Lưu trữ tư liệu
Tranh sưu tầm trên mạng,
@@@
Nguyễn
Chu Nhạc
TRUYỆN NGẮN
CHỌN LỌC
@@@
BIỂN CỦA MỘT THỜI
Nơi ấy là một bãi biển
nhà quê, anh đã gặp nàng hơn năm năm trước. Mùa hè đó, bạn bè người rủ anh đi
Sầm Sơn, người lại chèo kéo anh đi Đồ Sơn, anh từ chối hết. Anh chán cảnh những
bãi biển sầm uất đông người với những mông, những đùi. Tự nhiên đến cuối mùa
tắm, anh chợt nhớ đến một người bạn thân của mình hồi còn ở trong quân ngũ, quê
ở một làng ven biển. Anh có một tuần rảnh rỗi, để sau đó đi biệt phái mãi Tây
Nguyên hai năm. Thế là anh khăn gói tìm đến nhà người bạn.
Bạn anh mừng lắm. Cả gia
đình bạn đón anh nồng hậu, chân tình. Anh bảo bạn: “Ngày mai tôi sẽ đi đánh cá
với ông”. Bạn anh cười: “Được. Cậu cũng nên đi để biết người dân biển lao động
thế nào”. Mùa này, ngoài biển động, người dân ở đây ít đi khơi, mà chỉ đánh bắt
bằng các phương tiện đơn giản gần bờ. Anh theo bạn dậy từ sớm ra biển. Nước
triều lên cao còn chưa rút. Người đánh cá đẩy những chiếc lưới vét gọng dài.
Khi ra xa, nước ngập, họ phải đi bằng đôi cà khoeo. Anh không đi được, thế là
đành đứng ở chỗ nước nông mà nhìn. Trong màn sương buổi sáng, nhìn họ như những
chú sếu lêu nghêu trên mặt nước. Nghịch nước chán, anh quay lên bãi cát. Đúng
lúc ấy, anh thấy nàng. Nàng không xinh nhưng tỏ ra rất có duyên trong bộ đồ tắm
một mảnh màu đỏ, anh kịp nhận ra ngay điều đó. Nàng đi rón rén trên mặt cát,
hình như để nghe ngóng chính mình, thỉnh thoảng nàng ngoảnh đầu nhìn những vết
chân mình in trên cát. Cậu bé con, chắc con nàng, nhảy lơn xơn quanh mẹ. Buổi
sáng tinh mơ, ngoài biển toàn những người lao động., thành ra chỉ có anh và mẹ
con nàng là người tắm. Nàng khẽ so vai, không hiểu vì cái se lạnh của buổi sớm
hay nàng làm điệu bộ ra thế. Anh ngồi bệt xuống cát hướng ra biển, quay lưng
lại phía mẹ con nàng, song bằng cảm quan, anh vẫn biết được mẹ con nàng đang
chơi bong với nhau trên bãi cát. Cậu bé đá quả bong nhựa để nàng bắt rồi tung
lại cho nó và nó vừa đá vừa cười khanh khách. Nàng hình như cũng cảm thấy mình
đang bị dò xét nên chỉ cười nho nhỏ, song thỉnh thoảng lại lên giọng khuyến
khích con. Anh thầm nghĩ, nếu mình cứ ngồi mãi thế này thì thành Gia-ve mất,
bèn vùng đứng dậy, lao người xuống nước, sải tay bơi một chập ra ngoài xa. Từ
ngoài ấy, anh đứng lén nhìn vào. Nàng và con thôi chơi bóng. Nàng lội xuống
nước, dò dẫm từng bước, co ro một lát, rồi ngồi thụp xuống vã nước lên người.
Hình như nàng khẽ kêu lên thì phải. Khi đã dạn nước, nàng quay lưng về phía
biển, cụm tay té nước lên cậu con trai đang hò hét bên mép nước. Tự nhiên anh
mủm mỉm cười một mình. Anh bỏ mặc nàng vui đùa với đứa con, đi xem những người
đánh cá vét lưới. Bạn anh cười hỏi: “Thế nào, cậu có đánh được con cá nào
không?”. Anh thật thà: “Thì tôi có lưới gì đâu mà ông hỏi rỡn tôi vậy?”. Bạn
anh cười, hất cái nhìn về phía nàng: “Có con cá sộp trên kia kìa, ông cần gì
phải lưới”. Lúc ấy anh mới ớ người ra, bèn lắc đầu cười: “Tính tôi thật thà….
Cậu cũng tinh quái lắm”. Bạn anh: “Cũng không bằng ông”. Cả hai cùng cười vang.
Lúc ấy nhìn ra biển, anh thấy biển tuyệt vời làm sao. Rồi anh như quên đi tất
cả, anh sà vào đám ngư dân đang vét lưới, lăng xăng bên họ và luôn miệng ô a….
Xem chán chê, anh về. Lại thấy nàng và con đi trước anh một đoạn. Qua bãi cát
là đến một dải nước bên dưới sụt bùn. Cậu bé con thụt chân, quỵ xuống kêu oai
oái. Nàng vội vàng kéo con dậy. Anh đi đến đằng sau và tự nhiên anh buột miệng:
-
Dải
nước này sụt bùn lắm. Cẩn thận kẻo có chỗ nước sâu, cháu nhỏ không biết sa
xuống là khốn. Chị nên để ý đến cháu luôn.
-
Thế
ạ! … Cảm ơn anh. Nàng nhìn anh thoáng đỏ
mặt và như để lấp đi sự lúng túng của mình, nàng nhắc con – Đấy …. Con nhớ nhé.
Chú nói là có chỗ nước sâu đấy.
-
Bãi
biển này gần cửa sông nên có nhiều bùn. Với lại …. – anh giải thích – nước bị
phân luồng hay tạo ra những vùng xoáy. Nguy hiểm với cả người lớn nữa đấy.
-
Vâng
! – Nàng khẽ cười, mắt chợt ánh lên vẻ tinh nghịch – Chắc anh là cán bộ ngành
thiên văn hay địa lý gi thì phải, vì vậy anh mới thông thạo thế ….bởi anh đâu
phải là người vùng này?
-
À
…. Tôi chỉ nói theo sách thôi.
Vừa lúc ấy một tốp người
từ trong khách sạn ùa ra. Một người réo to:
-
Mẹ
con nhà này trốn mọi người mò ra đây sớm thế.
Một người khác thì đùa:
-
Thu
ơi! Mày tài ghê. Đã kịp có bạn tắm rồi đấy à!
Cả đám cười ồ, trêu nàng.
Anh lâm vào tình thế khó xử và tự mình cảm thấy mình là một kẻ tán gái rẻ tiền.
Anh chào lúng túng: “Tôi rẽ đường này”.
Ngay hôm ấy, lúc chiều
nhá nhem, anh đi ra biển. Anh men theo mép nước đi mãi. Biển lặng. Mặt nước bắt
những ánh ngày cuối cùng hồng lên chốc lát rồi ngả màu nhung xám. Những con
thuyền cá lác đác trở về. Phía xa hơn, thuyền đánh cá còn nhiều và mỗi con
thuyền thắp lên một đốm sáng làm mặt biển bớt mông muội. Thuyền đang về
đấy!.... Anh nghĩ đến nàng. Phải. Tự nhiên trong cái đầu hoang vắng của anh có
hình bóng của nàng. Tại sao lại chính là nàng chứ không phải là một người đàn
bà nào khác? Mà anh đã biết gì về nàng đâu. Anh hình dung về gia đình nàng.
Chồng nàng là một gã công chức tẻ nhạt .... Và gã ta còn không biết đến cả ghen
nữa .... Anh mỉm cười buồn trong bóng tối và nghĩ về mình. Anh cũng có vài ba
cái na ná như mối tình. Anh cũng chỉ là một gã công chức tẻ nhạt, thậm chí còn
tẻ nhạt hơn gã chồng nàng. Anh phải làm gì để cuộc đời bớt tẻ nhạt đi. Anh cũng
chẳng biết nữa. Anh nghe có tiếng hát. Anh nhìn ra. Triều đã rút rồi. Biển lùi
xa để lại những vạt cát ướt. Anh lần đến gần nơi có tiếng hát. Lại nghe cả
tiếng người lao xao. Đúng là nàng hát. Bài hát về một thời thiếu nữ, những đam
mê, tiếc nuối. Chợt một cô bé hét lên: “Ai ?”. Anh nghe tiếng nàng: “Ai đó?”.
Anh đến gần:
-
Tôi
.... Tôi đây .... Hình như là chị Thu.
-
Thì
ra là anh. Anh làm cho chúng tôi sợ quá. Nhất là mấy cháu nhỏ đây. Mà sao anh
lại biết tên tôi?
-
Thì...sáng
nay, tôi nghe mọi người gọi tên chị.
-
Thế à .... Anh đi đâu vậy?
-
Cũng như chị thôi. Tôi đi dạo. Xem thuyền cá về.
Thế là anh cùng nàng và
lũ trẻ dầm chân trên cát ướt, tha thẩn hết thuyền cá này đến thuyền cá khác.
Trăng lên, lũ trẻ chơi với nhau, tản ra xa hai người. Khi chỉ còn anh với Thu,
anh chẳng biết nói gì. Nàng hỏi:
-
Anh
đi tắm biển có một mình thôi sao? Còn chị ấy đâu?
-
Tôi
chưa có gia đình.
-
Tôi
không tin – Nàng khẽ cười – Đàn ông các anh lúc nào mà chả nói là chưa có vợ.
-
Thật
mà! ... Tôi về đây chơi với một người bạn cũ ... Tình cờ gặp chị .... Tôi ....
Nàng chỉ tay ra ngoài
biển, bảo:
-
Theo
anh ở ngoài kia có gì?
-
Có
người.
-
Tôi
thì tôi cứ nghĩ chỉ có sóng và gió.
-
Thế
còn những đốm sáng kia thì sao! – Anh nói như hát - Cuộc đời đấy. Vì những đốm
sáng ấy mà chúng ta sống .... Nhiều khi, hạnh phúc ở ngay trước mắt ta mà ta
không biết!
-
Anh
nghĩ thế thật sao! ?
Anh nhìn nàng. Nhìn thẳng
vào đôi mắt nàng và anh thấy ở đó có những đốm sáng. Bọn trẻ không rõ từ đâu ùa
về, ríu ran.
Đêm. Anh khó ngủ. Có thể
anh vẫn còn lạ nhà. Ngoài kia là biển. Biển thì bao giờ cũng thế, chẳng vui mà
cũng chẳng buồn. Buồn vui là việc của con người. Anh nhớ....
Dạo ấy anh mới rời quân
ngũ, chuyển ngành đi làm. Một lần anh về quê. Quê anh là một vùng chiêm trũng.
Anh không sinh ra ở đấy. Có một thời gian, anh sơ tán từ Hà Nội về khi còn học
sinh. Anh không nhớ lối vào nhà người bác họ mình nên phải hỏi đường một cô bé,
đúng ra là cô gái chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Cô bé rất xinh, nó năng có
duyên. Tự nhiên anh nảy ý định tán tỉnh cô bé. Cô bé chỉ đường rồi, song anh cứ
đứng ì không chịu đi. Cô bé bảo: “Sao anh không đi đi. Không sợ lạc đâu”. Anh
vờ nhăn nhó: “Cô phải đưa tôi đến tận cổng. Đi trên đường làng tôi sợ chó lắm.
Nếu cô không đưa, tôi sẽ đứng mãi thế này”. Cô lại bảo: “Không được đâu. Đi với
anh, tôi ngượng chết. Người làng nhìn thấy, họ lại nghĩ này nọ”. Anh nói đầy
chất lính tráng: “Thì chúng mình này nọ với nhau cũng được chứ sao. Nếu cô nhất
quyết không đưa, tôi sẽ lập tức quay về thành phố, và …. đưa cô theo”. Cô khẽ
ngúng nguẩy: “Cái nhà anh này, ăn nói mới táo tợn làm sao … Mới lại thành phố
nhà các anh thiếu gì con gái đẹp, thiết gì con gái quê mùa”. Anh dấn
tới: “Quê mùa à … Quê mùa tang tính tình tang … Bố mẹ tôi quê đây … Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Thầy u mình
với chúng mình chân quê”. Cô che tay bụm miệng cười: “Anh làm thơ hay quá”.
Anh nhận liều: “Thơ tôi đấy. Tôi sẽ tặng cô”. Cô chỉ tay:“Thôi đừng tán
hươu tán vượn mãi. Quần anh có cỏ may kìa... Với lại .... Tôi phải về xay lúa
đây”. Cô lẩn nhanh vào ngõ hẹp ngay cạnh đó. Anh ớ người gọi: “Kìa ! ...
Cô gì ơi”. Chỉ còn nghe tiếng cô khẽ rúc rích sau hàng rào dâm bụt um tùm.
Mấy ngày đầu về quê, anh khoanh chân uống rượu với các bậc huynh trưởng
trong họ, liên thuyên đủ các chuyện trên trời dưới bể làm mọi người phục lăn.
Những lúc đi thăm thú trong làng, anh đều để ý theo dõi xem có thấy cô bé đâu
không và có đến vài ba bận anh biết cô đứng ở một chỗ khuất nhìn theo anh, tới
khi khi phát hiện ra thì cô vội lẩn mất. Anh tự nhủ: “Cô bé phải lòng mình
rồi”, và anh đi đến một quyết định táo bạo là trong vòng một tuần ở quê phải
tán đổ cô bé. Vài ngày sau đó, anh theo lũ trẻ ra tắm ở ao làng. Anh chạm trán
với cô. Cô gánh một gánh cỏ trâu to tướng. Anh níu quang gánh của cô lại nói
nhỏ: “Sao mấy ngày hôm nay cô trốn tôi”. Cô nhìn anh trân trối: “Đâu ... Tôi
phải làm đồng chứ”. Anh nắm cổ tay cô thì thầm: “Cô đẹp lắm. Tối nay cô ra chỗ
gốc đa gần cái cầu gì ấy”. Cô vội vã: “Cầu Đá Bia ... Nhưng tôi không ra đâu
... Tôi phải họp Đoàn .... mới lại sợ ma lắm”. Anh khẽ gắt: “Cô phải ra. Họp
thì để hôm khác, còn ma thì đã có tôi. Nhớ đấy!”. Câu cuối anh nói như ra lệnh
làm cô rúm người lại, xuýt để tuột gánh cỏ khỏi vai. Sợ lũ trẻ biết, anh bỏ cô
chạy gằn theo bọn chúng. Đến lúc anh nhảy xuống ao bơi, nhìn lên thì cô đã
không còn ở đó. Cơm tối xong, anh thấp thỏm rồi tìm cách lẻn đi. Trời tối lại
không thạo đường, anh lạc loanh quanh mất một lúc rồi cũng tìm thấy đường. Khi
anh vừa tới gần cây đa thì anh nghe có tiếng chân người chạy ra phía đằng sau
rồi ánh đèn pin quét loang loáng. Tiếng bác họ gọi anh: “Thằng Tuân đâu! ....
Tuân ơi”. Anh sững lại trước ánh đèn pin và chỉ kịp nghĩ: “Thế là hết”. Bác họ
anh vỗ vai anh bảo: “Thôi về đi...Nghe bác, không cần phải giải thích”. Anh
sượng sùng, ngoan ngoãn đi theo. Được một quãng, bác họ anh nói rất chân tình:
“Mày mê nó à? Cái Cúc ấy... Nhưng mày có biết không, xét về họ hàng nội tộc, nó
là vai cô mày, bằng vai với tao, với bố mày kia đấy... Nếu nó chỉ là người làng
thì tao mặc kệ”. Trên đường về nhà, anh nghe thoảng có tiếng chân người bước xa
xa phía sau lưng. Đúng là cô bé Cúc rồi. Cô đã ra đợi anh ở đấy từ trước.
Anh ra thành phố sớm hơn dự định. Đến chỗ anh gặp Cúc hôm về, anh để ý. Cạnh
hàng rào hoa dâm bụt còn hằn vết chân người lẩn quất và ở đó những cánh hoa dâm
bụt bị nát xé lả tả. Rõ ràng là Cúc vừa đứng ở đó và mới bỏ đi. Có lẽ cô vẫn
thầm theo dõi nhưng không muốn giáp mặt anh. Tới cây đa cầu Đá Bia anh dừng lại
nhìn về làng. Làng quê thật bình thản. Anh đã làm tổn thương trái tim của một
người con gái quê mùa mộc mạc.
Sau này, anh biết cô bé lấy chồng, con nhà khá giả ở làng bên, hắn vũ phu
và ghen tuông đến bệnh hoạn. Sau lần ấy, trong các mối quan hệ với đàn bà anh
thận trọng hơn, cho đến lúc anh gặp nàng....
Đêm ấy, anh nghĩ miên man, đến gần sáng mới ngủ được, và anh đã dậy muộn.
Buổi chiều anh mới ra biển. Nàng đang tắm cùng với những người đi trong đoàn.
Bãi biển này là điểm du lịch mới nên không đông khách, vả lại cũng là cuối mùa
tắm vì thế cả bãi tắm chỉ khoảng dăm chục người. Nàng ôm phao tập bơi. Hai chân
nàng đập nước tung tóe. Cặp chân nàng khá đẹp, thon dài và trắng ngần. Triều
đang rút. Chỗ nàng tắm nước chỉ cao trên bụng một chút. Thấy anh, nàng bảo:
-
Anh tắm quanh quẩn ở đây nhé. Tôi đang
tập bơi. Nhỡ ra có làm sao thì đã có anh...
Nàng nói vậy chẳng khác nào mời chào. Anh nhận lời mà lòng đầy hồi hộp. Anh
bày cách cho nàng đạp nước để đẩy phao đi. Thân thể nàng làm cho anh chói mắt.
Nàng tuột phao, chới với. Anh ào vào, đỡ nàng lên. Và anh cứ ôm nàng như thế
không chịu bỏ ra nữa. Anh nhìn ra biển, mọi người díu phao vào nhau lênh đênh
ngoài xa, còn trên bờ, cậu bé con nàng đang nghịch cát. Cả một quãng biển vắng,
chỉ còn anh và nàng. Anh và nàng cứ thế lặng im.... Một phút, hai phút, ba
phút, rồi không nén nổi, anh ghé miệng hôn lên chân nàng. Mặt nàng đỏ lựng và
anh nghe tiếng nàng nén mình cố thở ra nhè nhẹ. Anh không biết điều gì sẽ đến
nếu như lúc ấy trên bờ không có tiếng người kêu. Nàng vùng ra khỏi anh nháo nhác
nhìn lên bờ. Cậu bé con nàng vẫn đang nghịch cát. Anh cũng ngơ ngác nhìn quanh
không hiểu chuyện gì. Thì ra, một ai đó thấy mấy chiếc phao bị triều xuống kéo
mãi ra xa, lo sợ mà kêu toáng lên. Lúc đó, mọi người chỉ còn quan tâm đến việc
đưa đám người trên phao vào bờ. Anh và nàng chẳng ai nói với ai câu nào. Lát
sau, nàng dắt con trở về khách sạn.
Tối về, khoanh chân trên chiếc chiếu trải ngoài sân uống rượu với bạn, sau
mấy chén, anh cao hứng ngửa mặt nhìn trăng, nghêu ngao mấy câu thơ. Bạn anh
đùa : « Hôm nay tôi thấy ông vui ha. Đích thị lưới ông mắc cá to
đây ? Nói nhỏ với tôi đi, tia được em gái nào trong xóm hả ? Tôi biết
còn làm mối cho » . Anh cười trừ, bảo không.
Đêm. Anh chợt nghe thấy tiếng hát Anh lắng nghe, chỉ tiếng gió biển lùa
hàng phi lao. Lắng thêm, quả là có tiếng hát, khi xa khi gần, khi trầm khi
bổng, không rõ lời, nhưng giai điệu thì da diết lắm. Anh bị hút theo thanh âm
đó, mụ mị lần theo. Nẻo đường cát sỏi quanh co đầy những hoa cỏ dại và dây gai
nhìn quen mắt mà chẳng rõ tên hiện rõ trong anh sáng trăng suông. Con đường anh
đi lút vào giữa bãi phi lao rồi đột ngột nhô ra bãi cát ven biển. Triều cạn lùi
mãi xa, để lại những lạch nước nông nhỏ. Anh chân trần lội qua những lạch nước,
lùng nhùng dưới chân những chú cá nhỏ. Anh cúi xuống nhìn kỹ thấy loang loáng
đàn có nhỏ màu sắc sặc sỡ, mà con nào vây bơi cũng xòe to hệt như cánh bướm. Lạ
kỳ, là mặt cá con nào con ấy nhang nhác mặt người. Anh nghe tiếng hát rõ hơn và
rảo bước về phía ấy. Gần đến mép nước, anh thấy rõ bóng người và thoáng rùng
mình. Nhưng rồi anh vẫn tiến gần bóng
người. Đàn bà. Dù người đó hơi nghiêng người hướng mặt ra ngoài khơi, song anh
vẫn nhận rõ qua mái tóc và khuôn ngực nhô cao. Anh đến gần ngay phía sau, người
đó vẫn hát khẽ và quay mặt lại nhìn anh. Nàng. Đúng là nàng. Nàng nhìn anh mà
như không thấy anh, bởi khuôn mặt và cái nhìn của nàng cho thấy nàng chỉ chú
tâm đến tiếng hát của mình. Anh sững người, chết trân, không biết nên đứng đấy
hay trở lui. Và thời khắc đó, anh mới để ý đến những lời nàng hát. Một bài hát
về biển, ca từ có nắng gió hiền hòa, có bão tố gầm thét, có những đàn cá nhỏ
tung tăng rỡn sóng xanh, có tiếng nước bị xé toạc và quẫy lên ngầu bọt bởi lũ
cá dữ lao mình tranh cướp săn mồi ... Anh nhìn nàng. Tự nhiên nàng nhoài người
xuống nước và tự thân eo của nàng cứ thon dài theo chân dính liền nhau và xòe
rẻ quạt thành chiếc đuôi cá. Cả thân mình nàng phủ một lớp vảy bạc lấp lánh.
Nàng tiên cá. Anh cứng họng không thành lời. Chợt có tiếng réo sùng sục, rồi một thân hình cá
khổng lồ đột ngột nhô lên, đớp gọn nàng tiêng cá vào họng và thụt ngay xuống
mất dạng nhanh như khi xuất hiện. Tiếng hát phụt tắt, và trong ánh trăng suông,
cùng nỗi khiếp hãi, anh vẫn kịp nhận ra hung thần cá có khuôn mặt đàn ông bành
bạnh. Lúc ấy, anh mới thét lên được. Anh choảng tỉnh. Thì ra là cơn mơ. Trên
bàn thờ nhà người bạn, ngọn đèn dầu hỏa hãm hạt đỗ vẫn sáng xanh lét vẻ ma
quái. Nằm im một lúc mà chưa hết bàng hoàng. Rồi sau đó, cứ nghĩ ngợi phấp
phỏng, không sao ngủ lại được. Mấy lần nghe gà gáy sáng, rồi thiếp đi trong mệt
mỏi ...
Sáng hôm sau, anh ra biển muộn. Mặt
trời lên cao, nàng và đoàn của nàng đã ở bãi tắm. Họ tắm cách anh một quãng.
Anh tìm cách lân la lại gần. Chuyện xảy ra giữa anh và nàng chiều qua hun nóng
chút tình cảm mới vừa nhen nhúm trong lòng, song giấc mơ đêm lại khiến anh rờn
rợn. Thấy anh, nàng gọi to tên của một người nào đấy. Và một gã thấp đậm từ
trên bãi lao ngay xuống. Gã nhăn nhở bảo nàng: “Người đẹp gọi, tôi xin có ngay.
Hy vọng sẽ làm đẹp lòng người đẹp”. Nàng bảo gã: “Anh dạy tôi bơi nhé”. Gã
trâng tráo: “Được. Rồi hai chúng ta sẽ bơi đến một đảo hoang và cùng nhau gieo
mầm ở đó”. Anh giận tím người, cảm thấy mình bị xúc phạm ghê gớm. Ôi, đàn bà!
... Anh chợt giật mình nhớ đến khuôn mặt người bành bành của hung thần cá trong
giấc mơ hao hao khuôn mặt gã đàn ông nhăn nhở...
Anh bỏ lên bãi cát, nằm ngửa nhìn
trời. Nắng lấp loá. Anh nhắm mắt lại nhưng anh vẫn hình dung thấy cảnh gã đàn
ông dìu nàng tập bơi. Anh ngồi dậy, lẩn thẩn đắp một lâu đài bằng cát. Anh nhớ
đến một câu chuyện rằng có hai đứa trẻ mới lớn yêu nhau, một ngày trước khi
chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, chúng cùng nhau tắm biển và xây một lâu đài
trên cát, xem đó là lời ước hẹn về hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc của chúng bị
chiến tranh đập nát như cái lâu đài bằng cát kia bị ngọn triều chờm lên
xoá sạch. Tình cảm vừa manh nha trong lòng anh không những mong manh như lâu
đài trên cát mà còn ngớ ngẩn làm sao. Nàng là gái đã có chồng. Cậu bé con nàng
xán đến bên anh. Nó reo lên: “Cái nhà của chú đẹp quá! Chú làm cho cháu một cái
đi”. Anh bảo nó: “Đừng cháu ạ. Cái này chỉ dành riêng cho chú”. Anh bỏ thằng
bé, ra về. Nàng cất tiếng gọi con mà như là gọi anh. Không, anh không quay lại.
Anh đi lững thững. Đến bìa làng, anh không nén nổi mình, nhìn lại. Nàng không
còn tắm nữa. Nàng đứng trên bãi cát. Bộ đồ tắm chói lên trong nắng gió.
Anh chán biển. Anh bị sức hút về phía
nàng. Anh lang thang ngoài chợ xem người quê mua bán rồi loanh quanh thế nào
anh lại mò vào khách sạn nơi nàng ở. Nhìn lên trên tầng thấy những bộ quần áo
phơi, anh biết đoàn của nàng ở đó. Anh lên cầu thang nhưng không dám vào. Anh
leo lên tầng thượng. Anh bắt gặp những đám cá tãi phơi khô. Những con cá cong
dần lên. Anh có nghe tiếng người, đưa mắt tìm. Kìa nàng. Đúng là nàng, đang
cùng mấy phụ nữ khác cẩn thận lật từng con cá. Anh sững lại giây lát, thở dài
thất vọng và trở lui.
Tối ấy anh chủ động nài bạn, uống say.
Bạn anh bảo: “ Sao thế ? Mới tối qua ông còn cao hứng đọc thơ kia mà. Nói
vậy... chứ tôi thấy vài ngày nay... ông tư lự thế nào ấy. Chợt vui chợt buồn ”.
Anh bảo: “Yêu” và cười ngất. Bạn anh lại bảo: “Để xổng cá sộp rồi
chứ gì”. Anh hung hăng: “Cá khô ... Đàn bà và những con cá khô”. Anh lại cười ngớ
ngẩn. Bạn anh khuyên: “Bằng tuổi ông mà tôi đã ba con. Tôi sắp gả chồng cho con
gái đầu. Lấy vợ đi ông ạ ... Không khéo rồi lại ... ”. Anh nói tỉnh bơ: “Hâm
hâm chứ gì”. Và anh đã uống ... Sáng hôm sau tỉnh dậy thì mọi người đã đi biển
từ bao giờ. Đầu anh nhức nhối. Chợt anh nghe tiếng còi xe. Nhìn ra, chiếc xe
khách từ cổng khách sạn trườn lên đường. Anh hiểu, nàng đã đi rồi.
*
* *
Sau hai năm đi biệt phái, anh trở về Hà Nội. Mảnh đất Tây Nguyên với bầu
không khí lạ làm anh cân bằng trở lại, song anh không quên nàng. Khi tuổi đã
cao, con người ta khó quên. Tưởng rồi chuyện sẽ qua đi theo thời gian nếu như
anh không gặp lại nàng. Anh đang ngồi nhâm nhi ly cà phê trong quán thì anh
nhìn thấy nàng mua hàng ở một hiệu tạp hoá ngay cạnh đó.
Nàng không mấy thay đổi so với hai năm trước. Anh bổ ra gọi tên nàng. Nàng
cũng nhận ra anh ngay. Anh mời nàng một ly cà phê và nàng đồng ý. Đến lúc này,
anh mới được biết thêm đôi chút về nàng. Nàng làm thủ thư ở một thư viện. Chồng
nàng là hoạ sĩ, bây giờ chuyên vẽ mẫu tiền. Hồi còn chưa lấy nhau, nàng đã từng
làm người mẫu cho gã sinh viên hoạ nghèo, tức chồng nàng bây giờ. Sau buổi gặp
lại nàng, anh có thể cân đo được tình cảm của mình với nàng. Anh không còn sự
khao khát của ngày nào. Còn nàng là một người khôn ngoan, ý thức được sự duyên
dáng của mình song cũng không hề lạm dụng sự duyên dáng đó. Nàng không có khả năng,
đúng ra là không đủ can đảm để phá vỡ bất cứ một cái gì mà nàng coi là chuẩn
mực. Nàng là người đàn bà của gia đình. Đúng vậy, ngày ấy trong khi anh đang
cháy lòng vì nàng và nàng cũng có phần nào nghiêng ngả nhưng nàng vẫn có thể
bình thản ngồi lật từng con cá khô.
Nghĩ thế song anh vẫn muốn thử nghiệm lần cuối cùng. Theo địa chỉ nàng
cho ; anh tìm đến nhà nàng vào một sáng chủ nhật. Nàng đón anh và giới
thiệu với chồng rằng anh là một độc giả thường xuyên nơi thư viện nàng làm. Anh
không cải chính. Chồng nàng khá phương phi, mày râu nhẵn thĩn, khác hẳn sự
mường tượng của anh về dân hoạ sĩ. Lúc đầu là nước trà, thuốc lá, sau đó
chồng nàng lấy ra chai rượu Uyt – ky Xcốt. Bốc lên, anh mang mớ kiến thức anh
đọc từ sách về hội hoạ tranh luận với chồng nàng. Gã ta nổi tự ái nghề nghiệp,
nói tràng giang đại hải về tranh siêu thực, tranh lập thể. Gã lên gác xép mang
hàng lô tranh của gã cho anh xem. Anh xem rồi và phán: “Anh nói rất hay về siêu
thực nhưng tôi thấy tranh của anh lệ thực lắm”. Và không hiểu sao anh buột
miệng:“Cũng như tiền ấy ... Chín đồng cộng với một đồng bằng mười đồng”. Gã
lặng người đi và anh biết là mình đã lỡ lời. Nàng vội xen vào để chấm dứt câu
chuyện về hội hoạ.
Anh về, nàng tiễn anh xuống tận đường. Nàng dặn anh nhớ lại chơi. Nàng còn
bảo muốn anh và chồng nàng thành bạn của nhau. Anh đang nghĩ là sẽ không bao
giờ quay lại nhà nàng nữa thì đúng lúc ấy nàng giục anh: “Hãy lập gia đình đi”.
Và anh lại buột miệng: “Không bao giờ”.
Giờ thì anh đã có vợ. Anh phải làm chủ cái gia đình bé nhỏ của anh. Vợ anh
là công nhân nhưng nhà máy không có việc đành xin nghỉ ở nhà. Hàng ngày, thị bê
cái tủ thuốc lá con con xuống rìa đường. Những lúc cáu gắt, thị bảo: “Giá như
chồng người ta thì đâu tôi phải thế này. Chồng ơi là chồng .... Anh chỉ còn thần
người ra. Cãi nhau ích gì. Thị ru con gái ngủ bằng cái câu: “Làm trai cho đáng
nên trai ... ”. Và mỗi lần như vậy, anh bỏ đi lang thang cho khuây khoả. Đã có
lúc anh thầm đặt ba người đàn bà cạnh nhau: Cúc, nàng và thị. Thật là ngớ ngẩn.
Anh nhớ đến những con cá khô. Rồi anh lại nghĩ về biển. Nghĩ về bày cá mặt
người, nghĩ về nàng hóa thành tiên cá, nghĩ về hung thần cá mặt đàn ông thô bỉ,
gớm ghiếc. Phải rồi. Biển chỉ có một thời. Giá ngày ấy anh không ra biển!
....
Con trâu Ba Gông
Xưa cô hàng xóm chưa chồng
hay sang giúp mẹ hay mong ta về...”
( thơ NCN)
Ngày ấy,
Việt dong
trâu đi chăn. Cứ cách hai ngày, nhà có một phiên trâu. Hợp tác xã của làng giao
một trâu cho hai hộ gia đình chăm nuôi theo hình thức luân phiên. Quy định
chung, môi gia đinh nhận nuôi trâu phải có nghĩa vụ nuôi con trâu được giao hai
ngày rồi mang trả cho nhà kia, cứ thế xoay vần.
Ngày nhỏ,
sống ở thanh phố, Việt đâu biết con trâu đầu cua tai nheo thế nào. Vậy mà, khi
về quê ở, phải đi chăn trâu, khổ sở là thế. Thường thì những ngày có phiên
trâu, bố mẹ Việt phải thay nhau đi chăn, hoặc nhốt trong chuồng cắt cỏ về cho
ăn, bởi anh chi em Việt phải đi học. Riêng ngày chủ nhật, các chị bận giíp bố
mẹ việc đồng áng thì Việt phải nhận việc mang trâu ra đồng chăn thả.
Thực ra,
việc chăn thả trâu không mấy khó. Hiềm nỗi, con trâu hợp tác xã giao cho nhà
Việt là một con trâu đực to khỏe, sứt mũi và có cặp sừng lệch, với một lai lịch
hết sức bất hảo. Nó khỏe và hay gây sự với những con trâu đực khác ở làng trong
các cuộc chiến tranh giành con cái mùa động dục. Người chăn nuôi nó trước đây
giằng kéo nó đến nỗi sẹo gỗ và dây thừng cứa đứt mũi nó, nên người ta phải tạo
cặp nẹp tre gông hai bên mõm. cổ buộc dây thừng vào đấy mà dắt. còn một sừng bị
mât bớt phần chôt nhọn gãy sau một trận
huyết chiến giành con cái. Thế là, thành cái tên Ba Gông.
Con Ba
Gông không phải lúc nào cũng gây sự. Thường thì, khi Việt dắt cho ăn cỏ dồng,
nó khá hiền lành, gặm cỏ ngoan ngoãn. Nó chỉ giở quẻ, mỗi khi trong khu vực
chăn thả có trâu cái. Nó phát hiện con cái động dục qua việc ngửi mùi nước đái.
Mỗi lúc vậy, nó bỏ ăn, hít hà mũi lần theo mùi tìm con cái. Việt khổ sở, gắng
sức giằng co với nó để dứt nó khỏi cơn đam mê... Mà bận săn cái thì đâu thèm
gặm cỏ. Đến lúc thấy đói thì nó sắn sàng băng qua ngòi bơi sang bờ bên kia sà
vào ruộng lúa mà ngoạm lấy ngoạm để cho thỏa cơn đói thèm ăn. Đã có lần,
con Ba Gông ăn vẹt cả vạt lớn lúa, bị người gác đồng bắt được, dắtvề làm bằng
chứng, hợp tác xã phạt nhà Việt cả trăm điểm công lao động.
Đám trẻ
trâu trong làng hay chăn thả trâu với nhau có mươi đứa, toàn con trai, chỉ có
Vân và Thân là con gái. Cái Thân nhỉnh hơn Việt một tuổi, khô gày và nói năng
bỗ bã như con trai. Còn cái Vân thì hơn Việt những ba tuổi, nữ tính, vẻ người
lớn nhất bọn. Những ngày mưa dầm, hoặc những ngày quá nắng, cả đám thả trâu
trên bờ mương thủy lợi, rủ nhau vào quán Cổ Thạch ngồi tán gẫu, đánh chắt, chơi
ô ăn quan. Học lên cấp 2 mà Việt đã đọc hết truyện Tam Quốc nên thỉnh thoảng
mang ra kể cho cả đám nghe. Chúng nó thích lắm. Thường thì Việt chỉ kể từng
chương hồi một. Trong khi đám con trai, thắng Chiến, thằng Đấu chỉ thích nhưng
hồi như Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào, Tam anh chiến Lã Bố, thì
cái Vân chỉ thích nghe chuyện về Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn lập mưu để cha
con Đổng Trác, Lã Bố hiềm khích hại lẫn nhau... Nó bảo, sao đàn ông thâm hiểm,
độc ác thế, sao đàn bà lại khổ sở làm vậy, càng đẹp cáng khốn khổ... Điều này
thì Việt chẳng biết giải thích làm sao cho thỏa...
Bọn trẻ trâu quen nghe Tam Quốc, nên hay
giục Việt kể chuyện. Nhiều hôm Việt không có hứng, lờ đi thì chúng nó lén xua
con trâu Ba Gông nhà Việt xuống sông, bơi sang bờ kia. Việt không biết bơi,
đành chịu, phải nhờ chúng nó bơi sang dắt về, và để trả công Việt phải kể một
hồi Tam Quốc, hay Tây Du Ký, Thủy Hử gì đấy. Chuyện ấy, cái Thân thì hùa theo đám con trai, còn
Vân lại không đồng tình. Nó bảo, Việt gày yếu thư sinh thế, phải giúp đỡ chứ ai
lại chơi xấu kiếu ấy, gì cũng trong họ ngoài làng với nhau. Thật đúng cách nghĩ
của người lớn, xứng đáng chị cả của đám trẻ trâu.
Riêng với
Việt, xét về họ hàng xa cỡ 'bắn đại bác
mới tới". cái Vân là vai em. Trong lòng, Việt thích nó, kiểu trai gái
thích nhau. Việt mười hai, Vân mười lăm, con gái vào tuổi bắt đầu dậy thì, vú
và mông mây mẩy từng ngày. Hàm răng trắng đều đặn, cặp môi mỏng, nét cười
duyên. Đã có đêm, Việt ngủ mê thấy cái Vân trần truồng tắm sông. Tỉnh ngủ, cứ
tiếc mãi, mong mơ tiếp xem sao...
Từ khi
phát hiện, mình thích cái Vân, Việt mong đến ngày có phiên trâu chăn để thấy
mặt Vân. Nhưng cái Vân lớn hơn, phải giúp nhà làm việc đồng áng khác, thinh
thoảng mới đi thả trâu. Có lần, buổi chiều, Việt tranh thủ giúp bố mẹ mang trâu
thả ăn cỏ ven bờ sông làng. Trời chiều muộn, dang định dắt trâu về thì máy bay
giặc ập đến. Súng phòng không và tên lửa của ta giăng lửa bầu trời. Tiếng máy
bay gầm rít, làm con trâu Ba Gông hoảng sợ, nó lội ào xuống sông, còn Việt sợ
rúm chúi vào một góc quán Cổ Thạch. Mảnh bom đạn chát chúa quanh đó. Đúng lúc
ấy, cái Vân gánh cỏ về qua đấy, cũng quẳng bỏ quang gánh chúi vào quán. Hai đứa
cùng rúi một góc, cúi gằm đầu vào lòng, hai tay bịt chắt tay phòng tiếng động
lớn thủng màng nhĩ. Một ánh chớp lóe sàng bừng kèm theo tiếng nổ lớn, Việt sợ
quá ngã rúi rụi vào cái Vân, vô tình rúc đầu vào lóng nó. Nó cũng sợ phản
sạ tự vệ ôm chặt Việt vào trong lòng như quả bóng người quện lấy nhau. Trong
cơn sợ hãi, Việt vẫn cảm nhận được cả khuôn mặt mình như úp gọn vào khoảng lũm
giữa hai bầu vú mây mẩy của cái Vân. Qua cơn sợ, nhưng cả hai vẫn không buông
nhau ra, Việt còn cố tính rụi rụi cà nhẹ lên đôi núm mẩy. Vân bớt sợ đưa một
bàn tay lên khẽ xoa đầu Việt. Choảng tỉnh, cái Vân khẽ nâng đầu Việt lên khỏi
lòng nó. Việt vừa sợ vừa thích, mắt rơm rớm nước. Cái Vân cười nhỏ, trêu
là Việt khóc đấy à. Hai đứa rời nhau ra,... Lúc ấy, Việt chợt nhớ đến con trâu
Ba Gông, vội nhìn ra, thì không hiểu sao, nó không bời qua bờ sông bên kia như
mọi lần, mà lại tự lên, đừng ngay ngoài quán, khẽ nghiêng đầu, nghếch chiếc mũi
sứt, tròn mắt nhìn hai đứa ôm nhau, cái mũi sứt trồng ngồ ngộ như cười. Trời
nhá nhem tối, cái Vân gánh cỏ đi vội như chạy, còn Việt dắt con Ba Gông thũng
thẵng theo sau cách xa một quãng dài. Nhìn cái bóng bước nhanh như chúi về phía
trước, không hiểu sao Việt chợt nhớ tới lời mẹ mình bảo, sau này con lớn lên
chớ lấy người đàn bà có dáng đi như vậy, bởi số người ấy sẽ vất vả, long
đong...
Sau lần
ấy, hai người ít chạm mặt nhau, bởi Vân không đi thả trâu nữa, mà phải làm việc
đống áng của gia đình. Vắng bóng Vân, Việt thấy việc thả trâu thật tẻ nhạt,
chán phèo. Việt cũng chẳng hứng thú gì với kể chuyện Tam Quốc, Tây Du, Thủy Hử nữa. Con trâu Ba Gông dường như
cũng bớt quậy phá hơn,... Hình như nó cảm được sự thay đổi tâm tính, sự lớn dần
lên thành người lớn trong con người Việt, nên không coi Việt là trẻ con để nó
khinh thường, quậy phá bắt nạt,...
Chiến trường miền
Việt tốt
nghiệp phổ thông đúng vào thời điểm chiến tranh kết thúc. Học tiếp lên đại học,
thi thoảng về làng, gặp đây đó những trai làng nhập ngũ năm nào đã phục viên
hoặc chuyển ngành, nhưng tuyệt không thấy bóng dáng cái Vân đâu, Dò hỏi thì có
người bảo, ở chiến trường, Vân yêu một chàng bộ đội lái xe và có thai với anh
ta rồi sinh con. Sau giải phóng miền
Nhớ đến
cái Vân, lại nhớ thằng Chiến, thằng Đấu và con trâu Ba Gông. Hai thằng Chiến và
Đấu đều nhập ngũ vào những đợt tuyển quân cuối cùng của cuộc chiến tranh và
không đứa nào trở về khi chiến tranh kết thúc. Một đứa bị sốt rét ác tính chết,
còn một, nghe đâu hy sinh trước cửa ngõ Sài Gòn. Còn con trâu Ba Gông, khi Việt
vào cấp 3, nhà không có người chăn nên trả lại cho hợp tác xã, giao cho hộ khác
ở cuối làng nhận nuôi. Sau nó già yếu, giảm sức kéo nên bị giết thịt. Việt nghe
mẹ nói, bộ da nó dày tốt nên người ta đem thuộc và dùng để sửa mặt trống cái
của làng. Vậy là linh hồn của con trâu Ba Gông vẫn còn theo tiếng trống mỗi khi
làng có việc mang trống ra đánh,...
Có một thời gian dài, Việt ít về quê.
Chuyện là, bố Việt ốm rồi mất. Mẹ thì ra thành phố trông con giúp mấy chị gái
của Việt. Còn Việt thì sau khi tốt nghiệp được điều vào công tác ở miền Tây Nam
bộ dăm năm, rồi xin chuyển về Sài Gòn làm việc, lập gia đình với một cô gái gốc
Bắc và định cư luôn ở đó. Ngôi nhà trên mảnh vườn quê bỏ không một thời gian,
do người chị cả lấy chồng làng bên trông nom. Hơn chục năm, mẹ Việt chán ở phố
đòi về quê sống. Thế là mấy anh chị em góp vốn sửa lại căn nhà cũ cho khang
trang, sạch sẽ để mẹ sống. Tiếng là bà cụ ở một mình nhưng họ hàng làng xóm
ngay cạnh, và nhà chị cả cũng gần đấy, năng qua lại chăm nom. Sống vậy, túc tắc
vườn tược, cây cối nên mẹ Việt hơn chín chục tuổi đầu óc vẫn minh mẫn. Mẹ ở
quê, dẫu xa xôi phương
Có lần, Việt ở quê, mẹ bảo là đi xa nhiều
năm, làng giờ sủa sang chùa cũ thành mới, nên qua chùa thắp hương lễ phật và
công đức chút tiền của. Việt nghe lời mẹ, vào chùa làng, lòng vẫn nhớ hình ảnh
ngôi chùa làng bé nhỏ cũ nát với sư già ngày xưa. Không ngờ, chùa làng giờ
khang trang, bề thế. Lễ phật xong, Việt làm việc công đức thì nghe tiếng mô
phật đằng sau, ngoảnh lại thấy sư trụ trì. Vị ni sư nét mặt quen quen, ngờ ngợ
nhưng không đoán ra ai người làng. Khi ni sử bảo "Ông đi xã lâu ngày về làng, công đức chùa, xin cảm tạ tấm lòng của ông
dâng đức Phật". Lúc ấy, Việt mới nhận ra ni sư chính là Vân. Nhận ra
nhau, uống chén trà, nói dăm ba câu chuyện mới vỡ lẽ về cuộc sống của Vân. Ngày
ấy, Vân mang con tìm vào quê người lính lãi xe Trường Sơn thì hay tin anh ta đã
hy sinh. Vân không muốn trở về quê bèn tìm việc làm và ở lại vùng quê ấy sinh
sống. Nhan sắc có, nên dăm năm sau, Vân lấy một người trong vùng chết vợ, còn
đứa con riêng được gia đình người bố xin nuôi vì nhà họ cũng hiếm người. Cuộc
hôn nhân sau chẳng ra gì, rồi đổ vỡ. Vân làm nụng kiếm tiền thêm thắt phụ giúp
gia đình nhà họ nuôi con gái. Thấm thoắt ngày tháng con bé lớn khôn. Vân từ
người giúp việc cho một ngôi chùa ở đó, xuất gia đầu phật làm ni sư. Trong một
lần về quê, thấy ngôi chùa làng cũ nát, không sư trụ trì, các vãi làng phải cắt
đặt thay nhau trông nom, bèn xin về đây trụ trì, bỏ công sức gây dựng nên cơ
ngơi khang trang ngày hôm nay. Vậy là, cái Vân, con gái làng xưa nay ni sư pháp
danh Thích Diệu Vân, người có công với đời sống tâm linh của dân làng...
Từ gần năm nay, mẹ Việt đổ bệnh, nằm liệt
một chỗ, phải ăn qua ống xông, nên lúc nào cũng phải có người trông nom bên
cạnh. Các anh chị em trong nhà cắt cử, thay phiên nhau chăm mẹ. Nhà đông con
nên cũng đỡ. Thế nhưng, vất vả nhất là người chị cả lấy chồng trong làng, rồi
đến Việt. Dù xa xôi cách trở, nhưng Việt thu xếp ra chăm mẹ thường xuyên. Tết
này, dịch covid bùng phát, Việt mắc kẹt ở quê, vì vùng quê của Việt có ca mắc
dịch. Làng bị phong tỏa. Cổng làng bị rào kín, bịt tôn che hết. Người ta chỉ để
một cái lỗ to như miệng thủng bên dưới để trong ngoài tiếp tế qua đó. Hai chị
em Việt như đánh vật trông nom mẹ, bởi thiếu thốn nhiều bề.
Đêm giao
thừa, người chị cả bận cỗ cúng giao thừa nhà mình, lại vướng cháu nhỏ không qua
được. Một mình Việt, vừa cúng giao thừa vừa chăm mẹ. Mẹ Việt yếu lắm rồi, phải
mở nội khí quản để thở và hút dịch đờm, Già lão, sức yếu, đờm dâng lên nghẹt
thở, nên cứ vài tiếng Việt lại phải xốc mẹ dậy dùng máy hút đờm cho bà cụ thở.
Loay hoay một mình, cực quá, tủi thân. Dẫu nam giới cứng rắn đấy nhưng cực quá
muốn trào nước mắt. Nói dại, nhỡ cụ đi lúc này thì biết xoay xở sao đây. Quá
giao thừa sang năm mới, Việt tựa ghế bên giường bệnh của mẹ, chợp mắt thiếp đi.
Chợt choàng tình vì nghe tiếng ai gọi cổng. Việt vội vàng ra mở cổng thì ra ni
sư Thích Diệu Vân. Việt ngạc nhiên lắm, miệng bạch thầy nhưng không biết ứng xử
thế nào cho phải phép.
Ni sư
Thích Diệu Vân chủ động bảo "Kìa, nhà ông mở công cho nhà chùa vào
chứ... Nhà chùa biết tin bà cụ mệt nặng, lại biết nhà ông có một mình, nam giới
chăm mẹ cực lắm... để nhà chùa đây giúp nhà ông một tay chăm cụ... Nhà chùa
cũng đã xong việc giao thừa bên chùa rồi mà...". Việt lúng túng, đưa
ni sư vào nhà...
Ni sư bảo
"Nhà ông cứ yên tâm... ngày trước, nhà chùa đã từng làm nghề chăm sóc
người già bệnh tật rồi nên biết việc...". Miệng nói tay làm, ni sử nhẹ
nhàng đỡ bà cụ lên... Việt thì cứ quanh quẩn chân tay như thừa... Ni sư vừa
chăm vừa hỏi chuyện bệnh tình bà cụ...
Có lúc,
cả hai người như lặng đi, chẳng ai nói câu nào. Việc nhà chùa thì Việt không
mấy biết nên chẳng dám hỏi thăm thế nào. Chợt ni sư bảo "Này nhà ông...
có còn nhớ con trâu Ba Gông xưa không đấy? Con trâu nhà ông nhận nuôi của làng
ấy?...". Việt bảo nhớ, thậm chí nhớ như in nhiều chuyện trẻ trâu xưa,
thì ni sư lại bảo "Sau này người ta
lấy da nó thuộc đi, đem sửa trống làng... Khi về trông coi chùa làng, nhà chùa
biết chuyện nên đã công đức làng một trống cái mới, xin đổi lại cái trống cũ
ấy. Nhà chùa đem về, cất giữ cái trống ấy trong kho nơi Nhà tổ của chùa... Ra
giêng ôn ổn, hôm nào nhà ông sang chùa thắp hương lễ Phật, rôi quá bộ xem cái
trống ấy, ông ạ" Nghe vậy, Việt ngẫm nghĩ, triết lý nhà Phật, vạn vật
chúng sinh theo vòng luân chuyển của trời đất đều biến hóa rồi siêu thoát cả,
lưu giữ vật chất mà làm gì. Đến cuộc đời mình, Thích Diệu Vân còn chẳng màng
sướng khổ nữa là, chẳng qua, đấy như hình bóng về làng mạc cửa một thời. Vừa
chăm sóc bà cụ, vừa thủng thẳng chuyện, một người thì “bạch thầy”, một người lại “mô
Phật”, cứ vậy, câu chuyện đứt quãng, không đầu không cuối...
Việt chỉ
biết vâng dạ... Tự nhiên, bao hình ảnh cả một thời trẻ trâu xưa cũ ùa về như
sóng cồn. Hình ảnh cái Vân, cái Thân, thằng Chiến, thằng Đấu và con trâu Ba
Gông hiện rõ mồn một.
Ấn tượng nhất là hình ảnh con trâu Ba Gông
hếch mũi, mắt tròn xoe nhìn Vân và Việt ôm chặt lấy nhau, rúm ró vì sợ ở một
góc Cổ Thạch quán trong buổi chiều bom đạn ngút trời ngày ấy...
Đất dịu dàng
Làng Giải Oan
nằm uốn mình theo thế cong của một con sông nhỏ. Đã như thế từ nghìn đời nay.
