác là ngày trước lát gạch nghiêng long lở, nay được thay mới bằng mặt bê tông. Tôi dừng trước cổng, hơi ngờ ngợ. Ngôi nhà ngói xây theo kiểu đại khoa, ba gian hai trái xưa, nay thay mới tinh ngôi nhà ba tầng mái bằng. Riêng mấy cây cau thì vẫn cũ, vươn cao hơn thôi. Tôi đánh tiếng, Đăng đon đả ra mở cổng.

          - Bác đây rồi. Vinh dự cho em quá, hôm nay rồng đến nhà tôm đây. Bác không hứa, nhưng em biết thế nào bác cũng ghé em…Tối nay ngủ đây, em chuẩn bị mâm cơm rau dưa, mấy chén rượu nhạt rồi, anh em mình thoải mái bù khú, bao nhiêu là chuyện muốn thưa cùng bác đây…

          Đăng đưa tôi thăm vườn tược, giảng giải về bộ cây Phúc Lộc Thọ kỳ công của mình. Khi tôi có ý khen cơ ngơi thì Đăng cười bảo:

- Chắc bác biết, thằng cháu Thịnh nhà em làm trưởng thôn rồi. Có được cơ ngơi này, bố con em đã phải cật lực làm trang trại vườn ao chuồng gần chục năm đấy bác. Tiền mô hôi nước mắt, chứ không phải tiền tiêu cực, tham nhũng đâu bác nhé.- Đăng cười khoan khoái- Thằng Thịnh nhà em làm trưởng thôn vài năm nay, công xá thế nào em chẳng rõ, chứ khác gì mõ làng xưa đâu. Đúng các cụ ta xưa dạy, ôm rơm rậm bụng, việc nhà nhác việc chú bác siêng, cấm sai câu nào… Nhưng thôi, em bảo cháu, nhận chức rồi thì gắng mà làm, sao cho xứng vời lòng tin làng nước người ta đặt vào mình…Tiếc là, nhà em mất sớm, khi cháu nó chưa kịp xây nhà này, để cho bà ấy được mát mặt với làng xóm…

          Chuyện trò một hồi,… Chiều muộn, mâm cơm được dọn ra, đặt ngay bàn nước, để tôi và Đăng nhâm nhi trước. Đăng rót rượu ra chén, bảo tôi:

          - Mấy khi bác ăn cơm quê. Em làm mấy món quê để bác dùng cho đỡ nhớ. Lòng lợn, giả cầy, dưa cải nén, châu chấu rang bằng nước cà muối lá chanh. Lát nữa cơm, có canh cua và cá rô kho niêu đất.

          - Nhìn và nghe chú nói, tôi đã chảy nước miếng đây này-Tôi đùa, nhưng thực lòng là vậy.

          Thế là tôi và Đặng, cụng ly theo kiểu chén tạc chén thù. Câu chuyện cứ theo đà rượu mà nổ, cũng lúc thăng lúc trầm, khi vui khi buồn. Đặng vẫn hăng chuyện con trai mình được bầu làm trưởng thôn:

          - Bác biết đấy, thằng cháu Thịnh nhà em, tốt nghiệp phổ thông là nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự ngay, được kết nạp đảng trong quân ngũ. Xuất ngũ về, em khuyên theo học trường kỹ thuật nông nghiệp ngay tình nhà, có chút kiến thức, nhận khoán ruộng làm kinh tế trang trại. Thu nhập tốt, có tiền làm cho bố căn nhà khang trang này. Nó cũng nhiệt tình tham gia việc làng xã nên được bầu làm trưởng thôn… Bác ạ, em mừng là cháu nó vận động được bà con đóng góp khôi phục lại được đình làng, để bà con tuần rằm nhang khói, rồi xây mới ngôi Nghè tiến sĩ… Bác tân tiến thế nào em chẳng rõ, em thì cứ nghĩ, bao nhiêu năm dân mình bỏ bẵng, không thờ phụng gì, nên các bậc tiền nhân quở phạt, chẳng cho cái sự học của làng mình khá khẩm lên…

          - Nếu không nhầm, cụ Nghè Quân thuộc chi họ nhà chú, đúng không? Nay con trai chú hô hào việc xây Nghè là phải rồi- Tôi có ý đùa.

          - Bác nói vậy, lại thành ra thiên vị. Đành rằng, cụ Nghè thuộc chi phái bên em, nhưng xây Nghè là muốn cho cái sự học chung của cả làng mình thăng hoa, bác à.

          - Tôi nhớ, ngày nhỏ đi học, bố tôi hay lấy chuyện cụ Nghè Quân ra làm gương, răn dạy tôi gắng học. Là tôi, phải biết ơn cụ ấy mới đúng chứ.-Tôi cười, phân giải - Cụ Nghè là một trong 13 vị đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân triều Lê Cảnh Hưng, khi chúa Trịnh Sâm quyền bính lẫy lừng đấy. Nghe đâu, khoa thi Kỷ Hợi năm 1779 ấy, chính chúa Trinh Sâm giám khảo cuộc Đình thí. Cụ Nghè mình khi ấy mới 26 tuổi, làng mình còn thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc kia.

          - Bác thạo quá-Đăng khoái, giục tôi cụng ly,- Em phải ghi lại điều bác vưa nói, để sau này còn nhắc nhở con cháu.

          - Chú Đăng này, làng mình xưa có người đậu tiến si, duy nhất trong vùng này đấy. Dẫu chẳng thể so với làng tiến sĩ Mộ Trạch, Hải Dương, hay một vài vùng đất khoa bảng ở Bắc Ninh, Nghệ An, thì cũng có thể xem là đất học rồi. Lại thêm, thành hoàng làng mình là cụ Lý Đạo Thành, một nhà khoa bảng lớn, quan đầu triều, thanh liêm đức độ, vậy cũng có thể xem là đất học. Có điều, ngày xưa, chỉ đỗ đạt làm quan mới có cơ lập thân lập nghiệp, thời đại mới, mở ra nhiều con đường, cách thức tiến thân, nên không nhất thiết phải đỗ đạt này nọ… Như cháu Thịnh nhà chú đây, tôi nghĩ cũng là một cách hay để lập thân đấy chứ….

          - Là bác động viên thế thôi – Đăng cười- vẫn là xó nhà, sân đình thôi… cứ phải đi ra ngoài, mở mang đầu óc, cống hiến cho xã hội cơ… Ít ra, cũng phải như bác, nói ra cho cả nước, thậm chí cả thế giới nghe, hay như bác Hạnh, chị lớn nhà bác, là tiến sĩ nông học, lai tạo, thuần dưỡng bao nhiêu là giống cây trồng cho cả nền nông nghiệp nước nhà… Đấy mới xúng là lập thân, thành đạt chứ…

          - Tôi lại nghĩ, học hành, lập thân lập nghiệp gì, nếu không đủ sức cải biến xã hội, thì chí ít cùng phải gặp thời để cống hiến cái sở học của mình, chú ạ…Tôi lầy mấy cụ ra để làm ví dụ nhé… Cụ Lý Đạo Thành, từng bị bà Hoàng thái hậu biếm quan vì thù riêng, nhưng khi được trọng dụng lại, cụ ấy mới có điều kiện đề xuất ban bố nhưng chính sách có lợi về quốc kế dân sinh… Còn cụ Nghè Quân, đỗ đạt vậy, tuy chẳng dám so với cụ kia, nhưng gặp phải thời cuộc nhiễu nhương, tranh quyền đoạt vị, loạn cả xã hội, nói chẳng ai nghe, cái sở học của cụ thành thừa, nên sự nghiệp không mấy kể gì…

          - Bác này,- Đăng có vẻ cung kính- Bác chuyện về các bậc tiền nhân, đành thế, nhưng tiện đây, em có điều này, muốn bác chỉ giáo cho. Sáng nay, bác ra đồng thắp hương các cụ, bác có để ý, hai giếng đất trước Nghè Tiến sĩ không? Bỏ hoang mấy chục năm nay thành ao tù, hôi thối. Ngày trước, sông làng mình hằng năm có nước sông Cái về đầy mỗi mùa mưa lũ, nước tràn vào thau rửa, mươi năm nay mùa nào sông cũng cạn ráo, nước thải các xí nghiệp quanh đây thải ra, đen ngòm tanh nồng. Cứ để vậy, nó ám vào con người. Long mạch làng mình từ đấy chứ đâu. Làng mình đã tôn tạo đình rồi, nghè tiến sĩ cũng xây rồi, nay còn hai giếng đất, mình khơi lại, bó bờ, giữ nước trong, trồng sen thả sung, dẫu không lấy nước ăn như xưa nữa thì cũng sạch sẽ phong quang, được đường phong thủy, long mạch mới phát chứ… Rồi nữa, cái quán Trảm cùng đổ nát cả, còn trơ mấy cột đá thôi. Mình cũng nên phục dựng lại bác nhỉ. Chí ít, với làng mình, cái quán ấy xứng đáng được coi là di tích lịch sử đấy, bác ?

          - Chú nói, tôi thấy có lý… Tôi nhớ, ngày nhỏ, khi nhà tôi chuyển từ Hà Nội về quê sinh sống, tôi ấn tượng với mấy công trình đó. Có lẽ, tôi không sinh ở quê, nhưng rất yêu quê, sau gắng học hành này nọ, là bởi tôi ấn tượng và lấy cảm hứng từ những câu chuyện quê có tính hoang đường xa xưa mà bố tôi từng kể… Việc này, rất nên làm, chú ạ.- Tôi thật lòng - À, chú có được nghe về chuyện tình tang loằng ngoằng giữa các vị thần thánh ma mị mà các cụ nhà mình kể lại không?     

          Đăng bảo biết lờ mờ thôi, tôi liền kể tóm tắt. Đăng khoái quá, cứ vỗ đùi đen đét, nắc nỏm:   

          - Chắc các cụ nhà mình bịa ra, nhưng em nghĩ là ít nhiều phải có căn cứ gì chứ? Vì việc còn liên quan đến những việc khác nữa... Ông cụ thân sinh em từng kể, và đưa cho em một cuốn gia phả cổ, từ ông nội em tìm thấy, em đã nhờ người thuê dịch từ Hán Nôm ra quốc ngữ, để em lấy bác xem sao.

          Rồi Đăng mở tủ lấy ra cuốn gia phả có phần chú giải quốc ngữ, lật giở chỉ cho tôi đoạn cần chú ý. Sách chép: “Xưa có việc thù oán, triệt phá lẫn nhau giữa mấy chi họ trong vùng. Trương Bính là một người giàu có nhất đẳng, mâu thuẫn với cụ Đức Chương,một nhà Nho chữ nghĩa. Trương Bính lén đào mộ mẹ cụ Đức Chương yểm mấy tạ than tàu, sau phát hiện đào bỏ đi, thế nhưng vẫn linh ứng, Vào cuối thời Lê Chiêu Thống, loạn ly, anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ra Bắc dẹp quân Mãn Thanh. Thời ấy, làng có người gọi Tú Nguyên, đã đỗ đạt làm quan, bị Kính Trương, con cháu nhà Trương Bính, giữ mối thù cũ, kết liên với tay Đỗ Hắc Long, vốn là tướng cướp khét tiếng trong vùng, gặp loạn chạy theo nhà Tây Sơn, vu cho Tú Nguyên theo giặc, tức là chung thành với vua Lê Chiêu Thống, đã bị quân Tây Sơn bắt xử tội chết, đưa về quê nhà, chém cổ tại Quán Trảm. Vết đao chém người bập cả vào cột đá quán, vết hằn còn về sau”.

          Đọc rồi, tôi phân vân, nghi hoặc. Tợp một hớp rượu, Đặng bảo:

- Em đọc, không mấy hiểu... Bác chữ nghĩa, kinh sử nhiều, thấy sao bác? Rõ là, cụ Đức Chương là thủy tổ chi họ nhà em. Mấy đời đến cụ Nghè Quân.. Vậy cụ Nghè có phải là cụ Tú Nguyên ghi trong gia phả này, hay Tú Nguyên là con cháu cụ Nghè?    

- Cứ như những gì tôi hiểu, cụ Nghè đậu tiến sĩ dưới triều Lê Cảnh Hưng. Sự nghiệp làm quan, thấy bảo làm tới chức Thị lang, lại có người dẫn nọ kia nói làm Hiến sát. Chẳng có gì rõ ràng, kể cả năm mất của quan Nghè, chuyện con cái thế nào cũng không thấy ghi....Theo tôi, quan Nghè không thể là Tú Nguyên như trong cuốn phả này đâu... Có thể là con cháu quan Nghè chăng?  

- Lẽ vậy chăng? – Đăng trầm ngâm- Người ta bảo, loạn dương với loạn âm, tương sinh tương khắc với nhau. Thời ấy, loạn dương kinh hoàng vậy, loạn âm chắc cũng ghê chẳng kém, bác nhỉ?  

- Tôi không rõ...mà chú dạo này cũng chữ nghĩa, nho y lý số nhỉ?  

- Thì em nghiên cứu đông y, cũng phải hiểu tý chút chứ bác… Bác không ở làng, nên không rõ đấy thôi. Mươi năm nay, thành phố nhà bác có tệ nạn gì thì quê mình có cả… Sòng bạc ngoài thị tứ tồn tại mấy năm trước, tiền bạc thua được vài trăm tỷ, nghe nói có bảo kê, phải đến công an Bộ về triệt phá mới xong. Quanh đây, đã có đứa nướng hết tiển góp định đi xuất khẩu lao động, càng gỡ càng thua đến mức phải tự tử. Rồi nữa, vỡ họ, giật tiền tín dụng đen, buôn ma túy tù tội, ‘cấm vận gái làng” đánh trai thiên hạ dập gan mật mà chết… Ui, nghĩ mà buồn bác ạ.  Còn cái sự học, thì kể từ thời cụ Nghè Quân đậu tiến sĩ, mấy trăm năm nay,  ở làng mình, đến bác Hạnh bên bác mới là người tứ hai có danh tiến sĩ đấy.

-Tôi có nghe, đây đó chuyện như chú kể, nhưng không nghĩ làng xã mình cũng vậy. Kể cũng buồn… Chị Hạnh tôi mang danh tiến sĩ  nhưng là chuyên ngành thôi, chứ đâu giống tiến sĩ cai trị xưa.

- Bác bảo, như thế là loạn dương ở ngay quê mình chứ đâu xa… Em nghe các cụ bảo, xưa nay, hễ các vị thần thánh ma quái gì dưới âm lục đục gây loạn âm là trên này làng xóm mình cũng vậy? 

- Tôi có nghe nói vậy – Tôi gật gù lấy lòng- song không tin. Nhưng có lẽ mình cứ suy ra  thế, lâu thành chuyện, vậy thôi…

Vừa khi ấy, Thịnh về. Chàng trưởng thôn chưa đầy bốn chục trang phục như dân phố. Thịnh xà vào mâm, chủ động rót rượu cho tôi và Đăng, rồi cung kính thưa gửi, chạm cốc. Đăng khoe với con rằng, hai người đã trao đổi, bàn bạc và cùng nhất trí với ý tưởng khơi lại đôi giếng đất cổ cuối làng và phục dựng nguyên trạng Quán Trảm. Việc còn lại là họp dân bàn bạc đồng lòng. Thịnh tỏ ra hào hừng, bày tỏ sự quyết tâm với việc này. Cậu ta cung kính tôi một chén rượu:

 - Bác ạ. Từ lâu rồi, cháu thực lòng kính trọng bác và bác Hạnh. Hai chị em bác, gắng vượt qua sự cản trả bởi định kiến thành phần này nọ, để học hành thành tài, đi đây đó, có những đóng góp nhất định cho xã hội. Nói vậy, có nghĩa là bố con cháu biết chuyện bác Hạnh ngày trước từng bị cán bộ xã ỉm giấy báo đỗ đại học… Nếu không thật sự có chí, có tài thì làm sao bác Hạnh lại thành nhà khoa học thành đạt… Cháu tiếc là học lực bình thường, nhưng cháu nghĩ, có chí có tâm, dù chỉ ở làng xã, cháu cũng làm được chút gì đấy, bác nhỉ?...

 - Đúng vậy. Bác thấy vai trò trưởng thôn, cháu đã làm được ối việc có ích rồi đấy- Tôi  động viên.

 - Thịnh ạ, bố thấy bác nói đúng đấy. Ở đâu cũng có chỗ cho mình, chỉ có điều, mình có biết tận dụng hay không thôi… Bác à, có một ý nữa, em muốn góp ý với bác đây…

 Tôi cười vui, rót rượu chạm cốc với Đăng - Chú muốn nói dến mảnh vườn tôi vẫn bỏ hoang bấy lâu nay chứ gì?...

 - Ôi bác, thánh quá, quả vậy bác ơi.- Em là em nuốn bác bỏ chút công sức, làm một nếp nhà, ở hay không thì tuy bác, nhưng lấy chỗ đi về… Bác biết rồi đấy, làng ta dáng con cò đứng bờ sông ngoảnh cổ lại, nên người dân làng mình dù có bay nhảy đến chân trời nào thì đến già cũng ngoảnh về quê. Xưa nay vẫn thế, cứ lấy chuyện ông thân sinh bác. Giàu có xưa làng mình thế nào, chứ cứ như  bố em kể, ông thân sinh bác có lẽ là người giàu nhất xưa nay ở làng. Bao nhiêu ruộng đất, đất ở gần mẫu, xậy cái nhà Tây hết những mấy chục vạn gạch, nghe nói ông còn định tậu cả một cái đồn điền chè trên Phú Thọ. Khi Tây càn, giật mìn phá cái biệt thự thì ồng xây lại thành cái nhà đại khoa, đến cải cách ruộng đất mất sạch nhà cửa ruộng vườn, nên tay trắng. Lúc già trở về quê, lại lập nghiệp bằng nghề làm mì gạo, nuôi dạy các bác học hành nên người. Thử hỏi, mấy ai được vậy? Bội phục, bội phục!...

- Thực lòng, mấy anh chị em chúng tôi cũng đã bàn bạc với nhau, đợi sang năm được tuổi, xây một ngôi thờ tự, trước lấy chỗ về quê thăm bà con họ hàng cho gần gặn, sau hương khói chăm sóc mồ mả các cụ, ông bà, cha mẹ…

- Vậy là tuyệt vời bác à. Rồi ra, bác hay về quê hơn, anh em có điệu kiện mạn đàm, sẽ ối việc hay bác ơi… Với lại, bác là trưởng chi họ, em biết, các ông bà bên ấy mong bác xây thờ tự, năng đi về gánh vác việc họ mạc đấy.

Đêm ấy, tôi khó ngủ, phần lạ nhà, phần tâm trạng chộn rộn vui buồn, lo nghĩ lẫn lộn. Bao ký ức tuổi thơ ở làng sống dậy. Rồi cuộc đời ông bà nội tôi, nhất là cuộc sống của cha mẹ tôi, gắn với họ hàng làng xóm, buồn nhiều hơn vui, đắng cay hơn ngọt bùi của cả một thời chiến tranh, tao loạn chưa xa, mà chính tôi từng chứng kiến ngày còn bé… Những ngày đầu về lại quê, phải ở nhà bà con trong căn nhà ngang chật chội, khi mà mươi năm trước, cũng trong cái làng này, nhà vườn mình mênh mông ở không hết; khi mà những người thân họ hàng bao năm mình đùm bọc đỡ đần lúc giáp hạt đói kém lại nhảy lên bàn độc chửi rủa bảo bị bóc lột thậm tệ; khi mà bị giam ở chuồng trâu, đói khát và ngày tết thèm một miếng bánh chưng không có... Tôi thương cha mẹ mình đã phải chịu đựng tháng ngày giông bão đó...

Bố tôi dắt con trâu đực cụt một sừng sứt mũi, cho nó gặm cỏ trên bờ giữa hai bên ruộng lúa xanh tốt. Con trâu sứt mũi gặm cỏ nhưng mắt nó lấc láo liếc ruộng lúa xanh non, chỉ rình để lia lưỡi táp lúa, còn bố tôi thì nhìn chăm chăm, chốc chốc lại gò người kéo căng dây thừng canh chừng không cho con trâu ăn lúa. Tôi đứng từ cầu sông cửa đình bên này gọi mãi mà bố tôi hình như không nghe thấy. Chợt giọng một người đàn bà khê nồng réo lên: “Đứa nào kia, sao lại chăn trâu vào bờ ruộng lúa thế? Định phá hoại sản xuất, cho trâu ăn hết lúa của bà con nông dân đấy à? Rõ là máu nhà địa chủ gian ác”. Bố tôi giật mình, gắng sức già lôi con trâu sứt mũi bướng bỉnh không chịu ra khỏi bờ ruộng lúa xanh non...

Choàng tỉnh. Thì ra tôi vừa mơ thấy bố tôi chăn trâu. Một chú gà cất tiếng gáy ngồ ngộ. Tôi định thần nhớ lại giấc mơ vừa rồi. Chuyện bố tôi chăn trâu bờ lúa là có thật. Bố tôi đã kể cho mẹ tôi nghe chuyện này và ông tỏ ra bực tức mãi trong lòng, hồi nhà tôi mới về lại quê sinh sống, được hợp tác xã giao nuôi trâu phiên. Khi ấy tôi vá các chị mình còn bé lắm, nên bố tôi phải đi chăn trâu. Tôi vừa đến tuổi đi học, còn chưa biết gì. Chỉ thấy bố tôi giận tím mặt khi kể lại chuyện ấy cho mẹ tôi...

Tôi tỉnh ngủ hắn. Người bị mất ngủ thường hay mơ vặt. Và cũng hay dậy sớm hơn thường ngày!...

Vậy là tôi đã ở quê một ngày rồi đấy... ./.

 

 

Giấc mộng của lão Chủ

 

 

Tiết Lập Đông, đám con cái của lão Chủ họp nhau lại, mua ít lòng lợn, cổ hũ về làm bữa chén. Chúng nó chủ định tụ họp là để bàn việc qua tết sang xuân tới, làm lễ khao thượng thọ cho lão. Đến ngưỡng tuổi này, ngày trai trẻ có nằm mơ lão cũng không dám nghĩ. Kiếm ăn từng bữa, hai tay vặt đút miệng chẳng đủ, ước ao lớn nhất là được no bụng, khổ nhục trăm bề, làm sao dám nghĩ đến ngày con đàn cháu đống, nhà cao cửa rộng, hưởng phúc dương gian đến chừng này cơ chứ.

Lão bảo: "Khao làm gì... Tao đã chín mươi đâu mà khao thượng thọ ... không khéo lại mang tiếng với làng xóm cũng nên". Thằng Điền, con trai thứ của lão Chủ, làm cán bộ xã, bảo: "Thầy cứ để chúng con. Ở xã này, mấy ông bí thư, chủ tịch đều đã làm lễ khao thọ cho cha mẹ họ cả, con dẫu không bằng họ, nhưng nhà mình đông con nhiều cháu, cha mẹ chỉ có một, kinh tế cũng khá giả... Thầy phải cho chúng con ngẩng mặt với làng xóm, bằng anh bằng em chứ... Ai đâu nhớ tuổi thầy, mình nói sao nên vậy. Đành rằng, thêm mấy tuổi nữa mới là thượng thọ... nhưng ngộ nhỡ... thầy tạch trước,... phỉ phui cái gở... Nhà mình cứ khao trước, nếu trời cho thầy  đến ngưỡng ấy, thành người cao tuổi nhất làng, có mà cả làng phải làm lễ cho thầy, chứ đâu đến phần con cháu". Bụng nghĩ, nó nói cũng phải, song lão ngại, bản tính căn cơ hà tiện trong máu, sợ tốn kém là chính. Vợ lão đoán được bụng lão, thủng thẳng bàn góp: "Thì ông cứ để cho chúng nó làm... Tốn kém là bao, mà chúng nó góp vào... Tôi đàn bà con gái, không cần... Còn ông là trụ cột nhà này... ông không nghĩ đến mình, nhưng cũng phải để con cháu nó mát mặt với hàng xã chứ!...". Lão im lặng hồi lâu, nói dỗi: "Thây kệ nhà các anh các chị, muốn làm gì thì làm... Giờ tôi già lão, mất thiêng rồi, nói gì cũng có ai nghe đâu". Cả nhà ồ lên, vui vẻ lắm, chén chú chén anh, rượu vào lời ra, bàn tán xôm lắm. Lão buông đũa, ra bàn nước, làm điếu thuốc lào, lo mơ phả khói, như bỏ ngoài tai lời bàn của vợ con...

 

XXX

 

        Nhà lão là dân ngụ cư ở làng Đặng này. Ông nội lão từ xứ khác phiêu bạt đến đây làm mõ làng. Ngụ cư đã lép vế, thêm nghề mõ là xuống tận đáy rồi. Lão không nghe ai nói về bà nội mình, chỉ biết khi đến làng này, ông nội mang theo cha lão, khi ấy mới còn trẻ con. Rìa đình làng, giáp bờ sông, có một thẻo đất hình dải khoai ngứa, có mấy cây vối um tùm, làng cho phép ông nội lão làm một nếp nhà gianh, chỉ hơn túp lều chút, ở cho tiện lo công việc của làng, điếu đóm các cụ dịp đình đám. Có chỗ chui ra chui vào, tránh mưa nắng, là may mắn rồi. Cha lão, thân thể yếu ớt, lại mắc tật nói ngọng, lớn lên chẳng lấy được vợ. Vậy mà, chẳng ai để ý, loắng ngoắng thế nào, có cô gái dở hơi ở làng bên, đến tận nhà trả con. Cha lão ú ớ, ngọng ríu lưỡi, mặt xanh như đít nhái, xua tay lia lịa, cố đẩy cô gái dơ hơi bế đứa bé ra khỏi cửa. Cả hai mẹ con đều khóc. Cô gái dở hơi tay bế con tay bứt tóc ngào ngào. Đứa bé oe oe rồi toét miệng cười. Ông nội lão, bế lấy đứa bé nhìn mặt, vạch tã thấy cái chim thây lẩy, bảo cô gái: "Đưa đây, ta nhận cho". Cô gái dở hơi nín khóc, cười nhệu nhạo, sung sướng bỏ về. Lúc ấy, ông cụ mới bảo cậu con: "Con cái là của trời cho... lại là thằng cu... thật phúc nào bằng... Không lấy vợ mà lại được con... Nhìn này, cái trán dô, cái cầm lẹm này, đúng là của nhà này rồi, con ơi...". 

         Chuyện ấy, là mãi về sau, khi ông nội lão già yếu, kể lại cho nghe, khi chỉ còn hai ông cháu sống với nhau. Thằng bé con ngày đó, chính là lão Chủ bây giờ. Còn cha lão yểu mệnh, sống lay lắt, đến trông con cũng chằng xong. Ngày nhỏ, bị cha bỏ mặc, cứ lê la đất cát, tha thẩn tự chơi, cho đến khi lớn một chút thì người cha qua đời...

         Nhà có hai ông cháu với nhau, rau cháo qua ngày. Ông nội làm mõ, là Mới ông, cha lão tuy chưa một ngày làm mõ nhưng làng cũng gọi là Mới con, và lão ngày bé được làng gọi là Mới cháu. Ông nội bận việc làng cả ngày, Mới cháu tự lớn, tự chơi. Nó người quắt, nhưng rắn ròi, mạnh bạo. Thấy đám trẻ làng chơi với nhau, nó đứng xem rồi nhập vào lúc nào không biết. Khi lũ trẻ làng phát hiện, đuổi thì nó ra, nó lì ra đấy, bọn trẻ cũng thôi. Song cũng vì cái tinh mạnh bạo, gan lì đó mà nó nhiều lần một mình ẩu đả với đám trẻ làng đến bầm dập tả tơi. Mỗi lần bị đánh vậy, nó bặm môi nén khóc, về nhà, khi ông nội rửa ráy, chăm các vết thương, nó vẫn không khóc, bảo ông: "Có ngày, cháu sẽ cho chúng nó trắng mắt ra...". Ông nó bảo: "Thôi đi, cháu ạ... đâu có ai thương đến những người nghèo hèn như nhà mình, hở cháu?... Cứ nhịn đi cho nó lành... Đời ông với cha mày, nhục lắm,... Dưng mà, gia tài ông còn mỗi mình mày... Ngộ nhỡ ra thì mất giống à ...". Nó ngước nhìn, ông nó quệt tay, như chùi nước mắt đọng trên da mặt nhăn nheo, khắc khổ...

 

XXX

 

        Thế rồi, làng xóm cũng đâu có được yên. Các cuộc săn lùng, vây bắt của lính triều đình và lính Pháp với những người hoạt động cách mạng xảy ra thường xuyên nên việc đình đám ở làng cũng thôi, ông nội nó mất việc. Ruộng không có một tấc, lấy gì mà đút miệng đây. May mắn cho nhà nó, trong làng có nhà cụ Đồ Sinh, gia đình giàu có nhất mực, ruộng vườn nhiều, đã nhận ông nội nó vào làm thuê, chuyên việc chăm sóc ao vườn, vậy còn đường sinh nhai. Nghe nói, nhà cụ Đồ Sinh vốn dòng thi thư, trước đó cũng chỉ thuộc tầm trung, kể cả lúc cụ Đồ còn sống, mở lớp dạy chữ Nho, chỉ từ khi ông Phúc, con trai cụ Đồ, bỏ chữ Nho ra Hà Nội học tiếng Tây, rồi theo nghề thiết kế xây dựng gì đó, bốc lên nhanh, đã bỏ tiền cho bà cụ Đồ mua điền thổ ở làng, mới thành giàu có nhất vùng. Ông Phúc mua trương thêm được vườn tược của mấy nhà bên, mở rộng thổ đến gần mẫu ruộng, rồi cho xây một ngôi nhà Tây ở giữa, to đẹp, sừng sững giữa làng. Cu Mới thi thoảng bám đũng quần ông nội được vào khu dinh thự nhà vườn của gia đình cụ Đồ SInh. Nó chỉ quanh quẩn ngoài sân vườn, nhìn ngôi nhà Tây thèm muốn lắm, nhưng sợ không dám bén mảng vào xem. Theo ông nội, nó được no bụng bởi ăn hoa quả rụng trong vườn, thi thoảng vớ miếng cơm cháy to tướng...

         Nạn đói năm Ất Dậu, người ăn xin rạc rài đầy đường, chết đói đầy chợ. Nó còn nhỏ những cũng đủ hiểu, may cho ông cháu nó, được nép mái hiên nhà giàu nên còn có miếng ăn, chứ không thì đói rã họng, chết còng queo rồi cũng nên. Một hôm, người em gái bà cụ Đồ Sinh, dắt đến nhà một đứa bé gái chừng năm tuổi, quần áo nhếch nhác bẩn thỉu, nhưng có khuôn trắng xinh, nói là nhặt được con bé ở chợ, đói lả khóc bên xác bố mẹ chết đói, bảo mang về cho cụ Đồ nuôi làm phúc. Kể từ hôm đó,  nó có bạn chơi. Nhà cụ Đồ Sinh đặt tên con bé là Lúa. Con Lúa kém nó dăm tuổi, khi được ăn no, quần áo sạch sẽ vào, trông kháu khỉnh phết. Chiều chiều, mỗi đứa một chiếc chổi tre, tha thẩn giúp ông nội nó quét lá vườn vun thành đống. Nó luôn tỏ vẻ đàn anh, để ý chăm sóc con bé, giúp việc nặng và hễ hái lượn được quả gì ngon ngon trong vườn, đều dành cho cái Lúa, nên con bé cũng quấn nó lắm.

         Cuộc sống có vẻ yên bình với nó ngắn ngủi, lại xáo trộn bởi cách mạng thành công. Không khí xã hội mới tưng bừng lắm. Ông Phúc, con trai cụ Đồ Sinh từ Hà Nội về quê, làm cán bộ của chính phủ lâm thời ở làng. Xã hội mới là xóa bỏ bóc lột nữa, ông Phúc phải làm gương, nên bà Đồ thôi không thuê ông nội nó nữa. Nhưng mà, không làm thuê thì đi làm việc gì. Thà làm thuê con có công xá, có miếng ăn. Cách mạng ở đâu đâu ấy, chứ với ông cháu nó thì chưa thấy lợi lộc gì, ngoài cái khí thế hừng hực ở hàng xã, hàng tổng... Nghe nói, chính phủ mới còn chẳng có tiền tiêu, nữa là dân chúng. Với nó, không được ở nhà cụ Đồ, là không được tầm hoa quả chín, không được miếng cháy to, và chẳng được chơi với cái Lúa. Vậy thôi.

Cách mạng rồi, nghề mõ làng cũng mất, không làm thuê cho nhà cụ Đồ thì ông nội nó đành vơ bèo vạt tép, mò cua bắt ốc, hễ ai thuê mướn việc vặt gì cũng làm tuốt, miễn là có chút công xá. Rồi lại kháng chiến, cán bộ chính phủ đi tản cư, lên chiến khu hết. Nghe nói, ông Phúc mang cậu con trai đi tản cư mãi đâu mạn Bắc Giang. Tây càn về làng, đóng quân ở lại, chúng lấy ngôi biệt thự Tây của nhà cụ Đồ Sinh làm căn cứ đóng quân, nên bà cụ Đồ, vợ và con gái ông Phúc, cả cái Lúa dạt vào nhà họ hàng ở cuối làng ở đậu. Làng thành làng tề, mọi người ngại ra đường, nhưng nó chẳng thấy ngại. Thân phận con cháu nhà mõ, bần hàn, lao lực kiếm miếng ăn thì có gì mà phải sợ. Ông nó dặn nó, chớ có chạy lông nhông, ngộ nhỡ ra làm sao thì khốn, nhà có mỗi mống. Khi quân Tây rút đi, chúng chôn mìn giật nổ, phá tan tành ngôi nhà Tây của nhà cụ Đồ. Thỉnh thoảng nó ngang qua khu nhà vườn của cụ Đồ, nhìn ngổn ngang gạch ngói, cây cối xơ xác thì thấy tiếc lắm. Chẳng gì ông cháu nó cũng từng trú ngụ ở đấy. Nó thèm những ngày được ăn no mặc ấm, được chơi với cái Lúa trong khu nhà vườn ấy. 

Một lần đi tiếp tế cho chồng con trở về, vợ ông Phúc bị đắm đò, chết đuối, tìm mãi mới thấy xác, chôn tạm ở xứ người. Không lâu sau, nhà ông Phúc lại gặp họa, cậu con trai bị chạy nọc sởi  thành thương hàn mà mất ở chỗ tản cư. Nghe nói ông Phúc buồn phiền suy sụp vì mất vợ con, bỏ về thành phố, tiếp nghề xây dựng gì đó, cho đến khi làng quê tạm yên, mới về cho dọn dẹp khu nhà vườn đổ nát. Rồi ông Phúc gượng dậy cho xây ngôi nhà ngói năm gian, kiểu nhà đại khoa cửa bức bàn. Khu nhà vườn của cụ Đồ có sinh khí trở lại. Bà cụ Đồ cho gọi ông nội nó đến, thuê làm một số việc, vậy là nó lại có cơ hội ra vào nơi đây. Giờ thì nó lớn nhiều, tính tình cũng thay đổi, bớt nghịch ngợm, chăm giúp đỡ ông hơn. Cái Lúa phổng phao và lộ rõ nét xinh. Công việc va chạm hàng ngày, hai đứa vẫn thân nhau, nhưng có phần ý tứ hơn. Không rõ cái Lúa thế nào, chứ nó thì thích cái Lúa lắm, kiểu thích của trai gái dậy thì ấy,... 

Có lần, ông nội nó bảo: "Ông ngẫm ra... như là kiếp trước, nhà mình và nhà cụ Đồ nợ nần gì nhau ấy, nên kiếp này hai nhà cứ nhú dính vào nhau,...  nhà mình thân phận mõ nghèo hèn, còn nhà họ giàu có nhất đẳng...". Nó nghe không mấy hiểu, ngây ngô: "Thế cái Lúa có phải là con ông Phúc không?... Con nuôi ấy". Ông nó ừ à. Nó gặng: "Ngộ nhỡ... nhà cụ Đồ có chê nhà mình là không môn đăng hộ đối không, ông?". Ông nội nhìn nó, nói như mếu: "Ừ, cháu đã lớn rồi... Ông không biết nữa ... Thương mày quá... Ta già yếu quá rồi... Giá trời thương, cho sống đến ngày cưới cho mày con vợ, thì xuống địa ngục có phải chịu đày đọa gì cũng cam lòng, cháu ạ". Lâu lắm rồi, nó mới thấy ông nội nó khóc, kể cả lúc bố nó chết. Sau đấy, ông nội nó yếu đi nhiều, nó thay ông đảm đương hầu hết công việc thuê mướn bên nhà cụ Đồ... 

Nhà cụ Đồ Sinh có niềm vui, ông Phúc lấy vợ kế. Người vợ kế của ông Phúc con nhà gia giáo, mỏng mày hay hạt, tính tình hiền thục, nhưng con đầu lòng vẫn con gái. Vậy là nhà cụ Đồ vẫn chưa có cháu đích tôn nối dõi tông đường, song bà kế còn đang tuổi sinh nở, lo gì. Bà Nhu, vợ kế ông phúc làm ăn buôn bán ở phố, thi thoảng mới về quê, ngó ngàng qua chút, vì bà không mấy thạo việc nhà nông. Ruộng vườn ở nhà vẫn do bà cụ Đồ và cô con gái của bà cả trông nom. Bà cụ thì già yếu, cô cháu gái lại đoảng, nên bà cụ Đồ hay nhờ nó chạy việc ngoài đồng giúp. Ruộng chủ yếu vẫn phát canh thu tô, nên chỉ cần trông nom quán xuyến thôi. Vì được bà cụ Đồ tin cậy giao việc chân chạy ngoài đồng, nên thỉnh thoảng nó lén rủ cái Lúa cùng ra đồng. Cái Lúa chủ yếu việc nhà vườn, mỗi khi được nó rủ thăm đồng thì thích lắm. Nhìn cái Lúa lớn mẩy từng ngày thành cô gái xinh xắn, nó thầm ao ước, một ngày kia, xin cưới cái Lúa làm vợ, được bà cụ Đồ đồng ý, cho thêm miếng ruộng làm của hồi môn. Chỉ cần vậy thôi, nó sẽ tự biết cách làm này nở sinh sôi cuộc đời nó rồi. Trên đời này, ai chẩng muốn giàu sang phú quý, vậy thì, giấc mộng "đa đinh phú túc" của nó, dẫu con cháu nhà mõ, có gì sai đâu?... 

 

XXX

Tin quân ta thắng Tây ở các mặt trận rừng núi cũng về đến làng. Người ta bàn tán này nọ, nó nghe thì biết vậy, chứ nó bận đến tối tăm mắt mũi, vừa lo công việc đồng áng cho nhà cụ Đồ, vừa phải lo cơm cháo chăm ông. Ông nó yếu lắm, ngày nhệu nhạo nuốt vài lưng cháo. Nó lo ông nó khó qua khỏi, bởi mỗi ngày mỗi yếu. Bà cụ Đồ là người tử tế, đưa cho ít tiền, bảo cắt mấy thang thuốc bắc để ông nó tẩm bổ. Chưa hết, người đàn bà dở hơi làng bên, người đã sinh ra nó, bệnh tật mà chết. Đã có lần nó hỏi đến mẹ đẻ, ông nó kể qua loa. Nó gặng, sao mẹ nó không ở cùng, thì ông nó bảo, mẹ nó dở người, còn gia đình bên ấy, người ta cũng không muốn dây với nhà mõ, nên cắt đứt quan hệ. Nó cũng không hề lai vãng gì đến gia đình bên người đàn bà đã đẻ ra nó. Nhung nghĩa tử là nghĩa tận, ông nội nó bảo: "Dẫu người ta không nuôi mày ngày nào, nhưng có công mang nặng đẻ đau... nay người ta mất, cố sửa lấy cái lễ đến viếng người ta... là giữ lấy lễ nghĩa ở đời, cháu ạ...". Nó nghe lời, làm như ông bảo, bên nhà ấy cũng có vẻ hối lỗi việc đã bỏ rơi nó ngần ấy năm trời... 

            Chiến thắng Điện Biên vang dội. Thế là từ nay không còn sợ lính Tây, lính tề nữa. Chính phủ kháng chiến từ rừng núi đã về thủ đô, nước nhà đã hòa bình. Song khi niềm vui xã hội mới còn chưa lắng xuống, thì một bầu không khí nặng nề lại bao trùm lên làng xóm. Người làng bàn tán, nghe đâu trong kia, người ta đã triệt địa chủ rồi. Nó nghe lỏm, xã hội mới sẽ không dung thứ những nhà giàu có, vì họ giàu lên là do bóc lột sức lao động của người nghèo. Vậy là nhà bà cụ Đồ Sinh cũng là địa chủ mất, bởi có bao nhiêu ruộng đất. Nó nghĩ, bà cụ Đồ tốt bụng là thế, lại sống tằn tiện, tương ủng cà meo nếu còn ăn được thì không đổ bỏ bao giờ, chỉ mỗi tật già khó tính, hay lằn nhằn, chứ không nỡ hại ai bao giờ. Bà Như, vợ kế của ông Phúc, thôi việc buôn bán ở thành phố, về làng trông nom ruộng vườn, thấy cũng xởi lởi tốt bụng. Nhà ấy, chỉ mỗi chị Loan, con gái bà vợ cả của ông Phúc là  lười, tính nóng, hay to tiếng nọ kia, chứ thực ra cũng diện nhẹ dạ. Thực lòng, nó không ghét ai trong nhà bà cụ Đồ cả, thậm chí, nó còn lo, nếu nhà ấy bị tịch thu hết gia sản, ruộng đất, thì nó mất việc làm, lại đói rã họng.
            Nhưng rồi, sự việc ập đến. Trước hết, là việc cưới xin của chị Loan, nghe nói đã có người dạm hỏi, sêu lễ mấy năm rồi, nhưng vì anh này đi bộ đội Cụ Hồ, tham gia chiến dịch Điện Biên, nên chưa cưới. Chiến thắng Điện Biên, anh ta về quê, nhưng từ hôn chị Loan, nghe đâu biết nhà vợ chưa cưới sẽ bị quy địa chủ, sợ thành phần xấu, nên chạy làng trước cho đỡ bị liên lụy về sau. Bị từ hôn, chị Loan bực tức, làm mình làm mẩy, trút giận lên bà cụ Đồ và cái Lúa. Cái Lúa đã lớn nhiều, bị vạ lây nên cãi lại, khiến chị Lúa tức quá, vớ cán chổi, quất mấy cái vào mông cái Lúa. Cái Lúa khóc, bỏ nhà bỏ ăn, Nó thương cái Lúa, đi tìm và dỗ dành, khuyên về nhà. Cái Lúa hậm hực bảo, rằng có ngày sẽ trả thù chị Loan. 
           Hết giảm tô, đến cải cách ruộng đất. Làng xã rối tung rối mù. Nó và cái Lúa là thành phần cốt cán ở làng, nên cán bộ cải cách từ trên cử về, triệu tập cả hai đứa vào diện những người cốt cán. Nghe cán bộ thảo luận, nó biết nhà bà cụ Đồ Sinh sẽ bị quy địa chủ. Nó thấy thương, đắn đo, bứt rứt việc có nên ngầm báo tin cho bà cụ không, nhưng rồi giữ đúng nguyên tắc của tổ chức nên thôi. Tham gia tổ chức, nó vui lắm, nhất là việc được cán bộ cấp trên đặt tên cho. Anh cán bộ hỏi tên, nó nói tên là Mới cháu, thì anh cười khoái chí, vỗ thật mạnh vào vai nó bảo: "Đồng chí, từ nay tên của đồng chí là Chủ. Xã hội mới của chúng ta, mọi người dân, ai cũng là chủ. Nay đặt tên cho đồng chí là Chủ, để khẳng định vị thế của mọi công dân trong chế độ mới, để đồng chí ghi nhớ công ơn của cách mạng đem về cho  đồng chí sứ mệnh và quyền lợi là được làm chủ xã hội. Đồng chí hãy quên cái tên Mới đi. Trong xã hội dân chủ của chúng ta, không còn nghề mõ, giờ đây, bất kể nghề nghiệp gì cũng đều vình quang như nhau...". Nó nghe như nuốt từng lời của cấp trên, cảm động rưng rưng. Nó ghi nhớ, từ nay, tên nó là Chủ.
          Giữa những ngày sôi sục ấy, ông nội của Chủ mất. Ốm yếu lâu ngày, ông nó như ngọn đèn hết dầu thì tắt. Thương ông lắm, chẳng được mấy ngày sung sướng, dẫu sao, ông nội cũng biết được ngày đất nước độc lập, biết nó không còn mang cái tên Mới từng đeo đẳng mấy thế hệ nhà mình. Lời trăng trối của ông nội nó: "Từ rày, mày không còn phải mang thân làm mõ nữa, cũng không lo phải làm thuê ở đợ nữa... cháu à...Ông nhắm mắt cũng yên lòng". Đám ma ông nó, làng xóm hỗ trợ theo sự chỉ đạo của cấp trên, và đây cũng là đám ma đầu tiên ở làng làm theo tinh thần của xã hội mới, văn hóa mới. Bà cụ Đồ không đến viếng, nhưng sai chị Loan mang đến ít tiền, gọi là chút lễ thắp nén nhang cho ông nội nó. 
           Một hôm, sau buổi tập huấn, cái Lúa gọi Chủ ra vườn chuối sau trụ sở của Đội cải cách, rỉ tai, bàn cách trả thù chị Loan.  Khi ấy, cái Lúa đã gói ghém quần áo, bỏ khỏi nhà bà cụ Đồ, ra nơi ở chung của Đội cái cách rồi. Nghe xong, Chủ áy náy, thấy làm như vậy có gì ang ác, thật không phải với nhà bà cụ Đồ và cả chị Loan nữa. Nghĩ thế, song Chủ không nỡ trái ý cái Loan, và hai đứa cầm đầu cho một trò đùa ác ý. Chúng xúi lũ trẻ làng, đứng ngoài cổng nhà bà cụ Đồ, reo hò, réo gọi tên bà cụ và chị Loan, bảo là đồ địa chủ hại dân hại nước. Chị Loan tức quá, mở cổng, xồ ra đuổi lũ trẻ, thì lũ trẻ chạy túa đi, chị Loan định đuổi theo nhưng cũng sợ nên dừng lại ngay. Lập tức, Chủ vào cái Lúa xuất hiện. Cái Lúa chỉ mặt chị Loan, mắng là hỗn láo, lại định dẫm chân lên hình lá cờ. Lúc ấy chị Loan ớ người ra, mới nhìn xuống thấy dưới đất có vẽ hình vẽ lá cờ thật. May là vì sợ bọn trẻ đánh lại nên chị kịp dừng, chưa bước qua, vừa tức vừa sợ, chị òa khóc, chạy vội vào nhà. Chủ thấy hối hận, trong khi cái Lúa đầy vẻ đắc ý... Nghĩ lại, Chủ thấy trò trả thù của cái Lúa thực ra chỉ là trỏ trẻ con, nhưng mà ác quá. Nếu chị Loan vô tình dẫm lên hình vẽ thì không biết sẽ bị quy tội gì?...
          Hôm đấu tố, bà cụ Đồ bị một số người làm thuê tố là "hà tiện, bắt người làm thuê cùng ăn cơm nguội cà meo với mình", rồi mấy người họ hàng trước hay nhờ vả, thì tố là "nhận mua lúa non" mỗi khi họ thiếu thốn phải đến vay mượn. Cái Lúa lên đấu tố, gán chị Loan tội hay mắng mỏ, có lần cầm cán chổi đánh mình, còn với bà cụ Đồ, thì gán tội bắt phải quét hết lá cây rụng cả cái vườn rộng, đến nỗi có người thương xót quét hộ. Chủ nghe cái Lúa tố hộ và khen mình tốt bụng thì ngượng hết cả mặt, lỉnh ra bên ngoài. Sau đó, bà cụ Đồ và bà Nhu, vợ kế ông Phúc bị đội cải cách dẫn giải giam vào chuồng trâu ở cuối làng. Mấy lần, Chủ lảng vảng gần nơi bà cụ Đồ và bà Nhu bị giam, tính hỏi han hoặc đưa chút gì ăn cho hai người, nhưng Đội canh gác rất chặt, nó sợ bị thấy, chỉ dám nấp kín nhìn vào thôi. Thực lòng, Chủ thấy nhiều người tố ép này nọ, chẳng biết đối xử với mọi người ra sao, chứ với ông cháu nó và cái Lúa thì đâu đến nỗi nào, nên thương cho bà cụ Đồ và bà Nhu. Rồi nghe nói, ông Phúc viết thư tay nhờ người quen mang về quê đưa đến Đội cái cách xin thoái tô. Đội đã cử người ra Hà Nội nhận tiền và thóc thoái tô, chở những mấy xe cam-nhông, nên hai mẹ con bà cụ Đồ được thả về nhà. 

          Sau khi được thả ra ít ngày, thì bà cụ Đồ chết, nghe nói, bà cụ chỉ ốm xì xằng mấy hôm, rồi thổ huyết mà mất. Người làng đồn bà cụ uất ức vì chứng kiến nhiều người, trong đó cả họ hàng thân thích, trước đây toàn nhờ vả nhà mình, nay được thời nhảy lên điêu toa, vu oan giá họa cho bà cụ tội này nọ. Năm ấy mưa nhiều, đồng làng ngập nước, nên đám bà cụ Đồ phải chôn nhờ vào đất ruộng của người nhà ở làng bên. Người đưa đám thưa thớt vị sợ bị liên lụy. Chủ và cái Lúa xin với Đội giúp nhà đám với tinh thần tổ chức cử người hổ trợ. Chủ thương bà cụ Đồ và thấy tội nghiệp cho bà Nhu, con gái hàng phố ngơ ngác nơi quê chồng, vập mặt vào những ngày khổ ải, tủi nhục nhất. Đám ma bà cụ Đồ, mà ông Phúc, một người rất hiếu nghĩa, mà không dám về chịu tang mẹ. Người ta bảo, ông ấy sợ về thì bị Đội bắt giam, xử tội này nọ, bởi lúc ấy, đã có ông làm bí thư ở xã bên còn bị Đội xử bắn với tội danh phản động. Cái chết của bà cụ Đồ làm cái Lụa có vẻ ân hận. 
           Tết năm ấy, rét rét là. Đêm ba mươi tết, trời tối đen như mực, lợi dụng lúc giao thừa mọi người mải cúng bái, Chủ trèo tường lẻn vào vườn nhà bà cụ Đồ, gọi bà Nhu, đưa cặp bánh chưng và một khoanh giò, bảo: "Cháu chỉ có vậy, mong bà nhận cho, thắp hương bàn thờ gia tiên và khấn bà cụ Đồ giúp cháu...". Bà Nhu cảm động lắm, trong bóng đèn chập chờn, nó thấy hình nhứ bà ấy khóc... Chủ cũng rân rấn, thấy ấm lòng vì làm được một việc phải đạo. Tết nhất, một mình, nó có bánh trái gì đâu, là mấy nhà hàng xóm nịnh nó, biếu quà tết và cái Lụa mang đến cho. Chẳng gì, nó là thành phần cốt cán, giúp việc cho Đội, oách lắm chứ, ối người muốn nịnh. Nó chỉ việc bớt ra, mang đến nhà bà Nhu. Nhớ lời ông nó vẫn dạy "một miếng khi đói hơn một gói khi no", nay nhà cụ Đồ hoạn nạn, chẳng ai đoái hoài, ông cháu nó ít nhiều mang ơn, có chút quà tết, mất gì đâu, lại được việc phải đạo...

XXX

 

Qua tết, bà Nhu ra Hà Nội, bỏ lại cơ ngơi ở quê. Tiếng vậy thôi, chứ đâu còn gia sản và ruộng đất. Đội tích thu hết ruộng đất, khu nhà vườn rộng ngót mẫu đất được chia ra gần chục  suất, trả lại một suất cho gia chủ, còn lại mang chia cho dân nghèo trong làng. Ngôi nhà lối đại khoa cũng bị dỡ bỏ, chia chác hết. Buồn cười, lúc chia quả thực, đồ đạc của nả nhà cụ Đồ được bày ra sân, cán bộ Đội cứ ang áng mà chia. Cái cối xay bột to tướng, Chủ nhường cái Lúa nhận thớt dưới, còn nó nhận thớt trên, bị sứt tí chút nhưng không hê hấn gì. Mọi người cứ cười trêu hai đứa, bảo mỗi đứa một thớt thì xay kiểu gì. Chủ thấy kệ, vì nó đã có chủ ý, người làng sao biết được. It lâu sau, vì có tình ý từ trước, Chủ xin cưới cái Lúa. Đám cưới theo văn hóa mới, đơn giản, kiểu như một buổi hội họp. Chủ nghĩ, thật may, cưới theo lệ làng cũ, thì lấy gì mà cưới. Thế là, hai cái thớt cối, đồ quả thực từ nhà cụ Đồ lại về chung một nhà. Lúc ấy, làng lại cười, là cưới thầm thôi, khen cho ý tứ và sự tính toán của Chủ. Cối to, xay được nhiều gạo, bột lại mịn, dùng xay bột làm bún thì nhất, nên vợ chồng chủ mang bán cho một nhà chuyên nghề làm bún, được một khoản tiền kha khá làm lưng vốn. 
            Ở phố, vợ chồng ông Phúc sinh con trai, vậy là nhà ông ấy có người nối dõi tông đường, tiếc là đã tay trắng, chẳng còn gì để nhà ấy nối nghiệp giàu sang nữa. Chị Loan đi lấy chồng xa, về làm dâu một ông lái trâu khấm khá. Vợ chồng Chủ sinh con đầu lòng. Giấc mộng đa đinh phú túc ám ảnh Chủ, tủi nhục mấy đời không một tấc đất cắm dùi, làm nghề mõ, người ta cho một chỗ dựng lều ở tạm, giờ có nhà của mình. Cải cách, Chủ được chia một miếng đất vườn nhỏ, phía sau đình làng, nên đặt tên con là Thổ, ý là từ nay ta đây đã có thổ cư.
          Yên hàn một thời, vợ chồng Chủ vẫn cảm thấy áy náy với gia đình cụ Đồ. Thực ra, khi sửa sai, Chủ biết là, việc đấu tố địa chủ ở làng có nhiều sai trái, với nhà cụ Đồ cũng vậy. Giờ thì chuyện cũng dần nguôi ngoai, là lúc sai có thể nhận lỗi, nên bảo vợ: "Nhà ạ... xem hôm nào, nhà ra Hà Nội gặp ông Phúc bà Nhu... xin lỗi ông bà ấy một lời... Hồi cải cách, nhà đã đấu tố bà cụ Đồ... Đành rằng khi ấy phải vậy, nhưng... nhà thử nghĩ lại... năm loạn đói... nếu không có gia đình cụ Đồ... thì nhà chết rồi cũng nên... Ơn ấy thật như trời bể...". Nghe vậy, Lúa chỉ ừ à cho qua, nhưng vài hôm sau, bảo đồng ý ra Hà Nội. Vợ chồng ông Phúc được lời như cởi tấm lòng, chuyện cũ cho qua. Chủ thầm nghĩ, ông Phúc là người có học, nên hiểu chuyện thời thế, còn với bà Nhu, thế nào bà ấy cũng nghĩ đến chuyện cặp bánh chưng và khoanh giò đêm ba mươi tết năm đó, Chủ dám mạo hiểm trèo tường vào nhà biếu ...
          Mọi chuyện tưởng vậy là xong, thì chiến tranh lại nổ ra. Mỹ mang máy bay ra bắn phá miền Bắc. Vợ chồng ông Phúc rời thủ đô về lại quê sinh sống. Khổ nỗi, lâm vào cảnh không tấc đất cắm dùi. Thế gian biến cải vũng lên đồi là vậy, từ chỗ vườn rộng nhà lớn, ruộng chiếm một phần ba ruộng làng thì nay lại tay trắng. Số là, miếng đất Đội cái cách trả lại cho gia đình, ông Phúc cho chị Loan, khi chị lấy chồng, chị đem bán đi, cẩm tiền về nhà chồng. Ông bà Phúc có bao nhiêu vốn liếng dốc ra mua được một được mảnh đất ở, vẫn thiếu nợ, phải vài năm sau mới trả hết, cất ngôi nhà tường đất mái rạ, ba gian hai chái. Không thạo việc nhà nông, nên cuộc sống của ông bà cùng mấy đứa con bạch diện học trò khá vất vả. Vợ chồng Chủ có cơ hội qua lại, giúp giập việc này nọ, xem như một sự trả ơn. Cuộc sống vất vả những năm chiến tranh, hai gia đình thường xuyên qua lại, giỗ tết, ít nhiều nương tựa vào nhau. Ông bà Phúc coi nhà Chủ như con cái, và vợ chồng Chủ mặc nhiên thế. Con cái ông Phúc việc ruộng đồng thì kém, nhưng học hành lại giỏi. Khi họ phương trưởng, người lập gia đình riêng, người thành tài ra lại phố lập nghiệp, cũng là lúc ông bà lần lượt ra đi. Mộ ông Phúc, bà Nhu để cả ở nghĩa địa làng. Vậy là ngôi nhà tường đất mái rạ trên mảnh đất khá rộng kề ngay trục đường làng lại bỏ không. Ai qua lại, nhìn ngắm mảnh đất địa thế thuận lợi là thế, mà phát thèm, sinh ý này nọ.