Chỉ có điều là số người cứ ngày một đông thêm dù trải qua bao biến cố của lịch
sử. Giờ đây, chiều dài của làng dễ hơn hai cây số. Từ xa nhìn về làng thấy dáng
của một con rắn khổng lồ. Chẳng hiểu thế đất có ảnh hưởng đến tính cách con
người hay không, song từ xưa đến nay, dân quanh vùng đều đồn nhau rằng người
làng Giải Oan khôn ngoan, tinh ranh, nanh nọc như loài rắn.
ở khoảng giữa
làng, kề với bờ sông có một khoảng đất vuông vức rất đẹp. Trên mảnh đất ấy xưa
chỉ có hai gia đình sinh sống, đó là nhà ông Đồ Sinh và ông Bát. Tuy xấp xỉ tuổi
nhau nhưng xét về họ hàng xa thì ông Đồ Sinh là vai chú. Ông Đồ Sinh đã vài lần
lều chõng đi thi nhưng không đỗ, buồn đời mở lớp dạy học và nuôi dạy hai con,
một trai, một gái. Còn ông Bát nhà có vài ba sào ruộng, quanh năm cấy cày, lúc
nhàn rỗi thì hai vợ chồng đi làm thuê cho nhà khác trong làng. Thường là bà Đồ
mướn hai vợ chồng ông Bát làm ruộng cho nhà mình. Tuy quan hệ chủ tớ nhưng được
cái ông Bát nhanh nhẹn, khéo mồm và ông bà Đồ Sinh cũng dễ dãi nên chuyện công
xá xuê xoa.
Vợ chồng ông Bát
có hai người con trai, người anh cả là Tông khá xảo quyệt, ngược lại cậu em tên
Tường lại ù lỳ, cục mịch, thêm tật nói ngọng. Vì nhà có hai con trai nên ông
Bát luôn để tâm đến việc mở rộng thổ cư để sau này xẻ đôi cơ ngơi cho mỗi con
một nửa. Những mùa sông cạn nước, ba cha con ông Bát hì hục lấy đất ở lòng sông
cạp bờ lấn ra sông, đến nỗi sau mấy năm liền như vậy khúc sông ấy hẹp lại thắt
eo bụng rắn. Chưa hết, thấy ông bà Đồ Sinh dễ dãi, ông Bát còn thủ tâm lấn sang
đất nhà ông bà Đồ. Một đêm mưa rét, ông Bát trở dậy, lay Tông và thì thầm điều
gì đấy vào tai nó. Hai cha con mở cửa ra ngoài, mang theo chiếc thuổng đào đất.
Khi cả hai đứng bên cạnh chiếc mốc đá đánh dấu ranh giới giữa hai nhà mới tần
ngần không biết nên làm thế nào. Tông thì thào: "Đào phéng nó lên, quẳng
xuống sông cho mất tích rồi sau lấn hàng rào dần". <!--more-->Còn
ông Bát lại bảo: "Mày ngu thế. Mất mốc thì ông bà Đồ biết ngay. Tốt nhất
là dịch chuyển mốc". Cứ thế, hai cha con dùng dằng mãi mỗi người một ý,
không ai chịu ai. Thế rồi vẳng lại từ phía xa trên đường làng có tiếng chân
người bước, hai cha con ông Bát vội bỏ về nhà, quên mang theo chiếc thuổng.
Mờ sáng hôm sau,
ông Bát dậy rất sớm, mò ra chỗ hòn mốc. Lạ thay, hòn mốc đá đã biến mất, chiếc
thuổng của nhà ông vẫn cắm phập ở đấy. Hòn mốc không còn mà chỗ đất chân mốc
lại không có dấu vết gì của sự đào bới. Sờ tay xuống chỗ đất đó ông Bát cảm
thấy bình thường cứ như là chưa bao giờ có hòn mốc ở đó. Trở vội vào nhà, ông
Bát gọi Tông dậy, lôi ra chỗ mốc chỉ cho xem. Tông cũng ngạc nhiên không kém gì
cha. Chợt Tông ú ớ kêu lên. Nhìn theo tay chỉ của con, ông Bát
thấy rõ ràng là hàng rào ranh giới như có sự chuyển dịch tự nhiên về phần đất
của nhà ông Đồ Sinh. Hai cha con bàng hoàng cứ ngỡ như nằm mơ. Nhưng không, cả
hai đều tỉnh, và rõ ràng đất nhà mình rộng hẳn, còn đất nhà ông Đồ Sinh hẹp
lại. Hai cha con nửa mừng nửa lo kéo nhau về.
Mãi mấy ngày
sau, bà Đồ Sinh mới phát hiện ra hòn mốc bị mất nhân một lần dọn hàng rào. Ai
động vào đây, nếu không phải cha con nhà lão Bát? Không phải một mà nhiều lần,
bà Đồ Sinh bắt gặp lão Bát lén ngắm cơ ngơi, vườn tược nhà bà một cách thèm
thuồng. Nhưng chẳng lẽ lại hỏi thẳng lão ta à. Nghĩ hồi lâu, bà Đồ Sinh bèn
bước vào sân nhà lão Bát vui vẻ
- Này ông Bát,
ông hỏi xem có phải thằng cu con nhà ông nó chơi nghịch đào mất hòn đá mốc hàng
rào không? Nếu cháu nó chót nghịch vứt đâu thì bảo mang về mà chôn lại, kẻo để
lâu hàng xóm láng giềng mất lòng nhau.
- Không đâu cụ
ạ. Thằng cu Tường nhà cháu ù lì, vừa điếc vừa ngọng biết gì đâu mà chơi đùa như
thế - Ông Bát vội phân bua.
Thấy vậy Tông
hùa theo cha:
- Thưa cụ là
đúng đấy ạ. Em cháu nó biết gì. Chắc là đứa nào đấy thôi... Hay là hai cụ bên
ấy lại nghi cho nhà cháu lấn đất? Nếu vậy thì nhà cháu xin
thề...<!--more-->
- Thằng cháu nó
nói vậy, nhà cháu sinh băn khoăn. Chẳng lẽ hai cụ lại nghĩ là...
- Thôi thôi - Bà
Đồ Sinh ngăn lại - Tôi có nói gì đâu, nghi gì đâu. Không phải thề bồi gì cả.
Thì ra ông Đồ
Sinh đã đứng ở bên kia hàng rào nghe hết chuyện và đến lúc ấy ông thủng thẳng
vọng sang:
- Đừng thề gì.
Trời đất linh thiêng lắm. Lòng dạ ai thế nào trời đất biết cả. Thôi chuyện xem
như chẳng có gì... Mà bà ạ - ông Đồ Sinh nói với vợ - Cần gì mốc. Người xưa nay
dạy là "đất có thổ công, sông có hà bá" mà...
- Thưa hai cụ là
nhà cháu mà có lòng tham định lấn đất của bên ấy thì trời chu đất diệt - Tông
thề thống thiết.
Còn ông Bát thì
cứ loanh quanh, miệng mấp máy mà không thành lời.
*
Thời gian trôi
qua, ông bà Đồ Sinh khuất bóng. Người con trai duy nhất là Kinh ra thành phố làm
công chức, thỉnh thoảng về quê thắp hương, còn người con gái lấy chồng nhà giàu
làng bên tháng đôi lần đảo qua quét tước, thăm nom vườn tược. Ông Bát cũng qua
đời sau khi cưới được vợ cho Tông. Đất nhà chia làm đôi, vợ chồng Tông ở phía
trong, bà Bát và cu Tường ở nhà cũ.
Vợ Tông không
kém gì chồng về khoản mồm mép. Mụ thành đanh đỏ mỏ. Đến miệng lưỡi liến láu như
Tông còn nhiều khi phải chịu. Họ có ba con, một trai đầu lòng và hai gái. Cu
Tường lớn lộc ngộc nhưng vì điếc, ngọng nên gái làng chê. Mãi đến gần thời cải
cách ruộng đất, một bà ở làng hay đi chợ búa đây đó dẫn về một cô gái lạ lưu
lạc, gán cho. Thế là Tường có vợ. <!--more-->Vợ Tường xinh ra trò, kiểu
cách lại có vẻ hoa nguyệt. Tường mừng còn hơn bắt được của, và đi đâu cũng lắp
bắp khoe mình có vợ đẹp. Nhưng rồi mãi mà vợ Tường chẳng chửa đẻ gì. Trong khi
đó, mụ thành đanh đỏ mỏ nhà Tông đẻ sòn sòn, vì thế mụ bắt đầu chê bai vợ Tường
không biết đẻ. Đi đến đâu mụ cũng rêu rao rằng: "Ngữ ấy đẻ gì. Rồi có mà
tiệt giống. Sau này đến phải nhờ thằng cu nhà này cúng hộ thôi". Rồi mụ
bầy tỏ sự thèm muốn chiếm nốt phần đất cha mẹ chồng dành cho Tường. Nhưng rồi
mụ lại không sống được để thực hiện ý đồ. Trong một lần bắt cua mò ốc, gặp trời
mưa, mụ chui vào chiếc quán giữa đồng cùng với mấy người khác để trú mưa. Sét
đánh xuống cây gạo trước cửa quán. Mụ ngồi ngoài cùng nên toác đầu chết ngay
lập tức. <!--more-->Những người khác ở phía trong nên chỉ chết ngất đi,
rồi sau tỉnh lại. Tông góa bụa, sống cảnh gà trống nuôi con. Người làng đồn
Tông có tướng sát vợ nên tránh xa y. Mấy lần Tông nhờ mẹ đi hỏi đám này đám
khác quá lứa nhưng hết thảy đều chối từ.
Vợ Tông chết thì
vợ Tường lấy làm sung sướng, bởi không còn lo lắng gì nữa. Vốn mềm mỏng, khéo
léo, vợ Tường chăm chút cho ba đứa trẻ mồ côi lúc tắt lửa tối đèn. Nhưng rồi
anh em Tông, Tường bắt đầu hục hoặc với nhau. Tường cục mịch hay ghen. Vợ lại
mỏng mày hay hạt, tính tình xởi lởi. Vì thế, cứ mỗi bận vợ tắm táp hoặc cho quà
mấy đứa con của Tông là Tường lại nổi máu lầm bầm chửi vợ. Và hễ vợ cãi lại là Tường
thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm vợ thâm tím mặt mày. Thực ra
Tường không ghét bỏ gì đứa cháu mà chẳng qua Tường không tin Tông, Tường đã
nhiều lần nói với mọi người rằng mặt Tông trông gian lắm. Có một lần đứa bé út
nhà Tông bị ốm, Tông loanh quanh chẳng biết làm gì, vợ Tường thương cháu lấy cỏ
nhọ nồi đánh gió cho cháu. Nó dịu sốt nhưng hễ vợ Tường đặt nó xuống giường để
ra về thì nó lại khóc thét lên. Mãi đến khuya vợ Tường mới lừa được nó để về
nhà mình. Tường nổi điên cho là vợ bị Tông dụ dỗ để tằng tịu. Tường đánh vợ
thất điên bát đảo, rồi lấy dao chặt phăng ngón tay út của mình và thề độc rằng. "Lần sau mà như thế này nữa thì tao chém cả mày lẫn thằng
Tông". Vợ Tường nhìn ngón tay út của chồng văng ra thì rú lên chui vào gầm
giường để trốn. Bà mẹ cuống cuồng xé vạt váy của mình để băng tay cho Tường.
Tông ở nhà mình nghe thấy hết và biết là Tường nghi ngờ và đánh oan vợ song hắn
cũng sợ sự hung bạo điên cuồng của Tường mà chẳng dám sang can. Thực ra, Tông
cũng thích vợ Tường thật. Hắn thích từ lúc vợ hắn còn sống kia, nhưng vì sợ con
vợ thành đanh đỏ mỏ nên đành chịu. Từ khi vợ chết, lại thấy vợ Tường hay đi lại
chăm sóc mấy đứa con hắn thì hắn nuôi chí chiếm đoạt vợ Tường. Hắn biết vợ
Tường hay tắm vào ban đêm lúc hạ oi nồng. Bể nước mưa nhà Tường lại ở ngay kề
hàng rào khúc gần giáp với nhà hắn. Và thế là cứ đêm về, hắn nằm ru mấy đứa con
ngủ và đôi tai chuột của hắn cứ dỏng lên. Hễ nghe thấy tiếng nước róc rách là
hắn vùng dậy, rón rén đến sát tường rào, vạch lá khúc tần nhìn sang. Đêm sáng
trăng hắn nhìn thấy da thịt vợ Tường nõn nà, hai bầu vú thây lẩy thì hắn thèm
lắm.<!--more--> Đã có lần hắn định vạch rào chui sang nhưng lại sợ vợ
Tường kêu lên, đành nuốt nước miếng chịu thèm. Lúc trở về giường ngủ, nhìn vào
đâu hắn cũng chỉ thấy bóng hình vợ Tường nõn nà, khêu gợi. Hắn lèm bèm chửi
thề: "Mẹ cha thằng Tường. Người nó như cục cứt mà sao lại vớ được con vợ
ngon lành đến thế!".
Thèm muốn là thế
nhưng sau lần này thì hắn tởn. Hắn kinh sợ thằng em ngu đần, điên khùng của
mình. Song thâm tâm, hắn vẫn thèm muốn và nuôi ý định chiếm đoạt em dâu.
** *
Bao biến cố lịch
sử dồn dập: hòa bình lập lại, giảm tô, cải cách, rồi lại chiến tranh... Những
đứa con của Tông khôn lớn dần. Vợ chồng Tường vẫn chưa có con. Người làng đồn,
lúc chưa lấy Tường, vợ Tường là gái hoa nguyệt nên mắc bệnh gì đó rồi mất khả
năng sinh con. Ông Kinh, con trai cụ Đồ Sinh, đang làm công chức ở Hà Nội, bỗng
nhiên mang vợ con về quê sinh sống. Ông Kinh nói rằng về quê lánh đạn bom,
những người làng thóc mách lại nói rằng ngày trước ông Kinh dính gì đó với Tây
nên bây giờ không được làm với nhà nước nữa. Bà con, họ hàng làng xóm người
giúp cây tre, người giúp bó rạ, dựng căn nhà tường vách đất cho gia đình ông
Kinh ở. Thật chẳng khác một vòng quay của sự chuyển dịch, ba gia đình lại sống
bên nhau, nghèo khó, lầm lụi. <!--more-->Tuy vậy, ở với nhau một thời
gian cũng sinh chuyện. Ông Kinh là người có học, nhường nhịn mọi người nên mọi
chuyện cũng xuê xoa đi. Trong thâm tâm, ông Kinh ghét Tông bởi anh ta chỉ thơn
thớt cái mồm nhưng tâm địa đen tối, ngược lại ông quý Tường vì anh ta cục mịch,
chân chất và ngay thẳng. Nhưng không ngờ, từ sự quý mến đó lại vô tình dẫn đến
cái chết thương tâm của Tường.<!--more-->
Chẳng là, gia
đình ông Kinh nuôi một con chó cái đẻ giữa nhà. Con chó đẻ một bầy con. Tường
sang chơi, thấy bầy chó con thì thích lắm. Tường thật thà bầy tỏ: "Con
không có tiền, khi nào bầy chó ăn cơm no, ông có bán cho con xin con còi nhất
đàn". Ông Kinh vui vẻ đồng ý. Vì là chó còi nên nuôi mãi không lớn. Tường
mang đi bán và thêm tiền bán mấy cái giỏ để mua một con chó khác về nuôi. Không
may, lúc tìm mua chó, Tường bị một con cắn vào tay. Tường cũng chẳng để ý gì.
Mấy tháng sau, nhân đám ma một cụ già ở làng, Tường đi đưa đám trở về, chiều
thấy người gây gây. Rồi Tường hung hãn dần lên, sợ nước, sợ gió, sợ lửa... Vợ
Tường thấy thế sợ quá, tru tréo lên làm cả xóm đổ đến. Mọi người gặng mãi,
Tường mới chịu nói là bị chó cắn hồi nào. Có người bảo lấy hạt đỗ xanh cho
Tường ăn, nếu thấy ngon, thấy bùi thì đúng là điên. Tường dốc cả vốc đỗ xanh
vào miệng nhai và nuốt ngon lành. Thôi thế là hết. Cả đêm ấy Tường lồng
lộn. Cả làng không ai ngủ được. Sáng hôm sau, Tường mệt lử,
ngồi rúm trong góc tối. Lại có người nói là lấy con dòi ở phân người sao vàng,
sắc đặc cho uống may ra khỏi. Vợ Tường vì quá sợ nên ai bảo thế nào cũng nghe.
Lúc đổ thuốc cho Tường, mọi người đều sợ Tường cắn. Nhưng rồi người ta cũng đè
ngửa được Tường ra, cạng chiếc đũa cả ngang miệng để đổ thuốc. Tường cắn nát
chiếc đũa, gẫy cả răng, máu me đầy mồm. Đến chiều thì Tường quá yếu, chỉ còn
nằm thoi thóp, chốc chốc lại nấc người lên để thở như có ai chẹt cổ. Lúc gần
chết, Tường tỉnh hẳn, gọi vợ lại gần. Vợ Tường thương chồng nhưng cũng sợ không
dám vào gần Tường quát: "Ông không cắn đâu mà sợ. Ông
sắp chết đây!" Vợ Tường đến bên chồng. Tường nhìn vợ hồi lâu rồi mặt cau
lại, nhăn nhúm: "Tao chết thì ở vậy mà giữ nhà, giữ đất. Mày mà lấy đứa
nào thì tao về tao bóp cổ chết cả hai". Vợ Tường khóc: "Khốn nạn cái
thân tôi, long đong cả đời mà chẳng ra người. Đến nước này thì tôi còn thiết gì
mà lấy chồng nữa hả trời".
Anh yên tâm mà
nhắm mắt. Cũng chẳng bao lâu nữa tôi theo xuống với anh, để anh tiếp tục đánh
tôi như ở dương gian". Tường nhìn vợ hài lòng: "Tao sẽ không đánh nữa
đâu'
Làng xóm vừa
thương xót, vừa buồn cười cho cái tính ghen quá đáng nhưng đầy tình yêu thương
của Tường với vợ. Tường chết, đám ma Tường rất đông. Thực ra, người ta cũng
chẳng yêu quý gì Tường nhưng cái chết kinh thiên động địa của Tường đánh thức
lòng nhân từ trong mỗi con người. Ông Kinh thì luôn cảm thấy mình có lỗi trong
cái chết của Tường.
Vợ Tường từ bấy
héo mòn và bệnh tật cô đơn. Chị ta mất sau chồng mấy năm, Tông lấy vợ cho thằng
con trai đầu. Nhường cho vợ chồng nó ở nhà mình, hắn mang con ra ở nhà Tường,
nói là nhang khói, giỗ tết cho vợ chồng Tường. Thằng Vẻn, con trai Tông có tính
tắt mắt từ nhỏ, đến lúc nó lấy vợ thì cái tính ấy càng tăng lên và nó theo
phường đạo chích. Xóm làng liên tục xảy ra các vụ trộm cắp và phần lớn nó là thủ
phạm, hay nó dắt khách về trộm của người làng.<!--more-->
Bỗng một hôm
Tông đi chợ phiên về dắt theo một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi. Người này da
dẻ hồng hào, mặt mũi khá đẹp, dáng người cao lớn, phốp pháp. Tông nói với làng
xóm rằng người ấy là vợ mới của hắn. Nhưng chỉ mấy ngày sau khi người ta tấm
tắc khen Tông lấy được vợ xinh đẹp thì người ta lại đồn ầm lên là cô vợ mới của
hắn bị hủi. Để ý người ta thấy đầu các ngón chân của cô ta to tướng, sần sùi.
Và thế là cô ta đi đến đâu, người làng cũng né tránh. Chẳng biết Tông có sợ bị
lây hủi không nhưng hắn vẫn sống rất hòa thuận với vợ. Thằng Vẻn thì bô bô một
cách công khai rằng cần phải đuổi cổ con hủi đi khỏi làng. Nó bị bố nó đe chém
mới bớt mồm. Rồi cô vợ mới này to bụng. Người ta bảo: "Có đẻ ra thì cái
giống ấy cũng hủi thôi". Nhưng bất chấp mọi lời nói xấu, thằng con trai do
cô vợ mới của Tông sinh ra rất bụ bẫm, kháu khỉnh, Tông quý con lắm.
<!--more-->Song một hôm Tông đi vắng về đến nhà thì cô vợ mới đã mang con
đi đâu mất. Có người nói chắc là cô ta mang con tìm vào sống ở Trại hủi mãi tận
miền Trung. Tông tức điên và lồng lộn như thú dữ đến hàng tuần, rồi hắn cũng
dịu đi. Nhưng sau đó hắn không còn dẻo quẹo cái mồm nữa. Người làng kháo nhau
rằng Tông quá đam mê cô vợ hủi khỏe mạnh nên bị ả ta bòn rút hết sinh lực, bởi
hắn gầy rộc đến thành hom hem. Tông qua đời không kịp gả chồng cho hai con gái.
Vợ thằng Vẻn đẻ
con trai. Mụ chẳng biết làm gì. Suốt ngày bế con tha thẩn nơi chợ búa, lúc
miếng bánh đúc chấm tương, lúc cái bỏng bộp. Vẻn vẫn hành nghề đạo chích. Một
lần hắn cùng gã bạn lẻn vào một nhà người ở làng bên không may cả hai thằng đều
bị con chó của chủ nhà đớp cho. Thằng bạn bị vào mặt, còn Vẻn bị vào tay. Trộm
cắp bị chó cắn xem như chuyện thường, nên chúng chẳng thèm để ý. Nhưng chỉ nửa
tháng sau, gã bạn lên cơn điên dại mà chết. Lúc ấy Vẻn mới thấy sợ. Hắn không
dám đến đưa đám gã bạn. <!--more-->Ngồi ru rú ở nhà, Vẻn biết rằng cũng
sắp đến lượt hắn. Đêm về, hắn đã cảm thấy khang khác trong người, nhưng máu đạo
chích vẫn cuồn cuộn chảy trong huyết mạch hắn và quyết làm một mẻ thật to cho
thỏa chí trước khi chết, cũng là tích góp thêm ít của để nuôi mụ vợ đoảng và
thằng con thơ dại của hắn. Lúc hắn ôm bọc đồ trèo lên tường chuồn ra ngoài thì
không hiểu vì sao hắn bị ngã xuống. Chủ nhà thấy động, hò nhau dậy bắt trộm.
Khi đèn đuốc soi rõ vào mặt hắn thì người ta thấy mắt hắn trợn lên, mồm đầy dãi
và hắn co rúm người lại, tru lên như chó bị đường cùng, răng nhe ra chực cắn.
Người ta trói hắn mang nhốt vào kho của hợp tác xã để hôm sau nộp công an.
Nhưng rồi thấy hắn lên cơn như người bị chó dại cắn, người ta sợ quá buộc chặt
hắn lại đưa về nhà hắn. Thấy vậy, mụ vợ hắn tru tréo ầm ĩ vu là họ đánh chết
chồng mụ. Hắn điềm nhiên bảo: "Không. Họ không đánh tao. Tao bị điên đấy.
Chó dại cắn tao. <!--more-->Tao sắp chết. Tất cả chúng mày xéo ngay ra
ngoài kẻo tao lên cơn cắn chết hết". Và sau đó, hắn chết thảm thương. Nhìn
cảnh hắn chết, cả làng xóm, trước đây ghét hắn vì hắn trộm cắp chẳng từ ai, nay
bỏ qua hết. Người ta tha thứ nhưng không biết khi hắn từ giã cõi đời có thanh
thản hay không?
Chồng chết, mụ
Vẻn không người chu cấp. Mụ chẳng biết làm gì. Mụ đói, con mụ đói và mụ bắt đầu
trộm cắp. Hai đứa em gái Vẻn chẳng ma nào ngó ngàng tuy chúng không đến nỗi xấu
xí, song quanh vùng biết cảnh nhà nên người ta tránh. Chúng bàn nhau bỏ nhà lên
mạn ngược sinh sống và nghe đâu lấy được chồng, rồi lập nghiệp luôn ở đó. Mụ vợ
Vẻn chẳng mấy quan tâm đến đứa con. Nhiều hôm sau đi đâu, nhốt và bỏ đói con ở
nhà. Hàng xóm thương tình cho ăn. Ông Kinh thấy vậy thở than. "Thật chúng
chẳng biết quý người. Trộm của, bỏ người". Đứa bé ốm đau
không được chạy chữa gì. Nó chết, mẹ nó định bó chiếu. Hàng xóm thương tình góp
gỗ mảnh đóng cho nó chiếc quan tài vỏ. Vợ Vẻn còn lại một mình. Mụ rao bán đất
nhưng người làng bảo đất ấy dữ, hại chủ nên có rẻ cũng chẳng ai dám mua. Mụ bỏ
nhà chẳng thèm khóa mà nhà mụ đâu có gì để phải giữ. Có khi mụ biệt đi đến vài
tháng mới thấy lai vãng vễ. Rồi nghe đâu mụ đau ốm, bị đòn chợ chết dúi ở đâu
chẳng ai hay.
Ông Kinh cũng
qua đời. Tính ông vốn cả nghĩ, lại cộng thêm sự lao lực để nuôi mấy đứa con ăn
học, nên chẳng thọ được đến cái tuổi "xưa nay hiếm". Mấy đứa con ông
ăn học thành tài ra thành phố lập nghiệp cả. Bà Kinh cũng ra ở với con.
Thế là cả khoảng đất ven đường lại ven sông ấy bỏ không.
* *
Suốt một thời gian dài không có người ở chăm chút, ba căn nhà vách đất tre rạ ấy, mái trũng xuống, tường đất lở, sân gạch đầy rêu và lá mun. Hàng rào khúc tần bị tơ hồng quấn lụi đi. Cây cối trong vườn tới mùa chỉ thưa thớt quả. Chỉ cỏ dại là tốt bời bời.Người làng, ai đi ngang qua cũng tiếc mảnh đất vuông vắn, tiện đường xá lại bị bỏ hoang. Thi thoảng, nhân chuyện gì đó, người ta cũng nhắc đến những con người đã từng sống trên các mảnh vườn,
Một hôm, có một
thằng bé chừng hơn chục tuổi, vận bộ quần áo tuy sờn cũ nhưng sạch sẽ, khoác
chiếc tay nải. Nó hỏi thăm vào làng Giải Oan. Nhưng khi nó hỏi đến nhà ông Tông
thì người ta ngạc nhiên song cũng chỉ đường cho nó. Thằng bé đi vào vườn của
hai nhà Tông, Tường. Đứng ở sân, nó cất tiếng gọi nhưng không có ai trả lời. Nó
cứ tần ngần mãi không biết nên đi hay ở. Lúc nó quay ra thì đã thấy phía ngoài
đường làng bên hàng rào khúc tần lố nhố người đứng. Họ chỉ trỏ và nói gì đó với
nhau. Nó định hỏi họ nhưng không biết sẽ phải hỏi như thế nào. Chợt nó nghe
thấy một người nói:<!--more-->
"Đúng là
con của lão Tông với mụ hủi ngày nào". Một người khác tiếp theo: "Hôm
qua cậu con trai ông Kinh từ Hà Nội về nói là hiến mảnh đất để xây nhà thờ
họ". Nó không hiểu hết những lời họ nói nhưng nó nhìn thì thấy nét mặt ai
cũng có vẻ hiền lành mà họ có phần còn biểu lộ vẻ vui mừng nữa. Trước khi chết,
mẹ nó có dặn nó đôi điều, nó vẫn nhớ hết, nhưng cả mẹ nó và nó cũng không thể
ngờ tới cảnh này.
Chợt nó nhìn
thấy ngay phía dưới chân nó đứng, một mầm táo dại nhú lên. Bỏ mặc những tiếng
người cười nói thêm phần ồn ào ngoài hàng rào, nó cúi xuống, đưa bàn tay khẽ
chạm vào mầm táo dại bụ bẫm...
Gánh càn khôn
“Một
gánh càn khôn quẩy xuống ngàn
Hỏi rằng chi đó?
Gửi rằng than…”
(Trần Khánh Dư)
Đêm
tháng giêng trăng mờ, bầu trời u ám. Nhân Huệ Vương Khánh Dư cùng người hầu thơ
thẩn bên bờ sông phía ngoài doanh trại. Nếu chỉ nhìn bề ngoài, người ta có thể
nghĩ ông đang tìm cảm hứng để làm một tứ thơ vịnh tháng giêng, nhưng không,
lòng ông cồn lên những cảm xúc lo âu, trăn trở sau trận thua đoàn thuyền chiến
của giặc Nguyên xâm phạm cửa Vân Đồn. Phải chăng ông đã phụ lòng tin cậy của
Tiết chế Hưng Đạo Vương đã giao ông toàn quyền công việc biên phòng nơi cửa ngõ
đông bắc, phụ lòng thương cứu vớt của quan
quân (một cách gọi nhà vua)? Nhân Huệ vương bỏ mũ, mặt hướng ra ngoài sông
hứng chịu luồng gió giá buốt phả vào. Cái buốt lạnh về thể xác đâu bằng sự tê
tái ở trong lòng. Lời hứa sáng nay của ông với quan Trung sứ còn văng vẳng bên tai, âm u trong đầu ông, từng từ một:
“Theo quân luật thì tôi cam chịu, nhưng tôi xin hoãn hai ba ngày để lập công,
lần sau sẽ trở về chịu rìu búa cũng chưa muộn”. Đáng lý ra, sau thất bại này,
ông phải chịu còng tay về chịu tội chết trước mặt quan quân, song may mà, Trung
sứ là người nhân từ, hiểu biết nên đã nhân nhượng hoãn lại cho ông. Làm như thế
cũng có nghĩa là quan Trung sứ đặt cược sinh mệnh của chính mình vào ông. Nếu
như thuyền lương của Trương Văn Hổ không qua đây, và nếu như có qua mà ông lại
thua thì điều đó có nghĩa là ông sẽ chết và Trung sứ cũng phải tội lây. Nhân
Huệ vương ngúc ngắc cái đầu tưởng tượng lúc phải vươn lên chịu chém. Thấy ớn
nơi sống lưng và da gà nổi khắp người, ông cố trấn tĩnh hít đầy lồng ngực gió
lạnh và từ từ thở ra.
Rồi
ông cũng nghe lời người hầu trở vào trướng. Sai người hầu mang rượu lại và cho
anh ta lui, còn lại một mình, ông tự rót rượu và nhấp từng ngụm nhỏ. Rượu đắng
nghét trong cổ như nuốt phải bọ nẹt…
Cái
thời ông còn là Thiên tử nghĩa nam (tức
con nuôi vua) của Thánh Tông, được ra vào cung cấm, ông đã gặp nàng. Thiên Thụy
công chúa được vua cha nhất mực yêu quý và dẫu nàng không phải là một đấng sắc
nước hương trời thì dung mạo nàng cũng thật tuyệt vời. Trong dáng vẻ nàng dịu
dàng, hơi u buồn bên ngoài, Nhân Huệ vương thấy được những cơn sóng ngầm cuộn
lên và sự bất chấp số phận để đi theo tiếng gọi của tình yêu ở nơi nàng. Chỉ
sau một lần gặp mặt, chàng Phó đồ tướng quân rồi Phiêu kỵ đại tướng quân trẻ
tuổi, tài cao, tiếng tăm nổi như cồn sau những chiến công trong lần đánh quân
Nguyên lần thứ nhất và đánh dẹp sơn Man đã thấy rộn lên trong trái tim một niềm
phấn khích. Chàng đêm ngày tơ tưởng đến nàng và Thiên Thụy công chúa cũng chỉ
ước ao đến một ngày nào đó, được sánh duyên với chàng Thiên tử nghĩa nam xuất
chúng. Nhưng thật ác thay, để xoa dịu mối bất hòa giữa hai nhà và lấy lòng Hưng
Đạo Vương, quan quân đã hứa gả cho con trai trưởng của Quốc Tuấn là Hưng Vũ
vương Nghiễn. Biết chuyện vỡ lở sẽ nguy đến tính mạng, nhưng sóng tình nổi lên
như bão gió cuốn phăng tất cả những vật cản trên đường đi, và thế là hai người
bất chấp, lao vào cuộc tình mây mưa. Và không may, chuyện thông dâm giữa Thiên
tử nghĩa nam và công chúa cưng của Thánh Tông, người mang tiếng đã là vợ của
Hưng Vũ vương Nghiễn bị bắt quả tang.
Thánh Tông nổi giận đùng đùng, phần sợ mang tiếng, phần lo Hưng Đạo Vương phật
ý bèn sai người tâm phúc đưa Khánh Dư ra Tây Hồ, trước mặt bàn dân thiên hạ
đánh cho chết, nhưng bên trong lại ngầm dặn nương nhẹ tay. Ai có thấu được nỗi
đau đớn trong lòng Nhân Huệ vương khi ấy? Nếu chết được thì mới chỉ nhẹ được
nỗi đau về thể xác, song Nhân Huệ vương không thể chết, phải sống để có ngày
ngửa mặt lên với đời. Bị cách hết quan tước, tha tấm thân rách nát, Khánh Dư
lui về Chí Linh, trông coi sản nghiệp cũ của Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Chí
Linh phong cảnh u tịch, lại cách Yên Tử không xa, nơi đây có thể xoa dịu được
nỗi đau trần thế bằng cuộc sống an nhàn chốn cửa thiền, nhưng tự sâu thẳm cõi
lòng, mối tình cay đắng với nàng chưa nguôi, vả lại lòng ham muốn chiến công và
danh vọng cũng chưa dứt, Khánh Dư âm thầm nuôi chí đến một ngày nào đó… Hằng ngày,
cũng nón lá, áo ngắn, quần cộc, Khánh Dư cùng đám thợ đốt than lên núi cưa cây,
làm hầm đốt than, rồi lúc xuống núi lại quẩy trên vai gánh nặng. Những lúc đổ
mồ hôi, sôi nước mắt, mặt mũi đen nhẻm, bước thấp bước cao, cơm nắm muối vừng,
nước suối, Khánh Dư mới thấm nỗi khổ của người dân cơ hàn. Ngẫm nghĩ, thấy ở
đời, hạt gạo, giọt nước và hòn than là quý nhất, bởi ba thứ ấy nuôi sống người
ta. Khánh Dư đưa ra triết lý hòn than,
nó được tinh luyện từ linh khí của trời đất thành cây và rồi lại luyện thêm
trong lửa khói để thành than. Nó chính như con người được nhào nặn qua sung
sướng và khổ ải, như chính bản thân mình vậy. Hễ ai hỏi gánh nặng trên vao
Khánh Dư là gì thì ông trả lời là gánh
càn khôn. Đúng là thế: “Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn…”. Đã làm người
đứng trong cõi trời đất này thì nghiệp chướng, căn quả có nặng đến mấy cũng
phải gánh, è cổ, sụn lưng, dập mặt xuống bùn cũng gánh.
Tự
ngẫm, Khánh Dư thấy mình đâu có làm gì nên tội. Mình tư tình với Thiên Thụy
công chúa cũng là lẽ thường tình của đấng mày râu, của một con người. Và nếu có
chút tự mãn sau những chiến công thì đâu đến nỗi bị vùi dập như vậy! Ta không
cam tâm trở thành nhà sư. Ta không muốn xa lánh cuộc đời. Vô lo vô nghĩ, nhàn
tâm thì cứu khổ, cứu nạn được cho ai? Ta không muốn thế!
Gầm
lên thành tiếng, Nhân Huệ vương mở choàng mắt, chống tay xuống mặt bàn, đứng
phắt dậy và vô tình ông gạt đổ chén rượu. Người hầu, giật mình ngã bổ ngửa về
phía sau, vì khi đó, thấy ông gục xuống bàn thiếp đi, bèn mang áo choàng lén
khoác lên người ông chống lạnh. Nhân Huệ vương nhìn trừng trừng phía trước giây
lát rồi ngồi xuống, nhẹ nhàng bảo người hầu: “Ta đã làm nhà ngươi phải sợ”.
Người hầu lồm cồm bò dậy, vâng dạ luôn miệng. Ông gọi: “Ta vẫn thấy khát, mang
bình rượu khác ra đây cho ta”.
Chén
rượu đầy, sóng sánh trước mặt. Nhìn chăm chăm vào đấy, ông tưởng như sóng Vân
Đồn đang cồn lên… Ừ phải rồi, cái ngày ta được ngẩng cao đầu, ngửa mặt lên với
đời đã đến. Đó là vào cái ngày, vua Thánh Tông mở hội nghị trên bến Bình Than
năm Thiệu Bảo thứ tư (1282), mùa đông. Người tâm phúc của Khánh Dư ở Thăng Long
mật báo cho ông biết chuyện ấy và thế là cơ hội đã đến, ông phải chớp lấy. Giặc
Nguyên hung dữ tràn vào bờ cõi, trong lúc nước sôi lửa bỏng này, nhà vua cần
phải biết dùng ngưới tài, hoàng tộc cũng như thứ dân phải đoàn kết một lòng. Từ
Lục đầu, ông xuất phát, cấp giong thuyền than cho kịp. Thật may sao, con thuyền
của ông gặp lúc triều xuống, gió to, xuôi dòng ngang qua nơi quan quân mở hội
nghị và Đức Thánh Tông đã tinh mắt thấy được. Biết có thuyền nhỏ của quan thần
đuổi đằng sau để gọi lại, ông tảng lờ. Đến cửa Đại Than thì kịp, quân hiệu gọi:
“Ông lái kia nhà vua có lệnh gọi”. Ông vờ làm kiêu và hiểu rằng thế nào Thánh
Tông cũng nhận ra mình, nên trả lời: “Lão già này là người buôn bán, có việc gì
mà gọi đến? Lời nói đó, kẻ phàm trần nào dám nói, chỉ có người quân tử, chí anh
hùng mới có được khẩu ngôn như thế. Quả nhiên, Thánh Tông nhận đúng là Khánh
Dư. Áo ngắn, nón lá, ông quỳ trước mặt vua. Đức Thánh Tông nhìn ông độ lượng và
khuyến khích, mà buông lời than: “
Trai
thời loạn, chí anh hùng chưa kịp thỏa thì điều ong tiếng ve lại đến. Ra trấn
thủ Vân Đồn, biên ải phía đông bắc giang san là ta chấp nhận đứng nới đầu sóng
ngọn gió. Trong vùng dân cư thưa thớt, ít ruộng vườn, toàn gò đồi, sông lạch,
phong tục, đời sống của cư dân toàn trông chờ vào việc làm ăn, buôn bán với
người phương Bắc. Khi điểm quân, ta giật mình vì thấy đa phần quân sĩ đều đội
loại nón của người phương Bắc. Thời bình dùng của người đã là không hay, lúc
loạn ly, binh đao thế này lại càng không nên dùng. Ta ban lệnh quân sĩ chỉ được
dùng nón Ma Lôi của Lộ Hồng là muốn tránh nhầm lẫn và cũng thể hiện lòng tự hào
dân tộc, kích tướng sĩ một lòng vì nước. Thật hại thay cho ta, khi người nhà
được lệnh mua nón Ma Lôi về bán chỉ được phép lấy lãi chút đỉnh bù công sức của
đám thừa hành, nhưng chúng lại nổi máu tham thu giá lên cao gấp đôi, kiếm lời
chia nhau. Thế là ta mang tiếng, để bọn xấu miệng hiểm lòng làm thơ cạnh khóe
rằng “Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh” (nghĩa là: Gà chó ở Vân Đồn đều kinh
sợ). Lúc ấy thì ta có trừng phạt đám người nhà đến mấy thì cũng không thể nào
rửa sạch được tai tiếng!
Nhân
Huệ vương nghe tiếng gà gáy, biết đêm đã sang canh ba. Đầu ông căng lên bởi
những dòng suy nghĩ chen lẫn nhau. Tính mạng ông như ngàn cân treo sợi tóc,
song điều đó cũng không thật quan trọng, bởi đã từng lên voi xuống chó, ông
không sợ chết, cao hơn cả là sinh mạng dân tộc, là sự tồn vong của vương triều
Trần mà ông đang phụng sự. Nếu như thuyền lương của giặc không qua đây và nếu
như ông không chặn nổi chúng thì khi ấy không biết điều gì sẽ xảy ra? Tự ngẫm
mình trung thực, một lòng vì quan quân, vì dân tộc, cái chết chẳng có gì đáng
sợ. Nhưng phải chết lúc này thì oan uổng biết bao, đáng tiếc biết bao. Và trong
sâu thẳm cõi lòng, ông khát khao chiến thắng, ông nguyện dâng chiến thắng đó
cho nàng, người đàn bà ông yêu thương nhất cõi đời, người mà ông đã chịu đắng
cay tủi hổ, chịu ô danh với sử sách, và ông phải có cái quyền được sống để mà
chiến thắng, để mà lấy chiến thắng ấy xóa đi vết nhơ trong sử sách do chính ông
với nàng gây nên.
Nhân
Huệ vương Khánh Dư đắm chìm trong hồi ức và ý nghĩ, sự mềm yếu và chí anh hùng.
Ngoài cửa Vân Đồn trời biển vân vũ, nhưng đã rạn ra, hắt lên cao những tia sáng
rẻ quạt…
Nhân
Huệ vương đang gục đầu trên án thư chợt nghe tiếng người đâu đó vẳng lại, ông
định thần lắng nghe, đúng là tiếng ấy nói với ông: “Hãy nghe ta, thuyền chiến
đi qua, ắt thuyền lương sẽ theo sau. Hãy thu thập tàn binh đợi chúng. Ngài sẽ
đánh bại chúng, bắt được quân lương, khí giới vô kể. Hãy chuẩn bị ngựa trại báo
tiệp cho Thượng hoàng mà xin tha tội trước!”. Ông nhìn quanh quất mà chẳng thấy
bóng dáng ai, bèn chắp tay mà hỏi vào thinh không: “Thế Ngài là ai? Không nói
quở tôi chứ?”. Tiếng nói ấy lại vang lên, như rót thẳng vào tai ông, rành mạch
từng câu, từng chữ: “Ngài chẳng nên biết ta là ai làm gì. Ngài sẽ phiêu du vào
cõi Bồng Lai tiên cảnh vào mùa thu năm Khai Hựu thứ mười một. Quãng thời gian
lưu lại với phàm trần, ngài không được hưởng vinh quang, và sẽ còn chịu thêm
nhiều điều tiếng nữa. Song ngàn sau, người đời sẽ biết đến ngài qua những dòng
mà các sử gia đặt bút viết thế này: “Việc
đánh lui giặc Hồ (tức quân Nguyên) ở đời Trùng Hưng, ai cũng khen nhiều về
chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Trần Hưng Đạo, mà không biết đến trận thắng
ở Vân Đồn của Khánh Dư. Trận thắng đó rất kỳ diệu và là căn bản cho trận thắng
sau đấy. Cho nên nói, trận thắng ở Vân Đồn là căn bản của việc đánh lui giặc Hồ
đấy!”.
Nhân
Huệ vương xiết bao mừng rỡ. Ông tỉnh hẳn. Thì ra vửa rồi là ông nói chuyện với
người cõi mộng, vi thần tiên nào đấy. Ông chắp tay bái vọng lên trời, rồi xuống
đất. Nhân Huệ vương Khánh Dư lặng lẽ rời bàn thư, bước ra bên ngoài, hướng mắt
về phía cửa Vân Đồn bình minh đang rạng!
GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN
Đỗ Thích thí Đinh Đinh
Lê gia xuất thành minh
Cạnh đầu đa hoành tử
Đạo lộ tuyệt nhân thành
Thập nhị xưng đại vương
Thập ác vô nhất thiện
Thập bát tử đăng tiên
Kế độ nhị thập niên
(Đại việt sử ký toàn thư)
Dương
là phóng viên của một tờ báo ngành, nhưng xuất thân là một giáo viên dạy sử.
Bạn bè hay trêu Dương là người bốc mùi thư tịch cổ. Ấy vậy mà kiến thức về sử
giúp Dương rất nhiều trong nghề làm báo. Đầu xuân, Dương đi một chuyến công
tác, gọi là xuất hành đầu năm cầu may. Xuất hành hướng nam, đoàn của Dương nhằm
cố đô Hoa Lư thẳng tiến. Tối trước ngày lên đường, Dương củng cố lại vốn hiểu
biết lịch sử của mình về vùng đất này bằng cách gặm nhấm lại mấy chương trong
bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
Anh
cán bộ văn phòng Ủy ban sở tại sốt sắng động viên:
Đầu năm, các anh nên du
xuân, thăm thú danh lam thắng cảnh, viếng đền chùa, còn công việc thì cứ thư
thả tính sau, vả lại còn cả những một năm để làm cơ mà, đi đâu mà vội. Các anh
nên viếng đền vua Đinh, vua Lê trước, rồi sau thăm Tam Cốc, Bích Động.
Được lời như cởi tấm
lòng, mọi người nhận lời ngay. Anh cán bộ văn phòng Ủy ban tỏ vẻ thông thạo,
giới thiệu sơ qua về xuất thân của vua Đinh, điều đó gãi vào đúng chỗ ngứa
trong vốn sử của Dương, anh lập tức lên tiếng:
Sử tuy viết rằng vua Đinh
là con của thứ sử Hoan châu Đinh Công Trứ, mà ông này vốn là nha tướng của
Dương Đình Nghệ. Nhưng dân gian lại tồn tại một nghi vấn, vì thế mới có truyền
thuyết rằng vua Đinh là con của Đàm thị với một con giao long, đúng ra là một
con rái cá. Chuyện kể rằng, thuở sinh thời còn là cậu bé chăn trâu, một lần Bộ
Linh được một thầy địa lý Tàu thuê lặn xuống đáy vực sâu của con sông ở quê (có
lẽ là sông Hoàng Long chăng?) tìm một con ngựa đá. Thấy ngựa đá rồi, thầy địa
lý yên tâm trở về quê. Bộ Lĩnh là một người tinh ý, đoán biết đó là một huyệt
mộ tốt, bèn nảy ra ý định để mộ cha ông mình, bèn hỏi mẹ là Đàm thị xem mộ cha
mình ở đâu. Người mẹ buồn rầu chỉ lên gác bếp bảo rằng hài cốt cha Bộ Linh để ở
đó. Bộ Lĩnh lục gác bếp lấy xuống xem thì ra là bộ xương của một con rái cá,
bèn gói vào trong một nắm cỏ, lặn xuống đáy vực, nhử con ngựa đá, và khi ngựa
đá há miệng thì nhét nắm cỏ có cốt vào trong đó để ngựa nuốt vào bụng. Mấy năm
sau, khi thầy địa lý Tàu trở lại động Hoa Lư thì nghe tin Bộ Lĩnh đã dấy binh,
thắng như chẻ tre, xưng là Vạn Thắng Vương rồi, biết Bộ Linh đã chiếm mất long
huyệt, y căm lắm bèn nghĩ cách trả thù, xin yết kiến Vạn Thắng Vương. Khi được
gặp, thầy Tàu thưa: “Nơi đó là long huyệt có thể phát Đế, Vương. Hồng phúc của
Đại Vương hơn kẻ tiểu nhân này nên có được long huyệt. Đại vương sẽ làm vua,
song ngựa mà không có kiếm thì cũng vô dụng. Đại vương nên cho đúc ngay một đôi
kiếm thật sắc bén, đeo vào cổ ngựa đá. Ngựa có kiếm sẽ tung hoành bốn cõi”. Vạn
Thắng Vương nghe lọt tai bèn làm theo đúng thế. Chỗ vực ấy nước xiết, song kiếm
đeo trên cổ ngựa đá theo thời gian cứ xiết vào hai bên cổ ngựa đá nên khi cắt
đứt rời cổ ngựa đá mới thôi. Thế là long mạch đứt, nhà Đinh đoản vận… Cứ cho
rằng truyền thuyết là hư đi chăng nữa, chín chín phần trăm là hư, thì ít ra
cũng phải dựa trên một phần trăm là thực. Như vậy, phải chăng vua Đinh là con
không cha, bởi con của giao long thì chắc chắn không phải rồi.
Chuyện dứt thì đền vua
Đinh, vua Lê đã hiện ra trước mắt. Anh cán bộ văn phòng Ủy ban nhờ chị thuyết
minh của khu di tích đưa đoàn đi thăm. Chị thuyết minh là dân học sử, kiến thức
sử chẳng kém gì Dương, song hiểu về đền hai vua này thì hơn Dương là cái chắc.
Theo đúng tục lệ, khách viếng thăm phải vào đền vua Đinh trước. Chị thuyết minh
bảo, cung điện của vua Đinh xưa chính là nền của đền vua Đinh ngày nay, bên
dưới vẫn còn dấu tích chứng minh cho một triều đại oanh liệt nhưng sớm tàn lụi.
Dương sờ tay vào những đường nét chạm khắc trên sập đá – long sàng và nghĩ,
ngày xưa vua Đinh đã ngủ ở đây ư, và còn đâu là nơi nhà vua say rượu để kẻ thất
phu là Đỗ Thích hành thích người. Dương cứ tần ngần hết ngắm bức tượng Đinh
Tiên Hoàng, lại ngắm tượng Nam Việt Vương Đinh Liễn, Thái tử Đinh Hạng Lang và
Vệ vương Đinh Toàn nơi chính điện. Chẳng lẽ việc kiếm sắc cứa đứt cổ ngựa đá
lại liên quan đến việc cả bốn cha con họ Đinh đều “bất đắc kỳ tử” ư?
Song đền vua Lê cách đó
chừng một quãng, chị thuyết minh lưu ý mọi người rằng đền vua Lê có nền thấp
hơn đền vua Đinh và tượng vua Lê có khắc chữ Vương ở trán, bởi vì mặc dù về trị
quốc và đánh ngoại xâm, vua Lê Đại Hành còn được xem là xuất sắc hơn Thái tổ Lý
Công Uẩn kế sau đó, nhưng quan niệm dân gian vẫn cho rằng vua Lê được ngôi
không chính đáng, bởi thông qua con đường tình ái, đúng ra là một cuộc đảo
chính cung đình thông qua tình ái bất chính. Dương nghĩ nhanh, vậy tình ái
không làm nên một người anh hùng, bởi thế, anh rời bỏ tượng hai cha con vua Lê
mà tìm đến tượng của Đại thắng minh Hoàng hậu Dương Vân Nga. Đang mải ngắm thì
anh nghe có tiếng thở dài nhè nhẹ bên tai, liền quay đầu lại, thì ra chị thuyết
minh đã đứng ngay sau anh từ lúc nào. Chị bảo:
Bức tượng này lạ lắm,
nhìn chính diện thì nàng là một người đàn bà đoan trang, hiền thục. Nhìn từ
ngoài vào thì thấy rõ nàng khẽ cười như thể giễu cợt ai. Còn đứng từ trong nhìn
ra thì mắt nàng long lanh nước và khuôn mặt ẩn chứa một nỗi buồn thăm thẳm.