XXX

 

Cứ ba năm đôi, vợ chồng Chủ sòn sòn thêm năm đứa nữa, tổng cộng ba trai, ba gái. Thằng con cả là Thổ rồi thì hai thằng em là Điền và Trì, tức là ruộng và ao, còn mấy đứa con gái, theo tên mẹ là Lúa thì chúng là Gạo, The, Lụa. Tên như vậy, Chủ thấy cũng nhã, kiểu nhà có chữ nghĩa, mà nghe vẫn dân giã. Cả nhà tám người, con cái là của trời cho, với cách đặt tên như vậy, Chủ xem như mình có đủ ruộng vườn, ao chuôm, thóc gạo ăn, the lụa mặc, để mộng tiếp giấc mộng "đa đình phú túc"... Nhưng cái mảnh đất được Đội cải cách chia năm nào, tuy giữa làng, sau đình ấy, chật hẹp quá. Đành rằng con gái lớn lên đi lấy chồng, nhưng ba thằng con trai thì ở làm sao đây. Nhân một đợt làng giãn dân, Chủ xin nhường lại mảnh đất sau đình để làng chia cho người khác, nhận một miếng đất mới, vốn trước là ruộng nhưng ngay bìa làng, bị cớm tre pheo, và bị lợn gà trong làng phá phách, được chuyển đổi sang đất ở. Miếng đất này rộng gấp ba miếng đất cũ, mặt giáp dãy ao làng bên, mặt liền bờ mương thủy lợi. Chủ nhẩm tính, sau này ba thằng con lớn lên, không đi làm ăn đâu xa, ở làng bám đít trâu, thì chia làm ba, làm bốn chỗ đất ấy cũng ổn. Lão đã ngắm nghía chán rồi, ở đây lão sẽ lấn thổ dễ như bỡn. Nghĩ là làm, hàng năm, dịp cuối năm, mùa nước cạn, vợ chồng và mấy đứa con lớn của lão hì hụi xúc bùn ao, bùn phù sa từ lòng mương vật vào vườn nhà, cạp mép ao, nói cho đỡ lở nhưng thực chất là ngầm lấn đất ao. Nhà lão bìa làng, khuất lấp, mấy ai để ý, mà ai đó có thấy thì cũng thây kệ, là lão lấn đất công chứ thiệt nhà nào đâu. Chỗ đất lấn được, lão cấy khoai nước, trồng chuối, xanh um lên, vừa lợi vừa để phi tang... Xem ra, cuộc lấn đất công mở thổ của lão thành công mỹ mãn...
          Đất vườn nhà lão phì ra thì người lão tóp lại. Lão vốn mình dây, lăn lộn làm việc chân tay từ bé nên như người luyện thành dẻo dai. Làm việc luôn chân luôn tay ban ngày, đêm lại phục vụ mụ vợ mướp đẻ đái dễ như lợn, người lão sắt đi, nhưng chẳng bệnh tật gì. Thằng cả khù khì, chăm chỉ, lấy vợ sớm. Thằng Điền thứ hai, tinh ranh, đến tuổi vào lính, đánh trận biên giới phía Bắc, may mắn không sứt mẻ gì, phục viên về, là đảng viên nên tham gia cán bộ xã. Ba con vịt giời, cố học hết cấp hai, ở nhà làm ruộng rồi lần lượt lấy chồng, đều sinh đẻ như lợn đàn, cho vợ chồng lão cả đống cháu. Riêng thằng cu út, lông bông, khó bảo, nghề ngỗng chẳng ra sao, chán chê, xoay ra mở quán thịt cày lại ổn. Lão thở phào sung sướng,
          Giờ sống đến cái tuổi này, thôi cũng một lần chiều con, nhất là khi mụ vợ lão cùng đứng về phía chúng nó. Có lần, riêng hai vợ chồng với nhau, vợ lão thủng thẳng: "Ở cái làng này, ông và tôi thế nào, người ta biết cả. Nay nhà mình thế nào, người ta cũng biết cả... Mình cũng phải ngửa mặt lên với đời... Sống tới ngần này tuổi đầu, chẳng phải trời cho hay sao... Chẳng nhẽ, cứ đợi lúc xuống lỗ, con cái mới được làm ma to à?...". Ngẫm ra, vợ lão nghĩ phải. 
          Lễ khao thượng thọ của lão Chủ hoành tráng như những gì vợ con lão muốn. Lần đầu tiên trong đời, lão không phải đứng ra chỉ huy, để mặc cho đám con tự lo. Lão xúng xính bộ quần áo, đội khăn xếp màu đỏ, giống nghi lễ thượng thọ người ta vẫn làm. Lũ con cháu lão xếp hàng trước ghế lão, lạy mừng chúc thọ. Trong lúc chúng nó rào rào chúc tụng này nọ, thì lão lại nghĩ đến ông nội và cha lão, thầm khấn họ về chứng giám cái gọi là phúc thọ mà các đấng sinh thành dồn lại cho lão hưởng, đầu óc lão âm âm câu dân gian "mấy ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời". Lão xúc động ràn nước mắt, thầm gọi tên ông và cha mình, thấp thoáng hình bóng ngôi nhà gianh như túp lều nơi vạt đất ven sông làng... " Ôi, ông nội khóc kìa", thằng cháu đích tôn của lão vô tình kêu lên, khiến lão bối rối...
           Dăm chục mâm cỗ hết bay, khách khứa đủ thành phần. Cuối ngày, hạ rạp, con cháu trong nhà ngồi lại với nhau, vui mừng, hỉ hả lắm. Thằng cả khề khà "ở cái xã này chẳng kém bố con thằng nào", thằng Điền thì cao giọng "thầy u vui mà anh em mình cũng vui, vì ngẩng mặt lên với thiên hạ". Lão nghe, hơi khó chịu, ăn qua loa rồi ra bàn nước, xỉa răng. Lão vẫn có cảm giác bâng lâng, như người vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ dài. Chính lễ, phải tiếp khách, giữ lễ , xong việc rồi mới là lúc đám con cái chén chú chén anh. Rượu vào lời ra, thằng cả túy lúy, cười như ngây ngô. Còn thằng Điền, huyên thuyên một hồi, nhừa nhựa, hắng giọng mấy lần, bảo: "Thầy ơi... con mạnh bạo, xin thưa với thầy u ... có mắng chửi, có đánh đập gì thì con xin chịu... Thầy u ngần này tuổi rồi... người già như chuối chìn cây ấy... Ngộ nhỡ...  phỉ phui cái ngộ nhỡ... sớm chiều gió máy...thì khổ...". Lão hiểu ngay, giả bộ không rõ: "Cái gì ... gió máy?". Thằng cả say nhưng vẫn tỉnh: "Chú cứ quanh co... xin gì thì thẳng tưng với thầy u...". Lão ngắt lời: "Anh em mày khó nói nhỉ. Lại chuyện đất cát chứ gì?". Thằng Điền reo lên: "Ôi thánh thật. Khôn đâu đến trẻ... Thầy thật là thánh!...". Lão mát mẻ: "Thôi, anh không phải nịnh tôi... Vợ chồng già chúng tôi biết thân biết phần rồi...". Thằng Điền cầu tài: "Thầy ạ, nhờ tài trí của thầy u, vườn tược nhà mình mở được thế này... Con và anh cả cũng đã lo được chỗ ở rồi,... còn mỗi chú út ở với thầy u. Ba chị em gái đi lấy chồng, nhà nào cũng cửa cao nhà rộng cả... Thiêu thì không, nhưng công bằng thì cần có... Theo luật thì tất cả các con bình đẳng, song lệ quê xưa nay, con gái về nhà chồng thì thôi... Thầy u xem, lúc còn minh mẫn, lập cái di chúc về đất cát... là tránh những phiền phức sau này...". Lão nín lặng, chiêu hớp nước trà, hiếng mắt nhìn vợ thăm dò, thủng thẳng: "Anh hai nói cũng có lý... để rồi vợ chồng tôi tính...". Được một lời của lão, đám con cái vui như bắt được của, hể hả tranh nhau nói. Rượu lại rót ra, dô vào dô ra, ầm ĩ...
           Lão tựa người vào tràng kỷ, nhìn ra vườn cây mơ màng. Lũ con đâu thấu hiểu bụng lão, cũng vì tham đất cát mà vợ chồng lão lại thêm lần mất tình mất nghĩa với gia đình bà cụ Đồ Sinh. Trước khi mất, bà ra Hà Nội ở với con gái giữ cháu ngoại, nhà vườn bỏ không, nhờ vợ chồng Chủ trông nom giùm. Lúc thằng cả cưới vợ, chưa có đất ở, lão đánh tiếng cho vợ chồng nó ở nhờ, nói để trông coi cho tiện. Ở lâu, sinh thèm, không muốn đi nữa. Lão lại đánh tiếng muốn bà Nhu nhượng rẻ miếng đất ấy cho lão.  Không được, lão giận dỗi mất khôn, nói bóng gió xin lại cái mái ngói móc mà lão mới lợp lại vì mái rạ cũ dột nát. Lời nói ra, lấy lại không được nữa, sinh bất hòa. Hơn chục năm qua, lão bỏ giỗ ông bà. Tết nhất cũng không qua lại nhau. Tự thân, vợ chồng lão thấy phiền lòng... Ôi, cái giấc mộng đa đinh phú túc của lão đến bao giờ mới chấm dứt đây?... Cuộc đời lão, từ không mảnh đất cắm dùi, giờ nhà vườn rộng rãi, con đàn cháu đống thế này mà vẫn tham. Lại tham cả những thứ không phải của mình.... Lão chợt nhớ, lão xem trên ti vi, thấy người ta nói chuyện về một ông vua nào ở bên Tây đã mang đất nước của mình chia cho con cái, khi có được đất đai quyền lực rồi, lũ con bất hiếu ấy đuổi vua cha ra khỏi đất nước mình. Người ta chuyện thế là để răn đời thôi, chứ lũ con lão chắc không tệ bạc đến vậy...
           Nghe người làng đồn, mấy anh chị em con ông Phúc bàn bạc, dự định xây ngôi thờ tự trên mảnh đất vườn hoang ấy, để lấy chỗ thờ cúng tổ tiên, ông bà, và nơi chốn đi lại?... Đây là cơ hội để vợ chồng lão sửa sai. Rồi ra, vợ chống lão sẽ ứng xử như thế nào cho phải đạo?
           Lão Chủ ngợp đi trong ý nghĩ, như bỏ ngoài tai những ồn ào của bữa tiệc hạ rạp... ./.

 

 

 

NẮNG MUỘN

 

 

        Đã cuối thu đầu đông.

        Chiều chưa muộn mà những vạt nắng đã lụi dần, chỉ còn đâu đó chút ánh sáng yếu ớt váng vất nơi ngọn tre, tán cau chót vót trước nhà. Bà Nguyệt vừa cho lợn ăn, vừa tranh thủ quét tước mảnh sân con vương vãi lá cây. Xong việc, bà vào bếp, lẩn thẩn lấy chiếc nồi còn lưng cơm nấu từ trưa vả chiếc niêu đất chuyên kho cá ra hâm lại. Chỉ cần nấu chút canh rau tập tàng, ở nhà có một mình, thế cũng là quá đủ. Bà thần người nghĩ, không biết giờ này, ông Chiến, chồng bà đã ăn cơm chưa nhỉ. Đã hơn tuần nay, chồng bà được con trai về đón lên chơi mãi trên trang trại của nó ở mạn ngược. Theo thói quen, cứ chiều xâm xẩm là bà lại ngóng ra cổng như chờ chồng về. Rõ là “lo bò trắng răng”, trên ấy cha con, ông cháu líu ríu, đông vui là thế, việc gì mình phải ngồi nhà lo chuyện cơm nước cơ chứ? Bao nhiêu năm đằng đẵng, bà lo thế quen rồi. Thôi, giờ cứ lo cái thân già mình đi đã. Dạo này, cái lưng nhâm nhẩm đau, hai đầu gối cũng khó chịu, đêm nằm, bắp chân buồn như trấu cắn. Mình đã là một bà già rồi. Ngày xưa, ở tuần tuổi ngoài sáu chục như mình thì hẳn là già, nhưng thời nay có khác, nhất là các bà, các mợ sống ngoài thành phố, áo quần son phấn cứ phây phây. Đấy, chẳng đâu xa, như cô vợ của người ấy, nghe nói tuổi cũng ngót sáu mươi rồi, nghĩa là chỉ kém mình có dăm tuổi, vậy mà nhìn béo tốt, mỡ màng, dáng vẻ sang trọng như vào tuổi trung niên...

          Bà Nguyệt tự cười buồn. Ôi dào, mỗi khi ngắm cái khuôn mặt già héo của mình nơi thau nước lúc rửa mặt, bà chẳng dám tin ngày trẻ mình xinh đẹp có tiếng trong làng là thế. Mà tự dưng bà lại nghĩ ngợi, thầm so sánh cái bộ dạng già lão quê mùa của mình vời vợ người ấy làm gì nhỉ? Rõ vớ vẩn chưa. Phải chăng, lâu rồi bà mới ở vào tình trạng sống một mình như bây giờ, nên sinh nghĩ ngợi lung tung. Hay là, vài hôm nay, trông thấy người ấy, khi sóng đôi cùng với vợ, lúc đi một mình trên đường làng, mà sinh nghĩ ngợi này nọ chăng?

          Chẳng buồn dọn cơm vào mâm bưng lên nhà ăn, bà Nguyệt cứ vậy, cơm canh, cá kho cứ nồi nào thức ấy, để xuống nền bếp, xới bát cơm, ngồi ăn. Nhìn ra sân, nắng chiều đã tắt, ngõ ngoài phảng phất khói sương. Bà Nguyệt ăn uể oải, miệng nhai, mắt nhìn, nhưng đầu óc nghĩ đâu đâu...

X

Ngày ấy, vào học cấp 2, chung lớp học với Nguyệt có đến chục đứa người cùng làng, xét chuyện họ hàng dây mơ dễ má, nội ngoại, đều có họ với nhau cả. Cùng tuổi với Nguyệt có vài ba đứa, do muộn đi học, hoặc do học kém bị đúp, số còn lại kém vài tuổi, có Đăng. Cậu ta quê ở làng, nhưng sinh ở Hà Nội, khi bắt đầu xảy ra chiến tranh chống Mỹ thì Đăng theo gia đình chuyển về quê sinh sống  Cậu ta người nhỏ nhắn, trắng trẻo, thư sinh, có vẻ nhút nhát, ít nói. Xét về họ hàng bắc cầu, Đăng là vai anh của Nguyệt. Cậu ta học giỏi, đều cả hai môn toán và văn, học lực luôn đứng đầu lớp, thậm chí đầu cả khối học toàn trường. Năm nào cậu ta cũng được nhận giấy khen về thành tích học tập. Chẳng bù cho Nguyệt, học hành khó khăn chật vật làm sao. Đặc biệt là môn Toán, Nguyệt học thế nào thì những con số nó cứ chuồi ra khỏi đầu. Có lần, Nguyệt đánh bạo nhờ Đăng giảng cho cách giải mấy bài toán khó. Thấy vậy, Đăng bảo là nếu Nguyệt không ngại, thì mỗi tuần, Đăng sẽ dến tận nhà Nguyệt giảng giải lại những kiến thức Toán cơ bản, đặng để Nguyệt hiểu và có thể tự làm những bài toán đơn giản. Nguyệt chỉ cố sao cho đạt điểm trung bình môn học này thôi, trong lòng muốn lắm, nhưng cứ ngại, nên từ chối khéo. Dẫu vậy. hai người cũng cảm thấy thân nhau hơn.

          Bù lại, Nguyệt giúp Đặng một số việc thuộc về đồng áng nhà nông. Trẻ con ở quê, những năm chiến tranh, thường phải giúp cha một số công việc nhà nông đơn giản như chăn trâu, căt cỏ, vào những buổi không phải tới trường, Nguyệt lớn tuổi hơn, lại con nhà nông bẩm sinh nên khá thạo công việc đống áng. Khi gặp nhau ở ngoài đồng, để ý, Nguyệt thấy mỗi khi đi chăn trâu, Đăng thường mang theo sách học, hoặc truyện gì đó tranh thủ đọc. Nguyệt vưa thả trâu vừa cắt cỏ, đầy gánh cho mình rồi thì cắt thêm nữa, mang buộc thành bó để Đăng cho lên lung trâu cưỡi mang về. Ít trò chuyện, nhưng hai người ngầm giúp nhau vậy. Lớn tuổi hơn, Nguyệt sớm dậy thì, đã có những rung động đầu đời, tự lòng mình đã phảng phất hình ảnh của Đăng, dù biết cậu ta kém mình mấy tuổi.

          Trong đám trẻ làng hay chăn trâu cắt cỏ và làm việc đồng áng, con gái lớn chút, còn có cái Hớn. Đúng với cái tên của mình,  Hớn phổng phao và lúc nào cũng nó cũng hơn hớn như bắt được của vậy. Nó tính khí tồ tề, nên hay làm mọi người bực mình vì những câu nói vớ vẩn, vô duyên. Xét về họ hàng, nó thuộc chi họ và là vai em của Đăng, nên khi xưng hô giữa đám đông, cái Hớn chẳng ngài gì, thản nhiên xưng em với Đăng . Việc này làm Đăng lúng túng đỏ mặt.  Cái Hớn cứ xưng xưng gọi Đăng, “anh ơi, anh à, bố em bảo thế này, thế nọ”… Nguyệt là người kín đáo, ít nói nên cảm giác khó chịu mỗi khi thấy vậy, bởi thâm tâm, Nguyệt quan tâm nhiều đến Đăng.

          Làng Hạ nắm dọc theo một con sông nhỏ, chi lưu của sông Cái, nên mỗi mùa mưa lũ thượng nguồn, nước từ sông Cái đổ về sông làng đầy ăm ắp, ngầu đỏ phù sa. Đối với đám trẻ chăn trâu cắt cỏ đồng, vui thích nhất là mùa nước sông to. Khi ấy, lòng sông rộng ra, tha hồ vùng vẫy, bơi lội, tôm cá theo nước nguồn về cũng nhiều hơn, nên thoải mái đánh bắt. Song cũng có cái lo, ấy là mỗi khi trâu lội sông bơi qua bờ bên kia, phá lúa và hoa màu, thì lại phải bơi sang rong trở lại… Có lần, con trâu Ba Gông sứt mũi nhà Đăng nuôi, xuống sông đầm rồi lên bờ bên sà vào ruộng lúa của Hợp tác xã. Đăng sợ bị phạt, cuống lên, không biết xử trí ra sao,. Cậu ta mới tập bơi, nước cạn thì không sao, nhưng nước sông lớn lại chảy xiết, nên không dám liều bơi sang. Nguyệt muốn giúp nhưng cũng lúng túng chưa biết tính sao, thì cái Hớn bảo “Để tớ… Anh Đăng ơi, em bơi sang dắt trâu cho”. Nói rồi, cái Hớn cứ nguyên quần áo nhào xuống sông, phăm phăm bơi sang. Sau một hồi dằng co, hò hét, đánh vật với con trâu Ba Gông sứt mũi, nó cưỡi lưng trâu vượt sông trờ lại bờ bên này như một vị anh hùng chiến thắng trở về vậy. Cái Hớn dúi thừng trâu vào tay Đăng bảo “Đây nhé. Anh cố giữ đừng để nó lôi anh xuống sông nữa đấy. Rõ đàn ông đàn ang gì mà nhát thế!”. Đăng vửa mừng vừa bực vì bị nó tét tát, đỏ mặt, né người nhìn đi nơi khác, trong khi cái Hớn thì cứ hi hi ha ha. Nguyệt cũng bực thay cho Đăng, song để ý, thấy quần áo cái Hớn ướt bết vào người nó, khiên cơ thể nó, nhất là những chỗ mây mẩy con gái mới lớn nổi rõ như người không mặc gì. Nguyệt ngượng đỏ mặt ngoảnh đi, thấy ghét sự vô duyên của cái Hơn, lại như giận gì Đăng, trong khi cái Hớn cứ như tung tẩy… Phải chăng, Nguyệt cảm nhận được thứ tình cảm của mình dành cho Đăng ?...

          Những năm ấy, chân ruộng xa và trũng úng của làng, gặt xong vụ chiêm, nước đã ngập sâu, cứ bữa chùi, cấy chay thôi, được bao nhiêu cũng quý. Đến vụ mùa lúa chín, nước vẫn ngập đến ngọn, vì các cơn bão cuối mùa khiến trời đổ mưa như trút. Khi gặt, người ta dùng lưới hái quơ lấy ngọn, gánh về xếp đống, lúa ướt sũng chày thành nước nơi sân kho hợp tác xã. Đập đập, rũ rũ rồi mang chia cho các hộ gia đình, có trừ hao thì vẫn thiệt cho người lấy. Hình như lão đội trưởng ghét gì nhà Đăng, nên những hôm thóc ướt như vậy, nhiều nhà chê không lấy, lão ta cứ nhè những gia đình, trong đó có nhà Đăng mà chia thóc. Chứng kiến cảnh ấy, Nguyệt xót cho nhà Đăng lắm, nhưng biết làm sao?

          Đã chiến tranh, gian khổ, thiếu thốn, lại hay thiên tai. Đáng sợ nhất là trận lụt xảy ra vào mùa mưa bão năm 1971. Mùa thu ấy, mưa đâu mà nhiều thế, liền cả tuần, đồng trũng chưa kịp thoát nước đi đâu thì bỗng nhiên nước lại đổ về ấm ầm, đồng làng trắng băng, sông cưồn cuộn nước, nhiều khúc lút cả bở, không phân biệt nổi đâu là đồng đâu là sông. Cả làng, chỉ mấy nhà quen nghề chài lưới là có thuyền, cũng là loại thuyền nan, thuyền gỗ nhỏ bé, là còn dám bơi loanh quanh. Vườn nhà Nguyệt bị ngập hết, còn nhà Đăng ở chỗ đất khá cao thì cũng ngập mấp mé cổng vào. Nghe nói, đê vỡ  tứ tung đâu mãi mạn sông Lô, sông Đà, sông Hồng, làm mấy tỉnh đống bằng ngập ráo, đồng ruộng hoa màu mất trắng và đau xót là có rất nhiều  người chết do lũ vở đê cuốn trôi. Người dân bảo nhau, chính phủ phải cho máy bay trực thăng đi cứu tế những vùng bị ngập sâu bằng cách đóng bao ni-lông bánh mì, bột mì và gạo thả xuống như rài truyền đơn ấy. Chừng nửa tháng, nước cũng rút dần. Đường làng, rồi các đường trục chính ngoài đồng ruộng cũng nhô lên. Nước rút đến đâu, cỏ mọc đến đấy. Lúc lụt lớn, trâu bò phải cho ăn rơm dự trữ, nhưng khi nước rút, thì cũng phải kiếm cỏ cho ăn chứ. Bà con dân làng sốt ruột, cũng chớp chới ra đồng kiếm cá tôm mà ăn…

Một chiều, Nguyệt thoáng thấy bóng Đăng dắt con trâu Ba Gông ngang ngoài cổng nhà mình. Cảm giác không yên tâm, Nguyệt bảo bố mẹ đi cắt ít cỏ tươi, rồi liềm gánh bám theo. Đồng vắng toe, lác đác người đây đó lội ngụp ngoài xa giăng lưới, đặt rọ đặt lờ cá. Đăng dắt trâu cho ăn cỏ nơi con đường trục chính giữa cánh đồng. Nước vẫn ngập khá sâu. Nguyệt cắt cỏ loanh quanh cách đó một quãng, chốc chốc lại đưa mắt theo dõi Đăng. Mải chút, Nguyệt cảm giác bất an, và khi nhìn ra, thấy Đăng đang loay hoay dưới nước, ngập đến nách, dằng co với con trâu đang cố chuồi ra xa nữa đắm cả mình. Nguyệt bỏ liềm cẩm chiếc đòn gánh, chạy vội về phía ấy, đến nơi thì cũng là lúc con trâu Ba Gông lôi tuột cả Đăng xuống vùng nước sâu ngập đầu người. Nguyệt ào xuống, gọi bảo Đăng hãy buông thừng trâu ra, bơi lại vào bở. Nguyệt nhoài người đưa chiếc đòn gánh ra để Đăng nắm lấy rồi kéo đòn gánh lôi Đăng vào. Đến chỗ nước nông, Đăng đứng được chân, cả hai tái mét mặt, thở hổn hển, rồi bì bõm lội vào lên lên bờ đường. Thực ra, bình tĩnh  thì Đăng cũng bơi vào chỗ nước nông được, nhưng do đồng nước ngập trắng băng nên khó biết chỗ nông sâu ra sao, Đăng mới hoảng vậy. Trong khi Đăng còn chưa hoàn hồn, thì Nguyệt lại ý tứ chuyện con gái, lánh người ra xa một chút, xây lưng lại, vừa vắt nước trên quần áo, vừa long ngóng tìm cách tránh để quần áo của mình bết vào người như cía Hớn dạo nào. Biết là Đăng lén nhìn mình, Nguyệt đỏ mặt, lí nhí bảo: “Cậu cứ chờ chút, vùng vẫy chán, con trâu nó tự lên thôi... Còn tớ... tớ phải đi cắt cỏ tiếp đây”. Nói rồi, Nguyệt bỏ đi, quên cả chiếc đòn gánh của mình... Đăng gọi “Ơ kìa, Nguyệt ơi, cậu quên đòn gánh à?”. Nguyệt quay lại,, bảo “ Ừ nhỉ... cứ để đấy, tý nữa tớ lấy”... Nguyệt cắt cỏ, đầu óc cứ để đâu đâu, suýt cắt vào tay. Chốc chốc, lén nhìn về phái Đăng, lần nào cũng bắt gặp cậu ta đang nhìn mình. Nguyệt nghĩ, cậu ta cũng thích mình, nếu không, sao cứ nhìn mình mãi thế, và ngợp đi trong niềm vui dâng lên. Cảm giác như có cái gì chạm vào người, Nguyệt giật bắn, ngoảnh lại, thì ra Đăng đứng ngay sau lung, đưa chiếc đòn gánh khẽ chạm vào người cô ”Con trâu tự lên rồi…Trả Nguyệt đòn gánh này”. Đăng chỉ nói được có vậy rồi đứng chết trân. Nguyệt cố nói to “Để đây cho tớ …Tờ nói rồi, khi nào cắt xong tớ qua lấy mà”. Quấn áo ướt, Nguyệt cứ ngồi, nhưng thấy vậy thật không tiện, bèn đứng dậy, lùi cách xa một chút, hai tay lúng túng che che sợ Đăng nhìn rõ thân thể mình trong quần áo ướt bết. Đăng biết ý nhìn ngang, bảo “Ban nãy, may có cậu… không thì tớ … không biết thế nào… Cảm ơn cậu nhé!...”. Hai cặp mắt đối nhau, Nguyệt cảm nhận mắt Đăng nhìn mình khác lạ, như có gì đó bùng cháy…Nguyệt né cái nhìn ấy, và cô thoát ra bằng cách xẻ một phần cỏ mình vừa cắt, để riêng ra, bảo “Cậu mang cho con Ba Gông ăn thêm, rồi về đi, kẻo người ngấm nước lâu cảm lạnh đấy… Tớ cùng về đây:”. Nguyệt xếp quang gánh cỏ, quảy lên vai, chào Đăng. rảo bước, không ngoành lại, nhưng linh cảm mách bảo, Đăng vẫn đứng đấy nhìn theo mình. Nguyệt tự nhủ lòng, cậu ấy thích mình thật rồi, và tự nhiên, cô đưa lén tay khẽ chạm vào phần ngực mẩy thiếu nữ của mình…

Những năm tháng ấy, cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt. Mỗi năm, vài lần tuyển quân, trai làng lác đác nhập ngũ, ở làng chỉ còn đám choai choai và đàn ông đứng tuổi. Anh trai của Nguyệt vừa tốt nghiệp cấp 2 là nhập ngũ ngay. Người đi ra chiến trường vẫn đi, không khí vẫn hào hùng lắm, Ngược chiều ấy, lâu lâu tin buồn về làng quê một âm thầm lặng lẽ, ấy là giấy báo tử các liệt sĩ đã hy sinh ở mặt trận và nó chỉ bùng ra trĩu nặng, uất hận, đau buồn trong lễ truy điệu ở đình làng. Ấn tượng và ám ảnh mãi về sau, còn là sự trừng phạt đối với một vài người đào ngũ, bằng cách cho dân quân áp giải họ trên đường làng, đeo biển trước ngực “Ai cũng hèn nhát như tôi thì mất nước”. Nguyệt thương và lo cho anh trai mình lắm, nhưng lại cầu mong anh ấy đừng có đào ngũ, để khỏi phải chịu nhục như vậy. Cái Hớn bày tỏ muốn đi bộ đội hay thanh niên xung phong để được cống hiến. Và nó được toại nguyện. Hôm mấy đứa gặp nhau ngoài đồng, nó bảo :”Chào các cậu, tớ sắp đi thanh niên xung phong rồi. Bố tớ bảo trai thời loạn mà. Tiếc cái, tờ là con gái, nếu vào bộ đội, tớ cũng có thể thành dũng sĩ diệt Mỹ, thành anh hùng…”. Nó hớn hở, nhơn nhơn chỉ tay vào mặt Đăng:”Con trai như anh, xung phong nhập ngũ đi chứ… Nghe bảo, mấy đứa ở làng bên còn cắt tay lấy máu viết đơn xin nhập ngũ đấy.”. Thấy mặt Đăng tĩn ra, Nguyệt thương, cãi hộ “Cậu ấy vẫn chưa lớn  mà… với lại có đi khám nghĩa vụ quân sự cũng không đủ sức khỏe đâu…”. Cái Hớn nhìn chăm chăm từ đầu đến chân Đăng bảo: “Ừ nhỉ… cái mã anh thì sao đeo nổi ba lô, còn gạo nước, súng đạn nữa chứ”. Bộ dạng, mặt mũi Đăng nhăn nhó trông thật tội nghiệp. Nguyệt cố đùa để lấy lại tinh thần cho Đăng “Với lại, ai cũng ra trận hết thì sau này chiến tranh kết thúc, thông nhất đất nước, lây đâu ra người để xây dựng lại đất nước… Đăng học giỏi, học tiếp thành kỹ sư, tiến sĩ, mai đây cống hiến vẫn kịp mà…”. Đăng nhìn Nguyệt, ánh mắt tỏ vẻ biết ơn, nói như tự nhủ “Mình cũng nghĩ thế!...”.

Cái Hớn đi. Bố nó đem thư nó khoe với hàng xóm, nên người làng ít nhiều biết được mặt trận trong ấy cũng đầy gian khổ hy sinh,.. Thế rồi, chuyện buồn đến với nhà Nguyệt. Giấy báo tử anh Trung, anh trai Nguyệt hy sinh ở chiến trường B.

Lễ truy điệu anh Trung ở sân đình, giữa đám dân làng, Nguyệt thấy thấp thoáng bóng Đăng, nhưng cậu ta e dè đứng xa lẫn vào đám đồng. Sau đấy, Nguyệt vẫn phải đầm ải việc đồng áng, vì bố mẹ dường như già yếu đi trông thấy sau khi anh Trung hy sinh. Chị gái Nguyệt lấy chồng ở xã bên, năng đi lại an ủi cha mẹ hơn, nhung việc chính trong nhà, Nguyệt phải đảm đương hết. Tuổi mới lớn, chưa kịp  niềm vui hoa niên thì đau buồn đã ập đến, làm Nguyệt vốn bản tính nhu thuận, lại thêm lặng lẽ hơn. Mỗi khi ra đồng, làm gì thì Nguyệt cũng có ý, đưa mắt quanh quất, bao quát xem có bóng dáng Đăng không. Hết cấp 2, Nguyệt ở nhà làm ruộng giúp gia đình, Đăng học lên cấp 3 nên phải đi trọ học xa. Cuối tuần nào, Đăng cũng về nhà, thi thoảng ra đồng giúp bố mẹ, nên hai người cũng khó giáp mặt nhau. Thiếu bóng dáng Đăng, Nguyệt thấy công việc đồng áng chẳng còn thú vị gì nữa, nhưng cô không thể không làm. Nguyệt váng vất trong lòng bởi không ngờ mình lại đem lòng yêu mến, quý trọng người anh họ xa kém mình vài tuổi, thư sinh nho nhã ấy. Thâm tâm, Nguyệt hiểu, Đăng cũng có tình cảm đặc biệt với mình, nếu không muốn nói là thích mình ra mặt,... Cô cũng ý thức được hình thức xinh đẹp của mình. Người như Nguyệt, nếu không phải vì chiến tranh, làng quê thiếu trai tráng, thì có mà đắt như tôm tươi, nhiều nhà tranh nhau đánh tiếng. Hoàn cảnh chung vậy, Nguyệt không dám nghĩ về chuyện chồng con của mình. Ngay như tình cảm thầm kín giữa Nguyệt và Đăng, hai người hiểu lòng nhau, nhưng không một ai dám thộ lộ. Với Nguyệt, lớn tuổi hơn, nếu như Đăng chủ động, cũng chưa chắc cô dám đón nhận, bởi chiến tranh vẫn còn đó, ngày thêm ác liệt, ái dám bảo không, ngày một ngày hai, Đăng cũng sẽ lên đường nhập ngũ, vào mặt trận và không bao giờ trở về như anh trai Nguyệt và bao trai tráng khác? Nếu không, học giỏi như cậu ấy, sẽ học lên cao nữa, thậm chí ra nước ngoài học tập, tương lai tiền đồ rạng mở, lúc ấy, Nguyệt và làng quê sao níu chân người đi? Và một cản trở nhãn tiền, ấy là cha mẹ hai bên, chắc gì họ đã đồng tình, ủng hộ, khi hai nhà có họ hàng xa với nhau, và Nguyệt lại hơn Đăng vài tuổi?... Nguyệt không dám nghĩ, lại càng chẳng dám mơ, hai người có hạnh phúc đôi lứa!... Còn Đăng, Nguyệt thầm phỏng đoán, cậu ấy thích mình bởi thứ cảm xúc nhất thời của chầng trai mới lớn, ít nhiều mang tính bản năng, khi mà Nguyệt đang độ tuổi xinh đẹp mỡ màng của thiếu nữ dậy thì, tính nết lại ngoan hiền, chăm chỉ, nhường nhịn...

Với ý nghĩ như vậy, Nguyệt cố dứt mình ra khỏi thứ tình cảm thuần khiết đầu đời dành cho Đăng, để quyết định việc lựa chọn người đàn ông của đời mình,,,

X

Số là, làng Hạ đang ảm đạm bởi những mất mát đau thương vì một số trai làng hy sinh nơi mặt trận, thì không khí bỗng thay đổi đột ngột, tưng bừng hẳn lên, khi có một người anh hùng từ chiến trường trở về. Người ấy là anh Dũng. Nói là anh hùng thì hơi quá, đúng ra, anh Dũng được phong danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Anh ấy hơn Nguyệt mấy tuổi, nhập ngũ trước anh trai cô một năm, Khi còn học cấp 3, anh ấy học giỏi văn và nói năng lưu loát, văn hoa. Nhập ngũ, huấn luyện rồi đi chiến trường B. biền biệt mấy năm không tin tức, nay bỗng trở về với danh hiệu dũng sĩ và là thương binh vì mất một bên chân. Việc anh Dũng trở về gây nên một sự kiện chưa từng có ở làng Hạ, thậm chí cả xã, Từ cán bộ xã, đến cán bộ các đoàn thể, thôn xóm đều đến tận nhà thăm anh. Họ hàng, làng xóm cũng ùn ùn kéo đến thăm. Đến nhà anh, không những để chia vui, và để hỏi thăm người nhà đang ở mặt trận, còn để nghe anh Dũng kể chuyện chiến đấu nơi chiến trường ác liệt ra sao... Đảng ủy xã gợi ý và tổ chức mời anh Dũng đứng ra nói chuyện với mọi người nhằm động viên tinh thần chiến đấu, sản xuất chung. Sau buổi tổ chức ở xã, anh Dũng nói chuyện ở làng. Mọi người càng xôn xao chuyện về anh Dũng bao nhiêu, thì nhà Nguyệt tủi thân bấy nhiêu, nỗi buồn vì anh Trung hy sinh. Nguyệt cứ ước, giá anh Trung mình cũng như anh Dũng thì hạnh phúc bao nhiêu. Buồn là thế, nhưng khi anh Dũng kể chuyện chiến trường ở sân đình, Nguyệt có đi nghe, nhưng chọn chỗ xa đứng. Công bằng, anh Dũng kể chuyện rất cuốn hút, dẫn dắt, lưu loát, truyền cảm, khiến mọi người khi lặng đi vì xúc động, lúc lại ồn lên vui vẻ vì sự hài hước. Nguyệt ngồi khá xa bàn diễn giả, và nghe cũng câu được câu mất, nhưng cô cảm thấy ánh mắt anh Dũng luôn dõi thẳng vào mình. Vì vậy, cô vờ như không biết, quanh quất nhìn đi đâu đó. Khi anh Dũng nhăc tên vài ba chiến sĩ người lầng đã hy sinh, có tên anh Trung, thì anh nhìn thẳng vào mắt Nguyệt, khiến cô trào nước mắt suýt bật khóc thành tiếng. Kết thúc buổi nói chuyện, anh Dũng hùng hồn nói những lời như hiệu triệu. Khi dân làng giải tán, ra về hoặc túm lại thành từng nhóm, chuyện trò này nọ, không ngớt lời khen ngợi, thì anh đi thẳng đến chỗ Nguyệt đứng. Nguyệt thắt tim không biết ứng xử ra sao thì anh ân cần: “Nguyệt phải không?... Anh đi mấy năm mà ở nhà em lớn vổng lên,… xinh quá... Anh suýt không nhận ra đấy... Anh lấy làm buồn tiếc khi biết tin anh Trung em hy sinh... Chiến trường mà, mũi tên hòn đạn nó tránh mình, chứ mình làm sao tránh nó... Lúc ấy chỉ còn biết tìm địch mà tiêu diệt... Anh may mắn hơn, chỉ mất một chân... Nhưng không sao, em à. Còn một chân với hai cánh tay này, không chiến đấu nơi chiến trường thì cống hiến nơi mặt trận sản xuất, xây dựng... Em ạ, anh tin mình đủ khả năng gánh vác việc gia đình...”. Câu cuối, anh trầm giọng nhỏ như chỉ đủ cho hai người nghe. Sau này, khi lấy nhau. Nguyệt mới hiểu, khi ấy, anh Dũng đã hàm ý việc sẽ hỏi mình làm vợ...

Và rồi, chì dăm tháng sau, bao ồn ã từ việc anh Dũng xuất ngũ về làng với các câu chuyện chiến trường của mình lắng đi, thì anh lại gây nên một xôn xao mới, ấy là việc đánh tiếng hỏi Nguyệt làm vợ. Làng nước, ai cũng khen là đẹp đôi vừa lứa, trai anh hùng, gái thuyền quyên. Gọi anh Dũng là trai anh hùng cũng là xứng đáng với những cồng hiến và mất mất của anh cho chiến tranh thống nhất đất nước, còn Nguyệt, nói gái thuyền quyên thì hơi quá, song ở tuổi mười tám đôi mươi, dẫu không giỏi giang xuất sắc nhưng xinh xắn và hiền thục. Bố mẹ Nguyệt mừng lắm, phân giải cho cô, tuy anh Dũng là thương binh đấy, nhưng như vậy là phúc rồi, lại nữa, anh đang là sự ngường mộ của mọi người, lấy nhau, vợ chồng yên phận mà sản xuất, sinh con đẻ cái. Nguyệt có vẻ thuận theo, nhưng trong lòng, vẫn ít nhiều vương vấn mối thiện cảm với Đăng. Song le, chuyện ấy chỉ hai người biết với nhau, có chăng, mẹ Nguyệt mơ hồ biết chuyện, tìm cách gạt ngay đi để Nguyệt không mơ tưởng gì, bảo “Con gái có thì, chiến tranh thì ngút trời như thế, biết đâu mà lường, con ạ... Với lại, nhà bên ấy dòng Nho gia nền nếp, chọn dâu con kỹ lắm, duyên số có thành thì làm dâu cũng mệt... Mà nhà người ta có hỡi hơi gì đâu,… chẳng nhẽ cọc đi tìm trâu à?”. Mẹ Nguyệt buông mấy câu như vậy khi có hai mẹ con với nhau, lửng lơ vậy thôi nhưng có sức lay chuyển, và Nguyệt sụp đỏ trước lý lẽ đó, chấp thuận việc đánh tiếng ngỏ lời của anh Dũng. Việc chọn ngày cũng phiên phiến  vì chiến tranh. Động viên thành tích của anh Dũng, xã bán phân phổi cho anh ít bánh kẹo, chè gói và thuốc lá để tổ chức đám cưới.

Trước lẽ cưới ít ngày, một chiều, Nguyệt tranh thủ làm đồng giúp bố mẹ. Xong việc, chiều đã muộn, Nguyệt ra bờ sông rửa chân tay, định về thì chạm trán Đăng. Cậu ta trọ học xa nhà, chiều ấy từ nơi trọ về nhà. Thấy Đăng, Nguyệt lúng túng như người mắc lỗi, lí nhí chào. Khác mọi khi, Đăng mạnh bạo, chủ động nói chuyện. Hai người đi sóng đôi nhưng Nguyệt lánh xa đủ để nói chuyện. Chuyện nhì nhằng một hồi, khi gần đến cây đa đầu làng, Đăng dặng hắng, hỏi  “Nghe nói... Nguyệt săp lấy chồng?”. Nguyệt bước chậm như đứng lại “Ừ... Đăng biết rồi à?”. “Chủ nhật tuần trước về nhà, ... mẹ tớ nói...Vậy là đúng...”. “Vài ngày nữa là chúng tớ tổ chức đám cưới...”. “Nghe nói... là anh Dũng... Anh ấy xứng đáng mà... Anh ấy thật may mắn ... khi lấy được Nguyệt...”. “Tớ tưởng cậu nghĩ... tớ may mắn lấy được anh ấy cơ ?”. Nguyệt thoát khỏi mặc cảm có lỗi, cố đùa. Hai người dừng hẳn, đối diện nhau, Đăng nói chậm, từng từ một “Nguyệt có yêu... À, có thích anh ấy không?’. Hai cặp mặt gặp nhau, Nguyệt nói lảng tránh “Bố mẹ tớ... cả tớ... đồng ý lời cầu hôn của anh ấy...”. Đăng nén tiếng thở dài “Đáng tiếc... tớ không phải là người may mắn... Chúc đắng ấy hạnh phúc!...”. Nguyệt nín thinh, cúi mặt “Đăng còn trẻ... Lại học giỏi... tương lai rạng ngời...chờ cậu mà...”. Đăng gặng “Cậu có vẻ buồn? Sắp cười rồi... thì phải vui chứSao vây?”. Nguyệt như muốn khuỵu chân, lấy hết can đảm “Tớ xin lối... ấy nhé...”. Rồi như một kẻ trốn chạy, Nguyệt nén bật khóc, rảo bước thật nhanh  đi hút vào đường làng. Đến khúc ngoặt, Nguyệt mới dám ngoải nhìn lại, Đăng vẫn đấy, cái bóng mảnh khảnh thư sinh của cậu ta như một dấu chấm phảy trong bóng hoàng hôn...

 

X

Mới đó, mà đã hơn bốn mươi năm rồi...

Ánh chiều đã tắt. Sương phảng phất đâu đó nơi ngọn cây. Bà Nguyệt thở dài, đứng dậy dọn dẹp bát đũa, nôi niêu. Khép cửa bếp, lên nhà, đến trước gương. Lâu rồi, bà mới dám đứng trực diện soi gương. Đâu rồi gương mặt trái xoan vẻ buồn buồn, hàm răng trắng đều và mái tóc đen dày dài chấm thắt lưng tuổi mười tám đôi mươi của cô Nguyệt xinh có tiếng trong làng? Giờ chỉ còn gương mặt hao mòn dày nếp nhăn và mái tóc thưa mỏng bạc già nửa... Bật đèn sáng trưng, từ hôm chồng vắng nhà, bà Nguyệt thích để đèn sáng, bật ti vi cho đỡ cô quạnh. Ngó mặt ti vi mà bà chẳng rõ người ta nói gì ở đấy...

 Ngần ấy năm, vẫn tất bật sớm hôm việc đồng áng, nhà cửa. già đi là đương nhiên, song bà Nguyệt hiểu mình già hơn so tuổi. Lo việc nhà chồng, nhà mình, bà như đã quên Đăng từ lâu lắm rồi. Sau lần giáp mặt cuối cùng ấy, thi thoảng Nguyệt thấy bóng dáng Đăng đâu đó trong làng. Đăng có đi khám nghĩa vụ quân sự nhưng không đủ sức khỏe nhập ngũ, tốt nghiệp cấp 3 thì cũng là lúc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đăng đậu đại học, ra trường nhận công tác mãi phương Nam. Bố mẹ Đăng người trước người sau mất cả, các chị gái lấy chồng nên nhà vườn ở làng Hạ bỏ không nhờ người quen trông hộ. Lâu lâu, người làng thấy Đăng đáo về thăm nom ...

Còn Nguyệt, sau đám cưới, chỉ biết chuyên tâm, quán xuyến việc cả hai gia đình. Sống với nhau, Nguyệt hiểu, ngoài chuyện chiền trường, chồng mình cũng chỉ văn hoa vặt vãnh thôi, chứ kiến thức chẳng là bao. Thêm nữa, việc đồng áng cũng không mấy thạo, sức khỏe yếu vì thương tật nên bao việc nặng nhọc hai bên đều đổ hết vào đầu Nguyệt. Thực lòng, cô cũng không trách gì chồng, hiểu chồng mình đã hiến tuổi thanh xuân cho chiến tranh và bị thương tật đã là một thiệt thòi lớn. Sự buồn tủi của Nguyệt ấy là mãi không chửa đẻ. Vài ba năm, rồi dăm năm qua đi, Nguyệt không một lần mang thai. Làng xóm cũng xì xào này nọ, người chê cô đực, không biết chửa đẻ, kẻ lại bảo anh Dũng bị nhiễm gì đó ở chiến trường nên tịt dường con cái. Chẳng biết giải thích làm sao, Nguyệt thây kệ, nhưng thâm tâm, tự biết mình vẫn đầy đủ, đều đặn chức năng sinh lý đàn bà. Vậy thì chỉ có thể tại chồng thôi. Nghĩ vậy, song cũng không dám nói thẳng với chồng. Có vài ba lần Nguyệt tìm thầy, thuốc thang, đông tây y đủ cả nhưng vẫn chẳng được. Cực chẳng đã, Nguyệt đánh bạo nói với chồng, thì anh Dũng gạt phắt, bảo anh khỏe mạnh, ngoài cái chân cụt ra, không bệnh tật gì cả. Nói vậy thôi, anh Dũng có thể giấu người ngoài chứ làm sao giấu được Nguyệt. Vợ chồng đầu gối tay ấp hàng đêm, chuyện giường chiếu, chăn gối ra sao, Nguyệt hiểu chứ. Vốn bản tính hiếu thắng nên anh Dũng không bao giờ nhận lỗi về mình. Sự hiếu thắng của một người lính trận trở về bộc lộ cả trong chuyện tình ái với vợ ngay đêm tân hôn. Khi Nguyệt còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì anh Dũng đã làm xong nhiệm vụ con đực của mình với vẻ hoan hỉ. Nguyệt những tưởng có thể chồng háo hức kiểu của đàn ông lần đầu lâm trận. Nhưng rồi, sau vẫn vậy, nên Nguyệt chưa một lần có được cảm giác sung sướng đàn bà. Nói năng thì khéo léo là thế nhưng chuyện chăn gối anh Dũng lại vụng về, đơn điệu, vị kỷ…Và dần dần, mỗi lần chăn gối, Nguyệt chỉ còn cảm giác cam chịu cho xong chuyện. Song như thế còn là may mắn. Sinh lực đàn ông trong chuyện tình dục của anh Dũng như ngọn đèn hao dầu cạn bấc, chập chờn, le lói và lụi dần. Kể cả việc chồng trở thành bất lực đi chăng nữa, Nguyệt cũng cam chiụ nếu như trước có được mụn con. Mỗi đêm, vợ chồng nằm bên nhau, canh thâu đằng đẵng, nhiều lúc Nguyệt ứa nước mắt tủi thân, nhưng ngẫm nghĩ, chồng mình cũng đáng thương lắm chứ. Mươi năm vẫn không con cái, muốn níu giữ gia đình, Nguyệt hiểu mình phải có con bằng mọi giá. Người chị ruột nhỏ to, bàn với Nguyệt, tính toán nếu thuốc thang không được mà mình vẫn có thể sinh đẻ, thì liều một phen, chủ động xin giống của ông thầy thuốc nào đó, miễn sao có thai sinh con. Ai biết đấy là đâu. Chuyện này, Nguyệt nghe đâu đó đã từng, song bản tính nhu mì, không dám nghe theo. Thực lòng, những năm tháng không con cái, hằng đêm, vợ chồng nằm cạnh nhau như hai miếng gỗ ghép không khớp, Nguyệt cũng từng phiêu lưu trong ý nghĩ. Có nhiều lần, Nguyệt khát khao được ân ái thì chồng cũng chỉ ôm ấp, vuốt ve qua loa. Nguyệt đã nghĩ về người đàn ông thuở hoa niên của lòng mình, và tự hỏi, nếu hai người có duyên phận với nhau, biết đâu có vài ba đứa con cũng nên. Lại có lúc nghĩ quẩn, Nguyệt khát khao đàn bà ước được ôm ấp, được dâng hiến cho người ấy... Song mới chỉ nghĩ vậy thôi, Nguyệt đã cảm giác của người có lỗi với chồng... Chồng buồn một thì Nguyệt buồn mười, song cứ buồn phiền thì cuộc sống chỉ mòn mỏi thêm mà thôi. Cuối cùng, vợ chồng bàn bạc, nhờ cậy tận bệnh viện tỉnh, xin được một trẻ sơ sinh trai vô thừa nhận, về nuôi làm con. Khi nhà có tiếng trẻ khóc cười, niềm vui đến với vợ chồng Nguyệt như một sự đến bù của cuộc đời.

May là, cu Đạt, đứa con nuôi lớn lên khỏe mạnh. Dù không giỏi giang nhưng được cái lanh lợi, biết nghe lời cha mẹ. Đến tuổi, cu Đạt đi nghĩa vụ quân sự, đóng quân mấy năm ở miền Trung du. Ra quân, thấy miền đất ấy thuận lợi cho việc làm kinh tế, nó xin với bố mẹ thuê gom đất lập trang trại canh nông, rồi bén duyên với cô gái bản địa, nên vợ chồng. Giờ thì Nguyệt đã là bà nội của hai đứa cháu đủ nếp tẻ. Rốt cuộc, hạnh phúc cũng mỉm cười với vợ chồng Nguyệt, bù đắp cho những gì là thiệt thòi của mấy chục năm qua... Cu Đạt, dẫu chẳng phải giọt máu của vợ chồng Nguyệt, nhưng người xưa bảo “cha sinh không bằng mẹ dướng”, nó về làm người của nhà Nguyệt từ lúc lọt lòng, cũng đâu có khác con ruột. Thiên hạ đầy rấy nhà con cái hư hỏng, cha mẹ đau xót đã phải thốt lên rằng “biết khổ thế này, tao bóp chết mày từ lúc sơ sinh”…Được như vậy, với Nguyệt là may mắn rồi…

Thực ra, khi nhà có tiếng trẻ khóc cười, mọi quan tâm đổ dồn hết vào đứa con nuôi. Hạnh phúc đôi lứa của vợ chồng Nguyệt đâu cfn quan trọng việc chăn gối, mà niềm vui là ở đứa con kia.

          Đã từng này tuổi đầu, chuyện cũ đã qua đi những bốn mưới năm, bà Nguyệt chẳng còn vui buồn với quá khứ xa xưa. Sở dĩ. bà nhớ lại, nghĩ ngợi chuyện cũ, là bởi vài năm gần đây, các anh chị em nhà Đăng về quê cho xây ngôi thờ tự trên nền đất vườn có ngôi nhà gianh vách đất cũ. Kể từ đó, Đăng và vợ con hay về quê hơn. Năm trước, sau bao nhiêu năm, Nguyệt mới giáp mặt Đăng. Chùa làng được trùng tu, Đăng về quê, đến chùa thắp hương công đức. Hai người chạm mặt nhau nơi cổng chùa, mặc dù bà Nguyệt cố tình né đi, giấu mặt dưới khăn choàng đầu, song Đăng vẫn nhận ra, chào trước “Bà Nguyệt đấy à? Có phải Nguyệt không?”. “Vâng, tôi … Ông về quê,… lên chùa lễ Phật ạ”. “Lâu lắm rồi… mới gặp lại…bà… Ông nhà và cháu khỏe chứ?...”. “Vâng,…Cảm ơn ông hỏi thăm … ông nhà tôi và các cháu vẫn thường…Bà nhà và các cháu có về cùng ông không ạ?… Cho tôi gửi lời thăm sức khỏe…”. Đại khái mấy câu xã giao vậy, bà chủ động cắt chuyện cáo lỗi đi trước. Tưởng chỉ vậy, nhưng sau đó bà cũng nghĩ ngợi ít nhiều. Mới hôm trước, bà đi làm đồng, nhác trông xa biết vợ chồng Đăng đang xây lại mộ cha mẹ. Bà chống lưng nhìn, thoáng chạnh lòng. Mà ngày trước cũng đâu vào đâu, ngoài chút tình cảm nam nữ của những kẻ mới lớn. Nghe đâu, mấy đứa con của Đăng học hành giỏi giang lắm, còn Đăng thành nhà văn nhà thơ gì đó. Bà Nguyệt từng nghe đám thanh niên ở làng kháo nhau rằng, chúng đọc trên mạng, thấy thơ văn của ông Đăng viết nhiều về chuyện làng mình, cả về Nàng Thơ ngãy xưa chi dó, không biết có thật không và là ai nhỉ? Bà có chút bâng khuâng trong lòng, chả nhẽ, ông ấy viết về mình?...

           Chợt có tiếng chuông điện thoại. Chồng bà gọi về bảo, ông sẽ ở thêm mươi ngày nữa nơi trang trại của con. Cũng báo thêm, vợ chồng cu Đạt muốn năm nay đón bố mẹ lên ăn Tết trên ấy, thay vì như mọi năm, vợ chồng con cái chúng kéo nhau về quê ăn Tết với bố mẹ, và ông đang cân nhắc…

Bà Nguyệt chộn rộn, thắp một tuần hương trên bàn thờ gia tiên, thầm nghĩ, ừ có lẽ như thế cũng hay?!.. ./.

 

 

 

 

HOA CHANH VẪN TÍM VƯỜN XƯA

 

 

Giêng hai dấm dứt mưa dầm,
để cho ta lại lặng thầm nhớ xưa,...

Sáng trở dậy, công việc đầu tiên của Việt là vào buồng bệnh của mẹ, giúp mẹ làm vệ sinh cá nhân, rồi pha sữa cho mẹ uống. Đã mấy tháng nay, mẹ anh bị chứng tai biến mạch máu não phải nằm yên một chỗ. Việt bỏ hết công việc của nhà cho vợ con quan lý, từ Sài Gòn nhao ra Bắc, đến bệnh viện rồi đưa mẹ về quê chăm sóc. Tiếng là nhà đông anh em, nhưng ai cũng bận việc của mình, Việt là con cả, nhưng anh lại sớm xa nhà, học hành, rồi vào quân ngũ và sau đó lập nghiệp, lấy vợ, định cư ở phương Nam nên mọi công việc chăm sóc cha mẹ già ở quê đều do các em đảm nhiệm. Thảng năm đôi lần, Việt bay ra Bắc thăm các cụ, ở quê chừng mươi ngày, biếu các cụ ít tiền rồi lại biền biệt. May giờ liên lạc thuận tiện, tháng dăm ba lần điện thoại hỏi thăm cho yên lòng.

          Xong việc chăm mẹ bữa sáng, Việt trở ra pha ấm trà. Thoảng hôm nào Bình, cô em gái ở gần chợ búa mua quà sáng về đổi món, còn không thì anh cứ luân phiên mì tôm, cơm rang cho tiện. Đang nhâm nhi chén trà, định bụng làm gói mì tôm thì đã thấy Bình đánh tiếng ngoài sân.

          - Em mua cho bác bánh giò đây. Bánh giò xóm Chợ ngon có tiếng, hẳn bác còn nhớ chứ? 

- Nhớ chứ,... Việt thủng thẳng.- Cô cứ làm tôi biệt xứ không về quê bao giờ ấy.