Dương lập tức làm theo và anh thấy bức tượng sống động hẳn lên, như thể nàng từ
nghìn năm trước bước lại gần anh…
Khi thấy một người đàn bà
dáng nhẹ nhàng thanh mảnh ăn mặc xiêm y cổ bước vào phòng, Dương thoáng ngỡ
ngàng, rồi anh nhanh chóng tự nhủ, thì ra cái lối kinh doanh dịch vụ theo kiểu
“cung đình” đã từ Huế lan ra đến đây rồi đấy, cơ chế thị trường có khác. Anh
hỏi: “Chị đến dọn bàn trà và thay phích nước à? Sao sớm thế?”. Không thấy trả
lời anh lại hỏi: “Phàm tất cả các khách sạn ở đây đều ăn vận theo lối cổ như
thế này hay là chỉ mỗi ở đây?”. Người đàn bà vẫn đứng ở lối ra vào, không hề
động chân động tay, khẽ cười và bảo: “Vì ta với ngươi cách nhau những ngàn năm
nên ta tha cho cái lối ăn nói xách mé đó, chứ ở vào thời ta, ngươi đã bị lôi ra
chém đầu về tội khi quân phạm thượng rồi đó. Ngươi nhìn lại đi, có phải ngươi mới
gặp ta lúc chiều và đã có lời thỉnh cầu ta không. Vì tên ngươi trùng với họ của
ta và trong lời thỉnh cầu ngươi đã đã gọi ta là Nàng, nên ta mới xuống xuất đến
ngươi!”. Dương hết sức ngạc nhiên: “Vậy bà là …Dương Vân Nga?... Chết, xin lỗi…
là Đại thắng minh Hoàng hậu thật sao?”. Người đàn bà: “ Sao lại là bà? Nàng
chứ! Đã là đàn bà thì không có gì hơn sự ngưỡng mộ của đàn ông, của thế gian
đàn ông. Dù ta có hơn ngươi hàng nghìn tuổi nhưng ta vẫn muốn được gọi là
Nàng!”. Thật là đơn giản và minh triết. Nàng đã làm Dương đi từ ngỡ ngàng này
sang ngỡ ngàng khác. Dương nhận thấy vẻ chân thành và thân thiện trong giọng
nói của Nàng nên anh mạnh bảo: “ Sử không thấy ghi chép gì về xuất thân của
Nàng nhưng tương truyền thì Nàng là con nhà thứ dân ở động Hoa Lư, kết duyên
cùng vua Đinh từ thủa còn hàn vi. Thế nhưng, điều đó chưa hẳn đúng, bởi người
thông minh, nhan sắc như Nàng thì cớ gì vua Đinh lại không lập làm Hoàng hậu,
trong khi đó, nhà vua lại lập năm hoàng hậu khác là Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu
Quốc, Cố Quốc và Ca-ông từ năm 970, hẳn khi đó, vua Đinh chưa kết duyên cùng
Nàng, hoặc kết duyên rồi thì Nàng cũng lẫn đi giữa đám cung nữ, chưa có gì nổi
bật ? Phải chẳng, mãi đến năm 974, Nàng có công sinh được hoàng tử Đinh Toàn
thì Nàng mới được vua Đinh chú ý và nâng địa vị của Nàng lên?”. Nàng khẽ đung
đưa người: “Đàn bà bất kể xuất thân sang hèn, chỉ cần xinh đẹp. Đã xinh đẹp
tuyệt vời thì dù là hàng thứ dân hay con ở thì bậc cao nhân, ngay cả người có
quyền lực tối thượng đi chăng nữa vẫn có thể quỳ gối cầu xin tình ái. Có đúng
không nào? Nếu không tin, ngươi có thể về mà tra cứu lại lịch sử thì sẽ rõ, con
mọt sách?”. Dương không bực mình vì bị gọi là con mọt sách, trái lại, anh càng
hăng hái: “Phải chăng là từ trong thâm tâm, Nàng giận vua Đinh đã không lập Nàng
làm hoàng hậu thứ sáu, và Nàng đã say mê vị thập đạo tướng quân trẻ tuổi anh
hào? Phải chăng, Nàng đã tham vọng có ngày được nâng lên địa vị cao quý tột
đỉnh và đã chọn vầng ngực của vị Võ quan tuấn kiệt Lê Hoàn làm chỗ dựa cho tham
vọng và dục vọng của mình, bởi không có sự giúp đỡ của Nàng thì làm sai Lê Hoàn
được lên ngôi báu?”. Nàng bình thản: “Xem ra ngươi lên án ta còn mạnh hơn hai
vị sử thần đáng kính là Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên. Hai ông ấy không bình luận
gì về hành động của ta khi gỡ áo long bào từ vai con trai ta để khoác lên người
Thập đạo tướng quân. Ngươi thấy đấy, trước đó, Nam Việt vương Đinh Liễn vì ghen
tức đã giết em mình là Đinh Hạng Lang – người đã được vua Đinh lập làm Thái tử.
Còn mẹ con ta phải biết giữ mình chứ! Con ta bé, ta là đàn bà thân cô thế cô,
ai dám bảo đảm cho mẹ con ta, rằng một ngày nào đó vua Đinh không gạt ta xuống,
hoặc Đinh Liễn giết mẹ con ta để đề phòng hậu họa. Vua Đinh chết vì sự bất cẩn
của ngài, vì sự thỏa mãn với quyền lực và tiếng tăm lập quốc, vì sự đam mê vinh
hoa, vì gặm nhấm chiến công của mình, và còn vì lực ngài đã cạn. Còn đã là
người thì ai chẳng có chút tình riêng. Với vua Đinh, ta đã chung tình khi ngài
còn sống, rồi ta cũng giữ đúng đạo làm vợ, chờ đoạn tang ngài mới tái giá. Vua
Đinh chết rồi, cả Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang cũng chết rồi, ta làm sao đặt
niềm tin vào hai lão cáo già Đinh Điền, Nguyễn Bặc được, bởi với cả hai con
người này thì khát vọng về quyền lực và phú quý cao hơn tình người. Ta phải đặt
niềm tin vào Chàng, đơn giản bởi Chàng có tình người và Chàng hội đủ những phẩm
chất mà ta mong muốn!". Dương chỉ chờ cho Nàng dứt lời và anh cũng không
chịu kém: “Quả là Nàng đã không lầm khi đặt niềm tin vào vị Thập đạo tướng
quân. Khi được ngôi báu, ông ta đã không quên ân tình của Nàng mà lập Nàng làm
hoàng hậu, vị hoàng hậu đứng đầu trong số năm hoàng hậu của ông. Với nàng thì
chẳng mất mát gì, được làm vợ của hai vua đứng đầu hai triều đại. Nàng thử nghĩ
lại xem, trong lịch sử nước nhà có ai được như Nàng? Họa chăng sau này có bà
Trần Thị Dung là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông và sau đó được Thái Tông Trần
Cảnh ưu ái vì có công phò giúp, nhưng thực ra thì vẫn chỉ là vợ của Thái sư
Trần Thủ Độ. Chỉ thương cho vua nhỏ Đinh Toàn bị giáng làm Vệ Vương là sau khi
nàng mất có một năm đã yểu mệnh mà “bất đắc kỳ từ” giữa tuổi xuân. Nàng đã được
tất cả, việc chung và tình riêng”. Nàng nghiêm nét mặt: “Thế ngươi quên rằng ta
đã phải chịu đựng búa rìu dư luận hàng ngàn năm nay và không biết sẽ còn bao
lâu nữa. Song ta chấp nhận, bởi tự thâm tâm ta thấy mình không sai trái, không
làm điều thất đức và lớn hơn nữa, như những người bênh vực ta, rằng ta đã biết
đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của một dòng tộc. Vậy theo ngươi
thì ai là người xứng đáng với cương vị tối cao hơn Thập đạo tướng quân? Và vua
Lê không xứng đáng với cương vị lịch sử sao?”. Dương nhận thấy vẻ giận dữ bị
kìm nén trong giọng nói của Nàng, anh vội phân bua: “Không, không… Nàng hiểu
nhầm rồi, thắng Tống, bình Chiêm, dẹp loạn giữ yên bờ cõi, riêng việc đó cũng
đủ để đưa vua Lê lên hàng anh hùng nhất đời rồi!”.
Dương vừa dứt lời, anh
chợt thấy phía sau Nàng xuất hiện bóng một người đàn ông, mờ tỏ… Dương định hỏi
thì người đó nói: “Ta đã nghe hết câu chuyện của ngươi với Hậu của ta. Không
phải đợi đến ngày hôm nay, ngươi – một kẻ hiểu biết nông cạn đưa những lời nhận
xét về thời đại của chúng ta. Sử thần Ngô Sĩ Liên cho rằng, ta lên ngôi không
chính danh, lợi dụng tình ái của Nàng, dùng bọn Phạm Cự Lang hiếp vua bé và
quần thần bằng binh lực, rồi kiêu ngạo và xa xỉ trong việc dùng vàng bạc dát
cột lợp mái cung điện. Lời bình của ông ta đã đóng đinh ta vào lịch sử”. Dương
sững sờ, trong khi đó Nàng lánh người sang một bên nhường lối cho người đàn ông
tiến lên phía trước, và Nàng khuất ở phía sau, khoanh tay, khẽ cúi đầu lặng lẽ,
đúng với đạo phu phụ theo Tam cương. Dương nhìn chòng chọc vào
người đàn ông khi đó đã rõ hình hài lẫm liệt và hỏi: “Ngài có đúng là Đại Hành
Hoàng đế thật không?”. Người đàn ông: “Vậy ngươi còn nghi ngờ à? Đó là thụy hiệu của ta. Nhưng há ngươi chẳng
biết việc ông Lê Văn Hưu chê rằng, Ngọa Triều con ta ít học và bất hiếu đã
không biết cách đặt thụy hiệu để đời
sau chê cười đó sao?”. Dương nổi máu anh hào bảo: “Ngài là bậc quân tử sao
không xuất đầu lộ diện mà đứng nghe lỏm chuyện Nàng là cớ làm sao?”. Đại Hành
Hoàng đế cả cười mà rằng: “Ngươi là kẻ vô tình, chỉ khéo trách người. Nàng là
mỹ nhân, ta là đàn ông và ngươi cũng là đàn ông. Nếu ta xen chuyện, cướp lời
thì chẳng phải ngươi sẽ cho rằng ta hẹp hòi sao? Vì ngươi cũng theo đòi người
xưa ca ngợi ta là anh hùng nhất đời nên ta mới xuất đầu lộ diện để nói cho
ngươi biết rằng, để có được sự nghiệp và giữ vững giang san, ta cũng đã phải
trả một cái giá khá đắt hay sao! Miệng thế khôn lường, tiếng thơm khôn rửa,
tiếng xấu còn lưu, dù vẫn lập đền thờ ta, nhưng như ngươi thấy đấy, đền của ta
thấp hơn đền của vua Đinh, còn trán ta thì hằn sâu chữ Vương. Thế vẫn chưa đủ
hay sao? Lũ con ta thì bất chấp tình cốt nhục, cẳng đậu đun hạt đậu, huynh đệ
tương tàn, ăn chơi sa đoại để đến mức vong gia bại quốc. Thế vẫn chưa đủ hay
sao? Với vua Đinh, ta hằng tôn kính ngài, bời ngài là anh hùng lập quốc, biết
trọng dụng người tài. Ngài anh minh tài trí hơn người song ngài cũng có phần
kém của ngài, còn kém như thế nào thì Hậu của ta đã nói cho ngươi biết rồi.
Riêng ta thì ta chỉ lưu ý ngươi rằng, hãy về mà xem kỹ lại sử, sự khuynh bại
của nhà Đinh là do chính vua Đinh gieo mầm loạn bằng cái việc bỏ trường lập
thứ. Chẳng phải, năm Thái Bình thứ 9 – Mậu Dần, vua Đinh lập con nhỏ là Hạng
Lang làm Hoàng thái tử, thì ngay năm đó, tháng giêng – động đất, tháng hai –
mưa đá, còn mùa hạ tháng sáu thì đại hạn, thế là lòng trời không thuận đó
sao?”. “Thưa Đại Hành Hoàng đế" - Dương kính cẩn – " Quả là ngài
đúng, nhưng sao đến lượt mình, ngài lại đi vào đúng cái vệt xe đổ ấy, Ngài cũng
đã lập hoàng tử thứ Long Đĩnh làm Hoàng thái tử, để rồi sau này Long Đĩnh giết
vua Trung Tôn và tự lập mình làm vua?”. Đại Hành Hoàng để ngậm ngùi: “Đó là nỗi
đau của ta, cũng là phần kém của ta!... Nhưng lỗi trước hết là do con trưởng ta
là Kình thiên vương yểu mệnh mất sớm ngay sai cái chết của Hậu yêu của ta. Có
lẽ cái chết của nàng làm lòng ta đau xót mà kém minh mẫn chăng!” Dương vẫn chưa
chịu: “Vậy còn Vệ Vương Đinh Toàn thì sao?”. Đại Hành Hoàng đế khẽ chau mày:
“Thì ta vẫn trọng dụng đó thôi. Ta đã để cậu bé ấy được sống ở trong cung với
mẹ. Dù sao cậu ta cũng có một thời làm vua, vả lại đó là núm ruột yêu của Hậu
ta. Sau này đi đâu, ta cũng mang cậu ta theo bên mình”. Dương kêu lên: “ Vậy là
kìm giữ nhiều hơn yêu quý. Ai đã gây nên cái chết của Đinh Toàn. Giặc Cử Long
chỉ là loài giặc cỏ vô danh, cớ gì ngài phải thân chinh đi dẹp? Thì cứ cho là
ngài thích, xông pha nơi chiến trận để làm gương cho tướng sĩ đi, song cớ gì
ngài phải mang theo cả Vệ vương Đinh Toàn? Một mũi tên đã giết chết mầm mống
cuối cùng của vua Đinh, vậy mũi tên ấy bắn ra từ phía nào, và do ai bắn? Có
phải là giặc Cử long bắn không hay do một tay chân nào đó của ngài đã làm việc
đó, thực hiện sứ mệnh mà ngài ủy thác. Ngài nghe đây nhé, để xem ngài nói như
thế nào, về đoạn sử mập mờ này: Tân Sửu,
năm Ứng Thiên thứ 8 Vua thân đi đánh giặc Cử Long. Chúng thấy Vua giương cung
bắn thì tên bị rơi, lại giương cung lần nữa thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút
lui. Vua mới đi thuyền theo dọc sông để đuổi. Giặc bẫy trận hai bên bờ để chống
lại quan quân bị hãm ở sông, vua cũ nhà Đinh là Vệ vương Toàn trúng phải tên
chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh giặc tan vỡ”. Vậy
ngài là thần thánh hay sao mà giặc bắn ngài hết tên rơi thì dây lại đứt?”. Đại
Hành Hoàng đế chau mày: “Ngươi biết một mà không biết mười. Cùng là người cả
nhưng mỗi người đều mang một số mệnh riêng. Người có uy lực, kẻ lại không…”
Một giọng đàn ông khác
vang lên, át cả giọng Đại Hành Hoàng đế, đầy vẻ sát khí: “Khá khen thay cho sự
biện bạch. Vậy trong lòng, có bao giờ ngươi lo lắng rằng Vệ vương Toàn con ta
đến một ngày nào đó đủ lông đủ cánh sẽ giành lại ngôi báu mà ngươi cướp của nó,
của triều đại ta không?”. Dương ngạc nhiên lắm nhưng anh cũng đủ nhận thấy cái
rùng mình dù rất nhẹ của Đại Hành Hoàng đế khi nghe lời nói đó, rồi sau đó ngài
lặng người đi. Dương nhận thấy rằng anh phải là người phá tan bầu không khí
tĩnh lặng đến ngạt thở, anh cúi đầu thưa: “Kẻ thường dân hậu sinh này kính chào
Đinh Tiên Hoàng đế! Thật may mắn được ngài xuống xuất và chỉ bảo cho đôi điều!”.
Đinh Tiên Hoàng đế ôn tồn: “Ta biết ngươi là người đam mê sử, vậy thì hãy lắng
nghe và tích cóp thêm vào cái vốn hiểu biết sử còn nông cạn của ngươi. Ngài
dừng lời và quay sang nói với Đại Hành Hoàng đế và Nàng – Thế nào, miệng lưỡi
hai ngươi để đâu, không đáng chào ta một tiếng hay sao?”. Đại Hành Hoàng đế
kính cẩn: “Xin bậc tiền bối có lời chỉ bảo”. Còn Nàng vẫn đứng lặng, chắp tay
trên trán cúi đầu. Đinh Tiên Hoàng đế khẽ gật đầu mà bảo: “Ta xuất thân cũng
chẳng phải cao sang, nhưng vốn chí khí, nhờ làm con nuôi Minh Công Trần Lãm xứ
Bố Hải Khẩu và được ngài gây dựng cho mà dẹp được loạn sứ quân, lập ra nhà nước
Đại Cồ Việt hùng cường. Có được giang san này một phần ta nhờ có người tài phò
giúp, quân dân một lòng, Nguyễn Bặc, Đinh Điền là con nhà thường dân theo ta từ
thủa cờ lau tập trận. Còn ông, Lê Hoàn chỉ là tiểu tướng của Đinh Liễn con ta,
song vì mến tài mà ta đưa lên làm Thập đạo tướng quân thống lĩnh ba quân, vậy
mà không vì ta phò giúp con ta lại cam tâm lấy ngôi của nó. Ông có điều gì để
nói với ta?”. Đại Hành Hoàng đế không hề nao núng trước câu hỏi đó, ngài thưa:
“Bậc tiền bối thử đặt mình vào hoàn cảnh ấy thì mới hiểu, ngoài bờ cõi giặc
ngoại xâm lăm le, còn trong nước thì sau khi ngài mất, có bao kẻ rắp ranh đoạt
ngôi bởi cái mộng cuồng danh của Đỗ Thích đã vô tình xới lên lòng hám địa vị
của bao người, trong khi đó thì vua bé còn ấp vú mẹ, nên nguy cơ đã là một sớm
một chiều. Ngài có nghĩ là Đinh Điền, Nguyễn Bặc trung thành với ngài, phò giúp
vua bé hay là cấu kết với nhau để chiếm ngôi mà chẳng lo gì đến chống ngoại
xâm? Giết Điền, Bặc, dẹp loạn là Hoàn này chiểu theo thánh chỉ của Dương Thái
Hậu khi đó đang nhiếp chính. Rồi phò mã Ngô Nhật Khánh rước giặc Chiêm xâm phạm
bờ cõi phía
Dương mải hùng biện, đến
lúc anh dừng lời thì chẳng còn ai. Anh ngơ ngác rồi gào lên: “Đi đâu hết cả
rồi? Ấy ấy các vị!... Xin hãy nán lại chút đã!” Dương xô cửa phòng vùng đuổi
theo… Anh choàng mở mắt. Có bóng người đang cúi xuống người anh. Định thần thì
ra là cậu lái xe ngủ cùng phòng, điện sáng choang. Cậu lái xe bảo:
- Anh mê ngủ gì mà khiếp
thế, hết lảm nhảm lại cười rồi còn hét lên. Lúc đầu em nghĩ là anh uống nhiều
rượu say xỉn nên mặc kệ, nhưng một lát thì biết là anh mê nên đánh thức anh
dậy. Mê thế là mệt người lắm!
Dương vẫn chưa hết bàng
hoàng, hồ nghi hỏi:
- Thế cậu vẫn ở phòng từ
tối đến giờ à? Tớ không đi đâu và cũng không có ai vào đây chứ?
-Thì em chờ nước nóng tắm
cho nhẹ người. Xong việc đã thấy anh úp quyển sách lên ngực mà ngủ. Em chờ tóc
khô, bật ti vi xem bóng đã mãi. Hết bóng đá, em vừa mới tắt ti vi xong, ngả
lưng còn chưa kịp ngủ. À, lúc anh mới ngủ có cô nhân viên nhà khách gõ cửa hỏi
xem bình nóng lạnh chữa lúc chiều đã được chưa.
-Thế cô nhân viên ấy ăn
vận thế nào?
-Anh hỏi vậy là làm sao?
– Cậu lái xe ngạc nhiên – ý anh muốn nói là ăn mặc có hở hang hay không chứ gì?
Bố ơi, Nghị định 87 dẹp hết những cái đó rồi!?
-Không, không!... À mình
mơ…
Cậu lái xe cười trêu
Dương. Anh không thể giải thích và cũng không thể kể ra giấc mơ cho cậu ta
được.
Sau chuyến xuất hành đầu
xuân về cố đô Hoa Lư mấy ngày. Người bạn đồng nghiệp ở một tờ báo khác gọi điện
cho Dương bảo rằng, toàn bộ pô ảnh chụp trong chuyến đi ấy không được một kiểu
nào, và anh ta than thở kêu tiếc. Dương gào lên trong máy:
-Sao lại thế? Lọt sáng à?
Hay là không đủ ánh sáng?
-Không phải! Phim không
quay tý nào thành ra toàn chụp không!... Mà này, bao giờ chụp ảnh ở đình, chùa,
đền miếu gì thì mình cũng thắp hương xin phép. Hôm ấy mình cũng thắp hương khấn
các vị, xin được chụp mấy kiểu ảnh. Thế mà các vị không cho.
-Mình hiểu rồi – Anh trả
lời bạn mà như tự nói với mình.
Tự thâm tâm, Dương hiểu
là mình đã may mắn!.....
GIẢI THOÁT
Quê tôi cách Hà Nội không xa. Đó là
một làng quê nằm ven một nhánh sông lớn đổ về sông Hồng. Cho đến bây giờ, đã ba
chục tuổi nhưng tôi luôn có cảm giác là cuộc đời tôi cả những năm trước đây và
sau này bị ám ảnh bởi một cảnh tượng mà lần đầu tiên tôi nằm mơ khi tôi mới
chừng năm hay sáu tuổi gì đấy. Tôi thấy cảnh ở dưới đáy một cái hồ, hoặc đầm
rộng có một con vật to lớn thân dài, đầu to, răng nhọn hoắt, mắt sáng, móng sắc
và cả thân hình được phủ bởi một lớp vảy cứng. Cho đến năm mười tuổi, tôi con
mơ thấy con vật ấy mấy lần nữa. Và lần nào cũng vậy, con vật kỳ lạ này bị một
hòn đá đè lên gáy làm nó rãy rụa nhưng không làm sao hất nổi hòn đá ra và vì thế
nó chẳng bao giờ cất nổi đầu lên được. Có thể hồi mơ thấy cảnh tượng đó tôi còn
quá bé nên tôi không hiểu con vật đó là con gì, vả lại, tôi giữ kín trong lòng
mà chẳng dám hé răng nói với ai, ngay cả mẹ tôi. Rõ ràng là con vật đó không
giống bất cứ con vật nào như trâu bò, lợn. chó… đại loại các loài vật mà tôi
nhìn thấy hàng ngày.
Rồi một lần, mẹ tôi cho tôi về chơi
quê ngoại. Khi mẹ dắt tôi đi trên đường làng, ngang qua cửa đình thì tôi giật
mình nhìn thấy trên mái đình có hình con vật giống hệt với hình dạng con vật
từng nhiều lần xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Tôi hỏi mẹ đó là con gì thì mẹ
bảo nó là con rồng. Tôi tò mò muốn biết thêm rồng là con vật như thế nào và
sống ở đâu? Mẹ chỉ ừ à cho qua chuyện, rồi còn át đi rằng tôi là trẻ con chỉ
hay hỏi lung tung. Lát sau mẹ bảo: “Con phải học cho giỏi. Lớn lên con tự tìm
hiểu lấy xem con vật ấy nó như thế nào. Mẹ là đàn bà chỉ biết đến đấy thôi”.
Nghe lời mẹ, tôi cố lắng nghe. Thế
nhưng, dù cho tôi có thông thuộc bốn phép tính, thuộc lòng bảng cửu chương, thì
tôi vẫn chẳng biết thêm về con rồng. Ở làng tôi có ông Tố Vị, lúc đó ông đã gần
sáu mươi, được người làng xem là người hiểu biết nhất. Người ta bảo rằng ông
biết cả chữ Hán, chữ Nôm hiểu tử vi tướng số. Cả làng, hễ nhà nào có việc đại
sự như làm nhà, cưới hỏi gì đó, người ta đều đến hỏi ông. Tôi tìm đến nhà ông
Tố Vị, kể chuyện tôi mơ thấy con rồng bị đá đè ở gáy. Chắm chú nghe tôi kể, rồi
ông hỏi tuổi của tôi và bảo: “Mày sinh năm Thìn, cầm tinh con rồng, mày mơ thấy
rồng là phải. Có điều, rồng bị chẹn đá ở gáy còn làm nên trò trống gì. Hoặc sau
này mày là thằng tâm thần, hoặc có điều bí ẩn chi đây.” Khi tôi gặng hỏi xem
con rồng nó thường sống ở đâu để tôi tìm cách bắt thì ông cười ầm lên và bảo:
“Con rồng không có thật. Con rồng là sản phẩm của sự tưởng tượng, nhưng lại là
con vật hổ lốn, tam khoanh tứ đốm. Nó có mình rắn, đầu sư tử, móng vuốt của
loài hổ báo, vẩy của loài thủy sinh… Các vua chúa ngày xưa lấy rồng làm biểu
tượng cho uy quyền và sự cao quý của mình… Uy quyền cũng không có thật, chỉ là sự
huyễn hoặc, bởi lúc thì uy quyền là có thật, khi khác chỉ là hư vô”…
Nghe ông nói, tôi không hiểu, vả lại
tôi không tin ông, tôi tin vào giấc mơ của tôi hơn. Đêm ấy tôi trằn trọc, suy
nghĩ lung tung. Đến gần sáng, tôi mới chợp mắt đi được và tôi lại mơ thấy cảnh
tượng cũ. Có điều khác trước là cảnh tưởng tượng không hư ảo mà rõ ràng hơn,
con rồng nằm dưới đáy cái đầm rộng, cạnh quán Táo, có cống thông ra sông. Tôi
giật mình choàng tỉnh bởi con rồng tung mình giãy giụa, cố hất hòn đá ra nhưng
không nổi. Trời còn mờ tối. Tôi lén ra khỏi nhà, chạy hộc tốc ra phía đầm quán
Táo. Tôi đứng trên nóc cống, cố mường tượng lại giấc mơ để định vị. Tôi nhảy
xuống đầm, lặn ngụp. Tôi quyết tìm cho ra nơi con rồng bị giam hãm bởi hòn đá.
Nhưng lặn mãi, quờ quạng mãi, tôi chỉ thấy toàn là bùn, vài ba vỏ ốc, xác cua
chết. Mệt quá, tôi lên bò ngồi thừ ra. Đôi ba người đi chợ sớm ngang qua thấy
tôi bèn hỏi, tôi nói dối là đi nhấc dọ. Nhưng khi ông Tố Vị đi qua thì tôi đành
phải nói thật, và ông bảo tôi về đi. Tôi còn nghe rõ tiếng ông lầm rầm trong
miệng: “Đúng là thằng này tâm thần rồi! Còn nếu không thì nó cũng là một thằng
gian hùng, đa nghi như Tào Tháo”.
Không tìm thấy rồng thì tôi tìm Tào
Tháo, để xem đó là người thế nào. Tôi hỏi người này, người nọ mãi mới biết được
Tào Tháo là một nhân vật trong chuyện Tam Quốc, sống ở bên Tàu cách đây gần hai
ngàn năm. Vật nài, rồi tôi cũng mượn được bộ truyện Tam Quốc của một người quen
ở xã bên. Tôi đọc say mê và tìm thấy ở đó bao nhiêu điều hay. Tôi thấy Tào Tháo
không đến nỗi đa nghi, giả dối như người đời sau vẫn ví, bởi ông ta biết làm
thơ, vả lại còn có những lúc say sưa mà bộc bạch thật lòng hơn mấy ông khác. Ở
đây, tôi cũng thấy Điêu Thuyền đâu có điêu toa gì. Nàng thật đẹp và đáng
thương, bởi nàng là đàn bà hạ đẳng, là con tốt thí trong nước cờ “Mỹ nhân kế”
của những kẻ thống trị thiếu nhân cách và độc ác. Dẫu sao, tôi cũng thầm biết
ơn ông Tố Vị, vì lời nói khích của ông đã dẫn tôi đến một thế giới khác, nơi
sâu thẳm của lịch sử. Bản thân tôi luôn khâm phục những người dám làm việc
nghĩa, ghét thói hư tật xấu, mặc dù thâm tâm tôi thấy mình cũng đầy những thói
hư. Trong tình yêu cũng vậy, tôi yêu say đắm nhưng không bộc lộ.
Nhà tôi chỉ có hai mẹ con. Bố tôi mất
sớm khi mẹ tôi còn chưa đến năm mươi tuổi. Ngày trẻ, mẹ là người mỏng mày hay
hạt, nụ cười tươi tắn. Mẹ dồn tất cả tình thương yêu cuộc đời vào tôi, nhưng
tôi lại là một thằng dở hơi, người ta bảo thế. Nhiều lúc tôi bắt gặp mẹ ngồi
lặng yên suy nghĩ và lén lau nước mắt. Tôi thương mẹ lắm, mẹ chẳng đáng phải
đánh đổi cả cuộc đời lấy tôi. Nghĩ vậy, nhưng tôi không biết nói thế nào và
cũng không thể thốt ra được. Những lúc bắt gặp mẹ như vậy tôi bỏ đi nơi khác,
tôi không nỡ quấy động tâm tư mẹ.
Có một dạo, cứ tháng một đôi lần, ông
Tố Vị đến nhà tôi chơi. Lấy cớ là hỏi han tôi học hành thế nào, xem được những
sách gì, và thường là ông ngồi uống trà cho đến sẩm tối. Mấy lần đầu tôi còn
ngồi hầu chuyện ông nhưng sau vì bận công việc, tôi kệ ông ngồi nói chuyện với
mẹ tôi, tôi còn phải đi làm. Rồi sau bẵng đi vài thàng không thấy ông lai vãng,
tôi bảo: “Lâu nay không thấy ông Tố Vị đến chơi mẹ nhỉ”. Mẹ tôi trả lời: “Ờ…
lâu rồi… Mà mẹ không muốn con giao du với nhà ông ta”. Tôi hỏi: “Sao hả mẹ”? Mẹ
bảo: “Cái lão ấy không phải là người đứng đắn. Có nhiều chữ thật đấy nhưng
không đứng đắn thì cũng bằng thừa”. Mẹ quay mặt đi và tôi lờ mờ hiểu ra. Một
lúc mẹ lại bảo: “Chẳng nhẽ … tao lại đuổi thẳng vào mặt lão ta!”.
Mẹ bảo tôi không được giao du, đi lại
nhà ông Tố Vị, tôi không cãi lại nhưng làm sao tôi có thể nghe lời mẹ được. Ông
ta là người hiểu biết, là người duy nhất ở cái làng này có thể giảng giải cho
tôi biết nhiều điều. Vả lại, tôi thích cái Hảo, học cùng lớp với tôi là con gái
ông.
Tôi và cái Hảo cùng học một lớp với
nhau. Nó học dốt toán nhưng lại giỏi văn, còn tôi thì ngược lại. Làm toán tôi
chỉ thoáng cái đã xong, nhưng hễ phải làm văn thì tôi không biết phải viết thế
nào, mặc dù trong đầu tôi nghĩ có vẻ đâu ra đấy. Tôi học khác bọn trong lớp.
Chúng nó đều có mục đích cả. Có đứa mong sau này thành kỹ sư, bác sĩ… Hay như
cái Hảo thì muốn được trở thành “kỹ sư tâm hồn”. Còn tôi, tôi chẳng có mục đích
gì cụ thể. Mẹ tôi bảo học để hiểu biết thì tôi cũng học để hiểu biết. Hiểu biết
rồi làm gì thì tôi lờ mờ lắm. Giờ kiểm tra bài, không thuộc thì bọn chúng tìm
mọi cách quay cóp. Tôi mà không thuộc thì đành bỏ trống chịu điểm kém. Bọn
chúng gian dối nhưng lại cười tôi, tức quá, tôi cũng quay cóp. Vả lại tôi sợ bị
đúp. Song tôi biết, làm thế trí óc tôi chẳng khá lên được.
Cái Hảo hay nhờ tôi làm toán hộ. Nó
ngồi ngay sát bên tôi, còn tôi vừa suy nghĩ vừa lén nhìn vào khoảng trống nơi
ngực nó. Mũi hít căng mùi lá bưởi ngai ngái nơi tóc nó. Tôi thầm nghĩ “Nó là vợ
mình thì mình sẽ làm gì nhỉ?”. Rồi tôi lại giật thót mình khi nghĩ nó là con
gái ông Tố Vị. Dễ gì mẹ tôi lại chịu làm dâu gia với nhà ông Tố Vị? Cái Hảo thì
hình như nhờ vậy thôi, song nó cũng chẳng để ý đến lời tôi giảng giải. Nó cứ
ngó ngoáy ngọ ngoạy không yên như ngồi trên ổ kiến lửa. Một bận nó bảo tôi:
“Học nốt năm nay, xong cấp hai, tớ nghỉ ở nhà. Bố tớ bảo… - Nó cười… Con gái
cần gì nhiều chữ… Con gái chỉ cần lấy được thằng chồng tốt…. Với lại, con gái
nhiều chữ thì dễ hư lắm…. Để lý sự, để cãi lại chồng à? Đạo lý nào xưa nay đi
dạy con gái cãi chồng ?”. Tôi nói: “Mẹ tớ cũng bảo, con gái phải tiết hạnh”.
Cái Hảo cãi: “Tiết hạnh để làm gì? Thế con trai không cần tiết hạnh à? Mà thôi…
đằng ấy hiền lắm… hình như đằng ấy bị… làm sao ấy”. Tôi nóng mặt. Tôi chỉ muốn
cấu xé cái Hảo ra hàng trăm mảnh.
Đêm ấy về tôi mơ. Tôi mơ thấy tôi và
cái Hảo trần truồng nắm tay nhau bơi xuống đáy hồ nước, nơi có con rồng bị hòn
đá chẹt cổ. Hai đứa tôi hùn sức đẩy tung được hòn đá. Con rồng cất đầu lên,
vùng vẫy làm sóng nước sôi lên ùng ục.
Cuối năm ấy, chiều ba mươi tết, tôi
lảng vảng ra cống Quán Táo. Mình tôi lẻ loi giữa cánh đồng rét buốt. Chiều tất
niên tai tái dài dại. Làng xóm cúm rúm, xo xắt lại. Tôi ngồi bệt xuống vạt cỏ
nâu xỉn cằn cỗi. Chợt tôi giật mình, thì ra ông Tố Vị đứng sau lưng tôi từ lúc
nào. Tôi chào và ông hỏi: “Mày ra đây làm gì, hả thằng dở người? Tao đi tảo mộ
thắp hương tất niên ở đằng kia, nhìn thấy mày, tao đành chịu rét thêm để bảo
cho mày biết là mày không tìm được gì ở đây đâu. Thôi về đi. Không tao bảo mẹ
mày ra lôi mày về”. Tôi bảo ông cứ mặc tôi, và cũng không mướn ông nói với mẹ
tôi. Nghe vậy ông có vẻ bực rủa tôi đủ thứ rồi bỏ đi. Đi một đoạn, ông dừng lại
nói to “Làm gì có rồng. Mà có rồng thật, sống ở cái vũng trâu đầm này thì rồng
cũng thành giun thôi con ạ! Bố mày đây bảo cho mà biết lại không chịu nghe lời.
Cá không ăn mắm cá thối, con ạ !”. Khi ông Tố Vị về rồi, còn lại một mình, tôi
cảm thấy lạnh ghê gớm. Nhang cháy dở phía nghĩa địa, gió thổi bùng lên thành
ngọn lửa. Tôi nhìn thấy từng đoàn người đi như lướt trên mặt đồng chạng vạng…
Tôi sợ run người, định bỏ chạy. Bỗng tôi nghe lục sục phía dưới cống. Tôi căng
mắt nhìn thì phát hiện ra từng đán cá chép nhô hẳn sống lưng đang ngược nước từ
sông vào đầm. Tôi ngẩn người, quên cả sợ, tôi để cả áo quần lội xuống. Tôi bắt
mải miết. Dễ chừng được mấy chục con cá chép lớn nhỏ đủ cỡ. Tôi cởi áo ngoài để
bọc cá, khệ nệ ôm về. Mẹ tôi cúng tất niên xong, đang ngồi chờ tôi về để cùng
ăn. Thấy tôi về mẹ mừng lắm. Tôi đổ cá ra sân, bảo mẹ đi mổ cá. Còn tôi lén
giấu một con to nhất, thay quần áo và mang con cá đến biếu ông Tố Vị. Tôi gọi
cổng, cái Hảo mở cổng thấy tôi thì ngạc nhiên lắm. Tôi đùa: “Có món quà sêu lễ
bố vợ tương lai đây”. Cái Hảo véo tôi một cái thật đau nhưng tôi thích lắm. Sau
khi nghe tôi nói, ông Tố Vị cầm con chép lên, bảo: “ Lý Ngư vượt vũ môn đây!
Chú máy đưa Táo Quân lên chầu trời sao không hóa rồng còn về đây làm gì mà để
cho cái thằng nửa vĩ nhân nửa dở hơi này túm được. Nay mắc cạn thế này âu cũng
tại số kiếp cả!... Còn cậu Thăng, cậu vớ bở đấy. Cảm ơn cậu! Thôi về đi kẻo sắp
giao thừa rồi… Về trễ, quá đi… kẻo sang năm mới lại dông cho nhà tôi và cả nhà
cậu nữa đấy !...”.
Ra đến cổng, tôi mừng thầm, ông không
xưng hô tao mày với tôi nữa mà gọi tôi là cậu, có lẽ sau này ông sẽ đồng ý gả
cái Hảo cho tôi. Về nhà, mẹ tôi mổ cá vẫn chưa xong, mà pháo giao thừa đã lác
đác nổ…
Tưởng cái Hảo nói chơi, thành ra
thật. Hết cấp hai nó ở nhà làm ruộng. Tôi cũng định thôi nhưng mẹ tôi muốn tôi
phải học. Tôi vào cấp ba. Cả xã có mấy đứa, chúng chơi với nhau, bỏ mặc tôi.
Tôi cũng chẳng cần. Tính tôi ưa lặng lẽ, suy tư một mình nên tôi chẳng vì thế
mà buồn. Nhà tôi không có xe đạp. Mẹ tôi bán mấy tạ khoai tây giống sắm cho tôi
một chiếc. Đám con gái ở lớp thì tôi thấy chán ngấy. Chúng cứ tí tởn như đám
búp bê má hồng nơi phố xá song thật ra thì vẫn quê mùa một cục, chẳng đứa nào
bằng cái Hảo. Tôi nhất quyết sẽ cưới cái Hảo bằng được.
Đùng một cái, làng có chuyện động
trời. Người ta đồn ầm chuyện ông Tố Vị dan díu với bà Cả Khoái, bị con gái bà
bắt quả tang. Bà Cả Khoái cũng chạc tuổi ông Tố Vị. Bà góa chồng trẻ ở vậy nuôi
cô con gái độc nhất là chị Bái. Chị Bái lấy chồng lại cũng góa chồng trẻ, có
một con trai. Ba mẹ con bà cháu ở với nhau. Mọi người bảo nhau rằng, tưởng bà
Cả Khoái khi còn trẻ có tí táu tí mẻ chứ ai lại già đời rồi mới đổ đốn. Người
làng kể cho nhau nghe chuyện chị Bái mắng mẹ thì bà Cả Khoái thú tội rằng bà
đang giã gạo, thì ông Tố Vị đến chơi. Bà định ngừng giã pha trà, tiếp ông, ông
lại bảo “thân già làm một mình cực lắm, để tôi cùng giã đỡ cho vui chân”, thế
rồi từ vui chân ông chuyển sang vui vầy. Biết chuyện, tôi chẳng dám nói gì với
mẹ tôi. Mẹ bảo: “Con thấy chưa! May mà dạo nào mẹ đuổi lão ta … chứ không có
ngày rầy rà to. Lão ta là đồ mất mảnh”. Nghe nói, cái Hảo khóc lăn lộn và còn
đe tự tử. Cái Hảo vừa khóc vừa bảo bố nó: “Thầy làm như thế thì con còn mặt mũi
nào… Rồi đây ai còn thèm dòm ngó đến con… Người ta kén vợ kén tông”. Còn ông Tố
Vị thì u uất: “Chuyện lỡ rồi! Mà cũng có gì đâu…. Mày việc gì phải chết, hả
con! Đời người ta còn nhiều thứ điếm nhục hơn… Giá chết được thì tao đã chết từ
lâu, và chết nhiều lần rồi, con ạ !”…
Sau chuyện ấy, tôi không vui mà cũng
chẳng buồn. Đầu óc tôi lúc trống rỗng, lúc mông lung. Một hôm sau buổi học, tôi
quẳng xe đạp lại và tôi bỏ đi. Tôi đi và chẳng biết đi đâu. Đêm đầu bơ vơ ngoài
đường, tôi cứ nhìn vầng sáng hắt lên trời mà hướng tới. Có lẽ nơi ấy là thành
phố!....
Rồi tôi trở về nhà bằng cách nào thì
tôi cũng không nhớ rõ. Trong cơn tâm thần bột phát ấy, tôi chỉ nhớ duy nhất một
hình tượng. Đó là lúc tôi đi dọc bờ sông, khi trời đã về chiều, thì trời đất
bỗng nhiên tối sầm lại, mù mịt bụi bay, gió thốc mạnh làm cây cối ngả nghiêng,
tôi đứng không vững, ngã sấp ngã ngửa, tai nghe tiếng nước rôi réo ầm ào, rồi
phía dưới bờ đê, ngay trên vạt ngô bãi bồi, một cây sừng sững mọc lên và nó
lung lay nghiêng ngả. Tôi cố mở mắt ngước nhìn lên thì chỉ thấy cây cột vút mãi
tận trời. Tự nhiên tôi có cảm giác người như bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Tôi
nhanh tay nắm chặt lấy bụi trinh nữ bên bờ đê, cố ghìm mình để tránh khỏi bị
nhấc bay lên. Mặt tôi vục xuống, răng cắn vào đất. Đúng lúc ấy đầu tôi chợt lóe
sáng. Thôi đúng là con rồng tung mình bay lên khỏi đầm nước rồi. Nhưng sao chỉ
thấy phần thân và phần đuôi của nó tung quẫy? Còn phần đầu của nó đâu? Hay là
đầu của nó vẫn còn bị hòn đá chẹn chặt dưới đáy đầm? Và tự nhiên, trong người
tôi sôi lên một ý chí mạnh mẽ, rằng tôi sẽ quyết tầm sư học đạo để có đủ trí
tuệ và sức mạnh giải phòng con rồng ra khỏi nơi giam giữ, rằng tôi cam tâm tình
nguyện sẽ suốt đời đấu tranh và hiến dâng thân mình cho sự nghiệp giải phóng
này!
Sau khi về nhà, tâm thần ổn định,
được mẹ cho biết là ngay khi biết tin tôi bỏ đi, mẹ tôi đã huy động họ hàng và
đám bạn học của tôi bổ về thành phố tìm kiếm. Gần hai ngày lục lọi khắp ngõ
ngách, hè phố, xó chợ… người ta bắt gặp tôi ngồi rũ ra dưới một gốc cây to
trong công viên nhỏ thành phố giữa trời mưa tầm tã. Tôi bị lạnh đến cứng hàm mà
tôi vẫn cố lảm nhảm “ Giải phóng…. Giải
phóng…” Mẹ tôi bảo: “Lúc ấy mọi người tưởng con chết vì cảm lạnh…Nhưng rồi con
sống và hồi tỉnh dần. Có lẽ cơn mưa đã gột rửa những mê muội trong đầu óc con!
Xin cảm tạ trời đất!”
Từ ngày đó, tôi ít đến nhà ông Tố Vị.
Tôi không hiểu ông ta là người như thế nào. Có lẽ trong ông ta có cả thần thánh
và ma quỷ! Riêng với cái Hảo, tôi vẫn thích. Nó càng lớn càng đẹp thêm. Nhưng
sau chuyện ông Tố Vị dan díu với bà Cả Khoái thì trông nó ỉu xỉu, ủ dột như
bánh đa nướng gặp tiết nồm. Vẻ ủ dột phủ lên cơ thể đầy sức sống càng làm cho
nó thêm phần thánh thiện. Một đêm, làng có hát chèo, cái Hảo đi xem cùng mấy
đứa con gái cùng xóm. Tôi để ý tìm kiếm và ngồi cách đó một quãng. Trên sân khấu
đến đoạn Thị Kính hát điệu Sử rầu
mang con Thị Màu đi ăn xin thì cái Hảo bỏ về trước một mình. Vừa dể mắt chú ý
một chút lên sân khấu, ngoảnh sang đã không trông thấy cái Hảo đâu. Tôi đảo mắt
chợt thấy thoáng bóng nó ở phía cửa ra vào. Tôi chạy theo, giẫm bừa lên chân
người ngồi xem. Đến cửa ra vào thấy mất hút bóng nó. Tôi đoán nó bỏ về nhà nên
rảo bước về hướng nhà ông Tố Vị. Gần tới cổng, tự nhiên máu tự ái bốc lên làm
tôi đứng sững lại. Tôi quay về nhà mình chứ không xem nốt chèo nữa. Đêm ấy tôi
khó ngủ. Sáng sớm hôm sau, khi tôi oằn oại chưa muốn dậy thì mẹ tôi đến bên
giường bảo: “Thôi dậy đi con! Mọi người kháo nhau là đem qua ông Tố Vị tự vẫn
chết rồi. Khi cái Hảo xem chèo bỏ dở về đến nhà thấy ông Tố Vị treo cổ ngay
giữa nhà”. Tôi vùng ngay dậy. Đêm qua, giá tôi không tự ái thì có phải tôi đã
có mặt ở bên cạnh người tôi yêu lúc hoạn nạn không. Song biết đâu, nhỡ có mặt ở
đấy, tôi phải làm nhân chứng cho một vụ án, và không chừng, người ta còn nghi
tôi dính níu gì tới cái chết của ông ta cũng chưa biết chừng. Thế là người hiểu
biết cao nhất của làng không còn nữa!
Ông quyên sinh vì lẽ gì? Sau khi ông
chết người ta còn đồn đại, thêu dệt nhiều chuyện bỉ ổi. Chẳng biết nên tin vào
đâu!
Từ ngày ông Tố Vị chết đi, tôi lại vơ
vẩn nghĩ đến chuyện con rồng. Một trưa hè tháng sáu, tôi ra đầm. Tự nhiên ở
giữa đầm sủi lên một đám bong bóng to. Thôi đúng là con rồng bị đá chẹn cổ lâu
ngày ngạt thở rồi. Có lẽ nó đang hấp hối. Không kịp suy nghĩ, tôi lao mình xuống, bơi ra giữa đầm, lặn một hơi
dài, quờ quạng lung tung song chẳng thấy gì. Lên bờ tôi tần ngần mãi. Tôi nghĩ,
có lẽ con rồng đã chết rữa ra lâu rồi, hoặc giả nó đã rãy ra được bay lên trời
mà bữa nào tôi đã nhìn thấy. Còn mấy cái tăm to sủi lên có lẽ do trời quá nắng,
nước nóng làm khí thoát từ bùn bốc lên thành bọt trên mặt nước?
Sau đó, tình cờ tôi đọc được ở một tờ
báo có bài viết nói về con rồng. Vị giáo sư, tác giả của bài viết nói về một
huyền thoại rằng con rồng vốn là một loài rắn biển hung dữ. Đọc rồi, tự nhiên
tôi thấy chán ngấy. Tôi cũng ít nghĩ đến cái Hảo. Mỗi lần nhớ đến nó, tôi không
thấy sôi lên trong lòng mình khát vọng nhục dục nữa. Song khi nghĩ đến bầu
ngực, vóc dáng thon thả của Hảo tôi không khỏi bần thần. Tôi không sợ lấy cái
Hảo sẽ mang tiếng, bởi đơn giản từ bé đến giờ, tôi luôn hành động theo ý nghĩ
của mình, bất chấp người nói vào ra thế nào. Để ý quanh làng xóm, tôi thấy gia
đình mới tù túng làm sao. Tự thân tôi cũng thấy vậy. Nhưng tôi biết, cái Hảo,
cùng với mẹ tôi luôn là chỗ dự tinh thần cho tôi.
Tôi không học thêm cao nữa mà ở nhà
làm ruộng nuôi mẹ. Mẹ tôi yếu lắm rồi. Tôi biết thâm tâm mẹ muốn tôi lấy vợ,
sinh năm đẻ bảy, bởi có như vậy mẹ mới coi như mình trả xong nợ với đời mà nhắm
mắt xuôi tay. Tôi ba chục tuổi. Nhớ có lần, ông Tố Vị bảo “Tam thập nhi lập… Ở
cái tuổi này mà không định hướng được ý chí mình thì coi đời là bỏ đi”. Vậy mà
tôi vẫn bị người ta cho là một thằng dở người. Khi ông Tố Vị còn sống, ông hay
khích bác tôi, nhưng tôi còn có được sự khích bác để mà nổi xung lên, mà tự ái…
Còn bây giờ, người ta lăn lội, lam lũ, sao vẫn chán ngắt. Chán đến tái tê!
Hàng ngày, tôi vẫn phải ra đồng.
Không làm thì lấy gì mà đút vào miệng mình, chứ chưa nói đến chuyện nuôi mẹ.
Tôi cầm cày đi sau con trâu, rồi gieo mạ, cấy hái… như mấy nghìn năm trước tổ
tiên tôi từng làm. Mọi người xung quanh tôi cũng vậy. Nhưng chẳng một ai, ngoài
ông Tố Vị, biết tôi đang nung nấu ý chí sắt đá, biết tôi đang tích tụ sinh lực
để giải phòng con rồng thoát khỏi nơi tù hãm.
Miền xanh thẳm chân mây
1.
Hoài
lang biền
biệt đêm trường
người
đi bao nỗi dặm đường, sá chi
xông
pha gươm giáo kể gì
sao
đành, người ở chia ly cõi lòng,...
Những câu thơ
váng vất trong ý nghĩ...
Chiều nay. Minh trĩu nặng tâm tư,
Thấm thoắt, anh vào vùng Bảy Núi này đã ngót năm,...
Cứ chiều chiều, lúc nhập nhoạng tối, khi đàn dơi loạng
choạng chao trên vòm cao mấy cây xoài cổ thụ, thì dàn cát-xet của một gia đình
trong khu tập thể cơ quan lại vang lên, hết ỉ eo những bài hát nhạc vàng rồi
sang nỉ non vọng cổ. Nghe mãi, chẳng buồn để ý, vô thức mà thành thuộc. Minh sở
thích chèo cổ, ghét cải lương vọng cổ, nhưng riêng bài Dạ cổ hoài
lang thì anh không thể làm ngơ. Từng chữ từng lời, thấm dần vào anh từ
lúc nào không hay "Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào
ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan
vàng quặn đau í a/ Như chim trời lẻ bạn... chim bay về... nơi vô định/ Trời xa
đất lạ trong mây khói mịt mùng/ Kiếp giang hồ mỏi gót phong sương/ Một chiều
qua bến lạnh bỗng nhớ tới một người...".
Minh nhớ mẹ và nhớ Nguyệt. Sâm sẩm nhớ mẹ, khuya là
nhớ em. Anh mang máng nhớ một câu thơ của ai đó vì nó đúng với tỉnh cảnh
của mình . Nhập nhoạng, khói lam chiều khiến anh nao lòng nhớ mẹ. Nhớ bóng mẹ
ra vào, dáng mẹ ngồi bên bếp lửa với chiếc que cời bếp rơm luôn tay. Nhớ hình
bóng mẹ tựa của, rồi chậm rãi ra đóng cổng lúc sẩm tối, mẹ biết lại thêm một
ngày nữa con trai mẹ mãi chân trời phương
2.
Một
trông mong vạn chờ mong,
chẳng
thà cứ gái chưa chồng cho cam
sông
kia dằng dặc trời
nước
mây vời vợi ai làm cho đau,...