- Thì em cứ ngỡ bác quên ... Bình bóc bánh giò để ra đĩa mời anh, cười cười bảo - À này, bác Việt... sáng nay ở chợ, bác có biết em gặp ai không?...
          - Ôi, chợ làng đông cả huyện ngườ thếi... - Việt cảnh giác - làm sao anh biết được nhà cô gặp những ai ?...
          - Này,... em gặp chị Thắm xóm Chợ đấy... - Cô em nói nhỏ như nói thầm - Thắm, người yêu cũ của bác ý... Chị ấy cũng đi chợ. Nghe đâu chị ấy sống ở Hạ Long hay Cẩm Phả gì đó. Cùng nghỉ hưu rồi, nhưng mà trông người vẫn trẻ trung lắm... Trẻ hơn em là cái chắc....
          - Điêu vừa chứ - Anh yêu cái nhà cô Thắm bao giờ mà cô cứ xung xưng mọc mọc lên thế ?
          - Kìa, bác - Bình cười – Lại chối rồi. Bác đỏ mặt lên thế kia... tức là có gì chứ... Mà thôi, nói thế này cho chuẩn... cái nhà cô Thắm ấy yêu bác, đúng không? ... Không tin, để em hỏi u thì rõ ngay thôi - nói cho vào buồng trong - U ơi... 
          - Thôi, tôi xin cô - Việt cười trừ - để yên cho u nghỉ... chỉ được cái quấy rối - anh trách yêu cô em gái. 
          Buồng trong, có tiếng mẹ anh ú ớ gì đó, Việt giục Bính vào xem sao. Ăn xong chiếc bánh giò, anh rót chén trà nhấp từng ngụm, ngẫm ngợi... Ngoài sân, con gà trống choai loay hoay gạ gẫm mấy ả mái tơ... Nắng lên, sân vườn còn ướt sau trận mưa đêm qua. Vẫn đang tiết xuân mà. Cây chanh cỗi cạnh sân giếng và bể nước mưa đơm những chùm hoa tim tím. Việt hít căng một hơi, cảm giác mùi hoa chanh thơm dìu dịu, phảng phất như có như không. Anh bâng khuâng, chợt như tiếng ai đó mơ hồ ngoài cổng "Anh Việt ơi...".

###
          Ngày ấy, thời đi học, bố Việt là hiệu trưởng trường cấp hai của xã, ông lại trực tiếp giảng dạy môn văn. Việt học khá cả văn và toán, nhưng vì bố anh dạy văn, nên anh không muốn mình được xem là học sinh giỏi môn văn, vì như thế khác nào ỷ vào bố. Anh gắng học môn toán sao cho giỏi trội lên, để chứng tỏ lực học tự thân. Thắm người xóm Chợ, khác xóm, nhưng chỉ cách nhà anh chừng nửa cây số, cô học cùng lớp với cái An, em gái ngay dưới Việt. Thắm học văn khá, còn lại thì thường thôi. Tính cô bé bạo dạn, chơi thân với cái An, nên thi thoảng qua nhà Việt, tiếng là đến chơi với bạn, nhưng còn để mượn sách và nhớ bố anh giảng thêm cho những bài văn khó, hay còn vì gì gì nữa thì Việt chẳng rõ. Việt không thích sự mạnh bạo này của Thắm, nên hay tránh mặt, mỗi khi cô bé đến nhà. Đã thế, Việt lại bị cái An gán ghép với Thắm và lâu lâu mang ra chế giễu, càng làm anh khó chịu. Nhiều hôm, Thắm đến bất chợt, nhưng nghe thấy tiêng cô léo nhéo với cái An ngoài sân là Việt vội mang sách vở từ bàn học gian ngoài lánh vào buồn ngủ của bố mẹ để học. Có buổi Thắm mải chuyện với An, khiến Việt phải ở lì trong buồng không dám ho he, nhịn cả tiểu tiện đến khổ sở vì không muốn ló mặt ra. Buồn cười thế đấy. Có lẽ chính vì vậy mà sau này anh khó quên chăng?...

         Làng quê anh đồng ruộng bằng phẳng, nhưng lại thuộc vùng đất bán sơn địa, nương tựa vào chân núi An Phụ, trải quanh vùng có sông lớn Thái Bình và Kinh Thầy chày qua, nên có thể xem như địa thế rất đẹp. Chẳng thế mà xưa kia, cả vùng đất này là đất thang mộc của nhà Trần từ thuở mới lập triều, có trang ấp của An Sinh Vương Trần Liếu, thân sinh ra Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Thế nên, cùng với xứ Hải Ấp và hương Tức Mặc thì đất An Sinh này cũng là đất trọng yếu, có công lớn trong việc dung dưỡng nhiều nhân tài gây dựng vương triều Trần oanh liệt của lịch sử chống ngoại xâm nước nhà. Người dân mấy làng ở đây có thói quen canh tác hành tỏi. Thu nhập cao hơn canh tác lúa nhưng lao động nghề nông thì vất vả lắm. Riêng xóm Chợ nhà Thắm thì ít ruộng, các hộ sống chủ yếu bằng buôn bán vặt quanh năm suốt tháng bám vào chợ, nhất là nghề làm các món quà vặt. Nào bánh tẻ, bánh khúc, bánh cuốn, bánh giò, trong mấy thứ ấy thì bánh giò xóm Chợ ngon nổi tiếng trong vùng. Ngày còn đi học ở quê, lâu lâu mẹ anh đi chợ mua sắm mới dám mua quà bánh giò cho mấy bố con ở nhà ăn. Bánh giò, chỉ là món quà quê, đâu có gì cao sang nhưng cũng như bánh cuốn, là để ăn chơi, thưởng thức quà chứ không phải là loại bánh ăn no bụng như bánh đúc, bánh tẻ, bánh khoai. Cả nhà anh, bảy miệng ăn, tiêu pha trông chờ cả vào đồng lương thầy giáo của bố anh, còn mẹ anh làm nông nghiệp, thêm mấy anh em phụ vào thì đủ gạo nước rau cỏ hàng ngày thôi. Vậy nên, hôm nào có quà bánh giò xóm Chợ là sang lắm, đứa nào cũng háo hức, chỉ riêng bố anh được mẹ phần riêng cả chiếc, còn hai đứa chia nhau một cái, ăn loáng hết ngay miệng thì vẫn chóp chép thòm thèm lắm...

          Có lần, Việt hỏi mẹ anh về chuyện bánh giò xóm Chợ có từ bao giờ và sao lại ngon làm vậy? Mẹ anh bảo, cũng chỉ nghe cái cụ nói sở dĩ ngon vậy là có bí quyết riêng. Chuyện kể là, xưa kia, thời giặc Nguyên Mông sang xâm chiến nước ta, nhà Trần thực hiện kế sách lui binh, bỏ vườn không nhà trống nên cả trang ấp An Sinh và vùng dân lân cận làng mạc cũng bỏ không hết. Trên đường chạy loạn, có một nữ nhân người trong trang ấp bị tụt lại, lạc đường đến nghỉ chân ở dưới gốc đa giếng nước cuối xóm Chợ. Nữ nhân này đói khát, được một bà người làng nhường cho nửa cái bánh giò đang ăn dở của mình, lại múc nước giếng cho uống. Đỡ đói khát, người lại sức nên nữ nhân ấy đuổi theo kịp đoàn người nhà trang ấp. Sau này, đuổi xong giặc, làng xóm thanh bình, nữ nhân ấy về lại trang ấp An Sinh và lên tới hàng quản gia. Nữ nhân đó nghe đâu quê gốc ở gần kinh thành Thăng Long, con nhà có nghề làm bánh giò, vì cảm cái ơn người xóm Chợ cho ăn cứu đói, đã cho gia nhân trang ấp dò tìm được bà già xóm Chợ trước nhường ăn cho mình, mời đến trang ấp, biếu quà báo ơn và còn truyền cho bí quyết nghề làm bánh giò của nhà mình. Kể từ đấy, bảy tám trăm năm nay, người xóm Chợ có nghề chuyên làm bánh giò, bánh bán và bỏ mối nhiều nơi trong vùng, nhưng nghề  này thì cũng chỉ giữ ở vài chục nhà thuộc họ hàng thân thiết của bà cụ tổ nghề bánh giò ngày xưa của xóm thôi, trong đó có nhà cái Thắm. Miếu Bà gần cây đa giếng nước cổ xóm Chợ là thờ người nữ gia nhân trang ấp xưa ấy và nghe đâu cũng thiêng lắm. Người dân xóm Chùa vẫn hay thắp hương cầu khấn xin phù hộ này nọ. Mẹ anh còn bảo, bánh giò tiếng là quà quê, không khó làm, nhưng làm ngon thì khó lắm. Để làm ra loại bánh ngon, thì đương nhiên các nguyên liệu làm bánh như gạo bột, nhân thịt mộc nhĩ đầu phải ngon, song khó nữa là kỹ thuật làm bánh, nhất là khâu ráo bột, để sao cho áo bánh lúc chín đủ độ mềm dẻo mà ăn vẫn giòn, không sượng không nát...

          Tốt nghiệp phổ thông, Việt theo học chuyên ngành cơ điện. Thỉnh thoảng về thăm nhà hoặc kỳ nghỉ hè, Việt hay gặp Thắm ở nhà mình. Cái An, em gái anh học lên cấp ba trường huyện vẫn chung lớp với Thămm nên hai đứa thường qua lại nhà nhau. Mỗi khi chạm mặt, Việt không né tránh nữa, nhưng cũng chỉ chào hỏi xã giao, vì chẳng gì anh đã là sinh viên. Thắm đã phổng phao dậy thì thành thiếu nữ rồi, nên Việt thấy mình cũng cần phải ra dáng đàn ông chứ chẳng thể cư xử kiểu học trò như trước nữa.

           Ngày ấy, một sáng chủ nhật nọ, trong kỳ nghỉ thăm nhà, Việt ở nhà một mình. Bố anh có việc gì đó vắng nhà, còn mẹ và mấy đứa em thì ra đồng cả vì đang mùa thu hoạch tỏi. Việt mới từ trường về, cũng định ra đồng giúp mẹ và các em. Mẹ thương anh đường xa xe cộ vất vả nên bảo anh cứ ngủ cho đã rồi muồn muộn ra đồng cũng được. Việt ngủ dậy thì mọi người đã đi hết, nhà vắng tanh. Anh định ăn sáng rồi ra đồng thì nghe có tiếng ai gọi cái An ngoài cổng. Anh ló ra và còn đang ngó nghiêng thì ai đó gọi tên mình. “-Anh Việt ơi, em đây mà ... Em... Thắm đây ạ”.  Việt mở cổng, nhận ra Thắm. Cô xách một túi nặng tay, cười hỏi: “- Hai bác và An có nhà chứ ạ? “. Việt giải thích qua, nhưng quên không mời cô vào, thì Thấm chủ động: “Thế anh Việt khộng định cho em vào nhà à? Hay cứ để em đứng đây rồi về? “. Việt lúng túng xin lỗi, mời Thắm vào nhà. Cảm giác có lỗi nên anh  bị động, lặng lẽ rót cốc nước lọc to tướng đặt trước mặt Thắm. Cô đưa anh cái túi nặng trĩu trên tay, bảo : “ Em qua đây, trả bác trai tập thơ Nguyễn Bính em đã mượn bác về đọc tham khảo... Tiện đây, em xin biếu câc bác và nhà mình chục bánh giò... Bánh nhà em làm đấy, vẫn còn nóng hổi...Đáng lý là anh phải xách giúp em từ ngoài cổng vào ấy chứ...”. Cô cười đùa, khiến Việt càng lúng túng: “Tôi chán quá nhỉ... xin lỗi nhé.”. Thắm nhìn quanh quất, bỗng à lên “Bánh giò là phải ăn nóng thì mới ngon,... Để em bóc một cái anh Việt ăn thử nhé... Chính tay em làm đây, anh ăn xem em có khéo nghề không?...? Việt rãy nảy: “Ấy đừng... Con cái làm sao dám ăn trước bố mẹ... Với lại, nhà tôi có nếp, quà ai biếu cứ phải bày lên bàn thơ thắp hương các cụ trước rồi mới dám xin lộc...”. Việt vội đi lấy chiếc đĩa đưa Thắm để cô bày ra, rồi anh đặt lên bàn thờ thắp mấy nén hương. Xong việc, Việt ngồi xuống tiếp chuyện Thắm. Cô cười như người có lỗi: “Khi nãy, em vô duyên quá... Cho xem xin lỗi, suýt nữa phạm thượng các cụ... Anh thông cảm cho em nhé. Nhà mình đây lễ giáo... bên nhà em dân chợ nênquen xuê xoa...” . Việt vội gạt đi. Câu chuyện giữa anh và cô cởi mở hơn...

          Là khách nhưng Thắm lại chủ động dẫn dắt câu chuyện. Thắm hỏi thăm anh học ngành cơ điện có khó lắm không, rồi cuộc sống sinh viên chắc thiếu thốn lắm... Đại khái thế, anh cứ răm rắp trả lời cô như một câu học trò ngoan. Một hồi tắc tị, dường như hết chuyện, Việt chợt nhớ là anh chưa hỏi gì cô, khi ấy mới dụt dè hỏi xem sau này cô mơ ước làm nghề gì. Cô cưới rạng rỡ; “Em thích học sư phạm lắm, Làm cô giáo dạy văn, như bố anh ấy... Chắc là thú thị lắm nhỉ? Anh Việt có thấy thế không?”. Anh ngớ người khi bị hỏi ngược, bảo: “Mình không rõ... bố mình có thấy thú vị không... chứ ông nói chuyện với mẹ mình thì cứ khô như ngói ấy... cấm thấy câu nào dịu dàng cả”. Thắm cười. tay che miệng mà cười, khiến anh ngây như ngố; “Thắm không tin.., cứ hỏi cái An nhà mình là rõ...”. Cô cố nín cười: “Em tin... thì thầy u em cũng vậy mà... Các cụ quen nếp cũ, nhất là trước mặt con cái, hay chỗ đông người... nói năng cứ như là chẳng quen biết nhau ấy... thế nhưng... lại đẻ sòn sòn cả đống con... Mai đây, anh em mình chẳng thế, anh nhỉ?...”. Dường như nhận ra cái ngố hiện rõ trên mặt anh, cô nói như giải thích: “Ý em là... đến thế hệ trẻ như anh em mình... xưng hô nói năng với nhau sẽ khác các cụ xưa... dìu dàng, âu yếm hơn...”. Thắm đỏ mặt, nghiêng người nhìn ra sân vườn cố giấu đi nụ cười.Chợt Thắm hởi: “Anh Việt này, em để ý thấy bờ rào quanh vườn nhà anh không có mồng tơi nhỉ ?... “. Việt nhìn ra sân vườn: “Ừ nhỉ, toàn những mây gai, dứa dại, với ít cây duối... Mẹ mình bảo như thế hàng rào mới kín, ngăn được gà qué hàng xóm sang phá, lại chống được trộm cắp...”. Thấy Thắm yên lặng, Việt giải thích: “Còn mồng tơi... mẹ mình có trồng một ít, thêm thắt rau vườn, nhất là khi bắt được cua đồng...”. Thắm bỗng nhiên mơ màng: “Chắc là cái giậu mồng tơi nhà cô hàng xóm trong thơ Nguyễn Bính là không có thật anh Việt nhỉ? ... Chắc nhà thơ mượn cái giậu mồng tơi ra để nói chuyện tình duyên giữa chàng và nàng vốn là hàng xóm với nhau anh nhỉ?...” Việt tròn mắt ngạc nhiên. Thắm nhìn đâu xa ngoài vườn, cứ thế đọc liền một mạch hết bài thơ Cô hàng xóm của Nguyễn Bính... Việt nghe, á khẩu, ù tai... Thắm dừng đọc thơ, nhìn anh: “Bài thơ hay thật anh nhỉ... Em thích thơ Nguyễn Bính lắm, nhất là bài Cô hàng xóm, bài Cô lái đò, rồi bài Chân quê,... cả bài Lỡ bước sang ngang nữa,...nhưng bài này dài quá nên chỉ thuộc in ít thôi... Anh Việt có thích thơ Nguyễn Bính không?...”. Việt lúng túng, nói bừa: “Có chứ, mình cũng thích... nhưng mà chỉ thích vậy thôi... chứ không thuộc làu như Thắm... Mình chỉ nhớ mỗi câu Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. May mà anh đọc ra được hai câu thơ ấy, không thì ôi mặt mang tiếng từng là học sinh giỏi của huyện lại con thầy giáo dạy văn. Thắm tỏ ra thích thú như là tìm được người cùng sở thích: “Bài thơ Chân quê cũng thật là hay anh nhỉ?... Anh này, nếu may mắn trời cho em đỗ đại học, rồi sau này có sống ở thành phố... thì em sẽ chẳng như cô gái nọ của nhà thơ để bay đi cái chất hương đồng gió nội đâu... Nhà quê mình cũng có nhiều cái hay mà người thành phố không có, anh nhỉ ?...”. Thắm hạ giọng như nói với chính mình...

           Giờ thì Việt chẳng thể nhớ nổi chuyện với Thắm hôm ấy, hai người còn nói linh tinh những gì nữa. Chỉ nhớ, sau khi nói về hoa chanh vườn quê và cô gái nhà quê xưa đi chơi tỉnh để bay đi chất quê trong thơ Nguyễn Bính, Việt hầu như không nhìn dám nhìn thẳng vào mắt Thắm, anh cứ ngọ nguậy người, chốc chốc lại nhìn ra cây chanh ngoài sân giếng đang nở đầy hoa tim tím trăng trắng... Đầu óc Việt mơ màng, lởn vởn những câu thơ Nguyễn Bính, thì nghe Thắm à lên: “Thôi chết... em làm mất thời giờ của anh quá... Hết tuần hương rồi, anh hạ lộc giùm em, rồi còn ra đồng kẻo muộn. Nhờ anh chuyển lời với hai bác,... Giờ em còn ra Miếu Bà hạ lễ... Chả là, trước khi qua đây, tiện  đường, thầy u em có sai mang ít bánh giò ra thắp hương Miếu Bà ngày rằm...”. Nghe vậy, tự nhiên Việt thấy người ơn ớn gai gai sống lưng. Hỉnh ảnh ngôi miếu cổ âm u nơi cuối xóm Chợ hiện lên trong óc anh. Rổi anh khẽ rùng mình, cảm giác phảng phất một hình bóng người đàn bà ăn vận theo lối cổ xưa chập chờn ẩn hiện trong hình dáng của Thắm. Anh nén chấn tĩnh, hít thật sâu rồi thở ra nhè  nhẹ, tiễn Thắm ra tận cổng: “Thế em có nhắn gì cái An không?...”. Thắm bị bất ngờ: “À không... không ạ... Có thứ định nhắn cho nó... ban nãy nói chuyện, em gửi anh hết rồi đó...”.  Thắm nhoẻn cười đầy vẻ tinh ranh, quay người bước đi. Việt nhìn theo tần ngần, chẳng hiểu cô ngụ ý gì ?...

+++

        Bính quay ra bàn trà với anh. Cô nhìn Việt tủm tỉm:

        - Bác này, ... gặp em, chị Thắm còn hỏi thăm sức khỏ u và cả bác nữa đấy.

         - Thế cô bảo sao? Việt cảnh giác.

         - Thì em kể thật, rằng u bị tai biến nằm một chố... rằng bác ở Sài Gòn ra chăm sóc u... rằng thì là mà... chị ấy nói về quê chơi ít ngày, biết tim u ốm và bác đang ở đây, nên dự định mai kia gì đó ... chị ấy đến nhà mình thăm u... thăm bác... – Bình nhìn anh cười tinh quái – Thì quý hóa quá chứ còn gì nữa...

         - Thì hỏi thăm thế là được rồi... cần gì phải thăm nom nữa- Việt nhăn mặt- chẳng dám làm phiền,...

         - Bác không biết đấy thôi... Thời gian bác đi học rồi ra trường vào quân ngũ, chị Thắm rất chăm qua nhà mình chơi, kể cả khi chị An là bạn thân của chị ấy vắng nhà ra Hải Phòng làm công nhân... Em biết, chị ấy năng qua lại nhà mình, lấy cớ bạn chị An, nhưng phần lớn là giữ mối thân tình với nhà mình là vì bác đấy... Ngộ nhỡ duyên thành danh phận... Năng đến nhất là năm chị ấy thi trượt đại học, ở nhà tự ôn thi, làm bánh giò phụ giúp cha mẹ. Chị ấy thích sư phạm nên gắng thi nữa, rồi cũng chẳng nên cơm cháo gì. Nghĩ thấy thương thương là... Mỗi lần đến nhà mình, ra chiều bẽn lẽn rồi, chứ không tự tin hơn hớn như trước nữa... May mà nhở người quen xin cho học ở một trường kế toán ngành rồi thoát ly ra vùng mỏ Quảng Ninh...– Bình nhìn anh dò ý tứ - Hồi đó, thầy mình cũng quý chị ấy, hình như thầy có ý chờ xem hai người thế nào... Còn u mình thì bảo, gia đình bên ấy buôn bán vặt nhưng cũng là nhà tử tế, chị Thắm thì được cái khỏe mạnh, tươi tắn, biết nghề cũng tốt... chỉ chê mỗi cái tính hơi mạnh bạo... Chẳng lẽ, ngày ấy bác không biết ư?... Em hỏi thật này,... bác từng có cảm tình với chị ấy không?...

         Việt nghe, ừ à, cười trừ cho qua nhưng Bình không chịu buông tha:

         - Ngày ấy, mỗi lần đến nhà mình chơi, chị ấy lại xách theo một làn nặng bánh giờ làm quà... Lâu ngày, đem tích lại, có nhẽ, cả thấy đến hàng trăm chiếc bánh giò ấy chứ, bác... Hơ hơ...  Bọn em ở nhà tha hồ chén... Thây kệ, nhà anh chị có yêu nhau hay lấy nhau, chúng em chẳng cần biết, chỉ biết là cứ hưởng lộc cái đã... Ai bảo nhà chị ấy có lòng thì chúng em đây có dạ, vậy thôi...- Bình cười trêu - Giờ thì bác về mà tính sổ, trả hết món nợ bánh giò cho chị Thắm của bác nhé ... Thôi, để em vào bếp nấu cháo cho u, tiện thể nấu cơm trưa, cùng ăn với bác cho vui...

         Còn lại mình, Việt thơ thần ra sân vườn. Anh loanh quanh, hết ngắm cây này sang cây nọ. Mỗi góc vườn, mỗi cây cối lại gợi lên trong anh những ký ức thơ ấu, tuổi học mới lớn. Mấy đứa em anh, biết nhiều chuyện, gán ghép này nọ giữa anh với Thắm, nhưng chúng không biết rằng, trong lòng. anh cũng từng nghĩ về cô như là người yêu của mình. Ngày ấy, trường anh học vẫn đóng ở Phủ Lỗ, nơi sơ tán thời chiến tranh máy bay Mỹ đánh phá, trưởng sở, ký túc xá toàn tranh tre nứa lá lụp xụp. Cuộc sống thiếu thốn khem khổ đủ bề. Cánh sinh viên chống đói bằng cách kể chuyện tiếu lâm, kể chuyện quê, hát hò thơ phú, và khoái nhất là chuyện tình yêu. Dân học cơ điện mà thơ phú thì cục mịch thế nào ai cũng hiểu. Anh có khiếu văn nên đương nhiên là nhất lớp về khoản chuyện văn thơ. Anh nặn ra vài bài thơ tính, chàng nàng sướt mướt, đọc lên trong những lúc tán gẫu hay khi liên hoan, chúng bạn khen nhất quả đất luôn. Thế rồi, chúng bạn nài anh kể chuyện người yêu, vì chúng cho rằng thơ tình như thế nhất định phải tặng cho một em nào đó. Nghĩ mặt ta đây, đàn ông đàn ang, anh bịa chuyện người yêu này nọ, bí thì mang Thắm ra để bịa thêm, lẽ di nhiên, anh đổi tên người yêu là Tươi, là Hoa gì đấy... Kể ra cứ như thật. Mỗi lần về thăm nhà, hoặc kỳ nghỉ hè lên, chúng bạn lại gạ chuyện về gặp người yêu thế nào. Lại kể, lại bịa. Diết một hồi, Việt có cảm giác như mình và Thắm yêu nhau thật. Cô ta thích mình thì rõ rồi, nhưng mình có thích cô ta không, thì không chắc. Anh cũng đã tự vấn mình, cười thầm mà gạt đi, thành chuyện cũng ổn, mà không thì cũng khổ đau gì đâu mà lo... Quả thực, có những lúc nghĩ đến Thắm, hoặc  nghe mấy đứa em nhắc đến tên cô, thảng Việt vân ớn mình khi nhớ lại hình bóng người đàn bà cổ xưa chập chờn trong bóng dáng của Thắm từ cái hôm cô đến chơi nhà anh sau khi cô đi thắp hương khấn vái Miếu Bà xóm Chợ. Có gì đó khiến anh chờn chợn, sinh nghĩ ngợi này nọ. Hay cô ta là... anh không dám nghĩ nữa... Linh cảm, có một cái gì đó ngăn cản Việt đến gần cô ấy... Thôi kệ, cứ để cho cuộc sống tự nhiên, nước chảy, bèo trôi...

          Cái An, bạn học của Thắm, có lần đã kể với anh rằng, có một dịp nghỉ Tết, về quê chơi, hai đứa gặp nha, bù khú đủ thứ chuyện. Khi đó, Thắm sắp lấy chồng, người cùng nghề, cô ta đã đùa An bảo là: “Thiếu chút nữa tớ làm chị dâu của cậu... Nhưng mà, tớ và anh Việt duyên đã chẳng ra đâu vào đâu, mà phận lại càng không có, nên tớ mới phải đi lấy chồng thiên hạ thế này, ... Cậu có thấy tiếc không?”. An bảo là vô cùng tiếc, đùa thế rồi hai đứa cười như nắc nẻ. Nói được ra thế, chứng tỏ cô ấy cũng có nuối tiếc gì đâu... Vậy nhẹ lòng. Khi anh chậm lấy vợ, vì là con trưởng nên bố mẹ anh cũng sốt ruột, có ý giục. Mẹ anh còn bảo, biết thế ngày ấy cứ vun vào cho anh với Thắm thì có khi đã lít nhít mấy đứa cháu rồi cùng nên. Rồi ra, cuộc đời sắp đặt đâu vào đấy cả, anh làm quen với một cô gái kém anh cả chục tuổi, quê ở gần chùa Hương ngoài Bắc vô Nam sinh sống. Có phận thì vừa duyền cùng thành đôi... Vợ anh, có nét gì đó na ná Thắm, nghĩa là cũng mạnh bạo, trong cả tình duyên và cuộc sống gia đình sau đó...

          Còn có một chuyện nữa, mấy đứa em Việt, kể cả cái An, tiếng là bạn thân với Thắm cũng không biết rằng, cách đây dăm năm,  anh và Thắm đã gặp lại nhau một lần ở Sài Gòn. Khi ấy, Thắm đi công tác, không hiểu sao cô ấy có số điện thoại của Việt, đã gọi điện hỏi thăm anh. Hai người hẹn gặp nhau ở một quán cà phê gần khách sạn cô ở. Vài giờ đồng hồ với bao nhiêu là thứ cần hỏi, cần biết, cần nói, nên câu chuyện lộn xộn chằng đầu cuối. Thắm trẻ trung hơn anh tưởng. Cách ăn mặc và trang phục khá sánh điệu, khiến Việt nhớ lại hai người xưa đã từng nói gì về chân quê, về cái sự bay đi ít nhiều chất hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính. Vẫn như ngày trước, Thăm luôn là người chủ động dẫn dắt câu chuyện, còn anh tuy không giống cậu học trò nhút nhát, nhưng có ý nhường nữ giới, kệ cho cô dẫn dắt. Bản tính anh vậy. Chuyện gia đình đôi bên, rồi lại xoay sang chuyện học trò ở quê. Có điều, chuyện về văn chương thơ phú thì Việt lại chủ động nhắc. Thắm cười tươi, bảo giờ vẫn thích nhưng chẳng còn đâu thời gian mà thơ phú, với lại cô cho rằng bây giờ thơ phú thiên hạ nhiều quá đọc không xuể. Lâu lâu vớ được tờ báo, tờ nào cũng có trang thơ, mà nhiều bài đọc trúc trắc, không vần điệu, đọc xong chẳng hiểu nói gì... Cô còn bảo, hay là nhiều năm nay làm nghề kế toán, chỉ biết đến những con số, chỉ quen với chuyện hạch toán lỗ lãi nên mất đi sự cảm thụ thơ ca... Việt nghe cô chê thì chỉ biết cười trừ ...

         Giờ thì mấy anh em nhà anh gia đình đều yên ấm. Gánh nặng lại ở chuyện hiếu đễ, bổn phận và trách nhiệm của con cái với đáng sinh thành. Bố anh đổ bệnh rồi nằm một chỗ gần chục năm mới mất. Việc chăm sóc ông ngần ấy năm, tuy các con cũng xúm vào nhưng phần nặng vẫn một tay mẹ anh cả. Bố anh mất đi, vừa qua giỗ đầu, thì mẹ anh lại ngã bệnh như bố. Bà nằm liệt giường chẳng biết sơm tối thế nào, có thể là chuyện lâu dài... Những lúc như thế này, người ta mới hiểu việc báo hiếu đâu có dễ, và có dâu con ở bên mới quý làm sao... Những ngày xa chốn đô thị náo nhiệt ở quê chăm mẹ, Việt mới thấm thía và ngộ những đạo lý và nhiều điều mà trước đây không để ý, hoặc chưa thấu tỏ. Một mình chăm mẹ, tự nhiên, anh hay nghĩ đến Thắm...

          Giờ anh và Thắm, ai yên phận nấy, có khi cô ấy lên chức bà rồi cùng nên... Ngày mai, kia cô ấy đến thăm nhà, hai người sẽ chuyện những gì nhỉ? Liệu có còn tâm trạng và hứng thù mà chuyện thơ văn hay không? Chỉ có thơ Nguyễn Bính là hầu như vẫn tươi nguyên với những người yêu nhau, với những ai từng có duyên mà không nên phận, thành lỡ dở...

          Bình bê mâm cơm lên, ớ gọi, anh từ trở vườn vào, thì trời lắc cắc mưa. Một đợt gió mùa sắp ùa về. Tiết giêng hai, trời còn mưa phùn, ẩm ướt. Tự dưng, trong đầu anh phảng phất một tứ thơ,.. ./.

 

 

 

 

Nợ hoa

 

Nợ nào hơn mắc nợ hoa

trả chưa xong nợ tóc đà gội sương

( Phùng Cung )

 

Chừng mươi ngày nữa là anh phải dọn hết đồ đạc, trả lại căn phòng rộng hơn chục mét vuông trên tầng hai ở khu nhà khách Ủy ban này. Đúng ra, anh đã nghỉ hưu từ gần tháng nay theo quyết định, và về nguyên tắc, thì đúng ngày nghỉ hưu, anh phải trao trả chìa khóa cửa căn phòng này cho Ban quản trị. Thế nhưng, lấy cớ là chưa xong thủ tục giấy tờ chuyển về quê nhà, anh cấn cá chưa dọn hết đồ đạc nên vẫn giữ chìa khóa căn phòng.

Bình thường, chuyện giấy tờ nghỉ hưu thì đâu có gì phức tạp, nhưng với trường hợp của anh lại không bình thường chút nào. Rắc rồi là ở cái tên, cả mớ giấy tờ trong bộ hồ sơ công chức của anh, mỗi loại viết một kiểu, khi i ngắn, lúc y dài, mặc dù khi phát âm thì vẫn như nhau. Có mỗi cái tên còn như vậy, thử hỏi người ta đòi cải cách chữ viết thì không biết thế nào? Số là, lúc cha sinh mẹ đẻ ở quê, nhà anh có hai anh em trai, bố anh là người có chút chữ nghĩa, đặt tên con sao cho vừa kêu, lại ý nghĩa, anh là Vĩ, em là Đại. Khổ nỗi, đến năm học cấp hai, có người thày giáo dạy môn Văn, thích chiết tự, bắt bẻ này nọ: “Tên em là Vĩ, hiểu là vĩ đại, thế nhưng, mẫu tự trong danh sách lại viết là Vỹ, với đuôi y dài. Nếu vậy, thì chữ này không thể hiểu là vĩ đại, tức là sự to lớn được, mà phải hiểu chữ Vỹ là cái đuôi. Ghép tên hai anh em lại là Vỹ Đại, nghĩa là Đuôi to. Kể từ đấy, đám trẻ học trò trong làng đều trêu anh, gọi hai anh em là Đuôi to. Anh tức lắm. Khi bắt đầu đi làm, có cơ hội, anh đổi tên mình, từ y dài thành i ngắn. Anh đắc ý lắm, song không ngờ, suốt ngần ấy năm, anh chuyển công tác qua nhiều nơi, không hiểu sao, khi làm giấy tờ này nọ cho anh, người ta vẫn viết tên anh với chữ y dài. Giờ thì lôi thôi to.

Anh sĩ diện, không muốn ai thấy mình, nghỉ hưu rồi, còn có mặt ở khu nhà khách Ủy ban này. Chẳng muốn chạm mặt đồng nghiệp hay người quen, để rồi phải trả lời câu hỏi kháy “Thế ông vẫn ở đây à?”. Đầu óc cứ lởn vởn những chuyện như thế, anh cứ lẩn thẩn hết nâng lên lại đặt xuống những đồ vật bày biện trong phòng, chẳng muồn xếp chúng lại. Tập album dày cộp nơi góc tủ sách đập vào mắt anh. Anh cầm lên, khẽ phủi bụi bên ngoài, rồi lật giở từng trang. Thực lòng, anh ngại đụng chạm đến những kỷ vật một thời, không muốn bị ám ảnh mãi câu chuyện đau buồn của mấy chục năm trước. Anh bần thần ngắm bức ảnh chụp chung giữa Quy, một giáo viên cùng trường và là bạn thân với vợ chồng anh. Ảnh chụp bốn người, anh và Quy, cùng vợ anh bế trên tay cậu con trai bụ bẫm mới vài ba tháng tuổi. Nhìn bức ảnh này, ai mà nghĩ chỉ nửa năm sau, vợ chồng anh đã tử biệt sinh ly cơ chứ… Chuông điện thoại đổ hồi, kéo anh dứt khỏi dòng ký ức. Thì ra, Quy gọi và rủ anh đi chơi dã ngoại.           Trên xe, ngoài Quy, còn có một nhà thơ, là bạn của Quy từ Hà Nội lên. Anh đã quen nhà thơ này, cũng từng nhậu nhẹt bù khú vài lần. Xe chuyển bánh, hướng đến một khu di tích kháng chiến xưa xa hơn trăm cây số. Chuyện nổ như pháo rang, đủ các thứ trên trời dưới biển, cười nôn ruột. Chán chuyện gẫu, anh và Quy bắt sang chuyện xưa, Quy hỏi anh: “ Nghỉ hưu, ông vẫn nhất quyết về lại quê đấy à”. Anh lỡ đãng nhìn cảnh núi non bên đường: ” Ờ, tôi về quê, cụ thân sinh tôi gần chin mươi rồi,… cụ sống một mình ngần ấy năm tôi xa nhà. Giờ cũng muốn được chăm sóc cụ một chút, chẳng phải để báo hiếu, cũng chẳng phải vì sợ mang tiếng với láng giềng, là để cho lòng mình thấy yên ổn thôi…”. Quy nhìn anh chăm chú: “ Nghĩ thế cũng phải… nhưng mà, nói dại thì ông bỏ quá, tôi sợ ông về quê, ông buồn chán, rồi sinh bệnh, không khéo… có khi chẳng chôn nổi bố đâu, mà ngược lai đó…”. Anh cười: “ Cảm ơn ông đã lo xa, bố tôi chôn tôi chứ gì ?... Khỏi lo, ông ơi.”. Cả xe cùng cười. Quy nhân vậy, hùa chuyện: “ Tôi hỏi khí không phải, thế nhưng, ông về quê, bỏ lại bạn gái ở đấy sao? Cô ấy còn công việc và con riêng nữa, chắc chắn là khó theo ông về quê. Vậy ông bỏ lửng cô ấy, hay thôi luôn? “. Anh ầm ờ “Tôi không biết… phải về quê… muốn ra sao thì sao…”.  Quy cười to, rồi đưa ra một đề nghị với anh, rằng Quy cũng sắp nghỉ hưu, vì yêu mến vùng đất Tây Bắc này, hiện tại và quá khứ, nên muốn mua một miếng đất đâu đó xây dựng nhà vườn, hoặc cơ sở sản xuất chi đó. Quy rủ anh ở lại đây, giúp Quy thực hiện việc này, nhằm tốt mọi bề cho anh. Rằng nếu anh chấp thuận phương án ấy, Quy  sẽ giúp anh đưa bố anh từ quê lên cùng sống cho yên tâm. Thoạt đầu, anh chối phăng, nhưng nghĩ lại một chút, thấy cũng có lý. Xe quanh quanh leo dốc, chênh vênh đường núi, sương khói đâu đó đùn lên mù mịt...

Vĩ loanh quanh đường làng, hai bên toàn tre trúc, rồi lại ao chuôm ken đặc loại bèo Nhật bản hoa tím, kế tiếp là những khoảnh vườn hàng rào cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vĩ nhẩm bụng, dây tơ hồng nhiều thế này không gỡ bớt đi, khéo cúc tần lụi hết mất. Lại những bức tường rào đất dây mướp bò leo, xen kẽ hoa vàng và quả lúc lỉu... Vĩ sốt ruột, sao đi mãi không thấy ngôi chùa đâu nhỉ. Vừa khi đó, dưới bóng mấy cây nhãn cổ thụ, hé lộ chút mái tam quan chùa ngói cũ rêu phong. Đây rồi, Vĩ mừng, reo thầm trong bụng. Cổng chùa, đôi cánh cổng gỗ không cài then trong, mở buông he hé. Vĩ dừng trước cổng, ngó nghiêng quanh quất, định hình xem mình có nhầm không. Anh khẽ đảy, một bên cánh mở ra từ tử, Vĩ lách nhẹ người vào bên trong, anh cẩn thận khép hờ  cánh cổng, rồi thủng thẳng theo lối gạch lát đi vào sân chùa. Anh nhìn quanh một lượt, quang cảnh vẫn như ngày nào, chỉ có cây cối là rậm rạp hơn. Có lẽ, cũng ngót hai chục năm rồi ấy, kể từ lần cuối, anh đến đây thắp nén hương cho Nhân, người vợ đầu và duy nhất của anh đến giờ. Vĩ đánh tiếng, nhưng không thấy ai lên tiếng, anh tần ngần đứng giữa sân chùa đưa mắt tìm quanh quất. Vĩ nhẩm bụng, thôi kệ, mình về đây là để thắp cho cô ấy nén nhang, cứ vào chính điện thắp hương khấn Phật trước đã, rồi khấn cô ấy sau.Thắp hương lễ Phật xong, anh trở ra sân, định tìm nơi thờ vong linh những người đã khuất nương nhờ cửa Phật, thì chợt nghe tiếng dặng hắng ngay phia sau mình, anh giật bắn, nhảy né người sang bên, quay lại nhìn, há miệng không thành tiếng. “Cô…cô…à… ni cô…là… Nhân?”, anh lắp bắp hỏi. Định thần, Vĩ thấy người ni cô vừa xuất hiện này giống hệt Nhân, vợ cũ của anh, có điều nét mặt lộ ra trong khăn choàng đầu thì già hơn. Hình như khóe miệng ni sư còn giữ nét cười khẽ, chắc là vì thấy anh hoảng hốt “Mô PhậtBần ni là Thích Diệu Nhân… Thí chủ chẳng hay đến nhà chùa lễ Phật, hay còn việc gì khác? Bần ni giúp được gì thí chủ đây?”. Ni sư lùi lại sau một bước, im lặng khẽ cúi người chờ đợi. Vĩ nghẹn lời, anh đã phần nào định thần, nhưng chưa hết ngạc nhiên vì sự giống nhau như bóc giữa ni sư này với người vợ cũ của anh. Muốn khẳng định lại một lần nữa, Vĩ hỏi: “Ni sư là… Nhân… Cô giáo Nhân xưa dạy Hóa Sinh ở Trường vừa học vừa làm trên cao nguyên…?”. Ni sư nhìn anh chăm chú: “Mô PhậtThì bần ni vừa nói với thí chủ rồi mà… Bần ni là Thích Diệu Nhân, sư trụ trì chùa này”. Vĩ ngẩn ngơ, không biết nên vui hay buồn: “Vậy ra,… ni sư không phải là cô ấy. Tôi cứ tưởng… cho tôi xin lỗi vì đã nhầm lẫn”. Ni sư vẫn giữ nét mặt nghiêm nghị, giọng nói nhẹ nhàng, thoảng như hơi gió: “Mô Phật. Không sao mà, thí chủ… nhầm lẫn là chuyện bình thường… Ở đời, có những nhầm lẫn hệ trọng, mà nhà Phật còn buông bỏ hết, nữa là…Mô Phật.”. Vĩ chăm chú nhìn ni sư, lòng đầy băn khoăn, không lẽ, cô ấy còn có một người chị em nữa mà mình không biết.? Những hoài nghi chợt xuất hiện ào ạt trong ý nghĩ của anh, Vĩ tự nói với chính mình mà buột miệng thành tiếng: ”Hay là… kiếp sau… “- Vĩ dừng bặt- chuyển hường: “Xin nhà chùa cho biết, nơi thờ các vong gửi cửa Phật … ở đâu ạ? Tôi nhớ không nhầm, trước đây, ngay trong chùa, phía bên trái, còn có một ban dành thờ các linh …?”. Ni sư vừa nói, vừa chỉ tay ra hiệu: “ Mô Phật… trước là thế, nhưng dăm năm gần đây, nhà chùa cho cất riêng một am nhỏ phía vườn sau để thờ các vị ấy… Thí chủ làm ơn vòng qua đầu hồi trái chính điện là thấy ngay”. Vĩ cảm tạ, rồi đi theo chỉ dẫn, anh chợt ngoành lại thì bắt gặp, ni sư như vừa kịp giấu một nụ cười mỉa, khiến lòng anh không yên, cảm giác là ni sư đang giấu giếm một cái gì đó?

Ngôi am thờ các vong linh nương nhờ cửa Phật, nép dưới một vòm cây ngọc lan, nên cùng mùi nhang khói, Vĩ cảm nhận được cả hương ngọc lan, và phảng phất mùi thị chin. Vĩ thắp nhang, cúi đầu, nhắm mắt khấn khứa. Anh khấn dài lắm, như thầm kể lể, cầu xin, vì cũng lâu lắm rồi anh mới về lại chốn này…Trong không gian mê hoặc, Vĩ nghe rõ tiếng người, thì thào trong gió nhẹ, lắng tai thì đúng là tiếng cô ấy: “Anh đấy à, anh Vĩ… Lâu rồi ta lại gặp nhau nhỉ. Những tưởng anh ở mãi trên ấy, giờ lại có bạn gái mới, anh quên chốn này rồi?”. Vĩ rầu rĩ: “Mình đấy à. Nhân ơi… Tôi biết ngày ấy tôi có lỗi, nhưng thực lòng tôi tự thấy mình đâu có làm gì sai. Chẳng qua, ngày ấy còn trẻ, chưa đủ sự hiểu biết để đồng cảm và chia sẻ với mình, ứng xử với mình mềm mỏng hơn. Tôi biết tôi đã lỡ mồm… làm mình hiểu lầm. Chết tại cái mồm…”. Vừa nói, anh vừa lấy tay vả nhẹ vào miệng mình. Nhân cười nhẹ trước thái độ cử anh: “Anh nhận là anh có lỗi, nhưng một hồi, anh lại bảo là chẳng có lỗi gì cả… Vậy thì, chỉ còn lỗi thuộc về tôi thôi, đúng thế không?”. Vĩ đây đẩy: “Không, không… Lỗi là ở tôi… Ý tôi là, trong thâm tâm tôi không coi thường mình, tôi cũng không phản bội mình đi say mê người đàn bà khác… Chẳng qua, tôi không hiểu tâm lý mình, không biết cách nói năng và chăm sóc mình lúc mình đang nuôi con thơ dại… Nếu biết, tôi đã luôn ở bên cạnh mình, động viên, an ủi mình… Mình đâu đến nỗi trầm cảm, suy diễn này nọ… mà dại dột thế…”.  Nhân nhìn anh, cười độ lượng: “Là tôi thử lòng anh thôi… xem sau ngần ấy năm anh thay đổi ra sao… Còn tôi, từ ngày ấy, tôi bỏ cha con anh nơi trần thế, đi theo hầu Đức Phật, tôi chẳng còn đau đáu chuyện đúng sai nữa… giờ bận bịu với việc phổ độ chúng sinh… Những chuyện vụn vặt xưa, tôi đâu bận tâm… Tôi ra đi, không oán trách gì anh, chỉ còn chút băn khoăn về cậu con chung của chúng ta… Giờ thấy nó khôn lớn, tự lập được rồi, tôi chẳng còn vướng bận gì chuyện đời nữa. Chỉ toàn tâm toàn ý công việc nơi nước Phật mà thôi… Anh không cần phải tự vấn, oán trách bản thân nữa.”.  Bóng hình Nhân chập chờn lúc bên phải, khi bên trái, lại lơ lửng trên am thờ, cô cười nhẹ, bảo: “Thấy anh đến đây, kể lể cầu xin, tôi xin Đức Phật tạp niệm, chuyện đời với anh đôi câu. Giờ tôi đi đây. Đức Phật cho gọi tôi rồi”. Bóng Nhân mờ đi lẫn vào khói hương, Vĩ gọi với: “Cô đi đâu? Chuyện thêm với tôi chút nữa… Hay là, cho tôi theo với, tôi thấy việc đời cũng mệt mỏi lắm rồi?...”. Trong màn sương khói hư ảo, tiếng cô lảnh lót: “Chưa đâu. Anh còn nặng gánh căn quả. Còn phải báo hiếu cha già, còn làm chỗ dựa cho con anh, nó có lớn đấy, nhưng chưa có khôn…Cứ ở lại đi. Hẹn gặp lại anh ở nới nước Phật nhé… Đời thì lâu, Phật lại nhanh…”. Anh cố gặng: ”Cô không cho tôi đi theo, thì xin nán lại chuyện trò thêm chút nữa…Là để hiểu nhau?...”. Cô cười độ lượng: “Thì nãy, khi vào chùa thắp hương lễ Phật, tôi đã gặp anh rồi đấy… Anh cũng đã nhận ra tôi mà…Anh có nói gì đâu…Vậy là đủ..”. Anh sửng sốt: “Gặp nhau khi nào?... Cô chính là… là ni sư… vừa nãy ở sân chùa?...”. Cô cười thành tiếng: “Ni sư Thích Diệu Nhân đấy…là… hiện thân của tôi… Thôi, tôi đi đây!...”.

          Vĩ rướn người gọi với, anh giật mình choảng tỉnh. Vừa ý thức, anh kịp nhận ra, chiếc xe đang loạng quạng rồi xoay 180 độ, đầu xe quay ngược hẳn lại phía sau, kề sát taluy dương thì dừng đứng, không sa bánh trước xuống rãnh. Cả xe lặng đi, chưa kịp nhận ra biến cố, rồi ồ lên mừng rỡ. Cậu lái xe, trút tiếng thở hắt ra, thốt lên “Ôi, may quá!”, rồi lặng bặt không nói lên lời. Mở cửa, tất cả ra khỏi xe, thì ra, khi lên dốc vào cua, bánh trước xe băng qua một vệt dầu nhớt rơi rớt trên mặt đường, trời mưa nhỏ ướt đường, mất ma-xát trượt đi. May mà đang lên dốc ôm cua, tốc độ xe chậm, cậu tài xử lý tức thì đúng cách, xe không lao xuống vực bên taluy âm, tuy quay ngược lại,... Xe không sao, người không ai xây xát gì. Quả là may mắn làm sao. Riêng Vĩ, anh vừa sợ, vừa bàng hoàng, hiểu là mình vừa ngủ thiếp trên xe, mơ gặp lại vợ cũ… Vĩ nhẩm bụng, cô ấy vừa phù hộ, cứu anh và mọi người trên xe thoát qua một tai nạn. Vậy là cô ấy vẫn theo anh, và vừa phù hộ cho anh và mọi người đấy thôi!...

Mọi người lên xe, đi tiếp. Dường như để quên đi nỗi sợ vừa thoát nạn, Quy kể vài câu chuyện tiếu lâm, còn anh bạn nhà thơ thì đọc vài bài thơ, bình này nọ. Riêng Vĩ, giờ anh mới nhớ lại giấc mơ vừa nãy, và không thoát ra khỏi nó, anh lẩm bẩm, lại bâng quơ: “Ông Quy này, ngày trước ông ở trên này cũng dăm ba năm đấy nhỉ... Khi về Hà Nội, ông có nhớ nơi này không? ... À, mà ngày ấy đang còn trẻ trung, ông quên ngay, được về nhà Hà Nội, còn gì bằng. Có chăng, nhớ em Huệ... Công nhận, ngày ấy, em Huệ xinh thật, có khi xinh nhất cả vùng này ấy nhỉ.”. Quy cười cười bảo: “Nhớ chứ. Chí ít là nhớ em Huệ, nhớ ông... và nhớ những lần hai thằng mình đi chọc sàn, bị chó đuổi cắn, chạy thục mạng muốn đứt hơi hút chết...”. Vĩ đùa lại Quy nhắc chuyện cũ: ”Ngày ấy, tôi nhát, theo ông đi thử một lần, bị chó đuổi, tôi sợ mất vía, thôi luôn. Còn ông bạo, tôi biết ông còn đi nhiều lần, có lần còn bị chủ nhà đe, vác dao chém gỗ cầu thang dọa... Với lại, ngày ấy, sở dĩ tôi không đi nữa, là tôi sợ Nhân hiểu nhầm... Tôi biết tính cô ấy hay nghen, cũng cố chấp... Vậy mà, sau này lấy nhau, nên vợ chồng, sinh con...cô ấy có bỏ dược cái tính đó đâu...”. Quy an ủi, chia sẻ: “Ừ, thế mới nên chuyện... cô ấy thiệt thân, còn ông thì dở dang cho đến tận già bạc tóc...”.  Câu nói của Quy khiến anh ái ngại. đưa tay lén vuốt mái tóc đã thưa nhưng vừa được “đảo ngói” để chiều lòng người bạn gái mới, tuổi ngoài ba mươi... Câu chuyện cứ thế, chắp nối những mẩu ký ức vụn, như cuốn phim quay chậm, từ ba hơn ba mươi năm trước...

 

          Ngày ấy, vùng cao nguyên thời tiết dịu mát quanh năm này, có đến dăm nông trường, cái của Bộ, nên việc thành lập một trường cấp ba vừa học vừa làm là hợp lý. Vì là vùng định cư của các dân tộc thiểu số, nên học sinh đa phần là người các dân tộc trong vùng, và phần đông học sinh cũng khá lớn tuổi, chỉ kém chút ít so với các thầy cô giáo mới ra trường như Vĩ. Cả trường có gần chục giáo viên trẻ, thì nhóm ba người bọn Vĩ, thêm Quy và Nhân, chơi thân nhau, cùng từ dưới xuôi được điều lên đây, dù người trước, kẻ sau. Riêng Vĩ ở tổ xã hội, còn Quy và Nhân ở tổ tự nhiên, Vĩ và Quy còn tham gia công tác Đoàn trường. Vì đều người miền xuôi lên miền núi, xa nhà, tình cảm thiếu thốn, nên tình cảm đôi lứa dễ này sinh. Nhân vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ, tính tình khép nép, ít nói, cô kết thân và chọn Vĩ là bạn trai. Tự thân, Vĩ cùng quý mến và rất thương Nhân, muốn gần gũi, chia sẻ hoàn cảnh cô đơn và làm chỗ dựa cho cô. Ngày ấy, Vĩ hiểu là Nhân chọn anh làm chỗ dựa cho cuộc đời cô, bởi anh có vẻ ngoài chỉn chu, nói năng nhẹ nhàng, ân cần, nói chung là ở anh toát lên sự tin cậy. Còn Quy, trai Thủ đô, bộc lộ rõ tính cách của người mang hướng ngoại, bảnh trai, hát hay, đá bóng giỏi, biết chút võ vẽ, tính yêng hùng, ra đường “thấy sự bất bình chẳng tha”, hay bênh vực người yếu, nhất là phụ nữ, nên được phái nữ của trường, đám nữ học sinh lớn tuổi thích lắm, trong đó có cô học sinh tên Huệ. Ở tuổi “mười bảy bẻ gãy sừng bò”, Huệ đẹp nổi tiếng cả thị trấn và vùng dân cư ở đây. Cô học trò lớn đầu, xinh đẹp nổi tiếng này mê tít thày giáo Quy. Và thày Quy cũng dành sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt cho cô học trò này. Cũng chính vì thày trò quấn quýt nhau, mà Huệ bị cha mẹ mình để ý, theo dõi, còn Quy thì bị cánh con trai quanh vùng tức tối, tìm cách gây sự, hăm dọa, đe đánh. Cặp đôi thày trò này cũng gây ra một vài phiền toái cho chính họ và nhà trường. Vĩ và Quy thân nhau vì tính khí và nếp sinh hoạt khác hẳn, nhưng lại xem như sự bù trừ cho nhau, hai người ở chung một phòng trong khu nhà dành cho giáo viên. Hồi còn yêu nhau, mỗi khi Nhân đến phòng thăm Vĩ thì Quy ý tứ, kiếm cớ ra ngoài, đi chơi với Huệ, nhường phòng để Vĩ tiếp bạn gái. Tự thân, Vĩ  biết ơn bạn mình vì Quy rất ủng hộ và ra sức vun vào cho hai người sớm thành đôi.

          Đám cưới của hai người được tổ chức gọn nhẹ, ấm cúng ngay tại phòng họp chính của nhà trường. Tiệc ngọt, bánh kẹo, trà lá. Đại diện hai bên gia đình từ xuôi lên, các thày cô giáo nhà trường, bạn bè của cô dâu chú rể, đại diện các lớp và một số học sinh cưng của hai người tham dự. Phông đám cưới đơn giản nhưng ấn tượng, bởi Quy khéo tay, cắt lồng hai chữ V&N màu đỏ cách điệu thành hình hai ngọn núi, ngọn cao tượng trưng cho chồng, ngọn thấp là vợ, nép vào ngọn cao. Thầy Hiệu trưởng chủ hôn, phát biểu căn dặn này nọ, chú rể dạy văn, cao hứng ứng tác mấy câu thơ tặng cô dâu, lấy ý từ hình cách điệu hai ngọn núi bên nhau mãi mãi. Quy dọn sang ở phòng khác.

Cặp vợ chồng trẻ dính nhau như sam. Ngoài giờ làm việc, đi đâu cũng có nhau. Đất rộng, tha hồ trồng rau và nuôi gà, nên thức ăn rủng rỉnh. Cuối tuần, chiều thứ bảy, sẵn thức ăn tươi, vợ chồng Vĩ hay mời Quy ăn cơm, có buổi, còn thêm cả cô trò cưng Huệ ăn cùng. Những hôm như thế vui lắm, Quy hoạt náo làm không khí rộn hẳn lên. Huệ thì không giấu được cảm xúc trong bầu không khí gia đình ấm áp, bộc lộ: “Sang năm tốt nghiệp, em không học thêm nữa đâu. Ở đây phụ giúp bố mẹ em mở thêm của hàng,… rồi  em và thày Quy cưới nhau, gia đình chúng em cũng sẽ sum vầy, vui vẻ như thế này”.  Niềm vui của gia đình Vĩ nhanh chóng tăng lên, khi Nhân có thai. Hai người sống trong niềm hân hoan, chờ đợi, cứ như đang bay trên mây, chao liệng giữa bầu trời thảo nguyên mướt mát đồng cỏ, đồi chè.

Niềm vui như vỡ òa. Khi Nhân sinh con trai vào một đêm trăng non thượng tuần. Cậu bé bụ bẫm, thu nạp được các nét đẹp của cha mẹ, Thật chẳng có gì bằng. Trong khi vợ chồng Vĩ tràn trề hạnh phúc, thì cặp đôi Quy Huệ lại có chút trục trặc. Số là, một lần, Huệ muốn ra mắt gia đỉnh Quy, nên theo Quy về Hà Nội. Cô bé cùng ý tứ lắm, ở nhờ nhà người họ hàng, chỉ đến nhà Quy theo kiểu trình diện thôi. Huệ xinh xắn, khỏe mạnh, nên không có vấn đề gì, thế nhưng, cô bé lại có điểm yếu là học hành còn dang dở, nghề ngỗng chưa có gì. Sau một hồi căn vặn, mẹ Quy mát mẻ rằng, gia đinh không muốn Quy ở lâu trên ấy, và sẽ xin cho Quy về Hà Nội công tác, còn Huệ, khi nghề nghiệp chưa gì, cũng khó mà theo Quy về Hà Nội được, bởi thời kinh tế khó khăn, cả nhà sống trông chờ vào sổ gạo và đồng lương hết. Chuyến xe khách ngược lên, Quy an ủi thế nào cũng không được, Huệ sụt sùi cạn nước mắt. Vợ chồng Vĩ nghĩ cách làm bữa cơm, mời hai người đến ăn nhằm giàn hòa, động viên,...