Minh nghe vẳng vằng một giọng nữ đọc thơ., không xa mà cũng chẳng
gần, như đâu đó trong khu vườn thôi. Anh ngơ ngác "Ai dấy? Ai vừa đọc
thơ đấy?". Giọng nữ cất lên rất gần khiến anh giật mình "Ta
đây... ở gần ngươi thôi... nhưng ngươi không thấy đâu,... Ta cho ngươi mấy câu
thơ ta vừa ngâm để chắp nối với câu thơ mà ngươi ngâm nga chiều nay...".
Minh cố trấn tĩnh để không lộ vẻ sợ hãi "Nhưng bà... bà là ai? ... Sao
lại biết tôi làm thơ?... Sao lại tặng thơ bà cho tôi?,...". Giọng nữ
khẽ cười "Ngươi không biết ta đâu... Ta sống trước người những hơn hai
trăm năm ... Thơ ta vừa đọc ngươi cứ nhận lấy. nối tiếp vào thơ ngươi cũng hợp
cảnh hợp tình đó...". Nói rồi, giọng nữ cất lên đọc liền hai khổ thơ
với nhau, câu cuối như nghẹn lại trong nước mắt. Minh nghe rưng rưng, quên cả
sợ, tự cảm thân quen, muốn trò chuyện: "Thì bà ... cũng nên hiện hình
tỏ dung nhan .. hay cho biết quý danh để mà thưa gửi chứ ạ ?...".
Giọng nữ nhẹ nhàng, có chút ân cần "Ngươi thật biết phép tắc,... và
cũng hết sợ rồi đấy nhỉ,". Cười ôn hòa "Cứ từ tốn, trước sau
thì ngươi cùng biết thôi... Ta đến gặp ngươi thế này chẳng phải để chơi đâu ...
ắt phải có chuyện để nói chứ...".
Minh cố căng mắt, ngó nhìn quanh quất hòng nhận diện ngươi
đang nói chuyện với mình, nhưng chẳng thấy gì ngoài thứ ảnh sáng nhờ nhờ như
sương đục, loáng thoáng hình bóng những cây xoài, cây dừa, vú sữa, mãng cầu vẻ
quen quen. Không khí tĩnh lặng, Minh bỗng sợ, lên tiếng: "Bà... ba ở
đâu rồi?". Giọng nữ cười nhẹ: "Ta vẫn ở đây... Ngươi nhìn kỹ
chưa? Có thầy ta không? Thấy gì quen không?". Minh e sợ "Không
thầy bà... chỉ thấy cây cối quen quen thôi...". Cười to "Đã
bảo mà... thì cây cối trong vườn hàng ngày... người đi dạo, quét lá khô nấu
bếp, rồi leo trèo hái quả cả năm nay. không nhận ra sao được... Ta cho người
biết, cả khu vườn này có mười tám cây vú sữa, hai mươi bảy cây dừa và bảy mươi
hai cây xoài các loại, thêm ít cây lặt vặt khác ta không tính...Ngươi không
tin, mai đếm thử xem...". Minh vẫn nghi hoặc "Vậy là...ta vẫn
đang ở trong khu vườn của cơ quan tôi hay sao?". Hạ giọng "Thì
đúng thế ... Thực ra, ta chính là chủ nhà. Ta ở đây từ hai thế kỷ rưỡi nay...
còn ngươi mới là khách. Ta nhớ, ngươi đến sống ở đây còn chưa đầy năm kia mà...".
Minh ú ớ vâng dạ. Giọng nữ khẽ cười: "À, ta nhớ... người có mấy lần
giẫm lên nóc nhà ta để bám cành đu mình leo lên cây xoài cát cổ thụ ở vườn
sau ấy...". Minh ớ người cãi "Nhà nào nhỉ ?... Có nhà nào ở
vườn sau đâu? ... Tôi giẫm lên nóc nhà bà hồi nào? ". Cười trêu
"Người cũng giỏi cãi nhỉ... Chẳng lẽ ta đổ oan cho ngươi sao.... Ngươi
thử nhớ lại đi... Không tin, sáng mai, người ra gốc cây xoài cổ thụ vườn sau,
tìm xem thấy ở đấy có gì không? Chớ
vội cãi ngay thế... ". Minh nghi hoặc, chợt nhớ ra điều gì, vôi kêu
lên "Bà này, tôi nhớ hình như là..." Giọng nữ cắt lời, nghe xa
vọng lại "Ta có việc đi đây... Hẹn gặp ngươi sau... Cứ suy xét cho kỹ
đã... Rồi ngươi cũng sẽ biết về ta thôi.". Minh níu lấy "Nhưng
tôi đã mạo phạm... thì sao ạ"...". Cười xa xôi "Chớ lo...
Ta tạm tha cho ngươi cái tội mạo phạm giẫm đạp lên nóc nhà ta... Yên tâm và đợi
khi ta quay lại...". Minh vẫn chưa chịu "Nhưng bà cũng phải
gợi chút... thì tôi mới biết lối mà tìm... chứ mù mịt thế này tôi chẳng biết
manh mối ra sao,... tìm đến bao giờ? ", Lại cười "Ngươi
thật nhiều chuyện... Dạ cổ hoài lang, ngươi rõ rồi đấy... nhà ông Cao Văn Lầu
ấy nói hộ nỗi lòng của người vợ đợi chồng phu phen lính tráng thời tao loạn
binh đao ở vùng đất này ,... Sống chết gan tấc biết khi nào về mà chờ đợi cơ
chứ... Ta xưa cũng là người cùng cảnh ngộ... Chợt thấy ngươi thương cảm thành
thơ mà hiện về nói với ngươi đôi ba câu... Ngươi là người đọc sách, hẳn biết về
trận Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa, quân Tây Sơn đại phá liên quân Xiêm Nguyễn...
Thôi, ngươi chịu khó đọc lại sử sách tỉ tường... Đợi lúc ta quay lại còn có cái
để mà nói chuyện. Ta đi đây....".
Minh choàng tỉnh, ngồi phắt dậy. Bàng hoàng, định thần.
Người vã mồ hôi ướt đẫm. Nhìn ra cửa số phía trước nhà, lờ mờ. Trời sáng giăng
suông,...
3.
Đêm ấy, Minh
thấp thỏm không ngủ lại được nữa....
Nghĩ miên man, điểm lại từ ngày anh chào mẹ khoác ba lô
hành phương
Cơ quan đóng tại một khu nhà vườn rộng chừng gần hec-ta,
rợp xanh bóng dừa, xoài, vú sữa, mãng cầu xiêm... Nghe nói, chủ cũ của khu nhà
vườn này chạy sang Mỹ định cư thời điểm kết thúc chiến tranh giải phóng miền
Sáng trở dậy, Minh dạo quanh khu cơ quan, rồi lượn về vườn
sau, nơi có mấy cây xoài cát cổ thụ. Nhìn quanh, vạch cỏ dại, anh tìm thấy đám
đất mấp mô lẫn gạch xây chẳng ra hình thù gì. Minh gai người, nhẩm bụng, đoán
mò nơi đây từng có một ngôi mộ hoặc miếu thờ cổ nào đó.
Nhớ lời người đàn bà gặp trong mơ, Minh bắt đầu tìm hiểu về lịch sử vùng đất.
Chuyện tiên chúa Nguyễn Hoàng xưa nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", xin chúa Trịnh
Kiểm bỏ xứ Bắc vượt Đèo Ngang vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558 thì Minh biết,
nhưng trải mấy trăm năm qua chín đời chúa Nguyễn đến Nguyễn Phúc Ánh, mở mang
bờ coi phía Nam vào trấn Gia Định và châu thổ Cửu Long giang, Chân Lạp xưa thì
anh không mấy tường. Việc tìm tòi sách vở và tra cứu tài liệu cũng không
dễ chút nào. Lần mò rồi Minh cũng tìm được nguồn tài liệu từ những cuốn sách sử
in trước năm 1975 của một người quen ở Sài Gòn. Lịch sử triều Nguyễn mở ra
trước mắt anh, nhất là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, công cuộc chinh
phạt phương Nam của ba anh em nhà Tây Sơn và cả hành trình gian truân nguy hiểm
để phục quốc của chúa Nguyễn Ánh. Minh chú tâm đọc kỹ phần viết về trận Rạch
Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của Nguyễn Huệ đại phá liên
quân Xiêm-Nguyễn, xem có gì đặc biệt mà người đàn bà xuất hiện trong mộng mị.
nhắc đến...
Ngày xưa, tháng Chạp năm Giáp Thìn sang Ất Tỵ, giao năm
1784-1785, trên khúc sông Tiền, Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 7
cây số, nơi lòng sông rộng, lại có cù lao. thích hợp cho việc ém quân để quân
Tây Sơn bố trí trận địa. Liên quân Xiêm-Nguyễn mắc mưu quân Tây Sơn nhử đến
trận địa này, bị phục binh Tây Sơn chặn cứng hai đầu, dồn ứ lại, làm mồi cho
hỏa pháo Tây Sơn tiêu diệt. Chỉ trong vòng một ngày, Nguyễn Huệ chỉ huy
quân Tây Sơn phá tan và tiêu diệt gần 5 vạn liên quân Xiêm-Nguyễn. đông gấp đôi
quân mình. Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân thoát
chết chạy ngược lên đất Quang Hóa (nay là Tây Ninh) sang đất Chân
Lạp để về Xiêm La. Còn Nguyễn Ánh thì cùng đoàn tùy túng phò tá tháo chạy khổ
sở đói khát, đến nỗi tướng Nguyễn Văn Thành phải đi cướp của dân lấy miếng ăn
cầm hơi, đến nỗi bị dân đánh trả mà trọng thương. Gần năm ngàn quân còn lại
chưa đây một ngàn, tan tác cả, phần chạy theo quân Xiêm, nhúm quân theo Nguyễn
Ánh chạy dạt về cuối đất, trốn ra đảo Thổ Chu. May mà quân Tây Sơn đuổi theo bị
bão biển đánh tan thuyền nên Nguyễn Ánh thoát nạn, bôn ba nhiều năm, chờ thời
cơ nhà Tây Sớn có biến, lấy lại cơ đồ...
Minh cứ ngẫm nghĩ, mảnh đất khu nhà vườn này chắc liên quan
gì đến quan quân chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn chinh phạt vùng châu thổ này.
Nhưng lịch sử đâu có chi tiết đến mức có thể tra cứu rõ được. Đành chơ cơ duyên
thôi.
4.
Đầy
năm, Minh nghỉ phép, ra Bắc. Lần đầu tiên, anh cảm nhận được niềm vui. niềm
hạnh phúc của kẻ xa nhà về cả khoảng cách và thời gian khi gặp lại mẹ và người yêu. Già nửa tháng.
Minh tính toàn, phân bổ sao cho hợp lý để ở bên mẹ, giúp mẹ làm việc nhà với
thời gian dành cho người yêu đang dạy học ở một trường xa dăm chục cây số.
Trong niềm vui thường nhật những ngày bên mẹ và gần người yêu, nhưng ẩn chứa
trong sâu xa, Minh lại thấy nhớ miền Tây sông nước, nhớ khu vườn xanh um cây
trái, vắng vẻ và chập chờn ma mị ấy. Chẳng gì, anh cũng đã có bao chiều cô đơn,
bao đêm hoang hoải, mất ngủ vì nhớ Bắc và sợ bóng tối. Con người ta lạ thế đấy,
vui quá và sợ quá đều đem đến sự ám ảnh khôn cùng. Kỳ nghỉ gần hết, Minh bỗng
thấy ngại khi nghĩ đến việc phải trở lại khu vườn ma mị sống tiếp những ngày
khắc khoải, những đêm say để ngủ cho quên nỗi sự, những phút giờ hoang vắng đếm
tiếng tắc kè tặc lưỡi bóng tối. Minh phân vân khi mẹ bảo ở lại thêm, còn người
yêu thì nhắc nhở rằng chậm phép có thể bị cơ quan kỷ luật vì tội vô tổ chức...
Nhưng rồi, Minh cũng dứt ra được, trả phép tuy có chậm ít ngày. Thấy anh ba lô
trở vào, ông trưởng phòng người địa phương cười đùa "Tưởng cậu ở luôn
ngoải... Vô lại thế này là được rồi... Có vợ chưa? Sao không đưa vô đây... tớ
nói với Ủy ban huyện cấp cho miếng đất cập lộ, cất cái nhà tạm, chồng làm cơ
quan, vợ mần buôn bán vặt. ... Sống khỏe à...". Minh cười cầu
tài cảm ơn. Không nhắc nhở, kỷ luật gì là ổn rồi.
Mấy nhà người
quen, diện chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc, thấy Minh vào lại, hè nhau nhậu, bảo
là để mừng anh không đào tẩu. Buồn vui lẫn lộn, Minh quá chén say đứ đừ, thập
thõm gắng gượng khuya về đến phòng, đổ ập xuống giường, say ngủ mê
man...
Dưới gốc dứa, hóng gió mát, Minh
ôm cây ghi ta bập bùng. Anh lựa gạm thử mấy nốt theo một điệu vọng cổ, chợt
nghe giọng đàn bà "Đàn này không hợp đâu, phải dùng đàn phím lõm kia.".
Minh giật mình, ngừng bặt "Ôi, đúng là bà rồi... Tôi vẫn nhớ giọng bà
mà...". Cười nhẹ "Vậy là người vẫn nhớ, khen cho ngươi... Về
quê vui chứ?" Minh ngạc nhiên "Quê nào... Tôi vừa nghỉ phép ra
Bắc ít ngày... ". Cười thành tiếng "Quê đấy chứ đâu...
thăm mẹ thăm vợ thì hẳn vui lắm nhỉ". Minh cãi "Mẹ thì đúng
rồi, nhưng ... bạn gái thôi, tôi đã cưới đâu mà vợ ?". Giễu cợt
"Ngươi chưa cưới vợ, ta biết.... nhưng ăn nằm với người ta thì cũng nên
coi người ta là vợ... thế lấy của người ta cái ngàn vàng rồi định bỏ người ta à
?...". Minh cứng họng ú ớ "Sao... bà cũng biết à ?".
Cười nhạt "Thì ta là ma... dương gian các người hay bảo, biết ma ăn cỗ
lúc nào... nhưng ma lại biết rõ các ngươi ăn cỗ thế nào kia đấy". Cười
ma mãnh, Minh ớn lạnh cả người "Tôi yêu cô ấy, muốn cưới làm vợ...".
Vẻ chân thành "Ta tin ngươi thật bụng... nhưng đời còn dài mà... lòng
người dễ thay đổi". Im lặng một lúc. Người đàn bà "Ta đến đây
không phải để chuyện yêu đương của ngươi... Thế ngươi đã biết sử sách bao nhiêu
rồi ?" . Minh hào hứng "Không nhiều, nhưng cũng đủ
biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, nhà Tây Sơn đại phá 5 vạn quân Xiêm-Nguyễn,...
biết chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy dài trốn chui trốn lủi ra đảo Thổ Chu thế nào...".
Mỉa mai "Người có vẻ đắc ý nhỉ... Ai dạy dỗ ngươi mà cao giọng
vậy... làm được vài câu thơ mà giọng đầy thiên kiến vậy... Lịch sử vốn không
thiên vị ai...", Minh hăng lên "Tôi không thiên kiến, rõ ràng
nhà Tây Sơn, nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ, đệ nhất anh hùng, ra Bắc dẹp
Trịnh, vào Nam đuổi Nguyễn, trước quét sạch quân Xiêm, sau đại phá quân Thanh... Thử hỏi, trời
5.
Minh tỉnh cơn mơ. Cảm nhận đầu
đau nhức, nặng trịch. Hơi thở vẫn nồng mùi men. Chắc rượu uống lúc chiều là
loại rượu kém chất lượng được lên men từ nguyên liệu ri đường. Ngọn đèn dầu hỏa
đỏ cạch gió lùa cửa sổ sáng lay lắt. Người váng vất khó chịu. Anh lôi vội chiếc
xô nhựa dưới gầm giường nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng. Minh mệt lả
người, nằm im, lần hồi nhớ lại giấc mơ ...
Minh những tưởng, giấc mơ ngày
nào gặp người đàn bà tự xưng là chủ khu vườn từng có miếu thờ ngay trong vườn
này sẽ không bao giờ lặp lại. Vậy mà anh lại mơ thấy bà ta, tiếp nối câu chuyện
bỏ dở từ lần trước. Anh vẫn bị ám ảnh bởi bầu không khí bí ẩn của khu vườn và
câu chuyện đằng sau nó. Minh ngẫm nghĩ, có lẽ sự hoang vắng của khu vườn
cộng hưởng với âm khí từ cái nghĩa địa ngay phía sau nhà anh ở đã ám thị anh thành
mộng mị. Song những hiểu biết về lịch sử anh đọc ít nhiều được tái hiện vào câu
chuyện với người đan bà trong mộng khiến anh nghi hoặc về nguồn gốc khu vườn
này và những chủ nhân của nó qua máy thế kỷ. Những người quanh đây, cũng chỉ
biết lơ mơ về người chủ bỏ xứ sang Mỹ định cử khi kết thúc chiến tranh phân
miền, chứ không ai biết sâu xa hơn về nguồn gốc, liệu rằng các người chủ trước
nữa có phải huyết thống trực hệ là nối nhau sống nhiều đời ở đây hay là đã sang
nhượng thay tên đổi chủ.
Riêng có chi tiết trong mộng mị
của anh thì nhanh chóng xác định được ngay. Ngay hôm sau, anh theo lối mòn vạch
rào ngó sang nghĩa địa phía sau thì quả nhiên thấy ngôi mả mới thật. Cũng không
khó để xác định người nằm dưới mộ ấy là ai. Chị người quen cũng cơ quan sống kế
bên chợ An Lạc xác nhận, thời điểm Minh đi phép Bắc, có một chị chuyên bán đồ
khô ở chợ An Lạc bị cảm đột ngột rồi mất, và nghe nói chồng chị ta trước đây là
sĩ quan Ngụy chết trận. Đối chiếu với giấc mơ của mình, Minh thấy không sai.
Chi tiết này là có thật, thì câu chuyện dài trong mộng mị kia có cơ cở để
tin...
Sau lần ấy, Minh không hề mơ thêm
gì nữa, mặc dù anh có ý trông chờ. Công việc, cuộc sống biến động, anh dần lãng
đi, mặc dù đâu đó trong những đêm khó ngủ vì nhớ nhà, vì lo tính công việc, nó
vẫn thảng về trong ý nghĩ của anh. Mối tình của anh và Nguyệt cũng không thành
sau vài ba năm chờ đợi. Nguyệt chủ động chia tay anh vì lý do từ gia đình. Minh
níu kéo không nổi đành buông tay... Nguyệt về Hà Nội theo khóa cao học, rồi xin
việc mới, không trở lại trường cũ. Chuyện tình đổ vỡ, Minh không đổ lỗi cho
việc anh đã vô tình tặng kéo cho Nguyệt, bởi một lần vì không biết, anh đã mua
tặng cô chiếc kéo thợ may cùng bộ sách hường dẫn cắt may, thước vải, và dụng cụ
may, gửi qua bưu điện để cô tập lúc rảnh rỗi. Sau anh mới biết, người ta bảo,
người yêu nhau kỵ nhất việc tặng dao kéo và khăn tay, bởi dao kéo sẽ cắt đứt tơ
duyên, còn khăn tay là để lau nước mắt chia tay, ly biệt... Minh có nghĩ đến
lời tiên đoan của người đàn bà trong mộng về sự tan vỡ mối tình của anh với
Nguyêt, chỉ cảm thấy buồn nhớ những năm tháng ở đấy...
Nhưng cũng vì gắng níu kéo
mối tình với Nguyệt mà anh quyết tâm ra Bắc. Anh bỏ lại quá khứ với khu vườn,
bỏ châu thổ mênh mông sông nước cùng những điệu vọng cổ da diết buồn, bỏ Dạ
cổ hoài lang sầu bi não nùng....
Hơn hai mươi năm sau, Minh mói có
dịp trở lại vùng đất Bảy Núi, nhân chuyến công tác miền Tân
Minh còn trở lại vùng đất này
nhiều lần. Anh cũng có thơ ghi lại cảm xúc của mình. Giờ đây, mỗi khi nhớ
về vùng đất ấy, anh thầm gọi tên miền xanh thăm chân mây... ./.
Mỹ nhân mộng
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
( Lý Bạch- Thanh Bình điệu )
Nàng lặng người ngắm pho tượng mỹ nhân
bạch ngọc. Quang cảnh Hoa Thanh Cung thật náo nhiệt. Du khách nườm nượp thăm thú.
Song có cảm giác, mọi người đều dồn tụ cả về quanh pho tượng Dương Quý Phi này.
Không ai lại không lưu chân, nấn ná chẳng muốn rời đi.
- Chị có muốn chụp với pho tượng làm kỷ
niệm không ? Nếu không phiền, tôi có thể bấm giúp mấy kiểu ?
- Vâng… - Nàng lưỡng lự - Cảm phiền
anh giúp vậy .
Nàng đưa máy ảnh cho người đàn ông. Vì
ngượng, nàng không dám tạo dáng, người cứng đơ trong bộ váy và áo thun. Người đàn
ông nhỏ nhẹ:
- Chị … thư giãn… thỏa mái đi .
Rồi mọi chuyện cũng xong. Trả lại máy ảnh
cho nàng, người đàn ông bắt chuyện :
- Xin lỗi. Chị là khách du lịch ? Chắc
lần đầu đến đây ?
- Vâng. Lần đầu tiên. Cảnh sắc ở đây đẹp
quá, anh nhỉ ?
- Vâng… Tôi đến đây nhiều lần rồi… Vậy
mà… lần nào cũng ngỡ ngàng như lần đầu vậy… Chị à .
- Vậy, hẳn là anh công tác, hay học tập
ở đây ?
- Chị đoán đúng đó… Tôi học tập ở Đại
học Tây An. Đúng ra là tôi đang làm luận án tiến sĩ… về lịch sử tư tưởng phương
Đông.
- Thảo nào… Anh thuộc cả thơ chữ Hán.
- Vâng- Người đàn ông cười nhẹ - Có gì
đâu… Đấy là câu thơ đầu bài thơ Thanh
Bình điệu của Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường, vịnh Dương Quý Phi
… Chắc chị cũng biết vậy rồi .
Vừa nói, người đàn ông vừa quả quyết bảo
nàng cùng quay trở lại, chỉ cách pho tượng chừng vài chục thước. Đến trước bức
vẽ mỹ nhân trong trang phục xiêm y diễm lệ tựa người vào khóm hoa thược dược, bên
cạnh chua mấy dòng thơ chữ Hán, giảng giải :
- Chắc chị cũng biết… Đây là tranh họa
Dương Quý Phi. Còn đây là bốn câu thơ trong khổ thơ đầu bài Thanh Bình điệu của Lý Bạch. Xin đọc hầu
chị nghe : " Vân tưởng y thường hoa
tưởng dung. Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng. Nhược phi Quần ngọc sơn đầu kiến.
Hội hướng Dao đài nguyệt hạ phùng "… Chị ạ, dịch sang tiếng Việt mình
thì có nhiều người đã dịch. Riêng tôi… Tôi chỉ thích bản dịch của cụ Ngô Tất Tố…
Lại xin đọc chị nghe : " Thoáng bóng
mây hoa nhớ bóng hồng. Gió xuân dìu dặt giọt sương trong. Ví chăng non Ngọc
không nhìn thấy. Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông "… Dịch thoát ý mà
vẫn giữ được phong vị Đường thi…
Nàng nghe người đàn ông, nhìn bức họa,
loáng thoáng hiểu. Nàng không biết chữ Hán. Vừa nãy thôi, nàng cũng đã đi ngang
bức họa này, đoán là tranh họa Dương Quý Phi, song nàng cũng chỉ nhìn lướt cho
qua, không thấy thú vị gì ở đấy. Giờ cùng ngắm bức họa, lại nghe người đàn ông
lạ này đọc thơ và giảng giải, nàng cảm nhận được thi vị, lại thấy mình thì nông
cạn, mà người đàn ông kia sao mà hiểu biết đến vậy. Mải nghĩ, nàng thoáng giật
mình khi người đàn ông à lên khe khẽ.
- Thôi chết… Tôi rườm lời quá… Có khi còn làm phiền chị… Lại múa
rìu qua mắt thợ cũng nên… Có khi chị giỏi Hán ngữ … Tai hại…chỉ tại cái miệng này…
Vừa nói, người đàn ông vừa vả nhẹ bàn
tay lên miệng mình mấy cái liền. Mục sở thị, nàng bật cười nhẹ, và can :
- Thôi thôi… Anh không phải tự trách mình
như vậy đâu. Một chữ Hán bẻ làm đôi tôi cũng không biết . Thật may là có anh giảng
giải cho…Tôi tuy làm công tác tư liệu ở một cơ quan khoa học, nhưng mà…tôi cũng
chỉ biết sơ những kiến thức trong phạm vi chuyên môn hẹp thôi…
- Thật thế ư ?... Vậy là tôi không đến
nỗi quá vô duyên rồi… Thú thực là… tôi đã có đôi lần vô duyên như thế…Vậy mà vẫn
không chừa… Chứng nào tật ấy… Hồi nhỏ còn đi học, cứ mỗi lần thấy tôi đọc sách được
điều gì thú vị là mang khoe rồi huyên thuyên kể lại, bất kể người khác có nghe
mình không…là mẹ tôi lại mắng…Chị biết mẹ tôi mắng thế nào không ?… Mẹ tôi mắng
là " Con mà cứ vô duyên như vậy… thì
sau này ế vợ mất thôi "… Đấy, mẹ tôi mắng mỏ thế đấy …
Người đàn ông cười. Cái cười bẽn lẽn,
trìu mến. Nàng khẽ rùng mình, cười theo, cảm động :
- Là bà cụ … mắng yêu anh đấy. Phụ nữ
chúng tôi là vậy…- Nàng ngượng vội chữa lại - Các bà mẹ thường vậy… mà anh.
- À quên…mải chuyện… mà chẳng biết gọi
nhau là gì. Tôi tên là Thi. Lê Hữu Thi… Còn chị ? Tôi có được phép gọi …
- Tôi là Mỹ…Hạnh Mỹ - Nàng mạnh bạo,
chìa bàn tay ra - Rất vui được làm quen với anh… anh Thi ạ.
- Hân hạnh, hân hạnh - Thi nắm nhẹ bàn
tay nàng đủ độ tin cậy - Tên tôi là do ông nội tôi đặt cho đấy. Ông cụ giỏi thi
thư, luận ngữ. Ngày trước cũng từng lều chõng đi thi mấy khoa cuối triều Nguyễn,
nhưng chỉ đỗ đến tú tài thôi. Cụ đặt tên cho tôi như vậy, chẳng biết có phải vì
mong sau này tôi làm thơ và trở thành thi sĩ không ? Thật đáng tiếc là… tôi chẳng
làm nổi lấy nửa câu thơ… Chỉ được mỗi cái… là chịu khó học vẹt, nên cũng thuộc được
ít nhiều thơ thiên hạ …
Thi phân trần mà như ngầm khoe gia thế
và kiến văn của mình. Nàng nảy ý định trêu ngươi, cười bảo :
- Có gì đâu anh…Thì cũng như tôi đây.
Tên là bà ngoại đặt cho. Nghe nói, hồi còn xuân sắc, bà ngoại tôi đẹp lắm, đẹp
nổi tiếng một vùng. Nhưng mà thân phận đa đoan…Lúc tôi còn nhỏ xíu, bà ngoại tôi
đã già lắm rồi, nhưng mà vẫn còn giữ được nét đẹp ngày xưa. Bà cụ đặt tên cho tôi
cũng là mong tôi sau này, dù không sắc nước hương trời, thì chí ít cũng có được
một phần nhan sắc của cụ… Ấy vậy mà… tôi đã làm bà ngoại mình phải thất vọng… bởi
cái ngoại hình… kém cỏi của mình… Hình dong thì thô kệch và cái mặt thì … khó
coi…Anh thấy rồi đấy!...
- Không, không … Là tôi đâu có ý ấy…-
Thi kêu lên, vội vàng xua tay lia lịa - Đúng là tôi không hề có ý nghĩ ấy trong
đầu… Chị đừng nói thế…làm tôi ái ngại quá đi thôi... Là tôi mang chuyện cái tên
của mình ra nói chị nghe là để … - Thi ắng giọng giây lát - Nào ngờ chị lại
mang vận vào mình, làm tôi … chẳng biết nói năng sao đây ?...
- Không hề chi - Nàng cười, thấy vui
vui- Không sao thật mà. Anh chẳng thấy tôi đang vui đấy sao?...
- Thật vậy chứ ?- Anh chàng thấy chẳng
cần phải nuốt mất lưỡi vì sợ nàng phật ý, lại huyên thuyên - Nãy bấm hộ chị mấy
kiểu ảnh… Tôi còn định nài chị chịu khó ra đứng sát bên và nép người vào chân tượng
mỹ nhân. Chụp như vậy, theo lời đồn thì… người bình thường rồi sẽ đẹp ra… còn
người đã xinh như chị … lại càng xinh thêm …
- Vậy a - Nàng ồ lên bật cười thành tiếng
- Thế là tôi bỏ lỡ một cơ hội rồi. Tôi không ước xinh thêm đâu… mà tôi chỉ cần
bớt vô duyên là được… Với lại anh cũng không cần phải nịnh đầm như vậy đâu.
Giờ thì nàng cười thoải mái. Bởi nàng
biết, nếu không, nàng sẽ lại chìm đắm vào suy tư, mặc cảm tự đáy lòng, vì sự vô
duyên hiện thực của mình. Song quả tình nàng vui. Vui vì không ngờ câu đùa của
mình lại mang đến hiệu quả tức thì, khiến anh chàng đang thao thao phô diễn mớ
kiến thức lịch sử của mình bỗng nhiên lúng túng như cậu bé con bị bắt lỗi. Và mình
từ thế bị động bỗng chuyển thành chủ động trong câu chuyện giữa hai người. Từ lúc
làm quen đến giờ, nàng chỉ là người lắng nghe mà thôi.
Nàng cũng bất ngờ về khả năng bịa chuyện
của mình. Chuyện bà ngoại mình nhan sắc chim sa cá lặn thì nàng bịa ra để trêu
ngươi anh chàng, riêng hình dáng và nhan sắc của nàng thì nàng đâu có bịa. Tất
thảy lồ lộ ra đấy, có giấu hay cố tình nói tránh đi thì chàng ta cũng thấy rồi.
Song le, quả là nàng cũng tự biếm hơi quá. Hình dáng nàng tuy to lớn hơn tầm vóc
trung bình thường thấy của đàn bà Việt, song nó đầy đặn, và cũng đâu có thô kệch.
Thì mỹ nhân Dương Quý Phi kia cũng to lớn đẫy đà khác thường đấy sao ? Vậy mà,
nàng ta được tôn sùng thành một trong Tứ
đại mỹ nhân cổ kim Trung Hoa. Nghĩ thế, nàng bật cười thành tiếng, khiến
anh chàng Thi để ý. Khi đó, hai người đã đi đến nơi tắm của mỹ nhân Dương Quý
Phi tự lúc nào không hay.
Khi ghé xem cái hồ tắm lộ thiên trong
số năm hồ tắm của Hoàng gia triều Đường còn lại, Thi dừng lại lâu hơn, ngắm nghía,
bảo :
- Chị trông này. Hồ tắm này có tên là
Tinh Đẩu. Nó mang dáng hình của bông hoa hải đường. Đây là hồ tắm của Dương Quý
Phi. Nước suối nóng được dẫn ngầm phun từ dưới lên. Mỹ nhân xưa vốn nâng niu tấm
thân ngọc ngà của mình, song cũng không ngại phô ra cho đám cung nữ và cây cỏ
hoa lá, chim muông, trời đất được chiêm ngưỡng. Thế nên, hồ tắm mới lộ thiên, khác hẳn các hồ tắm còn lại của Hoàng gia tại
Hoa Thanh Trì, kể cả hồ tắm Liên Hoa dành riêng cho vua Đường Minh Hoàng, vốn đều
kín đáo. Tương truyền, hồ tắm Tinh Đẩu là
quà sinh nhật nhà vua tặng mỹ nhân.
Mắt lướt qua các bức họa trên tường những
hồ tắm, toàn là cảnh Dương Quý Phi tắm, hay mỹ nhân gảy đàn cho Đường Minh Hoàng
nghe, hay khi ngả ngốn trong lòng nhà vua say ngắm đám cung nữ múa ca, song đầu
óc nàng cứ lởn vớn những ý nghĩ về anh chàng tên Thi mà nàng vừa làm quen. Tại sao nàng lại có thể dễ dàng nói
ra những câu nói và thường ngày nàng dị ứng, hoặc lảng tránh, thậm chí dù chỉ là
ý nghĩ trong đầu thôi cũng cảm thấy khó chịu. Trong gia đình, nơi công sở, chốn
bạn bè đông người, hễ ai đó nói chuyện nhắc đến đàn bà cao to, tướng đàn ông,
hay gái muộn chồng là nàng cảm thấy động chạm, như ám chỉ mình ? Vậy mà, những
ngôn từ ấy, nàng lại nói ra một cách trơn tru, thoải mái, thêm nữa, nói với một
người đàn ông xa lạ mà mình mới chỉ tình cờ quen nơi đất khách quê người ? Đành
rằng, ở xứ xa lạ ngoại quốc này, hai người là đồng hương dân tộc với nhau, có
thể tin cậy mà dựa vào nhau, nhưng thế thôi thì chưa đủ. Vậy còn vì cái gì nữa,
thì nàng chịu. Đúng ra, nàng chẳng thèm nhọc công mà suy xét nữa. Nàng đã chẳng
giữ gìn, cẩn trọng trong ứng xử, trong các mối quan hệ nam nữ hơn chục năm nay,
mà vẫn tay trắng đó sao ? Đám chúng bạn
nàng, sống thoải mái, yêu đương dễ dãi, mà đứa nào đứa ấy cũng gia đình đề huề
cả. Không những thế, có đứa vẫn bồ bịch túa xua. Hễ nàng động chạm gì đến chuyện
bồ bịch của chúng, thì chúng lại viện dẫn cái câu cửa miệng “ chơi xuân kẻo hết xuân đi “. Đến là ghét.
Còn nàng thì sao ? Giữ giá làm nộm, người đời thường bảo vậy. Điều đó thật đúng
với nàng. Giờ thì nàng chán sự thận trọng, suy xét lắm rồi. Song sống dễ dãi ư,
buông thả ư ? Nàng còn chưa dám, vả lại cũng chưa quen…
Hai người cứ lần lần theo đám đông du
khách. Đã đến bên dưới lầu hong tóc. Tường lầu rêu phong cổ kính, dây leo quấn
quýt, toát vẻ u tịch ngay giữa chốn đông người . Ngày xưa, mỗi khi tắm gội
xong, người ngọc lại lên đây buông xõa tóc để mặc cho gió trời vuốt ve làn tóc
hong khô. Nàng chợt đưa tay sờ lên mái đầu mình. Mái tóc bốc cao kiểu đàn ông. Ôi
sao mình ngô nghê thế nhỉ ? Ngày trước, nàng cũng có một mái tóc đen nhánh, dầy
và dài mượt. Nàng bật cười trong đầu và liếc nhanh về phía anh chàng. Thì ra chàng
ta cũng đâu có để ý đến nàng. Chàng ta đang nghếch đầu ngước cặp mắt kính dày cộp
hướng lên lầu hong tóc, miệng lẩm bẩm gì đó như thằng dở hơi. Nàng xuýt phì cười
thành tiếng. Chắc lại đọc thơ đây. Nàng tư lự. Thực ra con người này như thế nảo
nhỉ ? Dễ gần song lại có gì đó xa lạ. Có vẻ hiểu biết mà như kẻ rỗng tuếch. Thường
trực bộc tuệch bộc toạch nhưng thoáng chốc bí ẩn. Dễ tin đấy song cũng đáng ngờ
đấy. Nghĩ ngợi một hồi, nàng thoáng giật mình. Anh chàng tên Thi này ? … Hay là…
bóng hình bí ẩn từng nhiều ngày tháng nay ám ảnh nàng ? … Nàng so người, chợt
hoảng…Thôi đúng rồi !... Song vô lý. Anh chàng này làm sao có thể là… bóng hình
ấy được ?! Đây là xứ khác cơ mà … Nhưng thế giới ngày nay đâu có còn cách trở.
Tâm linh và giờ đây thêm internet, đã làm cho cái trái đất này trở nên bé nhỏ,
chật hẹp lại…
Nàng giữ chân thủ thư, làm công tác tư
liệu của một cơ quan cấp bộ. Một suất công việc nhàn hạ, mưa không đến mặt nắng
không đến đầu, song lại dễ sinh nhàm chán. Biên chế thuộc phòng hành chính,
song lại ngồi riêng mình một phòng lớn với bốn bề sách báo, tư liệu. Mỗi sáng,
cánh nhân viên hành chính chuyện gẫu đầu giờ kéo nhau vào phòng Tư liệu mượn báo
đọc, buôn chuyện làm quà, thậm chí tranh thủ bỏ xôi hay bánh chái ra ăn sáng, rồi
xin chén trà tráng miệng. Lao xao một hồi, chừng tám rưỡi là sạch bóng, bỏ nàng
lại một mình. Thực lòng, có họ ghé vào nàng cũng vui được chốc lát, song bù lại
nàng phải nghe đủ thứ chuyện trên đời, từ chuyện giá cả chợ sáng đến thị trường
chứng khoán, nhà đất; từ chuyện dỗi chồng giận vợ, chuyện yêu đương ghen tuông đến
chuyện xích mích đồng nghiệp, nói xấu sếp đều có cả. Nếu nàng không phải là người
biết giữ miệng, thì không biết sẽ xảy ra những chuyện gì nữa. Có chuyện nàng
nghe chối tai, ngứa miệng chọc " này không sợ tôi đưa chuyện hay sao
", lúc ấy người nói mới giật mình. Cũng từng xảy ra chuyện đôi co mách lẻo
mà nguồn gốc từ các câu chuyện phiếm tại phòng làm việc của nàng. Sau đấy người
ta mới bớt chuyện, nên nàng cũng được nhờ, bớt phải nghe chuyện đôi mách.
Tiếng là cơ quan cấp bộ, nhưng có mấy
ai mượn sách hoặc tài liệu xem đâu. Bận bịu, đôn đáo, ráo rác kiếm ăn, lên quan
tước, lại thêm điện thoại di động, internet với thế giới ảo choán hết thời gian
của người ta rồi, nên mấy ai còn ngó ngàng đến sách vở kinh điển đâu. Song thực
lòng, nàng cũng đâu có quan tâm đến cái việc họ có hay mượn sách hoặc tài liệu đọc
không. Đấy là việc của họ. Nàng ngồi đây đã hơn chục năm qua, từ khi còn trẻ
trung cầm tấm bằng cử nhân đến giờ đã ngoài ba chục xuân xanh, vẫn phòng không
lẻ bóng, điều nàng bận tâm là tìm cho ra một người đàn ông của đời mình. Dẫu không
phải là đấng nam nhi quân tử thì cũng phải ra dáng mày râu, mà nàng có thể tin
cậy gửi gắm cuộc đời mình. Hằng ngày, nàng đã nhàm tai những câu chào cửa miệng
của cánh nam giới cơ quan mỗi khi họ ghé vào phòng nàng, đại loại như " chào em Mỹ xinh đẹp ", " chào người đẹp", "
chào mỹ nhân "… Quả là hồi đầu, mỗi khi nghe những câu chào như
thế, nàng mỉm cười đáp lễ hoặc trả lời " cảm ơn anh quá khen ", nhưng rồi năm tháng qua đi, nàng không
những nhàm tai, thậm chí còn cảm nhận như một câu nói kháy, hay mỉa khéo.
Nhàn rỗi, nhàm chán, nàng bắt đầu tìm đến
thế giới ảo. Thực lòng, thoạt đầu, nàng không thích hết thảy những ai có cái thói
quen suốt ngày cắm mặt vào máy tính rồi biện luận rằng " lang thang trên internet ". Thế rồi,
ngày một ngày hai, sự nhàm chán của công việc và sau vài ba thất bại trên tình
trường, nàng lại tìm thấy sự hấp dẫn từ thế giới ảo trên mạng. Lúc đầu chỉ là
những trang web, với những thông tin về mỹ phẩm, thời trang, sức khỏe, dần đến
những bí ẩn về giới tính, sức khỏe sinh sản được diễn giải một cách khéo léo có
vẻ khoa học song đầy gợi cảm, khiến nàng thích thú. Cứ thế, nàng sa đà vào mê
cung ảo lúc nào không hay. Và khi dính vào chat
chit thì nàng ham mê chẳng kém gì đám ô mai chớm lớn. Chat với bạn bè, người
quen chán chê, nàng tò mò vào phòng chat,
cũng thử làm quen như ai. Hồi đầu, nàng bị kích thích bởi các nick-name lạ,
song không dám, chỉ mom mem với đám ô mai,
sô-cô-la, gấu bông, ba-bi-e…Nhưng quả là, chỉ dăm phút hội thoại là nàng sinh
chán bởi ngôn ngữ, sở thích của đám choai choai ấy, thật không mấy hợp với nàng.
Rồi nàng làm quen với nick Sở kiến xứ.
Thực lòng, thấy cái nick lạ thì thử làm quen, chứ nàng đâu có hiểu nghĩa lý ra
làm sao. Mà ở trong thế giới ảo này, con người ta khá tự do, ít bị kiểm soát bởi
định kiến này nọ, nên cũng đâu cần hiểu tường tận hoặc phân định rạch ròi ngô
khoai thế nào. Thậm chí, có tán tỉnh quá trớn cũng chẳng sợ ai thấy mình đỏ mặt.
Trò chuyện với Sở kiến xứ, nàng thấy
khá thú vị. Người ẩn dưới cái nick này hẳn phải là một người hiểu biết, nhã nhặn,
và còn độc đáo nữa cũng nên. Nàng nghĩ vậy. Rồi một hôm, nàng có thư. Mở email,
nàng nhận được câu thơ âm Hán Việt là "
Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong ". Không hiểu
thật rõ nghĩa, nhưng nàng biết câu thơ này quen thuộc, bởi hơn một lần trong lúc
trà dư tửu hậu với bạn tri kỷ, cha nàng đã mang ra đàm đạo. Nàng lục tìm sách về
thơ Đường, hỏi người này người nọ, rồi thì nàng cũng biết được, đó là hai câu kết
bài thơ " Đề tích sở kiến xứ
" của Thôi Hộ, nhà thơ đời Đường, ngữ nghĩa là, đề ở chỗ đã trông thấy năm trước. Không những vậy, thú vị ở chỗ, hoàn
cảnh ra đời bài thơ ấy từ hơn ngàn năm trước khá ly kỳ. Giờ thì nàng có thể kiến
giải được cái nick lạ Sở kiến xứ. Chẳng
hiểu, người đó có hoàn cảnh, tính nết na ná nhà thơ Thôi Hộ xưa kia không, hay
chỉ là một cách chơi ngông, một cách tạo sự lạ gây chú ý ? Nàng cũng hiểu, thế
giới ảo phức tạp không kém gì cuộc sống thực bên ngoài ; rằng ở đấy cũng có đấu
đá, tranh giành sự ảnh hưởng, có cãi cọ, giận dỗi, ghen tuông … Biết thế, song
rõ ràng, nàng đã có thêm một cuộc sống khác, song hành với dòng đời tuôn chảy…
Quan trọng nữa là, hằng đêm, nàng đã có việc để làm, để bận tâm, tránh được nỗi
phiền hà từ cha mẹ và gia đình cậu em trai nàng, hay quan tâm đến chuyện chồng
con của nàng....
Giang sơn của nàng là một căn phòng nhỏ
trên tầng 3, có vệ sinh riêng tiện cho sinh hoạt tắm táp, ngay cạnh căn phòng của
vợ chồng cậu em trai, mà nàng quen gọi là tổ kén. Nàng bài trí trang nhã theo sở
thích của mình. Hằng ngày, sau bữa cơm tối, trò chuyện với bố mẹ và gia đình cậu
em, làm những công việc vặt vãnh xong, ngó chừng 9 giờ là nàng rút lên tổ kén của
mình, đóng kín cửa với cuộc sống riêng tư . Thường thì nàng ngả ngốn ngó ti vi,
chán thì nghe nhạc và đọc sách. Song giờ thì nàng vào mạng bằng chiếc laptop nhỏ
xinh của mình. Nàng xem đủ thứ linh tinh, thời trang, mỹ phẩm, chuyện tình của
các ngôi sao... Và dường như, hôm nào cũng vậy, tầm 11 giờ đêm, nick Sở kiến xứ xuất hiện. Nàng chỉ đợi có vậy.
Những hội thoại không đầu không cuối, những câu chuyện tình cờ nảy sinh. Áng chừng
nửa giờ đồng hồ thì Sở kiến xứ byebye, không quên chúc nàng ngủ ngon và mơ
giấc mơ đẹp. Có hôm, nàng say chuyện không muốn dứt, khiến chàng cũng nấn ná, bịn
rịn hồi lâu, cứ như hai người yêu nhau thắm thiết...Những hôm như vậy, tắt điện
nằm mãi không ngủ được. Nàng trở dậy, vào buồng tắm, bật đèn tự ngắm mình trong
gương. Nàng thấy mình đâu đến nỗi, làn môi khóe mắt, sống mũi gò má hài hòa, cần
cổ bờ vai nuột nà, này nữa, vồng ngực, eo lưng, bắp đùi... Rồi nàng mạnh dạn
nuy trước gương, đi lại ngắm vuốt mình trong ánh sáng... Nàng say đắm thân thể
mình... Chán chê, nàng pha nước ấm tẩm khăn lau nhẹ khắp thân thể trong cảm giác khoan khoái dễ chịu. Rồi nàng đi
nằm... Và nàng mơ... Chàng xuất hiện, nhẹ nhàng đến bên nàng, từ từ ngả xuống, đặt
nhẹ nụ hôn lên trán, lên gò má, rồi lên làn mông căng mọng đầy ham muốn của nàng...
Nàng mê man, rên xiết bật song lên như cánh cung nạp tên nén mình bắn đi dục vọng
chất chứa bao ngày qua...
- Đây
rồi ! Ba cây thạch lựu đấy rồi – Chàng Thi reo lên như trẻ con. Nàng khẽ giật
mình tỉnh mộng. Từ nãy, thì ra, nàng cứ theo chân Thi mà bước đi như kẻ mộng
du, cũng chẳng nghe chàng ta ba hoa những gì. Nàng mộng giữa ban ngày. Nàng
nghĩ về những mộng mị của nàng với anh chàng ảo Sở kiến xứ nào đó mà
đôi khi nàng gặp trong giấc ngủ đêm đêm... Nàng lúng túng, mặt đỏ bừng, như
người bị bắt quả tang khi làm việc gì xấu.
- Sao vậy, Hạnh Mỹ
? Chàng Thi gương cặp mắt kính dày cộm nhìn nàng dò hỏi ?
- Không,
không...Tôi không sao. Tôi mải ngắm cảnh và vẫn nghe anh thuyết minh đấy
chứ...Cảnh ở đây thật tuyệt vời – Nàng chống chế, và cũng nhận ra, trong câu
hỏi vừa rồi, chàng Thi ta đã cắt bỏ cái đại từ “chị “ khách sáo, gọi tên nàng
trống không. Nghĩ thế, nàng lấy lại ngay sự tự tin.
- Hạnh Mỹ, đây là
ba cây thạch lưu từ ngày xưa, do tự tay vua Đường Minh Hoàng, mỹ nhân Dương Quý
Phi và hoạn quan Cao Lực Sĩ trồng đấy. Là tương truyền vậy, chứ tôi chẳng dám
chắc, ba cây thạch lựu này có từ thuở đó, nếu đúng thì chúng phải hơn một nghìn
hai trăm năm tuổi rồi. Đồn rằng, nếu ai chạm tay vào hai cây thạch lựu do vua
Đường và Dương Quý Phi trồng thì được may mắn, còn cây do hoạn quan Cao Lực Sĩ
trồng thì chớ có chạm tay, bởi hắn bị người đời coi là kẻ xảo trá phản phúc.
Hạnh Mỹ ơi, chạm tay vào cây của Dương Quý Phi đi.
Giục nàng, rồi
chàng ta đưa tay vuốt lên thân cành cây thạch lựu của vua Đường. Nàng cũng làm
theo, dụt dè chạm nhẹ vào thân vỏ xù xì cây thạch lựu của Dương Quý Phi, rồi mạnh
bạo hơn, vuốt lên đám lá xanh tươi lất phất ngang mặt...
Rồi cũng đến giờ
phải chia tay. Nàng cho anh chàng biết ngày giờ nàng ra sân bay về nước. Anh
chàng hẹn sẽ ra sân bay tiễn nàng. Hai bên hỏi han địa chỉ, trao đổi số điện
thoại. Nàng vẫy một chiếc taxi, chìa chiếc các khách sạn nơi nàng ở trong thành
Tây An cho tài xế. Yên vị trong xe, nàng hạ kính, chìa tay ra cho anh chàng.
Nàng cảm nhận được vẻ lưu luyến trong cái bắt tay hơi lâu của chàng Thi... Xe
chạy, anh chàng vẫn đứng đó, lẻ loi trong đám đông, đưa tay lên vẫy vẫy, đôi
mắt kính lấp loáng trong ánh hoàng hôn Ly Sơn...
Đêm ấy, nàng khó
ngủ. Nàng điểm lại cuộc đi chơi Hoa Thanh Cung, thấy thú vị về sự làm
quen với anh chàng tên Thi. Anh chàng hẳn đã có gia đình riêng rồi. Thây kệ, có
gì ghê gớm đâu, chỉ là nàng thấy mên mến. Sau này, chắc gì gặp lại, nhưng cuộc
đời này, dù chỉ gặp nhau một lần thôi, thì hẳn cũng phải có duyên kỳ ngộ? Nàng
lại nghĩ đến Sở kiến xứ, và tự nhiên, nàng khao khát... Sau lần mộng
mị đầu tiên, nàng tự thấy ngượng, thậm chí thấy sờ sợ. Những giấc mộng mị đêm
cô đơn khao khát của nàng thi thoảng đến, song có gì đó Liêu trai gờn gợn...
Nhưng rồi, những câu chuyện với Sở kiến xứ, nhất là cái cảm giác rên
xiết trong mộng mới quyến rũ làm sao, khiến nàng thèm muốn lặp lại... Lưỡng lự,
đắn đo, rồi ma lực nâng bật nàng dậy, và chẳng phải giấu giếm trốn mình như ở
nhà nữa, nàng trút bỏ áo quần ngay giữa phòng, ngắm mình trước gương... Rồi
nàng chìm vào giấc ngủ. Cái cảm giác khó tả ấy lại đến với nàng. Những lần
trước, người đàn ông trong mộng mị đều không rõ mặt, song lần này thì nàng đã
thấy rõ. Nàng tò mò nhìn kỹ và cố tìm kiếm xem giống ai. Sở kiến xứ
hay anh chàng Thi ? Hay ai nữa? Chịu. Chỉ thấy có gì đó quen quen...
Nàng bừng tỉnh.
Mình đang ở đâu đây. Nàng quờ tay sang bên, chỉ thấy chiếc gối, mà nàng đã ghì
xiết trong giấc mơ. Nhìn đồng hồ thì mới hơn ba giờ sáng. Không phải lần đầu
thấy, vậy mà nàng cứ bần thần. Có lẽ bởi nó xảy ra ở xứ người, lại ngay sau
chuyện gặp gỡ với người đàn ông lạ trong buổi đi thăm nơi ghi dấu mối tình bất
hủ của lịch sử cổ kim xứ sở này.
Nàng trở dậy, đến
bến cửa sổ, khẽ hé bức rèm che. Thành phố mờ ảo trong ánh đèn lồng. Khách sạn
bốn sao nơi nàng ở gần thành cổ Tây An. Nàng nhận thấy bức tường thành sừng
sững trong đêm như con trăn thần khổng lồ đang trườn bò giữa thành phố gần một
ngàn năm trăm năm tuổi này. Nàng chợt nhớ đến cuốn tiểu thuyết Phế đô
của Giả Bình Ao, mà nàng yêu thích đọc những mấy lần. Nhớ đến mối tình trớ trêu
của nhân vật chính, nhớ giấc mơ của chú bò, nhớ tiếng tù và đất nung cổ chỉ
riêng có ở xứ sở này, được tả trong cuốn sách...
Kìa, đúng rồi...
Đúng là người ấy, người đàn ông mộng mị của nàng cô độc trên mặt thành cổ,
chàng thổi chiếc tù và đất nung. Nàng cảm nhận được những thanh âm kỳ lạ của
nó... ./.
NGÀY XƯA ẤY
Một người đỗ đạt cả họ được tiếng, đó
là một câu cửa miệng mà đến nay vẫn có giá trị và được nhiều người nhắc đến ở
vùng quê tôi, nhất là những dịp làng có ma chay cưới xin, hoặc giỗ chạp.
Làng Giải Oan quê tôi gần như thuần
nhất một họ Nguyễn, nhưng chia thành ba chi: Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân, Nguyễn
Huy. Như thế có nghĩa là ông tổ của họ Nguyễn của làng có ba con trai, từ đó
hình thành ba chi họ như ngày nay. Theo thứ tự thì Nguyễn Văn là chi trưởng, Nguyễn
Xuân là chi thứ và chi út là Nguyễn Huy. Ấy thế, duy chỉ có chi út sản sinh ra
một nhân tài khoa bảng, đỗ đồng tiến sĩ xuất thân thời Hậu Lê ( tôi đã từng đề cập trong truyện “Thấm thoát
tháng ngày”). Đỗ đạt làm quan, đó là niềm khát khao của ông tổ họ Nguyễn
sinh thời, một người vốn dòng dõi quan lại khoa bảng từ Thăng Long trôi dạt về
vùng đất chiêm trũng này. Có người kế tục đỗ đạt, tưởng đó là niềm vinh hạnh,
song không phải chỉ đơn thuần như vậy, bởi từ đó nảy sinh chuyện chẳng lành, được
coi là nỗi sỉ nhục, nhức nhối trong cả dòng họ suốt bao đời nay, không dễ gì
xóa nhòa đi được.
Nguyên cụ Thủy tổ họ Nguyễn thuở lập
làng có hai vợ. Tuy đông con nhưng mỗi bà chỉ sinh hạ được một con trai, sau
này phát sinh hai chi Nguyễn Văn và Nguyễn Xuân. Đa đinh, phú túc như thế,
nhưng cụ thủy tổ vẫn buồn lắm. Cụ buồn bởi cả hai người con trai đều chỉ say mê
và giỏi nghề nông tang, chứ không ai chịu học hành, có chăng cũng chỉ ê a đôi
ba câu Tam tự kinh để khỏi mang tiếng
không biết chữ thánh hiền. Cụ thủy tổ nuôi chí kiếm một thằng con trai nữa, hy
vọng sau này người đó sáng dạ, học hành đỗ đạt. Như thế cụ sẽ phải lấy một
người vợ khác, mà người đó phải thuộc dòng dõi khá giả, có học. Suy ngẫm mãi,
cụ thủy tổ quyết định hỏi cô con gái út của một người quen ở làng khác trong
tổng.
Cụ Nguyễn tự thân đến nhà người bạn
trước hết là với lý do thăm hỏi. Đôi mắt sắc sảo của cụ thỉnh thoảng lại ánh
lên dõi theo bóng dáng của cô Vy, con gái út của người bạn mà cụ đã nhắm trước.
Càng ngắm cụ càng ưa. Cụ thầm nghĩ “Con người tươi trẻ, óng ả, sáng láng thế
kia thế nào cũng sinh hạ cho ta quí tử”. Rồi cụ Nguyễn ngỏ ý với người bạn.
Thoạt tiên, người bạn hơi sửng sốt bởi
con gái mình tuổi mới độ trăng tròn lẻ, mà bạn mình thì đã ngót lục tuần. Nhưng
cứ nhìn cụ Nguyễn, tóc còn xanh, râu vểnh, lông mày rậm hơi xếch, mặt đỏ, thì
phần nào yên tâm. Rồi thì ván cũng đóng thuyền, cô Vy trở thành vợ ba cụ
Nguyễn.
Về nhà cụ Nguyễn, cô Vy không phải làm
việc nặng, bởi công việc đồng áng đã có bà cả, việc nội trợ gia đình thì đã có
bà hai. Hằng ngày, công việc chính của cô Vy là lau chùi bộ ấm chén uống trà, đánh
bóng chiếc tràng kỷ và tủ sách, bàn thư của cụ Nguyễn. Lẽ dĩ nhiên, tối tối
chừng gà gáy thứ nhất, cụ Nguyễn mới vào với vợ ba. Thường khi đó, cô Vy chỉ có
một cảm giác duy nhất là sự sợ hãi cộng với nỗi tủi thân, nên cô co rúm người
lại, nhắm nghiền mắt mặc cho ông già vần vò muốn làm gì thi làm. Khi chồng đã
thỏa mãn ngủ say, cô vẫn còn sợ, chỉ nằm im, ứa nước mắt và lúc này cô mới đủ
tĩnh tâm để nghĩ đến chàng khóa Huy. Chàng hơn cô bảy tuổi và là học trò của
cha cô. Chàng thông minh, vóc dáng ung dung thư thái. Cha cô bảo sau này thế
nào chàng cũng đỗ đạt. Cô và chàng thầm yêu trộm nhớ nhau. Mới tết vừa rồi,
chàng cùng đám khóa sinh đến nhà cô chúc tết, chàng đã giả vờ ra đầu hồi nhổ bã
trầu rồi len lén dúi vào tay cô bài thơ xuân chàng viết tặng cô. Bài thơ ấy đến
giờ cô vẫn thuộc. Chỉ tiếc nỗi, biết chữ nhưng chẳng hay thơ để làm mấy vần hồi
đáp chàng. Với cô, ban đêm vừa đáng sợ, vừa là nỗi mong chờ. Bởi là vì, chung
đụng với chồng tuy thật khổ sở, nhưng sau đó cô được thả hồn về với chàng khóa
Huy, mặc sức cho trí tưởng tượng bay bổng. Có một lần, cô mơ thấy đám cưới mình
với chàng khóa Huy, rồi đêm tân hôn cô mê man trong vòng tay xiết chặt của
chàng, nhưng lạ lùng thay. sau những phút giây khoái cảm, chàng khóa Huy mặt
xanh mét và đầu chàng tóc mọc ra lởm chờm. Cô sợ quá lay gọi thì chẳng thấy
chàng đâu và thay vào chỗ chàng nằm là một đống tóc. Không hiểu tóc ở đâu mà
lắm thế. Những mẩu tóc cắt vụn cứ đùn ra như tổ mối xông. Cô hét lên, choàng
tỉnh, người đẫm mồ hôi. Cụ Nguyễn đang ngủ say mê mệt sau những phút giây hành
lạc, cũng giật mình ngồi dậy. Cô phải nói dối là ngủ mê thấy ma để chồng khỏi
nghi. Từ đó, mỗi đêm với cô Vy chỉ còn là đêm của cực hình.
Lạ thay, về làm vợ cụ Nguyễn hơn năm
trôi qua, cô Vy vẫn không có thai. Điều đó làm cụ Nguyễn buồn lắm. Còn cô Vy
thì chẳng hiểu sao qua những biểu hiện của đàn bà, cô vẫn thấy bình thường. Hay
là trời đất phạt cô? Phạt cụ Nguyễn? Trong sâu thẳm tâm can, cô muốn có đứa con
để trút hết lòng yêu thương nỗi giận hờn của cuộc đời vào đấy, song cô tự mâu
thuẫn, không muốn đứa con mà cô phải mang nặng đẻ đau là của cụ Nguyễn, mà đứa
con phải là của chàng khóa Huy, người cô yêu thương. Phải chăng, sự đau đớn dằn
vạt đã tước đi của cô khả năng hoài thai? Song linh cảm vẫn mách bảo cô một
điều gì đấy. Và cô nén lòng chờ đợi. Chờ đợi mông lung…
Rồi một đêm mưa ngâu sùi sụt. Đã sang
gà gáy canh ba, khi đang mơ màng nghĩ. Chợt cô Vy nghe thấy tiếng gọi tên mình
mơ hồ như gió thoảng.
Cô lắng tai nghe ngóng. Đúng là ai đó
gọi mình rồi. Hay là oan hồn ma quỉ từ kiếp nào hiện về ám cô. Cô đã làm gì nên
tội. Lắng tai nghe. Không. Đúng là ai đó gọi chứ không phải hồn oan nào hết. Cô
khẽ mỏm dậy. Thôi đúng là chàng rồi, chàng khóa Huy của lòng cô. Nếu đúng là
chàng thì làm sao lại dám mò đến đây nhỉ? Cô Vy liếc nhìn chồng. Cụ Nguyễn ngủ
say mê mệt. Cô ngồi hẳn dậy, sửa sang lại yếm váy. Nhìn chồng tần ngần. Tiếng
chàng khóa như vang lên tha thiết ngoài kia mà chỉ mình cô nghe thấy. Tiếng gọi
của đáy lòng thúc dục cô. Cô buông thõng chân xuống khỏi giường và nhẹ nhàng chườn
ra. Tự nhiên, cô bỗng thấy thương chồng. Lại phân vân, thừ người ra. Phải nói,
từ ngày lấy cô về làm vợ, chưa bao giờ cụ Nguyễn nặng lời với cô một câu. Cô
cũng không phải làm việc nặng, còn chuyện cô bị dày vò mỗi đêm thì cô cũng phải
xem là lẽ thường tình đối với thân phận của người đàn bà có chồng. Nhưng cô còn
cuộc đời riêng của mình chứ, có nỗi khát khao không giống một ai. Bằng mọi giá
cô phải đoạt lấy.
Đúng là chàng khóa Huy. Nhưng làm sao
chàng vào được với mấy lần cửa đóng then cài, cùng bầy chó dữ canh gác, mà sức
vóc chàng lại yếu ớt thế kia. Đấy là cô nghĩ vậy chứ lúc ấy cô làm gì có đủ
thời gian và sự tỉnh táo vấn chàng. Không còn giữ lễ nghĩa phép tắc gì, cô ngả
vào lòng chàng khóa Huy. Chàng vuốt ve, xoa nắn khắp cơ thân thể cô, miệng lắp
bắp những lời yêu thương, nhớ nhung xen lẫn những lời trách móc hờn giận. Mưa
ngâu vẫn rắc đều làm hai người ướt đẫm, nhưng cơ thể họ vẫn cứ dần nóng lên.
Chiếc yếm che ngực của cô Vy đã bung ra, còn tóc vấn đầu thì sổ tung. Đúng lúc
ấy, tiếng chó sủa rộn lên. Cô Vy giật thót mình. Về đây đã hơn năm nay, cô
biết, hễ con chó mực đã lên tiếng sủa thì khó có gì qua được nó. Cô vội buông
chàng khóa nhưng chàng đang cơn mê man, cứ xiết chặt lấy làm cô đau nhức người.
Rồi hai người giằng co. Cô Vy luôn miệng giục chàng khóa chạy đi kẻo không
thoát được. Đến lúc chàng khóa tỉnh người, ngộ ra điều gì, vội lẩn vào bóng cây
đến bên chân tường rào, bám vào leo lên tìm cách thoát ra ngoài, thì mọi sự đã
muộn. Mấy tay đầy tớ còn nhanh hơn cả lũ chó, chúng đã kịp thời bám sát, túm
lấy hai chân chàng khóa giật mạnh xuống. Chàng khóa Huy ngã dập mặt xuống, máu
mồm, máu mũi trào ra ướt đẫm ngực áo lụa mỏng.
Chàng khóa bị trói chỏng gọng, vứt nằm
trong nhà ngang. Cụ Nguyễn chống chiếc gậy trúc mấu đi xuống, cầm chiếc đèn từ
tay tên đến tớ, soi vào mặt kẻ bị bắt. Chàng khóa nhắm nghiền mắt lại, nhìn kỹ
hồi lâu, cụ Nguyễn lờ mờ hiểu ra là đã từng thấy con người này ở đâu rồi. Hay
đó là hình bóng của cụ thuở nào? Hay người trong giấc mơ đây ? Cụ nhìn ra sân
đầy bóng tối… Chợt ngộ, khẽ gọi nhưng giọng đanh thép: “Dì ba đâu , lại tôi
bảo”. Cô Vy rón rén bước vào. Hết nhìn chồng lại nhìn người bạn tình bị trói
chỏng gọng nằm giữa gian nhà ngang. Cụ Nguyễn hết nhìn vợ lại nhìn kẻ lạ mặt,
nhát gừng : “Dì ba…có biết người đàn ông này không…nhỉ ?”. Cô Vy lúng túng:
“Dạ, dạ … không ạ!”. “Thế hả?”- cụ Nguyễn cộc lốc: “Thế thì đánh!”. Những chiếc
roi thi nhau vụt xuống.
Cô Vy rùng mình. Mặt cụ Nguyễn đanh
lại. Cụ hạ lệnh: “Thôi”. Rồi cụ đưa cô Vy lên nhà, dặn bọn đầy tớ canh phòng
cẩn thận kẻo kẻ gian chạy trốn.
Cả cụ Nguyễn và cô Vy nằm lặng thinh
bên nhau, không ngủ. Cả hai đều nghĩ đến một người. Mệt mỏi và sợ hãi, rồi cô
Vy cũng thiếp đi. Lúc cô tỉnh dậy, thì giường trống không. Không hiểu cụ Nguyễn
thức từ bao giờ và đi đâu. Cô lại hoảng lên và lo sợ cụ Nguyễn sẽ làm gì chàng
khóa Huy, còn lo cho chính bản thân mình nữa. Cứng người chôn chân không dám đi
đâu.
Trong lúc cô ngủ, cụ Nguyễn trở dậy
xuống nhà ngang, lại soi đèn vào mặt người lạ. Người lạ nhìn cụ chằm chằm.
Không nói. Cụ Nguyễn gọi tên đầy tớ vào ghé sát tai dặn khẽ rồi yên tâm chờ
đợi. Chừng nửa giờ sau, tên đầy tớ bưng vào một bát cháo to.
Cụ Nguyễn đón lấy, chìa bát cháo vào
sát mặt người lạ, rằn giọng: “Hãy nghe ta nói đây. Dù thế nào người cũng là kẻ
gian. Người phải chọn một trong hai cách. Hoặc ăn hết bát cháo này rồi ta cởi
trói tha bổng cho. Hoặc ngày mai ta cho lột truồng giải dọc đường làng, đưa ra
đình hạch tội lẻn vào nhà ta ăn trộm. Thế nào?...”. Chàng khóa im lặng một lát,
dứt khoát : “Đưa cháo đây cho ta ăn”. Cụ Nguyễn: “Tốt lắm. Yên tâm mà ăn…Cháo
không có thuốc độc đâu”. Và chàng khóa Huy đã rướn cổ trào nước mắt nuốt hết
bát cháo trộn tóc băm nhỏ. Chàng đã được cụ Nguyễn tha bổng như đã hứa.
Chuyện tưởng tầy đình, không ngờ lại
được thu xếp khéo đến thế. Mấy đầy tớ
được cụ Nguyễn cho ít tiền kèm với lời căn dặn nửa đe dọa rằng: “Đứa nào hé
chuyện ra ngoài thì cũng phải ăn cháo tóc như thế”. Chàng khóa Huy biết mình ăn
hết bát cháo tóc sẽ chết dần chết mòn, nhưng thà như vậy còn hơn, chàng làm sao
chịu nổi sự nhục nhã khi bị lột truồng đi giữa bàn dân thiên hạ, nhất là trong
số đó có cô Vy. Chàng chết khổ sở sau mấy tháng mắc bệnh đau bụng, đau thắt
ruột gan, đau đớn quằn quại.
Sau chuyện đó, cô Vy vốn đã ít nói thì
nay gần như câm lặng. Cô đi lại như một chiếc bóng, người dần héo hon. Cụ
Nguyễn ngắm cô mà thở dài thương xót. Cùng với nỗi đau, niềm thương xót kia, hy
vọng có đứa con trai học hành khoa bảng của cụ cũng mất theo.
Nhưng rồi một chuyện khác xảy ra làm
thay đổi hết thảy. Nguyên gia đình cụ có nuôi một người ở trẻ tuổi. Cậu ta
chuyên nghề chăn bò, lợn trong nhà. Người này có tên là Vọng. Cụ Nguyễn từng
gặp Vọng đói lả bên đường, bèn dắt Vọng
theo về nhà, vì làng xóm lúc đầu còn vắng nên rất cần người. Vọng mặt
mũi dễ coi, đặc biệt có tài khoét trúc làm sáo, làm tiêu và thổi rất hay. Vọng
có thói quen, cứ chiều tối mùa hè, sau khi làm xong công việc của mình, Vọng
lại vắt áo lên vai đủng đỉnh ra bờ sông. Vọng cởi hết quần áo lội ào xuống
sông, bơi thỏa thích, rồi lên bờ hóng mát. Thường lúc này, Vọng mới lấy tiêu ra
thổi. Tiếng tiêu của Vọng nghe mà buồn bã làm sao, người làng ai cùng bảo vậy.
Gió bờ sông đưa tiếng ấy đi xa hơn. Có người trong làng cho là, Vọng vốn không phải
là kẻ tầm thường mà là người danh giá thất thế, phiêu bạt đến nông nỗi này.
Nghe người làng bảo vậy, lúc đầu cô Vy cũng tin phần nào, nhưng khi tiếp xúc
nhiều, cô thấy cốt cách Vọng cũng tầm thường thôi, không có gì của người danh
giá cả. Vọng cũng không hề biết chữ bẻ đôi. Được cái, Vọng có dáng vóc thanh
mảnh, thư sinh. Nhìn kỹ cô thấy hao hao giống dáng vẻ của chàng khóa Huy. Thực
ra trước đó, chẳng mấy khi cô để ý đến Vọng. Nhưng từ khi biết chàng khóa Huy
chết, cô Vy đau buồn và khi ấy cô mới nhận ra người đầy tớ tên Vọng có những
nét hao hao chàng. Thỉnh thoảng hỏi han Vọng đôi câu, cô thấy Vọng cũng không
đến nỗi ngu đần lắm. Và một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu, rồi nó cứ lớn dần
ám ảnh cô những đêm dài cô độc. Nhất định cô phải có con, có con bằng mọi giá.
Vọng có thể giúp được cô. Từ khi nảy sinh ý nghĩ ấy, cô Vy thử tìm cách gợi
chuyện với Vọng, nhưng khốn nỗi, gã ta rụt rè quá, vả lại thân phận tôi đòi nên
cứ lảng tránh cô.
Một buổi chiều, Vọng theo thói quen
đủng đỉnh đi ra bờ sông, cởi quần áo và nhảy ùm xuống nước bơi lội. Chán chê,
nhìn lên bờ, Vọng hoảng hốt thấy bà ba của ông chủ đang ngồi bên đống quần áo
rách của mình, mân mê trên tay chiếc tiêu mà Vọng vứt lắn lóc bên cỏ. Vọng vội
ngụp sâu xuống, lúc nhô lên thấy bà ba vẫy tay ra hiệu gọi lên bờ. Vọng suy
tính một lát, rồi cũng bơi vào gần bờ, dừng ở chỗ nước nông. Vọng lúng búng :
“Thưa bà…con không thể lên được…bởi vì con…” Cô Vy: “Ta hiểu rồi… anh không có
quần áo chứ gì? Cứ lên đi…Ta ngoảnh mặt cho là được chứ gì ”. Vọng lên bờ, vơ vội
lấy quần áo, vừa lúc đó thì cô Vy đột nhiên quay lại và Vọng chỉ kịp thấy cặp
vú thây nẩy của bà chủ áp sát mặt mình. Vọng hoảng sợ tột độ, nhưng bà chủ đã
giữ chặt lấy, vuốt ve đầu Vọng. Vọng chợt hiểu bà chủ cần gì ở y, nỗi sợ dần
biến mất và thay vào đó chỉ còn dục vọng của người đàn ông khỏe mạnh nổi lên
hừng hực trong thân xác y. Tay y quờ quạng lung tung, nhưng rồi dưới bàn tay
hướng dẫn của bà chủ, hai tay Vọng cũng biết lần mò xuống dưới váy, và chỉ chờ
có thế, chiếc váy tụt xuống. Vọng mê đi, chìm nghỉm xuống rồi như bay lên trong
niềm hoan lạc trần thế mà từ bé đến giờ y chưa từng biết. Vọng cứ bồng bềnh,
bồng bềnh và trôi dạt mãi. Đến lúc y hồi tỉnh lại để hiểu ra điều gì đã đến với
mình thì chỉ còn lại một mình y bên cạnh là bộ quần áo rách vá víu và chiếc
tiêu nằm lăn lóc trong bóng chiều chạng vạng phủ tối lên mặt sông hiu quạnh. Tự
nhiên, Vọng thấy cô đơn, cô đơn khủng khiếp, và y ứa nước mắt. Chẳng hiểu y
khóc vì khổ đau hay sung sướng? Hay vì cả hai? Tối ấy, mọi người không thấy Vọng
về. Cũng không ai quan tâm lắm ngoài cô Vy. Cô nấu nước lá thơm, gội đầu tắm
táp. Thấy vợ ba điệu bộ, thân thể quyến rũ lạ thường, cụ Nguyễn không nén nổi
lòng ham muốn. Phá bỏ lệ thường đợi sau gà gáy thứ nhất như mỗi lần trước đây,
cụ xếp gọn bàn thư vào với vợ ba từ lúc chập tối. Lần đầu, cụ thấy vợ ba nồng
nàn thế và cụ như mê đi lạc lối vào cõi ảo. Cô Vy nằm bên chồng thổn thức,
không biết nên vui hay nên buồn. Ngoài trời, vầng trăng mùa hè tỏa ánh sáng
đùng đục và trong không gian bi nồng ấy, tiếng tiêu bổi hổi như hàm ơn, như ai
oán từ bờ sông vọng về. Cô Vy lắng nghe…
Rồi cô Vy mang thai. Đủ tháng đủ ngày,
cô sinh ra một đứa bé trai kháu khỉnh. Ngắm kỹ đứa trẻ, tuy không mấy giống
mình song cụ Nguyễn an tâm lắm. Không giống cha thì giống ông bà bên ngoại, thiếu
gì người để giống. Không con cụ thì con ai. Thằng khóa Huy chết từ tám hoánh
rồi còn đâu, ai vào đây được nữa, hả giời ?!
Thằng bé càng lớn càng kháu khỉnh, có
vẻ dĩnh ngộ. Song người làng bắt đầu đàm tiếu rằng nó hao hao giống Vọng.
Chuyện đến tai cụ Nguyễn, cụ giật mình, ngắm thằng con thật kỹ lưỡng. Quả là nó
giống thằng Vọng, kẻ ở đợ của cụ trước đây. Sao thế được nhỉ? Cụ vắt tay lên trán
nghĩ nát óc mà không ra.
Thằng Vọng cũng chết rồi mà. Nó chết
đuối chềnh ềnh trên sông dạo nào. Ngày ấy, người ta đồn, do nó làm lụng vất vả
nên đang tắm bị cảm lạnh đột ngột.
Cụ cũng tin là thế. Cụ còn làm phúc bỏ
tiền ma chay chôn cất tử tế. Mỗi khi nhà giỗ tết, cụ đều bảo bà ba thắp hương
trên mộ nó nữa kia. Ai ngờ. Nhớ lại, thôi đúng rồi thằng Vọng chết vào cái đêm
bà vợ ba của cụ bỗng nhiên nồng nàn, quyến rũ. Một linh cảm mơ hồ bỗng nhiên
xuất hiện trong cụ và cụ Nguyễn hiểu rằng, thằng con trai kháu khỉnh mà cô Vy
sinh hạ với cụ chính là con của Vọng. Mặc dầu, cố ngụy biện, cá vào ao ai người
ấy được, song thâm tâm vẫn cay cú vì mình chỉ là kẻ đi đổ vỏ cho thằng ở đợ nhà
mình. Cụ Nguyễn đau đớn âm thầm, ít xuất hiện ở nơi đình đám giỗ chạp đông
người. Hai năm sau, cụ Nguyễn qua đời, cô Vy cũng chỉ sống đến lúc đứa con trai
lên mười tuổi.
Có ai biết đâu, cái đêm xa xưa ấy, sau
khi cô Vy bỏ mặc y ra về, Vọng cứ ngẩn ngơ mãi ở bờ sông. Y không muốn về, y
sung sướng rồi y buồn. Vớ lấy chiếc tiêu, y thổi, thổi mãi, trút hết nỗi buồn
vui của cả kiếp người vào tiếng tiêu. Đầu y váng vất, tai y ù đi và mắt y mờ
mịt khói sương, ngực thì thắt lại trong niềm hoan lạc, rồi y tung chiếc tiêu
lên trời, nhảy xuống sông, bơi đi mãi cho đến lúc y cảm thấy hụt hẫng, đuối đi.
Y lờ mờ cảm thấy một cái gì sẽ đến với y. Y chìm dần, song ở một nơi nào đó sâu
kín trong tiềm thức mách bảo rằng y vẫn còn lại đứa con gửi trên trần thế, và
sức lực như trở lại với y. Y cố ngoi lên, ngoi lên, nhô hẳn đầu lên trên mặt
nước, vươn hai tay cầu một câu gì đấy. Liệu đất trời có thấu hiểu cho y hay
không? Chỉ biết rằng sau đấy, y chìm hẳn, chỉ còn để lại trên mặt nước dăm ba
cái bong bóng nước nhỏ, và bị vỡ tan ngay sau khi nó vừa sủi kên trong sóng
nước rì rầm.
Ngày xưa là thế. Làng Giải Oan này là
một làng lớn với hàng ngàn nóc nhà. Ba chi họ Nguyễn tồn tại song song nhau.
Hằng năm có một ngày giỗ tổ chung, chính là ngày giỗ cụ Nguyễn mà tôi kể trên
đây. Trong bữa rượu thế nào cũng có chuyện lời ra tiếng vào về nguồn gốc tổ
tiên của mình, dẫn đến sự to tiếng, thậm chí cãi vã hoặc động chân động tay.
Theo dòng chảy của thời gian, chẳng
biết từ đâu, chàng ở đợ tên Vọng lại được suy tôn làm Thành Hoàng của làng Giải
Oan, và được thờ cúng ở đình hẳn hoi. Cụ Nguyễn thì có công gây dựng làng bởi
từ cụ mà làng được như bây giờ. Làng vinh hạnh có một người đỗ đạt, đó là tiến
sĩ thuộc chi Nguyễn Huy thời Hậu Lê, đời thứ bao nhiêu của đứa trẻ ngày xưa.
Chi Nguyễn Huy vẫn tồn tại trong nỗi nhức nhối của cả họ.
Không hiểu rồi, người làng Giải Oan sẽ
còn truyền nhau câu chuyện này đến tận bao giờ?
Mỗi khi nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại
bâng khuâng, không biết nên vui hay nên buồn?
Nhưng chắc chắn là, làng Giải Oan quê
tôi cùng với ba chi họ Nguyễn sẽ tồn tại mãi mãi, mặc sự buồn vui của người
đời!
Ngũ cung
1.
Năm ấy,
Như lời hẹn trước trong bức thư gửi nàng theo
địa chỉ gia đình, đúng chiều mồng 5 Tết, y cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ lọc cọc đến
nhà nàng. Đạp xe dọc theo bờ sông nặng mùi nước bẩn, đầu óc tôi ong ong với
những câu hỏi, câu trả lời, những tình huống tự vẽ đặt ra cho kịch bản tìm gặp
lại nàng...
Y vốn nhút nhát, thường nhường nhịn, hay
thụt lùi khi phải quyết định những việc hệ trọng, song lần này thì y không
lưỡng lự. Y quyết định chấp nhận sự thành bại trong việc cứu vãn mối tình kéo
dài gần bảy năm với nàng, nên đã gửi chiến thư cho nàng và ra cái hẹn gặp nàng
tại nhà nàng, trước sự chứng kiến của cha mẹ nàng. Vậy có ghê gớm không chứ?
Thư gửi đi trước cả tháng nhưng không có hồi đáp. Nàng có nhận được thư hay
không, hoặc giả nhận được mà không trả lời, thì cũng thây kệ. Y xem cách này là
con bài, là nước cờ cuối cùng cho cuộc tình...
Đây rồi, khu tập thể nhà nàng. Mấy
năm rồi, y không đến đây, bởi y ngại gặp mặt cha mẹ nàng. Y coi việc yêu nàng
như hành vi đánh cắp cô con gái rượu của gia đình họ. Nhiều năm trước, khi còn
chưa yêu nàng, với tư cách là người quen cũ của cả nhà, là người bạn của mấy
anh em nàng, y hay qua lại đây, vui vẻ, tự nhiên như một thành viên trong gia
đình, nên biết, bố nàng, anh trai và em trai của nàng đều chiều chuộng, yêu quý
và xem nàng như báu vật của họ. Thế mới thành chuyện, khi một thằng chân đất ất
ơ như y, ngoài cái bằng đại học, thì sự nghiệp chưa hình hài gì, lại làm việc ở
mãi xứ mù, cách thủ đô cả ngàn cây số, dám chiếm đoạt tình cảm, con tim nàng
làm của riêng. Điều ấy, khác gì hành vi của một tên trộm gian giảo, hay một tên
cướp liều lĩnh, cơ chứ?
Ngơ ngác chút vì cảnh quan thay đổi, nhưng y vẫn
nhận ra dãy nhà có căn hộ của gia đình nàng. Nó nằm sâu nhất trong cả khu chung
cư này, giáp với hàng rào ngoài cùng, liền kề đó là đất ruộng làng. Y đã từng
mở cửa sổ phòng khách căn hộ tầng ba nhà nàng nhìn ra đồng ruộng xem người ta
làm công việc nhà nông nên nhớ lắm. Cẩn thận dựng chiếc xa đạp nép chân cầu
thang, khóa lại, kiểm tra kỹ càng, y chậm rãi leo tầng bậc thang. Có chút hồi
hộp, phập phồng con tim, song y quyết trông trờ lui. Đúng rồi, căn hộ 306, tuy
màu sơn cửa được sơn lại sẫm hơn nhưng y vẫn nhận ra sự quen thuộc của cái lỗ
quan sát trên cánh cửa. Y ghé sát mắt lỗ quan sát nhìn vào chẳng mấy rõ gì,
nhưng tai lại nghe được loáng thoáng tiếng người nói chuyện. Y căng ngực hít
một hơi thật sâu rồi nín thở, gõ vào cánh cửa ba cái... Không thấy động tĩnh
gì. Y lại ghé mắt nhìn qua lỗ nhỏ, chỉ thấy tiếng nói chuyện bặt đi. Y lại cạch
cạch gõ thêm lần nữa và ghé mắt nhìn... Có tiếng chân người bước lại gần cửa
rồi một con mắt ghé sát nhìn ra. Hai con mắt đối nhìn nhau qua lỗ tròn. Y nhận
ra mắt nàng bởi cảm nhận được con mắt nhìn ra ấy màu nâu. Ngày còn yêu nhau
thắm thiết, y say đắm đôi mắt màu nâu ấy của nàng. Ngày đó, nàng lấy làm tự hào
về đôi mắt to nâu và mái tóc mây có gì đó Tây Tây của mình. Một loáng nhìn
nhau, rồi lỗ nhìn trên cửa ấy bị đóng sập lại, và y còn kịp nghe được giọng
nàng nới vào trong bảo có người nhưng nhầm nhà....
Y đứng chết trân. Người tê tái. Lặng đi một lát, y
chậm chạm từng bước một xuống cầu thang, bởi chân nặng như đeo chì. Y kẽo kẹt
đạp xe ra về, như người mất phương hướng, lòng tê dại với một ý nghĩ choáng
ngợp đầu óc, rằng mối tình kéo dài bảy năm trời đằng đẵng với nàng chấm hết từ
đây...
2.
Năm ấy,
Y đi phép từ nơi y đang
làm việc mãi biên giới Tây
3.
Năm
ấy,...
Y
đi phép. Số là, từ ngày nhận công tác, y bị điều chuyển đến một vùng biên giới
mãi cuối trờ Nami, vùng đất hoang vu khỉ ho cò gáy, lại vừa qua cuộc chiến
tranh biên giới Tây
Kỳ
nghỉ đó, về nhà được vài ngày thì bà ngoại của y ốm nặng. Y chở mẹ y về quê
ngoại, để mẹ ở lại chăm bà vài hôm. Vừa dịp cuối tuần, nàng từ trường về thành
phố thăm nhà, tiện đường ghé vào nhà y. có riêng hai người với nhau, nên hai
đứa thoải mái bên nhau, tha hồ cùng nấu ăn, cùng trò chuyện mà không phải giữ ý
khi có mẹ y ở nhà. Chiều muộn hôm ấy, nàng định ra về thì y nhất quyết giữ nàng
lại. Đầu y nung nấu một ý nghĩ, đây là cơ hội hiếm hoi hai người được bên nhau
ngay tại nhà mình mà không cần phải ý tứ gì. Nàng khăng khăng ra về còn y thì
quyết giữ, cuối cùng nàng nhượng bộ. Rồi y và nàng lại cùng nhau nấu bữa tối.
Ngày ấy nghèo, thức ăn thiếu thốn. May có ít trứng gà, khoai tay và rau cỏ sẵn
trong vườn, khéo nấu được bữa ngon. Nàng trổ tài bếp núc, còn y lăng lăng giúp
việc. Hai đứa chí chóe trêu chọc lẫn nhau...
Màn
đêm buông xuống. Gặp buổi có trăng đẹp, nên y và nàng ngồi bên thềm nhà ngắm
vườn, ngắm trăng, thì thầm chuyện đủ thứ. Y kể về vùng đất hoang sơ biên giới
Tây Nam nơi y sống, về rừng tràm, về khói đốt đồng mùa khô, về mùa nước nổi rực
màu bông súng và hoa điên điển, về “muỗi bay như sáo thổi, đải nổi như bánh
canh”, về nỗi thương mẹ lụi cụi một mình và niềm yêu thương mong nhớ nàng đêm
đêm... Còn nàng thì kể về bạn đồng
nghiệp cùng trường, về những học sinh của nàng học hành, nghịch ngợm ra sao... Gió năm rười rượi và trăng lúc mở lúc tỏ, hai
người tay trong tay nhau mà thương nhớ vẫn rưng rưng...
Khuya.
Ngủ sao đây? Y dọn chiếc giường ở buồng trong cho nàng ngủ, nơi vốn dành riêng
cho chị gái của y ngủ, nhưng người chị đi làm ở thành phố, lâu lâu mới về nhà.
Còn y ngủ ở phòng ngoài. Cánh cửa buồng chỉ khép hờ. Đêm quê khuya thanh vắng,
nghe rõ riếng sấu dế kêu vườn ngoài. Còn trong nhà, y nghe rõ chốc chốc nàng
trở mình khó ngủ. Y cũng có ngủ được đâu. Nỗi khát khao cứ rực lên trong thân
xác y. Ngòn đèn dầu hỏa hãm hạt đỗ để trên bàn hắt lên một vầng sáng huyễn
hoặc, đê mê. Nén mình không nổi, y bật dậy như một chiếc lò xo bung phá, đảy
cửa buồng ập vào. Nàng biết cả, và dường như chỉ chờ có vậy, vươn đôi tay vít
người y xuống. Trong bóng đêm ảo diệu, y và nàng bập vào nhau, lập cập, cuống
quýt, va chạm, hổn hển và mê muội, dạt trôi trong miền hoan lạc...
Cái
đêm trăng quê yên tĩnh thanh bình ấy, hai người chẳng biết bao nhiêu lần tỉnh
thức, tháng thốt, rồi lại chìm đắm trong nhau... Không biết náng nghĩ gì. Còn
y, linh cảm mách bảo, đây sẽ là một đêm tuyệt vời nhất trong cuộc đời của y,
cho dù mai sau có thế nào đi chăng nữa !?...
***
4.
Năm ấy,
Y đi nhận công tác ở
phương
Về đến nhà, y dành ngày
đâu để hàn huyên với mẹ. Ngày sau đó, y lao đến chỗ nàng. Đường xa nắng nôi mấy
chục cây số mà y đạp xe băng băng, háo hức, không biết mệt mỏi. Hỏi đường đến
dăm lần, chiều tà y cũng đến được ngôi trường nơi nàng dạy học. Chiều thứ bảy,
học sinh vừa tan, sân trường vắng hoe. Y dừng xe giữa sân trường, nhìn quanh
quất định hướng thì một cô gái đạp xe ra. Thấy y, cô chủ động hỏi, thì ra là cô
giáo cùng tổ bộ môn với nàng. Cô ta cho biết, nàng bị đau mắt, xưng tấy phải đi
bệnh viện huyện chữa trị. Nang nhờ cô ấy có ý chờ đón, nếu y xuống thì đưa y
đến bệnh viện huyện giúp. Thế là y vội vàng theo cô giáo ấy. Hai người đạp xe
song song, y tranh thủ hỏi chuyện để biết thêm về cuộc sống của nàng ở đây.
Bệnh viện chỉ cách trường dăm cây số, chốc đã tới nơi. Cô gái dắt y đến phòng
bệnh của nàng, đưa ăng-gô cháo, hỏi thăm nàng mấy câu, bàn giao y cho nàng rồi
cáo lỗi về luôn kẻo tối. Y và nàng bên nhau, mừng mừng tủi tủi. May mà một mắt
nàng bị viêm cấp, dùng thuốc kịp thời nên vẫn phải băng kín bên viêm nhưng sẽ
không ảnh hưởng đến thị lực. Y mò ra phố, đi mấy hàng nước mua được vài cái
bánh trưng con. Bữa tối, nàng ăn cháo, con y bánh chưng, vừa ăn vừa rúc rích
chuyện. Cho thỏa nỗi nhớ mong. Rồi hai đứa ra ngồi hóng gió trời. Khu nội trú
bệnh viện nhìn ngay đồng lúa, hương lúa và cỏ lên ngai ngái. Trăng thượng huyền
mành cong như vành môi. Ánh điện vàng vọt kéo bầy phù du chao đến, bay rối lên
khiến hai đứa không thể ngồi lâu. Phòng bệnh rộng gần chục giường nhưng chỉ có
mấy bệnh nhân, nên thừa giường không. Y giăng màn cho nàng, rồi chọn chiếc
giường bệnh trống sát cạnh giường của nàng để qua đêm. Phong bệnh tắt đền, chỉ
chút ánh sáng từ ngọn đèn bảo vệ ngoài hiên qua ô của kính dọi vào mở ảo. Không
gian tĩnh lặng chỉ còn tiếng côn trùng từ đồng lúa vào. Y khó ngủ, lạ nhà lạ
cảnh ngộ. Giường bên, nàng cũng không ngủ thì phải, vì chốc chốc lại thấy giở
mình. Hình như mắt nàng vẫn còn nhức, vả lại, hai đứa nằm gần nhau thế, mỗi
người một giường nhưng chỉ cách nhau mấy chục tấc. Y rất muốn an ủi nàng, sao
cho nàng tạm quên đi cái nhức. Mẹ y vẫn bảo là “thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng” là gì. Hơn nữa, y thèm sự động
chạm. Lúc chập tối, hai người ra sân ngồi hóng gió, sát bên nhau, mùi cơ thể
thanh nữ của nàng hấp dẫn ý, dẫn dắt bàn tay y tìm kiếm, nên giờ đây, cái cảm
giác ấy cứ rực lên trong người ý. Y trở dậy, lén sang giường nàng, khi vừa vén
màn chui vào thì nàng đã ý tứ dịch nhẹ người nhường đủ chỗ cho y nằm. Tim y đập
thình thịch, đảo nhìn quanh khắp phòng bệnh nghe ngóng. Không thấy ai động tĩnh
gì, chỉ có tiếng thở đều, tiếng ngáy khe khẽ của ai đó. Có lẽ, họ ngủ cả rồi,
hoặc có ai đó biết thì cũng vờ ngủ, mặc kệ... Thân thế y áp dính vào nàng, và
hai tay y lần mò trong bóng tối... Nàng đón nhận sự đụng chạm của y trong im
lặng và rồi không nén được cảm xúc, tay nàng quờ ghì diết y vào nàng...
Sáng hôm sau, khi nghe
tiếng chim bên ngoài líu lo, y tỉnh ngủ. Ý thức mình đang nằm ngủ trên giường
của mình khiến y nhẹ người. Trời có vẻ còn sớm, nhưng nhìn sang giường nàng bên
cạnh đã không thấy nàng ở đó. Quanh quất, các bệnh nhân cùng phòng cũng đã dậy
hết. Y trở dậy có ý tìm nàng thì nàng trở vào với chậu nước sạch trên tay. Nàng
khẽ cười giục y rửa mặt và còn cẩn thẩn bảo y chịu khó rửa bằng tay vì nàng
đang đau mắt nên không dùng chung khăn mặt của nàng được vì sợ lây. Y ngoan
ngoãn làm theo, có ý không chạm ánh mắt nàng vì nhớ lại chuyện giữa hai người
đêm qua...
Sau khi khám bệnh dùng
thuốc buổi sáng, nàng mừng vui thông báo được xuất viện. Nàng bảo, bệnh đã bớt
nhiều, đáng lý hôm sau mới được về, nhưng nàng nói khó sao mà bác sĩ đồng ý cho
nàng về, điều trị ngoại trú theo đơn thuốc. Y buộc đồ tư trang của nàng mang
theo, đèo nàng về trường. Chiều ấy là chủ nhật. Sân trường vắng bóng người. Mấy
thầy cô giáo ở cùng dãy nhà nội trú với nàng cũng về nhà hoặc đi chơi đâu đó
chưa lên trường, nên cả không gian sân trường mênh mông dành cho hai người.
Nàng và y tha thẩn sân trường, cũng bầy chim sẻ nâu, mấy đôi bồ câu và thảm lá
cây rụng. Lúc này thì y mạnh bạo nắm tay nàng, dung dăng dung dẻ mà không sợ ai
nhìn thấy...
Đêm buông. Sau bữa cơm
tối, y rủ nàng ra sân hóng mát, nhưng nàng từ chối, bảo y đi một mình, nàng bận
sửa soạn đồ dúng, giáo án gì đó. Y đi dạo loang quanh một hồi, Ngoài tiếng côn
trùng, ếch nhái thì chẳng có gì hấp dẫn nên y trở về. Hé cửa, bước chân vào
phòng, y ngỡ ngàng khi thấy nàng tần ngần như hóa đá, trên tay nàng là cuốn sổ
nhật ký và chép thơ của y. Y ớn lạnh xống lưng, và tái mặt vì hiểu, sẽ có
chuyện chẳng lành xảy ra. Y tiến đến trước mặt nàng đứng chết trân. Nàng ngước
nhin y bằng đôi mắt nhòe nước. Nàng không nói gì, nhưng linh cảm để y lướt nhìn
cuốn sở nàng đang mở trên tay, hiểu rằng, nàng vừa đọc nhật ký của y. Đấy là
những trang y ghi vào những ngày đầu bước chân vào Nam, sau khi đã ngỏ lời yêu
với nàng và được nàng chấp nhận. Khi ấy, y đã rất thật thà, bảy tỏ cảm xúc,
việc y và nàng đã nhận lời yêu nhau, nhưng nhiều lúc, y vẫn nhớ người yêu cũ.
Chỉ có vậy thôi, lại thật lòng, nhưng với nàng lúc này thật là cú giáng mạnh
vào tình cảm của nàng. Kìm không nổi, nàng òa khóc như mưa gió. Y tê tái, đỏ
gục xuống chân nàng, úp mặt vào lòng nàng, lắp bắp xin lỗi. Hình như, cuống lên
vì sợ mất tình yêu với nàng, y cón nói lời thế thốt gi đó nữa. Nàng vùng đứng
dậy, hất đầu y ra, đến bên của sổ, nhìn đêm tối. Y càng cuống, chân tay như thừa,
chợt y nhìn thấy chiếc kéo trên bàn, nơi nàng dở việc khâu vá gì đó. Một ý
nghĩa lóe lên, y vớ ngay lấy chiếc kéo, đưa tận tay nàng bảo rằng nàng muốn làm
gì y cho thỏa nỗi giận hờn nghi ngờ y. Rằng tình yêu của y đã dành cho nàng là
chân thật... Và thế là, nàng vứt chiếc kéo xuống đất, vít đầu y ghì chặt vào
ngục nàng, nức nỏ từng cơn. Nước mắt y cũng đầm đìa, người y mềm sụn. Y cảm
nhận rõ y yêu nàng biết bao, say đắm, nhất là từ đêm trước ở bệnh viện huyện,
hai người đã là của nhau. Y dìu nầng đến bên giường và hai người đỏ ập xuống,
bão táp yêu đương, hờn giận chen lấn cuồn cuộn dâng lên trong ánh đèn dầu hỏa
vàng quạch không đủ sáng hắt ra trời đêm...
5.
Năm ấy,
Y
vừa tốt nghiệp đại. Y về quê sống với mẹ đợi giấy gọi công tác của nhà trường.
Cả mấy tháng trời ở nhà, y làm việc vặt, dọn vườn và giúp mẹ đôi ba công việc
nhà nông, mong ngóng chờ biết tương lai mình sẽ ra sao, thì nàng đột ngột xuất
hiện...
Chuyện
là, mười năm trước, khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc
đang ác liệt, thì nhiều trường đại học ở thủ đô phải sơ tán về những địa phương
lân cận để tránh máy bay đánh phá. Nàng khi ấy mới là cô bé con chừng mươi
tuổi, theo bố mẹ vốn là cán bộ của một trường đại học sơ tán về làng quê của y.
Nàng và người anh ruột học chung một lớp với y. Biết gia đình y cũng từ thủ đô
chuyển về quê nên hai anh em nàng nhanh chóng làm thân với y. Hơn thế nữa, lúc
ấy, y học giỏi nhất lớp, nên nhiều đứa cầu thân. Khác với người anh trai vốn
tính khép nép, nàng là cô bé mạnh bạo, chơi chan hòa với mọi người. Ngáy ấy,
nàng là một cô bé phổng phao, mạnh khỏe, hiếu động, trái ngược hẳn với bộ dạng
y mảnh khảnh thư sinh, yếu ớt. Nàng và ngưới anh hay nhờ bố mẹ mình mượn sách
của thư viện trường đại học mang cho y mượn đọc, khi biết y ham đọc sách. Được
chừng gần hai năm học, khi bắt đầu vào cấp học cấp hai, thì trường đại học ấy
rút đi, và hai anh em nhà nàng trở về thành phố học. Kể từ đấy, chục năm trôi
quan, nàng không một lần trở lại nơi mình đã học những năm sơ tán chiến tranh.
Nghe đâu, bố mẹ nàng thi thoảng có trở về làng thăm lại gia đình người chủ mà
gia đình nàng đã từng ăn nhờ ở đậu ngót hai năm trời.
Y
ngạc nhiên khi nàng và người anh trai của mình xuất hiện trước cổng nhà y. Có
chút ngờ ngợ, y nhận ra ngay. Đôi bên vui mừng khôn tả. Những câu hỏi thăm,
chuyện lộn xộn, khi thì tranh nhau, lúc lại nhường nhau nói. Ký ức tuổi thơ đi
học cùng nhau cứ ùa về. Nàng theo học đại học sư phạm, tốt nghiệp được phân
công về dạy ở một trường cấp ba thuộc tỉnh của y, nhưng ở huyện xa cách nhà y
vài chục cây số. Hôm ấy, nàng đi nhiệm sở, lạ nước lạ cái nên anh trai nàng đưa
nàng đi. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào, dọc đường, hai anh em rủ nhau
tạt vào nơi sơ tán cũ, vào thăm nhà y. Y và mẹ rất vui, tất bật dốc hết nhiệt
tình và đò ăn thức uống trong nhà để làm cơm mừng hai anh em nàng. Nàng không
xinh, nhưng tươi tắn, có duyên, bởi sự tự tin khỏe mạnh. Mái tóc cắt ngắn uốn
cong ốp vào đầu, cùng nét tươi duyên mỗi khi nàng cười, ít nhiều hấp dẫn, tạo
sự thiện cảm trong y...
Thế rồi, chừng vài ba tuần, nàng lại về thăm
nhà và khi trở lại trường, thường nàng ghé vào nhà thăm mẹ con y. Từ nhà nàng ở
thành phố, đến nơi dạy độ chừng hơn năm chục cây cố, mà nhà y thì ở giữa chặng
đường dài ấy, lại cách trục quốc lộ không xa, rất tiện cho nàng ghé. Y bảo
nàng, nên ghé nhà y. coi như trạm nghỉ chân cho đỡ mệt. Nàng cười nhận lời. Và
đôi ba lần ghé vậy, y và nàng thêm hiểu nhau hơn. Một điều quan trọng, cả hai
đều ngầm cho nhau biết, khi ấy, chưa ai là hoa đã có chủ. Thực ra, y đã qua vài
mối tình thoáng qua tuổi sinh viên, nhưng chẳng ra đâu vào đâu. Còn nàng, chỉ
thấy nhắc đến đôi ba bạn gái thân thởi học phổ thông và đại học, chứ không thấy
bóng dáng một chàng trai nào. Những lúc trò chuyện bên nhau như vậy, y đã mạnh
dạn, đọc nàng nghe mấy bài thơ, hoặc đưa nàng đọc bản thảo viết tay vài ba
truyện ngắn. Y cũng bày tỏ nỗi khát khao muốn theo nghiệp viết lách, văn
chương. Nàng nghe, tỏ vẻ thích thú lắm. lại còn nói lời động viên y. Nàng bảo,
hiện tại nàng chưa yêu, nhưng trong ý nghĩ của mình, lâu nay, luôn chớp chới
bóng dáng của chàng trai hải quân trong trang phục áo sọc ngang xanh, đội mũa
hải quân có hai dải băng xanh vườn bay sau lưng giữa đại dương trời nước xanh
lồng lộc. Nàng nhìn y, cười tươi, khẽ nheo đôi mắt nâu tuyền khi bày tỏ ước mơ
ấy. Y nhìn nàng như dò hỏi. Điều lắng lại trong y không phải là câu nói, ấy là
đôi mắt nâu của nàng. Y tự nhủ, không hiểu nàng lấy đâu từ tạo hóa màu mắt nâu
ấy, màu mắt thường thấy ở người phương Tây, rồi y lại nhớ đến giai điệu bài hát
Đôi mắt màu hạt dẻ của nước ngoài mà
y từng nghe và thích...
Và
một lần, nàng ghé. Ấy là một ngày đặc biệt đối với ý. Y đã càm trong tay tờ
quyết định điều y đi nhận công việc ở mãi một tình biên giới tận cùng phương
Buổi
chiều, nàng cố dứt ra để về trường. Y muốn níu giữ mà không nỡ vì sợ muộn chiều
tối thì khổ thân nang một mình đường xa. Y tiễn nàng một quãng. Hai người đạp
xe song song, lòng những muốn nói mà chẳng thể. Định bụng một quãng thôi, mà
đến cả chục cây số vẫn chưa muốn dứt ra để chia tay, mỗi người một ngả. Trời
nổi cơn giông, mây đen kéo về và gió nổi. Nàng giục y quay về, y cứ dằng dai
không nổi, bảo đi thêm quẫng nữa, Nàng thấy cần phải dứt khoát nên xuống xe,
đứng nép vào lề đường. Quốc lộ chiều cuối tuần, người xe nườm nượp ngược xuôi.