Rồi chuyện của họ cũng nguôi ngoai, nhưng nhà Vĩ  lại sinh chuyện. Sau niềm vui sinh nở ít lâu, Nhân trầm lặng ít nói hẳn đi, thêm chứng mất sữa, em bé thiếu sữa mẹ quấy khóc, phải tìm cách cho ăn thêm bằng sữa bò pha loãng đun cách thủy, rồi nước cơm… Nhân tất bật con cái, vốn ít lời. nay trầm lặng, cáu bẳn không ra đâu vào đâu. Kỳ nghỉ hè, rỗi rãi, thấy ở nhà tù túng, nên khi có người quen rủ Vĩ tranh thủ làm thêm, anh theo ngay, mặt hàng là sắt phế liệu, bán được giá, tiền lãi khá lắm. Vĩ hào hứng, công việc mới này, nên hầu như chẳng nhúng tay giúp vợ làm việc nhà như trước nữa. Vĩ nhân cơ hội, muốn kiếm ít tiền, tính kế lâu dài, có thể mua một miếng đất mặt phố thị trấn, còn khá khẩm hơn thì tìm mua hẳn miếng đất hoặc căn nhà cấp bốn dưới Hà Nội. Ý tưởng ấy của Vĩ quả không tồi, anh cũng đã tham khảo qua Quy và được Quy khuyến khích. Nhưng rồi, chuyện lớn đã xảy ra, làm giấc mộng hoa của anh tan thành mây khỏi…

Nhân mắc chứng trầm cảm sau sinh. Khốn nỗi, ngày ấy, Vĩ không hiểu gì về hội chứng tâm lý này. Cả xã hội thiếu thốn nhiều năm, lo miếng cơm manh áo, nơi ăn chốn ở đã bạc mặt rồi, lòng dạ đâu mà quan tâm tìm hiểu những hội chứng tâm sinh lý kiểu như vậy chứ. Chỉ biết là, Nhân tính tình ít nói, thêm cả cha lẫn mẹ đều mất sớm, cô không nơi nương tựa, chỉ bảo, nên sống theo cảm tính, khi yêu và lấy Vĩ, cô đặt cả niềm tin cuộc đời vào nơi anh. Vĩ là người tử tế, duy có điều, anh thiếu sự từng trải, hiểu biết cũng chưa nhiều, tính tình vốn thật thà, cả nể, khi bập vào chuyện làm ăn, buôn bán, là say mê thái quá, nên dù rất yêu quý vợ con, nhưng không biết cách ứng xử sao cho phải đạo. Cả một kỳ nghỉ hè, Vĩ cắm đầu vào làm ăn, đi từ sang đến tối, thậm chí vài ba ngày mới vãng qua nhà. Nhân trầm cảm nặng, nhìn đâu cũng chỉ thấy một gam màu u ám bao phủ. Đã vài ba lần, cô ý kiến này nọ với chồng, thì Vĩ gạt phắt đi, bảo: “Anh lo kinh tế cho gia đình mình, mấy khi có cơ hội kiếm tiền thế này,… chứ đâu phải cho riêng cái thân anh”. Quả là có lý, song trong hoàn cảnh cụ thể, nó như một sự ngụy biện… Sự việc ngày một nặng nề, cho đến cuối kỳ nghỉ hè, nhà trường giao cho công đoàn và đoàn thanh niên đứng ra tổ chức cho cán bộ nhân viên đi nghỉ mát ở biển Sầm Sơn, cả Quy và Vĩ đều nằm trong ban tổ chức chuyến đi này. Vĩ thông báo với vợ thì Nhân tỏ thái độ không đồng ý. Vĩ giải thích này nọ Nhân vẫn không chịu, cô lấy lý do cảm thấy mệt mỏi, con đầy năm tuổi vẫn còi cọc chậm lớn, rằng anh chỉ thích tiền và thích vui vẻ, nhất là với đám nữ sinh hát hò... Thâm tâm, Vĩ nghĩ mình không như vậy, điều ấy đồng nghĩa là mình chẳng có lỗi gì. Lời qua tiếng lại hồi lâu, anh bực mình xưng cô tôi: “Cô cứ suy diễn này nọ như vậy, đau đầu lắm… Nếu cô không nhanh chóng thay đổi, thì sống với nhau thế này mệt mỏi lắm… Thử hỏi, cô thiếu tin tưởng, căn vặn tôi hàng ngày như vậy… thì làm sao tôi và cô có thể ăn đời ở kiếp với nhau được…?”. Quá nóng, Vĩ không kiểm soát được mình, còn nặng lời: “Cô cứ suy nghĩ thật kỹ đi… rồi trả lời cho tôi, xem tôi nói thế có đúng không?...”. Nhân im bặt, thừ như một bức tượng…

Mấy ai học được chữ ngờ. Nhân nhanh chóng có câu trả lời cho anh. Trước kỳ đi nghỉ mát, Vĩ cùng một nhóm đoàn viên, tìm đến nhà một học sinh người Mông bỏ học, để vận động nữ sinh này không tảo hôn, quay trở lại trường học. Đường xa, lại khó đi, phải trèo đèo lội suối nên đoàn công tác phải đi từ rất sớm. Chiều muộn, khi cả đoàn vừa xuống núi thì gặp một cán bộ nhà trường hốt hoảng đến tìm Vĩ, báo về tình trạng nguy kịch của Nhân. Về đến trường, cũng vừa lúc mấy người đưa Nhân đi cấp cứu bệnh viện tuyến trên quay trở về, vì cô đã tử vong trên đường đi. Vĩ đau đớn, chết lặng đi không vỡ thành nước mắt, lâu lâu lẩm bẩm như người mất trí “Anh có lỗi với em rồi”…

Mọi người kể rằng, hôm ấy, quá trưa sang chiều, nghe thấy tiếng trẻ con khóc trong nhà, chỉ nghĩ trẻ quấy khóc đã mẹ nó dỗ thôi. Nhưng rồi, càng ngày em bé càng gào khóc, lúc ấy, họ sinh nghi là có chuyện chẳng lành, chạy sang phòng, gõ cửa nhưng không thấy ai mở cửa, bèn phá cửa vào. Cậu bé con chưa đầy một tuổi, khản đặc, mũi dãi ngồi cạnh người mẹ nằm mê nam trên giường. Nhân mặt sạm đi, môi trắng bệch, nhưng còn thở. Mọi người hoảng hốt, bảo nhau đưa cấp cứu ở bệnh viện gần nhất. Người ta chẩn đoán có dấu hiệu ngộ độc, sơ cứu rồi chuyển lên tuyến trên, nhưng ngộ độc quá nặng, xuất huyết đường tiêu hóa, cô đã không qua nổi…

Nhân đã viết thư tuyệt mệnh để lại. Thư ngắn gọn, nói rõ lý do vì sao mình lại tự vẫn, cũng không mấy chê trách chồng, chỉ nói là mình không còn niềm vui trong hạnh phúc gia đình, mất niềm tin vào cuộc sống, dặn chồng gắng nuôi con nên người. Cô tự vẫn bằng cách uống quá liều loại hoạt chất do cô tự chế từ phòng thí nghiệm. Là giáo viên dạy Hóa, Nhân biết cách và cô đã âm thầm chuẩn bị cho mình cuộc ra đi vĩnh viễn, chứ không phải là hành động bột phát tức thì. Cuộc cãi vã với chồng và câu nặng lời của Vĩ được cô hiểu như một sự trách cứ đầy tính thách thức, nó là giọt nước làm trà ly, khiến cô đi đến quyết định cuối cùng. Vì Nhân để lại thư tuyệt mệnh, nguyên do cái chết là cô tự lựa chọn, từ căn bệnh trầm cảm sau sinh, cộng thêm những mâu thuẫn gia đình, không có yếu tố hình sự, nên Vĩ không mắc mớ gì về mặt pháp lý. Song anh thực sự sốc vì quá đột ngột, rồi cũng không hiểu nghe lời khuyên của ai, rằng cuộc sống sẽ nay đây mai đó, khó chăm sóc phần mộ, anh chọn cách hỏa táng cho cô, như phong tục của một số đồng bào dân tộc thiểu số trong vùng. Sau đám tang của Nhân, cuộc sống của Vĩ nặng nề với cảnh gà trống nuôi con, và lòng anh chất chứa nỗi ưu tư với mặc cảm là người có nỗi với vợ con !...

#

Mọi người trên xe lặng đi, khi câu chuyện cũ của Quy và Vĩ có kết cục buồn. Chẳng ai lên tiếng nữa, chàng nhà thơ phã vỡ không khí trầm lắng, đọc một câu thơ tình của Onga Becgon: “Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn/ Anh mới hiểu bấy giờ em có lý/ Dù chuyện cũ xa rồi em đã xa cách thế/ Anh hát khác xưa rồi và khóc cũng khác xưa…”.  Không hiểu vô tình hay hữu ý, chàng nhà thơ thay đổi chủ thể anh-em khác với mấy câu thơ gốc, làm Vĩ đắng lòng. Thâm tâm, anh chưa từng nhẹ lòng với chuyện cũ, chỉ là sự cố tình quên đi và gắng gỏi để mà sống. Cho đến giờ, đã gần ba chục năm trôi qua, anh chưa một lần tục huyền, vẫn sống cảnh gà trống nuôi con, mặc dù ngần ấy năm, có nhiều cuộc tìm hiểu, mối lái, và anh cũng có đôi lần sống kiểu già nhân ngãi non vợ chồng với người đàn bà này nọ, nhưng không thể kết hôn lại. Ngày ấy, sau khi vợ anh mất một thời gian, cặp tình nhân Quy Huệ cũng tan vỡ khi Quy chuyển về Hà Nội công tác, và Huệ cũng nhanh chóng lấy chồng, một anh chàng người bản địa. Để thay đổi môi trường sống, cho bớt nặng nề, Vĩ xin chuyển công tác khỏi trường. Dẫu vậy, vật đổi sao dời, thì vẫn quẩn quanh vùng đất cao nguyên này. Ngày trước, cao nguyên thơ mộng này thật đẹp trong suy nghĩ và con mắt nhìn của anh thì sau này đầy sương khói u uẩn. Lại thêm một lần nữa, Vĩ thay đổi công tác, đi khỏi vùng đất cao nguyên này, về tỉnh lỵ, Nghe lời khuyên của nhiều người, Vĩ mang tro cốt, phần di hài còn lại của vợ, mà hàng chục năm sau cái chết của cô, anh mang theo thờ cúng, thì nay anh quyết định mang gửi vào chùa. Anh đã chọn một ngôi chùa nhỏ, chùa làng gần quê của Nhân ở ngoại ô Hà Nội để gửi tro cốt và vong linh cô, với ý nghĩ là cô được về gần nơi quê hương cha sinh mẹ để của mình. Sau khi vợ mất, đã vài lần mai mối, Vĩ tục huyền không thành. Người thân và bạn hữu đồ đoán rằng, việc luôn mang theo những gì còn lại của Nhân, vong cô đã theo ám, khiến anh không thể tái hôn với người đàn bà nào khác. Vĩ bán tín bán nghi, nhưng việc anh chuyển về tỉnh lỵ, có cái cớ để anh dứt hẳn, trả vong linh cô siêu thoát, theo hầu Đức Phật. Các di vật khác của vợ, anh vẫn mang theo cho đến tận giờ. Quả là, anh sống nhẹ nhàng hơn, chỉ chuyên tâm vào công tác và nuôi dạy con khôn lớn …

Vĩ và Quy, vẫn giữ tình bạn bè, giữ mối liên lạc, nhưng cũng ít khi gặp nhau, là bởi xa xôi cách trở, môi trường công tác khác biệt, anh bỏ nghề giáo làm hành chính, Quy thì bỏ dạy học theo nghiệp báo chí. Vĩ nuôi con khá vất vả, cậu con trai độc nhất thiếu bàn tay chăm chút của mẹ, có chệch choạc đôi chút rồi cũng vào quỹ đạo. Còn anh bạn Quy, lập gia đình, cũng chẳng đi đến đâu, rồi họ chia tay nhau, cho đến khi tục huyền, Quy mới được hưởng không khí gia đình hòa hợp, ấm cúng...

Cũng chẳng ai thật thà như Vĩ, sau ngần ấy năm công tác, vẫn ở căn phòng được Ủy ban cho mượn trong khu nhà khách tỉnh. Người ta xin xỏ này nọ, nếu không thì cũng cách này khác gom góp, quan hệ, kiếm được căn hộ tập thể hoặc miếng đất theo dạng mua ưu đãi. Vĩ từng làm trợ lý cho ông Chủ tịch, hoàn toàn lo được việc này, nhưng anh không lợi dụng để kiếm chác. Vĩ là vậy, anh định hướng, khi con trai học hành trưởng thành đi làm, sẽ phải tự lo lập thân lập nghiệp, còn anh, khi nghỉ hưu thì sẽ về xuôi, sống với bố anh ở quê. Hiện ông cụ đã ngoại chín mươi tuổi, vẫn sống một mình trong căn nhà gạch kiên cố với vườn tược khá rộng rãi. Quê anh, miền ven biển, không khí trong lành thoáng đãng. Anh nhẹ đầu với suy nghĩ vậy, nên nhiều năm qua, anh vô tư với chuyện đất cát nhà cửa. Nay bắt đầu nghỉ hưu, mới lại nảy sinh sự tính toán thiệt hơn. Số là, vài năm nay, anh quen với một người đàn bà, đã từng lỡ dở một đời chồng, có con riêng. Cũng có nghĩ đến chuyện hôn nhân, nhưng mọi chuyện sẽ bình thường, nếu như anh có nhà riêng, nếu như anh không về quê sinh sống. Tử vi tướng số, cung Thế thiếp của anh có sao gì xấu mà đời anh lại long đong lận đận, vất vả với người má đào? Nợ hoa chồng chất. Chưa trả xong cái nợ hoa này, lại bập vào kiếp hồng nhan của người ta, sinh mắc nợ hoa nữa. Tóc bạc, giờ chẳng lo, tháng dăm chục nghìn tiền thuốc là nhuộm đen nhánh, song sức lực và tiền bạc thì chẳng có thuốc nào nhuộm cho tươi hồng được...

Về nghỉ hưu vẫn không yên, đâu chỉ bởi tên anh dích dắc cái đuôi nguyên âm ngắn dài, mà bởi mắc nợ hoa, nợ người tri kỷ. May mà, gần đây, Quy trở lại vùng đất núi non này, Vĩ lại có chỗ dựa tinh thần, và thực tế là Quy đã giúp, gỡ rối cho anh nhiều chuyện. Cho đến tận lúc này, Quy vẫn sát cánh bên anh, nâng đỡ anh. Thôi thì, cứ khăn gói quả mướp về quê cái đã. Theo dân gian, chó chưa chết thì còn chưa hết chuyện, cơ mà. Thâm tâm, Vĩ cũng muốn lưu lại vùng đất này, nơi anh đã hy vọng rồi thất vọng, nơi anh đã từng sung sướng hạnh phúc rồi khổ đau tột độ, rồi lại thắp lên một niềm hy vọng mới...

Quy và anh, cả hai cùng lặng im, dường như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ, song chắc không khác nhau mấy... Chàng nhà thơ thì hình như ngủ, có tiếng ngáy khe khẽ…

Chợt cậu lái xe reo lên: “Đến nơi rồi, các sếp ơi… Kính mời các sếp xuống xe!...” ./.

 

 

 

 

Giờ đã mai sau,...

 

Đợt gió mùa đông bắc cuối mùa tràn về hôm trước gây mưa to, nhưng cái lạnh chỉ lào khào, đủ gây nhớ. Người ta bảo là rét Nàng Bân. Mọi năm, độ này trời đã sang hạ lâu rồi. Năm nay, thời tiết lạ lùng, chiều ba mươi tết mưa tầm tã, đêm trước lúc giao thừa giông gió sấm chớp đùng đùng, đến giao thừa trời tạnh chốc lát, rồi cứ thế rả rích mưa qua ngày đầu năm mới. Ở cái tuổi bảy nhăm, ông Trác chưa thấy bao giờ... Thời tiết vậy, mấy vị biết lý số phán khác nhau, ông thì bảo năm nay trời độc, điềm báo có chuyện gở, ông khác lại nói, năm nay có chuyện động trời, nhưng sau đó sẽ đổi mới và thịnh phát. Chăng biết đâu mà lần...

Chiếc xe chở cha con ông Trác cùng hai người bạn tâm giao về thăm quê ông ngang qua thị xã Sơn Tây lên đến cầu Trung Hà thì trời mây giông lại đùn lên. Đường lên Hiền Đa, vùng quê ông, một vùng trung du nằm ven bờ sông Thao, một bên là đồng lúa đã vào hạt, còn bên sông nước đã to. Lũ tiểu mãn về sau vài đợt mưa lạnh cuối mùa làm nước sông dâng cao. Nước ngập, bãi sông trống vắng, ngô và lau sậy loáng thoáng. Năm nay, chẳng ai ngờ dịch bệnh tưởng đẩu đâu chơi chơi vậy thôi, ai ngở như vết dầu loang, nhoáng cái đã lan ra cả địa cầu, dân tình giàu nghèo, công dân hạng bét đến quan chức, nguyên thủ khắp thế giới đều cuống hết cả lên... Ông Trác đã xếp lịch du xuân cùng gia đình và bạn bè đành hủy hết, thay vào đó ông lang bạt hết nhà đứa con này đến đứa con khác, trưởng sở đóng cửa, nên ông làm mỗi một việc là giữ đám cháu, cơm nước cho chúng ăn, nhắc chúng tự ôn bài vở, cho các con yên tâm đi làm. Mệt và chán nhưng không bỏ được. Cuồng chân, nẫu người, nên khi vãn dịch bệnh, lệnh cấm túc được nới lỏng là ông í ới, rủ ngay vài người bạn tâm giao, làm chuyến về quê ông, gọi là đi Thanh minh bù cho đỡ bí bách mấy tháng qua.,,

Ngoài trời lác đác mưa. Xe bon bon đường vắng. Trên xe, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Trung, con trai ông, một kiến trúc sư giỏi và còn là nhạc sĩ tài hoa dùng smartphone quay phim quanh cảnh, còn ông thì đầu óc chập chờn những hình ảnh từ quá khứ ùa về. Ông nghe loáng thoáng bên tai câu chuyện của hai vị khách mời đi cùng, cậu bạn vong niên kém ông đúng một giáp đang hùng biện cho vị giáo già về chuyện dịch bệnh Covid 19 với sự viện lý từ lịch sử xa xưa, lấy bài kệ “Hữu không” của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời Lý ra để lý giải và xem như một lời tiên tri về nạn dịch bệnh chết người này... Lời kệ là “Tạc hữu trần sa hưu. Vi không nhất thiết không. Hữu, không như thủy nguyệt. Vật trước hữu không không” với lời dịch tài tình của Huyền Quang tam tổ “Có thì có tự mảy may. Không thì cả thế gian này cũng không. Kia xem bóng nguyệt lòng sông. Ai hay không có, có không là gi”. Thì cứ xem, trước dịch bệnh này, thế giới có trật tự cả, từ quốc gia đến mỗi con người, phân hạng giàu nghèo, sang hèn, quan chức hạng nhất với lê dân... vậy mà, chỉ một loại virus vô hình trong mắt thường đã làm đảo điên toàn thế giới, xóa nhòa mọi khoảng cách, ranh giới. Cứ theo cái lý ấy, chủng vius này đã khiến mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi con người đều phải tự nhìn nhận lại chính mình, thậm chí thay đổi tính cách, nếp sống của mình để phù hợp với thời hậu virus, nghĩa là tìm cách để sống chung với nó nếu muốn tồn tại... Rằng việc xuất hiện chủng virus này, cùng với sự chết chóc mà nó gieo rắc khủng khiếp và rộng lớn hơn cả một cuộc chiến tranh, nếu nhìn ở góc độ tich cực, thì nó đem lại sự bình đẳng, cân bằng nào đó cho con người nói chung. Vậy chăng, cái sự hữu-không trong vũ trụ. chẳng phải đã được các vị thiền sư đưa ra lý giải mỗi mối quan hệ trong cuộc sống từ hàng ngàn năm trước, trên nền tảng triết lý sắc sắc không không của nhà Phật, đó sao?...

Ông Trác lơ mơ nghe những người bạn chuyện trò, và ông cảm thấy thú vị với sự kiến giải của người bạn vong niên. Đầu ông hiện lên hình ảnh thời thơ ấu của mình ở cái làng Thạch quê gốc nằm ngoài đê sông Thao này, toàn đất bãi phù sa, chẳng có đá mà làng lại có tên là Thạch. Ông nhớ, ngày trẻ, ông đã từng hỏi cha mình về tên làng, thì cha ông cũng lờ mờ, đoán rằng, chắc thuở xa xưa, dòng họ nhà ông gốc ở vùng núi phía núi Đọi Đèn kia di về ven bở sông này sinh sống, rồi cùng các họ khác lập làng, nên lấy chữ Thạch làm tên làng để đời đời nhớ về gốc rễ của mình. Đậm nét nhất là hình ảnh cha ông, mỗi sáng dong con trâu với bắp cày trên vai, từ làng vượt ngang bờ đê vào làm ruộng ở cánh đồng trũng bên trong đê, xa xa là dãy núi Đọi Đèn. Ánh nắng chiếu hắt hình bóng con trâu và người cha thành khổng lồ, mà sau này ông đã lấy hình, ý tứ đó viết thành thơ, để rồi con trai ông, đã phổ nhạc thành ca khúc hay ... Vậy mà, đã bao mùa, cả cha và mẹ ông đã về nằm chung khu vực với những người quá cố trong dòng họ nhà ông ở nghĩa địa Đồng Đế này?... Mải nghĩ, hay quên, chiếc xe vượt quá lối rẽ xuống cánh đồng, nên phải quành trở lại.

Hai cha con ông Trác cùng mấy người bạn theo lối mòn nhỏ, men theo con ngòi để đi vào nghĩa địa Đồng Đế. Ở đấy, cả dòng họ, trong đó có cha mẹ ông, từ hơn trăm năm nay, sau khi quy tiên dù ở đâu thì trước sau đều được con cháu đưa về nằm đây, mộ phần khang trang, bia mộ rõ ràng. Sau trận mưa đêm qua, đất nhão, nước lép nhép, khiến mọi người thập thõm lần đường một hồi. Trung tâm nghĩa địa là ngôi mộ tổ, tính đến ông Trác là chín đời, được xây cất hoành tráng với mộ phần và bệ thờ đá có vòm mái cong, chạm khắc nổi cùng đối liễn chữ Nho. Ông Trác nhớ, ngày nhỏ theo bọn trẻ trâu trong làng, ông hay ra bãi tha ma này chơi nghịch trò trận giả hay trốn tìm, nấp sau các gò mộ. Ngày đó, bãi tha ma còn thưa mộ, cỏ dại và cây mua, dứa dại mọc um tùm. Gò mộ tổ của dòng họ ông là một cái gò đường lớn, nên mỗi khi nước đồng ngập lụt, đám trẻ con thả trâu hay tụ tập ngòi chơi trên đó. Thằng cu Trác là ông bây giờ cũng thường có mặt trong đám trẻ tụ bạ ở đó. Hay đâu, chúng lại ngồi chơi trên mộ tổ dòng họ mình. Chơi chán, lũ trẻ trâu lại nhày ùm xuống ngòi Thản, bơi lội, tắm táp thỏa thích. Con ngòi lấy theo tên người, nghe nói dăm đời trước, trong làng có một ông tên Thản, đã bỏ tiền thuê nhân công nạo vét và mở rộng con ngòi tự nhiên để lấy lối chèo thuyền vào sâu trong đồng mỗi mùa mưa lũ, còn đến mùa cạn thì con ngòi lại nguồn nước dự trữ để tưới cho đồng ruộng. Đời sau ghi nhớ công ơn người có công khai mở, lấy tên Thản của người đó làm tên ngòi.

Mộ cha mẹ ông Trác ở phía sau không xa ngôi mộ tổ dòng họ. Mấy anh em ông Trác, từ hơn chục năm nay, đã xây dựng phần mộ cha mẹ khang trang. Tiện thể phần đất trống bên cạnh, mấy năm trước ông đã bỏ dăm triệu bạc mua nốt để sẵn đấy, phòng khi cần đến, cũng là có ý ngầm dành nơi yên nghỉ cho vợ chồng ông, hoặc mấy anh em ruột thịt đã tuổi xế chiều cả. Ông Trác chỉ đất giải thích này nọ cho hai người bạn nghe, thì cậu con trai ông cười bảo: “Mẹ đã mua sinh phần cho bố và mẹ ở bên quê mẹ rồi còn gì...”. Bị cậu con cắt ngang, ông hơi bục, giọng gằn: “Rõ là... vó vẩn... Dẫu có thế thì cũng phải chia một lọ con phần tro cốt tao, đưa về đây, để nằm cạnh cha mẹ tao... Rõ chưa?”.  Cậu con cười trừ, thủng thẳng dàn hòa: “Đấy... bác và chú nghe chuyện...rõ cả rồi ạ. Mai sau, cháu... Y lệnh...”. Ông Trác cảnh giác: “Nhưng mà... y lệnh ai?”. Cậu con lại cười: “Y lệnh bố mẹ...”. Nó khôn ngoan, Hòa cả làng. Cùng cười...

Mọi người trở về làng Thạch. Làng nằm ngoài đê. Đình và chùa nằm kế bên nhau, đều hướng mặt ra sông Thao. Chùa vẫn giữ được nét rêu phong cổ kính, trong khi đình đã được tu bổ nhiều nét mới. Cây đa làng sum suê thân rễ phía trước giữa đình và chùa, có lẽ hơn trăm tuổi rồi, bời ngày nhỏ ở làng, cây cũng đã to, ông Trác hay cùng đám trẻ làng leo trèo, nhặt quả đa chín ăn lúc đói lòng. Trở ra, theo lối dốc xuống bến Điếm. Bến vắng hoe. Có dăm con thuyền đậu, chỉ mỗi một thuyền có chủ, có hai cha con đang chuyển củi khô lên xếp trên bở. Lau sậy um tùm lút cao lấn cả bến. Ông Trác ngắm nghía, lòng chạnh buồn, chẳng bù ngầy xưa bến này quanh năm suốt tháng đông vui tấp nập. Gọi là bến Điếm, bời ngày xưa trên bến có một cái điếm gạch nhỏ. Điếm này không phải là điếm canh đê, bởi là điếm canh đê thì phải ở trên mặt đê. Còn điếm này là điếm canh của bến sông. Ngày nhỏ, cu Trác hay ra bến chơi, khi ấy cái điếm đã dột nát, có một ông lão không có nhà nên trú ngụ ở đấy. Cứ theo bố của ông giải thích, thì cái điếm đó, thời nhà Nguyễn, người ta cho dựng để kiểm soát việc buôn bán, thu thuế và chặn bắt hàng lậu. Sau không cần nữa nên để hoang thành đổ nát. Dẫu vậy, thì việc buôn bán ở bến Điếm thời ông còn bé tấp nập lắm. Sáng chiều, thuyền bè cặp bến Điếm đông đặc, kéo dài cả một khúc sông Thao. Hay la cà ở bến, cu Trác vẫn nhớ những bè luồng, nứa, và những thuyền buôn chở đầy ự những hàng nông lâm sản, như củ nâu, măng tươi, và nhiều nhất là chè băm. Chè băm là loại chè lá già, được thu hái đâu đó từ các vùng chè Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, được người ta băm nhỏ, phơi khô, đem đóng vào bao tải hoặc các sọt nan cài lá cọ, mỗi bao, sọt nặng cỡ dăm chục cân đến cả tạ. Chè băm chở về xuôi, bán cho dân đồng bằng mua uống, chứ ngày đó lấy đâu ra loại chè ngon búp sao mà uống. Cu Trác ấn tượng nhất là cảnh những thuyền, bè buôn hàng lớn có người kéo dây trên bở phía trước và vài người dùng con sào dài chống đẩy giữ cho thuyền bè đi song song với bờ sông. Cảnh những phu kéo thuyền bè giống như bức tranh Những người kéo thuyền trên sông Von-ga nào đó mà cu Trác đã từng thấy. Chẩng là, cu Trác hay được bố cho sang chơi nhà người chú ở thị xã Phú Thọ, cậu con người chú tầm tuổi Trác lại dắt sang chơi nhà hàng xóm. Nhà này to bề thế, trên tưởng nhà có treo tờ tranh giấy này. Cu Trác nhìn thấy thích lắm, ngắm nghía kỹ nên nhớ, nhất là hình ảnh các phu kéo thuyền ăn vận rách rưới, đầu cúi gằm, oằn vai lưng kéo sợi dây chão để thuyền đi. Thế nên, khi bắt gặp những người kéo thuyền bè ngang qua khúc sông Thao bến Điếm, thì thích lắm, reo lên rồi chạy xuống bến, bám theo những người phu kéo thuyền. Lúc thuyển nghỉ bến để chuyển hàng thì cu Trác bén mảng, sờ thử và nắm tay vào sợi dây kéo bằng song mây rừng đẫy. Cu Trác rất thích sợi dây kéo đó bởi những chỗ tay người nắm vào thì nhẵn nhụi trơn nhẫy khác  thường. Có lần nó bị người phu kéo quát đuổi, bảo quẩn chân. Cu Trác về kể với bố, liền bị bố mắng cho một trận, bảo như thế là nguy hiểm, ngã xuống sông thì toi đời. Vậy nên, cu Trác càng nhớ, sau này lớn lên, tìm hiểu, biết bức tranh ấy của một sĩ người Nga rất nổi tiếng tên là Ilya Repin từ giữa thế ký 19. Giờ đây, con trai ông và những người bạn đứng trên Bến Điếm, ngó ngược xuôi cả một khúc sông Thao đang mùa lũ tiểu mãn mà thuyền bè thưa thớt, làm sao hiểu nổi nơi sâu thẳm ký ức ông bao chuyện xưa cùng những con người cũ đang sống dậy trong lòng ông, và những điều mắt thấy tai nghe trên bến Điếm từ ngày ấy ông mang về nhà hỏi cha mình,... Để rồi trong một bài thơ ông bật ra câu “Sông Thao, đò dọc đò ngang những câu chuyện mắc lưới”. Ai bảo là làm thơ dễ nhỉ? Có những câu thơ người ta phải đi một đời người mới bật ra được đấy...

Trở vào làng. Ông vào nhà người thím họ, mượn chìa khóa để vào Từ đường dòng họ thắp hương. Gặp người thím họ, thăm hỏi dăm ba câu chuyện, loanh quanh sang chuyện đàn bà, con gái yêu đương ngày xưa...

Bà thím kể, dạo trước tết, cái Thà, cháu gọi bà bằng di, sống mãi nơi biên giới Lào Cai về thăm quê. Thế là thím cháu ông Trác chuyện một hồi về người đàn bà tên Thà, khiến cho hai người bạn ông ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì.

Ngày ấy, ông chuẩn bị nhập ngũ. Tốt nghiệp đại học lên miền núi Hà Giang nhận công tác được hơn năm thì có lệnh gọi nhập ngũ, Chiến trường miền Nam đang thiếu quân, mà miền Bắc thì luôn sẵn sàng “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Chàng cán bộ thương nghiệp Trác lên với cao nguyên đá còn chưa kịp bén duyên ai, ngoài chút tình cảm thinh thích cô nhân viên mậu dịch nơi chân dốc Mã Tim khỏe mạnh có duyên, thì đã phải rời vùng đất này để vào lính. Chàng đi thăm bố, đang xây dựng xưởng chè nơi Bến Sơn, để chào ông trước khi nhập ngũ. Chàng mượn được ông cậu họ chiếc xe đạp cà tàng hăm hở phóng đi. Dọc đường, chàng thấy một cô gái độ tuổi mới lớn, diện chiếc áo xanh sĩ-lâm, nón lá đi bộ cùng chiều. Cô gái thấy chàng thì chẳng ngần ngại xin đi nhờ đến dốc Chủ Chè. Thế là chàng cắm cổ gò lưng đèo cô nàng. Đến chân dốc thì nghỉ chân chốc lát, cho đỡ mệt. Chàng tháo bi đông nước mời nàng trước rồi mình uống sau. Định nói lời chia tay thì cô nàng bảo, em còn đi nữa, đến tận Bến Sơn cơ. Chàng ngạc nhiên. Nàng nhoẻn cười tự nhiên bảo: “Thì em phải nói đến dốc Chủ Chè thì anh mới cho đi nhờ chứ”. Nói dối dễ nghe ghê. Chàng khoái chất tự nhiên của cô bé, mắng yêu: “Này nhớ... trẻ em nói dối là không tốt đâu đấy”. Vênh mặt: “Thế người lớn nói dối là tốt à... Với lại... người ta... người lớn rồi đấy nhớ”. Phì cười: “Người lớn gì mà bé như cái kẹo vậy? Đã nói dối... lại còn nói dối bộ đội nữa thì... đương nhiên lại càng không tốt rồi”. Cãi ngay: “Ô ô... bộ đội đâu? ... làm gì có bộ đội ở đây?’. Nhìn quanh quất. Cười vênh mặt: “Anh... anh là bộ đội á?... Thế quần áo, giày mũ bộ đội đâu?”. Tự hào: “Này nhớ... mấy hôm nữa thôi, anh đây là bộ đội rồi đấy...”. Ngạc nhiên, dịu giọng: “Thật á?... Thế thì cho em xin lỗi nhé... Ban nãy... sợ nói đi nhờ đến tận Bến Sơn, xa quá... anh lại từ chối...”. Cười bảo: ”Bộ đội là phải giúp đỡ nhân dân chứ... Đúng không nào, cô bé?...Quân với dân như cá với nước kia mà”.  Li nhí: “Vâng... nhưng mà... không được gọi em là cô bé nữa... Lớn rồi mà...”. Cả hai cùng cười.

Thế là chàng và nàng cùng ngược dốc Chủ Chè. Chàng dắt xe, còn nàng đi bên, cầm tay vào booc-ba-ga đẩy nhẹ. Vừa đi vừa trò chuyện. Lúc này, nhìn kỹ, chàng thấy cô bé khá xinh. Gương mặt bầu bầu, nhưng cái cằm hơi lẹm, đôi mắt to đen, cái trán hơi dô vẻ bướng bỉnh. Lên đỉnh dốc, chàng đã thinh thích cô bé rồi. Đổ dốc, xe càng nặng càng tuột nhanh, chàng cố gắng làm chủ tay lái, còn nàng thì sợ nên hai tay ôm chặt vòng bụng chàng. May mà không trượt ngã dù mấy lần loạng choạng. Từ đấy vào Bến Sơn còn một thôi đường nữa. Chàng bắt đầu dẻo miệng, chuyện trò, hỏi han đủ thứ. Cao hứng còn đọc thơ, những câu thơ đầu đời của chàng, đầy những chia xa thương nhớ, những anh anh em em rồi. Chẳng hiều nàng có nghe rõ không nhưng chốc chốc khen hay. Chàng càng phởn chí, dù đạp xe bở hơi tai song vẫn luôn miệng. Chân dốc Đá Thờ, con dốc cao nhất, chàng nàng lại xuống xe dắt bộ lên dốc. Tới đỉnh dốc, dừng nghỉ cho đỡ mệt, vả lại chàng cũng nấn ná muốn kéo dài thời gian ở bên nhau. Giờ thì chàng mạnh bạo hẳn, thấy nàng duyên nên tán tỉnh. Thực lòng, trước lúc nhập ngũ, chàng nảy ý định “thả thính” đợi sau này về buông câu, bèn nửa khen nửa tán, cười bảo: “Em xinh quá. Mới gặp mà anh đã thấy thích em rồi... Cô bé ơi, nếu sau này anh còn sống trở về... thế nào anh cũng tìm em...rồi thưa với cha mẹ em để xin cưới em...”. Nàng đỏ mặt thẹn, ngúng nguẩy: “Cái nhà anh này... Em không thích đùa đâu nhé..”. Cười dấn tới: “Thì anh có đùa đâu. Anh nói thực lòng đấy... Bộ đội, ai lại đi đùa nhân dân cơ chứ...”. Nàng thích ra mặt, song cố làm ra vẻ tỉnh queo. Chàng chợt nhớ, sắp phải chia tay rồi mà chưa biết tên nàng, bèn chủ động: “Anh tên Trác... Còn em tên gì?”. Lúng túng: “Em tên Thà... tên xấu anh nhỉ?”. Căn vặn: “Thế em vào Bến Sơn làm gì? Định xin làm công nhân nhà máy chè à?”. Cười: “Không ạ. Em vào thăm mẹ em đang làm công nhân ở đấy?... Thế còn anh?”. Hơi lúng túng bởi câu hởi ngược: “Thì anh cũng đi thăm bố anh làm trưởng phân xưởng sản xuất ở đấy... chào để đi bộ đội”. Tò mờ: “Thế bố anh tên gì?...”. Buột miệng: “Bố anh tên Tráng... vậy mẹ em tên?... Thôi đúng rồi, em là Thà, con gái mẹ Thực, đúng không?...”. Ngạc nhiên: “Ôi, ... sao anh lại biết tên mẹ em?’. Òa to: “Thôi rồi... mày là cái Thà con gái cô Thực... Mày là em họ tao.”.

Thế là tan giấc mộng điệp. Mẹ của nàng là em họ với bố của chàng. Phong tục ở quê, đã họ hàng với nhau, dẫu xa hàng chục đời thì  trai gái cũng không thể lấy nhau được. Tan cơn mộng, chàng xưng hô với nàng theo kiểu họ hàng với nhau, nên cứ tao tao mày mày. Cô gái tròn mắt vì thấy chàng đổi cách xưng hô nhanh thế. Chặng đường từ dốc Đá Thề vào đến Bến Sơn còn vài cây số nữa, chẳng còn là đường đưa chàng lính mới kiêm nhà thơ đến với bến hẹn hò, mộng yêu đương nên nó dài làm sao ...

Cha con ông Trác xong thủ tục thắp hương khấn các cụ tổ dòng họ, trở lại nhà bà thím. Lại tiếp câu chuyện về người đàn bà tên Thà. Ngày ấy, ông Trác vào lính, rồi đi tiếp vào Nam, sang chiến trường Lào, biền biện mấy năm. Khi trở ra Bắc, về quê, hỏi thăm thì người em họ lên tận Lào Cai làm công nhân rồi lấy chồng người Việt gốc Hoa. Khi đã biết là họ hàng với nhau, thì ông Trác chẳng tiếc. Nhớ thế cũng là đủ về một nàng thơ quá vãng. Trong những năm còn ở lính, chiến trường bom đạn, những vần thơ lởn vởn trong đầu hay những bài thơ thành hình được viết vội bằng bút chì nguệch ngoạc sổ tay, cô em họ tên Thà ấy cũng ít nhiều để lại bóng hình. Sau này, đi khắp khói mọi nơi, quen biết nhiều người đàn bà đẹp, lòng dạ cũng xao xuyến này nọ, song chẳng hiểu sao, hình ảnh của những người đàn bà xưa cũ mà ông Trác từng có duyên gặp gỡ ở cái đất bán sơn địa bên bờ Thao giang ấy vẫn cứ theo đuổi, ám ảnh ông mãi. Từ làng Thạch, đến chân núi Đọi Đèn của Cẩm Khê và cả vùng xa khuất bên kia nữa đất Yên Lập, với ông, mọi thứ đều gần gũi, thân thương. Phải chăng, đúng quy luật, ở cái tuổi già lão, người ta hay quên chuyện gần, lại chỉ nhớ chuyện đã xa?...

Ngày ấy, ở độ tuổi mười một, mười hai, cuối bậc tiểu học, kỳ nghỉ hè đến, cu Trác hay được bố cho đến nơi ông đang làm việc chơi. Ông Tráng, bố cu Trác là người năng nổ, có kinh nghiệm làm chè, nên được cấp trên tin tưởng giao cho việc đi lập xưởng chè mới. Thế là ông cứ xa nhà quanh năm, hết Thanh Ba, Hạ Hòa, lại Yên Lập. Hơn chục tuổi đầu, cu Trác đã được bố tha đi nhiều nơi. Tính tình hiếu động và nhanh mồm miệng, nên cu Trác được các cô chú, anh chị ở các phân xưởng xí nghiệp chè quý lắm. Không hiểu sao, hồi đó, nhiều phân xưởng chỉ toàn nữ công nhân, có nhiều người quê mãi vùng trong Thanh- Nghệ- Tĩnh. Có lẽ, nghề làm chè phù hợp với nữ hơn. Có lần, lúc nghỉ giải lao giữa ca, mấy chị nữ công nhân trêu ghẹo nhau rồi lôi cả Trác vào cuộc. Cu Trác bị mấy chị bế thốc đặt ngồi vào chiếc rành tre to tổ bố, rồi lấy cả bao tải lá chè tươi đổ ụp xuống đầu. Cụ cậu bị lá chùm ngập cả đầu thì hốt hoảng vùng người ngoi lên. Các chị cười như nắc nẻ, khoắng tay bới lá chè cho cụ cậu, Trong cơn loạn xạ đó, cu Trác cảm nhận được có bàn tay quờ quạng đụng chạm vào phần giữa hai bẹn cậu. Cu cậu vùng đứng lên, cáu đỏ mặt tía tai, vặc to “Em ứ thích các chị đùa thế đâu”. Vậy mà các chị thì đấm lưng nhau chí chóe cười. Cu cậu đâu biết, có chị cười đỏ mặt...

Và rồi, một đêm, trời mưa giông chuyển hạ sang thu. Mưa ngàn, mau thưa suốt đêm. Cu Trác ngủ với bố trong căn phòng hẹp ở khu nhà công nhân. Gần nửa đêm, ông Tráng vùng dậy lấy đèn pin đi kiểm tra phân xưởng xem mưa gió thế có bề gì không. Cu Trác sợ ma không dám ở một mình, cứ bám lấy bố đòi đi theo. Ông Tráng bực quá, dỗ không được, bèn gõ cửa phòng bên cạnh, nhờ gửi cu Trác vào đấy. Phòng này rộng, có những mấy chị công nhân cùng ở, kiểu giường đơn. Chị Nụ, người lớn tuổi nhất phòng, có giọng nói miền trong nằng nặng, nhận cho cu Trác ngủ nhờ giường. Một ngọn đèn chai dầu hỏa hãm hạt đỗ hắt chút ánh sáng đỏ quạch nơi góc phòng. Ngoài trời vẫn mưa gió sùi sụt. Chị Nụ cho cu Trác nằm phía trong, giáp với tường vách, còn chị nằm chặn phía ngoài, phủ chiếc chăn chiên đắp chung, dỗ dành cu cậu: “Em đừng sợ, Ngủ đi... Có chị đây, con ma không dám đâu”. Cu Trác yên lòng, nhưng lạ giường. cựa quậy một lúc rồi ngủ thiếp đi. Cu cậu miền man, giấc mơ nối tiếp giấc mơ. Trong mông lung, trôi dạt, cậu thấy mình ấp mặt vào hai trái núi, nhưng núi gì mà ấm áp, mềm mại, thơm tho, hấp dẫn đến thế, khiến cậu cứ rụi mặt miệng vào đấy. Thoảng tiếng nước chảy nhẹ êm đâu đó, lại có gì đó mơn chớn chỗ nhạy cảm làm cậu thinh thích làm sao... Và cậu cứ chìm đi, lạc dần vào sự khoan khoái lạ kỳ... Sáng hôm nay, cu Trác thức giấc thì mọi người đã dậy hết cả rồi. Thì ra, đêm qua, cậu ngủ cả đêm trên giường của chị Nụ. Bố cậu đi tuần tra về, không muốn làm phiền các chị nên cứ để cho cậu ngủ bên đó. Cậu ra sân, nhìn quanh quất, thấy mấy chị đang tập thể dục, song không thấy bóng dáng chị Nụ đâu. Mấy ngày còn lại ở đấy, các nữ công nhân vẫn hay trêu đùa cu cậu, riêng chị Nụ thì không. Hình như, chí né không muồn giáp mặt cậu, còn cu cậu thì chỉ dám nhìn trộm chị mà thôi...

Ấn tượng đầu đời về giới tính ám ảnh, lẵng nhẵng theo ông Trác từ ngày ấy cho đến tận bây giờ. Mãi sau này, có lần. ông Trác hỏi thăm bố mình về những nữ công nhân cùng xưởng ngày ấy, thì ông cụ bảo, nghe đâu, mọi người tứ tán cả, còn chị Nụ không lấy chồng, khi đã đứng tuổi thì tự kiếm được đứa con. Cũng kiểm điểm này nọ một hồi, chị Nụ xin thôi việc, đưa con về quê miền trong sinh sống và biệt tin tức...

Với ông Trác, tuy sớm va chạm về chuyện nam nữ, thế nhưng đều bị động, nên vẫn ú ớ lắm. Khi trong lòng manh nha chút tình cảm luyến ái thì vẫn nhút nhát. Vào độ tuổi mười bốn mười lăm, học cuối cấp hai, Trác chơi thân với cái Nhuần. Nó kém Trác vài tuổi và học lớp sau. Nhà Nhuần ở xóm trong đồng, mà trường học lại ven chân đê, nên mỗi buổi học, Nhuần hay tạt ngang cổng nhà Trác gọi rủ cùng đi học. Sở dĩ hai anh em thân nhau là bởi cái Nhuần hay bị mấy thằng con trai làng Thạch bắt nạt trên đường đi học. Trác thương con bé bị bắt nạt, lấy cớ họ hàng bênh vực cái Nhuần, thế nên con bé tự thân quý Trác thôi.

Một năm, lũ sông Thao về sớm, lại to, làng Thạch ngoài đê nước mênh mông tràn vào làng, ngập hết lối ngõ, sân vườn. Nhà nào đất trũng thì nước vào nhà, ngập lưng chân giường. Lũ thế, chỉ người lớn ở lại giữ nhà, giữ làng, còn người già và trẻ con thì gửi sơ tán vào các nhà họ hàng, người thân xóm trong đồng ở nhờ. Mấy anh chị em nhà Trác tứ tán mấy nơi. Trác vào ở nhờ nhà cái Nhuần. Năm học chưa hết, tối tối trẻ con vẫn phải học bài. Hè nóng bức, lại nhiều muỗi, nên buổi tối, Trác phải chui vào trong màn ngồi học. Đèn dầu hỏa khét lẹt leo lét ánh sáng, Học thế, đầu óc u u minh minh, chữ nghĩa, con số chạy đâu hết. Một tối, trời đã về khuya, học buồn ngủ, gà gật trong màn thì Trác nghe như có tiếng dội nước ngoài sân giếng. Trác tình ngủ, hé mắt nhìn ra thì thấy bóng con gái đang tắm. Nhìn kỹ thì nhận ra cái Nhuần mờ tỏ trong ánh trăng. Nó mặc nguyên quần áo, múc nước giếng dội lên người. Trác nhìm trộm, đầu óc non trẻ cố mường tượng ra những gì ở bên trong quần áo cái Nhuần. Tỉnh ngủ hẳn. Nào ngờ, buồn ngủ thế, vậy mà khi tắt đèn đi ngủ, Trác lại không ngủ được, cứ vẩn vơ nghĩ về thân thể cái Nhuần. Trong lòng cậu bé mới lớn có sự đổi khác...

Và rồi, chỉ ít ngày sau, hai đứa có một kỷ niệm chẳng thể nào quên. Chiều nghỉ học, cái Nhuần rủ Trác đi chăn trâu và móc cua đồng. Hai đứa hì hụi ở cách đồng, gần gò Vinh, nơi có hàng trăm gốc lộc vừng cổ thụ. Chợt nhớ chuyện cha mình kể về gò cây lộc vừng ngàn năm này, Trác bèn rủ cái Nhuần cùng mò vào xem. Giữa gò Vình có một ngôi mộ hay miếu cổ gì đó, vẻ bí ẩn ma mị. Cái Nhuần sợ nên không dám bén mảng đến ngôi miếu cổ, trong khi Trác mò tận nơi, lần xung quanh xem xét, rồi chắp tay, lầm rầm khấn vái. Trác đã từng nghe cha mình kể rằng ngôi miếu cổ ấy, nghe đâu thờ nữ thần, nàng công chúa Ngọc Hoa là con gái của Hùng Vương, lại nghê đâu, thờ công chúa Tiên Dung. Chẳng rõ thật hư, chỉ biết bao đời nay, ngôi miếu cổ rất linh thiêng, nên người trong vùng giữ lễ thờ cúng. Trời bỗng nổi cơn giông, mây đen kịt cả vùng. Hai đứa, rồi chạy về quán Trịnh cách đó không xa để trú mưa. Gần đến nơi thì mưa ập xuống sầm sập. Vào được quán thì cả hai ướt như chuột lột. Cái Nhuần có vẻ lạnh, phần vì ướt phần vì sợ. Trác thấy vậy, rất muốn kéo nó đứng sát cạnh mình, như che chở, nhưng cái Nhuần có ý giữ khoảng cách nam nữ.  Hai đứa đứng nhìn ra trời mưa, chẳng ai nói gì. Trác ngó ngoáy, chốc lốc đưa mắt nhìn ngang. Quần áo cái Nhuần ướt đẫm, bết vào thân thể, rõ hình cặp nhũ hoa non như chũm cau nhu nhú, và cặp mông đang độ lớn... Tự nhiên, Trác lén nhìn xuống đũng quần mình, ngường ngượng, lại nghĩ, nhà mình với nhà cái Nhuần có họ hàng, dây mơ rễ má với nhau, chẳng biết sau này lớn lên, nếu hai đứa yêu nhau thì có được lấy nhau không nhỉ? Nghĩ thế, bởi Trác biết là ở làng Thạch mình, có những cặp trai gái thích nhau, muốn lấy làm vợ chồng thì bị đôi bên cha mẹ ngăn cản, bảo là họ hàng, không được kết hôn...

Hình như cái Nhuần cũng cảm nhận được cái nhìn dò xét của Trác nên nó né nhìn về hướng khác vờ không biết song đầy cảnh giác. Những câu nói vu vơ về trường lớp, bạn học này nọ, không đầu không cuối. Trời sấm chớp ùng oàng, mỗi khi có ánh chớp lóe lên, cái Nhuần lại nhắm nghiền mắt, so người, hai tay bịt chặt hai bên tai. Trác cũng thấy sợ nhưng phải cố làm ra vẻ đàn ông cứng cỏi. Bởi Trác biết, những lúc trời có sấm sét thế này, những nơi có cây to hay quán xá nơi đồng rộng trống vắng hay bị sét đánh. Thế nên, mỗi lần chớp lóe, Trác lại lầm rầm cầu khấn bà công chúa gì đó được thờ ở miếu cổ gò Vinh phù hộ độ trì cho hai đứa. Chẳng rõ bà chúa có phù hộ hay không, nhưng may mắn bình yên vô sự. Rồi mưa cũng dần ngớt. Hai đứa ra về. Cái Nhuần ý tứ để Trác đi trước, nó đi sau, cách Trác một chút, như thế, vừa tránh được cái nhìn của Trác, mà có gặp ai trên đường là việc thưởng tình. Trác đi trước, muốn ngảnh lại đằng sau lắm nhưng ngại, đi như thằng tù bị cái Nhuần áp giải vậy.

Lũ vãn, Trác về lại nhà mình. Kết thúc năm học ấy, năm học sau, Trác vào cấp 3, cái Nhuần vẫn đang học cấp 2 cũ. Thi thoảng hai đứa chạm mặt nhau đâu đó trên đường, chỉ vài câu chào hỏi thông thường. Kế đó, gia đình nhà Trác rời làng Thạch, chuyển lên thị xã ở bờ bên kía sông Thao sinh sống. Đò giang cách trở, năm đôi ba lần về quê dịp giỗ tết. Trác có bạn bè và những mối quan hệ mới. Chút tình cảm manh nha học trò phai xa dần. Rồi nữa, đất nước bước vào thời kỳ chiến tranh phân miền Bắc Nam. Lứa thanh niên độ tuổi Trác lác đác tòng quân. Tuổi thanh xuân của Trác đang bị hút về phía trước, hấp dẫn đấy song không thể đoán trước điều gì. Mỗi lần về làng Thạch, vô tình hay hưu ý, Trác loàng thoáng biết Nhuần học hành đâu đó,...

Chẳng một lời ngỏ, cũng đâu hứa hẹn thề bồi gì... Vậy mà giờ đây, tóc bạc da mồi, mắt mờ, chân chậm, ông Trác vẫn nhớ. Thậm chí, chuyện xưa cũ lại hiển hiện, rõ nét hơn ngày thơ dại ấy. Nó ngấm vào lòng, rồi bật ra thành thơ lúc nào không hay... “Đâu triền hoa cỏ, nghêu ngao/ tình xuân mắt biếc đâu nào, ngày xưa/ khúc tiêu dao ướt trận mưa/ và em, vạt nắng xế trưa, lội đồng.../ Một ngày cạn giấc sầu đông/ Anh đăng lình xem lấy chồng ngoài đê...”. Ông Trác thập thững đường làng, bến sông, mà cứ thấy thấp thoáng đâu đó màu cỏ hoa, cảm nhận hương đồng nội ngai ngái, đẫm nước cơn mưa, chập chờn ánh đền dầu hỏa và thân thể mây mẩy con gái mới lớn của cô bé Nhuần... Những câu thơ chớp lóe trong ý nghĩ khiến ông choáng như say rượu... Ngó ra, sông Thao vẫn mải miết chày, chỉ có đôi bờ là cảnh vật đổi khác. Bờ bên kia, vài ống khói cao vút lúc tỏ lúc mờ trong mây trời sũng nước

Đi loanh quanh một hồi, già nửa thế kỷ vút qua nhanh chóng, mà giờ đây, vẫn thế thôi ư? Vậy thì sắc sắc không không của cuộc đời mỗi con người ta là thế chẳng?!...

Chẳng lẽ, cô bé Nhuần và những người đàn bà khác thuở xa xưa ấy chỉ còn là nỗi nhớ suông, nhớ khan thế thôi, khó nuốt trôi, cứ mắc mớ trong dòng ký ức hỗn độn của ông?

Hẹn gì đâu, Nửa câu thề. Chỉ là công quản. Ngày về, bỗng dưng... Lội đồng, ngày ấy, rưng rưng. Đâu rồi, quán Trịnh, mình từng bên nhau? Thế rồi... Giờ đã mai sau...

Vừa mới đó mà đã già nửa thế kỷ qua, thì ngày hôm nay đây xem như là mai sau rồi. Quên cả cậu con trai và những người bạn, ông Trác như mê đi trong miền ký ức. Ông hiểu, những hình bóng ấy còn nhũng nhằng theo ông đến bến đò cuối... ./.

 

 

 

Chuyện tình của người đánh gộc tre.

 

       

Tôi xin kể lại một chuyện tình.

          Ấy là câu chuyện tình của người đánh gộc tre, mà tôi nghe được.

          Ngày ấy, tôi mới ngoài hai mươi tuổi. Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ đã kết thúc được dăm năm. Cũng vì vậy, tôi không phải nhập ngũ mà được đi học đại học.

          Tôi tốt nghiệp đại học. Nhận giấy phân công công tác vào một tỉnh biên giới mãi tận cùng phía Nam. Đất nước mới giải phóng, mình lại vừa tốt nghiệp đại học, háo hức đi xa, nhất là được cống hiến xây dựng phát triển vùng đất mới mà trước đó còn bị chia cắt. Thế nhưng, tôi không yên lòng, bởi ở nhà, còn mỗi mình mẹ tôi, khi đó đã bắt đầu bước vào tuổi già. Thêm nữa, ngôi nhà gianh vách đất năm gian đã cũ nát, bắt đầu bị mọt, cần phải sửa chữa. Mẹ con tôi bàn nhau, trước khi tôi nhận công tác vào Nam, ở nhà tranh thủ làm mấy việc lớn. Nhờ bà con hàng xóm hạ ít xoan to trong vườn, chặt hết mấy bụi tre, đem ngâm nhờ ao làng, chờ vài năm nữa có tre gỗ sửa nhà. Xong việc, còn đám gốc tre phải được đào đánh bỏ đi hết để gây bụi mới. Phiền nỗi, cả làng, chẳng có ai theo nghề đánh gộc tre cả. Tôi dò hỏi mãi thì có người mách bảo là xã bên có lão Khoái là người chuyên nghề đánh gộc tre, nhưng lâu rồi không thấy lão ấy lang vãng nên chẳng biết có còn theo nghề hay đã bỏ, hoặc giả ốm đau bệnh tật gì chăng. Thây kệ, tôi lóc cóc đạp xe sang xã bên hỏi tìm đến tận nhà. Tiếp tôi, là anh Khoan, con trai lão Khoái. Chén nước, câu chuyện, tôi mới biết lão Khoái đã không còn trên cõi trần nữa. Anh Khoan bảo:

          - Tôi không định theo nghề của ông cụ nhà tôi. Tuy cũng có biết chút nghề này. Nó lao lực, cơ cực lắm, chẳng ai muốn làm. Nhưng mà tôi  nghĩ, thì cũng phải có ai làm chứ, với lại, tôi mới xuất ngũ, chưa có nghề gì làm thêm, tuy bị thương nhẹ, không mấy ảnh hưởng đến sực khỏe. Sức dài vai rộng, chẳng nhẽ ăn không ngồi dồi. Sẵn còn đồ nghề của ông cụ nên hàng xóm láng giềng ai biết nhờ thì làm giúp thôi.

          - Vâng, mong anh cứ coi tôi như hàng xóm láng giềng mà giúp cho. Nhà tôi xin chú toàn, công xá đầy đủ ạ.

          Anh Khoan có chút lưỡng lự nhưng thấy tôi khẩn khoản thì đồng ý. Hôm sau anh mang đồ nghề, đạp xe tìm đến nhà tôi, bắt đầu công việc. 

 

***

 

          Lũy tre to, khá lâu năm, nên một mình anh Khoái đánh gốc, cật lực cũng phải cả tuần. Theo đúng lệ, dù là khoán gọn trả công hay tính công nhật, thì gia chủ cũng phải lo bữa cơm trưa cho người làm công. Thêm nữa, hàng ngày nước nôi, ngô khoai gì tùy ý gia chủ, Anh Khoan được cái dễ tính, ủ tích trả, thêm nước uống cả ngày, không nghiện ngập gì. Tôi ngoài những lúc giúp mẹ việc vặt, còn đâu, ngồi hẫu xem anh Khoan làm việc. Mấy ngày đầu, anh Khoan còn giữ ý ít nói, vài hôm quen việc quen người thì hay chuyện hơn. Chuyện nọ dọ chuyện kia, rồi đến chuyện tiếu lâm cho vui mà quên nhọc. Tôi và anh thi nhau kể, lượm lặt chuyện hàng xóm, thiên hạ ra để kể, cái thật cái hư, miễn có cái mà cười vui...