Y đành phải dừng xe, nép vào bên đường cùng nàng. Bịn rịn, nói qua nói lại mấy
câu chia tay. Lòng y dâng lên một nỗi cô đơn khi mường tượng cảnh cuộc sống đơn
độc nơi đất khách quê người mãi cuối đường chân trời, khiến y mạnh bạo, nhìn
thẩng vào đôi mắt nâu to của nàng thốt lời yêu. Nàng tái mặt, lặng đi, miệng lí
nhí câu gì không rõ bởi tiếng xe cộ và giông gió át đi. Y vội vàng quay xe,
nhảy lên, đạp vội vàng một thôi dàu không dám ngảnh nhìn lại. Cho đến khi, tim
y bớt thình thịnh trong lồng ngực, thì y mới dám ngoái đầu nhìn lại. Vừa khi
ấy, nàng cũng mới lên xe đạp đi. Lúc này thì y dừng lại, lặng nhìn theo bóng
dáng của nàng dần mất hút vào dòng xe cô trên đường. Y thẫn thờ đạp xe trở về
trong trạng thái đầu óc bâng lâng, mất phương vị, như kẻ vừa bắn đi mũi tên mà
chẳng biết nó bay đến đâu và liệu có trúng đích hay không ?...
Về
gần đến nhà thì trời đổ mưa. Y cứ đầu trần mưa ướt vậy mà đi. Lòng y chỉ một
nỗi lo, nàng thân gái đường trường mưa gió thế này, liệu có sao không?... Còn
tình cảm của y ư? Lời yêu đã ngỏ. Nhẹ cả người. Mặc cho duyên phận đưa đảy. Từ
nay, chỉ còn biết trông chờ vào những lá thư mà thôi, khi y đặt chân tới miền
đất mới...
Hơn
mười năm trời để gặp lại nhau. Và thêm dăm năm trời yêu nhau tha thiết, với bao
nhớ nhung xa cách ngàn trùng, với biết bao cẩm xúc yêu thương vô bờ bến, với
bao lần trắc trở, giận hờn. cuối cùng, đi đến hồi kết. Cùng như lần chia tay
trước khi y đi xa, nàng vẫn là người chủ động, ngày ấy, để cho y đủ dũng khí
thốt lời yêu, còn sau này, để y thắm nỗi đau dứt tình. Y là kẻ yếu đuối, luôn
phụ thuộc vào nàng...
Cho
đến tận giờ, y và nàng chưa hề gặp lại nhau, dù đôi ba lần hình bóng nàng phảng
phất đâu đó, gợi cho y sống lại ký ức. Chẳng biết nàng nghĩ về y thế nào, còn
y, biết là, trong bao nhiêu khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc đời và mối quan hệ
giữa hai người, thì năm khoảnh khắc ấy, như ngũ cung vĩnh viễn âm vang trong
lòng y, cho dù mai nay có thế nào đi chăng nữa !... ./.
Nhân gian vạn
sự phi.
1.
Nhà báo Minh Trung đến tòa soạn. Một
ngày làm việc bình thường như bao ngày. Ông khởi động máy tính để soạn bài giới
thiệu chương trình câu lạc bộ cuối tuần. Chuông điện thoại máy bàn vang. Cô
phóng viên trẻ nghe máy.
- Chú Trung ơi, máy của chú này... Có ai
đó muốn gặp chú đấy ạ.
Ông cầm máy, trả lời theo thói quen lâu
nay mỗi khi thính giả gọi đến,
- Tôi, Minh Trung đây,... Tôi có thể
giúp được gì?...
Một giọng nam trẻ ở đầu máy bên kia rụt
rè hỏi lại tên và nơi làm việc của ông. Lặng đi một chút, người đó thay đổi
cách xưng hô từ xã giao thành thân mật, xung tên mình là Hiếu, con trai của mẹ
Duyên... Ông nghe mà ắng giọng, thụ động trả lời thei mỗi câu hỏi của cậu ta.
Rồi chỉ còn mỗi giọng cậu thanh niên, bời ông ù cả tai, loáng thoáng nghe câu
được câu mất, nhưng mỗi lời của cậu ta làm ông thêm choáng váng. Ông linh cảm
về một sự thật bấy lâu ẩn chứa trong lòng mình sẽ được hé lộ... và từ đây, cuốc
sống của ông sẽ thay đổi...
Buông điện thoại, ông thẫn người, đầu
ong ong, cám thấy huyết áp tăng lên... Cô phóng viên trẻ nhận ra điều ấy:
- Chú Trung... chú sao thế ạ” ... Người
quen cũ hả chú?... – cô cười tinh quái đùa – Hay con rơi con vãi ngày xưa nhận
bố?
- Ờ ờ... không... – Ông giật mình, chối.
Giờ thì đầu óc ông chỉ nghĩ về cuộc hẹn
gặp với chàng trai kia vào chủ nhận tới. Bao ký ức xa cũ ùa về...
2.
Một sáng một ngày cuối tuần,
Trung cắm cúi đạp xe. Trời
sớm, hơi sương phảng phất không gian. Đường xá vắng teo. Trung mừng vì đường
vắng người, bởi thâm tâm không muốn gặp bất cứ ai. Trên ghi đông xe đạp trei
chiếc túi cũ, bên trong đựng cân đường và hai hộp sữa. Trung đi thăm gái đẻ, có
cảm giác e sợ của người làm một việc vụng trộm và có gì đó khuất tất. Để đến
được nơi Duyên làm việc phải vượt qua gần bốn chục cây số. Dọc đường, hình ảnh
những lúc hai người gần gũi thân mật với nhau cứ chập chờn trước mặt, vô hình
chung khiến anh quên mệt nhọc, gò lưng nhấn bàn đạp mải miết... Khi trạm truyền
thanh huyện hiện ra trước mắt Trung thì trời đúng tầm trưa.
Trung dừng xe gần đó, lặng lẽ
quan sát, khi mấy nhân viên của Trạm người địa phương, tan tầm ca sáng, về nhà
ăn trưa, anh mới dám vào. Duyên thuộc diện nhà xa, được Trạm bố trí cho ở tại
Trạm, nhất là sau kỳ nghỉ sinh con đi làm trở lại, có con nhỏ theo mẹ. Vụng
trộm, lại không hẹn trước, nên Duyên ngạc nhiên khi Trung xuất hiện. Duyên cứ
nhớn nhác ngó quanh quất như sợ ai đó bắt gặp sự có mặt của Trung. Lưỡi anh như
xoắn lại, lúng búng giải thích việc đến thăm mẹ con Duyên và món quà đường sữa
của mình. Còn Duyên vừa mừng vừa lo. Cơm được dọn ra. Cơm gái đẻ, đơn sơ tôm
rang, trứng luộc và canh rau ngót. Duyên ăn cầm chứng, còn Trung ăn cho phải
phép, đỡ đói để còn lấy sức đạp xe về. Đứa bé ọ ẹ khóc ở gian trong. Duyên vỗ
nựng cho nín, rồi cô cất tiếng gọi Trung vào. Duyên nâng đứa trẻ gần ngang mặt
Trung nựng yêu "Con trai của bố Trung đây... Bố Trung nhìn... cái
trán bướng này, cái môi mỏng này... rõ giống hệt bố Trung...". Duyên
cười, mắt rưng rưng nước "À quên, cu tý phải gọi là cậu Trung thôi,...
con nhỉ". Trung cười gượng gạo, lấy ngón tay day nhẹ lên trán, rồi khẽ
đụng vào đầu mũi đứa bé: "Con giai mẹ Duyên kháu quá... hay ăn chóng
nhớn nhé". Duyên nhìn Trung đăm đăm, cái nhìn như biết ơn, lại như có
lỗi. Duyên bảo: "Thôi... thăm thế đủ rồi, mẹ con cu Hiếu cảm ơn bố
Trung nhiều lắm ... Bố Trung về luôn đi.... sắp đến giờ làm việc ca chiều rồi,
mọi người đến bây giờ... ngộ nhỡ ai nhìn thấy bố Trung ở đây... thì phiền... ".
Trung nhận thấy vẻ ái ngại của Duyên trong ánh nhìn và câu đuổi khéo. Trung cúi
người thơm nhẹ lên trán bé con: "Chào nhé... hai mẹ con giữ gìn cẩn
thận... Bố Trung về đây". Duyên tiện đà: "Từ giờ... bố Trung
không cần phải bận tâm về mẹ con nhà cháu nhé... Nhớ, chỉ là cậu Trung thôi
đấy... Cu Hiếu đã có mẹ cháu và bố Kiên rồi...".
Trung đạp xe rời khỏi Trạm
truyền thanh huyện, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại. Duyên vẫn bế con đứng nhìn
theo. Đến khúc quanh, trước khi khuất néo, Trung ngoái lại lần nữa, nhung đã
không thấy bóng dáng mẹ con Duyên. Đường về thị xã với anh bỗng vời vợi làm sao
!...
3.
Trung là phóng viên báo tỉnh. Bố anh là
một nhà báo, nhà văn, nên ông hướng anh theo con đường cầm bút. Thời ấy, cái
thị xã vùng than Đông Bắc này được xem là công trường lớn của miền Bắc khi đất
nước còn chiến tranh chia cắt. Là thanh niên, dù là công nhân cầm búa cầm choòng
hay cầm bút thì ai cũng ước ao được sống và làm việc trên cái công trường khổng
lồ này, một biểu tượng của nền công nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Các văn
nghệ sĩ cũng coi vùng đất đông bắc này là môi trường thực tế sinh động để họ
thâm nhập, tìm đề tài và cảm hứng dáng tác. Bố anh xin cho anh ra làm báo ở
đây, là muốn cho anh nhanh chóng trưởng thành trong môi trường làm báo thực tế.
Còn có lý do riêng, ấy là bố mẹ anh trục trặc và ly hôn, rồi sau đó bố anh tục
huyền với một người đàn bà khác vốn là con nhà quan lại nho giáo thất thế và
nhanh chóng đẻ liền mấy đứa con. Mẹ anh theo quân ngũ, không thể chăm sóc anh
chu đáo. Để yên tâm với gia đình mới của mình và không mang tiếng bỏ bê con vợ
cả, anh được bố gửi ra vùng than khi mới học hết phổ thông. Vậy là anh sớm bước
vào đời với cuộc sống công nhân tự lập. Mang gen di truyền của bố, anh tập viết
báo và trờ thành phóng viên báo tỉnh. Lẽ di nhiên, có sự trợ lực của bố, từ
việc bảo ban thêm về nghiệp vụ mẹo mực viết báo, đến sư nhờ cậy ban lãnh đạo báo
tỉnh giúp đớ này nọ. Là phóng viên báo tỉnh khi mới ngoài hai mươi tuổi, oách
lắm chứ. Mặt non choẹt, măng tơ, anh có thể đi đến bất cứ nơi nào trong vùng mỏ
đông bắc này. Nhiều khi, người ta nhầm tưởng anh là cậu sinh viên thực tập,
nhưng khi biết anh là phóng viên thì lập tức anh được đối xử trọng thị...
Trong một chuyến công tác, Trung đã
gặp Duyên. Và đúng với cái tên của cô, hai người có duyên với nhau. Chuyến ấy,
Trung đi cũng với Quang Chiến, một phóng viên đàn anh đến một huyện miền núi
cách thị xã mấy chục cây số. Xong công việc, anh phóng viên đi cùng rủ Trung
vào thăm người chị gái làm việc ở đài truyền thanh huyện. Hôm ấy, sắp đến buổi
truyền thanh chiều thì máy trục trặc, hai chị em trực ca loay hoay một hồi
không xử lý được. Hai người lo lắng, gọi điên tứ tung nhờ vả người sửa máy
nhưng không được. Có gái trẻ cố mầy mò sửa. Tình thế vậy, Trung đề nghị được
thử sửa. Anh vốn say mê lĩnh vực điện tử âm thanh nên có chút hiểu biết. Thật
may, Trung chỉnh sửa một lúc thì được, máy lên sóng buổi phát thanh chiều vừa
kịp. Cô gái trẻ tên Duyên cảm ơn Trung rối rít và nhìn anh đầy vẻ thán phục.
Lúc trước mọi người đều cuống, chỉ chào hỏi xã giao. Xong việc rồi. mới để ý
đến nhau kỹ hơn. Trung thấy cô gái trẻ tên Duyên khá xinh. Gương mắt bầu bĩnh
thật hợp với mái tóc xoăn tự nhiên, mắt to đen, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười
khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên. Trung bị Duyên hút hồn.
Sau lần ấy, hai người quen nhau, và tình yêu nảy nở. Yêu nhau rồi.
nên hầu như chủ nhật nào Trung cũng đạp xe đến nơi Duyên làm việc thăm cô. Còn
Duyên, mỗi khi về thị xã đều tranh thủ ghé tòa soạn thăm Trung. Tâm niệm yêu
nhau rồi nên vợ chồng, Trung đã đưa Duyên lên Hà Nội giới thiệu với gia đình
nhà mình, và cô cũng đưa Trung về quê cô ra mắt bố mẹ. Tuy nhiên, gia đình bên
cô có ý không chấp nhận Trung, chê anh quá thư sinh, và còn một lý do khác, ấy
là trước đó đã có một vị cán bộ theo đuổi Duyên, đánh tiếng với gia đình muốn
lấy cô. Tình yêu vừa nảy nở đã gặp trắc trở. Linh cảm về mối tình không thành
ám ảnh Trung. Một lần, Trung đến thăm Duyên đúng lúc áp thấp ập vào vùng than
đông bắc. Chỉ có hai người với nhau ở trạm truyền thanh, không kìm nén được cảm
xúc, hai người đã quấn chặt lấy nhau làm cuộc mây mưa khi ngoài trời mưa gió
tơi bời mịt mùng tứ phía...
Sau lần ấy, những tưởng cuộc tình được
cứu vãn, nhưng không, Duyên là người già giặn hơn anh nghĩ, cô vẫn nghiêng về
sự tính toán thiệt hơn để đến với Kiên, vị cán bộ có thể đem lại cho cô một
cuộc sống được đảm bảo trong thời buổi kinh tế khó khăn thiếu thốn. Sau này, suy
ngẫm, Trung mới ngộ ra rắng, người đàn bà khi yêu, họ có thể dâng hiến tất cả
cho người mình yêu, nhưng lập gia đình, họ lại chi li thiệt hơn khi lựa chọn
người lấy làm chồng. Không giống đàn ông, khi yêu có thể bốc đồng thề hái sao
trời cho người yêu và sẵn sáng chấp nhận cuộc sống kiểu “một túp lền tranh hai trái tim vàng”....Mối tình với Duyên, anh xem
như bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân.
Rời bỏ thị xã vùng than đông bắc,
Trung tự an ủi mình, rằng anh và Duyên có duyên mà không có phận. Và như những
gì cô ấy cho anh biết, cùng cảm nhận của bản thân, thì anh vẫn còn một giọt máu
rơi ở vùng đất này,...
4.
Trung rời cái thị xã vùng mỏ Đông bắc này
về làm việc ở thủ đô. Thực ra, sau lần đến thăm Duyên và con, Trung vẫn dò tin
xem mẹ con cô sống ra sao. Duyên có gia đình của mình, và trên danh nghĩa,
chồng cô là Kiên, có nhà đàng hoàng ở thị xã, và mặc nhiên, anh ta là bố đứa
bé. Câu chuyện tình giữa anh và Duyên vừa mới đó, vết thương tình còn rớm
máu, nỗi đau trong anh còn nguyên, đã là quá khứ rồi. Bố đứa trẻ đích thị ai
cũng không có ý nghĩa gì, khi họ là một gia đình hạnh phúc,...
Về thủ đô, công việc mới đầy năng động và hấp dẫn, cuốn hút, choán hết
thời gian của Trung, nên anh nhanh chóng hòa vào nhịp sống mới mà lãng quên nỗi
đau tình Bài học nhập môn về tình yêu và
hôn nhân thật có ích, khi anh qua giới thiệu làm quen với cưới một cô thợ may
nhan sắc bình thường nhưng chịu thương chịu khó, biết quán xuyến gia đình. Cô
thợ may đảm đang sản xuất liền cho anh mấy đứa con đủ nếp tẻ. Anh sống chung
trong căn hộ tập thể mẹ anh được cấp trong khu nhà binh. Hơi chật một chút
nhưng ở vào thời buổi gạo châu củi quế như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Anh là
phóng viên làm việc ở một cơ quan báo lớn, vợ công nhân may, chế độ tem phiếu cũng
đủ sống. Khi kinh tế bắt đầu thời lỳ mở của, vợ anh tính toán nhận chế độ nghỉ
việc, về thuê cửa hàng mở tiệm may đo, rồi phát triển lên vừa nhận may đo vửa
mở lớp đào tạo nghề may. Có chút tiền. gom góp mua được căn nhà cấp 4, lấn đất
lưu không làm vườn. Anh thì mua được chiếc xe máy, ngày ngày áo quần đóng hộp
cưỡi xe đi làm, rất chi là oách. Khi mẹ anh mất. căn hộ của bà ở khu nhà binh
thuộc diện giải tỏa, anh nhân được một khoản tiền đền bù kha khá, vợ chông bàn
nhau mua một miếng đất ở làng hoa ngoại ô làm của để dành. Vậy là của ăn của
để. Anh hài lòng với cuộc sống như thế, thoảng nghĩ đến người yêu cũ, thầm so
sánh, chắc gì được như cuộc sống của anh hiện nay.
Cuộc đời cứ thế hanh thông, con cái
lớn dần, đứa vào đại học, đứa đi xuất khẩu lao động nước ngoài, nhà cửa được
xây dựng lại khang trang hơn, xe máy cũng được nâng cấp. Những tưởng cứ thế cho
đến lúc nghỉ hưu, thanh nhàn tuổi già thì một biến cố xảy ra,...
5.
Sau cuộc gọi điện thoại đến tòa soạn, chuyện giập giạp. chàng trai
xưng tên Hiếu là con mẹ Duyên ấy xin được gặp nhà báo Minh Trung. Ông cho thời
gian địa điểm và rất nóng lòng được giáp mặt anh chàng mà giờ đây đã chín phần
ông tin là đứa con rơi của mình.
Hai người gặp nhau tại một quán cà phê gần nhà ông. Câu chuyện cứ
mở ra với nhiều tình tiết mà anh chàng nghe kể từ mẹ nói lại với ông và được
ông xác nhận là đúng. Ông cũng nhận là đã biết mặt con từ khi vài ba tháng tuổi
ở trạm truyền thanh huyện. Ông thanh minh với Hiếu rằng sở dĩ ngần ấy năm ông
không trờ lại thị xã than đông bắc và ngó ngàng gì cuộc sống của họ là vì cậu
ta đã có một người cha hơp pháp là ông Kiên, mà cho đến giờ về danh nghĩa vẫn
được coi là bố đẻ của Hiếu. Qua câu chuyện, ông biết, ngoài Hiếu ra, Duyên còn
sinh hai đứa con nữa với ông Kiên. Ông cũng được giải tỏa thắc mắc bấy lâu nay,
liệu ông Kiên có biết Hiếu không phải là con đẻ của ông ta hay không? Hiếu bảo,
khi mẹ cậu còn sống, những lúc vợ chống cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, ông
Kiên cũng cạnh khóe này nọ. song khi Duyên bị ung thư rồi mất, ông Kiên đã có
lần nói thẳng vào mặt Hiếu, rằng nó không phải là máu mủ của ông ta mà là con
rơi của một tay nhà báo nào đó, rằng ông ta nuôi nó như nuôi một con cửu ghẻ
trong nhà, và khuyên nó hãy đi tìm cha thật của nó... Thực lòng, ngần ấy năm
trời, Hiếu cũng lờ mờ cảm thấy tình yêu thương đặc biệt của mẹ dành cho mình,
khác với mấy đứa em, và cả thái độ lạnh nhạt của bố Kiên. Hiếu còn kể, khi mẹ
cậu đau yếu sắp mết, có lần hai mẹ con nghe giọng ai đó nói trên đài, bà lầm
bầm bảo, “vẫn cái giọng mềm mỏng, ngon
ngọt như ngày xưa, đến cua trong lỗ cũng phải bò ra.... mày cũng có cái giọng
giống hệt cha mày đấy con ạ...”. Lúc ấy thì Hiếu chì ngờ ngợ, sau này mới
hiểu mẹ mình nói vậy là ám chỉ mình giống bố đẻ, nhà báo Minh Trung cái tài ăn
nói, chứ không phải ông Kiên, bố hờ... Hiếu còn cho ông biết, trước lúc mất, mẹ
nó đã cho mời nhà báo Quang Chiến, người đồng nghiệp đàn anh của cả hai người
đến nhà, nói chuyện, dặn dò và đưa cho ông ấy giữ một lá thư mật trong phong bì
dán kín. Chuyện ấy khiến Hiếu suy luận, rằng mình không phải là con đẻ của ông
Kiên, mà là con rơi của một ai đó tróng số bạn bè hay người yêu cũ của mẹ
mình... Sau khi mẹ mất, Hiếu dò la manh mối, lặng lẽ theo dõi, tìm đọc các bài
viết của nhà báo Minh Trung, hay đón nghe các chương trinh câu lạc bộ do ông
đảm dẫn. Tự thâm tâm, cậu tin nhà báo Minh Trung chính là cha đẻ của mình.
Bố con nhận nhau, ông có lãi, được nhận cả cháu. Hiếu đã sớm lấy
vợ và có con rồi. Gia đình riêng của nó yên ấm lắm.
Biết không thể giấu mãi chuyện này, ông kể với vợ và xin được nhận
Hiếu làm con. Vợ ông đón nhận điềm tĩnh, bảo “Tôi không thể trách ông được, bởi chuyện xảy ta trước khi ông quen và
lấy tôi... Có chăng, đáng trách ở việc ông giấu tôi đến giờ”. Ông biện
bạch, thì chính ông cũng mới biết Hiếu là giọt máu rơi của mình với người yêu
cũ. Vợ ông họp gia đình, chính thức thông báo sự tình cho các con và đám em của
ông. Khóc cười có cả. Rồi vợ chồng ông kéo cả gia đình làm chuyến đi thị xã
vùng than đông bắc để nhận Hiếu. Tuy có chút bỡ ngỡ, nhưng Hiếu tỏ ra hoạt bát,
khéo léo làm hướng đạo, đưa gia đình bố đẻ đến gặp bố hờ, có lời thưa gửi, xin
lỗi ông Kiên. Rồi nữa, gặp gỡ gia đinh thông gia, tức bố mẹ vợ của Hiếu. Đôi
bên tỏ vẻ cảm thông với nhau, và sau cùng tất cả đi viếng mộ thắp hương cho
Duyên, khấn xin người đã khuất phù hộ độ trì cho cuộc đoàn viên. Ông vui đến
nỗi, đã dẫn Hiếu, mang hoa quả bánh trái đến cơ quan, giới thiệu, mời mọi
người, mừng cho cha con ông.
Ông Trung hài lòng lắm. Mừng nhất là việc giải tỏa nỗi ẩn ức của
ông và ông Kiên chừng ấy năm trời. Vui nữa là Hiếu biết cách ứng xử khiến mọi
nhà đều không ai mất lòng. Kể từ đây, tháng đôi lần Hiếu lên thủ đô thăm bố đẻ.
Hai bố con hàn huyên bao nhiêu là chuyện, nhờ thế, ông biết được, những năm
tháng qua, cuộc sống vợ chống của Duyên Kiên cũng không dễ dàng gì, và Hiếu ít
nhiều thiệt thòi vì phải chịu sự phân biệt đối xử từ phía người cha hơ.... Âm
thầm suy nghĩ, ông muốn bù đắp sự thiệt thòi cho Hiếu mà chưa biết cách nào....
6.
Từ ngày nghỉ hưu, ông Trung hay sống ở ngôi nhà nhỏ dựng trong khu
vườn xanh tươi ờ làng hoa ngoại ô. Ngoài thú chơi hoa lan và đồ gốm sứ, khi
rảnh rỗi ông trồng thêm các loại hoa có thể dúng ướp trà như hồng, nhài, ngâu,
mộc... Mỗi dịp cuối tuần, ông ở hẳn trên đó, đi chợ làng, tự nấu ăn, hẹn hò đám
bạn già đến thưởng trà, ngâm vịnh thơ phú, đánh cờ. Hứng lên thì cụng đôi ba
chén rượu... Ở đây, tiện và thích là mỗi khi Hiếu lên chơi, nó đến thẳng đấy
với ông, cha con tha hồ tâm sự, không ngại vợ con biết chuyện này nọ. Đến ngôi
nhà chung, dẫu sao còn có vợ ông và mấy đứa em, hành xử nói năng gì cũng ngại,
phải ý từ xã giao. Mỗi năm, vào dịp hè, Hiếu đón ông về thị xã vùng than mươi
hôm, để ông chơi với các cháu, gặp lại bạn bè cũ và tắm biển. Cứ thế, ông có
vài ba năm sống trong niềm vui sum họp ấm cúng.
Thế rồi, cậu con lớn của ông lấy vợ. Vợ ông ấn định, cưới xong thì
vợ chồng trẻ lên sống ở ngôi nhà nơi làng hoa ngoại ô. Thâm tâm, ông hiểu vợ
mình biết chuyện ông và Hiếu hay gặp nhau ở ngôi nhà vườn ấy, nên thu xếp vậy
để tránh việc này và có ý rằng sau này, vợ chồng nó sẽ nghiễm nhiên là chủ nhân
của nhà vườn đó. Song thu xếp thế, ông cũng thấy hơp lý, tuy không hài lòng
nhưng cũng phải bằng lòng vậy. Thấy thế, Hiếu bàn với ông, xây thêm một ngôi
nhà nhỏ nữa trên mảnh vườn ấy. Rồi Hiếu nghỉ phép, lên chỉ huy việc xây dựng, tay
bay tay dao xây chỉ đạo đám thợ phụ độ nửa tháng là xong. Việc này khiến vợ ông
bực mình, cạnh khóe này nọ. Ông cảm nhận, mối quan hệ của Hiếu với vợ con ông
bắt đầu rạm nứt.
Chưa hết, Hiếu tự tin, khẳng định vai trò con trai trưởng ngày
càng rõ. Thân sinh của ông mất đã mươi năm, đưa về quê chôn cất còn chưa cải
táng, nay mua được sinh phần nên mới cải táng. Hôm bốc mộ, cả gia đình ông
không ai thạo việc, định thuê người làm thì Hiếu xin đảm nhận công việc. Nó rửa
ráy, xếp xương cốt ông nội bài bản, gọn gàng, khiến mọi người ngạc nhiên thán
phục. Còn ông thì mát lòng mát dạ, hãnh diện lắm. Thái độ hài lòng của ông như
muốn nói với vợ con, các em và cả họ hàng ở quê rằng, đấy thằng con rơi của tôi
xứng đáng là cháu trưởng trong nhà. Vợ ông, ngoài miệng cũng không ngớt lời
khen Hiếu, nhưng ngấm ngầm để bụng, ủ mưu,...
Việc gì đến trước sau cũng phải đến. Một lần, Hiếu thưa chuyện với
vợ chồng ông, muốn làm thủ tục pháp lý, chính thức là con trai của ông và đổi
từ họ Lê của ông Kiên sang họ Hoàng của ông. Việc ấy là đương nhiên, nhưng
trước hết phải qua giám định gen di truyền. chứng minh quan hệ huyết thống, đấy
là thủ tục pháp lý và cũng là yêu cầu của vợ ông. Thâm tâm, ông tin chắc Hiếu
là con ruột của mình, không cần phải chứng minh rườm ra, song yêu cầu là vậy
nên đồng ý. Sớm muộng gì cha con cũng thuộc về nhau, ông khuyên Hiếu chấp thuận
việc này. Hiếu hiểu lòng ông, động viên “Bố
yên tâm... trăm phần trăm con là ruột thịt của bố mà”.
Dịp ấy, ông về quê, trông nom dọn dẹp ngôi nhà vườn bị đóng của bỏ
hoang lâu ngày sau khi người mẹ kế của ông qua đời. Ông nhận cú điện thoại vợ
ông gọi, báo tin kết quả giám định ADN của ông và Hiếu cho biết hai người không
có quan hệ huyết thống với nhau. Ông đang vui với ý tưởng sau khi hoàn tất thủ
tục pháp lý nhận con và đổi họ cho Hiếu, ông sẽ đưa nó về quê nội, sửa sang lại
ngôi nhà này làm ngôi thờ tự của đại gia đình. Vậy mà... Ông choáng váng ngã
quỵ, ngất xỉu, hồi lâu tỉnh lại, gọi điện báo người nhà ở quê đưa đi bệnh viện.
Có nhầm lẫn chăng, ông hy vọng thế. Song khi trờ về nhà, tự tay
cầm tờ phiếu kết quả giám định gen, đọc dòng chữ kết luận ghi không có quan hệ huyết thống, thì ông
không thể không tin. Đầu óc ông rối loạn, bời bời với bao ý nghĩ xung đột. Hiếu
không phải con của Kiên, rõ rồi, cũng không phải con của ông, kết quả rành rành
ra đấy... Vậy thì nó là con của ai? Khi đã tỉnh táo, tĩnh trí, ông nhớ lại,
điểm qua hết các gương mặt đàn ông thời ấy từng theo đuổi, tán tình, hay là
bạn, là người quen của Duyên, phỏng đoán này nọ... Hay là, anh trưởng phòng X,
tay nhà báo Z, chàng nhà thơ N?... Ngày ấy, Duyên tự tin, rạng rỡ, xinh nổi
tiếng trong vùng, khiến cánh đàn ông khát khao, thèm muốn chiếm hữu cô... Trong
đám đàn ông cả tá ấy, có những người đã có vợ. say mê cô, sở dĩ ông chiếm được
tình cảm của Duyên là bởi vẻ đẹp trai, hào hoa kiểu người thủ đô, lại con của
nhà văn nổi tiếng nọ... Ý nghĩ ghen tuông ngợp lòng ông, chẳng lẽ, một thời
điểm ấy, cô ấy cùng quan hệ với mấy người?... Nhưng sao, cô ta lại tin tưởng
Hiếu là giọt máu của ông, mà trăng trối lại, khiến nó tìm ông? Sau khi cha con
ông nhận nhau, ông cũng đã gặp lại nhà báo đàn anh là Quang Chiến, đọc lá thư
Duyên gửi lại, khẳng định Hiếu là con ruột của ông? Hay là chính cố ấy cũng
nhầm? Ông chẳng biết tin vào đâu nữa...
7.
Hiếu có đến thăm ông đôi lần sau khi ông đổ bệnh. Hai người an ủi
lẫn nhau, bảo vẫn sẽ coi nhau như người thân. Là nói vậy thôi, chứ mặt nhìn
nhau tẽn tò làm sao. Chiếu lệ đôi câu rồi ngẩn ra chẳng biết tiếp câu chuyện
thế nào. Vợ con ông thì tỏ rõ thái độ lạnh nhạt, xã giao dăm câu ba điều cho
phải phép. Hiếu biệt đi không đến nữa... Ông thì vẫn quanh quẩn với ký ức tình
yêu xa xưa, ký ức vui vẻ của những ngày đầu cha con nhận nhau. Ông thêm lần tai
biến và sức khỏe yếu dần, đi lại khó khăn, mắt kém nên muốn đọc sách cho khuây
khỏa cũng khó...
Một lần, cô biên tập viên cùng phòng làm việc cũ với ông, đến chơi
nhà, đem mấy bài thơ Đường luật nhờ ông cắt nghĩa, giàng giải ý tứ. Trong số đó
có một bài thơ của
Cô biên tập viên cảm động, không biết phải trả lời làm sao, lờ đi,
và cô thấy không cần phải giấu ông, bảo bài thơ của Cao Bá Quát kia chính là cô đọc
trên trang cá nhân của Hiếu. Cô nói,
Hiếu đã bình luận, câu thơ cuối “khẳng tín nhân gian vạn sự phi” ấy,
rằng “ai tin nhân gian này mọi sự đều là không, thì hệ họ, tôi không tin,...
”.
Nghe vậy, ông mừng rỡ bảo cô biên tập viên:“Thơ phú, chữ
nghĩa kiểu này, chắc chắn, nó giống y tôi... Tôi hiểu rồi, tôi tin nó... và
chắc là... nó cũng tin tôi.. .phải thế không cháu? ” ./.
Nhật thực cho một người
Lão
Khái nằm bệt giường cả hơn năm nay rồi. Cơ thể teo tóp đi chỉ còn xương với da,
song tinh thần thì còn sáng suốt lắm. Sự sáng suốt thể hiện ở đôi mắt vẫn ánh
lên vẻ tinh nhanh, quyết đoán mỗi khi có ai đến thăm hỏi, hoặc khi nghe mấy đưa
cháu nội kể cho những sự kiện lớn xảy ra trong làng xã, mặc dù đôi mắt ấy tụt
sâu xuống hai hốc mắt và được che khuất bởi hàng lông mày rậm rịt.
Từ
ngày thôi làm chủ tịch xã, nghỉ ở nhà, lão Khái hầu như không nói nữa. Thi
thoảng trong nhà ai hỏi gì, hoặc lúc cần thiết lắm lão mới mở miệng. Thời còn
đương nhiệm, lão không ít nói như thế, ngược lại còn hay nói cười. Việc nhỏ
cũng cười, việc nghiêm trọng ngỡ long trời lở đất, cũng cười. Người ta cho rằng
người hay cười là tính dễ dãi hay xởi lởi. Dễ tính hay không thì còn phải bàn,
nhưng với lão, cái cười hóa giải bao nhiêu là việc.Đứng đầu một xã lớn mấy
nghìn dân, hằng ngày, việc lớn việc nhỏ đều dồn đến ông chủ tịch. Quả là mọi
việc, không đến lão thì thôi, chứ đến tay lão, lão cười cười và sau đấy là yên thấm, ổn thỏa. Kẻ được thì
hớn hở, người không được thì dù có ấm ức mấy cũng không nói vào đâu được. Dân
chúng trong xã thì thào sau lưng lão: “Cha ấy, cứ cười thế thôi, chứ bên trong
ghê lắm. Khôn có lõi. Đúng là ngậm miệng ăn tiền”.
Lão không nói gì, bảo là ngậm miệng
còn đúng, chứ đằng này suốt ngày đêm, miệng nói chân đi, điều hành hàng núi
việc. Tự thân lão biết…
Nghỉ việc một thời gian là lão Khái
sinh ốm. Hàng xã, ai cũng thắc mắc: “Quái… ông ấy khỏe là thế. Bệnh tật gì mà
ốm cơ chứ?”. Không những ốm, lão còn suýt từ giã cõi đời…
Nằm bệt một thời gian, lão thấy người
cứ nhược đi. Một hôm, buổi sáng, cô con dâu trưởng bưng đến giường lão bát
cháo, lão lắc đầu. Lão cảm thấy nuốt không trôi. Chẳng bì cho trước đó ít ngày,
ai đến thăm cho quà gì lão cũng giữ bên người. Đứa cháu nào mon men đến gần
mong rằng ông cho một miếng, lão cảnh giác mắng: “Quà người ta biếu tao chứ cho
chúng mày à”. Cô con dâu thấy vậy bảo chồng: “Già đốc chứng. Xem chừng ông sắp
gần đất xa trời rồi”. Anh con trai trưởng, mới nhậm chức chủ tịch xã trả lời:
“Còn lâu… Năm ngoái ông chẳng mọc thêm cái răng khôn đấy à”. May mà những lời
ấy, vợ chồng chúng giấu lão, chứ lão mà nghe thấy thì dù có ngậm miệng như cóc,
lão cũng phải tế cho một trận nên thân.
Người
lớn đi vắng. Mấy đứa cháu nội, đứa đi học, đứa bỏ chơi, để mình lão nằm nhà. Bát
cháo để bên cạnh nguội tanh từ bao giờ và ruồi bu đen. Lão Khái im lìm dưới tấm
chăn chiên mỏng đắp ngang bụng…
Lão
Khái lò dò từng bước. Nhờ cây gậy chống mà lão tránh khỏi mấy lần vấp ngã, khi
thì hòn đá, lúc cái rễ cây. Lão đi theo một con đường mòn nhỏ đầy dấu chân
người.Con đường như tạo bởi một chất hồ sền sệt. Lão nhìn xuống mặt đường chi
chít dấu chân. Dấu cũ, dấu mới, dấu nọ chồng lên dấu kia, nhưng mắt lão còn
tinh, lão nhìn thấy rõ hết. Kìa là dấu chân một bà lão già yếu và chắc phải cao
tuổi lắm, bởi bàn chân không, bé nhỏ nhưng ngón cái lại choãi ra kiểu chân Giao
chỉ; còn kia là chân của một gã thổ mộc, hoặc bốc vác bởi nó to bè như bàn cuốc
và có vẻ vững chãi lắm; đây là chân của quan chức, hoặc thương gia và chắc hay
phải đi nước ngoài, bởi dấu giày của một ông cán bộ từng đưa đoàn chuyên gia
nước ngoài về xã hồi lão đương nhiệm; và kia nữa, đôi dấu chân thiếu nữ uyển
chuyển thể hiện ở dấu cái gọi là nửa guốc nửa giày – mô – đen thời đại… Nhiều
lắm, lão tự nhủ, mình người nhà quê mà cũng biết lắm thứ ra phết, thôi mệt
người chẳng thèm phỏng đoán nữa. Con đường dẫn đến một cây cầu nữa rồi cầu nữa…
Và lão Khái sa vào một cái hốc đen mờ. Lão cảm thấy quay cuồng và người lão như
bị cuốn đi bởi một dòng chảy. Lão chẳng còn biết định hướng ra sao nữa. Lão lờ
mờ nghĩ, thôi rồi, có lẽ ta sa vào một cái bẫy nào, chắc là chết… Nhưng rồi lão
định thần được và thấy mình đang ngồi trên một bãi rộng. Lão nhìn quanh, toàn
là những bụi cây lúp xúp, thân cành không lá mà toàn những chùm gai gớm ghiếc.
Lão nhẩm đoán, chắc đây là sa mạc châu Phi. Chợt tai lãi nghe đâu đây tiếng
nước chảy thật. Lão đứng dậy và chúi người xuống suýt ngã vì lão không biết
rằng cây gậy chống đã bị văng mất từ bao giờ. Lão tập tễnh tiền từng bước một
về phía có nước chảy. Và trước mắt lão hiện ra một dòng sông nước đen ngòm mà
mặt sông thì mù mịt như là khói. Lão đứng tần ngần trên bờ, ước tính, dễ con
sông này phải rộng gấp ba con sông làng mình, mà sao nước lại không đỏ phù sa
nhỉ, cũng chẳng có bèo Nhật Bản và rau muống nước, chắc ở đây người ta không
nuôi lợn. Rồi lão nghe có tiếng mái chèo khua nước, bèn khum tay che mắt gập cả
người để nhìn. A có một ông lão, có vẻ già hơn mình đang chèo một chiếc thuyền
con ở giữa dòng. Lão vội bắc loa tay gọi: “Đò ơi! Ông lão ơi, cho tôi sang với!...”
Ông ta không trả lời và cứ khoan thai chèo vào gần bờ. Lão vừa chờ đợi vừa
nghĩ, các cụ bảo: “qua sông phải lụy đò”, cấm sai chút nào, giá ở nhà, mình có
cái thuyền nan buộc gốc với bờ dông, cần là chèo loáng một cái là xong.
Ông
lão cặp mũi thuyền vào bờ, hỏi: “Đi đâu?”. Lão Khái nhìn ông lái đó, quái sao
mặt lão ta lại dài thế nhỉ, giống hết cái diệp cày 51, trông kỹ thì không già
lắm có lẽ chỉ tại cái chòm râu, và lão lắp bắp: “Cho tôi sang bờ bên kia… tôi
đi…”.Gắt: “Biết rồi, nhưng mà có biết bờ bên kia là đâu không mà đòi sang?”.
Lão Khái cáu: “Tôi cần sang thì ông cho tôi sang, sao ông cứ căn vặn mãi. Nói
cho nhà ông biết, tôi đã từng là chủ tịch xã, và không bao giờ tôi hỏi hách
dịch như thế với người dân đâu nhé. Ông là cái…”, lão định văng tục nhưng kịp
kìm lại bởi lão sợ ông ta không cho qua đò. Ông lái đò nhìn lão lạnh lẽo: “Thôi
được! Xuống đi và đừng hối tiếc nhé!”. Lão Khái lập cập xuống ngồi bệt vào lòng
đò, con đò tròng trành khiến lão phải bám chặt vào hai mạn. Lão thấy lạnh, lạnh
thấu xương và lão tự trách, mình vội đi quên khoác theo áo trấn thủ, hoặc tốt
nhất là khoác chiếc chăn chiên, tha hồ ấm, như trước đây mình mò đêm bắt rượu
lậu. Lão so người. Con đò quay mũi sang ngang. Mấy lần lão định bắt chuyện với
ông lái đò nhưng bắt gặp ánh mắt lạnh băng cả ông ta lão lại thôi. Ngồi im
trong lòng đò và bây giờ lão mới để ý sang bờ bên kia. Lão thấy bóng người đi
lại có vẻ nhộn nhịp lắm; lại thấy có chỗ tối đen, có chỗ hồng lên như bếp lò
rèn của lão Béo ở quê; và kìa, có những vết sáng ngũ sắc, chắc hẳn là cầu vồng,
nhưng cầu vồng phải bảy sắc cơ mà; lại nữa, tai lão nghe rõ tiếng đào đất, xe
cút-kít, tiếng chòong búa, rồi tiếng người hò hét, quát tháo và cả tiếng rên
rỉ… Lão đánh bạo hỏi: “Này ông lão ơi, ở bên ấy có gì thế?”. “Sao lại hỏi ta” –
ông lái đó trừng mắt – “Ta không biết. Mà này, đừng có đánh trống lảng. Tiền
đâu đưa đây”. Lão ngạc nhiên: “Tiền nào?”. “Tiền đò chứ còn tiền nào. Thế ngươi
chưa đi đò bao giờ à?”. Lão cãi: “Đi nhiều thế nhưng người ta không bao giờ trả
tiền đò à?” Đến đây thì lão ớ người, quả là lão chưa hề mất tiền đò bao giờ, xã
lão có con sông, một tuyến đường liên xã ngang qua, thế là để tận thu, lão lập
ra một tổ đò ngang, mọi người qua đều phải mua vé, tiền thu vào ngân sách xã,
riêng lão, là chủ tịch nên mỗi lần qua, mấy cậu lái đò đều xun xoe bê xe đạp
cho lão và vài lần đầu, giữ thể diện lão móc túi trả tiền, chúng cười hề hề
“Đáng bao nhiêu… Anh lo việc cho cả xã”. Lão đắm mình vào hồi niệm thì giật
mình bởi tiếng quát: “Tiền đâu. Nhanh lên chứ!”. Theo phản xạ, lão Khái đưa tay
lục túi, nhưng lần sờ mãi chẳng có xu nào. Lão toát mồ hôi, lắp bắp xin: “Ông
ơi, tôi quên tiền ở nhà rồi. Cho tôi qua đi, lần sau tôi trả gấp đôi”. Ông lái
đò tức: “Lằng nhằng. Làm gì có lần sau mà trả gấp đôi. Ai qua đây cũng chỉ một
lần thôi. Không tiền thì quay lại. Mất thì giờ!”. Và sau đó mặc cho lão nằn nì,
ông lái đò không thèm trả lời, quay đò lại, chèo loáng một cái đã vào bờ: “Lên
đi. Lần sau có quay lại đây thì nhờ mang theo tiền!”. Vừa nói, ông ta vừa túm
lấy cổ áo lão Khái lẳng lên bờ. Lão ngã rúi rụi, lúc bò được dậy, ngoảng lại,
đã mất hút cả người và đò. Lão Khái tứ điên người, lẩm bẩm rủa: “Người đâu mà
thô tục. Đúng là quỷ?”….. Lão nguôi giận, đứng dậy, bần thần: “Đây là đâu nhỉ?
Mình đi đâu bây giờ?”. Chợt lão nhớ là hôm nay, người lớn đi vắng cả, có mỗi
thằng cháu nội bé nhất ở nhà với lão. Lão mải đi chơi thế này, ngộ nhỡ ở nhà nó
tha thẩn ra bờ sông, sẩy chân thì khốn. Lão Khái hốt hoảng: “Chết thật! Phải về
nhà ngày!...”
Lão
he hé mắt, trong mắt nặng trĩu. Lão cảm thấy nhà sáng choang. Tai ong ong, rồi
lão nghe thấy nhiều tiếng người nói, cười. Giọng một ai đó hỏi: “Thế ông cụ đã
tỉnh hẳn chưa?”. Con trai đầu lão trả lời: “Cảm ơn ông, ông cụ nhà tôi chưa
tỉnh hẳn nhưng hơi thở khá đều rồi. Gớm tưởng ông cụ đi, nhà đã chuẩn bị hết
rồi, quan tài, khăn xô, gạo lợn. Mà lợn đã mổ rồi”. Một giọng khác: “Sẵn lợn đã
mổ, ta ăn mừng ông cụ hồi lại. Sau đận này, có dễ ông cụ phải thọ tới trăm
tuồi”. Con dâu lão tíu tít đáp lễ một đoàn khách, vừa kể lể: “Em đang làm đồng,
thấy thằng cháu chạy ra gọi, bảo con đi học về, nàh chẳng thấy ai, lay hỏi ông
thì ông đã cứng đờ rồi. Em vội về cho cháu gọi nhà em ở Ủy ban. Chao ơi, lúc
cậy miệng ông cụ ra để cho đồng trinh tiền đò vào mà không sao được. Hai hàm
răng cụ cứ nghiến chặt vào nhau. Nhà em bảo không cho cũng được chỉ vẽ chuyện
nhưng mà em nghĩ phép các cụ từ xưa thế thì cũng phải làm. Lúc liệm ông cụ lại
thấy người ông cụ mềm và âm ấm. Nhà em bảo, hay là cụ hồi lại. Em sợ quá, nghĩ
là quỷ nhập tràng bởi em quên không
nhốt con mèo của nhà lại. Thành ra cụ hồi lại thật”. Ai đó oang oang: “Thế là
phúc đức lắm”. Lát sau lão Khái nghe thấy tiếng cô con dâu đi ngang qua giường
lão nằm, lẩm bẩm “Phúc đức chẳng thấy đâu, mất toi tạ lợn”. Đã mở mắt ra rồi,
nghe được vậy, lão Khái nhắm nghiền lại. Lão nghĩ, thì ra là mình đã chết rồi
lại hồi. Thôi đúng con đường sền sệt đầy dấu chân người ấy là đường xuống cõi
âm, còn con sông, bến đò và người lái đó là cửa vào âm phủ. Vì lão không có
tiền trả cho người lái đó nên lão phải quay lại dương gian. Ngẫm nghĩ, lão thấy
tiếc, giá như lão cố nằn nì hoặc lừa cha lái đò thì lão đâu phải quay lại. Giờ
có sống, con cháu nó nghĩ vậy thì sống mà làm gì, “đa thọ đa nhục”. Lão khẽ
nghiêng đầu, quay mặt trở về phía trong, và từ đôi tròng mắt tưởng đã hết thần
sắc của lão ứa ra hai giọt nước. Không một ai biết điều đó, bởi mọi người lại
xôn xao bàn tán chuyện sắp tới có Nhật
thực. Đầu lão Khái chợt lóe lên một ý nghĩ và lão nói trong suy nghĩ: “Được
rồi ta sẽ có cách”….
Mặt
trăng hắt bóng đen của mình xuống trái đất, nhưng thời gian mặt trăng che ánh
sáng mặt trời chỉ là chốc lát, còn với lão Khái, cái bóng của lão đã trùm bao
cả xã Đông Tân hàng mấy chục năm.
Lão
Khái tham gia du kích xã từ khi còn rất trẻ. Trong một trận trống càn, lão bị
đạn vào cánh tay, sau đấy, vết thương lành nhưng cánh tay đó bị tật khoèo. Hòa
bình lập lại, Khái tham gia công tác ở làng, rồi lên xã. Vốn trẻ trung, tháo
vát và tính mềm mỏng, qua mấy khóa bầu, Khái trúng vào hội đồng nhân dân xã.
Thoạt đầu làm thường trực Ủy ban nhân dân xã, sau lên phó chủ tịch, rồi chủ
tịch. Khái đông con, ba trai, hai gái, vợ Khái quanh năm suốt tháng hết chữa
đẻ, lại ốm đau không mấy khi ra đồng. Là chủ tịch xã, Khái biết tường tận cái
kiểu làm ăn xã viên nghe kẻng, tập trung ra đồng làm quấy quá cho hết ngày để
lấy công điểm đó chẳng mang lại hiệu quả gì, song vợ mình không làm thì lại
mang tiếng. Khái nghĩ cách, mỗi thôn lập ra một nhà trẻ, đưa vợ mình ra trông
trẻ của làng, nhưng mọi nhà quen cái nếp bà giữ cháu, chị giữ em ở nhà nên cả
mấy gian đình được Khái biến thành nhà trẻ thơ mấy đứa bé nheo nhóc, chủ yếu là
lũ con Khái. Thế nhưng, vợ Khái lại được chia rất nhiều công điểm. Nhà toàn ăn
công gián tiếp nhưng vụ nào thóc cũng đấy cót, đầy bịch.
Dân
trong xã nói chung là thuần, duy chỉ có làng Đoan là bướng bỉnh. Làng Đoan đông
dân, đường ngõ quanh có, lát gạch nghiêng tím xịm. Làng này nổi tiếng có của ăn
của để từ xưa bởi cả làng đều có nghề nấu rượu. Rượu Đoan ngon nổi tiếng khắp
vùng. Thứ rượu trong suốt, cắm tăm, nặng nhưng không sốc của làng Đoan được
đựng trong những chiếc bong bóng trâu thuộc to tướng luân chuyển đi các nơi.
Thời Tây, cả xã khổ lây với làng Đoan bởi những cuộc khám xét trong “chiến
tranh rượu” của Pháp ở thuộc địa. Ở vào thời ấy, chính Khái đã giấu rượu lậu hộ
bà con họ hàng người làng Đoan, nên bây giờ, Khái hiểu đủ thủ đoạn, mưu mẹo lậu
rượu của làng Đoan. Khái lờ đi cho thì được, chứ khi nào Khái tổ chức khám bắt
thì đố có nhà nào qua mặt được. Có điều khó nhất cho Khái là phải đối mặt với
bà con, họ hàng. Là chủ tịch xã, đáng ra Khái không phải tham gia trực tiếp vào
các viện như thế, song vắng mặt Khái, anh em dân quân không dám làm, bởi họ sợ
bà con la lối, thế là Khái đanh phải chường mặt ra. Ai nói gì, Khái cũng cười
cười bảo: “Rượu Đoan ngon thế, đến như tôi ngửi thấy mùi cũng ứa nước miếng,
huống hồ… Giỗ Tết có rượu Đoan mà uống thì thù biết bao. Rượu nơi khác chán
chết, nhất là cái thứ rượu mùi. Nhưng mà, nấu rượu là vị phạm chính sách lương
thực của Nhà nước. Ngoài tiền tuyến con em mình đang cần có gạo ăn kia kìa.
Thiếu gạo họ phải ăn rau tàu bay với chuối rừng thay cơm, thế mà bà con mình
lại cứ rượu tì tù thì còn ra thể thống làm sao!... Một chén rượu bằng ba bát
cơm đấy…”. Nghe ra có lý thật. Có lần Khái chạm trán với ông chú vợ. Ỷ vai trên
lại cao tuổi, ông chú vợ làm già: “Thế tao muốn có vài ba lít để ngâm thuốc
không được à?”. Khái lại cười: “Được chứ ạ! Chú có trong nhà đến dăm chục lít,
đủ ngâm thuốc uống đến ngoài trăm tuổi ấy chứ!”. Ông ta tức quá gầm lên: “Đâu,
đâu!... Mày điêu toan như đàn bà ấy”. Rồi ông ta nhổ toẹt vào mặt Khái. Khái
giận tím người nhưng vẫn trấn tĩnh được, cười nhạt” “Ông làm ơn cho con mượn
cái khăn, con quên không mang theo khăn… Con sợ, ngộ nhỡ ra ngoài đường người
ta thấy lại bảo ông không biết dạy con cháu. Là con lo xấu mặt ông”. Đại loại
những chuyện như thế nhiều lắm…
Thời
chiến tranh, hàng năm công tác trọng điểm của xã, còn quan trọng hơn cả việc
sản xuất là hai đợt tuyển quân. Phần đông, mọi gia đình và cả đám trai tráng
đều hiểu đó là nghĩa vụ thiêng liêng, nhưng không hiếm nhà “con độc, cháu đích
tôn”, lại có nhà cố tìm cách lẩn trốn. Hàng xã nhìn vào nhà Khái, nhất cử nhất
động, mà theo. Đứa con trai lớn, vừa tốt nghiệp cấp hai, còn thiếu tuổi, Khái
“vay tuổi” cho nhập ngũ, làm gương. Thế nhưng sau khóa huấn luyện, thằng con
Khái được giữ lại làm giảng viên huấn luyện. Khái bí mật gọi con về làng, đánh
tiếng là về phép để đi B, rồi sau đó Khái cấm con không được bén mảng về nhà, ở
lì trường huấn luyện, lâu lâu Khái lên thăm, tiếp tế cho ít tiền. Đứa con trai
thứ hai, có đợt lấy người đi công nhân kỹ thuật ở nước ngoài, Khái cho đi. Làng
xã ai hỏi gì, Khái cười bảo: “Nhà tôi phải toàn diện, đứa đánh giặc, đứa xây
dựng đất nước. Đi hai chân như vậy mới vững vàng chứ”. Khái đã hàng trăm lần
cầm trên tay giấy báo tử đi báo cho gia đình và cũng từng ấy lần Khái chủ trì
buổi lễ truy điệu. Khác với bình thường, bao giờ Khái cũng rất kiệm lời và
trước khi kết thúc Khái trầm giọng, thống thiết: “Con người là vốn quý nhất.
Mất của thì còn làm ra được, chứ mất người sao lấy được. Nhưng cái chúng ta còn
thì bao trùm tất cả - đó là đất nước. Hôm nay, tôi nói với bà con thế này, biết
đâu ngày mai. Vâng, chỉ ngày mai thôi, tôi phải cầm trên tay mảnh giấy báo tử
con tôi…!”. Đến đá cũng phải chảy nước mắt.
Mấy
đứa con gái của Khái học kém, đáng lý trượt lên trượt xuống, nhưng cứ gần cuối
năm học, Khái lại cho mời thầy hiệu trưởng nhà trường lên xã, trích ngân sách
xã cho nhà trường một khoản tiền, hoặc ít phi lao, xà cừ chặt ở đường liên thôn
để nhà trường sửa chữa cơ sở vật chất. Thế là thầy hiệu trưởng bèn lênh cho các
thầy cô chủ nhiệm lớp con Khái học “cấy” điểm cho con Khái đủ lên lớp. Bầy giờ,
ở xã, con cái nhà nào vào được cấp ba là danh giá lắm, học lên đại học thì danh
giá nữa và như thế nghiễm nhiên thành viên chức Nhà nước rồi. Thâm tâm, Khái
chuẩn bị cho chiến dịch “viên chức hóa” con cái. Học hành kha khá ở xã phần
nhiều là đám con cái các nhà địa chủ, lí dịch, hoặc viên chức có dính dáng với
Tây thời cũ. Khái nhận ra rằng, đám ấy muốn thoát ra khỏi địa phương để đi
thoát ly đều phải qua tay Khái ký lí lịch, nên họ thường cầu thân với Khái.
Khái bảo lũ con mình chơi với đám đó, nhờ chúng kèm cặp văn hóa. Làm như thế,
Khái lại được tiếng là công minh, không trù úm, đố kị. Song đền thi cử thì
chịu. Tay Khái không đủ dài để vươn lên trên, mà đám con nhà “có vấn đề” cũng
không thể thi hộ con Khái. Khái tức lắm, bèn dặn đám văn thư xã: “Hễ thấy giấy
báo gọi ai đi đại học, trung cấp thì đưa tôi xem. Ở trên có mật lệnh là phải
xem xét kỹ lý lịch, gạt bỏ khỏi bộ máy Nhà nước những phần tử xấu, cơ hội đang
leo cao, chui sâu…”. Và thế là, hết thảy các giấy gọi đi học đều qua tay Khái.
Khái ỉm đi hàng loạt. Thời ấy, việc học hành còn tù mù lắm, chẳng ai biết mà
kiện, mà có biết cũng chẳng dám kiện, bởi người ta nghĩ, tương lai con cái họ vẫn
nằm trong tay Khái. Còn Khái nghĩ bụng, ta làm thế chẳng tội tình gì, xã hội
tiến thoái đâu phải vì một vài cá nhân đó, ta làm vậy là thực hiện công bằng xã
hội, đám con cái nhà giàu học hành nhiều đời rồi, nay phải nhường chỗ cho con
cái của bà con nông dân, của người lao động. Rồi đâu cũng vào đó, bằng mọi
cách, Khái nhồi được hết lũ con còn lại đi học chuyên nghiệp. Đứa con cả ở quân
đội –người từng đi “B dài” và bị bố đe biến thành liệt sĩ hàng trăm lần, phục
viên về địa phương. Từng qua quân ngũ, lại thành phần trong sạch và được bố
“quy hoạch”, cậu ta nhanh chóng trở thành bí thư xã Đoàn, vào thường vụ xã,
quan lộ mở ra trước mắt. Lẽ dĩ nhiên, được việc nhà, Khái được cả việc công.
Chẳng thế mà, từng ấy năm làm chủ tịch, trải qua biết bao khóa bầu, Khái vẫn
trúng cử. Người ta bảo, đó là cái khéo của Khái, cái mà người ta gọi là “ngậm
miệng ăn tiền” chăng?
Sau
lần chết đi, sống lại, lão Khái được chăm sóc chu đáo hơn trước. Mấy đứa con
gái thoát li lấy chồng xa kéo về đông đủ. Người nào cũng khá giả, nên quà biếu
bố đầy nhà. Khốn nổi, lão có ăn được mấy đâu. Vả lại, lão đã có chủ ý của lão.
Được dăm bữa nửa tháng, dù có thương bố đâu thì mấy cô con gái cũng đành chào
bố trở về nhà mình với biết bao công việc đang chờ, để lại câu dặn với anh
trưởng: “Bác ráng chăm sóc ông cụ cho chu đáo, cần gì cứ phôn cho chúng em một
tiếng, nếu không về được, chúng em sẽ gửi tiền về cho bác”. Riêng cậu con trai
thứ hai từ ngày đi nước ngoài không về nữa, và đã lâu cũng bặt vô âm tín nên
không biết gì chuyện ở quê nhà. Lão Khái cũng ước được thấy mặt con mình, vì
thế lão nấn ná chưa quyết hẳn. Lão nghĩ bụng: “Nó thế là bạc, nhưng nghĩ cho
cùng nó cũng đáng thương. Giầu sang phú quý chẳng thấy đâu song lại mang tiếng
tha phương cầu thực. Mình là cha nó, mình tha thứ cho nó thôi”.
Khi
đám con cháu láo nháo đi cả rồi, một hôm, đứa dâu trưởng bảo lão Khái: “Con dọn
dẹp nhà ngang, ông xuống dưới ấy nằm nghỉ cho yên tĩnh. Ở nhà trên này, nhà con
làm chủ tịch, suốt ngày khách khứa nên ồn ào lắm”. Nghe vậy, lão Khái nhẩm bụng
“À ra nó đuổi khéo mình đây”. Song lão vẫn chờ xem con trai có nói gì không.
Mãi không thấy gì, lão hiểu rằng vợ nó chỉ là người nói ra hộ nó điều ấy thôi.
Kể
từ hôm dọn xuống nhà ngang, lão Khái dứt khoát hẳn, âm thầm thực hiện ý đồ của
mình. Cơm cháo do con dâu và mấy đứa cháu đưa xuống, lão chỉ nhấm nháp qua
quýt, đợi lúc mọi người vắng nhà, gọi đám chó đổ cho chúng ăn hết. Vốn đã yếu,
lão ngày càng yếu hơn. Lão biết cái ngày lão ra đi không còn bao xa nữa. Ngày
nhật thực tới gần, lão chạy đua với trời đất. Có một điều lão luôn ghi nhớ là
khoản tiền đò. Lão sẽ không lỡ chuyến đò cuối nữa. Lão thầm cảm ơn cái sự sai
lầm trước, để từ đó, lão có thời gian ngẫm nghĩ, điểm lại cuộc đời mình và hiểu
thâm nhân tình thế thái. Một lần, lão gọi đứa cháu nội vào hỏi nó: “Cháu có
tiền không?”. Thằng bé tưởng lão cần tiền, nó móc từ đáy cặp sách mấy trăm đồng
tiền giấy nhàu nát, cáu bẩn, nhét vào tay ông: “Tiền đây, ông cần mua gì bảo
cháu, cháu sẽ mua cho ông”. Lão xoa đầu thằng bé: “Cháu thảo lắm. Ngoan lắm.
Yêu cháu lắm. Ông không cần tiền đâu mà chỉ hỏi thế thôi”. Cái lão Khái cần là
đồng tiền trinh, tiền xu cơ. Lão không muốn hỏi xin con trai hoặc con dâu bởi
sợ chúng căn vặn. Đang băn khoăn thì lão thấy ở dưới đất một mảnh sắt, lão
nhoài người nhặt lên, đưa lên mắt ngắm nghía: “Đây rồi! Tiền đây chứ đâu!”. Lão
sẽ mài những góc nhọn cho nó tròn. Chỉ cần tròn tròn, hao hao giống đồng trinh
là được. Lão sẽ đợi đúng lúc nhật thực để qua đò. Người ta bảo, lúc nhật thực,
nhập nhoạng, láo nháo âm dương, lão lái đò sẽ không biết gì đâu. Lão sẽ ấn
miếng sắt vào tay người lái đò, nhất định là lừa được. “Phải rồi, tròn tròn,
giống đồng trinh” – lão Khái ngợp đi trong niềm hân hoan.
Những
ngày sau, lão miệt mài với việc làm cho miếng sắt tròn. Miệt mài như thời sung
sức gom góp xây dựng gia nghiệp. Thỉnh thoảng anh con trai trưởng xuống hỏi
thăm, lão đều bảo: “Anh yên tâm, thầy khá hơn lên. Thầy còn thọ đến trăm tuổi
kia mà”. Anh con trai ráo hoảnh: “Vâng! Thầy phải thọ để hưởng lộc chứ. Con
cháu nhờ thầy gây dựng. Cả xã nhờ công thầy mới được như ngày hôm nay. Từng ấy
năm thầy chèo lái…”. Lão Khái phều phào: “Thôi thôi… Tôi không dám…!”
Ngày
nhật thực đang đến gần. Miếng sắt đã tròn. Chợt lão nhớ đến lời cô con dâu hôm
nào “cậy mãi không được miệng để cho đồng trinh tiền đò”, lão há miệng thử:
Được rồi. Lão Khái từ từ đưa đồng sắt lên miệng, ngậm vào dần. Lão thở mạnh. Rồi
nhằm mắt lại, thiêm thiếp… Chờ đợi con đường sền sệt đầy dấu chân người. Ở cuối
con đường ấy có một bến đò…!
Như sóng đập
bờ đá ngàn năm.
Ở tuổi này khi ta được trần như nhộng và
tại cái giây phút ấy, rất bất ngờ ta chợt nhận ra rằng tất tần tật những ngày
tháng trước đó của ta cũng đã tuột trôi vĩnh viễn vào quá khứ; và một thế giới
mới mở ra như xà lim phòng tối không hề ánh sáng!
Đời như sóng đập bờ đá ngàn năm
Tưởng tượng và ngẫm rằng: ta vừa thoát
ra khỏi phòng tối sau một tháng trời cầm giam (thử xem...) - ta không thể nào
nhận nối ra chính ta - ta đã thành người khác !… Cái đêm thứ năm tuần mới rồi
mà hôm nay mới là thứ hai đầu tuần, bật thức và chưa tỉnh hẳn sao ta lại nghĩ
đến chuyện khua bàn phím?
Chỉ tại cái đêm thứ bảy ở Điền Lư ...;
cái đêm giật mình tội lỗi khi bước chân vào toilet lúc tinh mơ – trời ạ, bao
nhiêu là xác chết thiêu thân... những thân tàn xác dại côn trùng vô thức ấy
đang rẫy rụa rụng cánh nơi chân tường lạnh bẩn kia… Vâng! Chỉ tại ta thắp bóng
sáng qua đêm… Ta đâu có nghĩ cửa sổ mở thoáng khí trong nhà vệ sinh… Cũng chẳng
nghĩ quy luật sinh tồn, quy luật đào thải tự nhiên này nọ
Ôi ánh sáng nhân tạo… Ánh sáng của con
người mà; ta là một dạng ánh sáng ấy ư ? Ôi ! Cái
đêm Thứ Năm ấy; Sao em lại đến với ta …và nóng bỏng như vậy?.
Ta chợt nghĩ rằng nếu ta có được năm mươi năm ở tù thì mình cũng trùng
khớp ý nghĩ và khát khao của thằng già tù khổ sai kia! Đừng cho ta được mãn hạn
khi ta không muốn ra ngoài; ta rất không muốn được sống trong ánh sáng phát
minh của con người,.
Ta quả đúng không phải là thức dạng loại
ánh sáng nhân tạo ấy! Em đừng lao vào ta như thế…Ta thật tâm xin em hãy cùng
nghĩ như ta rằng cứ tồn sinh mà vui sống trong thứ ánh tự nhiên của trời đất
như Hàn Thi-sĩ ngợi ca rằng Trăng là ánh sáng mãi thơm thơm và ngọt ngào. Em
đây cũng là thứ ánh sáng ngọt ngào. Hãy cho ta thưởng hưởng từ xa…
Ta hứa yên tâm thụ hưởng… Một đời!...
Lão viết những như thế trên trang của mình ở mạng xã hội,
khi lão ngồi lì cả tiếng đồng hồ trong toilet bởi căn bệnh táo bón cố hữu. Tối
hôm trước, trong trạng thái bâng lâng của rượu, lão chát với người bạn gái vừa
mới quen thì cô ả chỉ yên lặng trân trối nhìn cái đầu bạc như cước và cái miệng
dẻo quẹo của lão hót như khiếu. Chán, lão ngủ trong cơn mộng mị. Choảng tình
lúc hơn 4 giờ sáng. Lão vớ máy chát với cô ả, Hình như thị cũng không ngủ được,
nhìn lão bằng cặp mắt thâm quầng, bợt bạt thiếu son phấn, không lên tiếng ngoài
chút ầm ừ trong cổ họng. Lão thì thào dỗ ngon dỗ ngọt một hồi với cái hình chập
chờn của thị, cho đến khi người bạn văn ngủ cùng phòng khách sạn trở mình càu
nhàu "Bác có cho em ngủ không đấy?".
Lão cụt hứng, tắt máy, tự nhiên thấy mót đại tiện,...
***
Chốt cổng cận thận. Dắt chiếc xe máy tay ga vào nhà. Bật
điện sáng choang. Thấy lão vẫn ngơ ngác, ngó nghiêng nhin quang cảnh nhà vườn,
thị giục lão:
- Kìa anh, vào nhà đi chứ. Đứng đấy để người ta thấy
à.
Lão như cậu bé con, bẽn lẽn bước vào nhà, cười biết lỗi.
Thị khép cửa, chốt khóa, cẩn thận kiểm tra. Lão đứng giữa nhà, nhìn quanh quất,
chưa biết phải làm gì. Căn nhà ba gian, ngăn nắp gọn gàng, một gian chia buồng,
hai gian trống, giũa để thờ, gian bên để giường được ngăn cách bằng ri-đô. Kiểu
nhà thường thấy ở nông thôn. Thoàng chút chấn chừ, thị tay nắm tay lão, tay kia
mạnh dạn đặt lên vai lão, đi giật lùi dìu đến chiếc giường bên, thoắt trở
người, ấn lão ngồi xuống mép giường. Thị ập vào ngồi lên hai đùi lão, vít đầu
lão hôn cuống quýt tràn mặt lão. Lão thụ động, chiều theo, đầu thoáng nghĩ, cả
đời lão từ trẻ trai đến tuổi thất thập lẻ, dày dạn tình trường nhưng chưa một
người đàn bà nào lại chủ động táo bạo nhu thị với lão lúc này... Lão đảo mắt
quanh, ý bảo thị là đèn nhà sáng choang thế không ngại à. Thị hiểu ý bảo:
- Cứ để đèn sáng... mới chập tối mà tắt đèn, hàng xóm họ
nghi.... Với lại, lâu lắm rồi... em thèm nhìn thân thể của đàn ông...
Thị đẩy lão nằm ngửa xuống giường, khi lão còn chưa hết
ngạc nhiên. Lão mò lên tận đây, thị ra điểm hẹn đón lão đưa về nhà thị, chốt kỹ
cổng cửa, vật ngửa lão xuống giường, đương nhiên cả hai đều hiểu họ sẽ làm gì
với nhau, nhưng sấn sổ thô bạo cỡ này thì lão mới thấy lần đầu. Lão nhe răng
ngô nghê, hai chân còn vắt xuống đất, trân trân nhìn thị vội vàng cời bỏ áo
quần trần truồng áp sát, tỳ hai chân thị vào hai chân lão. Lão ngắm thị lõa
thể, như bức tượng thạch mĩ nữ lão từng thấy ở viện bảo tàng trong một lần lão
đến
- Kìa anh,... sao thế ?...
Thị nhắc lão bổn phận của mình. rồi không ngần ngại, thị
cởi bỏ quần áo của lão. Lão làm theo như một cái máy. Khi trên người không còn
mảnh vải, lão chợt nhìn những vết nhăn nheo điểm những mảng thâm đen di chứng
xuất huyết dưới da, ngượng nghịu. Thị xoa khắp người lão, dỗ dành như dỗ trẻ
con "Không sao đâu anh". Lão nhìn xuống hạ bộ của mình, cứ gật
gù như gà bị cắt tiết, không ngỏng lên được,
- Anh xin lỗi,...
- Để em giúp... tuổi như mình thế này là khá lắm đấy...
Nào, từ từ thôi mình,...
Lặng ắng chút. Lão nghe rõ tiếng thị thở mệt, nhịp thở
của sự thoải mãn. Cả tiếng đập của tim thị lão cũng cảm nhận được sự thỏa mãn.
Chợt thị nhỏm phắt dậy, nhìn chằm chằm vào mặt lão, rồi nhìn xuống bụng dưới
của mình, ngạc nhiên thấy cái cán búa của lão vẫn cắm sâu vào cái của thị...
- Ơ, anh vẫn chưa... sao à ?
- Sao là sao?...
- Của anh vẫn y nguyên như ... chưa ấy....
- Thì y nguyên... ý em là... anh bị em giứt mất rồi à?...
Lão cười trêu thị. Thì ngồi xuống bên lão, vẫn giữ lão
nằm ngửa, tay vuốt ve cái cán búa còn cứng của lão... khẽ cười,
- Ôi... của anh thật tuyệt,... Tuyệt quá, anh ơi...
- Em muốn nữa không ? Anh chiều,...
- Thôi anh... Em mệt... với lại, cũng sướng lắm rồi....
Để dành... còn cả đêm nay nữa mà anh... Giờ ăn cái đã. Em đói ngấu rồi... Chắc
anh cũng đói,...
Thị vùng ra, mặc quần áo nhanh như lúc cởi ra. Lườm yêu
lão, thị giực:
- Mặc quần áo nghiêm chỉnh đi anh. Đợi em mươi phút, em
hâm nóng thức ăn rồi mình ăn, anh...
Lão mặc quần áo, vô tình để mắt vào tấm ảnh chồng thị
trên bàn thờ, và lúc này lão mới cảm nhận được mùi hương nhang mới thắp... Dù
đang lúi húi bên bếp, thị vẫn cảm nhận thấy, bảo:
- Anh ấy nhà em mất đã dăm năm nay, em cũng thờ chồng
chăm con ngần ấy năm chu toàn... Giờ các cháu đã trưởng thành, cả ba đứa đều có
gia đình, có công ăn việc làm cả... em mới dám nghĩ... này nọ... Chiều nay,
được tin anh lên,... em sửa cái lễ khấn xin anh ấy thương tình lượng thứ
cho...
Bữa ăn được sắp ra. Hai người đối ẩm, nhấp chút rượu
thuốc. Thị gắp thức ăn bỏ bát lão, giục ăn.
- Rượu bổ thận tráng dương đấy... Ạnh uống đi... Dạo
trước, anh nhà em yếu xìu, em phải tìm thuốc cường dương ngâm tẩm bổ cho anh
ấy... dưng mà. chẳng ăn thua gì... Từ ngày anh ấy bỏ em mà đi, em bê cất luôn
vào buồng kín... đã có lúc tính bỏ đi... nay vừa lôi ra đấy... Em biết, anh
chẳng cần rượu bổ cũng hoành tráng lắm rồi....
Thị cười lục khục trong cổ. Lão vênh mặt tự đắc, cười
kiểu kẻ chiến thắng. Thị có biết đâu, trước đó, lão đã ngầm uống mấy viên thuốc
trợ lực đông y lão vẫn quen dùng mà bà vợ nhân viên y tế của lão kê cho, mỗi
khi phải lâm trận
Thị luôn tay gắp thức ăn bỏ vào bát lão. Lão nhai, trệu
trạo như bò nhai cỏ khô. Chẳng thấy ngon gi, chỉ thấy khát. Thị ăn chiếu lệ,
buông bát, bảo:
- Anh cố ăn đi mà lấy sức... Em đủ rồi... nhìn anh đã
thấy no... Chỉ thèm mỗi...của nợ anh thôi,... - Thị bụm miệng cười,...
***
Bàn ăn dọn đi. Hai người ngồi uống nước. Lúc này, lão mới
ngắm kỹ gương mặt thị. Thị không xinh nhưng khuôn mặt dễ ưa với cách trang điểm
nhẹ. Ở tuổi ngoài năm mươi, thị vẫn giữ được dáng người thon gọn. Trước đấy vừa
đùng một tuần, hai người mới lần đầu làm quen nhau qua ứng dụng hẹn hò của một
mạng xã hội. Lão làm quen với ứng dụng này nửa năm nay, cũng đã thả tìm, tán
tỉnh, à ới với vài ba người đàn bà nạ dòng, cao tuổi hơn thị, nhưng chằng đi
đến đâu. Dẫu thế, lão có chút từng trải với loại hình mới này. Còn thị, bạn bè
bày cách nhưng thị ngại, sợ con cháu biết chê trách, sợ phiền hà này nọ, sợ
hàng xóm làng giềng cười nhạo. Chồng chết dăm năm nay, thị nghĩ mình cũng đâu
trẻ trung gì, an phận thờ chồng, giữ gìn không điều tiếng gì. Giờ hẹn hò kiểu
này, chỉ là mốt thời thượng, đú theo đám đàn bà rửng mỡ, ngộ nhỡ sao thì mất
toi công nênh "tiết hạnh khả phong" bấy lâu nay,... Nghĩ thế,
nhưng rồi sự tò mò, bản năng lấn át, thị vào trang hẹn hò... Trong số hàng chục
nhân sự dược hệ thống gợi ý, thị xem kỹ hình ảnh, giới thiệu tóm tắt, rồi quyết
định thả tim cho lão. Thực tình, đã có vài ba người thả tim cho thị nhưng thị
không đáp lại. Sở dĩ thị chủ động chọn lão, bởi lão có mái tóc bạc như cước, và
khuôn mặt góc cạnh, đàn ông, vẻ cương trực, quyết đoán. Thị bị hấp dẫn bởi mẫu
đàn ông như vậy, bởi cả đời thị đã phải sống với người chông bạc nhược, thụ
động từ công việc đến chuyện tình dục. Thêm nữa, ở phần tự giới thiệu về mình,
lão còn đề từ câu thơ "Đời như sóng đập bờ đá ngàn năm/ nhưng với em ta
chẳng bao giờ nhàm chán/ dằng dặc đường đời dẫu bước chân ta nản/ em luôn là
bến đỗ của đời ta...". Ôi, đọc và ngẫm nghĩ. thoạt cớ gì đó hơi
sến, nhưng rồi mường tượng, thị thấy con người này ẩn chứa sự thú vị. Qua vài
lần tâm sự, thị bị lão hấp dẫn, bởi những ấn ý trong mỗi lời lão nói, thật
thật, ảo ảo, đầy khơi gợi. Thuận lợi nữa, tuy lão sống ở thủ đô, nhưng quê lão
gần ngay quê thị, ngày nhỏ cùng uống nước một dòng sông, và lão cũng hay đi về.
Nếu nên cơm cháo gì, cũng tiện đôi đường...
Lão nhắn sẽ lên thăm thị. Thị thách, lão bảo "chớ
thách nhà giàu húp tương". Thị hẹn đại cho xong, nhưng lão đến thật
thì sao, bèn cận thận nhắc, có đến thì cứ giữa tuần, bởi cuối tuần, con gái lờn
thị lập gia đình sống ở thành phố, con gái út học đại học ở chung với chị, con
gái giữa cùng gia đình nó sống ở thị xã nhà, thường cuối tuần, thay nhau, có
khi cả ba cùng về quê thăm mẹ. Phiền lắm. Hẹn đại vậy, song thị cũng có ý chờ.
Mấy ngày thị chẳng làm nổi việc gì cho ra hồn, tâm trạng ra vào mong ngóng, đợi
chờ, rồi tự giễu mình vớ vẩn .... Sớm ngày thứ năm, khi thì còn oằn oài
chưa muốn dậy bời đêm qua, đợt gió bắc cuối mùa, rét Nàng Bân về, thì lão gọi,
bảo đã ra bến xe về quê, chiều viếng một đám hiếu người chị họ, xong, lão tiện
đường tìm nhà thăm thị, cần thị chỉ đường cụ thể. Đột ngột, thị ngại, từ chối
thì lão bảo, sẽ lật tung cái xã nhà thị để tìm, đành chịu thua, dặn là, khi nào
lão xong việc, alo, thị chỉ điểm hẹn gần đấy rồi phi xe ra đón. Thị ra
chợ, mua thực phẩm ý thức làm cơm đón lão. Bữa trưa, tiện bếp thị nấu
nhiều hơn mọi khi, dành riêng thức ăn cho bữa chiều, ăn qua quít cho xong. Nằm
ngả lưng mà chẳng sao ngủ nổi vì hồi hộp. Cả chiều, nghĩ quanh ra quẩn vào, vưa
mong ngóng vửa mở tủ quần áo, lựa chọn ra mấy bộ. nhẩm tính, bộ nào mặc khi đi
đón lão, bộ váy nào mặc ở nhà sao đẹp và gợi cảm. Chiều muộn, chưa thấy lão
gọi, thị sốt ruột mấy lần bấm máy định gọi cho lão, nhưng ngại lại thôi. Lão
không đến được cũng tốt thôi, vì thực tình, thị ngại phiền hà. mang tiếng. Lúc
lão gọi. thị hơi hoảng vì trời còn sáng. Thị chỉ điểm đợi, dặn lão đợi trời nhá
nhem tối. Khi nào thị bắt đầu đi đón thì nhắn để lão đi bộ ra là vừa. Thị trang
phục kín mít, đeo kính đen, khẩu trang kín mặt, như ninja, phi ra điểm hẹn
trong sự hồi hộp phấn khích. Dọc đường, thị quan sát ngõ lối và có ý tránh giáp
mặt người quen. Gần đến điểm hẹn. thị thấy người đàn ông cao tuổi đứng đó, áo
sơ mi hoa, khoác ngoài gi-lê kiểu ký giả, tóc bạc. kính đen. Thị nhận ra lão ngay,
giảm ga rà xe máy tới gần. Lão cũng nhận ngay ra thị,"Có phải Lụa không
em?". Thị mừng: "Vâng, em đây... anh ". Thị chụp
chiếc mũ bảo hiểm lên đầu lão, cuống quýt giục lão ngồi lên xe, phóng nhanh đi.
Dọc đường, lão hỏi han, thị bảo, đợi về nhà hãy nói, bởi thị còn tập trung quan
sát đường, né nguồi quen. Thị không muốn bất cứ một ai trông thấy thị chở một
người đàn ông lạ mặt dù đầu bạc trắng về nhà. May ngõ nhà thị gần đường, lại
đúng tầm các nhà đang bữa tối, nên không gặp ai. Chốt cổng xong, thị thở phào
bớt lo. Chuyện vụng trộm nên khổ thế....Tự nhiên, thị thấy rực người thèm muốn
xác thịt... Bao kìm nén bấy lâu vỡ bục ra, lan khắp người, dâng đắng họng, ngợp
thở ...
***
Tiết cuối xuân, đầu hạ, lại đợt gió mùa vớt nên trời se
lạnh. Chuyện vãn một hồi. Lão quen chứng nói to vì nghễnh ngãng, khiến nhiều
lần thị phải nhắc khéo hạ bớt volume bời sợ hàng xóm nghe thấy. Thị cẩn thận
kiểm tra khóa cổng, cửa lần nữa, thắp nén nhang mới trên bàn thờ, rồi trở vào
buồng trong. Lát bước ra diện chiếc váy ngủ màu xanh ngọc, ngượng nghịu. Lão
ngắm thị đắm đuối. Lúc chập tối, hai người mải bập vào nhau, vội vàng quần thảo
nhau nên lão chưa kịp ngắm kỹ. Giờ lão thấy thân thể người đàn bà ngoại năm
mươi, mẹ của ba đứa con gái, bà ngoại của mấy cháu này vẫn hấp dẫn lắm. Da thịt
trắng trẻo, béo lẳn, đang độ hồi xuân rừng rực, cảm giác như gái nạ dòng tứ
tuần thôi. Thị tắt đèn phòng ngoài, dắt lão vào buồng ngủ. Của phòng ngủ vừa
khép, lão đã vòng tay ôm riết thị vào lòng, hôn hít từ tung.
Lần này, lão chủ động, còn thị thả lỏng, hưởng thụ, mặc
kệ lão. Đang cơn đê mê, thị chợt nghĩ, hăng quá không khéo chưa đến chợ lão đã
hết tiền. Thôi thì cứ phương châm "năm xu hơn một hào" cho
chắc ăn, bèn khẽ đẩy lão ra, nhắc khéo:
- Từ từ thôi nào... đêm còn dài mà, anh...
Lời thị khiến lão tỉnh táo. Cả hai đứng sát người, giúp
nhau cởi bỏ quần áo. Lão hà hít cảm nhận mùi nước hoa, mùi da thịt đàn bà lạ từ
chăn nệm... Thị nằm ngửa, khẽ dạng cặp đùi, lim dim mắt tận hưởng sự vuốt ve
của lão. Chợt nhớ, lão hỏi:
- Sao ban nãy, em khéo thế?... Anh tưởng đầu hàng... vậy
mà em làm cho súng ống của anh ngỏng nòng được... lại dai... mãi không thèm nhả
đạn nữa chứ... Oách.
Thị cười không thành tiếng, khuôn mặt rạng lên, ửng hồng.
Tự nhiên, lão không ưa cái vẻ mặt đầy vẻ tự đắc của thị, và cảm thấy mình yếu
thế:
- Em có vẻ thành thạo nhỉ?... Này em, anh là người thứ
mấy của em rồi?...
- Sao anh? ... Ý anh là... em là loại đàn bà nay người
này... mai kẻ khác?...
Thị nhỏm phắt dậy, hất tay lão khỏi người thị. Mặt thị
hiện vẻ hằn dỗi. Lão biết mình nhờ lời:
- Ý anh không phải thế... là anh... khen em giỏi tâm lý
ấy mà... Đừng hiểu sai thiện ý của anh... Thôi mà, anh ngàn lần xin lỗi ...
Lão chủ động làm lành, vòng tay ôm ghì lấy thị, bịt miệng
thị bằng một cái hôn, rằn thị xuống, chồm lên người thị, phủ dụ bặng một trận
hôn hít từ trên xuống dưới, loanh quanh một hồi, lại từ dưới lên. Thị rên lên
sung sướng. Chợt thị vùng dậy...
- Khoan đã anh... đợi em chút đã,...
Thị với tay, mở ngăn kéo, lấy viên thuốc, bỏ miệng, chiêu
nước uống... Cười.
- Em phải uống thuốc tránh thai cấp kỳ... tháng em vẫn
đều... Cứ phòng thế cho chắc... ngộ nhỡ ễnh bụng ra thì chết... biết giải thích
thế nào với con cháu... Điện nước đầy đủ cũng phiền hà thế,...
Lão chỉ biết nhìn thị cười nhăn nhó. Nhưng cũng may, sự
giảm hưng phấn làm cho lão kéo dài cuộc chơi. Cả hai lâm trận, vầy vò, vật lộn
nhau, lên xuống, xuôi ngược đủ kiểu, chăn đệm nhàu nát, mình đẫm mồ hôi, cho
đến khi thị cong tớn người, ằng ặc, có kìm nén để không rú lêm. Lão rền rứ, vào
ra chán, rồi dồn toa hùng hục liên hồi kỳ trận, rướn người, hổn hển, đổ ập dán
xuống người thị, nẳm im... Thị cũng lịm đi...
- Anh... anh ơi... em chưa bao giờ thích như thế này...
em biết ơn anh nhiều. nhiều lắm...
Lão vẫn nằm im, bất động trên người thị. tận hưởng cái sự
thì thào bảy tỏ cảm xúc và lòng biết ơn của thị... Cũng lâu rồi, lão mới thống
khoái như thế...
- Anh, anh ơi... anh mệt à... anh có sao không?
Nghe giọng thị có vẻ lo lắng, lão định giả vở xỉu để dọa
thị, nhưng nghĩ lại thôi. Làm vậy thị sợ, nhỡ đâu thị hoảng rồi cụt hứng luôn
thì toi cơm cháo...
- Không... không sao, em... là anh muốn nghe em nói
thôi... Em nói hay quá... hay như đài ấy... - lão hài hước để thị bớt lo.
Lão nằm xuống bên cạnh thị, ấp người vào nhau. Lão cảm
nhận chiếc lưỡi mềm ướt của thị lướt khắp mặt lão. Thị khẽ sụt sịt khóc vì sung
sướng hạnh phúc. Cái giống đàn bà đến lạ, chỉ một cuộc làm tình cao trào thỏa
mãn mà đã thấy hạnh phúc rồi. Lão nghĩ vậy, hỏi thị muốn nữa không. Thị cười,
đụng nhẹ cái cái cán búa của lão đã mềm oặt bảo:
- Chỉ tinh tướng thôi, bố già của em ạ... Em đùa đấy, anh
vừa mới, mệt chết... ngủ chút đi anh.
Lão nịnh, bảo muốn nghe thị nói. Thế là thị kể, chồng thị
trước đây sớm bệnh tật, dăm năm trước khi mất, sinh lý yếu lắm, ngại quan hệ
với vợ. Mỗi lần thị muốn, lại phải dỗ dành, trợ giúp đủ cách anh ta mới làm
tình được chút. Cứ vậy, thị đâm thành thạo cách vỗ về thằng nhỏ, chứ nào thị có
biết người đàn ông khác ngoài chồng. Cho đến giờ duyên tình xui khiến thế nào
cho thị gặp lão... Lão an ủi, rằng lão sẽ đền bù cho những thiệt thòi tỉnh cảm
của thị những năm tháng qua. Thị cười biết ơn, ấn ngón tay vào trán lão đay:
- Nhớ đấy nhé...nói lời chớ có nuốt lời... Em sẽ cho anh
biết tay. Em sẽ nuốt chửng anh... Nhưng mà, anh ơi... mình xa cách nhau thế
này,... Anh đến đây với em là cả một sự phiền hà? Mà em thì chẳng dám về thành
phố thăm anh đâu... Em sợ lắm... Lại còn vợ con anh chứ... Em thế này là đi
cướp chồng người rồi đấy...
Lão bịt miệng thị, xưa đi nỗi băn khoăn lo lắng của thị
bằng một trận hôn túi bụi. Lão mút hai bầu ngực trắng ngần của thị như trẻ con
khát sữa. Lão nâng đầu thị gối lên vầng ngực vẫn còn khá rắn chắc của mình. Lão
mơ màng. Tự nhiên lão nhớ Tú Trinh. Mới chỉ mấy tháng trước thôi, lão cũng để
nàng ta gối đầu vào ngực lão thế này...
***
Lão tình cờ biết Tú Trinh từ dăm năm trước, khi dự một
đám cưới ở quê. Cưới đứa cháu gọi lão bằng ông, bố mẹ nó nằn nì nhờ lão dẫn
chương trình lễ cưới, mà việc này là sở trường của lão. Ngoài khả năng ứng
biến, lão hay cao hứng trích dẫn thơ tình của mình, của bạn bè mình vào những
tình huống hợp lý nên nhiều người thích. Tan cuộc, có một nàng cỡ tứ tuần gặp
lão, tự giới thiệu, làm quen, khen lão nói hay. Lão phổng mũi, tán dương nàng
này nọ, rồi xin số điện thoại của nhau. Cô nàng nhan sắc bình thưởng nên lão
không mấy để ý. Tưởng vậy thôi, không ngờ sau đó ít lâu, nàng ta nhắn tin cho
lão. Nhắn qua nhắn lại, thành thân nhau. Thấy nàng bảo yêu thơ, lão bèn lập cho
nàng trang cá nhân trên mạng blog, và còn chỉ dẫn nàng vào trang của nhà thơ
này, nhà văn nọ là bạn mạng xã hội với lão. Nàng tập tọng làm thơ, lão chỉnh
sửa giúp để nàng đăng trên trang của nàng. Một ngày đẹp trời, nàng bày tỏ
tình yêu với lão. Nàng là chủ một doanh nghiệp nhỏ, thuộc một doanh nghiệp lớn.
Chồng nàng làm việc xa nhà, năm đôi ba lần đáo qua. Lâu ngày, chán nhau, li
thân. Đứa con gái duy nhất của nàng sống với mẹ nàng là chính bởi nàng cũng đi
suốt. Tình cảnh nàng vậy nên lão cám cảnh sinh tình, bời kinh tế khá giả đấy,
nhưng đời sống tình cảm, tình dục thiếu thốn. Rồi một lần, lão nhận cú điện của
nàng, hẹn lão đến gặp nàng tại một khách sạn hạng sang cách nhà lão không xa.
Lão tìm đến và hai người lao vào cuộc mây mưa long trời lở đất. Nàng khát thèm
lâu ngày còn lão say tình mới. Cứ thế, lâu lâu một trận theo tần suất công việc
của nàng ở thành phố, thành bện hơi nhau. Cuộc tình vụng trộm nhát gừng kéo dài
mấy năm nay. Lão ít nhiều nhàm chán, có phần mệt mỏi, và cảm thấy sợ sự đòi hỏi
xác thịt quá mức của nàng. Nàng đang độ chín của tình dục. Mỗi lần gặp nhau,
nàng chuẩn thị thuốc tăng lực cho lão, quần thảo lão lên bờ xuống ruộng. Sau
một lần như vậy, lão mệt bã người cả tuần mới hồi sức. Nàng cảm nhận được điều
đó nên có lần nàng an ủi bảo là nàng đã bóc lột tình dục lão. Lão nổi máu yêng
hùng bảo không sao. Nàng cón muốn lão phải có một vài bài thơ nửa kín nửa hở
bày tỏ tình yêu với nàng đăng trên trang của lão... Lão chiều hết, nhưng
cảm xúc và sức lực có hạn. Gần đây, nàng công du châu Âu và mắc nạn dịch Covid
may mà không sao, thoát được về. Khi gặp lại, nàng như hổ đói lâu ngày, ngấu nghiến
ăn gỏi lão. Lão cạn kiệt, ý nghĩ chợt thoáng. nếu mình thoát xác trên bụng nàng
thì sao nhỉ? Mình thì chẳng sao, chó chết hết chuyện, nhưng vợ con mình hẳn
chịu tai tiếng... Lão chùn nhụt, nhất là khi nàng nửa đùa nửa thật, rủ lão theo
nàng ra nước ngoài...
Vài tháng thôi, giờ đây lão đã du ngoạn đào tiên với
người đàn bà khác. Nghĩ, đàn ông tệ bạc thật. Nhưng đàn bà thời nay, cũng đâu
có kém cạnh gì. Ngẫm, chuyện đực cái của con người ta, xưa như trái đất, cuộc
đời như sóng đập bở đá ngàn năm, chẳng có gì mới mẻ, ức triệu con sóng xô bờ,
thấy na ná nhau cả, nhưng chẳng có cái nào giống in hệt cái nào, chỉ cần li ti
chi tiết khác thì cũng là cái khác rồi. Lão nhẩm tính, đã bao nhiêu đàn bà qua
tay lão, ăn nằm với lão, na ná nhau đấy nhưng với mỗi người đều có sự khác
biệt. Lão sắp xếp thành bộ sưu tập của mình,...
- Anh ngủ à?... Hay nghĩ gì đấy?
Thị chợt nhỏm đầu nhìn mặt lão, thấy lão vẫn mở to mắt
nhìn đâu đó, thị cười. Rồi thị kéo chăn che phủ trạng thái nuy của mình, xoay
lưng lại với lão ngủ. Lão nhắm mắt, suy nghĩ miên man,...
Một người đàn ông bước vào, nhìn chằm chằm vào mặt lão:
"Chú em đấy à... Ta còn nhớ, chú em tên Chính thì phải... Còn nhớ ta
không?". Lão ú ớ "Anh là, là... Nhớ rồi, Nghĩa...".
Người đàn ông cười nhẹ "Vậy là chú em vẫn nhớ tên ta... quên là ta phạt
đấy,". Người đàn ông nhìn quanh quất: "Lâu quá rồi nhỉ....
ngày ấy, chú em trẻ măng.... Chú em sống thế nào? ... Ta hỏi chơi vậy thôi, cứ
nhìn chú em lúc này ta biết... Đầu bạc trắng thế kia, mà tình duyên vẫn tràn
trề... ". Lão rúm người lại. Người đàn ông cười bảo "Chằng
bù cho ta, cưới vợ được mươi ngày thì đi... vừa biết mùi đời, bén hơi đàn bà đã
biền biệt, trân mạc triền miên... cho đến lúc về nằm nghĩa trang quê nhà còn
một nhúm xương tàn lẫn lộn...". Lão nhăm nhó "Tôi nhớ rồi, cái
đêm ấy,... anh Nghĩa,,, tôi với anh nằm chung một giường bệnh...".
Người đàn ông buồn: "Đêm ấy... Lúc ta đi... định chào và
nhắn gửi chú em một câu... chú em ngủ say quá... ta không nỡ đánh thức... Người
lính trận, có được một giấc ngủ ngon là quý vô cùng... Nay gặp lại chú thế
thôi. Ta đi đây.... À, lời ta định nhắn chú cái đêm ấy, ... chưa kịp, nay tiện
nói, đời con người ta ấy mà, cũ mèm, chẳng có gì lạ cả, nhưng cũng luôn mới...
cười... cứ như ta đây, kể từ khi hai ta tình cờ gặp nhau ở binh trạm, ... Còn
ta vẫn thế, không cũ mà chẳng mới...Người chết muôn năm chẳng đổi...".
Người đàn ông quay người trở ra, thoảng mất hút... Lão còn chưa kịp chào...
Choảng tỉnh giấc, định thần, thì ra lão vừa chợp mắt. Trong ánh đèn ngủ, thị
vẫn nằm cạnh lão, mái tóc xoăn của thị xòa trên gối, chạm nhẹ vào má lão...
Trong bóng chiều chạng vạng, Chính được đưa đến một trạm
y tế ở vùng giáp ranh thuộc đất Quảng Bình biên giới Việt Lào. Chính bị vết
thương phần mềm, lại thêm sốt rét. Gian bệnh nhân có vài chục người, chật chột.
Chính được xếp nẳm chung với một bệnh binh sốt rét nặng, đoán chừng hơn Chính
vài tuổi. Anh ta sốt rét nặng. Lúc chập tối, anh ta còn tỉnh, hai người hỏi han
tên tuổi, quê quán và gia đình của nhau. Đêm ngủ, Chính nằm úp thìa, trong cơn
thức ngủ chập chờn, quờ tay ôm lấy anh ta, rồi thiếp đi,,, Mờ sáng, nghe chim
hót, tỉnh ngủ, thấy anh ta vẫn nằm nguyên tư thế cũ, lay gọi thì thấy người anh
ta lạnh toát, đã mất từ lúc nào chẳng biết... Sau này, suốt chặng đường quân
ngũ, cho đến thời bình mãi sau, Chính vẫn nhớ về cái đêm ấy mình đã ôm người
chết mà ngủ. Ngày ấy. chẳng biết sợ là gì, lạ thế !... Lão cho rằng mình may
mắn hơn người lính tên Nghĩa kia vì được ở lại cõi đời này...
Lão thao thức không ngủ lại được. Bao hình ảnh thời lão
là lính chiến hơn nửa thế kỷ trước chen nhau xuất hiện trong đầu lão, nhưng đều
dồn tụ về cái đêm binh trạm lão ôm cái xác người bệnh binh tên Nghĩa mà ngủ. Kề
bên lão, thị ngủ ngon lành sau cơn thỏa mãn xác thịt. Lão quờ tay chạm nhẹ và
vuốt ve cái eo săn chắc và cặp mông nở của thị. Chợt lão cảm nhận hơi lạnh nơi
bàn tay mình từ thân thể thị. Ý nghĩ chợt lóe, sao lạnh thế này, chẳng lẽ thị
sướng quá mà đi luôn à?... Chỉ có người chết thì thân thể mới lạnh chứ. Lão ớn
lưng, đưa ngón tay để hờ sát mũi thị, hình như hơi thở mong manh... Lão vội lay
vai thị, thị ứ hự, trở mình. Lão mừng, thị vẫn sống nhăn, chỉ ngủ sâu thôi. Lão
nhìn đồng hồ, mới hơn 2 giờ sáng, bèn nằm xuống. Thị tỉnh ngủ, xoay người úp
mặt vào lão, tay luồn xuống, chạm vào hạ bộ của lão... Vuốt ve, xoa nắn,
- Anh muốn nữa à?... Em đang ngủ say,... sao lay em dậy?
Muốn... em chiều,
- Ờ nãy anh muốn... nhưng giờ buồn ngủ rồi... Em ngủ thêm
chút nữa đi...
Thị giữ nguyên bàn tay ấp lên cái của lão khiến nó gật
gù, lên xuống... Lão nằm yên trong khi thị thiếp đi... Ý nghi lại miên man quẩn
quanh miền ký ức xa vời do giấc mơ vô tình đánh thức. Sáng năm ấy, lão như
người vô hồn trân trân nhìn người ta khiêng thi thể nằm nghiêng cong như dấu
hỏi của người bệnh binh ấy đi. Lão tự nhủ, đến khi nào thì người ta cũng khiêng
thân xác lão như này... Vậy mà lão sống nhăn răng, qua trận này, trận khác,
đằng đẵng thêm nữa thế kỷ trôi qua cho đến giờ phút này, vẫn còn sức hưởng lạc
thú, đủ để ngộ ra cái triết lý cũ và mới của cuộc đời mỗi con người ta...
Gà gáy sáng. Lão choàng tỉnh. Thị nửa nằm nửa ngồi, bàn
tay lướt nhẹ mặt lão.
- Chết, mấy giờ rồi em? ... Anh phải đi thôi, kẻo muộn,
người ta thấy, lại phiền em.
- Mới hơn 4 giờ chút,... còn sớm mà anh... Em tính để anh
ngủ thêm chút nữa, đỡ mệt. Chừng 5 giờ anh dậy ra bến xe là vừa chuyến đầu
ngày...
Lão nhìn thị vẻ biết ơn. Lần đầu lão nhìn thị đầy thiện
cảm, không phải cái nhìn của kẻ chinh phục, chiến thắng. Khác với Tú Trinh, chỉ
biết chiếm hữu, thị vừa chiếm hữu vừa dâng hiến. Lão cảm động và biết ơn thị vì
điều đó. Cho dù nay mai thế nào, chốc lát hay dài lâu, thị vẫn là món quà mà
trời đất ban tặng cho lão, lão phải biết quý trọng điều đó...
Lão nhẹ nhàng đặt thị nằm xuống. Lại nhẹ nhàng trườn lên
người thị, mặc dù thị chẳng dám đòi hỏi thêm. Thị nhìn lão, ánh mắt hàm ơn.
Uyển chuyển và quyết liệt, lão làm cho thị oằn oại, rung chuyển, rưng rưng
khoái cảm và cảm kích... Thị chẳng thể biết một bí mật, thời trai trẻ, lão từng
bị chứng thiểu năng sinh lý, rất khó xuất tinh, may nhờ người vợ là nhân viên y
tế có kinh nghiệm trong lĩnh vực này tận tình chữa trị cho lão. Khi thị và lão
rời nhau ra, cả đôi cũng mệt lả, dù lão chẳng xuất gì nhưng sức già cũng đến
thế là cùng. Cả đôi thiếp đi ,...
Thị đánh thức lão dậy. Chậu nước ấm thị bưng vào sẵn, lão
lau rửa qua người. Quần áo chỉnh tế, lão theo thị ra phòng ngoài. Đĩa trứng gà
chần và cốc sữa nóng.
- Anh ăn lót dạ, đỡ đói mệt.
Thị ngối đối diện nhìn lão ăn, gương mặt âu yếm và tràn
đầy hạnh phúc. Lão chợt nhận ra, chỉ qua một đêm, thị như trẻ ra dăm bảy tuổi.
Lão dùng điểm tâm, vừa nghĩ, thị cho lão ăn uống kiểu này chẳng khác tiêu chuẩn
suất ăn của lợn đực giống sau khi đi phối giống... Lão xuýt buột miệng đùa thế
nhưng kịp nuốt lại, miệng cười nhẹ. Hình như thị cảm nhận được, suy đoán
- Anh cười gì đấy?... chớ trêu em nhé,...
- Ngon bổ mà... Anh cảm ơn em nhiều lắm... về mọi nhẽ,...
Thị bảo, thị biết ơn lão mới đùng, cả đời con gái, đàn bà
của thị, chưa bao giờ thị sung sướng, thỏa mãn, như lão vừa mang đến tận nhà
ban tặng cho thị. Cứ đùn đấy, cuối cùng lão phán, cả đôi mạng niềm vui, hạnh
ngộ cho nhau thị mới thôi. Con người ta, hễ đem niềm hạnh phúc cho nhau là quý
rồi, đúng sai, phải trái hậu xét,.. Cứ như lão và thị đây, dễ gì có được, chiến
tranh ác liệt thế, mà không cướp được của lão sự sống, ấy là số phận, thì niềm
hạnh ngộ với thị, ấy là duyên phận định trước...