          Đây là một câu chuyện anh Khoan kể cho tôi nghe...

Chuyện rằng, có một anh chàng chuyên nghề làm thuê nặng nhọc, từ việc thổ mộc đào ao, đào giếng, vật đất, đắp tường, đến đánh gốc tre... Anh ta đi các làng, cất tiếng rao, nhà nào có việc, gọi vào làm thì có việc. Một hôm, có người thuê anh ta đánh gốc tre. Chủ nhà là một người đàn bà nạ dòng, cỡ bốn chục tuổi. Công xá khoán gọn, trả bằng thóc. Đánh hết đám gốc tre, anh ta được nhận tiền công là ba thúng thóc. Đôi bên thỏa thuận vậy, nên cứ thế mà làm...

Dĩ nhiên, ngày ngày, bà chủ nhà phải lo nước uống, và phục vụ bữa trưa, bày mâm bát thức ăn, bê ra vườn, trải chiếu manh dưới gốc cây sấu to bóng dâm mát, mời người làm công ăn. Để người làm công lao động hiệu quả hơn, biết anh chàng này nghiện thuốc lào, bà chủ kỳ công moi móc góc buồng chân tử gì đó tìm được chiếc điếu bát cũ của chồng, mang ra lau chùi sạch sẽ, để cho anh chàng hút thuốc lao vặt. Chiều đến thế là cùng. Những lúc rảnh rỗi, bà chủ cũng ra hóng chuyện, chỉ chỏ giao việc này nọ, hỏi thăm thân phận, gia cảnh ra vẻ thân tình... Vài ba ngày trôi qua, đôi bên cũng biết gia cảnh của nhau...

Anh chàng làm công, tuổi hơn ba chục, con nhà nghèo và mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải sống với người chú ruột, bị đối đãi chẳng ra gì. Lên lên, tự lấy sức ra lao lực kiếm ăn bằng nghề làm thuê và vẫn độc thân. Anh chàng mặt mũi bình thường, nhưng thân thể khỏe mạnh, có bắp rắn chắc, có thể kham nổi những công việc chân tay nặng nhọc.

Bà chủ, tuổi bốn chục, góa chồng, có một cô con gái, nhưng sớm lấy chồng, nên bà ở một mình trong ngôi nhà vườn khá rộng này. Bà chủ là người hoạt bát, không đẹp nhưng kiểu người có duyên. Tuổi bốn mươi, thân thể đậm đà, ngực lưng hông đâu ra đấy, mặn mà. Đôi mắt hơi sâu, đen láy, nhìn lâu dễ chết chìm...

Bà chủ nạ dòng và chàng người làm cường tráng, chuyện lâu thành cởi mở. Để đỡ vướng vứu, mồ hôi mồ kê, anh cháng cời trần, còn mỗi cái quân cộc, khoe cơ bắp. Những lúc nghỉ tay, bà chủ nhà rót nước đưa tận tay cho uống, tiện thể chiếc quạt nan trên tay, phảy mát cho anh chàng đôi chút. Lâu lâu, đôi cặp mắt bắt gặp nhau...dừng lại và lảng tránh... Những câu nói vui vơ không đầu không cuối, chẳng ra đâu vào đâu cả... Hết ngày, anh chàng múc nước giếng rửa qua loa rồi đi, sáng hôm sau đến sớm, bắt tay vào việc. Bữa cơm trưa đều đều, nhưng theo ngày thức ăn như nhiều hơn...

Cứ vậy, dãy gộc tre bị anh chàng phăng teo hết. Đống gộc tre chất phơi trong vườn đây thêm. Dăm bảy ngày trôi qua, công việc xong xuôi. Ngày cuối cùng, theo thông lệ, gia chủ mời cơm người làm công bằng bữa ăn tươm tất, gọi là để cảm ơn người làm và thanh toán công xá với nhau. Bữa cơm chiều ngày cuối ấy, ngoài mấy món thông thường, bà chủ mua một đĩa lòng lợn to, kèm thêm chai ba rượu. Chủ mời cơm nên ăn cùng. Chàng làm công cũng tắm rửa sạch sẽ tình tươm khác hẳn mọi ngày. Rượu rót ra chén, mời chào xã giao và nhấp môi. Đôi ba chén, chủ khách mềm môi, nói năng bạo dạn hơn. Xưng hô cũng tôi tôi mình mình. Trời lên đèn thì bữa ăn cũng xong. Đến lúc đôi bên trả công xá cho nhau. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng đến. Mâm bát còn để ngổn ngang cả đấy thì anh ả, chẳng rõ rượu ngấm đến đâu, mà cứ díu vào nhau. Cũng dằng co đẩy ra kéo vào, hấm hứ, ầm ừ, kéo nhau vào buồng trong,...

Chàng làm công trai tráng khỏe mạnh, khao khát da thịt đàn bà, cứ hùng hục kiểu thổ mộc hay đánh gộc tre... Còn bà chủ nạ dòng đang tầm hồi xuân, góa chồng mấy năm ngỡ quên mùi đàn ông, gặp gỡ đây như bắt được của. Cặp đôi xoắn xít vào nhau, hừng hực khí thế. Chợt bà bà chủ nhà gắng sức đẩy anh chàng ra khỏi mình. Chàng ta đang hăng bỗng châng hẩng. Bà chủ bảo anh chàng là không được, chẳng lẽ mất không giữ trinh tiết với chồng mấy năm nay. Là tự nhiên bà nghĩ đến ba thúng thóc tiền công, lại đem cái trinh tiết cho không thằng cha căng chú kiết này à? Anh chàng đang hăng máu vịt, không thể buông miếng mồi ngon thế này đến miệng. Dằng co, chân tay lẫn mồm miệng, cuối cùng đôi bên ngã giá, chàng ta bớt cho bà chủ một thúng thóc, chỉ lấy công hai thùng thôi, nếu bà cho đồng ý cho anh chàng tiếp tục... Lại ôm ấp lăn lóc một hồi thì bà chủ nằng nặc đẩy anh chàng ra khỏi mình... Lúc này thì anh chàng máu quá rồi và hiểu ngay bà chủ nhà muốn gì ở mình, không ngần ngại bớt thêm thúng nữa, hứa chỉ lấy tiền công đúng một thúng thóc thôi... Và thế là cặp đôi quắp chặt lấy nhau như chẳng thể tách rời...

Những tưởng sẽ một trận mây mưa gió dập hoa vùi, thì anh chàng làm công chợt nhận ra, chẳng lẽ mình ham vui chút mà gần mất trắng công sức lao lực cả tuần nay. Mà cũng có phải thiếu nữ trinh tiết mỹ miều gì cho cam, chẳng qua một mụ đàn bà nạ dòng... Nghĩ thế, anh chàng đần ra như khúc gỗ, định bỏ cuộc. Lúc này, bà chủ nhà mới để ý đến cái của nợ của anh chàng, thấy kích cỡ to khác thường và hơi dị dạng. hao hao hình thù cái gộc tre xù xì rễ, càng dậy hứng. nên khi anh chàng đờ người ra vậy, vội vàng níu kéo, hứa trả lại một thúng, tiền công còn hai thúng. Còn anh chàng thì vỡ vạc, bắt đầu hiểu ra sự tình, bỗng đầu óc sáng lên, tỏ ra tinh ranh. Thế nào cũng phải lấy đủ ba thúng thóc tiền công lao lực bấy ngày mà vẫn kiếm chác được cuộc tình. Ngộ được vậy, anh chàng liền vờ thôi không lâm trận nữa. Đến nước này, bà chủ nhà nạ dòng không chịu nổi nữa, nhục cảm bùng lên như triều dâng, diết chặt vòng tay ôm ghì lấy anh chàng, miệng rên lên hứa sẽ trả đủ công ba thúng thóc cho anh chàng. Được lời như cởi tấm lòng, anh chàng đổ ập xuống người bà chủ nhà. Một trận cuồng phong nhục dục cuốn phăng mọi tính toán thiệt hơn, trời đất bỗng trở về trạng thái nguyên sơ...

Và đêm đó, anh chàng làm thuê chẳng phải khăn gói ra về. Anh chàng ngủ lại đấy qua đêm đến bảnh mắt hôm sau. Trở dậy, thay vì phải đánh gộc tre, thì anh chàng được bà chủ nhà bưng thau đồng nước giếng mát đến tận bên giường để rủa mặt. Bữa sáng, chàng có mấy quả trứng vịt lộn nhắm rượu, rồi húp thêm tô cháo nóng to tướng. Chàng ta ra về với đầy đủ ba thúng thóc tiền công đánh gộc tre...

Câu chuyện chưa dừng lại ở đấy. Một thời gian sau, họ nên vợ chồng. Anh chàng đến ở hẳn nhà vợ. Tuy vợ hơn chồng gần chục tuổi, nhưng cặp đôi sống với nhau ổn thỏa. Cô con gái riêng của vợ không đồng ý cuộc hôn nhân chênh lệch này, có ý chống đối một thời gian, nhưng đến khi thấy mẹ mình mang thai rồi sinh ra cậu con trai khỏe mạnh với người chồng mới thì cũng thôi phản đối, đành chấp nhận...

 

***

Nghe chuyện Khoan kể, tôi cười, bảo anh ta:

- Ông anh kiếm đâu ra của độc thế. Câu chuyện thú vị đấy.

- Chắc là anh không tin? – Khoan tủm tỉm bảo – Thì nhiều người cũng không tin mà... Nhưng tôi không bịa hay kiếm chuyện kể ra đâu... Chuyện thật của cha mẹ tôi đấy...

Tôi chỉ còn biết tròn mắt, miệng ô a vì ngạc nhiên. Anh Khoan thủng thẳng:

- Thật khó tin... nhưng lại là thật anh ạ ... Thầy u tôi ăn ở với nhau được gần hai chục năm, cùng không đến nỗi nào – Anh nhìn tôi như vẻ muốn tìm một sự xác nhận – Chỉ tiếc là thầy tôi lại đoản mệnh... Khi tôi nhập ngũ được ít lâu thì thầy tôi mất sau một cơn bạo bệnh... Cũng là bởi ông ham công tiếc việc, lại toàn việc nặng nhọc ... Có lẽ còn do... u tôi... cũng làm ông hao tổn sức lực ...

Nghe có chút bùi ngùi trong giọng điệu của Khoan. Tôi chút nữa nhỡ miệng khi định buông một câu châm ngôn, thì kịp dừng, nhưng Khoan đón lấy, nói toạc ra...

- Người đời vẫn bảo, trai tơ vớ phải nạ dòng, như nước mắm... chẳng hiểu người ta nói vậy nhằm ý gì? Chắc có ý chê bai... nhưng với thầy u tôi cũng đâu đến nỗi nào... Tôi đây... là kết quả của cuộc tình... nước mắm thối chấm lòng lợn thiu... cũng có sao đâu!...

Khoan cười sảng khoái. Tôi chỉ còn biết nói lời động viên, dù hiểu  như vậy là thừa. Khoan bảo:

- Ngẫm lại, thấy u tôi là người thật cao số... mình bà đưa tiễn cả hai ông chồng xuống suối vàng trước... rồi sống thọ ngoài bảy chục tuổi mới chịu xuống theo... Chẳng hiểu ở dưới cõi âm ấy, bà ở với ông nào... hay chung với cả hai ông cũng nên ...

Khoan lại cười. Chợt như nghẹn lại.

- Tôi lo rằng... Tôi sẽ tìm một nghề gì khác để làm, chứ không làm nghề này nữa,... cực nhọc lắm... Nhớ trước đây, khi tôi ở tuối mới lớn, thầy tôi thỉnh thoảng cho tôi đi theo xem ông làm việc... Ông có ý chỉ bảo cho tôi biết này nọ, đặng sau này ngộ nhỡ không có nghề gì khác thì chí ra còn có nghề này mà theo, đặng kiếm được miếng ăn cho vào miệng... Giờ đây tôi làm việc này, chủ yếu là do nhở vả, nể nang... Tỷ như anh nhờ tôi đây... Chứ thực ra không phải tôi không có việc để làm,...

Muốn phá tan tâm trạng nặng nề của Khoan, tôi lảng:

          - Nhưng làm sao anh biết chuyện này của cha mẹ anh?... Chuyện như anh kể ấy?   

- Thì ngày nhỏ, tôi lẵng nhẵng bám chấn thầy tôi đây đó... Cũng chỉ đôi ba lần nghe ông nói này nọ, đại khái vậy,... nhưng mình bé quá nên không mấy hiểu... Mãi sau này, tôi biết nhiều hơn, nhất là sau khi thầy tôi mất... Tôi thành người lớn, nên hiểu chuyện người lớn thôi ... Với lại, do u tôi kể,... ngày một ngày hai, những lần giỗ thầy tôi... Tôi xâu chuỗi lại... thành câu chuyện như vậy...

Khoan lại cười. Tôi cười theo. Khoan bảo:

- Thế gọi là chuyện tình của người đánh gộc tre, được không anh nhỉ ?... Tôi bằng này tuổi đầu,... cỡ như thời thầy u tôi gặp nhau, nên duyên ấy, vậy mà tôi đã có mảnh tình vắt vai nào đâu... Nói vậy, tôi chẳng còn là trai tân, cũng đã đôi ba lần biết mùi đàn bà, nhưng đều là tạm bợ... Anh xem làng xóm quanh đây có đám nào tươm tươm giới thiệu cho tôi thì tốt quá...

- Ngẫm ra, thấy,...- Tôi ngần ngại - Câu chuyện thật thú vị... cái chuyện tâm lý giới tính đàn ông, đàn bà ấy... Tạo hóa làm nên vậy...

- Thôi, cứ cho là chuyện tiếu lâm, đi anh, - Khoan bảo – hể ra cho nó vui,... anh nhỉ!?

Cả hai người cùng cười vang...

Chuyện ngày ấy là thế. Đã mấy chục năm trôi qua rồi. Thàng nhớ lại câu chuyện của anh chàng đánh gộc tre, như chuyện tiếu lâm, buồn cười đấy, nhưng cười ra nước mắt. Khu vườn ở quê bỏ hoang nhiều năm. Tôi đi Nam biền biệt gần chục năm rồi ra Bắc làm việc và định cư ở thành phố. Mẹ tôi già yếu, ra thành phố sống cùng một người chị gái của tôi được dăm năm thì mất. Mảnh vườn quê, tôi giao cho một người chị trông nom giúp. Cái bụi tre ngày đó nhở cậy anh Khoan đánh giúp cũng đã vài lần chặt hết thay bụi mới. Gần đây, mấy anh chị em chúng tôi hùn nhau xây một ngôi thờ tự để lấy chỗ đi về quê hương khói giỗ chạp. Bụi tre ấy được chặt tỉa thu gọn lại, chủ yếu làm cảnh...

Vậy mà tôi quên, không hỏi thăm anh Khoan giờ gia cảnh vợ con thế nào? Lâu lắm rồi, bây giờ về quê mà co chạm mặt anh ta thì rôi cũng không nhớ để nhận ra. Thế nhưng, câu chuyện tình duyên dở cười dở khóc của người đánh gộc tre như chuyện tiếu lâm, mà anh ta bảo là chuyện của cha mẹ mình, thì tôi nhớ !... ./.

 

 

 

Ngũ cung

 

 

1.

         Năm ấy, 

         Như lời hẹn trước trong bức thư gửi nàng theo địa chỉ gia đình, đúng chiều mồng 5 Tết, y cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ lọc cọc đến nhà nàng. Đạp xe dọc theo bờ sông nặng mùi nước bẩn, đầu óc tôi ong ong với những câu hỏi, câu trả lời, những tình huống tự vẽ đặt ra cho kịch bản tìm gặp lại nàng...

         Y vốn nhút nhát, thường nhường nhịn, hay thụt lùi khi phải quyết định những việc hệ trọng, song lần này thì y không lưỡng lự. Y quyết định chấp nhận sự thành bại trong việc cứu vãn mối tình kéo dài gần bảy năm với nàng, nên đã gửi chiến thư cho nàng và ra cái hẹn gặp nàng tại nhà nàng, trước sự chứng kiến của cha mẹ nàng. Vậy có ghê gớm không chứ? Thư gửi đi trước cả tháng nhưng không có hồi đáp. Nàng có nhận được thư hay không, hoặc giả nhận được mà không trả lời, thì cũng thây kệ. Y xem cách này là con bài, là nước cờ cuối cùng cho cuộc tình...


        Đây rồi, khu tập thể nhà nàng. Mấy năm rồi, y không đến đây, bởi y ngại gặp mặt cha mẹ nàng. Y coi việc yêu nàng như hành vi đánh cắp cô con gái rượu của gia đình họ. Nhiều năm trước, khi còn chưa yêu nàng, với tư cách là người quen cũ của cả nhà, là người bạn của mấy anh em nàng, y hay qua lại đây, vui vẻ, tự nhiên như một thành viên trong gia đình, nên biết, bố nàng, anh trai và em trai của nàng đều chiều chuộng, yêu quý và xem nàng như báu vật của họ. Thế mới thành chuyện, khi một thằng chân đất ất ơ như y, ngoài cái bằng đại học, thì sự nghiệp chưa hình hài gì, lại làm việc ở mãi xứ mù, cách thủ đô cả ngàn cây số, dám chiếm đoạt tình cảm, con tim nàng làm của riêng. Điều ấy, khác gì hành vi của một tên trộm gian giảo, hay một tên cướp liều lĩnh, cơ chứ?
       Ngơ ngác chút vì cảnh quan thay đổi, nhưng y vẫn nhận ra dãy nhà có căn hộ của gia đình nàng. Nó nằm sâu nhất trong cả khu chung cư này, giáp với hàng rào ngoài cùng, liền kề đó là đất ruộng làng. Y đã từng mở cửa sổ phòng khách căn hộ tầng ba nhà nàng nhìn ra đồng ruộng xem người ta làm công việc nhà nông nên nhớ lắm. Cẩn thận dựng chiếc xa đạp nép chân cầu thang, khóa lại, kiểm tra kỹ càng, y chậm rãi leo tầng bậc thang. Có chút hồi hộp, phập phồng con tim, song y quyết trông trờ lui. Đúng rồi, căn hộ 306, tuy màu sơn cửa được sơn lại sẫm hơn nhưng y vẫn nhận ra sự quen thuộc của cái lỗ quan sát trên cánh cửa. Y ghé sát mắt lỗ quan sát nhìn vào chẳng mấy rõ gì, nhưng tai lại nghe được loáng thoáng tiếng người nói chuyện. Y căng ngực hít một hơi thật sâu rồi nín thở, gõ vào cánh cửa ba cái... Không thấy động tĩnh gì. Y lại ghé mắt nhìn qua lỗ nhỏ, chỉ thấy tiếng nói chuyện bặt đi. Y lại cạch cạch gõ thêm lần nữa và ghé mắt nhìn... Có tiếng chân người bước lại gần cửa rồi một con mắt ghé sát nhìn ra. Hai con mắt đối nhìn nhau qua lỗ tròn. Y nhận ra mắt nàng bởi cảm nhận được con mắt nhìn ra ấy màu nâu. Ngày còn yêu nhau thắm thiết, y say đắm đôi mắt màu nâu ấy của nàng. Ngày đó, nàng lấy làm tự hào về đôi mắt to nâu và mái tóc mây có gì đó Tây Tây của mình. Một loáng nhìn nhau, rồi lỗ nhìn trên cửa ấy bị đóng sập lại, và y còn kịp nghe được giọng nàng nới vào trong bảo có người nhưng nhầm nhà....
       Y đứng chết trân. Người tê tái. Lặng đi một lát, y chậm chạm từng bước một xuống cầu thang, bởi chân nặng như đeo chì. Y kẽo kẹt đạp xe ra về, như người mất phương hướng, lòng tê dại với một ý nghĩ choáng ngợp đầu óc, rằng mối tình kéo dài bảy năm trời đằng đẵng với nàng chấm hết từ đây...

2.
          Năm ấy,

Y đi phép từ nơi y đang làm việc mãi biên giới Tây Nam, một vùng đất khỉ ho cò gáy, lại vừa đi qua chiến tranh. Thực lòng, y không muốn đi phép ra Bắc chút nào, bởi tàu xe khó khăn, tốn kém, nhưng linh cảm về cuộc tình đổ vỡ nên y quyết đi với hy vọng cứu vãn. Khi ấy, nàng về trường cũ học chương trình cao học, và rất có thể sai đó sẽ ở lại Hà Nội, không trở lại nơi làm việc cũ nữa. Đến nhà nàng thi y ngại, thư từ thì lâu rồi nàng không hồi âm, nên y chẳng biết tìm gặp nàng ở đâu. Suy nghĩ, y thử tìm nàng cầu may theo suy luận của mình. Y chọn ngày đầu tuần, đi đón lõng nàng ở cổng trường đại học nơi nàng đang theo học cao học. Lưng buổi sáng, y đạp xe đến cổng trường đợi. Trời đổ mưa, y bèn tìm một quán trà chén bên đường đối diện với cổng trường, gọi chén trà và thanh kẹo lạc nhấm nháp đợi. Mưa mãi không tạnh, y đợi sốt ruột, bà chủ quán vắng khách nên cũng không nỡ đuổi ý. Tiết cuối năm, mưa dai càng thêm lạnh. Y gọi thêm trà uống đến xót ruột. Y giết thời gian và sự nóng ruột bằng cách nghĩ ngợi một tứ thơ chợt nảy trong đầu "Anh tìm em trong thành phố mưa"... Giữa trưa, sinh viên tan trường. Y dán mắt vào cổng trường, do tìm và rồi, y nhìn thấy nàng đạp xe từ trong trường ra, song đôi với một bạn gái khác. Y hấp tấp phóng xe theo, bắt kịp nàng. Nang ngạc nhiên khi y gọi tên nàng. Người bạn gái đi cùng giữ ý, chào hai người rồi rẽ ngang. Chỉ còn nàng và y đạp xe bên nhau. Trời vẫn mưa nhỏ nhưng đều hạt. Hết phố nọ nối sang đường kia, đọc Đường Láng trong cơn mưa tầm tã. Mùi nước sông tù đọng hôi hám bị nước mưa quấy lên xông nồng nặc,. Nàng hỏi thăm y mấy câu rồi im lặng nghe y nói. Y nói nhiều lắm, như bù những ngày xa cách nhớ nhung. Song điều lo ngại về mối tình tan vỡ thì y sợ không dám nói đến. Xe đạp của nàng tuột xích. Y loay hoay mãi mới chữa được, để rồi hai người lại sóng đôi. Giờ thì y im lặng nghe nàng nói. Y loáng thoáng nghe nàng kể, rằng ông hiệu trưởng nơi nàng công tác lên Hà Nội, ghé thăm nhà nàng, có kể với bố mẹ nàng rằng y nhiều lần đến trường và ở qua đêm tại khu tập thể của trường. Rằng việc đó là vi phạm quy định và thiếu trong sáng về đạo đức. Rằng bố mẹ nàng rất bực tức về điều đó,.. Và họ bắt buộc nàng phải chấm dứt ngay mối quan hệ tình cảm ý... Y nghe mà tê tái lòng, nhưng ít nhiều còn vớt vát hy vọng đến một ngày nào đó, bố mẹ nàng sẽ nhìn nhận lại mối tình của hai người, cho nàng và y đến với nhau, nếu như nàng nhất quyết không rời bỏ y. Song đến khi, nàng bảo, bố mẹ nàng đã dùng những từ khá nặng lời khi nói về y, thì y thất vọng thực sự. hiểu là cuộc tình không thể cứu vãn...

         

3.

          Năm ấy,...

          Y đi phép. Số là, từ ngày nhận công tác, y bị điều chuyển đến một vùng biên giới mãi cuối trờ Nami, vùng đất hoang vu khỉ ho cò gáy, lại vừa qua cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, nên buồn chán lắm. Cả cơ quan là dân địa phương, duy mình y là người Bắc vào, nên được bố trí ở ngay tại cơ quan. Quanh năm suốt tháng, ngoài công việc chuyên môn, y chẳng biết làm gì ngoài nỗi thương mẹ già ở quê và nỗi nhớ nàng thường trực. Thảng ra, y sa vào cuộc nhậu, say túy lúy, cũng là để thoát ra khỏi hai nỗi thương nhớ ấy. Cả năm, y tích cóp được ít tiền bạc, là để đủ tiền mua vé tàu xe và chút quà cho chuyến nghỉ phép ra Bắc. Có một sự lựa chọn, đi phép vào dịp tết Nguyên đán, hay dịp nghỉ he? Dịp tết thì tàu xe đông đúc khó đi, còn dịp nghỉ hè thì nàng lại nghỉ hè, về nhà ở thành phố chứ không ở trường nơi nàng dạy học. Thế là y chọn dịp sau tết trước kỳ nghỉ hè hàng năm, nhất cử lưỡng tiện.

          Kỳ nghỉ đó, về nhà được vài ngày thì bà ngoại của y ốm nặng. Y chở mẹ y về quê ngoại, để mẹ ở lại chăm bà vài hôm. Vừa dịp cuối tuần, nàng từ trường về thành phố thăm nhà, tiện đường ghé vào nhà y. có riêng hai người với nhau, nên hai đứa thoải mái bên nhau, tha hồ cùng nấu ăn, cùng trò chuyện mà không phải giữ ý khi có mẹ y ở nhà. Chiều muộn hôm ấy, nàng định ra về thì y nhất quyết giữ nàng lại. Đầu y nung nấu một ý nghĩ, đây là cơ hội hiếm hoi hai người được bên nhau ngay tại nhà mình mà không cần phải ý tứ gì. Nàng khăng khăng ra về còn y thì quyết giữ, cuối cùng nàng nhượng bộ. Rồi y và nàng lại cùng nhau nấu bữa tối. Ngày ấy nghèo, thức ăn thiếu thốn. May có ít trứng gà, khoai tay và rau cỏ sẵn trong vườn, khéo nấu được bữa ngon. Nàng trổ tài bếp núc, còn y lăng lăng giúp việc. Hai đứa chí chóe trêu chọc lẫn nhau...

          Màn đêm buông xuống. Gặp buổi có trăng đẹp, nên y và nàng ngồi bên thềm nhà ngắm vườn, ngắm trăng, thì thầm chuyện đủ thứ. Y kể về vùng đất hoang sơ biên giới Tây Nam nơi y sống, về rừng tràm, về khói đốt đồng mùa khô, về mùa nước nổi rực màu bông súng và hoa điên điển, về “muỗi bay như sáo thổi, đải nổi như bánh canh”, về nỗi thương mẹ lụi cụi một mình và niềm yêu thương mong nhớ nàng đêm đêm...  Còn nàng thì kể về bạn đồng nghiệp cùng trường, về những học sinh của nàng học hành, nghịch ngợm ra sao...  Gió năm rười rượi và trăng lúc mở lúc tỏ, hai người tay trong tay nhau mà thương nhớ vẫn rưng rưng...

          Khuya. Ngủ sao đây? Y dọn chiếc giường ở buồng trong cho nàng ngủ, nơi vốn dành riêng cho chị gái của y ngủ, nhưng người chị đi làm ở thành phố, lâu lâu mới về nhà. Con y ngủ ở phòng ngoài. Cánh cửa buồng chỉ khép hờ. Đêm quê khuya thanh vắng, nghe rõ riếng sấu dế kêu vườn ngoài. Còn trong nhà, y nghe rõ chốc chốc nàng trở mình khó ngủ. Y cũng có ngủ được đâu. Nỗi khát khao cứ rực lên trong thân xác y. Ngòn đèn dầu hỏa hãm hạt đỗ để trên bàn hắt lên một vầng sáng huyễn hoặc, đê mê. Nén mình không nổi, y bật dậy như một chiếc lò xo bung phá, đảy cửa buồng ập vào. Nàng biết cả, và dường như chỉ chờ có vậy, vươn đôi tay vít người y xuống. Trong bóng đêm ảo diệu, y và nang bập vào nhau, lập cập, cuống quýt, va chạm, hổn hển và mê muội, dạt trôi trong miền hoan lạc...

          Cái đêm trăng quê yên tĩnh thanh bình ấy, hai người chẳng biết bao nhiêu lần tỉnh thức, tháng thốt, rồi lại chìm đắm trong nhau... Không biết náng nghĩ gì. Còn y, linh cảm mách bảo, đây sec là một đêm tuyệt vời nhất trong cuộc đời của y, cho dù mai sau có thế nào đi chăng nữa !?...

 

***

4.      

Năm ấy,

Y đi nhận công tác ở phương Nam đâu đó mới được một năm. Y khao khát chờ đợt chuyến đi phép đầu tiên trong cuộc đời viên chức của mình. Trước ngày lên đường vô Nam, lời yêu vừa ngỏ vội vàng, chưa một lần cầm tay, chưa một nụ hôn. Tiếng là yêu nhau hơn năm rồi nhưng toàn qua thư từ. Tình cảm gửi trên từng nét chữ, y đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Y dồn nén tình yêu, đợi ngày ra Bắc gặp nàng.

Về đến nhà, y dành ngày đâu để hàn huyên với mẹ. Ngày sau đó, y lao đến chỗ nàng. Đường xa nắng nôi mấy chục cây số mà y đạp xe băng băng, háo hức, không biết mệt mỏi. Hỏi đường đến dăm lần, chiều tà y cũng đến được ngôi trường nơi nàng dạy học. Chiều thứ bảy, học sinh vừa tan, sân trường vắng hoe. Y dừng xe giữa sân trường, nhìn quanh quất định hướng thì một cô gái đạp xe ra. Thấy y, cô chủ động hỏi, thì ra là cô giáo cùng tổ bộ môn với nàng. Cô ta cho biết, nàng bị đau mắt, xưng tấy phải đi bệnh viện huyện chữa trị. Nang nhờ cô ấy có ý chờ đón, nếu y xuống thì đưa y đến bệnh viện huyện giúp. Thế là y vội vàng theo cô giáo ấy. Hai người đạp xe song song, y tranh thủ hỏi chuyện để biết thêm về cuộc sống của nàng ở đây. Bệnh viện chỉ cách trường dăm cây số, chốc đã tới nơi. Cô gái dắt y đến phòng bệnh của nàng, đưa ăng-gô cháo, hỏi thăm nàng mấy câu, bàn giao y cho nàng rồi cáo lỗi về luôn kẻo tối. Y và nàng bên nhau, mừng mừng tủi tủi. May mà một mắt nàng bị viêm cấp, dùng thuốc kịp thời nên vẫn phải băng kín bên viêm nhưng sẽ không ảnh hưởng đến thị lực. Y mò ra phố, đi mấy hàng nước mua được vài cái bánh trưng con. Bữa tối, nàng ăn cháo, con y bánh chưng, vừa ăn vừa rúc rích chuyện. Cho thỏa nỗi nhớ mong. Rồi hai đứa ra ngồi hóng gió trời. Khu nội trú bệnh viện nhìn ngay đồng lúa, hương lúa và cỏ lên ngai ngái. Trăng thượng huyền mành cong như vành môi. Ánh điện vàng vọt kéo bầy phù du chao đến, bay rối lên khiến hai đứa không thể ngồi lâu. Phòng bệnh rộng gần chục giường nhưng chỉ có mấy bệnh nhân, nên thừa giường không. Y giăng màn cho nàng, rồi chọn chiếc giường bệnh trống sát cạnh giường của nàng để qua đêm. Phong bệnh tắt đền, chỉ chút ánh sáng từ ngọn đèn bảo vệ ngoài hiên qua ô của kính dọi vào mở ảo. Không gian tĩnh lặng chỉ còn tiếng côn trùng từ đồng lúa vào. Y khó ngủ, lạ nhà lạ cảnh ngộ. Giường bên, nàng cũng không ngủ thì phải, vì chốc chốc lại thấy giở mình. Hình như mắt nàng vẫn còn nhức, vả lại, hai đứa nằm gần nhau thế, mỗi người một giường nhưng chỉ cách nhau mấy chục tấc. Y rất muốn an ủi nàng, sao cho nàng tạm quên đi cái nhức. Mẹ y vẫn bảo là “thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng” là gì. Hơn nữa, y thèm sự động chạm. Lúc chập tối, hai người ra sân ngồi hóng gió, sát bên nhau, mùi cơ thể thanh nữ của nàng hấp dẫn ý, dẫn dắt bàn tay y tìm kiếm, nên giờ đây, cái cảm giác ấy cứ rực lên trong người ý. Y trở dậy, lén sang giường nàng, khi vừa vén màn chui vào thì nàng đã ý tứ dịch nhẹ người nhường đủ chỗ cho y nằm. Tim y đập thình thịch, đảo nhìn quanh khắp phòng bệnh nghe ngóng. Không thấy ai động tĩnh gì, chỉ có tiếng thở đều, tiếng ngáy khe khẽ của ai đó. Có lẽ, họ ngủ cả rồi, hoặc có ai đó biết thì cũng vờ ngủ, mặc kệ... Thân thế y áp dính vào nàng, và hai tay y lần mò trong bóng tối... Nàng đón nhận sự đụng chạm của y trong im lặng và rồi không nén được cảm xúc, tay nàng quờ ghì diết y vào nàng...

Sáng hôm sau, khi nghe tiếng chim bên ngoài líu lo, y tỉnh ngủ. Ý thức mình đang nằm ngủ trên giường của mình khiến y nhẹ người. Trời có vẻ còn sớm, nhưng nhìn sang giường nàng bên cạnh đã không thấy nàng ở đó. Quanh quất, các bệnh nhân cùng phòng cũng đã dậy hết. Y trở dậy có ý tìm nàng thì nàng trở vào với chậu nước sạch trên tay. Nàng khẽ cười giục y rửa mặt và còn cẩn thẩn bảo y chịu khó rửa bằng tay vì nàng đang đau mắt nên không dùng chung khăn mặt của nàng được vì sợ lây. Y ngoan ngoãn làm theo, có ý không chạm ánh mắt nàng vì nhớ lại chuyện giữa hai người đêm qua...

Sau khi khám bệnh dùng thuốc buổi sáng, nàng mừng vui thông báo được xuất viện. Nàng bảo, bệnh đã bớt nhiều, đáng lý hôm sau mới được về, nhưng nàng nói khó sao mà bác sĩ đồng ý cho nàng về, điều trị ngoại trú theo đơn thuốc. Y buộc đồ tư trang của nàng mang theo, đèo nàng về trường. Chiều ấy là chủ nhật. Sân trường vắng bóng người. Mấy thầy cô giáo ở cùng dãy nhà nội trú với nàng cũng về nhà hoặc đi chơi đâu đó chưa lên trường, nên cả không gian sân trường mênh mông dành cho hai người. Nàng và y tha thẩn sân trường, cũng bầy chim sẻ nâu, mấy đôi bồ câu và thảm lá cây rụng. Lúc này thì y mạnh bạo nắm tay nàng, dung dăng dung dẻ mà không sợ ai nhìn thấy...

Đêm buông. Sau bữa cơm tối, y rủ nàng ra sân hóng mát, nhưng nàng từ chối, bảo y đi một mình, nàng bận sửa soạn đồ dúng, giáo án gì đó. Y đi dạo loang quanh một hồi, Ngoài tiếng côn trùng, ếch nhái thì chẳng có gì hấp dẫn nên y trở về. Hé cửa, bước chân vào phòng, y ngỡ ngàng khi thấy nàng tần ngần như hóa đá, trên tay nàng là cuốn sổ nhật ký và chép thơ của y. Y ớn lạnh xống lưng, và tái mặt vì hiểu, sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra. Y tiến đến trước mặt nàng đứng chết trân. Nàng ngước nhin y bằng đôi mắt nhòe nước. Nàng không nói gì, nhưng linh cảm để y lướt nhìn cuốn sở nàng đang mở trên tay, hiểu rằng, nàng vừa đọc nhật ký của y. Đấy là những trang y ghi vào những ngày đầu bước chân vào Nam, sau khi đã ngỏ lời yêu với nàng và được nàng chấp nhận. Khi ấy, y đã rất thật thà, bảy tỏ cảm xúc, việc y và nàng đã nhận lời yêu nhau, nhưng nhiều lúc, y vẫn nhớ người yêu cũ. Chỉ có vậy thôi, lại thật lòng, nhưng với nàng lúc này thật là cú giáng mạnh vào tình cảm của nàng. Kìm không nổi, nàng òa khóc như mưa gió. Y tê tái, đỏ gục xuống chân nàng, úp mặt vào lòng nàng, lắp bắp xin lỗi. Hình như, cuống lên vì sợ mất tình yêu với nàng, y cón nói lời thế thốt gi đó nữa. Nàng vùng đứng dậy, hất đầu y ra, đến bên của sổ, nhìn đêm tối. Y càng cuống, chân tay như thừa, chợt y nhìn thấy chiếc kéo trên bàn, nơi nàng dở việc khâu vá gì đó. Một ý nghĩa lóe lên, y vớ ngay lấy chiếc kéo, đưa tận tay nàng bảo rằng nàng muốn làm gì y cho thỏa nỗi giận hờn nghi ngờ y. Rằng tình yêu của y đã dành cho nàng là chân thật... Và thế là, nàng vứt chiếc kéo xuống đất, vít đầu y ghì chặt vào ngục nàng, nức nỏ từng cơn. Nước mắt y cũng đầm đìa, người y mềm sụn. Y cảm nhận rõ y yêu nàng biết bao, say đắm, nhất là từ đêm trước ở bệnh viện huyện, hai người đã là của nhau. Y dìu nầng đến bên giường và hai người đỏ ập xuống, bão táp yêu đương, hờn giận chen lấn cuồn cuộn dâng lên trong ánh đèn dầu hỏa vàng quạch không đủ sáng hắt ra trời đêm...

 

5.

          Năm ấy,

          Y vừa tốt nghiệp đại. Y về quê sống với mẹ đợi giấy gọi công tác của nhà trường. Cả mấy tháng trời ở nhà, y làm việc vặt, dọn vườn và giúp mẹ đôi ba công việc nhà nông, mong ngóng chờ biết tương lai mình sẽ ra sao, thì nàng đột ngột xuất hiện...

          Chuyện là, mười năm trước, khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc đang ác liệt, thì nhiều trường đại học ở thủ đô phải sơ tán về những địa phương lân cận để tránh máy bay đánh phá. Nàng khi ấy mới là cô bé con chừng mươi tuổi, theo bố mẹ vốn là cán bộ của một trường đại học sơ tán về làng quê của y. Nàng và người anh ruột học chung một lớp với y. Biết gia đình y cũng từ thủ đô chuyển về quê nên hai anh em nàng nhanh chóng làm thân với y. Hơn thế nữa, lúc ấy, y học giỏi nhất lớp, nên nhiều đứa cầu thân. Khác với người anh trai vốn tính khép nép, nàng là cô bé mạnh bạo, chơi chan hòa với mọi người. Ngáy ấy, nàng là một cô bé phổng phao, mạnh khỏe, hiếu động, trái ngược hẳn với bộ dạng y mảnh khảnh thư sinh, yếu ớt. Nàng và ngưới anh hay nhờ bố mẹ mình mượn sách của thư viện trường đại học mang cho y mượn đọc, khi biết y ham đọc sách. Được chừng gần hai năm học, khi bắt đầu vào cấp học cấp hai, thì trường đại học ấy rút đi, và hai anh em nhà nàng trở về thành phố học. Kể từ đấy, chục năm trôi quan, nàng không một lần trở lại nơi mình đã học những năm sơ tán chiến tranh. Nghe đâu, bố mẹ nàng thi thoảng có trở về làng thăm lại gia đình người chủ mà gia đình nàng đã từng ăn nhờ ở đậu ngót hai năm trời.

          Y ngạc nhiên khi nàng và người anh trai của mình xuất hiện trước cổng nhà y. Có chút ngờ ngợ, y nhận ra ngay. Đôi bên vui mừng khôn tả. Những câu hỏi thăm, chuyện lộn xộn, khi thì tranh nhau, lúc lại nhường nhau nói. Ký ức tuổi thơ đi học cùng nhau cứ ùa về. Nàng theo học đại học sư phạm, tốt nghiệp được phân công về dạy ở một trường cấp ba thuộc tỉnh của y, nhưng ở huyện xa cách nhà y vài chục cây số. Hôm ấy, nàng đi nhiệm sở, lạ nước lạ cái nên anh trai nàng đưa nàng đi. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào, dọc đường, hai anh em rủ nhau tạt vào nơi sơ tán cũ, vào thăm nhà y. Y và mẹ rất vui, tất bật dốc hết nhiệt tình và đò ăn thức uống trong nhà để làm cơm mừng hai anh em nàng. Nàng không xinh, nhưng tươi tắn, có duyên, bởi sự tự tin khỏe mạnh. Mái tóc cắt ngắn uốn cong ốp vào đầu, cùng nét tươi duyên mỗi khi nàng cười, ít nhiều hấp dẫn, tạo sự thiện cảm trong y...

           Thế rồi, chừng vài ba tuần, nàng lại về thăm nhà và khi trở lại trường, thường nàng ghé vào nhà thăm mẹ con y. Từ nhà nàng ở thành phố, đến nơi dạy độ chừng hơn năm chục cây cố, mà nhà y thì ở giữa chặng đường dài ấy, lại cách trục quốc lộ không xa, rất tiện cho nàng ghé. Y bảo nàng, nên ghé nhà y. coi như trạm nghỉ chân cho đỡ mệt. Nàng cười nhận lời. Và đôi ba lần ghé vậy, y và nàng thêm hiểu nhau hơn. Một điều quan trọng, cả hai đều ngầm cho nhau biết, khi ấy, chưa ai là hoa đã có chủ. Thực ra, y đã qua vài mối tình thoáng qua tuổi sinh viên, nhưng chẳng ra đâu vào đâu. Còn nàng, chỉ thấy nhắc đến đôi ba bạn gái thân thởi học phổ thông và đại học, chứ không thấy bóng dáng một chàng trai nào. Những lúc trò chuyện bên nhau như vậy, y đã mạnh dạn, đọc nàng nghe mấy bài thơ, hoặc đưa nàng đọc bản thảo viết tay vài ba truyện ngắn. Y cũng bày tỏ nỗi khát khao muốn theo nghiệp viết lách, văn chương. Nàng nghe, tỏ vẻ thích thú lắm. lại còn nói lời động viên y. Nàng bảo, hiện tại nàng chưa yêu, nhưng trong ý nghĩ của mình, lâu nay, luôn chớp chới bóng dáng của chàng trai hải quân trong trang phục áo sọc ngang xanh, đội mũa hải quân có hai dải băng xanh vườn bay sau lưng giữa đại dương trời nước xanh lồng lộc. Nàng nhìn y, cười tươi, khẽ nheo đôi mắt nâu tuyền khi bày tỏ ước mơ ấy. Y nhìn nàng như dò hỏi. Điều lắng lại trong y không phải là câu nói, ấy là đôi mắt nâu của nàng. Y tự nhủ, không hiểu nàng lấy đâu từ tạo hóa màu mắt nâu ấy, màu mắt thường thấy ở người phương Tây, rồi y lại nhớ đến giai điệu bài hát Đôi mắt màu hạt dẻ của nước ngoài mà y từng nghe và thích...

          Và một lần, nàng ghé. Ấy là một ngày đặc biệt đối với ý. Y đã càm trong tay tờ quyết định điều y đi nhận công việc ở mãi một tình biên giới tận cùng phương Nam. Có chút háo hức của tuổi trẻ muốn chinh phục miền đất mới, có chút hăng hái của người bắt đầu cuộc đời viên chức, có chút băn khoăn vì thương mẹ già ở quê một mình, và chút có xao xuyến của một mối tình chớm nở với nàng... Y sắp đếp đồ đạc tư trang, dự tính ngày lên đường đi nhiệm sở cùng với mấy người bạn. Y mong ngóng nàng, muốn được gặp mặt nàng trước khi lên đường vào Nam. Nàng đến. Y mừng khôn tả. Nàng có vẻ thảng thốt, khi y thông báo sắp nhận công tác xa.  Lại những câu chuyện chen lấn, lộn xộn, không đầu không cuối. Khi muốn ở bên nhau lâu thì thời gian lại trôi nhanh...

          Buổi chiều, nàng cố dứt ra để về trường. Y muốn níu giữ mà không nỡ vì sợ muộn chiều tối thì khổ thân nang một mình đường xa. Y tiễn nàng một quãng. Hai người đạp xe song song, lòng những muốn nói mà chẳng thể. Định bụng một quãng thôi, mà đến cả chục cây số vẫn chưa muốn dứt ra để chia tay, mỗi người một ngả. Trời nổi cơn giông, mây đen kéo về và gió nổi. Nàng giục y quay về, y cứ dằng dai không nổi, bảo đi thêm quẫng nữa, Nàng thấy cần phải dứt khoát nên xuống xe, đứng nép vào lề đường. Quốc lộ chiều cuối tuần, người xe nườm nượp ngược xuôi. Y đành phải dừng xe, nép vào bên đường cùng nàng. Bịn rịn, nói qua nói lại mấy câu chia tay. Lòng y dâng lên một nỗi cô đơn khi mường tượng cảnh cuộc sống đơn độc nơi đất khách quê người mãi cuối đường chân trời, khiến y mạnh bạo, nhìn thẩng vào đôi mắt nâu to của nàng thốt lời yêu. Nàng tái mặt, lặng đi, miệng lí nhí câu gì không rõ bởi tiếng xe cộ và giông gió át đi. Y vội vàng quay xe, nhảy lên, đạp vội vàng một thôi dàu không dám ngảnh nhìn lại. Cho đến khi, tim y bớt thình thịnh trong lồng ngực, thì y mới dám ngoái đầu nhìn lại. Vừa khi ấy, nàng cũng mới lên xe đạp đi. Lúc này thì y dừng lại, lặng nhìn theo bóng dáng của nàng dần mất hút vào dòng xe cô trên đường. Y thẫn thờ đạp xe trở về trong trạng thái đầu óc bâng lâng, mất phương vị, như kẻ vừa bắn đi mũi tên mà chẳng biết nó bay đến đâu và liệu có trúng đích hay không ?...

          Về gần đến nhà thì trời đổ mưa. Y cứ đầu trần mưa ướt vậy mà đi. Lòng y chỉ một nỗi lo, nàng thân gái đường trường mưa gió thế này, liệu có sao không?... Còn tình cảm của y ư? Lời yêu đã ngỏ. Nhẹ cả người. Mặc cho duyên phận đưa đảy. Từ nay, chỉ còn biết trông chờ vào những lá thư mà thôi, khi y đặt chân tới miền đất mới...

          Hơn mười năm trời để gặp lại nhau. Và thêm dăm năm trời yêu nhau tha thiết, với bao nhớ nhung xa cách ngàn trùng, với biết bao cẩm xúc yêu thương vô bờ bến, với bao lần trắc trở, giận hờn. cuối cùng, đi đến hồi kết. Cùng như lần chia tay trước khi y đi xa, nàng vẫn là người chủ động, ngày ấy, để cho y đủ dũng khí thốt lời yêu, còn sau này, để y thắm nỗi đau dứt tình. Y là kẻ yếu đuối, luôn phụ thuộc vào nàng...

          Cho đến tận giờ, y và nàng chưa hề gặp lại nhau, dù đôi ba lần hình bóng nàng phảng phất đâu đó, gợi cho y sống lại ký ức. Chẳng biết nàng nghĩ về y thế nào, còn y, biết là, trong bao nhiêu khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc đời và mối quan hệ giữa hai người, thì năm khoảnh khắc ấy, như ngũ cung vĩnh viễn âm vang trong lòng y, cho dù mai nay có thế nào đi chăng nữa !... ./.

         

 

 

Đi tìm một cơn mơ,

 

“Cơn mơ chết từ đêm hôm trước

chớp mắt rầu rầu cỏ đã um xanh...”

Ông lẩn thẩn đi tìm cơn mơ. Ông Hòa nghĩ thế, nhưng ông Tuyền, bạn chí cốt của ông lại không nghĩ vậy. Con người và cách nghĩ khác nhau nên quan niệm khác nhau cũng phải thôi. Ông là nhà giáo, dẫu có chút đam mê văn chương thì cũng đầy chất mô phạm trong người. Còn ông Tuyền, một thi nhân, là kiểu thi nhân cả đời chông chênh đi giữa thực và mơ, đương nhiên, lãng đãng mơ mộng khác ông. Ông ít khi mơ, mà có mơ thì mọi chuyện diễn ra trong giấc mơ cũng rất chi là nghiêm túc. Còn ông Tuyền thì hay mơ, mơ cả lúc thức, ấy là khi ông ấy làm thơ. Khác tính nết nên hai người chơi với nhau rất thân, cứ như có sức hút về nhau. Ồng Hòa đã hơn một lần bảo ông Tuyền, rằng ông là phần xác còn ông Tuyền là phần hồn của một con người vậy. Chơi với nhau mấy chục năm nay, nhất là từ khi ông rời bỏ mảnh đất trung du về Hà Nội sinh sống sau khi nghỉ hưu, thì hai người càng gắn bó. Mươi năm nay, khi mạng xã hội phát triển, ông Tuyền lập trang văn thơ của mình ở đấy, một hồi, mời gọi ông và lập sẵn cho ông một trang, rồi dạy ông cách sử dụng  Kể cũng tiện, tiếng là hai ông cùng ở trong một thành phố, nhưng người đông, giao thông như mắc cửi, cả tháng, thậm chí vài tháng hai người mới gặp nhau một lần. Thế nên, nhờ mạng xã hội, hai ông có thể thăm nhau, chuyện trò với nhau hàng ngày. Ông là thầy giáo dạy văn, lâu ngày tập tọng viết văn làm vui. Trang văn của ông, tháng đôi lần, ông mới có bài tản văn, chẳng bù cho ông Tuyền, thơ bắn liên thanh, tằng tằng vài ngày một bài, mà bài nào đọc cũng được cả, ý từ, câu chữ, mạch thơ, biến ảo, khó nắm bắt. Ông Hòa phục bạn mình lắm. Đọc thơ của bạn già, ông khoái bởi sự liên tưởng lạ, bởi ký ức tuôn chảy đan xen với hiện tại, làm câu thơ biến ảo. Tuy nhiên, ông cũng bực mình, cứ như đang ăn một món ngon thì nhai phải sạn vậy, bởi thơ của ông Tuyền hầu như chẳng có bài nào toàn bích, hay đơn giản là tròn trịa, suôn sẻ cả. Bài nào cũng có sạn, khi thì câu thơ trúc trắc hơn văn xuôi, khi thì có đôi ba từ sáo rỗng. lúc lại lổn nhổn như người nấu bột nhưng để bị vón cục. Tức nhất là ông Tuyền cứ tùy tiện dùng từ Yêu, từ Thơ, trong các bài thơ của mình một cách vô tội vạ. Nhiều lần ông Hòa bực mình nói trắng ra với bạn lúc trà dư tửu hậu, ông Tuyền không bực, nhận lỗi ngay, nhưng rồi đâu vẫn đấy. Ông Hòa bảo bạn, khi nào ông Tuyền định chọn lựa một số bài thơ thành tập xuất bản thì nhất định phải nhận phần biên tập trước, để phăng-teo những từ thừa và lộ ấy đi...

Giờ thì hai ông bạn già dắt nhau về thăm quê nơi miền trung du. Thu xếp để đi cặp với nhau thế này là khó lắm. Ông Tuyền về quê rồi đi thăm người con nuôi của mình, còn ông Hòa về cùng nhưng là đi tìm giấc mơ của mình. Số là, ông Hòa vừa có một giấc mơ ngọt ngào và kỳ lạ. Chỉ kỳ lạ với riêng ông thôi, bởi chiêm nghiệm lòng mình thì mới xem là kỳ lạ. Mơ đêm trước, sáng hôm sau trở dậy, vào mạng xem thì ông bắt gặp một bài thơ của bạn mình vừa mới đăng trên trang của ông ấy lúc rạng sáng. Ông Tuyền viết về giấc mơ “Hay dở nắng mưa oi mùa nóng lạnh/ ai người ngồi đợi chuyện vu vơ/ cơn mơ chết từ đêm hôm trước/ chớp mắt rầu rầu cỏ đã um xanh...”. Bắt gặp khổ thơ này, ông Hòa khẽ rùng mình, ớn người, lạnh dọc xống lưng. Ông đọc cả bài, rồi đọc đi đọc lại khổ thơ này, rẩm riu nghĩ, sao lại có chuyện trùng hợp với giấc mơ của ông nhỉ? Ông Tuyền có biết gì về giấc mơ đêm trước của ông đâu, và ông ấy lại càng không biết chuyện tình lỡ dở thời trai trẻ của ông. Phải chăng, có điềm gì gở, không hay xảy ra với người ấy?...

Người ấy, là người đàn bà tên Thùy, vợ chưa cưới đầu đời của ông Hòa. Ngồi trên ô tô, từ thị xã tỉnh lẻ, về vùng đất Phù Ninh ven sông Lô, ông Hòa bắt đầu câu chuyện tình lỡ dở của mình với ông Tuyền...

Hai ông tỉ tê chuyện ngày xưa. Ngày xưa ấy, gọi thế thôi chứ chưa hẳn đã xưa. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, các trường lớp mới được mở. Vùng trung du nghèo nằm hai bên bờ sông Thao hiếm trường lớp lắm. Ông Hòa quê Đỗ Sơn bên tả ngạn, còn ông Tuyền quê Thạch Đê lại bên hữu ngạn. Hai bên nhìn thầy nhau nhưng đò giang cách trở. Vào tiểu học, quê ông Hòa không có trường, nên ông phải qua đò cắt ngang sông Thao sang Thạch Đê để học nhờ. Hai người cùng lớp vài năm với nhau, nhưng ngày ấy trẻ con chẳng mấy nhớ. Sở dĩ vậy, vì ông Tuyền có bố làm công nhân xưởng chè, nên đi theo. chuyển học nơi khác, còn ông Hòa khi quê có trường lớp rồi thì thôi học nhờ. Hai đứa biệt tin nhau. Sau lớn lên, đi đó đậy, gặp nhau và thân nhau, gợi chuyện một hồi, mới biết là cùng lớp. Khi hai người trở nên thân nhau, thì cả hai đều yên bề gia thất, nên ông Tuyền chỉ biết Nguyệt, vợ ông Hòa bây giờ, chứ đâu biết người đàn bà tên Thùy kia. Ông Hòa cũng giấu bạn. chưa từng nói gì về người đàn bà nay. Người đàn bà tên Thùy ấy là nỗi đau tình, nỗi đau đời đầu tiên của ông Hòa, dễ gì kể chuyện ra đâu. Ngay chính bà Nguyệt, vợ ông cũng chỉ láng máng, và ông Tuyền thì mờ tịt. Vậy mà, đọc mấy câu thơ của ông Tuyền, ông Hòa giật mình, cứ cảm giác là bạn ông ám chỉ chuyện tình của mình... Ông Hòa ớn người không phải vì ngại lộ chuyện cũ, mà sợ vì linh cảm có chuyện gở xảy ra với người đàn bà một thuở của mình,,,

Ở độ tuổi mười tám, đôi mươi, học xong cấp 3, cũng là lúc đất nước bước vào cuộc chiến tranh. Thanh niên có học vấn không nhiều, nên có trình độ tốt nghiệp bậc phổ thông là quý lắm rồi. Đất nước phân miền, chiến tranh và xây dựng phải song hành. Hầu hết, lứa thanh niên có học thời ấy được chia làm thành mảng rõ ràng. Một số vào quân ngũ, số còn lại, không cần phỉ thi thố gì, cứ căn cứ học bạ, học lực và lý lịch gia đình về thành phần xuất thân, để chọn lựa, đưa vào các trường đào tạo theo chuyên ngành, thậm chí, đưa đi đào tạo ở nước ngoài trong hệ thống các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa. Xét về học lực, chàng thanh niên Hòa thuộc loại khá đều, nhưng về lý lịch nhân thân, lại là con cái nhà địa chủ,  thuộc diện thành phần bóc lột, lý lịch xấu, bị loại ra. Chàng Hòa cay đắng nhìn các bạn học cùng trang lứa với mình, cứ nay mai, khăn gói đi nhập học ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Biết là mình thuộc diện lý lịch xấu, song chàng Hòa vẫn hy vọng một ngày nào đó, được gọi tên. Nhưng rồi, chàng bị bỏ lại ở thôn quê, bộ đội cũng không mà học hành lên cao hơn lại càng không. Chàng cảm giác như mình là người thừa của xã hội, chẳng ai đoái hoài gì đến mình, ngoại trừ người thân ruột thịt gia đình. Ấy là bà mẹ của chàng. Mẹ bảo chàng, phải tự ý thức chuyện thành phần gia đình mình, chẳng thể ganh đua với người khác, rằng cha mất sớm, nhà neo người, không học hành lên cao thì lấy vợ sinh con đẻ cái. Ấy cũng là nghĩa vụ lớn với gia đình, dòng tộc. Vậy là chàng ngậm ngùi, xếp bút nghiên, làm vườn, cày bừa. học làm ruộng thành một nông dân thực thụ. Việc làm nông nghiệp, tự mình gắng thì được, song lập gia thất lại chẳng dễ chút nào. Nếu như trước đó, gia đình khá giả, giàu có là một lợi thế, thì giờ đây, lại là trở ngại. Người ta ngại dây dưa với những nhà thành phần bóc lột, hay liên quan đến phong kiến, đế quốc. Thế nên, tìm được người được nết, mà không ngại chuyện thành phần đâu phải chuyện dễ dàng.

Nhưng rồi, chàng Hòa cũng đã tăm tia được một cô gái tên Thùy, người làng bên. Thùy kém Hòa vài tuổi, học sau mấy lớp, hết cấp 2 thì thôi học, ở nhà làm ruộng giúp cha mẹ. Gia đình Thùy, thuộc diện nhà nghèo, nhưng có vẻ hiền lành tử tế. Được vậy là ổn rồi. Thùy là con cả, dưới còn những dăm đứa em lít nhít. Về hình thức, Thùy không xinh, khuôn mặt bầu, cũng ưa nhìn, vóc dáng khỏe mạnh, nhất là phần hậu, theo kiểu “to hông rộng háng đáng đồng tiền”. Lại con cả, ruộng sâu trâu nái không bằng còn gái đầu lòng. nên mẹ Hòa nhìn người, ưng ý ngay, vì có tướng đảm và hứa hẹn sinh cho bà lũ cháu. Hai người ưng nhau, hai gia đình cũng đồng ý, thế là tết ấy, mẹ sai chàng mang đồ sêu lễ sang nhà gái, xem như lấy chỗ đi lại chình thức, cũng là đánh tiếng với thiên hạ để giữ người. Vậy là, chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt, hai bên thuận lợi là cưới hỏi, thành hôn. Chàng khấp khởi, phần nào nguôi ngoai nỗi buồn phải ở nhà, không được thoát ly...

Tháng dăm ba lần, Hòa sang thăm chơi bên nhà Thùy. Thực tình, chàng muốn sang nhà vợ chưa cưới hàng ngày hay ít ra tuần vài ba bận, nhưng mẹ ngăn, bảo sang nhiều nhà người ta lại coi thường mình. Có lần, Hòa đánh bạo, xin phép bố mẹ Thùy cho phép đưa Thùy đi chơi xa. Hai người đèo nhau lên thị xã chơi. Ngắm nghía chán chê, mua sắm vài thứ lặt vặt, ăn quà trưa, đủ cả. Chàng nàng bên nhau ríu rít. Ngày ấy, chàng chưa văn thơ như sau này, nhưng cũng thuộc được mấy câu thơ Nguyễn Bính, bảo nàng là cùng đi tỉnh thế này, không phải lo như chàng trai nọ sợ người yêu “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Nàng nghe, ngơ ngác chẳng hiểu gì .. Chiều về, không may bánh xe bị xì hơi, dắt bộ mãi mới tìm được chỗ vá xăm, về đến nhà thì trời đã tối. Lối về ngõ nhà Thùy một bên bờ đầm, bên kia tre pheo um tùm. Gần đến nhà, Thùy giữ ý đòi xuống đi bộ tự về. Hai đứa chia tay bịn rịn. Hòa cầm tay Thùy, không muốn thôi. Chàng thèm khát, đánh liều, nhìn quanh thấy trời tối vắng, không một ai, bèn kéo Thùy vào người mình, định hôn. Nàng không phản đối. Cặp đôi vừa ấp vào nhau thì Thủy nhảy cẫng lên, kêu có rắn. Bất ngờ, cả hai cũng hoảng. Thế là cái hôn đầu đời của chàng không thành...

Vậy mà trong giấc mơ vừa mới đây, ông mơ thấy mình hôn người đàn bà ấy, âu yếm, thắm thiết lắm. Tỉnh giấc, ông Hòa hết bàng hoàng rồi đâm ngẩn ngơ. Ông cố nhớ lại hương vị của nụ hôn. Đôi chim già hôn nhau, ngọt ngào thì không đúng, nhưng nhạt nhẽo thì cũng không phải. Hương vị thế nào nhỉ? Ngẫm nghĩ mãi. Lạ nhỉ, ngày xưa ấy, chàng nàng đã kịp hôn nhau bao giờ đâu mà biết hương vị của nó cơ chứ? Tự nhiên ông Hòa chờn chợn, nhìn sang vợ nằm bên cạnh, khẽ chạm tay vào người. Bà Nguyệt, vợ ông như cảm nhận được cái chạm tay, khẽ trở mình nằm nghiêng vào phía trong. Ông Hòa nén thở ra nhè nhẹ, vắt tay ngang trán, ngẫm ngợi. Sao vậy nhỉ? Ông chưa từng hôn cô Thùy bao giờ, mà nay lại mơ thế. Phải chăng, nỗi đau tình bị phản bội theo đuổi ông từ ngày ấy, suốt nửa thế kỷ qua, thành ẩn ức trong ông, giờ lặn vào giấc mơ theo đó mà có cảm giác hình hài?...

Hồi đó, ông Hòa còn nhớ lắm, những ngày tháng chờ hôn lễ nên duyên vợ chồng mới dài làm sao, phấp phỏng và cũng thi vị làm sao... Từ cảm mến ngày đầu làm quen, chàng Học đã dần cảm nhận được sự xao xuyến trong lòng mình với Thùy. Vì thế, khi Thùy thông báo gia nhập đội nữ thanh niên xung kích thời chiến của huyện, thì Hòa ít nhiểu cảm thấy lo lắng. Tuy không dám ngăn cản, song thực lòng, Hòa không muốn vậy. Chàng lo sợ Thùy tham gia, công việc sẽ bận hơn, dễ xao nhãng tình cảm hai người với nhau, và nhất là, dễ phát sinh tình cảm với người khác vì điều kiện quan hệ xã hội mới... Bụng lo, miệng vẫn động viên, nhưng Hòa không quên bóng gió nỗi lo ngại của mình. Thùy cũng hiểu, bảo chàng cứ yên tâm. Hòa cũng tự trấn an mình, đã sêu lễ, đi lại nhà nhau như thế thì trệu làm sao được ?...

Thế nhưng, cuộc đời mấy ai học được chữ ngờ, khi gia đình Hòa chắc như đinh đóng cột chuyện cưới xin thì xảy chuyện động trời. Một buổi, Thùy hẹn đi chơi và cô nàng chủ động bày tỏ ý muốn được chấm dứt quan hệ giữa hai người. Hòa sửng sốt, căn vặn thì Thùy chỉ viện lý do là sau thời gian tìm hiểu thấy không hợp nhau, nên muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân. Hòa chỉ nghĩ, chắc cô ấy giận dỗi gì đó, nên có thể làm lành. Rồi tiếng đồn đến tai Hòa, rằng Thùy bị một chàng bộ đội đẹp trai công tác ở huyện đội, người thị xã chinh phục và nàng ta mê mệt chàng lính công tử đẹp trai dẻo mỏ kia. Hòa bán tín bán nghi, định bụng sẽ lựa lời hỏi Thùy cho ra nhé, thì một hôm, Thùy tự mình đến nhà Hòa, trả đồ sêu lễ, và nói lời xin lỗi gia đình. Lý do từ hôn chỉ đơn giản là thấy không hợp với Hòa và gia đình bên này. Hòa chết đứng như Từ Hải, còn bà mẹ thì giận tím mặt, xem đây là hành vi hỗn xược vì dù có thể nào đi chăng nữa thì bên gia đình Thùy cũng phải có bề trên đi cùng cho phải phép. Bà mẹ Hòa giận là thế nhưng vẫn giữ được sự bình tĩnh, nói những lời mát mẻ nhưng sâu cay với Thùy, hàm ý là cô chê thành phần gia đình bà, sợ ảnh hưởng xấu. Thùy cũng ghê gớm chẳng kém cạnh, đối đáp câu một. còn bảo là cha mẹ cô cũng không đồng ý việc trả sêu lễ, đây chỉ là ý định của riêng mình nên gia đình bên này có mắng mỏ thế nào thì cô cũng xin nhận hết. Hòa cay đắng đến thành tê dại, chỉ biết can mẹ mình thôi. Mẹ tủi hổ một thì chàng tủi hổ mười. Đàn ông đàn ang gì mà sắp đến ngày cưới, để người đàn bà mình sẽ cưới làm vợ đến tận nhà từ chối và trả lại đồ sêu lễ. Ngượng với mẹ, xấu hổ với họ hàng, làng xóm, bạn bè, tủi nhục với chính mình...

Dứt tình là vậy, nhưng Hòa vẫn muốn biết nguyên nhân đích thực của việc từ hôn. Dò hỏi thì nguyên nhân đúng như lời đồn đại. Nàng ta lật kèo vì mê trai khác. Hòa hận Thùy, lại hận mình cam phận ở làng theo đít trâu, nên người ta coi thường, khinh phụ mình thế. Chí khí trong người chàng lại dâng lên ngùn ngụt. Làm sao thoát khỏi lũy tre làng đây?

Thật may mắn. Dạo ấy, ngành giáo dục thiếu giáo viên trầm trọng, nhất là vùng trung du rừng cọ đồi chè này. Qua một người quen mách bảo, Hòa nộp hồ sơ và sau đó được gọi đi học trường sư phạm hệ 10 + 1 của tỉnh. Chàng hăm hở khăn gói đi tập trung nhập học. Ở nhà buồn chán và xấu hổ bao nhiêu sau vụ bị từ hôn, nay được đi học trung cấp chuyên nghiệp, vừa thoát khỏi lũy tre làng, đỡ xấu hổ, sau trở thành thày giáo, còn vui gì bằng. Ở trường sư phạm, vì lớn tuổi hơn, lại chững chạc, nói năng lưu loát hơn chúng bạn nên Hòa được cử làm tổ trưởng, rồi lớp phó. Là trường sư phạm, ở lớp và trong trường, số nữ sinh nhiều hơn nam, có nhiều cô xinh xắn hơn so với ở quê, nên chàng tha hồ tăm tia, kén chọn. Vậy thôi, chứ chim phải tên sợ cành cây cong, nên Hòa không mồm mép tán tỉnh bừa như các sinh viên nam khác, chỉ ngầm quan sát, lựa chọn đối tượng nào phù hợp với gia cảnh của mình...

Trong số các nữ sinh của lớp, có Nguyệt, người quê Phù Ninh ven sông Lô, khiến chàng cảm mến. Nguyệt có gương mặt ưa nhìn, dáng hơi mảnh, nhanh nhẹn. Cô nói năng nhẹ nhàng, và biết cách né tránh, ứng xử để không làm phật ý hay mất mặt các anh chàng tán tỉnh mình. Không hiểu sao, Nguyệt lại rất cảm tình với Hòa, biểu hiện ở việc cô không ngần ngại hỏi bài, nhở Hòa giảng giải cho những vấn đề cô chưa hiểu và cũng hay để ý, giúp Hòa trong cuộc sống thiếu thốn ở lý túc xá. Kinh nghiệm xương máu từ thất bại của cuộc tình đầu, Hòa chủ động ngỏ lời với Nguyệt và được cô chấp nhận. Thuận lợi thế, thì đấn tới luôn. Hòa mừng mở cở trong bụng, nhưng một trở ngại ập đến. Có một thày giáo trẻ dạy trong trường cũng thích Nguyệt và vị này công khai bày tỏ tình cảm với Nguyệt trước đám đông. Hòa ấm ức, linh cảm về sự đổ vỡ đầu tiên có thể tái hiện xâm chiếm trong lòng. Hòa quyết không đi theo vết xe đổ, phải chủ động giành giật thôi.

Một chủ nhật, Hòa tìm đến nhà Nguyệt như đã hẹn, định bụng sẽ thưa chuyện với bố mẹ của Nguyệt xin phép được đi lại gia đình với tư cách hai đứa yêu nhau. Không ngờ, vừa đánh tiếng ngoài cồng đã thấy Nguyệt xồ ra, thì thầm báo tin là vị giảng viên nọ, người đang theo đuổi Nguyệt không hẹn trước, bất ngờ đến chơi, đang ngồi uống nước trong nhà. Nguyệt băn khoăn không biết xử trí sao đây. Quả là tình thế thật khó. Bị bất ngờ, Hòa cũng lúng túng, nhưng tự dưng máu liều nổi lên, đầu óc sáng suốt, quyết đánh một trận, được ăn cả ngã về không... Chàng cố trấn tĩnh theo Nguyệt vào nhà. Sau hồi chào hỏi xã giao, chàng vào trận. Liền một mạch, rằng chàng và Nguyệt có cảm tình với nhau, đã tìm hiểu tính nết và gia cảnh của nhau, nay hai đứa thống nhất thưa với hai bên gia đình, lại may mắn có vị thầy giáo đáng kính đến chơi nhà, xin thầy làm chứng giúp, xin phép cho hai đứa yêu nhau tiến tới hôn nhân. Đánh bài ngửa xong, chàng nhẹ cả người, chờ kết quả. Vị giảng viên kia tròn mắt, á khẩu. Cha mẹ của Nguyệt cũng là người tiến bộ, không hẳn nhận lời song cũng không ngăn cản, chỉ căn dặn hai đứa cứ tìm hiểu kỹ lưỡng kẻo sau này lại hối hận. Vị giảng viên kia chỉ còn biết cười mếu mà về thôi,...

Kể ra câu chuyện của mình với bạn già, ông Hòa như người uống rượu ngà ngà say. Chuyện cũ buồn vui của cả một thời trai trẻ khó khăn khơi gợi ký ức ùa về. Ông Tuyền nghe chuyện, gật gù, bâng quơ một câu thơ “Trái buồn đau, giấu ở đâu? Này ơi... chớ để bợt màu tháng năm...”.  Nghe thơ bạn, ông Hòa rẩm riu nghĩ...  Ừ nhỉ, suốt những tháng năm qua, trái buồn đau của cuộc đời ông đâu chỉ một hai, cứ thảng. lại rụng một vài trái. Ông đem giấu ở đâu được, ngoài thẳm sâu cõi lòng mình? Giờ đi lại con đường xưa, dù cảnh sắc đổi thay, nhưng trong trí nhớ vẫn như in cái ngày xưa ấy. Kia rồi, cây đa năm thân. Hơn nữa thế kỷ trước, cây đa này đã chia thành năm thân sừng sững ở đấy rồi. Nó chứng kiến tuổi trẻ và tình duyên của ông. Xa xa, trên đường bờ đê sông Lô, tán cây gạo cổ vẫn nhô cao, nhưng lạ thay, hình như nó đã chết khô thì phải? Ngày trẻ, mình đạp xe kẽo kẹt tuyến đường này mãi, ông Hòa thuộc từng lối rẽ. Có điều, ngày ấy là đường đất hoặc rải cấp phối đá răm, nhà cửa hai bên đường phần lớn là nhà gianh, còn giờ là đường bê tông nhựa, và nhà cửa cũng khang trang hơn nhiều. Ngày ấy, nhà Nguyệt ở cách lối rẽ chỗ cây đa năm thân không xa. Sau này, bố mẹ vợ ông Hòa theo các con về sống ở thị xã, để lại đất nhà vườn cho người cháu họ ở quê trông nom, giữ nơi chốn đi về. Vợ chồng ông Hòa lấy nhau, sinh liền gái đầu và hai trai sau. Nguyệt dạy cấp 1, ông thì cứ phát triển lên, hàm thụ đại học, rồi dạy cấp 3. Ông trờ thành giáo viên giỏi môn Văn của tỉnh, và được đề bạt làm hiệu trưởng một trường cấp 3 có tiếng trong vùng. Gia đình ông về thị xã sống, cho đến lúc nghỉ hưu. Con cái phương trưởng, lập nghiệp ở Hà Nội, ông bà cũng bán nhà ở thị xã về theo con. Nghỉ hưu, rỗi rãi, ông bắt đầu viết văn, cho đỡ buồn và cũng muốn thử sức trong lĩnh vực văn chương. Giờ thì ông Hòa đã có vài đầu sách xuất bản, chủ yếu tặng bạn bè, người thân đọc chơi, lấy chỗ giao lưu với thiên hạ. Vất vả cả đời, nhưng quả là trời đã thương ông, ban cho ông một người đàn bà đảm đang, chỉn chu, biết thu vén cho gia đình, là bà Nguyệt vợ ông. Ông Hòa từng tự hỏi, nếu ngày ấy, nên duyên vợ chồng với Thùy thì cuộc sống của ông sẽ ra sao nhỉ? Ông cũng đã ngầm so sánh giữa Thùy với vợ ông và dường như không có câu trả lời. Với Thùy, tiếc và giận đấy, tất nhiên theo thời gian thì cả hai thứ đó đều nhạt dần. Với Nguyệt, hài lòng, và sự hài lòng tăng theo năm tháng. Cho đến giờ, bà Nguyệt vẫn chăm chút cho ông từng li từng tí và dường như muốn sở hữu ông một cách trọn vẹn. Thực lòng, bà ấy không thích ông tình tang văn chương thơ phú, bởi sợ ông dễ có cơ hội bám theo bóng hồng khác...

Đêm ấy, hai ông già ngủ lại nhà người con nuôi ông Tuyền. Cuộc đời ưu ái ông Tuyền nhiều hơn. Ông ấy có mấy đứa con đều giỏi giang, trời lại cho ông ấy thêm đứa con nuôi hiếu thảo. Tính ông ấy quảng giao, thích ngao du đây đó và thơ phú cứ tuôn ào ào, xuất thần ra thơ nhưng lại quên ngay. Chơi với nhau ngần ấy năm, chính ông Hòa lại là người lưu giữ thơ của ông ấy. Sở dĩ vậy bởi ông Hòa thích thơ ông ấy, vì thích nên thuộc và nhớ thôi. Cậu con nuôi nhà ngay chân đê sông Lô, vườn tược rộng cả ngàn thước, có cái nhà làm chòi canh ở bãi sông. Thế là hai ông đòi dắt nhau ra ngủ đêm ở đấy, để tiện chuyện trò mà không sợ ảnh hưởng đến giấc ngủ của cả nhà.

Tiết cuối xuân, trời vẫn se lạnh. Hai ông già tha hồ tỉ tê với nhau. Sẵn đồ nhắm và rượu. Cứ nâng lên đặt xuống, nhẩn nha chuyện vãn đêm. Ông Hòa bảo, gần năm chục năm sống với bà Nguyệt, nhưng hầu như ông chẳng ngủ mơ thấy vợ bao giờ. Yêu thương chăm chút nhau là thế, nhưng mơ thì không. Vậy mà, ông lại nhiều lần mơ thấy cô Thùy. Thì ra, hận nhiều mà thành ám ảnh. Nhớ lại, những lần mơ thấy Thùy, cô ấy hầu như im lặng, chẳng nói năng gì, trong khi ông lại cau có hoặc nhấm nhẳng mắng mỏ cô ấy này nọ, toàn những điều chưa từng có trong đời thực giữa hai người. Có lần, ông mơ, thầy cô ấy khóc lóc khi bị ông mắng mỏ, rồi than là số khổ nên mới bỏ người tử tế là ông, lại đâm đầu đi theo những kẻ chẳng ra gì, ông đã không xót thương thì thôi, còn mắc nhiếc mãi. Mơ thế, tỉnh ngủ, ông cứ ân hận. Chỉ là mơ thôi mà vẫn ân hận. Sao trong mơ ông vẫn không bỏ qua cho cô ấy nhỉ? Phải chăng, ông là người cố chấp, mặc dù ông nghĩ mình đã bỏ qua chuyện cũ lâu rồi?...

Ông Tuyền uống nhiều, lơ mơ nghe, lại đọc thơ, chẳng biết cho ông hay là chính ông ấy: “Chia xa, vãn cuộc, đẫm tình/ mạn đời sóng vỗ, giật mình, em đâu/ Phố đông, em nắng không màu/ biển xanh, anh bỗng... không nhau, thật buồn/ chia xa, kẻ phía ngọn nguồn/ người nơi góc biển, cánh chuồn ngày mưa...”. Nghe thơ, ông Hòa ngẫm nghĩ, quái sao, cái lão già này lại thấu hiểu lòng ông đến thế. Lão ấy đọc câu thơ nào ra cứ như moi hết ruột gan ông ra phơi cho thiên hạ thấy vậy. Ở đời, người xưa bảo, xa thơm gần thường là vậy. Vợ ông, hàng ngày bên cạnh ông, đầu gối tay ấp mấy chục năm trời, có yêu thương đến bao nhiêu thì cùng thành thường. là chuyện đương nhiên. Còn Thùy, chỉ cỡ một năm với nhau thôi, xem như khoảnh khắc, song sao lại sâu đậm và nhức nhối làm vậy. Nếu cuộc đời của Thùy sau này nhàn hạ, sung sướng thì có lẽ ông sẽ nhẹ lòng, bởi vì cô ấy đã chọn được người đàn ông tài giỏi hơn ông thì việc cô ta bỏ ông là đáng thôi. Đằng này, cô ấy lại chạy theo và không may vớ phải những thằng đàn ông chẳng ra gì... Sau khi lập gia đình, sinh con để cái, sự nghiệp dần đi lên, ông Hòa có để ý, tìm hiểu xem cuộc đời của người đàn bà đã từng đang tâm làm cái việc hắt cả bát nước đầy vào mặt ông.

Số là, Thùy say mê chàng lính cậu người ở phố, những tưởng lấy nhau thì anh chàng kia, chán cuộc chơi, đánh bài chuồn. Thùy cố níu kéo bằng cách tìm đến nhà anh chàng ở thị xã. Cha mẹ anh chàng lạnh nhạt, bảo rằng con trai họ không thể lấy một cô gái quê ít học như cô. Thùy ê chề vì đã có thai trong bụng. Bố mẹ Thùy biết chuyện, mắng nhiếc thậm tệ. Tủi hổ, cùng đường sinh quẫn, cô đã lang thang cả một buổi chiều dọc bở đê sông Lô trước khi quyết định quên sinh. Lúc chới với trong dòng nước xiết thì tình cờ có một bè tre nứa chạy ngang qua. Thấy vậy, người đàn ông chống bè đã nhày xuống vớt Thùy lên. Được cứu sống, nhưng người yếu và tâm trạng nặng nề, it lâu cô đánh mất cái thai. Khi đã tĩnh tâm lại, Thùy tìm được nhà người đàn ông đã cứu mình, cảm ơn cứu mạng. Anh chàng kia nhà nghèo chuyên nghề đi bè thuê trên sông Lô. Đôi bên cám cảnh nhau rồi nên quyên vợ chồng, có với nhau mấy mụn con gái. Thùy xin được vào làm công nhân một nông trường chè, còn người chồng vẫn theo nghề cũ. Chồng cô không phải là người xấu, nhưng tính tình cục súc và hay rượu, và hễ rượu vào là nóng tính, ghen tuông này nọ, thượng cẳng chân, hạ cằng tay vợ. Anh ta còn hành vợ cả cái tội không biết đẻ con trai để anh ta đứt người nối dõi, thờ cúng. Thùy chỉ còn biết cam chịu. Mà không cam chịu thì còn biết đi đâu nữa khi cuộc đời đã bầm dập, tủi nhục vậy, đến cái chết nó cũng chê. Cuộc đời là thế, sai một li nó đi một dặm...

Biết cuộc sống Thùy khổ ải vậy, ông Hòa đã từng đắc ý, ra điều, ngày xưa bỏ ta, tưởng đâu, ai ngờ khổ thế, cũng là đáng đời. Đi suy bì với đàn bà, lại là người thất thế, thật chẳng đáng mặt đàn ông. Hiểu thế, nhưng vẫn thấy mát lòng. Thì ông cũng là con người với nhiều thói hư tật xấu, chứ đâu phải là thánh nhân !... Nhiều năm tháng qua, ông Hòa vẫn ngầm dõi theo cuộc đời của người đàn bà ấy. Thi thoảng mơ thấy Thùy, ông Hòa lại xao động một thời gian. Vợ ông, bà Nguyệt cũng chỉ biết lờ mờ về cuộc tình đầu tan vỡ của chồng mình, nhưng không căn vặn. Có lẽ, bà ấy muốn để đến một ngày nào đó ông tự kể, mà không kể thì cũng chẳng hề hấn gì.

Giấc mơ lạ, ông hôn người đàn bà ám ảnh cả đời ông, cái hôn chưa hề có trong đời thực. Những lần trước, giấc mơ phũ phàng, dù khổ ái thì người ấy vẫn sống nhăn răng. Lần này, giấc mơ dịu dàng ngọt ngào, có khi lại là chuyện gở? Hay là, người đàn bà ấy đến chào từ biệt ông, để rũ bỏ cuộc đời đau khổ về cõi xa xăm? Cây gạo cổ thụ chết khô kia như một điềm báo? Giờ nằm nghe gió sông Lô ào ạt thổi đâu đó ngoài kia, ông thấy có gì khác xưa đâu, vậy mà, người như đã chia xa...

Ông trút một tiếng thở dài vô thức. Ông Tuyền nhìn ông, cái nhìn đầy cảm thông, lại cất giọng đọc thơ “Chia xa, được một chín thua/ không nhau, năm tháng...  gió lùa lạnh lưng...”. Ừ nhỉ, hai người chia xa, ông và người đàn bà ấy có hon gì nhau đâu, được thì chỉ một thôi song thua lại  những chín kia mà. Ông Hòa bần thần, nhắc bạn, bảo ngủ đi kẻo thức khuya lại mệt.

Nhắc bạn vậy, nhưng ông Hòa biết là đêm nay sẽ khó ngủ. Ông sợ, đặt mình nằm ngủ, ông lại mơ một giấc mơ chẳng thể đi tìm... ./.

 

 

Khói đồng cay mắt....

 

          Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...

          Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...

          Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.

          Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?

          Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em. 

          Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầu, Lần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...

          Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.

          Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.

          Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.

          Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...

          Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...

          Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.

          Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.

          Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.

          Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...

          Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...

          Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...

          Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...

          Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...

          Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...

          Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...

          Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.

         

 

 

 

Chuyện cha con người đốt than.

 

          1.

          Tôi còn nhớ, khi ấy, từ mấy chục năm trước, trên đường từ Long  Xuyên, Châu Đốc về Thất Sơn, ngồi trong chiếc xe khách cà tang nhày chồm chồm trên con đường đá long lở với trạng thái như bị xảy, tôi vẫn cố ngoi đầu ra ngoài cửa xe, để hóng gió đồng và cũng là để ngắm quang cảnh vùng đất mà mình sẽ phải sống Người phụ nữ nạ dòng ngồi bên cạnh tôi cứ bứt dứt không yên, hết khậm khoạc trong cổ lại buông lời ta than, chốc chốc đưa bịch cà phê đã ướt nhẹp lên miệng mút chùn chụt. Chị ta hỏi tôi:

-Chắc cậu từ vùng khác đến đây, ha ?

-Vâng,

-A… cậu người Bắc, mới dô hả? Chèng đéc ơi, thảo nào ngắm trời đất dữ quá ha- Chị ta nói liền một mạch chẳng buồn xem tôi trả lời gì. -Tui quê Long Xuyên, lên Sài Gòn từ nhỏ, thỉnh thoảng mới về quê. Lần này, trời đất biên giới yên hàn rồi, tui có thể đi lễ chùa Bà Chúa Xứ và các chùa khác ở Thất Sơn…Này cậu, hẳn là cậu không hiểu gì về vùng đất này phải hông? Linh thiêng và huyền bí lắm đó, chỗ nào cùng chùa chiền, nghe nói vẫn còn người sống ở trên núi, lẫn với trăn và rắn rít… Ui chao, nghe mà đã muốn ớn cả xương sống…

-Thế ạ…-Tôi nghe và trả lời qua quýt, nhưng cũng thấy mên mến cái tinh xởi lởi của chị ta.

Từ phút đó, tiếng của chị ta chỉ còn loáng thoáng bên tai, câu được câu mất bởi trí óc tôi mông lung vô định, lúc nghĩ về nhà, về người thân, lúc lại lo lắng cho những ngày tới đây mình sẽ sống ra sao ở cái nơi mà người ta cho là “linh thiêng và đầy bí ẩn” này. Dẫu sao, những lời bô lô ba la của người đàn bà ngồi bên cũng cho tôi một khái niệm mơ hồ về cái chốn mình sẽ đến và phải sống ở đó, nhất là với người sẵn có trong mình chút lãng mạn phiêu bạt và tập tọng cầm bút văn chương như tôi. Linh thiêng và huyền bí ư, những cái đó đâu có làm tôi sợ, chỉ chút ái ngại xen lẫn trí tò mò mà thôi.

Và rồi, tôi chẳng còn đâu thời gian mà suy nghĩ bởi chiếc xe khách cà tang bị chết máy, không làm sao nổ máy lại được, và rồi, tôi và cả đám hành khách được chủ xe chuyển sang mấy chiếc xe thổ mộ. Bị lèn chặt giữa đám phụ nữ người Khmer lẫn đám quang gánh và sọt lợn gà, tôi chỉ còn biết bám chặt lấy thành ghế mỗi khi chiếc xe thổ mộ đổ dốc ngoằn ngoèo, bên tai ù ù tiếng gió pha lẫn tiếng Khmer líu ríu. Lại thêm một cuốc xe lôi nữa, tôi mới đến được nơi mình cần đến, là Trung tâm ý tế huyện. Khi ấy, bộ dạng tôi thật lôi thôi bởi không chỉ quần áo mà cả chiếc va ly của tôi đều dính phân gà. Cô nhân viên Trung tâm y tế chào đón, tiếp tôi khá niềm nở, miệng cô như đáng nén một nụ cười, chắc vì nhìn bộ dạng nhếch nhác của tôi. Dẫu sao, thái độ ấy của cô cũng làm cho tôi thấy mạnh bạo và tự tin hơn.

 

2.

Và rồi, kể từ cái buổi đặt chân đến đây, tôi luôn bị chúc mừng, bị chuốc, thậm chí bị ép uống rượu cho tới say mèm, đến mức phải thổ ra hết những gì mình đã nuốt vào, không những thế, còn lỗ vốn chút mật xanh mật vàng lẫn trong đống thức ăn hổ lốn nồng nặc. Mấy lần, trong lúc say, cô gái đón tôi hôm đầu tiên, có tên là Thư, khi bôi vôi vào gan bàn chân tôi, vừa lẩm bẩm: “Tội nghiệp cho ảnh quá ta”. Tôi say đấy, nhưng trí óc vẫn tỉnh táo, nên mỗi lần như vậy, tôi thầm nghĩ: “Cô bé ơi, say rượu mà được người xinh xắn. dễ thương như cô bé săn sóc thì tôi đây sẵn sàng say sưa cả một đời”. Là nghĩ đùa thế thôi chứ thực lòng tôi mệt và sợ những trận say như vậy.

Đấy là vào những dịp rồi rãi, khi Trung tâm ý tế ít bệnh nhân, và cũng không phải mùa dịch bệnh. Một hôm, Thư bảo tôi:

              -Anh mới vô, còn chưa rõ đấy thôi, chỉ ít bữa nữa là bà con ở đây sốt rét lia chia, mọi người lại bận tối tăm mắt mũi đến mức không còn thời gian uống nước, lùa chén cơm vào miệng đâu, chứ đứng nói đến chuyện nhậu nhẹt say sỉn.

Quả như lời Thư nói, người bị chứng sốt rét từ các xã, các phum sõ Khmer trong vùng ùn ùn kéo đến trung tâm y tế huyện cấp cứu, chữa trị. Có ngày tiếp nhận vài chục ca, một giường bệnh nằm hai bệnh nhân không xuể. Cả Trung tâm y tế như cũng lên cơn sốt theo. Đâu đã hết, ngoài việc trực suốt ngày ở bệnh viện, Trung tâm phải chia người thành từng tốp, xuống tận xã, ấp giúp y tế cơ sở hướng dẫn bà con cách phòng bệnh và chữa trị các ca bệnh nhẹ. Tôi và Thư được phân thành một nhóm. Cô gái còn quá trẻ và mới chỉ qua lớp sơ cấp y tế, khi được điều đi cơ sở chữa bệnh, chẳng thấy lo lắng gì, trái lại cứ hơn hớn như đi hội vậy. Cả hai anh em tôi lủng củng những quần áo, trang bị đồ nghề và thuốc men, choán hết cả một góc xe đò. Thư chỉ tay vào một dải núi nằm xoải ra như một con rắn đang trườn, bảo:

              -Anh Tuấn nè, mình sẽ phải đến cụm nhà bên chân dãy núi kia. Đấy là một điểm sốt rét. Núi này có cái tên rất hay, Ngọc Long, thế nhưng nước suối ở đấy lại chứa đầy ấu trùng sốt rét thôi à... Ba em giải thích tên núi có nghĩa là con rồng ngậm viên ngọc quý… Nghe đâu, còn có cả một câu chuyện về sự tích tên núi nữa, nhưng mà em hổng nhớ…

Câu chuyện của Thư gợi cho tôi một ý nghĩ hay hay về sự tích tên núi mà tôi mường tượng ra, mặc dù chưa từng được nghe, nhưng công việc đang chờ đón chúng tôi chưa rõ sẽ nặng nhẹ thế nào, nên tôi chỉ ừ hữ qua chuyện. Quả nhiên, hai anh em tôi không còn lòng dạ nào để nghĩ đến chuyện gì khác bởi chúng tôi đều choáng khi bước chân vào Trạm Y tế xã. Chỉ vỏn vẻn chưa đầy chục giường bệnh mà đã có gần hai chục bệnh nhân nằm ngổn ngang, mỗi giường hai người trở đầu đuôi. Lại thêm người nhà bệnh nhân nữa nên cái trạm xá bé nhỏ và sơ sài nhồi đặc những người là người làm không khí ngột ngạt. Người y sĩ trạm trưởng và mấy cô y tá đang cuống lên, khi thấy chúng tôi thì mừng ra mặt. Thế là chẳng kịp uống hớp nước, hỏi han gì nhiều, tôi và Thư lấy đồ nghề ra, bắt tay vào công việc luôn.

          Đến chiều muộn thì công việc khám chữa bệnh cũng bớt căng thẳng, các bệnh nhân nặng được chỉ định chuyển lên tuyến trên, số còn lại đã được thăm khám, thuốc men, lúc ấy, tôi và Thư cùng các đồng nghiệp mệt mỏi, được nghỉ chút, ngồi xuống mâm cơm. Bụng đã đói meo. Cơm cá lóc kho tộ, canh chua cá rô bông sung ngon là thế mà ai cũng nhai nuốt uể oải vì kiệt sức. Tôi vừa bưng bát cơm thứ hai lên thì một người đàn bà nạ dòng ùa tới, vừa kêu la, thở hổn hển, nói lắp bắp. Tôi nghe, không mấy hiểu. song cứ nhìn gương mặt căng thẳng của mọi người là phần nào hiểu được sự tình. Thư nói lại cho tôi rõ, đại ý là đang có một người ở đâu đó bị sốt rét nặng, nguy hiểm đến tính mạng, phải đi đến tận nơi để cấp cứu gấp, may ra còn kịp cứu chữa. Thư hỏi người đàn bà nạ dòng:

              -Thế ổng đang ở đâu? Là chồng dì à?

              -Không phải chồng tui… Ổng ở mãi trong núi ấy, ngay cạnh lán củi nhà tui. Tội nghiệp cho ổng, bệnh nặng lắm, mà chỉ có hai cha con, con gái ổng thì cứ khờ khờ làm sao… Xin các ông bà làm phước, gắng vô trỏng cứu ổng… Ổng chết mất.

Người đàn bà mếu máo, lấy tay quệt nước mắt trên má. Mọi người lung túng, nhìn tôi như dò hỏi, cầu cứu. Thư nhìn trời đang dần tối, lại nhìn vào sâu trong núi, rồi nhìn tôi như hỏi, sao đây anh? Tôi buông bát cơm ăn dở xuống mâm, quả quyết:

              -Ta đi ngay thôi, may ra còn kịp…

Như chỉ chờ có vậy, một y tá của Trạm nhận việc cầm đèn pin đưa đường. Tôi nhắc Thư chuẩn bị gấp dụng cụ thuốc men, và chỉ kịp uống miếng nước rồi cả ba lên đường, theo chân người đàn bà nọ. Đường đi hút sâu vào trong núi, quanh co, leo trèo, tôi bước thập thõm cố bám theo mọi người như vô thức. Thư tinh ý, tụt lại đi sau tôi canh chừng. Ánh sáng đèn pin loang loáng, chập chờn, ánh lửa lập lòe từ các lều trại trong núi gây cho tôi cảm giác khó tả, cứ như là trở về thời hồng hoang vậy… Sương núi mờ mịt, tôi như thấy những mỏm núi nhô lên, rồi dài ra như đám vẩy rồng và cả dải núi bỗng thành con rồng khổng lồ khẽ rung mình, quẫy cựa… Không, đúng như một con khùng long thời tiền sử bừng trỗi dậy. Và tôi, cùng mấy người cùng đi chỉ là những sinh linh bé nhỏ, bất lực, lồm cồm như sâu kiến trên lung khủng long. Chẳng ai trong chúng tôi đáng mặt là Thạch Sanh cả. Tôi bừng dứt khỏi cơm mê muội như thế đang choán lấy mình…

          Hơi lạnh tỏa ra từ các hõm núi, cùng với hơi ẩm mốc lẫn mùi sắn nướng, cá khô chiên mằn mặn ngầy ngậy, đưa tôi trở lại với hoàn cảnh thực tại, và tôi cảm thấy miệng mình đắng nghét như người sốt rét ngậm ký ninh vậy. Thư sốt ruột, phá tan sự im lặng rờn rợn, hỏi người đàn bà dẫn đường:

              -Dì ba, sao đi hoài vậy? Tới chưa dì?

              -Rồi. Vài chục bước nữa thôi à.- Người đàn bà chỉ tay vào một hẻm núi ngay trước mặt, nơi trong ánh sang lờ mở tỏa ra từ bếp lửa, tôi có thể nhận ra là một túp lều hay lán trại gì đấy, bảo- Đó đó – rồi cất tiếng gọi to:

              -Út Thiệt à… ra mà đón mấy ổng đến chữa bệnh cho ba con đây nè… Đó, mấy cô chú dô đi. Cha con ổng ở trỏng… Thiệt là tội nghiệp cho ổng.

          Người đàn bà rẽ ngoặt đi rồi mất hút ngay trong bóng tối. Chúng tôi dò dẫm đến được cửa lán thì một cô gái tóc buộc đuổi gà, vận bộ bà ba đen nhô ra, vẻ mặt lo âu xen lẫn mừng rỡ, nước mắt chùi vội còn hoen trên má. Trái với sự phỏng đoán của tôi rằng khi thấy chúng tôi thì cô sẽ kêu lên vì mừng có người đến cứu giúp cha mình, đằng này, cô có vẻ bẽn lẽn, cúi đầu lễ phép, lí nhí trong miệng:

              - Mời mấy chú, cô dô nhà… mấy chú cô ngồi tạm, để con đi châm bình trà…

          Thư ngọ ngậy, bấu nhẹ vào tay tôi, ý ám chỉ và tỏ vẻ khó chịụ trước thái độ vô sự của cô gái. Tôi lừ mắt, cô đành thôi, nhưng lại tỏ thái độ bằng cách bưng chén nước lên, thổi nguội phù phù và xì xụp uống. Cô gái chủ nhà tên gọi Út Thiệt cứ loanh quanh như tìm một cái gì đó. Lúc này, tôi đã quen với ánh sang trong lán, đưa mắt quan sát và nhận ra mình đang ngồi trong một căn nhà thì đúng hơn, chứ không phải lán trại hay lêu củi chi đó. Căn nhà tuy nhỏ, sơ sài, được thưng vách bằng lá dừa nước, nhưng cũng được ngăn thành mấy khu vực, buồng chính nơi chúng tôi ngồi rộng rãi hơn cả, bên trong là một buồng nhỏ để chừa lối đi ra phía bếp ở sau cùng.

              -Cô ơi… Nghe nói ba cô đang bị sốt rét nặng? Tôi gọi,

              -Dạ, ba... bệnh nặng… Ổng nằm ở trỏng.

              -Vậy mà nãy giờ, cô cứ đủng đỉnh, chúng tôi đến đây lúc đêm hôm thế này không phải để ngồi nhâm nhi trà, mà để cứu ba cô, cô hiểu chứ- Thư không nén được bực dọc. hơi sẵng giọng.

              -Này cô Út… Út Thiệt à- Tôi lên tiếng át giọng Thư - Giờ cô đưa tôi vào khám bệnh cho ba cô, kẻo trễ quá là nguy hiểm lắm đó nghe…

Út Thiệt thấy thái độ của chúng tôi như vậy, cô sợ và cuống, chân tay như thừa, miệng há ra dịnh nói gì đấy nhưng chỉ nghe hấm hứ trong cổ… Chợt tôi nghe có tiếng rên khe khẽ nơi buồng trong, đoán là của người bệnh, tôi quyết định bèn giật lấy cây đèn dầu trong tay Út Thiệt, lệnh:

              -Mọi người ngồi ngoài này cả, riêng Thư mang túi thuốc theo tôi.

Tôi soi đèn bước vào buồng trong. Quả nhiên, ba của Út Thiệt, một người đàn ông thân thể cường tráng khó đoán tuổi, nằm miên man trên chiếc giường cây tự đóng trải nệm bàng. Có lẽ do sốt cao, nóng lạnh thất thường,  ông ta đã tự cởi bỏ áo, tấm mền mỏng đắp ngang bụng, bên dưới trần trụi với chiếc quần xà lỏn. Trên trán, ấp chiếc khăn mặt ướt gấp lại đã gần khô. Tôi sờ tay vào người ông ta và giật mình vì sức nóng của cơ thể hầm hập. Dễ phải ngót 40 độ C. Tình thế thật nguy hiểm, tôi thầm nghĩ, may ông ta là người có sức vóc nếu không thì đã đi rồi. Người lớn chịu sốt cao kém trẻ em. Trong lúc tôi soi đèn xem bệnh trạng thì Thư đã hiểu ý, cô nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ thuốc men. Sau khi tôi tiêm thuốc, Thư lấy đá cục mang theo trong phích lạnh, bọc khăn mặt chườm khắp người và đắp lên trán nhằm hạ nhiệt cho bệnh nhân. Út Thiệt nước mắt ướt nhèm, cứ loanh quanh bên ngoài không biết phải làm gì.

-Đã bớt nguy kịch rồi, ta nên ra bên ngoài, để không khí ở đây thoáng hơn- Tôi bảo.

Để Thư lại trong buồng theo dõi, tôi trở ra bên ngoài. Út Thiệt rót cho tôi chén trà nóng. Bấy giờ, anh nhân viên Trạm xá xã trách nhẹ:

-Ba cô bệnh năng vậy, sao cô không đưa ra Trạm y tế xã. Nếu anh Tuấn đây không cắp cứu kịp là ba cô chết oan đó nghen.

-Ủa, mà sao cô Út không đưa ba cô đi bệnh viện? Tôi bảo- Cô Út không rõ đấy thôi, phàm những người khỏe mạnh, khi bị sốt rét lại hay sinh ác tính. Như ba cô đây là nguy hiểm lắm đấy.

-Dạ, dạ… ba con… em… à ba con mới bệnh hôm qua. Trước đó, thỉnh thoảng ổng cũng vậy, nhưng chỉ sơ sơ, lá lẩu xì xằng mấy bữa khỏi liền à. Đâu có ngờ là lần này lại dữ vậy... Lúc chiều, thấy sốt dữ, con ngỏ ý muốn nhờ người đưa ba ra ngoải, để đi chữa trị nhưng ổng nhất định không chịu. Ổng còn gắt: “Tiền đâu mà thuốc men tốn kém. Bệnh khắc đến khắc đi. Tau không chết đâu mà lo”... Lo lo là, nhưng hổng biết phải làm sao…

- Và chỉ biết khóc thôi, phải hông? Anh nhân viên y tế xã cười trêu- Út Thiệt nè, đừng xưng con nữa, quê lắm… Bác sĩ Tuấn đây còn trẻ lắm, chỉ hơn Út Thiệt dăm tuổi thôi à. Gọi ảnh bằng chú, xưng con ảnh không chịu, không vui đâu… Phải vậy không bác sĩ Tuấn?

Anh nhân viên y tế xã cười làm Út Thiệt ngớ ra, đần mặt, tay chân lúng túng. Tôi cười giải nguy:

              -Đúng đấy, Út Thiệt à… Tôi chỉ tuổi anh cô thôi.

-Dạ, là cháu… à em… là tại em cứ nghĩ…  bác sĩ… phải là người giỏi giang và nhiều tuổi…

Tôi bật cười vì ý nghĩ thật thà dễ thương của cô gái, bèn đùa:

-Thì cô nhìn kỹ lại tôi coi…Tôi đâu có dán chữ bác sĩ lên trán, cũng đâu có khác anh gì đây… chưa có râu, tóc chưa bạc… và còn chưa có… Tôi nheo mắt cười, giọng bỗng vẻ trai lơ, bỡn cợt hơn – Nào, cô Út có đoán ra không?

Liền đó, tôi nghe rõ tiếng Thư nói nhỏ, vọng từ buồng trong bởi tôi ngồi sát với tấm thưng vách: “Thật rõ là khéo tán…Xưng cháu, con cũng được chứ bộ… Anh, anh cái gì…”. Tôi ngưng bặt, còn anh nhân viên y tế xã thì cười phá lên, đùa hùa theo, át đi, nên có thể Út Thiệt không nghe được, hoặc không hiểu câu nói vẻ bực bội vừa rồi của Thư.

Út Thiệt e lệ, tìm cớ đứng lên, lui vào trong bếp và chỉ ít phút sau, mùi cá khô nướng thơm lựng tỏa ra, khiến tôi chảy nước miếng, bụng thì óc ách, và lúc này tôi mới nhớ ra là mình mới chỉ kịp lùa vào bụng mỗi lưng cơm từ lúc chập tối. Út Thiệt bưng ra một đĩa khô cá nướng, xoài xanh cắt lát mỏng, nước mắm chế với đường thốt nốt. Lại thêm một đĩa thịt khô nướng mà tôi không đoán được thịt thú gì.

-Anh Hai… anh chị dùng chút cho vui…- Út Thiệt cười bẽn lẽn… nếu ba em không bệnh… thì mấy anh chị đâu có đến nhà…

Mời rồi, cô trở lui và bê ra một hũ sành rượu đế cùng mấy chiếc ly nhỏ. Cô cười cười, không biết nói gì, chỉ làm cử chỉ ra chiều khẩn khoản lắm. Anh nhân viên y tế xã sà xuống ngồi, tếu táo:

-Cô Út đã có lòng thì mấy anh em chúng tôi đây có dạ. Nhậu bậy chút đi anh Hai, … cô Thư ơi,... cho cô Út vui lòng.

Út Thiệt lui vào bên trong chăm sóc ba và mời Thư ra ăn. Không khách sáo, tôi và anh nhân viên y tế xã cụng ly, riêng Thư chỉ nhấm chút chút, đủ ướt môi, để ly xuống, lặng lẽ xé khô cá nướng. Tôi biết, Thư tỏ ra không vui, nếu không nói là khó chịu, khi thấy tôi quan tâm, hỏi han Út Thiệt này nọ. Điều đó không có gì lạ, khi mà mới quen biết nhau vài ba tháng, Thư đã tỏ ra quý mến tôi đặc biệt, nếu không nhầm thì cô có tình cảm khác thường với tôi.

Vài lần cụng ly, tôi đã thấy mình bồng bềnh như lướt sóng. Có lẽ mệt và đói nên nhanh say. Tôi không nhớ là mình đã nói cười thế nào, và Thư đã tỏ vẻ khó chịu ra sao… Cũng không nhớ rõ mình đã thập thõm bước thấp bước cao, bước xiêu bước vẹo từ nhà Út Thiệt trở về Trạm y tế xã như thế nào nữa…

Khi tôi mở mắt nhìn đồng hồ thì đã hơn 3 giờ sáng. Định thần, tôi biết là mình đang nằm trong phòng của người Trạm trưởng. Vậy là tối qua tôi đã quá say, đã thổ hết những gì mình ăn ở nhà Út Thiệt. Nào có nhiều nhặn chi cho cam, chỉ dăm ly nhỏ, nhưng chắc do thể trạng quá mệt mỏi, sức chịu đựng kém đi, lại thêm gió núi, mà sinh vậy. Khát khô cổ, đầu thì nặng trình trịch, tôi cố gắng ngồi dậy, lần ra bàn tim nước uống. Phía nhà bệnh nhân vẫn có tiếng người rì rầm. Không thấy người trạm trưởng và cũng không thấy bóng dáng Thư đâu. Họ đã đi nghỉ hay chăm sóc bệnh nhân đâu đó. Chết thật, tôi thoáng ân hận, tự trách mình, chỉ vì chút hung phấn mà để say, bỏ mất công việc chính là mình xuống đây để giúp họ khám chữa bệnh... Rồi ngày mai, thế nào Thư cũng lại dỗi bõ, khó chịu. Nghĩ thế, tôi dịnh vùng dậy đi sang nhà bên, nhưng cảm thấy quá sức nên đành nằm lại, đầu óc vẫn ong ong. Thôi thây kệ. Và rồi, tôi lại thiếp đi nặng nề…

Hắt hơi một cái rõ mạnh, tôi choàng tỉnh, trước mặt tôi là Thư. Cô ngồi ghé bên mép giường tôi, tay bụm miệng cười, còn tay kia loe ngoe cọng cỏ. Tôi bật dậy và điếng người nhăn mặt vì đầu còn đau nhức. Thư nghiêm nét mặt, lên giọng, thù dai:

-Chà… Đêm qua anh Tuấn ga lăng hết cỡ ha…Làm cho sơn nữ chết mê muốn bỏ núi theo ra…

-Ờ… may mà sơn nữ không theo ra, chứ theo ra thì… có ối người lại khó chịu… rồi khua gậy gộc lùa sơn nữ trở lại núi, nhỉ ?

-Hứ…-Thư vênh mặt- Cũng không đến mức mức quý như đồ gia bảo đâu nha.- Thư ngúng nguẩy bỏ ra ngoài.

Tôi nhìn theo, cười nhẹ với chút tự mãn.

Lại một ngày vất vả bắt đầu. Thư mau quên, líu ríu theo tôi thăm khám, chữa trị cho bệnh nhân. Tầm đứng bóng, vãn việc, tôi bảo Thư là sẽ vào núi một mình, xem bệnh tình và khám lại cho ba của Út Thiệt. Nghe vậy, Thư nổi cáu, nói dỗi, tôi đành phải cho cô đi cùng. Thực lòng, tôi không muốn Thư vất vả, và tôi cũng đâu có tình ý gì với cô bé sơn nữ cơ chứ. Song Thư cứ khăng khăng đòi theo nên tôi để cô theo, biết đâu giúp được gì chăng. Hôm qua, là đêm tối nên chỉ nhớ mang mang đường, thành ra hai anh em tôi loanh quanh tìm kiếm, vừa đi vừa hỏi đường rồi cũng tìm ra căn nhà của cha con Út Thiệt. Giữa ban ngày ban mặt, trông căn nhà của họ nhỏ bé và tuềnh toàng hơn. Khi tôi và Thư vào nhà thì thấy Út Thiệt đang cho ba cô ăn nước cháo. Với sức lực tiềm tàng, lại được tiêm thuốc chữa trị kịp thời, qua cơn nguy kịch, sức khỏe của ba Út Thiệt hồi phục nhanh. Đêm qua con sốt cao mê man, thế mà hôm sau, ông đã nửa nằm nửa ngồi trên giường để cô con gái bón cho từng thìa nước cháo. Ông khẽ gật đầu với chúng tôi đầy vẻ biết ơn, cái nhìn chậm chạp, thiện cảm. Ông lẩm bẩm trong miệng như nói điều gì đó với con gái, tôi phóng đoán là sai Út Thiệt lo việc tiếp khách, liền vội gạt đi:

-Cô Út cứ cho bác Hai ăn cháo đi. Cần phải có chất gạo vào người thì mới có sức mà chống bệnh được. Bác Hai còn mệt, cô Út không phải câu nệ gì, cứ xem chúng tôi như người nhà…

-Ba… ba em tên gọi Tư Thà – Út Thiệt nhỏ nhẹ.

Tiêm thuốc xong cho ông, tôi để lại chút thuốc uống cho Út Thiệt và dặn:

-Bác Tư à, tuy đã qua cơn nguy kịch song bệnh của bác rất dễ biến chứng. Bác Tư nhớ nghe lời cô Út, uống hết số thuốc tụi cháu để lại, với lại cũng phải kiêng chút, nhất là rượu, bệnh sẽ khỏi thôi.

Tôi gọi Út Thiệt ra ngoài để căn dặn và chỉ cho cô phân biệt từng loại thuốc, liều uống ra sao. Cô nghe chăm chú nhưng căng thẳng như cô bé con lần đầu đi học được thầy cô giáo dạy từng chữ cái. Lúc này, tôi mới có dịp ngắm kỹ cô. Dáng người nhỏ nhắn, thon gọn, săn chắc, nước da ngăm đen nhưng mịn màng, gương mặt xinh xắn, bầu bĩnh và có vẻ u hoài, thế nhưng cái trán hơi dô và cái cằm chẻ khiến gương mặt dịu hiền ấy pha chút bưởng bỉnh. Út Thiệt có dáng vẻ của một người mang trong mình dòng máu Khmer thường thấy ở vùng này. Trong tôi dâng lên một cảm xúc là lạ, trìu mến với người con gái trước đó hơn một ngày tôi cỏn chưa biết đến. Dường như Thư đọc được ý nghĩ ấy của tôi, cô chen vao:

-Nè… cô Út nhớ lời anh Tuấn dặn đó nha… Chỉ mấy bữa nữa là cha cô khỏi bệnh, làm việc lại được rồi… Thôi, ta về. Anh Tuấn, ở ngoải còn nhiều bệnh nhân đang đợi anh em mình.

Thư cố tình nhấn mạnh câu cuối “anh em mình” như là để nói riêng với Út Thiệt, ngầm xác định quyền sở hữu của cô đối với tôi. Nhìn tôi rồi nhìn Thư, Út Thiệt là người nhạy cảm, bởi thế cô mới đủ bình tĩnh trả lời nhẹ nhàng song không kém phần thua thiệt:

-Dạ… ba con em thật biết ơn anh… chị… đã làm phước vô đây cứu chữa… Ơn phước này… cha con em không biết lấy gì báo đáp… Ba con em đâu dám quên. Hễ có dịp ra thị trấn, em sẽ tìm vô nhà để tạ ơn anh… chị.

-Hứ…-Thư cố kìm nén-  Ơn phước chi đâu… Cô Út khỏi phải tìm vô cảm ơn chúng tôi làm gì… Thế này, cô Út cũng đã trọn tình trọn nghĩa với anh em tôi, ha… Ta đi thôi anh Tuấn.

Tôi khó chịu vì thái độ thái quá của Thư nhưng cũng không có cớ gì để nấn ná thêm, đành chào cha con Út Thiệt. Rời nhà Út Thiệt, tôi cố tình đi thật chậm, còn Thư thì cứ líu ríu bên tôi, lúc trước lúc sau, khi bên cạnh. Mấy lần tôi định ngoảnh lại nhưng ngại Thư nên thôi. Đến khúc ngoặt, tôi ngoái nhanh nhìn lại căn nhà Út Thiệt, bắt gặp cô đứng nép bên cửa nhà nhìn theo, và khi bắt gặp ánh nhìn của tôi, cô liền thụt hẳn người vào trong mất hút. Từ bấy, đi mấy bước tôi lại ngoảnh nhìn về phía đó nhưng Út Thiệt không hề xuất hiện ở khung của nữa. Tôi thầm đoán, biết đâu cô vẫn núp đâu đó trong nhà ngó theo tôi. Còn Thư, cô đã hết bực dọc, vô tư cất lời ca một câu vọng cổ về tinh yêu đôi lứa. Tôi nghe mà cảm thấy tự ái, thoáng khó chịu…

         

          3.

          Sau đó, những ngày còn lại ở Trạm y tế xã, công việc bận rộn, và Thư cũng không cho tôi cơ hội nào trở lại căn nhà nhỏ trong hẻm núi của cha con Út Thiệt. Song hễ công việc rỗi rãi, là tôi nghĩ đến cô, kể cả lúc tôi và Thư ngồi tán chuyện gẫu với nhau. Hôm rời xã về lại Trung tâm Y tế huyện, cảm cảm giác chống chếnh thế nào ấy. Lúc chờ xe đò, tự nhiên tôi mong ngóng và ước chi Út Thiệt ra bến xe tiễn. Khi xe chạy, tôi ngó mông lung lên những hõm núi cao như thể do tìm cái chấm nhỏ nào là căn nhà của cha con cô. Thực ram tôi hoài công, bởi làm sao cô có thể xuất hiện vào lúc này được. Nhủ lòng, hiểu từ đây, dải núi mang hình một con rắn hơn là con rồng, có cái tên mỹ miều Ngọc Long kia, sẽ có ý nghĩa với mình như thế nào...

          Cho đến một hôm, từ phòng điều trị trở về nơi ở trong dãy nhà tập thể của bệnh viện, tôi sững người bởi cô gái trẻ ngồi đợi trước căn phòng khóa im ỉm của tôi là Út Thiệt. Cô bày trước cửa căn phòng của tôi mấy chiếc giỏ bàng to tướng đầy ắp hàng hóa, đồ dùng.

          -Út Thiệt ?-... em ra hồi nào vậy? Đợi lâu chưa ? ...

          -Ôi anh Hai... Em ra từ sớm,...- Cô hồ hởi-Đi chợ chút rồi dô đây luôn. Biết là anh Hai bận công việc... Là em đi chợ, phải mua nhiều đồ lắm... bởi lâu lâu mới có dịp ra thị trấn... Rồi cô lôi từ trong giỏ bàng ra một bọc tướng- Ba nói mang quà biếu anh Hai... Đố anh Hai, quà chi đây?... Mà thôi, anh Hai sao biết được... Thị nhím đó... anh Hai biết con nhím là con chi hông? Ba em bảo, thịt nhím ngon bổ số dách trong những thịt thú rừng... Để anh Hai và mấy anh chị trong cơ quan nhậu chơi... Ba em vữa bẫy được con nhím bự, nặng những mười bảy ký. Ui chao, con này vào mùa rãy năm ngoái phá rãy khoai mì của nhà em và bà com xóm núi ghê gớm.  Săn hoài không được. Nay mùa khô, hiếm thức ăn nên mới bẫy được đó, anh Hai... Con nhím vào mùa khô càng quý. Dạ dày của nó chữa toàn cây ngải rừng, vị thuốc nam đó anh Hai. Cứ để nguyên cả dạ dày, đem phơi rồi sấy khô, ngâm rượu thành thuốc chữa đau bao tử người ta, tuyệt lắm đó, anh Hai à....

          Út Thiệt nói liền một hồi không để tôi chen được câu nào.

          Ui chao – cô cười – em cứ huyên thuyên về thuốc mà quên mất anh Hai là bác sĩ... Thiệt tình, con gái như em... quê quá à...

          Út Thiệt đang hồn nhiên vô tư, chợt tư lự... Tôi mời mãi cô mới chịu vào phòng.

          - Út này, nghe em nói anh nghĩ đến món thịt nhím ngon tuyệt, thèm đến chảy nước miếng... Nhưng mà, mấy đứa tụi anh đây có ai biết nấu món thịt nhím ra sao đâu... hay là, trưa nay, Út ở đây ăn cơm với tụi anh, nhân tiện trổ tài nấu món thịt nhím chiêu đãi mọi người... được không?

          -Hứ, hổng được đâu... em phải về, kẻo ba mong... Với lại, em chưa xin phép ba... Thế chị Năm Thư đâu, không nấu cho tụi anh?...

          - À...-Tôi cười- Bữa nay chị Thư đi công tác trên tỉnh, mốt mới về... Với lại, có ở đây thì chị Thư đâu có ăn tập thể như đám đàn ông độc thân tụi anh, cô ấy ăn cơm ở nhà với ba má chớ... Nếu Út không nấu giùm... thì anh đành ăn thịt nhím sống thôi...- Tôi vờ nói dỗi,

          -Vậy à...-Út THiệt nhẹ nhõm... vậy mà em cứ nghĩ ... chỉ với anh Hai là... là...

          -Là đồng nghiệp thôi-Tôi cướp lời và cười phá lên, làm Út Thiệt cười theo...- Anh đang muốn nhận Thư làm em gái nuôi đây nhưng mà cô ấy còn chưa chịu, nói là bao giờ anh Hai lấy vợ rồi thì cô ấy mới chịu nhận là em gái... Hay là... Út Thiệt xem có đám nào làm mai cho anh Hai đi ?...

          -Chịu thôi...-Út Thiệt giãy nảy- Con gái miệt núi này xấu xí, thô lắm, anh Hai à... Anh Hai vừa giỏi giang lại vừa... chẳng có ai xứng cả... Có chăng, chỉ có chị Năm Thư... cũng giỏi giang..,

          -Thôi, chuyện ấy bàn sau – Tôi vội lảng tránh- Còn bây giờ, Út Thiệt có chịu ở lại trổ tài nấu món thịt nhím cho tui anh nhậu chơi không?

          -Thôi được... Ba có mắng em về trễ,,, em đổ thừa tội cho anh Hai đó nghen.

          Út Thiệt bắt tay làm bếp, tôi gọi mấy anh em bạn bè Trưa ấy, chúng tôi nhậu một trận thỏa mái với hai món là thịt nhím xào lăn và thịt nhìm nấu ca-ri ăn với bún. Mấy đứa bạn, cứ lén nhìn trộm Út Thiệt, nhấm nháy tôi, bóng gió:

           -Cha Tuấn này giỏi thiệt... Đi cơ sở cớ vài bữa, mà đã có người thương từ trỏng ra chơi, chăm sóc này nọ... lại còn quà độc nữa...

          -Này nhậu đi mấy cha,... đừng có nói bừa đó nghe...

          Út Thiệt nghe chuyện chúng tôi, ngường ngượng, không cãi, chỉ mủm mỉm cười duyên. Tôi thấy thinh thích, vui nên lại quá chén, đầu óc lơ mơ, chập chờn đâu đó bóng Út Thiệt lui cui dọn dẹp bếp núc và giặt giũ gì đó sau nhà... Không có ca trực, tôi ngủ miết cho đến chạng vạng tối. Lúc tỉnh ngủ, nhà vắng tanh, mọi thứ gọn gàng ngăn nắp hơn thường ngày. Cửa khép hờ. Tôi nhìn quanh quất, đập vào tôi là mảnh giấy để trên bàn làm việc. Chữ viết to cộ, là của Út Thiệt: “Em phải về, kẻo ba mong. Anh Hai có đói bụng thì vẫn còn cơm  Em kho sẵn một tộ cá. Nhớ cất quần áo em giặt phơi sau nhà, kẻo mưa ướt. Nếu có dịp xuống xã thì vô núi thăm ba con em. Út Thiệt”. Cô không ký mà ghi rõ tên mình. Tôi nhẩm đọc mảnh giấy đến mấy lần rồi gấp lại cất vào đáy va-li. Lòng thấy buâng khuâng lạ. Ôi, cô Tấm của tôi...

          Vài hôm sau, khi gặp Thư ở phòng khám, cô nhìn tôi không mấy thiện cảm, giọng tưng tửng:

          -Coi bộ... anh Tuấn sướng ha... Có sơn nữ từ trong động ra tận nơi thăm ha... Rõ thấy ghét...

          Tôi lặng thinh, trong bụng tưng tức, định cự lại, song kịp nén. Mình tức là vô lý. Người ta vậy, cũng chỉ vì quý mến mình thôi...

 

          4.

          Một dịp may hiếm có đến với tôi. Thư được cử đi học lớp trung cấp y tế ở Cần Thơ. Còn tôi, thì đi cơ sở để rà soát lại mạng lưới y tế xã trong toàn huyện và phổ biến kiên thức vệ sinh phòng bệnh cho người dân. Lẽ dĩ nhiên, địa phương của nhà Út Thiệt là một trong số điểm tôi chọn đăng ký. Ngay ngày nghỉ đầu tiên, tôi vào núi tìm đến căn nhà của cha con cô. Quang cảnh hiu quạnh, nhìn quanh quất chẳng thấy ai. Tôi tần ngần, rồi khẽ đảy cửa, nhưng cửa chỉ khép hờ. Vậy là có người ở nhà. Tôi cất tiếng gọi. Có tiếng người thưa đâu đó phía sau nhà xa xa. Và chỉ lát sau, Út Thiệt xuất hiện, cô thở hổn hển, áo đẫm mồ hôi... Cô reo lên mừng rỡ:

          -Ối trời, anh Hai... Anh vô khi nào?... Em làm cỏ khoai mì ở rãy phía sau nhà... nghe tiếng gọi giọng Bắc... em đoán là anh Hai... nhưng mà hồi hộp, không dám tin là anh Hai vô đây thăm... Thiệt mừng... đúng anh Hai thiệt rồi...

          -Thì tôi đang đứng đây... Út Thiệt tin chưa? – Tôi cười trêu, nếu còn chưa tin thì cứ rờ thử coi... cho nó chắc...

          -Thôi mà, anh Hai... Cô le lưỡi – em hổng dám đâu... lỡ chị Năm mà nhìn thấy thì chỉ thù em đến chết... Mà chị Năm đâu anh Hai?

          -Hừ... tôi chỉ là của riêng tôi thôi... chẳng có chị Năm nào hết ...-Tôi tỉnh bơ và chuyển giọng như hát – Ta muốn như Từ Thức năm xưa, vô núi tìm sơn tiên trong cõi mộng Thiên Thai...

          -Ha... bộ anh Hai học ca vọng cổ mùi mẫn quá ta...

          Tôi không ngờ Út Thiệt nhanh trí và hài hước vậy, bèn cười to. Hai chúng tôi vô nhà. Út Thiệt nhanh nhẹn thổi lửa đun nước pha trà. Cô bảo:

          -Ba em vắng nhà... đợt này ba cùng mấy người chòm xóm vô núi làm than chừng nửa tháng mới về. Tranh thủ đốt đợt than cưối cùng của mùa khô, rồi nghỉ chờ sa mưa, khi đồng tràm ngập nước lại đến mùa làm củi tràm... Anh Hai biết không, làm than củi trên nũi còn đỡ, chứ làm than tràm trong đồng cực lắm. Phải ngụp sâu dưới nước nhiều lần, lay cho gốc tràm lỏng rễ, nhổ bật gốc đưa lên xuồng, chở vô bờ kinh phơi khô, rồi cưa thành khúc một, làm hầm đốt. Cực lắm đấy... nhưng mà vui, anh Hai à...

 

-Vậy Út Thiệt ở nhà một mình không thấy sợ… thấy buồn à?

         - Em quen rồi, anh Hai – Cô cười- Với lại, em làm rẫy tối ngày… đêm về mệt muốn chết, ngủ như heo ấy, có đâu mà buồn… Em lớn lên, nhà có hai cha con, ba em cũng phải làm đây đó, ở nhà thì lấy gì mà ăn, xa nhà liền à… lâu thành quen, anh Hai… Với lại, ngày nhỏ, em hay theo ba đi làm ăn xa, hoàn cảnh nào cũng chịu được… Thường thì, những chuyến ngắn ngày, em theo phụ giúp ba, còn chuyến nào lâu ngày, vất vả thì em ở nhà, tranh thủ coi rãy, chăm đám khoai mì… Bữa nay, anh Hai vô chơi nhà, anh Hai là khách quý đặc biệt đó… Anh Hai là ân nhân của ba con em… nên anh Hai phải ở lại ăn cơm đó.

          - Xin sẵn lòng… nhưng anh chỉ dám nhận là khách quý thôi… chứ không dám nhận là ân nhân đâu… Út có đồng ý vậy, anh mới ở lại ăn cơm. Chịu không?- Tôi đùa- với lại, nhà có gì ăn nấy, không bày vẽ chợ búa gì thêm nghe…

          Út Thiệt dạ đễ thương lạ, rồi cô bắt tay làm cơm. Tôi lăng xăng phụ giúp, thấy vui như hồi còn là sinh viên, ngày nghỉ về nhà giúp mẹ và chị làm cơm. Bữa cơm giản dị, toàn những thứ tự kiếm, tự tạo như măng tươi luộc chấm mắm, khô cá chiên, canh chua bạc hà và thịt con mang rừng khô nướng. Khi Út Thiệt bê ra hũ rượu đế, tôi vội gạt đi vì ớn người nghĩ đến trận say rượu thổ ta mật xanh mật vàng lần đầu đến nhà cô. Thế nhưng, Út Thiệt không chịu, cô nói sẽ thay ba tiếp rượu tôi để tỏ lòng mến khách theo phong tục bà con ở vùng này. Thế là hai anh em cụng ly. Cô chỉ nhấp môi gọi là. Tôi uống nhẹ nhàng từ tốn, vừa ăn vừa kể chuyện, huyên thuyên đủ thứ, nhảy cóc từ chuyện này sang chuyện khác. Út Thiệt chỉ nghe, cười hiền đáp lễ, thỉnh thoáng mới đế vào, hỏi thêm gợi chuyện. nhưng tôi đang hưng phấn nên cảm giác là cô thích thú với những điều tôi nói. Gương mặt cô rạng lên, sinh động, ánh nhìn hiền dịu, chan chứa một nỗi niềm. Còn tôi, cứ như một triết gia, nhà thông thái đi khai hóa…

          Buổi trưa, Út Thiệt giăng chiêc võng dù bộ đội để tôi nằm nghỉ cho mát. Nằm trên võng đung đưa, đầu óc tôi lơ mơ vì men, lặng ngắm dáng hình uyển chuyển linh hoạt của Út Thiệt, tôi thấy mình như một vị hoàng tử trong các câu chuyện cổ tích xưa, đi săn, bị lạc rừng, được sơn nữ đưa về nhà chăm sóc, nâng giấc. bởi thế, tôi cũng náy sinh sự liên tưởng đến một ngày nào đó, vị hoàng tử trở về chốn hoàng cung lộng lẫy của mình, đột ngột tuyên bố với vua cha và quần thần được đón sơn nữ về làm vợ… Tôi như trôi đi trong giấc mộng, tỉnh dậy, định thần, nghe tiếng nước róc rách đâu đây. Tôi nhẹ nhàng đi ra sau nhà, linh cảm như mách bảo, rằng Út Thiệt đang tắm… Tự nhiên, tôi chùn chân,tim đập mạnh và mặt bừng nóng. Người như nặng trịch, lún sâu xuống đất, nhấc không nổi chân, cứ dùng dằng trong trạng thái vừa muốn trở lui, vừa muốn dấn thêm… Út Thiệt ngồi tắm xây lung lại, cả mảng lưng trần trắng ngà, mịn màng và bóng nước, tóc cuốn cao búi lại trên đỉnh đầu càng làm tôn thêm vẻ thanh mảnh cho cần cổ, dôi bàn tay cô thoăn thoắt vừa kỳ cọ vừa không ngừng múc nước từ chiếc khạp đất nung dội lên người. Tôi đắm mình trong xúc cảm mê hoặc, hơi thở gấp gáp, và cảm thấy sao mình thở to thế… Hình như, Út Thiệt cũng cảm giác có gì không bình thường, cô ngừng tay, như bất động, nghe ngóng trong giây lát… rồi cô khẽ lắc đầu vẻ bắt cần, tiếp tục việc tắm táp của mình Tôi chới với mất đà, người chúi về phía trước, tì mạnh người vào bức vách thưng lá gây tiếng động… Út Thiệt hấp tấp choàng tấm khan rằn lên mình, kêu nhỏ:

          -Anh…Anh Hai…ấy đừng...

          -Tôi… tôi… tỉnh rượu… khát nước quá…

          -Bình trà còn đó… anh Hai… Em vô ngay đây…

          Tôi trở lui, với bình trà, rót ra ly, uống lấy uống để. Lát sau, Út Thiệt trở vào nhà trong bộ đồ bà ba đen, xúng xính đi lại, cô liếc nhanh tôi và lờ chuyện ban nãy…

          -Ôi,,, anh Hai ngủ ngon quá… cứ như cả tuần rồi không được ngủ…lại còn mơ, nói lẩm bẩm cái gì đó… và cười nữa, heng…- Út Thiệt che miệng cười khẽ, khiến tôi tự nhiên trở lại…

          -Thế à…Tôi vờ gãi đầu – Út Thiệt à, tôi đoảng quá, lần nào vô nhà Út, tôi cũng quá chén, say sỉn… Xấu hổ quá đi thôi… Út bỏ qua cho anh nghe?...

          -Anh Hai có vầy… em mới vui… Bởi anh Hai thiệt lòng, không làm khách… Nếu anh Hai khác,… em buồn…

          - Này… thế ba vắng nhà lâu vậy… để Út một mình… ba không thấy lo sao? Tôi hỏi làng sang chuyện khác.

 - Có chớ… -Út Thiệt cười- nhưng mà lo vừa thôi à… bởi ba biết ở nhà, em cớ có bà con chòm xóm đây… Anh Hai, có biết hông, mọi người sống ở hém núi này thương nhau lắm, như người một nhà vậy…Đó, bữa nọ, ba của em bị bệnh nặng, em nói sao ba cũng không chịu vô bệnh viện… thế là dì Ba, nhà cách đây chút, đến thẳng Trạm xá xã, kêu các anh chị vô đây cứu chữa … Nếu không có dì Ba... em hổng biết sao nữa...

-Được, việc ăn ở có thể không đáng lo …cứ cho là thế đi, nhưng… ổng không lo cánh đàn ông… đại loại như anh đây chẳng hạn… tìm đến nhà bắt cóc cô con gái rượu của ổng à? –Tôi cười trêu

Út Thiệt cười đỏ mặt, lườm tôi và nguýt rõ dài, kêu lên:

-Em hổng thích anh Hai đùa vậy đâu… Mà có ai vô bắt cóc con gái ổng đi thì càng tốt chứ bộ… Ổng đang phát rồ lên vì chẳng có ma nào ngó ngàng gì đến cô con gái rượu của ổng đó. Sống mãi ở hẻm núi này… anh Hai ơi, có ma nó cũng chẳng buồn vô…

-Vậy anh hơn cả ma xó rồi… Với lại, anh đâu có đùa… nói thiệt đó…anh đang nuôi ý đồ bắt cóc cô con gái rượu của ông đi đây…

Út Thiệt củng nhẹ lên trán tôi, vùng vằng ra sân trước bảo:

-Em đi làm cỏ khoai mì đây… Anh Hai có đi hổng, hay ở nhà?

Chiều ấy, tôi và Út Thiệt cùng xới cỏ rẫy khoai mì phía sau nhà. Chiều muộn, không thấy tôi nhắc gì chuyện về hay ở, và dương như cảm thấy tôi dùng dằng, Út Thiệt nhắc chủ động nhắc khéo:

-Thôi, để em làm nốt… anh Hai về đi kẻo muộn…Mai anh Hai còn phải làm việc nữa mà… vài bữa nữa, nếu rảnh… và không chê nhà em nghèo khó… thì anh Hai lại vô thăm… À, cũng sắp đến tết Cholchnamthmay của người Khmer rồi đó, anh Hai vô đây, Út sẽ đưa anh Hai đi xem hội đua bò, coi hát Yuke,… vui và hay lắm đó, anh Hai à… Em có mấy đứa bạn ở trong Sóc Khmer gần đây… Nếu anh Hai ưng… cô cười trêu… em sẽ làm mai cho anh Hai một đứa thật xinh…

-Ừ… vậy nhé… nhưng Út phải hứa đưa anh đi chơi cùng… thì anh mới chịu về… mấy hôm nữa, rảnh anh vô… Nếu không, anh sẽ ăn vạ, lăn ra rấy đây này…

-Út hứa… nhưng anh Hai cũng không được sai hẹn… với lại, Út chỉ muốn anh Hai vô chơi một mình thôi à…

-Xin hứa…à, còn chuyện làm mai… thì chưa vội… để xem mấy cô bạn của Út… có xinh hơn… cô con gái rượu của ổng không đã?...

Tôi cười tinh ranh, ra về. Út Thiệt nhìn tôi, cô nũng nịu nửa trẻ con nửa thiếu nữ…

5. Đúng hẹn, tôi đến nhà Út Thiệt từ mờ sớm Cô đợi tôi cớ vẻ bồn chồn vì lo tôi sai hẹn. Men theo chân núi, chúng tôi đi một thôi đường, rồi bang qua mọt cánh đồng không rộng lắm. Đang mùa khô, mặt ruongj nứt nẻ trơ gốc rạ nên chúng tôi cứ cắt mặt ruộng mà đi. Thỉnh thoảng lại bắt gặp một khoảnh ruộng, mặt đất bị đốt khô nám đen và lổn nhổn những tro than củi. Lúc đầu do không biết nên tôi vô tình giẫm lên, nhưng sau để ý thấy Út Thiệt thường đi tránh những chỗ như vậy, tôi hồ nghi có gì đó khác thường nên hỏi, thì cô bảo:

          -Đó là chỗ bà con sóc Khmer thiêu người chết. Anh Hai để ý kỹ, xem có còn sót những mẩu xương nhỏ không? Có khi, vẫn còn xương chưa cháy hết đấy…

          - Vậy à…-tôi lè lưỡi- Thế mà Út chẳng nói cho anh biết để anh tránh. Giẫm lên thế… ngộ nhỡ làm sao?...

          -Anh Hai chớ lo… không việc chi đâu…Là em thdeo thói quen cứ đi tránh vậy thôi… Vơi lại, người Khmer theo phong tục hỏa tang… như vầy là lành lắm đó… người chết siêu thoát mà… không làm con ma đi hành người ta đâu…- Út Thiệt chỉ tay vào nơi xanh um những vòm cây thốt nốt, thấp thoáng bên dưới những mái nhà- Đó, mình vô đó… Bữa nọ, em gặp Chau Khonm một người quen, ở trên rẫy, em đã hẹn bữa nay đón an hem mình đi chơi tết. Năm nay tết nhuận, có đến bốn ngày lận… Bữa nay là ngày Vonbat đầu tiên, bớt lễ rươc mà vui chơi thôi… An hem mình vô tha hồ mà vui…

          -Ôi, không ngờ Út thông thạo ghê.

          -Thì… ba con em sống ở đây lâu rồi, Năm nào em cũng vô chơi tết nên biết thôi… Với lại, Chau Khon cậu ấy chu đáo lắm, hay giảng giải cho em những gì em chưa biết…

          -Này, thế cái cô tên Chau Khon, bạn em ấy…cô ấy đã lấy chồng chưa? Có đẹp… như Út không? Hay là…Út làm mai cho anh đi?...

          -Ô,… Chau Khon là tên con trai… -Út Thiệt cười thành tiếng- Nếu anh Hai muốn làm rể Khmer thiệt… thì để em nhớ Chau Khon, tìm xem trong sóc có cô nào xinh đẹp thì làm mai giùm anh Hai?...

          -Vậy à…-Tôi xao động-Hay là…Chau Khon là… người thương của Út ?

          - Ô…hổng phải… Anh Hai nhầm rồi. Chau Khon có người thương rồi… Neang Hên đó. Hai người thương nhau lâu rồi… nhưng chưa làm đám cưới được… Là vì, nhà Neang Hên giàu lắm… nhưng nhà Chau Khon thì nghèo, má của Chau Khon bệnh hoài, mấy đứa em còn nhỏ, nên Chau Khon phải đi làm thuê, lúc rành thì vô núi kiếm củi, đốt than. Ba má Neang Hên chê, không cho cưới… Nhừng hai người vẫn thương nhau lắm… Chau Khon đẹp trai và tốt bụng lắm đó. Nghe nói, Neang Hên hăm ba má cổ là nếu không cho lấy Chau Khon thì sẽ không lấy ai nữa, thà ở giá còn hơn…

          -Rồi đấy, họ sẽ lấy được nhau thôi… Người ta có câu “Đất không chịu trời thì trời phải chịu đất thôi”…Tôi hùn vào-Thế nào ba má Neang Hên cũng phải chịu cho họ lấy nhau tôi mà…

          -Em cũng nghĩ vậy... đã có lần Chau Khon nói với em, nếu ba má Neang Hên không đồng ý cho hai người cưới nhau thì họ sẽ bỏ trốn sang miệt Sóc Trăng, ở đó Chau Khon có nhà bà con, họ hứa sẽ giúp hai người sinh sống làm ăn... Nhưng em can, nói hai người không được bỏ sóc... Như vầy, ba má Neang Hên sẽ khó ăn nói với ba con trong sóc, còn Chau Khon thì má hay bệnh và các em còn nhỏ dại... Chau Khon nghe lời, thôi ý định bở sóc mà đi rồi...

          Út Thiệt lặng thinh sau câu chuyện tình dang dở của người bạn Khmer, cô cắm cúi đi nhanh đến nỗi chốc lát đã bỏ tôi một quãng xa, trong khi tôi như đánh vật với mặt ruông nút nẻ mấp mô, Chợt nhận ra, cô dừng lại đợi. Khi tới gần, tôi thở mạnh song định buông lời trêu thì nhận thấy mặt cô thàng thốt khác thường, mắt ngấn nước. Tôi im bặt. Rồi nói lảng nhằm phá vỡ sự im lặng:

          -Sắp tới rồi nhỉ?... Anh nghe thấy tiếng chiêng trống từ phum sóc vọng ra... lòng dạ cũng nôn nao...

          Chau Khon không có nhà. Má Chau Khon nói là cậu ấy chờ mãi không thấy chúng tôi đến, vì hội đua bò sắp bắt đầu, mà Chau Khon có tham gia đua nên phải ra nơi tập trung trước, dặn nhà là hễ chúng tôi tới thì đã có em gái là Neang Mai đưa đi...

          Thế là tôi và Út Thiệt có mặt ở hội đua bò. Người đông nghịt, chen chúc nhau, có cảm giác là cả phum sóc tụ về đây. Tôi như bị thu hút bởi trang phục rực rỡ ngày hội của người Khmer, ngơ ngẩn ngó nhìn, khiến Út Thiệt cứ phải nắm tay tôi lôi đi xềnh xệch như chị gái đưa cậu em đi chơi hội lo bị lạc nhau.

          Trường đua là một mảnh ruộng rộng chừng già nửa hec-ta , hình chữ nhật, được cày bữa vỡ và giữ mức nước xăm xắp. Các cặp bò đua được đóng bừa đứng dàn hàng ngang ở mép đường đua, nơi được chọn làm điểm xuất phát. Các tay đua ăn vận giống hệt nhau, đóng săm-pốt, một kiểu khố con trai, đầu chit khăn gọn gàng, tay cầm chà-lun, là một cây gậy có đầu bịt sắt nhọn và đầu kia uốn móc câu như đầu ba-toong. Út Thiệt kiễng chân nhìn khắp lượt, rồi chỉ cho tôi biết Chau Khon. Đó là một chàng trai cao lớn, săn chắc, da đen bóng, tóc xoăn, gương mặt rất đàn ông, ưa nhìn. Út Thiệt dẫn tôi men dần đến chỗ các tay đua đứng, cô tìm cách ra hiệu và rồi Chau Khon cũng nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Chàng ta khẽ cười gật gật đầu bày tỏ niềm vui. Khi trống lệnh xuất phát vang lên, các cập bò đua thứ tự phi lướt tạo thành một vòng xoay gần khép kín trên mặt ruộng. Tôi nhìn loang loáng, chẳng còn nhận biết đâu là Chau Khon nữa. Mười vòng đầu đua thử, vậy mà đã có đến mấy cặp bò bỏ cuộc. Bây giờ mới là lúc các cặp bò và tay đua trổ tài cao thấp. bùn đất bắn tung tóe, những tiếng thúc bò, tiếng chiêng trống và tiếng hò hét cổ vũ của người xem rộn lên. Kia rồi, cặp bò của Chau Khon chạy thứ hai, cậu chàng đứng vững trên chạc bừa, mặt đanh lại căng thẳng. Chốc chốc mọi người lại rồ lên, khi có một tay đua nào đó bị vằng khỏi chạc bừa xuống ruộng. Và cuối cùng, chỉ còn lại hai cặp bò đua đang phi nhanh trên đường đua, trong đó có Chau Khon, nhưng cặp bò của chàng ta tụt phía sau chút. Vi bò chạy nhanh và cũng phần nào thấm mệt, nên cậu ta chốc chốc lại chúi người tưởng ngã, nhưng rồi lại trụ vững trên chạc bừa. Tôi thầm nghĩ, cổ vũ “Nào cố lên. Cố lên nào. Như trong tình yêu của cậu ấy. Thế nào cũng chiến thắng”. Tôi hiểu, thời khắc này, một chiến thắng để trở thành quán quân của cuộc đua có thể sẽ thay đổi được quyết định của ba má Neang Hên, họ sẽ chấp nhận chàng rể tương lai… Nhưng kia, Chau Khon lại xuýt ngã và một lần nữa cậu ta lại đứng vững… Nếu chiến thắng, cậu ta có quyền hãnh diện và trong mắt của bà con Phum sóc, và hình ảnh cậu ta sẽ khác đi, được tôn trọng, nể vì hơn. Quan trọng nữa, ấy là Neang Hên sẽ tự hào về sự lựa chọn đúng người thương mà kiên quyết không thay lòng đổi dạ, và rất có thể, ba má cô đồng ý cho hai người cưới nhau… Và bỗng, tay đua phía trước giật mình vì cặp bò chồm lên, đột ngột bị ưỡn người ra phía sau, mất trụ, văng khỏi chạc bừa ngã xuống mặt ruộng đường đua. Tôi thót tim, chút nữa hét lên vì lo cặp bò của Chau Khon đang chạy hăng bứt tốc ngay phía sau sẽ ập tới và có thể chèn lên người ạnh chàng bị ngã. Nhưng may mắn và khéo léo sao, Chau Khon điều khiển cặp bò lượn nép vào phía trong tránh được. Đến lúc này, không cần phải vội, Chau Khon cho cặp bò chạy chậm dần về đích, rồi dừng hẳn. Cậu ta bước ra giữa trường đua, hướng mặt về phía Ban giám khảo, cúi người chào, rồi vươn ngửa người, giơ hai tay lên làm dấu hiệu của kẻ chiến thắng. Chiêng trống, thanh la rộ lên, nhưng tiếng reo hò còn vang dội hơn. Chau Khon đi một vòng quanh trường đấu chào mọi người. Đến chỗ tôi và Út Thiệt đứng, cậu ta khẽ nháy mắt tinh nghịch. Tôi bấm nhẹ vào tay Út Thiệt hỏi:

          -Neang Hên đâu? Cô ta không có ở đây à?

          -Ô… Út Thiệt đưa mắt tìm quanh- Em hổng thấy… Chắc Neang Hên sợ Chau Khon thua, xấu hổ, nên tránh, ở nhà…

          Trưa ấy, tôi và Út Thiệt ăn tết với gia đình Chau Khon. Phần thưởng cho giải nhất cuộc đua bò của Chau Khon là một đôi khăn karma, một chiếc săm-pốt, một xa-rông và một vò sra-thnốt, loại rượu truyền thống của người Khmer được lên men từ nước thốt-nốt. Chau Khon rót sra-thnốt cho mọi người cùng uống. Tôi cảm thấy ngon, phần vì vui, phần vì vừa uống vừa ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm. Neang Mai, em gái của Chau Khon, chừng mười hai, mười ba tuổi gì đó, cô bé ăn nhanh, loáng một cái đã xong. Cô bé đi ra đi vào, nhìn chúng tôi, rồi nhìn anh trai mình, nhấm nhẳng hát một bài dân ca Khmer. Chau Khon nghe, mỉm cười rồi nói gỉ đó với cô bé, tôi không hiểu, nhưng quan sát thái độ của hai anh em họ, tôi đoán là Chau Khon đùa hay mắng yêu em gái mình. Út Thiệt biết tiếng Khmer, nói chuyện với hai anh em họ, cô cười rất tươi, rồi ghé sát tai tôi dịch nghĩa cho tôi hiểu lời Neang Mai vừa hát trêu anh trai mình. Đại loại: “Anh đi tìm mỏi mắt/ Anh tìm người anh yêu/ Và anh chộp được em/ Ơi cô nàng xinh đẹp”… Hiểu nôm na lời bài hát, tôi trêu đùa Chau Khon:

          -Cô nàng xinh đẹp là Neang Hên phải không?

          -Vậy… anh Tuấn cũng biết chuyện?... Út Thiệt kể cho anh à?

          Tôi cười trừ. Út Thiệt giải thích:

          -Anh Hai Tuấn khen ngợi tình yêu của Chau Khon và Neang Hên lắm đó… Ảnh bảo,- Yêu như thế mới là yêu chứ!...

          Nghe vậy, Chau Khon có vẻ hãnh diện. Chiều ấy, Út Thiệt và Neang Mai háo hức, cứ đòi mọi người cũng ra sân chơi chung của trai gái trong sóc, nhưng Chau Khon không đồng ý, bắt mọi người phải ra chùa trước đã. Tôi ngạc nhiên vì thấy hành làng và khắp sân chùa nhan nhản những đống cát nhỏ sạch bong. Chau Khon giải thích, đây là một tập tục cổ của người Khmer, có tên gọi là Pun-Phnôm-Khsach, hiểu nôm na là tục đắp núi cát. Theo thông tục của Phật giáo Tiểu thừa, tục này bắt nguồn từ một sự tích lâu đời với ý nghĩa là nhằm tránh tiền oan nghiệp chướng, tránh mang nợ oan khiên theo thuyết luân hôi nhân quả. Năm nào cũng vậy, mọi nhà đều làm với hy vọng năm ấy nhà họ sẽ may mắn, lành ở dữ đi… Cũng như mọi người, hai anh em Chau Khon, Neang Mai tiến hành những thủ tục hành lễ rất thành kính. Thế nhưng, khi tham gia trò chơi dân gian tập thể, hai anh em họ hào hứng lắm, hò hét đến khản cả giọng. Để ý, trong khung cảnh đầy náo nhiệt đó, mặc dù hăng hái tham gia trò chơi, nhưng thỉnh thoảng, Chau Khon sững người như mất hồn, rồi ngơ ngác nhìn quanh quất như tìm ai. Út Thiệt ngầm cho tôi biết, có lẽ Chau Khon không thấy bóng dáng Neang Hên đâu, nên sinh lo lắng? Ừ nhỉ. Sự vắng mặt của Neang Hên có thể báo hiệu sự không vui, không may chăng?...

Thế nhưng, không lâu sau, tôi được biết mặt Neang Hên. Cô là một người có nhan sắc. Nếu chỉ thoáng gặp, người ta dễ nghĩ cô là một người lạnh lùng, pha chút kiêu kỳ. Song khi hát Aday, một kiểu đối đáp huê tình thì Neang Hên là người đầu trò, nhiệt tình và khá sắc sảo trong các câu đối đáp của bè nữ. Neang Hên tham gia bè nữ, nhưng Chau Khon lại không có mặt trong bè nam. Hình như hai người ngầm thỏa thuận với nhau là không cùng tham gia bất cứ một trò chơi chung nào, để tránh sự gán ghép hoặc trêu đùa của chúng bạn. Một chàng trai, không biết có phải là tình địch của Chau Khon hay không, cất lời hát trêu ghẹo Neang Hên, mà Út Thiệt dịch cho tôi nghe: “Này em gái xinh tươi kia ơi/ Có người bảo là da em nứt nẻ/ Nhưng anh chỉ cần em chăm chỉ, vui tươi/ Thốt nốt nhà anh nhiều đủ tắm da em đẹp…”.  Ngay lập tức, Neang Hên cất lời hát đối lại: “Em nết na, chăm chỉ nhất phum/ Nhiều chàng trai khen em xinh nhất sóc/ Ap-sa-ra phải ghen em múa đẹp/ Anh cầu hôn chưa hẳn em bằng lòng…”.

Tôi thầm khen cô gái đáo để. Chợt bàn tay Út Thiệt thầm tìm và nắm chặt bàn tay tôi. Còn Châu Khon cố ghìm mình, môi mắm lại và hai bàn tay nắm chặt.

          Hai anh em nhà Chau Khon giữ chúng tôi ở lại xem Yukê, một kiểu kịch hát như cải lương, song vì sợ khuya, chúng tôi từ chối ra về. Chau Khon tiễn chúng tôi ra tận bìa sóc. Cậu ta chào Út Thiệt và dặn dò cô gì đó bằng tiếng Khmer. Trước khi quay trờ lại, Chau Khon xiết chặt tay tôi, bảo:

          -Út Thiệt là cô gái chăm ngoan và tốt bụng lắm đó… Anh Hai là bạn của cô ấy, hãy giúp cổ… Út Thiệt có nói với tui, về anh Hai… Khen anh Hai là người hiểu biết, đứng đắn và có lòng thường người… Út Thiệt cũng thương anh Hai lắm đó… hẳn anh Hai biết rồi…

          Chau Khon đưa cho chúng tôi chiếc đèn pin. Hai chúng tôi trở về trong màn sương tối, bỏ lại sau lung sóc Khmer vẫn rộn ràng tiếng đàn nhị, tiếng hát và còn đó mối tình vẫn dang dở và đầy bất trắc của cặp trai gái Chau Khon-Neang Hên. Lúc này, trông Út Thiệt mới bé nhỏ làm sao. Cô đi rúm vào người tôi, và bỗng nhiên tôi có cảm giác mình trờ thành người khổng lồ, che chở cho cô bé con…

          Về tới nhà Út Thiệt thì đã muộn lắm rồi. Biết tôi lưỡng lự giữa về hay ở lại, Út Thiệt chủ động:

          -Anh Hai à… bữa nay anh ngủ lại đi… khuya rồi… anh Hai chưa thạo đường, dễ lạc lắm đó… Mới lại, dạo này hay có heo rừng bị đói, lùng sục ăn đêm, dữ tợn lắm… ngộ nhỡ đụng phải chúng thì nguy hiểm đó, anh Hai à.

          -Ừ, nếu Út không thấy ngại tiếng này nọ thì anh ngủ lại đây-

Tôi nói như mở cờ trong bụng, bởi thực lòng, tôi sợ phải bang rừng trẻ về Trạm Y tế xã lúc đêm hôm khuya khoắt thế này, và còn một lý do mơ hồ trong đầu…rằng dịp như thế này, không dễ có, được ngủ qua đêm trong một căn nhà như lều trại giữa hoang sơ, cùng một cô gái dễ thương như Út Thiệt, nhất là giữa hai người chung một tình cảm manh nha…

          -Anh Hai tắm trước đi… Em bận dọn dẹp nhà của qua chút đã.

          Tôi tắm rửa qua loa, khi trở vào nhà thì Út Thiệt cũng đã dọn xong bộ ngựa bằng gỗ thô tự làm vốn là chỗ nằm của ba cô, đệm gối, mùng màn đã giăng sẵn. Út Thiệt bảo:

          -Anh Hai phải nằm mùng keo muỗi đốt sốt rét đó… Em mua mùng cho ba nhưng ba em không có thói quen nằm mùng, nên mới sốt rét chứ. Em nói mãi mà ba đâu có nghe. Bữa nào rảnh, nhờ anh Hai nói giùm xem ba có nể anh Hai mà nghe lời ?...

          Út Thiệt đợi tôi chui vô mùng nằm yên vị, cô mới lấy quần áo đi tắm. Trong đêm tối hoang dã, tôi nghe tiếng nước dội, tiếng Út Thiệt thở nhè nhẹ mà lòng xốn xang, mường tượng ra thân thể cô với những đường cong gợi cảm. Tôi trở mình nằm xấp, cố nén đi những dục cảm đang trỗi dậy trong lòng. Lúc Út Thiệt trở vào, kiểm tra quanh quất rồi chốt cửa, tôi vờ nằm in, thở nhẹ đều như đã ngủ.

Cô hãm nhỏ ngọn đèn, treo lên chiếc móc sắt gân đầu giường tôi nằm. Cô nấn ná như quan sát tôi ngủ, thở nhẹ trở vào buồng mình, và lục xục gì đó, rồi cả căn nhà chìm trong yên ắng. Tôi nào có ngủ được, mở chong mắt hết nhìn lên đỉnh mùng lại nhìn ngọn đèn dầu hãm nhỏ, xanh lét đung đưa, và nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ màn trời tối đen. Tiếng mái lá xào xạc, tiếng giun dế i ỉ, tiếng gió hoang đuổi nhau ngoài nương khoai mì bên sườn núi, tiếng tắc kè đánh lưỡi, và tiếng thú đi ăn sương gầm gừ xa xa, tất cả quện vào nhau, cộng hưởng tạo thành một thế giới âm thanh, khiến cho cái đầu không ngủ của tôi mường tượng về một thế giới thời tiền sử. Thế nhưng, chỉ một tiếng kẹt giường, tiềng thở dài mơ hồ, hay tiếng trở mình nhẹ nhữ bỗng nơi buồng trong cũng làm đủ cho tôi sống với thực tại. Sức sống căng lên trong người tôi, cuồn cuộn chảy khiến tôi cảm giác như có một dòng thủy ngân đang uốn lượn như một con rắn hoang dại trong lòng mình. Tôi trở mình liên tục, đập chân đạp tay, vật vã. Tôi không cố ý song mỗi động thái của tôi đều gây ra những chấn động, và tôi biết, nơi buồng trong ngay đấy, Út Thiệt cũng không ngủ được. Tôi trở dậy, ngồi chồm hỗm trong màn như bụt mọc và tưởng tượng ra cánh màn tuyn mỏng tang kia là những bức tưởng thép giam hãm dục vọng đang sôi sục có thể làm nóng chảy cả thép... Và rồi, không hiểu bằng cách nào, tôi đã đứng ngay bên mép giường nằm của Út Thiệt.

          -Kìa... anh Hai hông ngủ nổi sao? –Giọng Út Thiệt lạc đi và ngay lập tức tiếng bật lửa xi xoẹt, rồi ánh sáng bùng lên, như đóng đinh tôi lại bên giường...

          Thì ra, Út Thiệt cũng ngồi như thế tự bao giờ. Cô nhanh chóng  định thần, bảo:

          - Em cũng khó ngủ... Mấy giờ rồi anh Hai?... Hay để em đi châm bình trà nóng, hai anh em mình uống trà nói chuyện cho đỡ buồn ha?...

          Rồi cô không đợi xem ý tôi ra sao, chủ động ra khỏi giường, nhóm bếp đun nước. Tôi đực người một lát rồi chẳng biết sao, đành theo ý cô, ngoan ngoãn như cậu em nhỏ vậy. Ngồi xuống bên bếp lửa, tim tôi vẫn còn đập nhanh, tránh nhìn vào mặt cô, tôi chăm chăm vào ngọn lửa bập bùng. Út Thiệt ngồi cách tôi một chút, không gần không xa, mà đủ giữ khoảng cách thân thiện. Tôi im lặng và cô cũng im lặng cời lửa. Hồi lâu, cô lí nhí:

          -Anh Hai... hồi nãy...  có giận em hông?...

          -Ồ,,, không đâu... Anh là người... có lỗi với Út mà... Anh cũng không hiểu sao... mình lại thế?...

          -Anh Hai... Út Thiệt bỏ lửng, cúi mặt, cầm thanh củi cháy dở, dụi lửa rồi vạch vạch xuống mặt đất... – Tình cảm của Út... với anh Hai thế nào... anh Hai biết mà...

          -Thế Út có biết tình cảm của anh... với Út thế nào không?... Nếu bình thường thì sao...  ban nãy... anh lại như vậy... Tử lúc mới gặp, anh đã linh cảm... một điều, anh và Út ...

          Trong niềm xúc động ngọt ngào, tôi nói như mê sảng. Và tôi cũng không hiểu nổi tôi đã nói những gì nữa... Chỉ biết, em nhìn chằm chằm vào tôi, như nuốt hết những gì tôi nói ra, mắt sáng lên niềm hạnh ngộ. Tôi mạnh bạo cầm hai bàn tay em, giữ trong tay tôi.... Xiết chặt...

          -Đau em... anh Hai!... Út Thiệt kêu lên khe khẽ, nhưng vẫn để yên tay cô trong tay tôi. Em nhìn tôi chan chứa, hạnh phúc mà lại như có gì đó cầu khẩn:

          - Anh Hai... bỏ tay em ra... Ngộ nhỡ có làm sao... em chết mất... Ba em dữ lắm...

-Sao?... Ba em làm sao? – Tôi như người bị đạp lộn từ chin tầng mấy xuống đất- Ba em không thể đối xử tệ với con gái của được… Nhà em chỉ có hai cha con với nhau

          -Anh Hai… đừng nói vậy… tội nghiệp ba em…ổng hiền lắm… lại rất thương em…Nhưng ổng nghĩ là hư hỏng…ổng sẽ lột da, chon sống em mất… Anh Hai,… em xin anh Hai… đừng nghĩ về ba em như vầy… Tội nghiệp ổng… anh Hai ơi,…

          -Út đừng lo- Tôi an ủi- Anh nghĩ ba em là người nhân hậu, thương con , thương người mà… Với lại, em đâu có làm gì nên tội mà ba em trách mắng… Anh với Út thương nhau… trời thương cho nên chồng nên vợ là chuyện bình thường… mà còn đáng mừng là đàng khác…

          -Không đâu… em hiểu lòng anh Hai, nhưng ba em nghĩ khác… Anh Hai là người có học, giỏi giang, đi đây đó, biết nhiều… Còn Út… ngu dốt, chẳng học hành gì và nhà của cũng không ra sao… quanh năm ba con thui thủi nơi hẻm núi xó rừng… Có chuyện gì… rồi ra… chắc gì anh Hai chung tình?... Ba em hổng tin đâu, anh Hai à?...

          -Thì cứ cho là ổng chưa tin đi, nhưng Út có tin anh không? Anh chẳng muốn so đo, là em cứ nghĩ quẩn vậy thôi… Hôm nào rảnh, anh sẽ lựa chuyện thưa với ba em về tình cảm của an hem mình… Anh nghĩ, ba sẽ tin thôi, Út à…

          -Không… em không nghĩ quẩn đâu, anh Hai…-Út Thiệt đã phần nào chấn tĩnh… Thiệt tình là như vầy… Giờ thương Út, anh Hai nghĩ thế, bỏ qua này nọ… chứ rồi đây sống với nhau, anh Hai sẽ thấy nản, thấy bó buộc…- Tôi im lặng, Út Thiệt chân thành- Anh Hai ơi, ba con em biết thân phận nghèo hèn, chẳng bằng ai của mình…Giá như anh Hai là người mầm ruộng rãy, làm than, kiếm củi như ba con em thì em dám chắc ba em ưng liền… mà ổng còn lấy làm mừng… Anh Hai là người tốt, không tính chuyện thân phận, thiệt lòng thương, em biết vầy… nhưng cuộc đời không đơn giản chỉ là vậy, anh Hai…

          Tôi bất ngờ vì Út Thiệt lại cớ những suy nghĩ thấu đáo và nói năng mạch lạc, lý lẽ chặt chẽ, rành rẽ  đến thế. Trước thái độ bình tĩnh, chân thành, sâu sắc ấy. lòng tôi dâng lên một niềm thương cảm vô biên, lấn áp nỗi dục vòng bùng cháy dữ dội vừa nãy. Tôi nghẹn lời không thành tiếng. Và ngay lúc ấy, tôi chỉ muốn kéo cô về phía mình, ôm vào lòng, vỗ về an ủi như một cô em gái nhỏ gặp chuyện buồn khổ. Nghĩ vậy nhưng tôi đâu có dám làm bởi sợ Út Thiệt hiểu lầm, nên cứ ngây ra.

          -Anh Hai biết hông? –Út Thiệt rủ rỉ - Ba con em không phải quê đây. Mà mãi miệt Cà Mau, Bặc Liêu. Ba đưa về về đây sinh sống khi em mới năm tuổi… Phải bỏ quê, dạt vô xứ này, ba em đâu muốn vậy, nhưng thiệt tình, ổng không thể sống ở quê được nữa,

          -Vậy sao?- Tôi băn khoăn-Chắc phải có chuyện gì uẩn khúc?

          -Anh Hai đoán trúng rồi đó- Cô rầu rầu-Mãi sau này em mới được ba nói cho hay. Đời ba em cực lắm anh Hai à. Bởi vậy, ngày nhỏ em thương ba một, sau biết chuyện đời ổng, em thương ba mười. ..-Út Thiệt ngừng kể, cô cho thêm củi vào bếp, rồi lặng lẽ rót thêm trà cho tôi, ch cô- Anh Hai có thấy đói bụng hông? Có sắn khoai mì em mới nhổ, để em nướng mấy củ, hai an hem mình ăn cho vui.

          Út Thiệt vô trong lựa mấy củ khoai mì mang ra bếp nướng. Tôi lặng theo dõi từng cử chỉ của cô vẻ sốt ruột. Chợt Út Thiệt hỏi:

          -Dọc đường vô Thất Sơn, anh Hai có để ý đến núi Bà Đọi hông?

          -Có. Anh có thấy… nhưng sao?

          -Vậy anh Hai có nghe gì về sự tich núi Bà Đọi hông?

          -Có nghe-Tôi ngạc nhiên- Anh thấy có gì đó na ná như chuyện núi Vọng Phu ở miền Trung hay ngoài quê anh…

          -Vậy sao? Anh Hai thấy những nhân vật trong câu chuyện sự tích ấy như thế nào?

          -Anh không hiểu ý Út?

          -Là em… Ý em là muốn anh Hai cho là những người trong sự tích đó là người tốt hay xấu?

          -À ra vậy… Anh nghĩ, đây là câu chuyện gia đình, bi thảm và những nhân vật ấy đều là người tốt… Nhưng chỉ vì vô tình…

          -Vầy… Út cũng nghĩ như anh Hai… Ba em cũng nghĩ thế… Song suốt đời… và cho đến sau này, mãi tận cuối đời, ổng vẫn cứ ân hận…cứ tự hành hạ mình… cứ như thể ông tự làm khổ mình cho mau chết… Và nếu không phải vì em, thì ổng đã tìm đến cái chết lâu rồi, anh Hai ơi…

          -Sao vậy Út? Tôi ngạc nhiên khi nghe câu cuối của Út Thiệt như nghẹn trong nước mắt- Sao lại có ba em ở đây? Sự tích từ xa xưa, mà chắc gì có thật… Út không sao chứ?

          -Là em định kể cho anh nghe đây, anh Hai ơi… Cuộc đời của ba e in như trong câu chuyện ấy… Anh Hai bảo chắc gì có thiệt… Vậy mà thiệt đó… Chính ba em mà…

          Tôi thoáng chút bàng hoàng. Giọng Út Thiệt vỡ thành tiếng nấc, nghẹn nước mắt…Mặc dù cô chưa kể gì, nhưng cứ đó mà suy, những gì tôi biết về cha con cô mới đây, và các tình tiết éo le bi sầu trong câu chuyện về sự tích núi Bà Đọi, tôi lờ mờ đoán được uẩn khúc cuộc đời của ba Út Thiệt…Và lúc này, tôi không nén được cảm xúc mãnh liệt của mình, tôi choàng ôm lấy cô xiết nhẹ trong vòng tay tôi, và thay vì đặt một cái hôn nồng nàn vào môi cô thì tôi lại nhẹ nhàng đặt cái hôn ấy khẽ chạm vào vầng trán cô. Và hai bàn tay tôi vỗ về an ủi vào đôi bờ vai cô. Xúc cảm xác thịt hừng hực ban nãy biến mất và chỉ còn một niềm thương cảm êm ái, chia sẻ. Tôi như thành một con người khác, và thực tình, tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại như vậy?...

 

          6.

            Quê gốc em ở miệt Rạch Giá. Xưa kia, gia đình cố nội em rất giàu, có nhiều ruộng đất, tài sản. Nhưng rồi, do sinh chuyện tranh chấp ruộng đất với gia đình vị Hội đồng giàu có và uy lực nhất vùng đó mà nảy sinh mâu thuẫn, kiện tụng nhau liên miên. Để có thể thắng kiện, cố nội em phải bán dần ruộng đất, tài sản. Song rồi, cứ vậy, đâm lao theo lao, thắng kiện chẳng thấy đâu mà ruộng đất tài sản tứ tán gần hết. Uất hận sinh bệnh tật, cố nội em chết, mang theo mối hận. Trước khi chết, cố nội có trăng trối lại cho ông nội em, theo tiếp vụ kiện. Biết là khó thắng được, nhưng là người có hiếu với cha mẹ, muốn làm yên lòng cha dưới  suối vàng, ông nội em tiếp tục vụ kiện. Số ruộng đất, tài sản còn lại lần lượt theo chân vụ kiện đi nốt. Vụ kiện kết thúc bi thảm bằng cái chết của ông nội em. Người ta tìm thấy xác ông nội nổi lập lờ trong đồng nước. Có người cho rằng, ông nội phẫn chí bỏ nhà đi lang thang, nhậu say rồi cảm mà chết. Lại có tin đồn là, nhà Hội đồng lén thuê người đánh chết ông nội rồi mang xác quẳng ra đồng nước. Chẳng biết tin vào đâu, nhưng có lẽ bị đánh chết thì có lý hơn. Ông nội em chết đi, để lại bà nội em và cha em khi đó mới lên năm, sáu tuổi gì đó. Và còn một người em gái của cha, con của ông nội em với một người ở đợ, khi đó mới chừng đầy tuổi tôi. Trước đó, người gái ở đó có thai rồi sinh con, thì để lại đứa con gái mới sinh cho ông nội em, rồi bỏ đi biệt tích. Bà nội em nuôi đứa trẻ gái, nhà hiếm con nên thương yêu như con mình đẻ ra. Khi gia đình gặp chuyện chẳng lành, ông nội em chết, bà nội cũng buồn phiền mà sinh bệnh, nằm liệt giường. Biết khó sống được, nhân có một người buôn nước mắm quê mãi miệt U Minh Hạ, Cà Mau, hiếm hoi, nên bà nội em mang đứa con gái cùng cha khác mẹ với ba em cho người ấy nhận làm con nuôi. Trước khi cho đi, bà nội em lấy ra đôi vòng bạc cổ chân của ba em, trên mỗi chiếc có chạm hình một con cá sấu và tên ba em, một đeo vào cổ chân bé gái, chiếc còn lại mang cất kỹ bảo là giữ cho ba em, ý là sau này bà mệnh hệ gì, anh em thất tán thì còn có bằng chứng mà nhận nhau. Bà em cận thận, chú đáo thế đấy, và quả là không thừa cho chuyện về sau. Ba em vốn rất quý người em gái, nên khi buộc phải xa nhau, ba em cứ giữ chặt không cho đi, và hai đứa trẻ khóc dữ lắm. Bà nội cũng khóc nhưng biết làm sao đây. Và sau đấy chưa đầy năm, bà nội em mất. Ba em còn nhỏ dại lắm, nên được anh em họ hàng đùm dúm nhận nuôi…

Ba em lớn lên, vì không có tài sản ruộng đất nên sinh sống bằng đủ các nghê lặt vặt mà ông có thể làm, theo bà con, anh em lang bạt khắp nơi. Trong một lần đi làm ăn ở miệt Bạc Liêu, ba em bị bệnh nặng, may được hai mẹ con một gia đình ở có chăm sóc, thuốc thang, mà qua khỏi. Thời gian chăm ba em bệnh, cô gái và ba em nhanh chóng này sinh mối thiện cảm, rồi thương nhau. Ba em biết cô gái là con nuôi của bà cụ. Người mẹ nuôi khi đó cũng đã cao tuổi, thấy ba em là người mạnh khỏe, có tư chất và tốt bụng nên đồng tình hùn vào cho hai người nên duyện vợ chồng. Em được sinh ra, và lên hai tuổi thì bà ngoại mất. Ba em thương má và bà ngoại em lắm, lại thêm cái ơn cứu mạng, nên ba em đã hứa với bà ngoại trước lúc bà nhắm mắt xuôi tay rằng suốt đời chăm sóc má con em, để bà yên tâm. Cuộc sống gia đình em sẽ yên ấm trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau, nếu như không xảy ra một chuyện động trời, sập đất…

          Số là, gia đình người buôn bán nước mắm hiếm hoi không có con, khi xin được má em thì ông bà cũng đã nhiều tuổi. Lo có người nhà tìm kiếm xin lại má em, và sau này, khi lớn khôn má em tìm vê quê cũ, nên họ giấu biệt, để má em không biết gì về cha mẹ và quê gốc. Khi ông mất, bà sinh phiền não, và nhân một lần bà yếu lòng, chỉ hé lộ chút xíu đưa cho má em chiếc vòng bạc đeo chân hồi nhỏ, dặn giữ lấy sau này làm kỷ vật. Má em cũng chỉ biết vậy, nâng niu, cất giữ chiếc vòng đó cận thận, coi như dấu ấn duy nhất về nguồn gốc của mình. Lúc lấy má em, thì ba cũng chỉ biết rằng má là con nuôi của bà cụ ở Bạc Liêu mà thôi. Ba em yêu thương má lắm, và ông coi má em là tất cả những gì yêu thương mà ông có được. Với ba em, má là vợ, vừa như em gái, chị gái, thậm chí như mẹ, bởi ổng được tận hưởng tất cả các trạng thái tình cảm và sự săn sóc ấy từ má em… Chính vì vậy, ổng rất ghen. Không muốn cho má em trò chuyện với bất kỳ người đàn ông nào khác. Vì ghen nên tính ông lầm lỳ, cau có, khó tính đến thành vô lý. Có một lần, thấy ổng ghen vô lý, má em bực quá, nói lại vài câu, ổng nổi giận, mất khôn, tát má em một cái. Ổng hối hận ngay, nhưng má em bị bất ngở, thành uất ức, tính bỏ nhà, sang ở nhờ nhà hàng xóm mấy ngày cho bõ tức, với mong muốn ba em thay đổi tâm tính. Song không ngờ, trong lúc giận dỗi, lôi bọc quần áo tư trang, lục lấy chút đồ mang theo, má vô tình làm bung chiếc khăn nhỏ gói đồ tư trang, làm rơi ra chiếc vòng bạc đeo chân. Ba em nhìn thấy chiếc vòng bạc đeo cổ chân thì sững người, và khi ông cầm lên xem kỹ thì thấy rõ chiếc vòng bạc đó được chạm khắc chữ cái tên mình và hình một con cá sấu, hệt như chiếc vòng bạc mà má ông trao cho ông cùng vài lời trăng trối trước lúc bà mất. Ông chết lặng, sụn người và đổ ập xuống. Má em sợ quá, vực ông lên giường, thấy hàm ông cứng lại, hai mắt mở trừng trừng. Lay gọi mãi ba em mới tỉnh, và từ đó, ông hấu như câm lặng. Má em sợ quá, không dám bỏ nhà đi nữa, nhưng cũng không hiểu vì sao ba em lại có phản ứng mãnh liệt đến như thế. Những ngày sau, ba em vật vờ như người mất hồn, má có hỏi gì thì chỉ ầm ừ cho qua chuyện, mà mắt ông luôn nhìn đi đâu, không dám nhìn thẳng vào mắt má em. Ba em bê trễ, chểnh mảng công việc, hay kiếm cở hoặc lẳng lặng bỏ khỏi nhà, đến một nhà ai đó, nhậu say xỉn mới mò về, Và ông không bao giờ ngủ trong buồng chung mùng với má em nữa, mà trải tấm đệm bàng ngủ một mình ở gian ngoài. Má em đau khổ, buồn phiên lắm, nhưng gặng hỏi gì thì ba cũng chỉ qua quýt, nói thác rằng đang mang trọng bệnh trong người, sợ lây sang má em. Rồi một bữa, hai má con em đi chợ về, thì không thấy ba em ở nhà. Cũng chỉ nghĩ là ông bỏ đến nhà ai đó nhậu say xỉn như mấy lần trước. Nhưng đêm áy, không thấy ông về nhà, má em sinh nghi. Lại thêm một ngày đêm nữa, vẫn không thấy ba em trở về, má linh cảm xấu. Khi ấy em còn nhỏ dại, má em gửi em cho bà con trông giùm, khăn gói đi tìm ba em, đôn đáo khắp nơi má biết và đồ đoán, song càng tìm thì ba em vẫn biệt tăm. Má em trở về trong thất vọng nặng nề. Linh cảm mách bảo, má em chợt nhơ tới chiếc vòng bạc đeo cổ chân bữa bà định bỏ nhà đã vô tình làm rơi để ba em thấy, bèn lục rương, mở bọc tư trang, và má em cũng chết sững, không tin vào mắt mình. Hai chiếc vòng bạc giống nhau, má em cầm lên xem kỹ và không phân biệt được chiếc vòng nào là của mình. Vậy ai có thể bỏ thêm một chiếc vòng bạc nữa vào đây thành cặp vòng song sinh, nếu không phải là ba em?... Tại sao ba em lại có chiếc vòng bạc thứ hai giống hệt như chiếc của má em? Nghi ngờ nhanh chóng được giải đáp, khi má em tìm thấy trong bọc tư trang của má bức thư ba viết để lại, nói rõ vì sao ông lại như vậy và quyết bỏ nhà đi biệt xứ…

Dù ngày ấy còn bé, nhưng đến tận giờ em vẫn còn nhớ nỗi đau lòng, thất vọng của má em. Thì ra ba em, nhờ chiếc vòng bạc đeo chân, đã nhận ra, người vợ hiện giờ hàng ngày đầu gối tay ấp của mình lại chính là người em gái cùng cha khác mẹ với ông, đã được cho đi làm con nuôi từ lúc tuổi thôi nôi. Ba em quá đau khổ vì sự thật phũ phàng, thêm mặc cảm tội lỗi, đã quyết bỏ nhà ra đi. Ba em đi đâu, ở đâu, làm gì, má em không rõ. Má em cũng đau lòng lắm, nhưng bả vẫn hy vọng một ngày nào đó, ổng nghĩ lại mà trở về nhà. Rồi một năm, hai năm, ổng vẫn biệt tăm tích. Má em nghĩ ngợi mà sinh bệnh. Cũng thuốc thang chữa chạy đấy, nhưng dường như thuốc chẳng có tác dụng gì, là bệnh ở tâm thì thuốc nào chữa nổi. Và má em qua đời. Người ta bảo má em mất vì tuyệt vọng, mà người tuyệt vọng, không còn chút niềm tin nào vào cuộc sống thì có thuốc tiên cũng thành vô ích…

Má mất, em thành bơ vơ, sống nhờ bà con xóm ấp. Nhưng rồi, ba em trở về. Ba nghe ai đó mách bảo, việc má em sinh bệnh nặng rồi chết, nên ổng vội vàng trở về ngay. Song đâu có yên, ở nhà, ba em lại chịu bao điểu tiếng. Dân xóm ấp đâu có hiểu nguồn cơn câu chuyện, lên tiếng chê trách ba em là kẻ bội bạc. nghí là ổng bỏ mặc vợ con để chạy theo một mụ đàn bà nào đó. Khi ấy, đến em cũng tin là thế. Dù không căm ghét, nhưng em cũng không yêu quý ba. Em nhớ, lúc má còn sống, có hai má con với nhau, em đã nhiều lần hỏi ba đi đâu, thì má đều nói là ba mắc công chuyện lâu ngày, xong việc thì ba về. Lúc má em sắp mất, có dặn em rằng, hãy yêu quý ba vì ổng là người tốt. ba không có lỗi gì, chẳng qua vì bắt buộc mà ổng phải xa nhà thôi. Nhớ lời má dặn, em muốn tin lời má em lắm, thế nhưng thâm tâm em không thể hiểu, nên cũng không thể thương quý ba em được. Ngày nào, ba cũng dắt em ra mộ má em thắp hương, và ổng lầm rầm khấn vái gì đó. Rồi một ngày, ba em thu xếp đồ đạc, dắt em theo, rời bỏ miệt Bạc Liêu về vùng Thất Sơn này sinh sống từ đấy. Ở Thất Sơn, năm nào, cứ vào dịp cuối năm, ba gửi em nhờ người quen giữ giùm, đi vắng đâu đó mấy ngày. Sau này, em mới biết, ba về lại miệt Bạc Liêu chăm mộ và thắp cho má em nén hương...

          Em lớn lên trong tình yêu thương của ba. Ổng chiều em lắm, em muốn gì ba em cũng cố làm cho kỳ được, miễn sao em vui. Tình cảm của em với ba có gần gũi hơn, nhưng em vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Ba em cũng biết vậy, và ổng không hề trách móc, đòi hỏi gì. Và lạ một điều, khi má em mang bệnh rồi mất, bà con xóm ấp rủa là ba em vì mê gái nên mới bỏ vợ con, nhà cửa chạy theo gái, nhưng sau này, ngần ấy năm sống cùng ba, em chưa hề thấy ổng làm thân, gần gụi với bất kỳ người đàn bà nào khác. Em nghĩ, có lẽ vì ba em hối hận chuyện ngày trước, nên ngại và cố tình xa lánh đàn bà? Cho đến tuổi dậy thì, em vẫn chỉ hiểu lờ mờ là ba má em, giữa hai người có chuyện gì đấy rất hệ trọng, song cụ thể là gì và như thế nào thì không rõ. Và cho đến một lần…

          Ba em cùng những người làm than đi săn chơi. Ba em đụng phải một con heo rừng rất to và hung dữ. Ba em bắn mà súng không nổ được. Con heo xông thẳng tới, ba em luống cuống ngã xuống, ổng dùng súng đánh lại, chống đỡ các cú tấn công của con heo rừng. nhung nó vẫn cắn ba em bầm rập cả người. May có chúng bạn ứng cứu, đuổi con lợn rừng đi. Ba em bị thương khá nặng, sung tấy khắp mình mẩy, viêm nhiễm vết thương nên sốt cao lắm. Bạn bè rửa ráy, sát trùng vết thương, đắp lá lẩu theo kinh nghiệm dân gian chữa thương cho ông. Em thương ba lắm, nghĩ ông không qua khỏi. Tự thân, ổng cũng nghĩ vậy. Và có lẽ vì thế, ba em đã kể cho em nghe chuyện bí mật giữa ba má. Em rụng rời chân tay, không muốn tin lời ba kể, rặng chuyện đó là sự thật. Vì như thế, đối với ba má, em là nghiệp chướng. là nỗi đau không thể quên của gia đình em. Em đã khôn lớn để hiểu chuyện đời. Có lúc, em cũng đã từng nghĩ đến cái chết, coi cái chết như một sự giải thoát, và chỉ có như vậy, thì mới giúp cha em giải được nghiệp chướng vô tình ấy. Nhưng rồi, lý chí mách bảo, nếu em chết đi, thì ba em đâu có hết đau, thậm chí còn đau khổ hơn, và ổng cũng sẽ chết theo em thôi...

          Từ đấy, em thương ba lắm. Má em mất đi, má đâu có biết nỗi đau đớn của ba em đến mức nào. Em phải thương yêu ba cả phần của má nữa. Cuộc đời em thế nào, em không cần biết, đúng ra là không dám nghĩ, em chỉ biết là phải sống sao để bù đắp cho hết thảy những mất mát, đau lòng mà ba em phải chịu đựng bấy lâu nay. Vậy là đủ… 

 

7.

Chuyện của gia đình Út Thiệt là vậy. Một cảnh ngộ bi thảm hiếm thấy. Tôi đã gạn lọc từ những lời kể lộn xộn, đẫm nước mắt của em để hiểu được tấ cả nững gì xảy ra với gia đình em trong ngần ất năm trời. Kể từ cái đêm ấy, nghe chuyện của em, tôi thấy em bé nhỏ, tội nghiệp, thiệt thòi làm sao và có gì đó thật bất nhẫn. Rồi tôi cảm thấy mình như lớn vổng lên thành người khổng lồ có thể đạp núi, lấp khe vượt qua hết thảy khó khăn, cản trở miễn sao che chở, bảo vệ được em…

Gần một tuần nữa trồi qua. Tôi nóng lòng đợi đến ngày mình không có phiên trực ở bệnh viên, bắt xe ôm vô núi thăm Út Thiệt. Em có nhà, thấy tôi thì mừng lắm, chân tay luýnh quýnh như mượn, cầm gì cũng lóng ngóng chực rơi. Ba Út Thiệt vẫn chưa về. Út Thiệt bảo:

           -Ba em nhắn về, đốt thêm hầm than nữa, xong thì xuống núi. Ba em ham việc lắm. Nghỉ ở nhà, dăm bữa không có viêc chi làm là người ổng cứ như cuồng chân tay, dư thừa sưc lực, hay gắt gỏng, sinh chuyện. Chỉ có làm thật nhiều, làm hết sức lực và liên tục thì ba em mới thuần tính. Cứ như ổng sinh ra để làm hết phần việc của mọi người ấy.

          Út Thiệt cười. Nụ cười ấm áp và dễ thương làm sao. Em mở radio, bảo tôi:

          -Anh Hai ngồi uống trà, nghe chơi, em bận làm cơm, chíu xíu là xong liền à.

          Giọng hát một làn điệu Quan họ từ radio trỏng trẻo, quyến rũ, tha thiết làm sao. Bài Ngồi tựa mạn thuyến. Càng nghe, càng nhớ nhà, da diết buồn. Ờ mà cái cô gái trong bài hát ấy mới đam mê, đằm thắm, nhưng cũng sắc sảo đến thành ngẩn ngơ làm sao ấy. Mà cái mạn thuyền đó là mạ thuyền nào nhỉ, thuyền rồng hay thuyền chai đây? Tôi như bị cuốn theo. Như trở lại tuổi thơ đi học sơ tán về quê, theo lũ trẻ trâu đi thả diều tắm sông, bắt cua ốc nướng ăn, đêm về ra sân đình rình các anh chị mới lớn hát chèo vừa ngầm cấu chí, đụng chạm nhau…Những hình ảnh ấy như một cuốn phim sai tốc độ chạy lướt trong đầu tôi...

         -Nhớ nhà sao, anh Hai?

         Út Thiệt bưng mâm cơm ra, gọi làm tôi bừng tỉnh, rụi mắt cười xòa

         -Ừ, nhớ nhà quá. Vào đây hơn năm trời rồi, bận công việc quá nên anh chưa đi phép về thăm nhà được.

        - Anh Hai… Giá mà … Út được theo anh Hai ra ngoải… thăm thủ đô… rồi thăm gia đình anh Hai, hí…?

        -Ừ hay đó. Năm tới anh xin nghỉ phép ra ngoài đó… Út có dám đi theo anh không?

        -Hổng dám đâu- Út Thiệt kêu to – Là em ước vậy thôi, chứ em biết, chừng nào anh Hai dám cho em theo… chừng nào ba em đồng ý vậy…

        Thấy Út Thiệt nghẹo đầu cười nhưng xịu mặt buồn ngay đó, tôi cố trêu cho em vui:

         -Thì Út cứ đồng ý trước đã, rồi anh em mình sẽ xin ba em đồng ý. Anh sẽ đưa Út về nhà, giới thiệu với ba mẹ anh, với bà con họ hàng… coi như lễ ra mắt gia đình nhà chồng tương lai…

        -Hổng dám -Út Thiệt ré lên-Không nghe anh Hai rỡn nữa đâu nghen- Con gái Hà Nội vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang, còn em vừa xấu như ma, vừa ngu dốt, sống chui lủi nơi xó núi… ai dám so kè…

         -Xinh đẹp, giỏi giang ở đâu thì không biết… anh chỉ biết mình…thương người ở ngay đây thôi…

         Tôi nói cứ như đùa vậy, nhưng tình cảm trong lòng tôi lúc ấy thì rất thật. Nhìn nét mặt Út Thiệt, tôi thấy em hạnh phúc xen lẫn lo âu. Em nói như cố tình gạt chuyện đi:

          -Đồ ăn nguôi hết cả rồi. Anh em mình rỡn chuyện vậy thôi. Ăn đi anh Hai ơi.

          Út Thiệt rót rượu ngâm bao tử nhím của ba cô cho tôi, và tự rót cho mình môt chút. Cụng ly. Tôi uống nhấm nháp chút một, còn em thì nhắm mắt làm một hơi hết luôn. Nhìn Út Thiệt, thấy có gì là lạ, cứ như em đang cần có chút can đảm để làm việc gì đó hệ trọng vậy. Em giục tôi uống hết và tôi chiều theo, bởi chẳng có lý do gì để từ chối, khi mà em cũng đã cạn ly. Cứ như vậy, sau ly thứ ba, thì tôi ngờ ngợ, cảnh giác. Tôi có ý can, nhưng Út Thiệt gạt đi, bảo là em chưa từng say rượu ba giờ. Nghe vậy, tôi có chút ngỡ ngàng, thì ra trước đó, mỗi lần tôi say rượu chắc em nhìn tôi buồn cười lắm. Nghĩ vậy, nhưng men say làm cho tôi bất cần. Cụng leng keng bao lần nữa tôi chẳng rõ, cho đến khi ngà ngà… Tôi nhìn ra ngoài trời, bóng chiều đã xế, hắt lên hẻm núi những sải nắng kỳ quặc… Lơ mơ, lơ mơ, đất trời, rừng núi, nương rãy, sân vườn, cả em và tôi như chìm vào hôn mê…

          Tôi không nhớ, tôi và em đã nói những gì trong bữa ăn, chỉ là mớ lộn xộn mơ hồ trong cái đầu váng vất của tôi. Tôi tỉnh dần, mở mắt he hé, định thần, biết mình đang nằm trên giường trong buồng, buông mùng hẳn hoi. Ý thức được, tôi căng mũi hít thứ hương là lạ, quyến rũ. Thôi đúng rồi, tôi đang gối đầu trên chiếc gối của em. Vừa rồi, trong cơn mơ lúc say, tôi thấy xống núi hình con rồng chuyển động, vươn lên trời biến thành con mãng xà khổng lồ, còn tôi, cầm chiếc rìu đốn củi, bay theo, cưỡi lên cổ mãng xà, diều khiển nó, bay trên những ngọn núi, lượn ra xa tít trên đồng lúa, rừng tràm, kinh rạch, theo ý mình. Chợt mãng xà vẫy vùng dữ dội, cố hất tôi văng ra, còn tôi, vung rìu chém lia lịa vào vùng huyệt đạo ở cổ nó. Nó sà xuống mặt đất, vật lộn nhiều vòng, hất tôi văng ra xa. Rồi nó thu nhỏ mình lại như con trăn, luồn lách và chui tụt vào một hẻm núi. Tôi vùng dậy, xách rìu lao theo và bỗng nhiên rơi tõm vào khoảng không đen ngòm. Tay vẫn nắm chắc chiếc rìu, tôi đình thần lần theo ánh sáng lờ mờ lọt vào đáy hang, đến một khoảng rộng thì thấy con mãng xà đang lấy mình quấn chặt một người con gái, trông như hình một nhũ đá. Cô gái bị tóc xoã che hết mặt, nhưng khi cô gái hất mái tóc sang bên, hé lộ khuôn mặt thì tôi sững người…

         Cô gái ấy chính là em, Út Thiệt của tôi. Lạ quá. Tôi nhớ lại giấc mơ vừa qua, và bật lên tiếng gọi em… Tôi chưa hết bần thần thì ngay lập tức ấp xuống mặt, xuống đầu cổ tôi một suối tóc… rồi những cái hôn nồng cháy. Mặt tôi ướt đẫm bởi suối tóc còn ướt, và bởi nước mắt người…Tôi mụ mị cả người, thân thể căng lên, nóng bỏng và tan chảy theo dòng vô thức…

         -Út Thiệt ơi ! Có nhà không đấy?

         Cả hai cùng giật bắn người vì tiếng gọi đột ngột và tiếng đập cửa thình thình. Út Thiệt vùng ra khỏi tôi, luống cuống tìm quần áo, run run thì thào:

        -Thôi chết… Dì Ba đấy. anh Hai ơi... Anh Hai cứ ở yên trong này… Để mình em ra. 

         Út Thiệt đánh tiếng. Hình như dì Ba tự biết cách mở cửa vào nhà, cất giọng oang oang:

         -Bây ngủ rồi hả Út? Ngủ chi sớm dậy? Ra đây dì hỏi. Mai dì lên rẫy sớm, có gởi gì cho ba mầy, đưa tao mang giùm cho?...

          -Dì Ba à,… con sắp đồ để sẵn trong giỏ xách đây rồi. Tính chút nữa qua bên dì Ba, gởi dì mang lên núi cho ba con… Con thấy người mệt ngả lưng chút, không ngờ ngủ quên mất …

          -Ủa, hồi chiều dì thấy cậu Hai bác sĩ có vô đây? Cậu ấy về thị trấn rồi hả con?

          -Dạ… Anh Hai bác sĩ có vô đây…  hỏi thăm bệnh tình của ba con…Anh Hai…

          Út Thiệt lúng túng, ậm ở. Đúng lúc ấy tôi bật lên tiếng ho. Thôi rồi, tôi thấy như trời sập. Dì Ba lên tiếng:

           -Cậu Hai bác sĩ còn đây à?

           -Dạ, dạ… con mời ảnh ly rượu… Ảnh không quen uống rượu, vài ly nhỏ đã xỉn, đi không vững… Còn vừa đỡ ảnh vào giường trong nằm nghỉ chút… con đang tính kiếm chút lá lẩu, giã lấy nước cho ảnh uống giải rượu, để ảnh về…

          -Vậy hả?... Đưa giỏ đồ đây…Có nhắn gì cho ba mầy hông? 

          -Dì nói với ba con, làm vừa thôi… Đừng gắng quá sức, kẻo sốt rét nó quật lại thì khốn đó… dì à.

          -Ừa… Thôi dì Ba về bển. Ở nhà… nhớ giữ gìn cẩn thận… nghe con… Ngộ nhỡ, chuyện gì… tội nghiệp đó nghe… Có rõ lời di Ba dặn hông, Út?...

         Dì Ba nói vậy, nhưng dung dằng mãi rồi mới trở ra sân, miệng lầm bầm như tự nói với chính mình:

-Cái con nhỏ nầy, nói dối cũng không biết đường...

 Căn nhà im ắng. Tôi ra gian ngoài, thấy Út Thiệt ngồi chết lặng, hai tay ôm đầu, mặt cúi gằm. Tôi đặt nhẹ tay lên vai em: 

        -Út Thiệt à… anh xin lỗi… Anh thật vô duyên…

         -Dì Ba biết rồi… Sao đây, anh Hai?... Hổng biết dì Ba có nói cho ba em hay? Út Thiệt thẫn thờ như người mất hồn. 

         -Bây giờ…có lẽ anh phải về thôi… Anh ở lại đây, nếu di Ba biết chuyện, thêm phiền cho em.  Anh thật có lỗi…

          -Anh Hai không có lỗi gì… là do em… Út thật lòng thương anh Hai, mong có được những lúc ở bên anh Hai như thế này…Bây giờ thì Út hiểu anh Hai cũng thương em thật lòng …- Út Thiệt im lặng, khiến tôi bối rối, chân tay như thừa, còn lưỡi thì rụt lại. Chợt em mạnh mẽ - Anh Hai... Có anh Hai rồi, Út không sợ điều chi cả. Anh Hai không được về lúc này… Sẽ chằng còn khi nào được như đêm nay nữa ... Út muốn được gần gũi anh Hai, được anh Hai thương, được anh Hai… 

        Em nghẹn lời, nức nở. Lòng tôi tan nát. Tôi ngồi xuống bên em, choàng tay ôm lấy em, ghì đầu em vào lòng mình. Cả hai đều hiểu rằng, đêm nay là đêm của nhau, dành trọn cho nhau, dẫu có đất lở trời nghiêng thì cũng mặc…

 

        8.

          Ít ngày sau, tôi trở lại nhà Út Thiệt. Cửa đóng then cài vắng hoe. Chú chó vàng dường như đã quen hơi, thấy tôi, nó không xồ ra sủa, vẫn nằm sân, khễ ve vẩy đuôi ra chiều quen thân, nhưng cũng không mừng quấn quýt như những lần tôi đến mà có em ở nhà. Tôi ngó nghiêng, bần thần, lưỡng lự nên chờ đợi hay ra về? Chợt có tiếng gọi từ nhà bên:

       - Cậu Hai vô đấy à ?

       Thì ra, dì Ba gọi với từ nhà mình sang. Tôi hơi chột dạ, bà này đã biết chuyện giữa mình và Út Thiệt rồi, không khéo sinh phiền đây, đàn bà là hay lắm chuyện, thêm thắt này nọ. Nhưng trái lại với suy đoán của tôi, dì Ba vẫn bình thường, vui vẻ, giải thích,

        - Ba con nhà con Út sang bên Bạc Liêu mấy bữa nay rồi. Nghe đâu cha con về bển để sửa sang lại phần mộ của má nó. Bận rộn công việc, vài năm nay không về bển mà…
         Thấy tôi có vẻ băn khoăn, như muốn hỏi điều gì, dì Ba bảo:

         - Ba con nó nhờ tui coi nhà giùm… À, con Út nó còn nhờ tui là nếu thấy cậu Hai tới, thì nói với cậu Hai là chỉ mấy bữa nữa là nó về thôi. Hôm  nào rảnh, đi chợ thị trấn, nó sẽ vô thăm cậu Hại…

        Tôi nấn ná, ngắm quanh cảnh trước sau căn nhà của cha con Út Thiệt. Con chó vàng đã thân thiện hơn. Nó lẵng nhẵng bám theo chân tôi, ve vẩy đuôi, thỉnh thoảng sủa nhấm nhẳng vu vơ đâu đó. Nó theo chân tôi ra tận ngoài ngõ, đi một quãng, ngoảnh lại, tôi vẫn thấy nó đâu đó đằng sau…Tự nhiên tôi cam thấy thân thiện với nó. Không gặp em, con đường và hẻm núi như hoang vu hơn…

        Quả nhiên, mấy hôm sau, khi tôi ở phòng trực bệnh viện về căn phòng trong khu tập thể của mình thì thấy Út Thiệt ngôi đợi ngoài cửa. Em cố nói cười vui vẻ, nhưng tôi vẫn đọc từ nét mặt đến ánh mắt chút gì buồn buồn. Cũng như lần trước, Út Thiệt chuẩn bị sẵn mang ra cho tôi ít khô cá để ăn và khô nai để nhậu. Em chào hỏi vài câu xã giao thông thường, hỏi tôi ăn ở ra sao, tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện của hai chúng tôi. Rồi em loanh quanh dọn dẹp căn phòng của tôi, như công việc của một người vợ tần tảo. Không nén được, tôi ướm:

        - Thế ba em… đã biết chuyện của chúng mình chưa ?

        - Em hổng rõ… Vẫn thấy ba em bình thường như nọi khi…cũng không nói năng, mắng mỏ gì em cả…

        - Hay là… ba em chưa biết chuyện. Cũng có thể, hôm ấy, dì Ba cũng chỉ ngờ ngợ thôi nên không nói gì với ba em? Hôm rồi, anh đến nhà em, có gặp dì Ba, dì ấy cũng nói chuyện vui vẻ, bình thường mà… không thấy nhắc gì đến chuyện đêm nọ… Nhưng mà,…

        - Chi, anh Hai?...

        - Anh tính… hôm nào anh sẽ chủ động thưa chuyện với ba em về tình cảm của chúng mình… Nếu ba em không phản đối, anh sẽ nhờ bác giám đốc bệnh viện của anh, thay mặt cơ quan và gia đình anh, đến đặt vấn đề với gia đình em? Vì gia đình anh mãi ngoãi Bắc, xa xôi nên đành thế trước đã ?...

       - Đừng…anh Hai. –Út Thiệt lắc đầu quầy quậy- Lúc này, ba em đang rối bời… không phải chuyện của anh em mình đâu, mà là chuyện của ổng… Anh biết dì Ba nhà bên rồi đó… lâu nay bả thương yêu ba em… Ba em hình như cũng cảm động, nhưng không rõ ổng có thương bả không? …Song từ ngày má em mất đi, em lớn lên ngần ấy năm, tuyệt nhiên không thấy ba em để tâm đến bất cứ người đàn bà nào nữa… Nay ba em cao tuổi, kể ra, cũng nên có người chăm sóc… Với lại, dì Ba cũng là người tốt, bả khổ lắm, đời chồng trước của bả chẳng ra gì, lão ta thường say xỉn, chửi nhiếc, đánh đập bả thâm tím cả người, may cho bả là lão ta lăn đùng ra chết trước… Trước đây, biết chuyện dì Ba thương ba em, em ngầm đồng tình… là bởi, em lo, khi em đi lấy chổng, ba em sẽ cô đơn, nên cần có người đỡ đần ba em, chăm sóc ổng, làm nơi cho ổng nương tựa… Ổng mạnh mẽ vậy, nhưng thực ra cũng yếu đuối lắm… Mấy hôm theo ba em sang Bạc Liêu, em có rỉ rả với ổng chuyện này, nhưng ổng chỉ ậm ờ, chưa biết rồi sẽ ra sao? …Em có thắp hương cho má, khấn vái xin với má tha lỗi ba em, để ba lấy dì Ba,… và còn khấn xin má cho cả em… Nhưng giờ, thì tùy duyên phận… em thấy cũng không cần nữa… Có gì, em sẽ ở cùng ba em, chăm sóc cho ổng…

         Út Thiệt rân rấn nước mắt. Tôi lựa lời an ủi và đồng ý với em là để thư thư mới thưa với ba em chuyện của hai đứa. Em chào đòi về, chợt nhớ ra, bảo:

        - À... Ba em nhắn anh Hai, nói là chủ nhật này, nếu anh Hai rảnh thì vô nhà em ổng muốn rủ anh Hai cùng mấy người bạn làm than của ổng, lên núi săn một chuyến, cho biết đó…

        Nghe Út Thiệt nói, tôi vui lắm, nhận lời, cố gắng thu xếp công việc, đổi ca trực miễn sao được tham gia buổi đi săn. Chưa từng biết đi săn là thế nào, nhưng đọc sách, nghe kể chuyện về săn bắn, tôi thích lắm.

        Tôi đến y hẹn, Nước nôi, xã giao qua quýt, ba Út Thiệt lấy súng săn khoác lên vai, giục đi. Tôi hỏi những người đi săn cùng đâu thì ông bảo họ ở sẵn trên núi rồi, vì họ còn phải trông coi lán chứa than nữa. Khi hai người ra đến đường, chợt ông bảo tôi dừng đợi ông chút vì ông phải quay vào dặn dò con gái gì đó. Vừa nói với con gái, ông vừa hất đầu về phía tôi đứng, còn Út Thiệt chỉ thấy cúi đầu, khẽ gật ra chiều vâng lời. Lúc ông quay lung đi ra cổng, em ngẩng đầu tìm mắt tôi. Ánh mắt tôi và em gặp nhau, chỉ thoáng thôi, nhưng tôi đọc được ở em sự cô đơn, u buồn, da diết, bất lực và có gì đó ám ảnh… Tôi như bị đóng đinh chặt xuống đất bởi một luông điện nội sinh đánh nhoằng từ đỉnh đầu theo dọc sống lung xuống chân vào đất, người ớn lạnh ròi nóng bừng lên …

        Leo trèo một hồi, mệt vã mồ hôi hột, tôi cố bám theo ông để không bị rớt lại, mới tới được lán chứa than ở mãi sườn núi bên kia. Thấy ở đó hai người đàn ông, vẻ ngoài đều ít tuổi hơn ba Út Thiệt. Tôi chào thì họ chỉ gật đầu khẽ mỉm cười đáp lễ, nhưng gương mặt thì vẫn lạnh lìng, thản nhiên như không. Ba Út Thiệt hỏi:

        - Chuẩn bị xong chưa, mấy chú?

        - Rồi… chỉ chờ anh Tư đến…

        Tôi hiểu, anh Tư ở đây là ba Út Thiệt. Ba người trao đổi với nhau bằng khẩu ngữ địa phương, cộc lốc, tôi nghe chỉ hiểu loáng thoáng. Khi thấy hai người kia bưng ra đồ nhậu và một sũ sành rượu, tôi ngạc nhiên, vì cứ tưởng mọi người chuẩn bị xong đồ nghề đi săn, chứ không phải đồ nhậu. Mọi người tuần tự ngồi xuống chiếc chiếu bàng bày đồ nhậu, ba Út Thiệt bảo tôi:

        - Cậu Hai dô đi. Nhậu bậy miếng cho vui… Mùa này không phải là mùa săn đâu, để khi khác vậy… Tôi nói vầy… là muốn có cớ riêng để đôi ba câu chuyện với cậu Hai đây…

        - Dạ… Chú… chú Tư có chuyện gì hỏi cháu ạ?...Tôi nhói ở tim, chột dạ, nhẩm bụng, chắc ông già biết chuyện rồi, bày cớ để hỏi tội mình đây – Thâm tâm, tôi thấy lo thật sự, nhưng cố trấn tĩnh, tự biện hộ rằng mình thương yêu Út Thiệt, cô con gái cưng của ông thật lòng, chứ không phải là kẻ chơi bời, lợi dụng, tán gái lăng nhăng. Và nếu, cần để xử lý mình vì cho là mình tội nọ kia thì ông cũng đâu cần phải đưa mình lên tận đây với mấy người hỗ trợ thế này?- Tôi cố làm ra cứng cỏi- Con sẵn sàng nghe chú Tư dạy bảo ạ…

         - Hừ…Tôi đâu có tư cách chi mà dám dạy bảo cậu Hai... Ly đây… Cậu Hai là người nhỏ tuổi nhất ở đây, phiền cậu rót rượu ra ly đi.

         Ông đưa cho tôi chiếc ly duy nhất. Tôi lóng ngóng rót đầy, bưng hai tay để trước mặt ông.

         - Con kính chú Tư!...

         Ông không khách khí, cầm ly lên ngửa cổ làm một hơi cạn sạch, trả ly lại cho tôi, bảo:

          - Các chú và cậu Hai theo thứ tự dô đi.

          Theo phong tục của người Nam Bộ, tôi hiểu đây là mệnh lệnh, nên đến lượt mình, tôi cố bình thản một hơi cạn ly, uống sao cho không để sặc, dù chất rượu trong miệng và cổ họng tôi đắng như bọ nẹt. Chờ tôi uống xong, ba Út Thiệt hắng giọng:

          - Có hai chú em đây làm chứng, cậu Hai phải trả lời tui thành thật nghe…-Ông húng hắng ho mấy tiếng, ừa à mãi vẫn không thành lời, làm tôi càng hồi hộp-…Tui đã đã biết chuyện của cậu Hai với con Út nhà tui… Cậu Hai làm như thế là không phải rồi đó…Thương nhau thì tui không cấm, nhưng không được làm cái chuyện bậy bạ đó… khi chưa cười hỏi gì… Con gái tui, nó dại dột… Đáng ra, là người có học, hiểu biết lẽ đờì, cậu Hai phải thay tui dạy dỗ, bảo ban nó chớ… Đằng này…

         -Thưa chú Tư… thưa mấy chú. Chàu và Út Thiệt thương yêu nhau thật lòng… chúng cháu còn trẻ nên dại dột, nhưng tình cảm của cháu chân thành… Cháu đã nói với em Út, xin được thưa chuyện với chú Tư, rồi nhờ cơ quan cháu đến gặp gia đình ta xin phép cho hai đứa chúng cháu được quan hệ lâu dài, để đi đến hôn nhân… Thế nhưng, em Út chưa đồng ý việc này, bảo là để thư thư đã… Nhân đây, chú đã hỏi chuyện, thưa chú Tư… cháu xin phép được…

         - Không! Không được -Ông ngắt lời tôi, không cho tôi dài dòng thưa gửi gì hết -Cậu Hai nói hay lắm, nhưng tui không tin… Con Út nhà tui nghèo hèn, vô học, không xứng với người có học như cậu Hai… Lấy nhau, nó mang bụng bầu, rồi sanh vài ba đứa con, người ngợm bèo nhèo lôi thôi, rồi cậu Hai có còn thương nó hông? Hay cậu Hai chán chường mà bỏ nó à? ... Thiệt tình, con Út nhà này chỉ nên lấy những người làm than, mần rãy như tụi tui đây…

        Tôi nói nhiều lắm. Không hiểu sao đầu óc tôi tỉnh táo lạ thường và tôi cố gắng dùng mọi lời lẽ để thuyết phục, nhưng vô ích, ông già nhất định không nghe. Hồi lâu, ông nổi cáu, dường như để chấm dứt sự lải nhải của tôi, hoặc đã có chủ động trước, ông tợp nhanh một ngụm rượu, đứng phắt lên, vớ lấy cây súng săn treo trên vách lán, lên đạn đánh rốp, rồi đặt ngay xuống giữa chiếu nhậu.

         -Thôi, đủ rồi!... Ông dằn giọng- Với cái tội của cậu, đáng lý tôi có thể xử theo luật của những người đi săn, làm than trên núi này, là cho cậu một phát đạn… Vì cái tội gì, cậu biết không?... Ấy là cái tội không xin phép, vẫn lấy đi những thứ… của người khác…- Vì nể cái ơn cậu chữa bệnh cứu mạng tui… Tui biết, nếu tui bắn chết cậu thì con Út cả đời này nó sẽ không tha thứ cho tui… Cậu có biết là vì sao hông? Là vì...vì nó thương yêu cậu hơn thương tui, ba nó… còn hơn cả chính nó…- Mắt ông đẫm nước, cố nuốt khan cục giận, xẵng giọng- Tui tha cho cậu đó… Có hai chú ở đây làm chứng… Tui tha….

        Tôi chuyển từ nỗi sợ hãi sang cảm động, cảm thông với ông, nhưng tôi đau thắt lòng vì biết mình sẽ mất em vĩnh viễn. Sẽ chẳng còn có gì nữa giữa tôi với em, khi ba em kiên quyết như vậy. Song tôi cố cứu vãn tình thế, đứng lên, nhìn mọi người khắp lượt như cầu cứu.

        - Một lần nữa… cháu xin chú Tư… cho cháu và em Út Thiệt được gắn bó với nhau...

         - Đi đi! - Ông gầm lên ghìm trong họng, chạm tay vào khẩu súng, mắt long lên - Cậu đi mau đi, kẻo tui đổi ý!...

        Tôi tê tái, cúi đầu lặng lẽ chui ra khỏi lán trại. Ra bên ngoài, tôi liếc nhanh vào trong, thấy hai người bạn làm than với ông im lặng nhấp rượu. Còn ba Út Thiệt, đầu cúi gắm, vai rung lên, nức nở. Ông khóc… 

        Tôi đi như người mộng du, vô định, bước thấp bước cao, phập phõm, mấy lần vấp ngã, xước cả chân tay mặt mày. Xuống gần tời chân núi, nơi có lối rẽ vào sóc Khmer, tôi suýt đâm sầm vào một người. Cả hai đều giật mình, định thần, nhận ra nhau. Đó là Chau Khon, người bạn Khmer của Út Thiệt, mà cách đây không lâu, tôi còn cùng em vào tận sóc người bạn này ăn tết cổ truyền với gia đình họ, và đươc nghe câu chuyện tình duyên trắc trở của anh ta với cô nàng Neang Hên. Nhận ra tôi, chàng ta nắm chặt tay tôi xiết mạnh đau nhới, hồn nhiên bảo:

         -Anh Hai ơi… Tui quên chưa báo cho Út Thiệt biết, nhưng giờ tình cờ gặp anh Hai ở đây, báo để anh Hai và Út Thiệt vui, mừng cho chuyện của tụi tui êm đẹp rồi. Khi nào cưới, tui sẽ gừi Út Thiệt và anh Hai thiệp mời… Nhất định hai người phải đến dự đám cưới của tụi tui đấy.

        Chau Khon cười thật tươi, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt đầy niềm vui, chứa chan hạnh phúc. Chắc là lúc ấy mặt tôi nhìn ngơ ngác, thiểu não lắm, khiến cậu ta nhận ra, thôi cười, hỏi:

        -Ủa, bộ anh Hai bệnh sao?... Mặt anh Hai tái nhợt đi, lại có mấy vết xước nữa?...

       -Ừ… Tôi nhăn nhó-Có lẽ tôi bị sốt rét….Mấy bữa rồi tôi theo chú Tư, ba Út Thiệt lên rãy làm than… không may bị…

       -Anh Hai là bác sĩ… chắc biết cách chữa trị… Nhưng giờ anh Hai đang mệt… đường về còn xa, nên ghé vô nhà Út Thiệt nghỉ chút… Anh Hai có mệt lắm hông? Hay để tui đưa anh Hai về?...

       Tôi gạt phắt. Cảm ơn Chau Khon và giục cậu ta cứ đi công chuyện của mình, tôi tự lo được. Chia tay nhau, cậu ta cứ nhắc đi nhắc lại là thế nào tôi và Út Thiệt cũng phải thu xếp đến dự đám cưới của họ. Chau Khon còn không quên hỏi, xem đến chừng nào thì tôi và Út Thiệt làm đám cưới. Tôi cố làm vui, cười như mếu. Đợi cho câu ta đi một quâng xa, dường quá sức chịu đựng, tôi mệt mỏi ngồi bệt xuống một tảng đá ven đường, thở dốc. Nhìn dáng vẻ Chau Khon vừa đi vừa vung vẩy con dao đi rừng, thoăn thoắt lên dốc núi, thỉnh thoảng lại dừng, hét lên một tiếng vang động cả hẻm núi vì cảm xúc hạnh phúc, tôi thấy thèm. Giá như lúc này, tôi cũng thét lên tiếng gọi hoang dã như tổ tiên tôi thời nguyên thủy mỗi khi săn được con mồi, hay mỗi khi có đôi!...

 

        9.

         Dễ chừng, cả tháng dài lê thê, nặng nề và u ám. Tôi sống vật vờ, vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn trực ca ở bệnh viện. Tôi thấy may mắn làm sao khi mình đã không gây ra sự cố đáng tiếc nào cho người bệnh. Tôi sống bằng tiềm thức, mà đã là tiềm thức thì hơn cơn vật là mấy. Buồn cười là, có những lúc khám bệnh cho bệnh nhân nữ nào đó, tôi ao ước người bệnh đó là em, để tôi được gần gũi, chăm sóc, nâng niu. Nhưng khi ý thức được điều đó là không thể, tự dưng tôi lại nảy sinh ý nghĩ nanh ác là tiêm cho người bệnh ấy vài mũi tiêm nước cất, vô hại thôi, song người bệnh sẽ đau đớn. Rồi tôi tự thấy hổ thẹn với ý nghĩ muốn hành hạ người khác của mình. Dường như, tôi cố nghĩ ra một thứ gì đó để trút giận, để xoa dịu nỗi đau của mình? Sự thất vọng, ê chề vô tình đã biến tôi thành một con người khác. May sao, mọi thứ đều ở trong ý nghĩ!...

        Tôi chủ động, cáo ốm, xin bệnh viện cho nghỉ vài ngày. Thực lòng, đi làm, tôi lo mình dễ sa sảy điều gi. Ở nhà, ngủ, ngồi, đi đứng, vẫn không yên. Tôi lang thang đến nhà mấy người quen, lân la kiếm chuyện trò này nọ cho quên đi, v à nếu được ai đó mời mọc, tôi sẵn sàng lao vào cuộc nhậu hết mình...

         Vừa mới đó, tôi bỗng thành một bợm nhậu. Một hôm nhậu say, tôi lảo đảo về nhà, cứ nhằm cây cột điện bên đường làm đích, dăm chục mét một, bốn lần như vậy cũng về đến nơi. Lăn ra giường lịm đi, tỉnh dậy nôn thốc nôn tháo, mệt tưởng chết đi được. Tôi mơ màng tỉnh thức thì chợt thấy nước. Nước mát trên mặt, trên cổ rồi chảy tràn xuống ngực. Ô hô, tôi đang đứng dưới thác nước đổ tử đỉnh núi Rồng, mát rượi, sung sướng thay. Tôi ngửa mặt nhìn lên, muôn vàn tia nước li ti tung tóe, khiến tôi phải nhắm nghiền mắt lại vì sợ… Bỗng tôi không nghe thấy tiếng thác nước dội nữa. Im lặng. Tôi nghe ngóng và từ từ hé mở mắt… Một khuôn mặt con gái chập chờn, ghé sát mặt tôi. Hai, ba khuôn mặt nhập nhòa, rồi từ từ chập lại. Ai đây? … Thôi đúng là em rồi… Tôi há miệng, gọi nhưng giọng khé lại không thành lời…

       Mấy cái tát nhẹ vào hai bên má. Rồi cũng bàn tay đó xoa xoa trán, và day day lồng ngực tôi…

       - Thư… Thư đấy à?... Em về từ bao giờ ?...

       - Anh Hai tỉnh chưa?...Nhậu quá trời!... Thư cau có, vẻ trách móc.

       Thì ra, tháy tôi trong trạng thái sống dở chết dở như vậy, Thư đã dùng khăn mặt ướt lau mặt, cổ và người cho tôi tỉnh. Tôi định ngồi dậy, nhưng đầu choáng váng, mệt rã rời. Thư đỡ tôi nằm xuống.

       - Anh Hai nằm nghỉ chút nữa đi. Để em mua cho anh Hai ly chanh đá uống cho tỉnh.

       Thư nói rồi đi luôn, lát sau trở về đưa tôi bịch đá chanh. Rồi cô xắn tay áo, bê chậu nôn đi đổ, lau dọn nhà cửa. Tôi đã tỉnh, nhưng vẫn nằm im, vở nhắm mắt. ngầm quan sát Thư. Cô vừa làm, vừa khe khẽ ca một điệu vọng cổ. Ừ, mà ở đây, có ai tốt hơn, quan tâm và chăm sóc mình hơn Thư đâu. Người trông cũng được, song phải cái tính đành hanh, hiếu thắng, miệng lưỡi thi sắc lẻm. Tính khí thế, đàn ông gần bên dễ cảm thấy lép về hơn, khó mà chịu nổi. Mà sao cô ta lại quan tâm, săn đón và tử tế với mình vậy, khi biết mình yêu thích người đàn bà khác?...

       Xong việc, Thư dựng tôi dậy, như người chị gái chăm chút cho người em trai mình, cô mắng yêu:

       - Ông mãnh, trông người ngợm ghê chết đi được… Mới sểnh tay tui có hơn tháng nay mà trông đã như người rừng… - Thư vờ nghiêm- Này, anh Hai… có nghe rõ hông?...- Là em còn tha cho cái tội, vừa nãy, nhìn em nhưng miệng lại kêu tên người khác… Rõ ghét!...

       Thư mắng mỏ bằng sự hờn giận đầy yêu thương. Tôi không thấy bực như mọi khi, lòng vui vui vì mình vẫn được quan tâm. Có chút hung phần, tôi nở một nụ cười ngô nghê. Thư hoành hành thêm chập nữa, rồi bỏ đi, khi quay trở lại, cô bưng trên tay tô cháo gà nóng nghi ngút. Thư ép tôi ăn, thiếu như bón từng thìa. Dù còn mệt, ăn chưa ngon miệng, nhưng chiều lòng Thư nên tôi cố nuốt.

       Chủ nhật ngay sau đó, Thư về thăm nhà, cách thị trấn gần chục cây số. Cô năn nỉ rủ tôi về cùng. Tôi kiếm cớ từ chối, bảo để lần sau. Thư bực mình đây đảy một hồi rồi mới chịu đi một mình. Thực tình, tôi cũng quý Thư, nhưng chỉ xem là sự quý mến với tư cách là đồng nghiệp với nhau, hơn nữa thì cũng chỉ như một cô em gái. Thế nên, tôi chưa muốn xuất hiện ở nhà cô, vì lo ngại ba má cô hiểu lầm tôi là bạn trai, người yêu của cô. Khi Thư đi rồi, ngồi buồn, tôi lôi một cuốn sách viết về lịch sử, địa ly vùng đất Nam Bộ ra đọc, nhưng chữ nghĩa bay đâu khỏi tầm mắt. . Ngầm nghĩ, ừ mà sao mình không thử đến nhà Út Thiệt một lần nữa xem sao nhỉ? Mình đâu phải là người hèn nhát, kẻ xấu xa hay tội đồ, trốn tránh trách nhiệm, chối bỏ việc mình đã làm. Và nữa, mình cũng đâu có sợ ba Út Thiệt mặc dù ông đã giơ súng đe dọa…

      Nghĩ vậy, tôi quyết định ngay. Tôi đến nhà một người bạn, mượn xe máy đi cho nhanh. Dọc đường, tôi mường tượng ra cảnh sẽ gặp lại ba con Út Thiệt thế nào, và họ đối xử với tôi ra sao? Tôi còn nhẩm nghĩ ra những câu hội thoại mà tôi trù tính có thể xảy ra. Tóm lại, phóng xe trên đường mà tôi cứ ám ảnh trong đầu những kịch bản gặp lại, từ tốt đến xấu nhất… Đến lối rẽ vào chân rãy, tim tôi như thắt lại, hồi hộp, lo lắng…

      Nhà của em kia rồi. Tôi dừng xe, chống chân, lưỡng lự nên vào nhà hay quay xe trở về?... Nhưng nhìn kỹ lại, căn nhà như thể bỏ không? Máu dồn lên mặt, quên hết, tôi ào xe vào trong sân. Bỏ xe, tôi lao ngay vào nhà. Đẩy cửa, nhưng không được. Cửa nhà được đóng chốt lại cẩn thận, kiểu nhà không có người ở. Ba con em đi đâu rồi, tôi thảng thốt đờ cả người. Thôi đúng rồi, không thấy con chó vàng xồ ra như mọi khi, và trong sân vườn cũng không thấy bóng dáng con gà con heo nào. Tôi làm lũi đi vòng quanh căn nhà lá vài lần, đưa tay khẽ đẩy thử tấm phên che cửa sổ. Cũng bị đóng chặt. Tôi trở lại sân trước, ra cổng ngóng lối ngõ, rồi vòng mãi ra rãy sắn kế bên. Tất cả đều hoang vắng, không một bóng người. Lẩn quẩn, quan sát kỹ, nhận thấy những thân sắn, và đám rễ củ nhỏ bỏ lại vương vãi trong sân còn chưa mấy khô. Tôi nghĩ, hay cha con Út Thiệt lên rẫy, nơi có lán trại làm than tôi từng đến hôm nào? Nếu vậy, cùng lắm dăm ba buổi cha con cô sẽ về nhà thôi. Sao đây, mình có nên gửi xe để lên núi tìm cha con cô hay quay về, ít lâu sau trở lại? Tôi băn khoăn tự hỏi mình. Tôi phân vân, mải nghĩ, chợt giật mình, sững người, đột ngột phát hiện dì Ba đứng cạnh chiếc xe máy từ lúc nào.

       - Dì Ba… Con chào dì…

       - Bộ cậu Hai… tính gặp ba con nhà con Út sao?...

      - Dạ… con muốn gặp… để thưa lại chuyện của con với Út Thiệt… nhưng mà, nhà đi đâu cả rồi… dì Ba?

       - Đứng đây nói chuyện không tiện… Nếu cậu Hai rảnh, thì qua bên nhà tui, uống miếng nước, rồi hỏi gì thì hỏi… Nhưng mà, tui cũng chỉ biết chút chút thôi, cậu Hai à… 

        Ngồi trong căn nhà lá của dì Ba, nhìn kỹ thấy căn nhà này tuềnh toàng quá và chỉ hơn cái lều củi chút ít. Đồ đạc cũng sơ sài, trống rỗng, cô quạnh.

      - Dì Ba… sống ở đây có một mình sao?...

      - Ừa… Cậu Hai giờ mới biết hả? …Tui tưởng con Út nói cho cậu Hai biết rồi chớ? … Vợ chồng tui thôi nhau… Thằng lớn ở với ba nó, còn con nhỏ ở với tui… Nhưng nó đi lấy chồng vài năm nay rồi. Bữa nọ, con nhỏ sanh con đầu lòng, tui qua bển giúp nó chăm cháu… Khi về lại nhà, qua đây. thấy cha con nhà con Út bỏ đi mất rồi…- Dì Ba lau nước mắt, nghẹn lời- Rõ khổ!... Cuộc đời ba con nhà ổng sao cơ khổ!... Còn đi đâu nữa cho đời thêm cực?... Ổng già rồi, còn con nhỏ thì phải lấy chồng chớ. Cứ nay đây mai đó với thiên hạ… biết tính sao?...

       Thấy đì Ba khóc, tôi cũng rân rấn nước mắt, thở dài…

       - Tui nói vầy, cậu Hại đừng có giận… Tất cả tại cậu Hai đấy. Nếu không có chuyện cậu Hai đến đây, rồi quen và thương con Út, thì cuộc sống của cha con ổng đâu đến nỗi này, mà phải bỏ đi nơi khác sống!?...Trời xui đất khiến làm sao… bữa ấy, tui lại tìm mời cậu Hai vô đây chữa bệnh cho ổng chớ?... Di Ba rên rẩm, bứt rứt…

        - Dì Ba đâu có lỗi gì…Lỗi là ở con…Nhưng mà, con đâu có muốn thế… Thực lòng, con thương em Út Thiệt… con muốn xin với chú Tư cho con được cưới em Út… song chú Tư nhất mực không chịu… Tại sao lại như vậy, dì Ba?...

       - Là ổng lo sợ cậu Hai là người có học, đi đây đó, quê mãi ngoài kia, chỉ say mê nhất thời thế thôi… Sợ cậu Hai bỏ rơi con Út Thiệt… Tui có nói, nhưng ổng nhất định giữ ý mình… Tính ổng vậy, một lời như dao chém đá, đến chết cũng không thay…- Dì Ba sụt sịt- Cũng tại cả tui nữa… Sau cái bữa, tui bắt gặp con Út với cậu Hai ở chung nhà… tui lại đi nói cho ổng biết… Thiệt tình, tui cũng chỉ nói bóng gió, hình như là hai đứa thương nhau thôi… Rồi ổng đùng đùng nổi giận, tra khảo con Út… và nó đã thú thiệt hết với ổng… Vậy mới có chuyện ổng dọa và đe bắn cậu Hai… rồi cha con ổng bỏ đi…- Dì Ba nghẹn lời,khóc…

       - Thì ra… Út Thiệt cũng biết rõ chuyện chú Tư vờ rủ con đi săn… mướn cớ đe dọa con, bắt con và em Út phải thôi nhau, sao dì Ba?

      Này cậu Hai… đừng nghĩ oan cho con Út mà tội nghiệp nó… Nó thương yêu cậu lắm… nó hổng biết chi về chuyện đó trước đâu, cậu Hai ơi… Nó cũng như cậu thôi… nghĩ ổng thân thiện rủ cậu đi săn… Ai dè, ông âm thầm tính toán làm chuyện ấy với cậu… Thiệt tội tình cho cha con ổng… Giờ hổng biết cha con phiêu dạt phương nào?...

        Dì Ba hết thở dài rồi nức nở. Tôi chợt nhớ, đã có lần Út Thiệt tiết lộ chuyện tình cảm của dì Ba với ba em, nên tôi hiểu nỗi đau của dì Ba cũng đâu kém gì tôi, và hiểu sự chua xót của những giọt nước này…

        - Dì Ba… vì sao ba con Út Thiệt lại bỏ đi, hả dì? Cứ cho là, chú Tư không chấp nhận chuyện tình cảm của con với em Út,…nhưng còn của ổng? …Con có biết dì Ba và ổng cũng tội nghiệp cảnh ngộ của nhau mà… hai người còn tính sống chung nữa, dì Ba ?…

        - Hết cả rồi… Cậu Hai ơi… Dì Ba ngước nhìn tôi, khóc sầu não hơn…Đời tui có còn gì đâu,…Lúc già tưởng gặp được người tử tế…tính nương tựa vào nhau cho đến cuối đời… Đâu ngờ, người tính không bằng trời tính... ông trời không thương nên chẳng cho… Vậy mới sinh chuyện bày đặt tai ác để chia lìa con người ta…

        Dì Ba nức nở, kể lể, than vãn mãi, Tôi tê dại, chẳng cảm giác được gì. Chỉ biết, có hai con người, một già một trẻ cùng chết lặng trong căn lều tuềnh toàng, một người nước mắt chảy ràn rụa trên mặt, một người nước mắt ngầm vào trong, đều xót xa, thương cho người mình yêu, tủi cho thân phận bạc bẽo, bẽ bàng…

        Lặng đi hồi lâu. Tôi gắng gượng nói những lời an ủi, cho dì Ba ư, không, là cho chính bản thân… Tôi cáo lui, Đứng tần ngần trên mảnh sân con con sỏi đá lẫn với cỏ dại, lổn nhổn, tâm thần vô định…

       - Cậu Hai ơi… Tui quên, con Út có gởi tui một bức thơ cho cậu Hai đây nè… - Dì Ba móc túi áo bà ba lấy đưa tôi mảnh giấy xé vội từ một cuốn vở học trò gấp tư, bảo – Chắc con Út nó ném qua cửa sổ vào nhà cho tui… Tui đọc không nổi, nhưng nghĩ là nó nhờ tui chuyển cho cậu Hai… Cậu đọc mau đi, xem ba con nó nói gì … Liệu có biết ba con nó đi phương nào hông?

        Tôi hồi hộp mở thư, đọc lướt nhanh một lượt, Út Thiệt giải thích lý do vì sao cha con em  phải bỏ đi nơi khác, xin lỗi tôi và hẹn gặp lại nhau ở kiếp sau.

       - Dì Ba à… không thấy nói đi đâu cả…-Tôi buồn rầu,

       - Vậy à?...- Dì Ba thở dài đánh sượt, lau mước mắt- Hôm rồi, tui xuống thị trấn, lân la hỏi chuyện… Có người quen nói rằng, thấy cha con ổng xuống một chiếc tắc-ráng theo kinh Tám Ngàn, chạy xuyên đồng tram về hướng Hòn Đất, Kiên Lương, Rạch Giá chi đó… Lại nghe đâu, ổng đã tích cóp tiền bán than, nhượng lại mấy rãy khoai mì.. lấy tiềm sắm chiếc tắc-ráng này… chắc về lại quê bển, làm nghề chở thuê, hay thương hồ chi đó?...

       - Vậy là… mình có cơ hội tìm được ba con Út Thiệt không, di Ba?

       - Ừa… cậu Hai còn trẻ tuổi, còn sống lâu…lại đi đây đó… Nếu không tìm lại được con Út thì cậu còn có người khác… chớ tui… già rồi, lại sống nơi hẻm núi nầy…Thế là hết rồi… cậu Hai ơi!...

      Dì Ba không buồn nhìn tôi, lặng lẽ đi vô nhà, khép cửa lại. Im lặng. Tôi lắng nghe, chỉ thấy tiếng nức nở…

      Qua nhiều lần di chuyển nơi ở, nơi làm việc, đến nay, tôi không còn giữ được mảnh giấy Út Thiệt viết cho tôi, nhưng tôi vẫn nhớ và hình dung được tùng nét chữ của em…

       

       Anh Hai thương,

       Anh Hai ơi, khi anh nhân được lá thơ nầy thì em đã xa anh Hai rồi. Cùng không rõ ba em đưa đi đâu. Út không hận gì anh Hai, cũng không hối tiếc gì vì đã thương anh Hai như vầy. Em là người có lỗi, vì đã không giữ được lời hứa với anh Hai. Thương anh Hai nhiều lắm, nhưng em cũng thương ba em thiệt nhiều. Cuộc đời ba em đã khổ lắm rồi, nên em không muốn làm ba em khổ thêm nữa. Em đành chiều theo ý ba. Mong anh Hai đừng oán trách gì ba em mà tội nghiệp cho ổng.

       Em biết chắc là… em chỉ tiếc đã không lưu giữ được chút gì… Giá như, em có với anh Hai… thì mai sau em sẽ nói với con… rằng ba nó là người tốt nhất trên đời… và má nó yêu thương ba nó vô cùng…

      Thương anh. Hẹn gặp lại anh Hai ở kiếp sau.

      Út Thiệt.

      

       Tái thơ: Em quên, em không biết chuyện ba em dọa bắn anh Hai. Sau ba em nói, em mới hay. Ổng còn nói em nhắn với anh Hai là, đừng vì chuyện đó mà thù hận con nhỏ, tội nghiệp cho nó quá.

 

      Thâm tâm, tôi tự hổ thẹn với mình, bởi tôi không phải là người tốt nhất trên đời, như em nghĩ. Út Thiệt ơi, giờ em đang ở đâu? Em có còn nhớ đến tôi?

      Tại sao, tôi không là khách thương hồ đi cùng em trên chuyến đò dọc của cuộc đời này???... ./.

 

 

 

 

 

 

Nhận xét