Lão lách qua khe cổng mở hẹp nhà thị luồn ra ngoài lúc
trời mờ mịt sương sớm. Thị vội khép lại cài theo đóng khóa ngay. Mặc dù thị làm
rất nhẹ vì không muốn ai biết song lão vẫn nghe rõ cả tiếng khóa bấm
tách. May là ra khỏi ngõ, đến đường lớn, lão không gặp một ai. Vậy là không ai
biết về sự có mặt của lão ở nhà thị suốt đêm qua. Thị vẫn có thể an tâm, không
ngại điều tiếng gì. Lúc này, không biết thị đang làm gì? Có lẽ thị bận gấp gọn
chăn gối, dấu tích của những trận mây mưa đêm qua, và rửa bất đĩa tồn từ tối
qua. Thị có chút băn khoắn là cho đến lúc ăn nằm với nhau, thị mới biết là lão
vẫn đang sống cùng vợ. Như vậy, liệu thị có phải là "con giáp thứ mười
ba" như cách nói ngoài đời hiện nay? Về câu hỏi, liệu lão và thị
còn gặp gỡ nhau nữa không, cả hai đều né tránh, bời chẳng thể đoán định điều gì
sẽ xảy ra với mỗi người...
Lão lững thững đi bộ trên con đường đê ra bến xe, lũ tiểu
mãn đang về, nước sông lên to sau mấy trận mưa tàn xuân đầu nguồn,... ./.
Sầu Chiêu Quân
“Thiên
tải tì bà tác hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung luân”
(Đỗ Phủ)
Sau khi Thái giám đến cung Vĩnh Xuân
triệu cung phi Hằng Nga đi để Mao Diên Thọ vẽ tranh dâng lên Hán Nguyên Đế, Chiêu
Quân ngồi tư lự mãi bên cửa sổ. Nàng ngắm nhìn hàng dương liễu rũ mượt mà rồi
đưa bàn tay ngà ngọc khẽ vuốt lên làm tóc mây của mình và thở dài. Nàng vào
cung đã hơn năm nay, đêm nào cũng lạnh lẽo, để rồi sớm mai lại bắt đầu trang
điểm đón một ngày mới chờ được quan Thái giám gọi đi. Được ngồi để Mao Diên Thọ
vẽ là may mắn lắm rồi. Như vậy, mới mong có ngày được Hoàng thượng lâm hạnh,
còn được sủng ái ư, chẳng cung phi nào dám màng. Với riêng nàng, Chiêu Quân
chưa bao giờ mong mỏi được nhà Vua lâm hạnh, song nàng lại nghĩ, chẳng lẽ mình
cứ mòn mỏi đến chết già nơi thâm cung lạnh lẽo này ư? Tên cung là mùa xuân vĩnh
viễn, nhưng với nàng, nó chỉ là nơi giam hãm tuổi xuân. Với nàng, mùa xuân là
cỏ nội, đồng quê nơi thôn dã êm đềm nép bên dòng Trường Giang cuộn chảy ở quê
nàng. Nơi có cha mẹ và các em nàng, nơi có chàng nông phu vạm vỡ, thỉnh thoảng
dừng tay cày nhìn trộm nàng một cách tình tứ mỗi khi nàng mang cơm ra đồng cho
cha… Ước gì nàng được chạy chân trần trên thảm cỏ đẫm sương, được thơ thẩn ngắt
hoa dại ven sông mỗi khi nàng đi giặt! Mùa xuân là như thế, chứ đâu phải cái
cung như một cỗ quan tài khổng lồ được sơn son thiếp vàng này.
Nàng
trở lại ngồi trước gương. Nàng ngắm nhìn mình và tự bằng lòng với từng đường
nét, từng chi tiết trên khuôn mặt, mái đầu và thân hình của mình. Nàng tự biết,
trong năm trăm cung tần ở đây nàng là người đẹp nhất. Thế mà, hàng đêm, các
cung phi theo nhau được nhà Vua lâm hạnh, riêng nàng thì không. Nàng nghe các
cung phi đồn nhau rằng, phải có tiền lót tay cho Thái giám, khi ấy họ mới cho
gọi để được đưa đến Mao Diên Thọ vẽ hình, rồi sau đó lại phải lót tiền vào tay
Mai Diên Thọ để hắn ta vẽ hình mình thật đẹp và quyến rũ, lúc ấy nhà vua xem
hình thấy ưng, mới cho triệu tời long sàng. Chao ơi, để được chút ơn mưa móc của
nhà vua sao mà cay đắng thế. Cả đám phi tần biết thế nhưng chẳng ai dám kêu ca,
chỉ âm thầm nén chịu, hi vọng một ngày nào đó sẽ sinh ra hoàng tử. Chiêu quân
không như họ. Nàng không được sống cùng với cha mẹ, không được tự do yêu chàng
nông phu nơi thôn dã quê nàng, thì bây giờ ở trong cung điện vàng son để chờ
một ngày nào đó được nhà vua lâm hạnh, chẳng khác gì bị tù hãm. Đời nàng xem
như là bỏ đi. Song nàng vẫn có cái tự kiêu ngầm của riêng nàng, bởi bị bỏ rơi,
cũng đồng nghĩa với việc nàng bị coi là nhan sắc tầm thường. Bản năng đàn bà
trong nàng trỗi dậy, chẳng lẽ một trang sắc nước hương trời như nàng lại bị xem
là thứ tầm thường bỏ đi sao! Với bọn Thái giám thì nàng biết là đám người tham
lam, độc ác, nàng sẽ lót tay cho chúng, còn với Mao Diên Thọ thì nàng không tin
là người như vậy, bởi chàng ta là nghệ sĩ. Nàng không coi nghệ sĩ là người tốt,
song nói chung họ tầm phào và chẳng tâm địa ghê gớm gì, bụng dạ họ có thể tin
được, mặc dù họ yếu đuối và nửa với tới mức chẳng giúp được ai…
Và
thế rồi, nàng cũng làm được mọi chuyện. Một buổi sáng, nàng vừa trang điểm xong
thì Thái giám đến, đọc to tên nàng. Trước mặt các cung tần, nàng ngạc nhiên
lắm. Nàng liếc nhìn gã Thái giám thì bắt gặp cái nhìn đắc thắng của gã – “mi
tưởng mi đẹp là đủ à, cuối cùng thì cũng phải nhờ đến tay ta”. Nàng muốn hét
thật to vào bộ mặt đểu cáng của gã, nhưng làm như thế sẽ hỏng việc. Nàng được
gã Thái giám đưa đến một căn phòng rộng, ở đó chỉ kê một bàn sách và có một
chiếc ghế để cung phi ngồi. Ngồi trước bàn sách là một chàng thư sinh. Nàng
hiểu ngay người đó là Mai Diên Thọ. Chàng ta rũ người vẻ chán nản. Thái giám
đánh tiếng làm chàng ta giật mình, nhưng rồi vẫn như không để ý gì đến, Mao
Diên Thọ hỏi Thái giám: “Ngài đã đưa người đến rồi đấy hả?”. Rồi phảy tay về
phía nàng: “Ngồi đi! Ngồi đi! Chịu khó chờ ta pha màu chốc lát”, và sau đó cắm
mặt xuống bàn mải việc pha màu. Chiêu quân khẽ ngồi xuống ghế, quan sát bộ dạng
họa sư Mao Diên Thọ. Vì có chủ động rồi nên nàng không ngần ngại. Nàng thấy Mao
Diên Thọ không có vẻ của con người tham lam như đám cung phi đồn. Và dường như,
chàng ta chẳng thiết gì cái công việc mỗi ngày phải chầu trực ở trong cung để
họa hình một mĩ nữ dâng lên nhà Vua. Cứ nhìn thái độ, nhìn cử chỉ chàng mài
mực, pha màu là thấy được điều đó. Nghĩ thế nhưng Chiêu quân vẫn băn khoăn,
không biết mình có cần phải lót tiền cho Diên Thọ để được bức hình đẹp làm mê
mẩn Hán Nguyên Đế hay không?
Diên
Thọ ngẩng lên nhìn vào nàng và bảo: “Nào ta bắt đầu. Xin cô nương chỉnh lại
xiêm y”. Và chính vào thời khắc ấy, mắt hai người dọi vào nhau. Nàng nhận thấy
rất nhanh vẻ chán chường trên khuôn mặt và cái nhìn của Diên Thọ chuyển biến từ
ngạc nhiên đến chân tình, âu yếm. Nàng xốn xang cả người. Nàng đẹp là thế nhưng
ngoài cái nhìn của chàng nông phu quê mùa và Diên Thọ ra là chân tình, còn lại
nàng chỉ bắt gặp những cái nhìn ganh tị và ghẻ lạnh, hoặc cao đạo của người
khác. Diên Thọ lắp bắp: “Cô nương … xin cô nương hãy nương nhẹ tấm thân ngà
ngọc, để Diên Thọ này được vinh hạnh chiêm ngưỡng mà họa bức hình tuyệt nhất
trong cuộc đời làm họa sư của mình, và nàng cũng hiểu nếu mình chỉ khẽ lộ ra
việc đút lót là Diên Thọ sẽ không còn nhìn nàng ngưỡng mộ như thế nữa. Nàng trở
lại vẻ u buồn vốn có của mình, nhưng trong lòng, một cảm giác lâng lâng dễ chịu
lan tỏa. Nàng có thiện cảm với Mao Diên Thọ. Nãng cũng hiểu là tại sao Diên Thọ
lại khó tính với các cung phi khác, bởi có lẽ chàng phải lọc ra từ cái sự uốn
éo, yểu điệu thái quá đến kệch cỡm của họ để mà họa thành hình miễn sao cho Hán
Nguyên Đế vừa mắt. Chàng không được phép sơ suất, vì sự sơ suất sẽ biền thành
tội khi quân phạm thượng. Diên Thọ
làm việc miệt mài, mồ hôi đọng thành giọt trên trán, trên má chàng. Một nỗi
thương cảm dâng lên và nàng thấy Diên Thọ thật xứng là một trang tài hoa, anh
tuấn. Ở quên, Chiêu quân chỉ được tiếp xúc với các chàng nông phu chất phác,
cục mịch. Vào cung, ngoài bọn Thái giám tham lam nửa người nửa ngợm và tụi lính
ngu ngộc, hợm hĩnh, hầu như nàng không được tiếp xúc với một người đàn ông nào
khác. Còn Hán Nguyên Đề thì xa với như ở mãi trên chín tầng trời, nàng chỉ được
nghe đám cung phi kể lại và chắc là thêu dệt nhiều lắm. Nàng không ham, không
mong đợi ơn mưa móc của đấng cao sang tối thượng, vì nàng nghĩ, chút trinh
nguyên của nàng chẳng là gì khi đấng thiên tử kia cả đời đắm chìm trong bể tình
ái, hoan lạc. Tự nhiên, nàng nghĩ, giá như mình được dâng hiến tấm thân ngọc
ngà của mình cho chàng họa sư tài hoa phong nhã kia. Ý nghĩ ấy đến chớp nhoáng,
làm nàng đỏ mặt. Mãi nghỉ ngợi, lúc này Chiêu quân mới để ý đến Diên Thọ và
nàng thấy hình như họa sư đã hoàn thành bức họa hình, chàng ngồi thừ, hết nhìn
bức họa, lại nhìn nàng, thầm so sánh giữa người bằng xương bằng thịt và bức họa
hình – ai đẹp hơn ai! Nàng định cất lời thì nhận thấy khuôn mặt Diên Thọ sầm
lại. Rồi chẳng nói chẳng rằng, chàng vơ bức họa vò nhàu trong đôi tay, và lầm
lì bắt đầu họa lại. Chiêu quân phỏng đoán rằng bức họa không được và nàng ngầm
kiêu hãnh: “Vẻ đẹp của ta, dễ gì lột tả được!”.
Nàng
đã mấy lần thay đổi tư thế ngồi mà Diên Thọ vẫn chưa xong. Dường như chàng
lưỡng lự điều gì, băn khoăn lắm mà mày chau, môi bậm? Có lẽ trời đã tròn bóng.
Chiêu quân đoán vậy bởi nơi thâm cung âm u này làm gì thấy được mặt trời. Thái
giám cũng đã vài lần ló đầu vào nhưng thấy Diên Thọ chưa họa xong nên lại thôi.
Chiêu quân linh cảm thấy một điều gì đấy ong nàng không tài nào định hình được.
Lồng ngực àng phập phồng khác thường dưới lớp xiêm y, bới trái tim nàng loạn
xạ. Nàng cố dùng hơi thở nén sự khác lạ cứ trồi lên trong lòng mình!...
Diên
Thọ buông bút vẽ xuống bàn, ngả người ra phía sau, mắt hướng lên cao. Sau hồi
lâu như vậy, Diên thọ nhìn nàng bằng cái nhìn không còn thần sắc: “Diên thọ này
vô duyên, bất tài nên không tài nào truyền nổi vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng
thành của cô nương ra mặt lụa, nên đành quấy quá cho xong. Lỡ sau này, cô nương
không được Hoàng thượng sủng ái thì lối là ở kẻ bất tài này cả… nhan sắc của
Chiêu cô nương thật chim sa cá lặn mà Diên Thọ này không lưới trong tay… Có mấy
lời gọi là để tạ lỗi trước với cô nương!...”. Nói rồi Diên Thọ rời bàn sách,
vái Chiêu quân một vái và cúi đầu. Chiêu quân bất ngờ, lúng túng không biết xử
trí thế nào. Nàng vội vàng đứng dậy, thì chẳng may xiêm y của nàng bị móc phải
một họa tiết trên tay ngai của ghế, làm rách vải.
Thái
giám vào, lấy bức họa và đưa Chiêu quân về cung Vĩnh Xuân. Vì xiêm y bị rách,
nên nàng đi đứng khép nép khác thường. Trước khi rời khỏi thư phòng, nàng khẽ
liếc nhìn Diên Thọ và nàng bắt gặp cái nhìn thiểu não của chàng. Dọc đường về
cung Vĩnh Xuân nàng cứ bị ám ảnh bởi cái nhìn lúc chia tay của Diên Thọ. Trong
sắc thái thiểu não của gương mặt, của ánh mắt chàng, nàng nhận tháy vẻ đắm đuối
tình ái…
Chiêu
quân linh cảm rằng, nàng sẽ chẳng bao giờ được nhà Vua vời đến. Nàng cũng không
nghi ngờ gì việc Diên Thọ không có tiền hối lộ mà vẽ nàng xấu đi. Nàng không
thấy tiếc vì không được biết mặt Rồng,
song nàng cũng thấy tự ái. Sau mấy tháng được họa hình dâng vua mà không được
gọi, đám cung phi ở cung Vĩnh Xuân bắt đầu bóng gió, cay độc nàng, xem như từ
trước đến nay, nàng là người huyễn hoặc, cứ tự mãn về một nhan sắc ảo tưởng của
mình. Những lúc bị cạnh khóe như vậy, lòng nàng sôi lên và nàng thấy giận Diên
Thọ lắm. Lúc bình tĩnh, hồi tâm lại, nàng thấy nhớ và mong được gặp lại con
người tài hoa ấy. Diên Thọ đã chẳng tạ lỗi với nàng trước là gì. Có một điều làm
nàng băn khoăn, thắc thỏm là bức họa đầu tiên mà Diên Thọ vò đi. Chàng ta vẽ
gì, và nếu vẽ nàng thì đẹp hay xấu? Những đêm thao thức không ngủ được, nàng
thường nghĩ về điều đó. Phải chăng Diên Thọ mê nàng? Chàng ta đã giữ bức họa ấy
cho riêng mình? Dễ lắm chứ! Người đẹp như nàng thì đến Hán Nguyên Đế dù đã hàng
ngàn mĩ nữ qua tay, có nhìn thấy cũng phải mê, nữa là chàng. Bằng chứng là vẻ
không bình thường và cái nhìn đắm đuổi của Diên Thọ. Mà sao nàng lại không nghĩ
về nhà Vua mà chỉ nghĩ về chàng họa sư tài danh? Nàng cũng yêu thầm con người
ấy rồi sao?
Và
một ngày đầu hè, những cây lựu trong vườn cung Vĩnh Xuân đâm bông lập lòe, cung
phi Lưu Yên được gọi đi họa hình, khi trở về, nhân lúc thanh vắng đã gọi Chiêu
quân ra một nơi, dúi vào tay nàng một mảnh lụa bạch, bảo là Diên Thọ nhờ chuyển
cho nàng. Nàng thất sắc, vội vàng mở xem thì ra đó là một bài thơ Diên Thọ viết
tặng nàng. Nàng kinh hoàng, bở như vây, cả Diên Thọ và nàng đều đã phạm vào tội
khi quân phạm thượng, đáng xử trảm cả
ba họ nếu như bị bại lộ. Nàng hốt hoảng đốt ngay mảnh lụa đó, để phi tang. Lưu
Yến kể với nàng rằng, khi cô ta định đưa tiền hối lộ để Diên Thọ vẽ cô ta đẹp
hơn thì chàng kiên quyết từ chối và chỉ nhờ cô ta đưa bào thơ này đến tận tay
Chiêu quân và thề với trời đất rằng không bao giờ tiết lộ chuyện đó.
Sau
sự việc ấy, cứ đêm đêm là nàng mất ngủ vì lo chuyện bại lộ. Nàng không sợ chết,
nhưng nàng lo liên lụy đến họ hàng gia tộc mình. Tuy nhiên, từng lời, từng chữ
bài thơ của Diên Thọ âm vang và ngân nga trong đầu nàng, dịu ngọt, ru nàng vào
giấc điệp sau những giờ khắc lo âu:
Người đâu từ cung Quảng xuống trần
Mặt ngọc, được một lần chiêm ngưỡng
Mỹ nhân đã thuộc về đấng quân vương
Đành ôm mộng
tình xuống tuyền đài
Chiêu quân vừa sung sướng, vừa lo sợ
trước mối tình nồng nhiệt của Diên Thọ. Việc lén gửi thơ cho nàng qua người
khác, điều đó chứng tỏ chàng biết trước và chấp nhận cái chết nếu sự việc bại
lộ. Điều đó khiến nàng xúc động đến tận tâm can và trong lòng xúc động ấy nàng
nghĩ, giá có phải chết thì mình cũng cam lòng vì được một con người tai hoa nổi
danh yêu thương.
Rồi
một chuyện chấn động cả cung đình, làn vào cung Vĩnh Xuân, làm đám cung phi
không ngớt bàn tán, đó là việc chúa Hung Nô ở phía Bắc sau nhiều năm quấy rối
biên cương, đánh xuống Trung Nguyên, nay giảng hòa, cử sứ thần vào chầu Hán
Nguyên Đế, xin được ban thưởng mĩ nữ Trung Nguyên về làm vợ. Vua Hán đã hứa ban
cho chúa Hung Nô năm cung nữ trong hậu cung của ngài. Các cung phi trong cung
Vĩnh Xuân đều lấy làm lo sợ việc ai sẽ là người bị ban gả cho chúa Hung Nô. Mọi
người đồn nhau xứ đó con người sống còn mọi rợ lắm, luật lệ lại hà khắc, sơ
xuất là bị tội, nếu không thì cũng chết giá, gửi xương nơi đất khách quê người.
Các
cung nữ đã từng được nhà vua lầm hạnh thầm yên tâm vì mình được vua yêu và biết
đâu mình sẽ sinh ra cho nhà vua một hoàng tử. Nhiều con mắt đổ dồn về Chiêu
quân, người đã được họa hình song không một lần được nhà vua đoái hoài tới.
Những con mắt đố kỵ nhìn Chiêu quân như rủa rằng: “Ngươi cứ tự mãn về nhan sắc
của ngươi đi rốt cuộc thì người cũng chỉ đáng hầu hạ cho quân mọi rợ”. Chiêu
quân cũng linh cảm thấy mình sẽ là một trong số năm người phải mang cống chúa
Hung Nô. Trong nàng nảy sinh những tình cảm trái ngược nhau. Nàng đã thầm yêu
người họa sư tài năng và không muốn phải xa rời quên cha đất tổ sống kiếp tha
hương nơi xứ sở hoang mạc xa lạ, phải làm thiếp hầu cho vị chúa tể vốn nổi
tiếng là hung bạo và hiếu sắc. Mặt khác, nàng lại muốn dấn thân vào cõi ấy, nếu
có khổ ải thì mình nàng gánh chịu, còn như ở lại cung của Hán Nguyên Đế, nhỡ ra
một ngày nào đó, chuyện Mao Diên Thọ tư tình và tặng thơ nàng lộ ra thì không
những hai người mà cả ba họ của cả hai phải rụng đầu. Nàng nung nấu, đắn đo
suốt từ khi tin dữ bay vào cung Vĩnh Xuân. Mặt ủ mày chau, thân hình rũ xuống
và trong bộ dạng như vậy, nàng càng đẹp, càng quyến rũ hơn, tổ trêu ngươi tụi
thái giám và đám cung phi mà thôi. Ngẫm nghĩ kỹ rồi và nàng quyết chí ra đi,
rời khỏi cùng Vĩnh Xuân nghĩa là thoát được cảnh tù hãm, còn sau đó ra sao nàng
sẵn sàng chấp nhận, kể cả cái chết. Nàng mang điều đó nói với gã Thái giám. Gã
ta bảo nàng rằng nàng như thế là biết điều và sẽ được nhà vua ghi công, thưởng
chp họ hàng gia đình nhà nàng, song mắt gã thì lại ngầm nói “ Đáng đời nhà
ngươi, đồ tự mãn đang ghét. Dù ngươi không tự nguyện thì ta cũng sẽ tâu với
hoàng thượng đẩy ngươi vào xứ rợ đó”.
Trước
ngày rời Trung Nguyên về đất Hung Nô, Chiêu quân chỉ có một ước mong duy nhất
là được về thăm cha mẹ, quê hương bản quán và thêm nữa, nàng được gặp mặt Diên
Thọ, hoặc không thì bằng cách nào đó có đôi lời với chàng để đáp lại ân tình
của chàng và cũng là nói lời vình biệt, hẹn kiếp sau tri ngộ cùng chàng. Nhưng
về thăm quê thì chẳng bao giờ được, còn gặp chàng thì nguy hiểm lắm, vả lại,
nhờ ai bây giờ?
Chiêu
quân và bốn cung phi khác được gọi đến gặp mặt nhà vua trước ngày về Hung Nô.
Mỗi bước nàng đi, nỗi sầu càng tê tại. Nàng không còn cảm giác hồi hộp được gặp
mặt Rồng mà chỉ còn nỗi đau sắp phải xa quê hương, xa người yêu dấu. Hán Nguyên
Đế không khác tưởng tượng của nàng bao nhiêu về nhà vua, là người nhu nhược và
thiếu quyết đón, tốt bụng song dễ nghe lời xiểm nịnh. Sau khi được nhà vua cho
bình thân, nghe ngài phán bảo, nàng đứng đấy mà hồn ở tận đẩu đâu. Hình như nhà
vua căn dặn các cung phi rằng về đất Hung Nô, phải tận tâm phục vụ chúa Hung
Nô, giữ gìn mối bang giao giữa hai nước, đó là công lớn và công ấy nhà vua sẽ
ghi nhận cho gia đình được hưởng, chớ làm việc gì bất cẩn mà để xảy ra chuyện
lớn thì nhà vua sẽ không tha… Với Chiêu quân, những lời ấy chì như gió thoảng
đâu đâu. Chợt nàng giật mình bởi lời ám chỉ của vua Hán: “Có nghe rõ lời ta căn
dặn không?’. Nàng nhìn thẳng vào mắt nhà vua và khẽ rùng mình bởi một sự cảm
nhận đến tức thì, sự cảm nhận giới tính của một người đàn bà đẹp luôn được
người khác chiêm ngưỡng, si mê. Và nàng mụ mị người đi bởi uy lực của nhà vua,
đầu nàng như ù đi, tai nàng loáng thoáng nghe được lời nhà vua khen nàng là một
trang tuyệt thế giai nhân, rồi tỏ vẻ luyến tiếc, tại sao có mĩ nữ đẹp mê hồn
như vậy trong hậu cung mà ngài không được biết. Nhà vua hỏi quan Thái giám, thì
quan Thái giám đổ rằng biết Chiêu quân là người đẹp gọi đi họa hình, nhưng
không hiểu Mao Diên Thọ họa như thế nào mà không thấy nhà vua cho triệu đến lâm
hạnh. Vua Hán nổi giận quát mắng Thái giám và sau đó phán rằng hãy lưu giữ
Chiêu quân lại, tìm cung phi khác thay thế. Sự tình thay đổi làm Chiêu quân rối
bời không biết thưa thốt ra sao, đành cúi đầu chờ số phận an bài. Thế rồi, vua
Hán cũng nguôi giận, khi Thái giám thẽ thọt tâu rằng việc đổi cung phi khác thay
cho Chiêu quân nếu như lọt ra ngoài để chúa Hung Nô biết được, sẽ cho rằng nhà
vua nuốt lời hứa, tiếc rẻ một mĩ nữ, phá hỏng hòa khí giữa hai nước, khó tránh
khỏi nạn binh đao xảy ra. Nhà vua nghe ra và chuẩn tấu, cho nàng cùng bốn cung
phi khác lui, đưa về cung biệt lập với sự canh phòng cẩn mật của lũ thị vệ, đề
phòng bất trắc, sớm hôm sau lên đường đi phương Bắc.
Đêm
ấy, đêm cuối cùng ngủ ở kinh đô. Những cung phi kia thở vắn than dài, rồi sụt
sùi khóc lóc. Riêng Chiêu quân, nàng lặng thầm nuốt nước mắt vào trong. Đầu
nàng hết nóng ran lại lạnh ngắt. Bao ý nghĩ đổ dồn đến, kể cả ý nghĩ tìm đến
cái chết… Và ở vào đúng thời khắc ấy, đầu nàng âm âm như có một làn sóng âm
thanh tuôn chảy, rồi những lời lẽ, ý tứ theo nhau hiện ra…
Quê hương xanh xanh một dải
Dòng Trường Giang quằn
quại uống mình
Những thửa ruộng tưới bằng
mồ hôi
Lưỡi cày với lên những
xương người và cán giáo gãy
Những giọt nước mắt chinh
phụ vắng chồng ướt đẫm suốt tơ
Còn ở đây, trăng kinh
thành lạnh lẽo
Chùm lên thành quách, lâu
đài thứ ánh sáng ma chơi
Làm lạnh buốt nỗi đau mỹ
nữ
Làm sắc bén lưỡi kiếm quân
vương
Làm u tối mưu mô, chước
quỷ
Làm mê muội những kẻ si
tình
Chỉ sớm mai thôi, mặt trời
thức giấc
Tất cả chỉ là ảo ảnh kiếp
người
Tan biến phía sau lưng
người lên chân lên phương Bắc
Chìm vào giữa hoang mạc
mênh mông
Đâu là cạm bẫy, đâu là
trầm luân?
Đâu là ruột rà, đâu là ân
oán?
Sầu nhân thế làm núi mòn,
bể cạn
Người ra đi héo hon, kẻ ở
héo hon chăng
Nàng
thổn thức và thiếp đi trong mộng mị. Có biết đâu, cũng trong đêm ấy, chàng họa
sư tài danh Mao Diên Thọ đứng ngồi không yên, bồn chồn lửa đốt ở một cung khác
trong kinh thành, không biết phải làm gì, ngoài thở than và nốc rượu, chờ trời
sáng…. Đám giai nhân phải lay mãi Diên Thọ mới mở đươc mắt, sau hồi lâu ngơ ngác,
chàng mới chợt nhớ ra là mình cần phải dậy sớm đón đường với hi vọng được thấy
Chiêu quân lần cuối. Chàng hốt hoảng vùng dậy, vò đầu bứt tai kêu khổ, vừa vận
quần áo vừa lầm bầm mẳng mỏ đám giai nhân. Ngồi được lên ngựa thì mặt trời đã
lên được một con sào. Đến cửa Bắc kinh thành thì được biết đoàn hộ tống năm mĩ
nữ về đất Hung Nô qua đó từ lúc trời còn mờ sương. Than ôi cho kẻ mê muội và
bạc nhược, Diên Thọ cứ thầm nguyền rủa mình như vậy. Giá như không nốc rượu
triền miên cho vợi nỗi đau thì đâu đến nỗi ngủ quên, chậm trễ thế này. Diên Thọ
đành phải quay về, bởi sức vóc thư sinh và con ngựa còm của chàng, làm sao đuổi
kịp những cỗ xe tam mã truy phong của người Hung Nô trong nước mã hồi. Lòng
chàng gào thét: “Chiêu quân ơi, nàng có hiểu cho lòng ta!”.
Và
Diên Thọ không thể ngờ được, khi chàng vừa đặt chân tới nhà thì chàng lập tức
bị trói chặt, đưa giam vào ngục thất. Đám quân cấm vệ đã rình sẵn đợi chàng về.
Tin họa sư của triều đình là Mao Diên Thọ đã lén tư thông với cung phi Chiêu
quân, nhanh chóng lan ra khắp kinh thành. Kế đó, hàng loạt các cung phi khác,
trong đó có Lưu Yến đồng tố giác là Diên Thọ đòi hối lộ vàng bạc, mỗi khi họa
hình cho cung phi đều dọa là sẽ vẽ hình xấu ma chê quỷ hơn, buộc họ phải chấp
nhận. Thế là tội chồng thêm tội. Diên Thọ có phải chết ngàn lần mới may ra rửa
hết tội. Có ai biết đâu cho chàng, chỉ tự thâm tâm chàng biết với chàng, rằng
chưa bao giờ chàng lấy của ai một nén bạc, còn tình yêu với Chiêu quân thì
chàng thừa nhận. Nếu không đạt được mối tình ấy, chàng có chết cũng chẳng sao.
Sống trên cõi đời mà không có Chiêu quân bên mình thì chàng cũng coi là kiếp
sống thừa và như thế chẳng qua là tự đày đọa mình mà thôi.
Đêm
trước ngày bị đưa ra hành hình, Diên Thọ vật nài mãi, xin được người cai ngục
tốt bụng một chút sáp ong. Chàng đốt làm đèn, xé vạt áo tù làm toan, cắn tay
lấy máy vẽ chân dung Vương Chiêu quân trong cảm xúc cuồng loạn. Buổi sớm hôm
sau, quân cấm vệ vào ngục thất áp giải Diên Thọ đi hành hình thì họ thấy chàng
nằm co ro trên sàn nhà lạnh cóng trong cơn mê sảng, miệng lảm nhảm những câu gì
không rõ, còn đầu óc rối bời, quần áo rách bơm. Chàng ngửa mặt về phương Bắc mà
gọi tên Chiêu quân rồi vươn cổ chờ chém!...
Ở
vào thời khắc ấy, Chiêu quân vẫn còn nằm trên long sàng với vòng tay ôm ghì của
chúa Hung Nô, nàng giật mình thảng thốt nghe thấy tiếng gọi tên mình thoảng
trong không trung, bèn gỡ tay chúa Hung Nô, ngồi dậy bàng hoàng và định thần
xem mình đang ngủ mơ hay đã tỉnh? Và hôm ấy, nàng bồn chồn không yên. Rồi tin
dữ từ quan ngoại cũng bay về. Nàng biết chuyện Mao Diên Thọ đã bị xử tội chém
đầu vì khi quân phạm thượng lén tư thông với cung phi của vua. Vì nàng mà chàng
phải chết, hậu thế mất đi một danh họa tài ba. Đời nàng như thế còn gì nữa đâu.
Mặc dù được chúa Hung Nô nhất mực yêu thương, chiều chuộng nhưng chẳng bao giờ
mua được một nụ cười trên khóe môi. Nỗi buồn triền miên xâm chiếm hồn nàng.
Nàng chỉ còn mỗi việc là nối dài thêm khúc sầu nhân thế mà nàng đã nghĩ ra từ
trước buổi cất bước lên phương Bắc về làm dâu xứ Hung Nô xa xôi:
… Dù cách trở nhưng một lòng hướng về phương
Mỗi năm một lần gửi hồn
mình theo cánh én
Lại âu sầu chờ xuân sang,
én mang tin về
Quê nhà xanh xanh, dòng
nước mang mang
Liệu song thân có còn khỏe
mạnh, nhớ tới đứa con xấu số
Và hỡi ôi, nơi chín suối
chàng có thấu cho lòng thiếp
Chôn mối tính chàng trao
trong thân xác cô liêu
Xin chàng hãy nán lại, chờ
tiếp theo
Lệ cạn kiệt bởi khúc sầu
nhân thế
Không có chỗ cho quân
vương ích kỷ
Không có nơi cho những kẻ
lọc lừa
Khúc Chiêu quân này dành
nhân thế tình ai
Mai sau, mai sau, hỡi
người đời có thấu?...
Chiêu
quân có sinh hạ cho chúa Hung Nô một hoàng tử, nhưng nàng không còn đủ sức sống
trên cõi đời mà nuôi dưỡng con nàng. Nàng hóa thân vào vũ trụ, hóa thân vào
khúc nhạc và lời ca ai oán, vượt hoang mạc mênh mông về đất Trung Nguyên, về
bên dòng Trường Giang yêu dấu, nơi nuôi dưỡng tuổi thơ nàng. Trước khi khuất,
nàng không hề biết đến một bí mật, rằng chàng họa sư Mao Diên Thọ, sau khi bị
chém, được người quen đưa về tận quê chàng ở Đỗ Lăng chôn cất, khi thay quần áo
tẩm liệm cho chàng, người ta tìm thấy trong người chàng hai bức họa hình Chiêu
quân được chàng quấn vào thân mình. Một bức vẽ hình nàng trên lụa tốt, đẹp và
yểu điệu đến mê hồn, đó là bức chàng họa nàng đầu tiên và đã vò đi vẽ bức khác
xấu hơn để vua Hán chê nàng không cho vời, có như thế nàng mới trinh nguyên với
mối tình của chàng, và bức họa ấy chàng giữ cho riêng mình, cứ đêm đêm chàng mở
xem, thầm thì với bức họa những lời yêu đương say đắm. Còn bức nữa, chính là
bức chàng cắn tay lấy máu mà họa trên mảnh vài thô áo tù vào cái đêm trước ngày
bị chém. Bức họa bằng máu, dồn nén tâm trạng và sinh lực của chàng, nên khác lạ
và linh thiêng làm sao, và ở đó, người ta có thể hình dung được hết thảy tâm
tư, ý nghĩ của Chiêu quân những tháng ngày nàng sống nơi đất khách quê người…
THẤM
THOÁT THÁNG NGÀY
Thướng cứ đến cuối năm, tôi lại về quê
giỗ tổ. Quê tôi quen gọi việc giỗ chạp là việc họ. Vào ngày này, dù ở đâu xa
xôi đến mấy, hễ là con trai thì phải cố mà về. Vô phúc cho kẻ nào vắng mặt thì
đến tết cứ là hết ngày hết buổi đi xin lỗi khắp họ mà còn phải nghe không biết
bao nhiêu lời cạnh khóe, trách cứ. Vì thế mẹ tôi thường phải nhắc nhở tôi trước
hàng tháng, sợ tôi bạn công việc mà quên đi.
Làng tôi là một làng to, có từ lâu đời
lắm rồi. Cả làng to nhất họ Nguyễn. Cũng có vài ba hộ khác như họ Phạm, họ Hồ
song qua bao đời cũng chỉ lẻ tẻ vài mươi lăm suất đinh là cùng nên rất lép về.
Nhiều người trong các họ này phải xin cải sang họ Nguyễn.
Nghe đâu, triều Hậu Lê niên hiệu Cảnh
Hưng khi chúa Trịnh Sâm còn chấp chính, họ Nguyễn trong làng có một người tên
gọi Nguyễn Huy Quân đỗ đến tiến sĩ. Họ Nguyễn lấy đó làm vinh hạnh lắm. Chẳng
thế, lâu rồi có một người họ khác, nhân ngày giỗ tổ, sửa lễ xin cụ tổ họ Nguyễn
chứng giám để gia đình ông cải sang họ Nguyễn. Ông ta khấn bằng chữ nho, khi
khấn đến tên cụ tiến sĩ thì đọc nhầm Nguyễn Huy Quân thành Nguyễn Huy Điếu ( chẳng là về chữ Nho thì mặt chữ Quân và chữ
Điếu gần giống nhau nên người dốt chữ hay nhầm ), liền bị các cụ nọc ra
trước bàn thờ tổ đánh ba roi vì tội nhạo báng tổ tiên. Thực ra, đâu phải thế,
chẳng qua kẻ dốt thường hay khoe chữ.
Trong bữa rượu, mọi người ôn lại
chuyện cũ. Thường là chuyện vinh, chuyện nhục, cái ngang ngạnh, cái hèn đớn của
những người trong dòng họ hoặc dâu, rể của họ. Bao giờ cũng vậy, dòng nhà tôi
được xem như phát về đường học hành. Cho dù, chẳng phải đỗ đạt gì to tát mà chỉ
là có chút học vấn hơn người. Gần nhất là ông nội tôi hay chữ nổi tiếng trong
vùng nhưng mấy lần lều chõng đi thi cũng chỉ đậu đến tú tài nên dân quê tôi gọi
là Tú Đụp. Ông nội tôi chán chường, về nhà làm nghề gõ đầu trẻ. Học trò trong
vùng đến rất đông. Song không phải vì thế mà ông nội tôi nổi tiếng. Ông nổi
tiếng, vì một chuyện hoàn toàn khác.
Cổng nhà ông nội tôi có một gò đất nhỏ
mọc đầy hoa mào gà. Mọi người đồn ở đó có “cô
Yêu”. Đó là cách dân gian gọi thần
giữ của. Đồn rằng, khi đô hộ nước ta, các quan lại Tàu vơ vét được bao
nhiêu của cải, họ không dám mang về quê, mà để lại ở xứ cai trị. Họ thường chôn
giấu xuống đất, và chôn theo một người con gái đẹp còn trinh tiết và phù chú
thành thần giữ của. Không ai lấy được số của đó, trừ người chủ biết câu chú.
Người ta thì thào, những đêm đẹp trời trăng suông, cô Yêu thường đi chơi, quần
áo trắng tha thướt, nón thúng quai thao. Cô muốn cho ai thấy sự hiện diện của
mình là tùy cô. Trẻ con hễ đứa nào ngắt hoa, bẻ cành nơi cô ở là đêm về bị
bệnh. Không biết thì cô hành cho chết. Nếu biết, sửa lễ khấn, cô cho khỏi ngay.
Thấy vậy, một hôm, ông nội tôi bực
mình nói đổng rằng: “Chỉ có yêu quái mới đi chòng ghẹo trẻ con và đòi ăn khi
đói khát. Còn thần thánh không ai làm vậy. Có linh thiêng thì đêm nay hiện lên
cho thấy, ta xây miếu thờ, hương khói suốt đời”. Ngay đêm đó, vào tầm gà gáy
thứ nhất, khi đang ngủ, ông tôi cảm thấy có người nhìn vào mặt mình liền mở mắt,
thấy cô Yêu đang chống hai tay vào đầu giường nhòm thẳng vào mặt mình. Ông tôi
vội choàng dậy, gọi đám học trò ngủ ngổn ngang khắp nhà, chỉ cho họ thấy, song
chẳng ai nhìn thấy cô, ngoài ông tôi. Cô cứ đi thủng thẳng ngoài sân ra đến
cổng thì mất hút. Hôm sau, ông tôi cho gọi người đến xây ngay một ngôi miếu nhỏ
và từ đó tuần rằm nào cũng có hương hoa. Mọi người bảo cô Yêu phù hộ cho gia
đình ông tôi giàu lên nhanh chóng, công việc cấy hái, chăn nuôi đều được cả,
bởi thế, cha tôi mới có điều kiện ra Hà Nội học quốc ngữ, chữ Tây và học nghề
kiến trúc. Riêng ông tôi, thì từ đó luôn bị ám ảnh, hễ đặt lưng nằm lại có cảm
giác thấy người nhòm vào mặt mình, nên sinh tật mất ngủ. Ngoài bốn chục tuổi đã
mất. Ngôi miếu đó nay không còn nữa.
Sau cải cách ruộng đất, một người
nghèo trong làng do tổ điêu mà được chia phần đất có ngôi miếu ấy, tham của,
ông ta đã đào bới tung lên. Qua nhiều lần gạch xây vòm cuốn, lấy lên được mấy
cái vò, nhưng khi mở ra chỉ toàn lưỡi cày và liềm hái gỉ. Ít lây sau, người đó
đổ bệnh xì xằng, rồi bỗng một hôm thổ huyết mà chết. Còn đứa con trai, mãi sau
này cũng mắc bệnh giống như cha, rồi qua đời. Người làng lại đồn rằng, vì nhà nọ
phá nơi ở của cô Yêu nên cô hành cho kỳ chết, những mấy đời.
Khi nhắc đến chuyện này, mọi người
trong họ tôi lè lưỡi sởn gai ốc.
Cũng trong bữa tiệc ngày giỗ tổ ấy,
các vị cao niên họ Nguyễn còn nhắc đến vài chuyện khác có liên quan đến lịch sử
của làng.
Từ thuở lập làng, làng quê tôi cũng
nằm trườn theo một con sông nhỏ. Con sông này chẳng hiểu thiên tạo hay nhân
tạo. Ngay khúc sông chạy qua làng có một cái vực rất sâu. Nơi đó là hang ổ của
con giải, tương truyền, con giải là một loài động vật thủy sinh mà
nhiều người quen gọi là thuồng luồng. Chính con giải này đã nuốt mất người em
ruột của cụ thủy tổ khi hai anh em mới đến đây lập làng. Thấy người em phải
chết oan uổng vì con giải mà cụ thủy tổ đặt tên làng là Giải Oan. Con sông chảy
qua làng cũng mang luôn tên đó.
Thế nhưng, cụ thủy tổ làng lại không
được suy tôn làm thành hoàng làng. Chính người ở đợ chuyên chăn lợn cho cụ thủy
tổ khi cụ đã giàu có lại được suy tôn làm kẻ cả trong làng. Thuở ấy, khi còn
chuyên chăn lợn, vị thành hoàng thường nhân lúc rảnh rỗi khoét trúc làm tiêu
thổi giải sầu, lâu thành quen, đàn lợn chỉ nghe hiệu lệnh tiêu mà thành nếp.
Sau khi mất, được suy tôn làm thành hoàng, đàn lợn đó cũng thành vàng cả. Những
đêm gió mát trăng thanh, đàn lợn ấy thường kéo nhau đi liếm sương đã thấm đẫm
hương hoa. Nghe nói, thành hoàng rất thương người nghèo trung thực, thỉnh
thoảng người lại ban cho họ một con lợn vàng. Chính một người trong đám học trò
của ông tôi làm nhà trên phần đất xưa kia là chuồng lợn của vị thành hoàng, ông
ta rất chịu khó cúng lễ. Một buổi nọ, ông được thành hoàng báo mộng sẽ cho lợn
vàng. Nửa đêm, đàn lợn vàng chạy đầy sân nhà ông nhưng vì ông nổi máu tham lên,
cứ đuổi bắt con lợn đầu đàn to khỏe. song mãi không bắt nổi, đến lúc quay lại
tìm con lợn còi què quặt thì nó cũng biến mất rồi.
Ngay chiều hôm trước đó, ông ta đã
chửi rủa một người ăn mày và lừa họ bằng một bát cơm mà chỉ lớp trên là cơm còn
bên dưới toàn đất. Vì thế, thành hoàng phạt không cho lợn vàng nữa.
Chuyện đến tai, ông tôi bảo “Nhân ngãi
phúc đức không học. Ác giải, ác báo, như thế vẫn còn may”. Mãi sau này, đứa
cháu nội đích tôn của ông ta lại được hụt ngọc quí. Anh này nửa đêm trở dậy đi
tiểu tiện, bỗng thấy một vật to bằng quả trứng gà sáng quắc nằm ngay dười gầm cối
xay lúa ngoài hiên. Anh này mừng quá nhặt lên xem thử, thấy vật đó sáng long
lạnh và có vân ngũ sắc. Đoán là ngọc quí, vội cất vào túi rồi trở vào ngủ tiếp.
Gần sáng, anh ta trở dậy, gọi đứa con cho xem, nhưng khi lấy viên ngọc ra, để
trên lòng bàn tay thì chợt thấy nóng rãy, nơi tiếp giáp viên ngọc bỏng rộp, sau
thành sẹo như dấu chiện đóng vào.
Làng vừa có thành hoàng, lại vừa có cô
Yêu nên hay sinh chuyện. Hai vị này cũng đố kỵ nhau. Các cụ đồn rằng, có lần
gặp hạn hán, đồng ruộng cây cối khô cháy, làng lập đàn cầu thành hoàng làm mưa.
Chính ông tôi, người hiểu biết chút ít về
dịch số, thay mặt làng, chân đất, xõa tóc lên đàn khấn tế. Khi mưa rơi
xuống thì cô Yêu phá đám – làm cho hạt mưa vừa chạm đất không kịp thấm đã bốc
hơi bay lên luôn. Ông tôi lấy đó làm buồn bực. Sau này, làng có việc, ai nói
thế nào ông tôi cũng không chịu ra nữa.
Nhưng rồi có một chuyện xảy ra.
Làng bên tên gọi Lập Tự, có một ngôi
chùa thờ bà Tấm. Dân trong làng sợ phạm húy gọi chệch tấm thành đớn và cũng gọi
luôn cám thành bổi. Ngôi đền này, ngoài hai con sấu đá gác cổng còn có một sư tử
đá, dân gian quen gọi là Sấm Đá, nặng chừng dăm tấn. Quanh mình Sấm Đá được tạo
nhiều nét hoa văn rất đẹp. Khi tôi đang học cấp hai thì có một đoàn cán bộ khảo
cổ về đào bới, lấy mẫu gạch ngói đâu chừng nửa năm rồi rút đi. Sau đó xuất hiện
một bài báo nói rằng, căn cứ vào những đường nét hoa văn trên mình Sấm Đá thì
ngôi đền này thuộc một trong số bảy hai ngôi đền thờ, được Hoàng thái hậu Ỷ Lan
cho làm từ thời nhà Lý.
Thần Sấm Đá rất thiêng. Nay người ta
còn truyền nhau chuyện thần Sấm Đá đã gầm đổ tàu hỏa khi người Pháp mới làm
đường sắt Hà Nội – Hải Phòng. Thế rồi, lại có chuyện, một người cầu xin thần
Sấm Đá phù hộ cho vợ khỏi bệnh nhưng không được đã tức giận bê một hòn đá lớn
ném vào phần mông Sấm Đá, làm sứt hẳn mảng lớn. Tưởng rồi sẽ bị thần Sấm Đá vật
chết, nhưng rồi người đó vẫn sống nhăn răng, lấy vợ mới và sinh sôi con đàn
cháu đống. Dân gian mới sinh chuyện lý giải vì sao Sấm Đá mất thiêng. Chẳng là
vì, thành hoàng làng tuy đố kỵ với cô Yêu song thâm tâm thì mê cô. Song cô Yêu
lại đi phải lòng thần Sấm Đá. Từ khi hai vị này phải lòng nhau, dan díu với
nhau thì mất thiêng cả. Chẳng thế, mà Sấm Đà vốn uy linh là vậy, nay lũ trẻ con
thường leo lên đó chơi ô ăn quan rồi vẽ nhằng nhịt những chuyện bậy bạ, thậm
chí, có đứa trẻ mót tiểu, lười xuống, tè cả lên đầu thần mà cũng chẳng sao.
Thành hoàng và cô Yêu thì chẳng thấy đâu,
nhưng Sấm Đá vẫn còn đó. Lù lù một khối hoang vu bị người đời ghẻ lạnh. Sau bài
báo ca ngợi những đường nét văn hoa khắc trên mình thuộc loại đẹp nhất nhì vùng
Đông
Không phải đến bây giờ tôi mới được
nghe những chuyện đầy màu sắc huyền thoại, cổ tích đó. Ngay từ khi còn nhỏ, lúc
gia đình tôi mới chuyển từ Hà Nội về quê, thì làng quê đối với tôi còn là một
thế giới lạ lẫm, hư ảo. Trong những đêm đông giá buốt, cha tôi đã kể cho nghe
những chuyện đó. Có lẽ, lúc đó, người lo sau này tôi lớn lên sẽ chẳng biết gì
về cội rễ của quê hương. Song bấy giờ, ngự trị trong tôi chỉ có một nỗi sợ hãi.
Nhiều đêm, tôi sợ sởn gai ốc, suốt đêm không dám ngủ, cứ mở mắt nhìn chong
chong lên mái nhà đen thẫm và tưởng tượng bên ngoài là cả một thế giới yêu quái
thần linh lẫn lộn nhau. Tôi sợ đến mức mót tiểu cũng không dám đi, mà cũng
chẳng dám gọi cha tôi đưa đi, vì lo người sẽ chê tôi nhát, không xứng chí làm
trai. Đến khi mót quá không chịu nổi tè ướt cả quần. Cũng có lẽ thế mà những
chuyện đó ngấm vào tôi tới mức nhiều khi tôi đã ngỡ mình sống ở làng từ lâu lắm
rồi, mặc dù tôi được sinh ra ở thành phố và cũng chỉ về làng quê khi đến tuổi đi
học.
Tàn đám giỗ, tôi ra đồng thăm mộ cha
tôi. Bao giờ cũng vậy, hễ có dịp về quê tôi đều viếng thăm mộ người. Trong các
câu chuyện vừa qua, mọi người cũng có nhắc đến cha tôi, nhưng vì tôi có mặt ở
đó nên người ta nể mà nói chệch đi. Thực ra, khi cha tôi mất ở ngưỡng cửa của
cái tuổi “thất thập cổ lai hy” thì trong làng cũng có kẻ bảo rằng, cha tôi chết
bời không cúng lễ cô Yêu như trước đây ông tôi thường làm. Họ có biết đâu, sinh
thời, cha tôi không thạo tiếng Tàu, chữ Tây, thông tường lịch sử, là một nhà
kiến trúc, trở thành một trí thức yêu nước, cũng có lần người từng nói là người
không sợ thành hoàng, không sợ Sấm Đá. Đến quỷ quái như cô Yêu cũng chẳng làm
gì nổi người, bởi người đã từng vật lộn, đánh đu với cô Yêu khi cô định trêu
người bằng cách ngả một cây tre chắn ngang đường làng, để hễ người bước qua thì
nâng bổng lên, còn nếu người chui luồn bên dưới thì đè xuống. Vậy đấy.
Dòng nhà tôi là dòng trưởng, đến tôi
là năm đời liền độc đinh. Người trong họ vẫn thường xem dòng nhà tôi chỉ phát
về đường quan lộc, có thể giàu sang lẫy lừng song phúc đức lại không dày nen
kém phần đa đinh phú túc. Đến như cha tôi, tung hoành, lẫy lừng một thời, tưởng
sẽ bay đến một miền đất xa xôi đầy danh vọng, nhưng rồi lại trở về quê hương,
sống nốt những năm tháng cuối đời trong cảnh túng thiếu vất vả và nằm xuống
vĩnh viễn ở nơi mình sinh ra.
Cha tôi bảo, cũng có lúc người định mang tài
năng của mình “đi đấm nước người”, khi có một nhà kiến trúc sư danh tiếng người
nước ngoài mời cha tôi sang Pháp, xứ sở của nhiều trường phái kiến trúc độc
đáo, song cha tôi một mực từ chối bởi bà nội tôi đã quả quyết không bao giờ rời
khỏi quê hương. Cha tôi vốn là người chí hiếu nên không nỡ bỏ mặc bà tôi một
mình mà đi. Dân làng thì lại nói, tất cả đều do thiên địa tù mù, làng tôi vốn ở
vùng đất có dáng con đò đứng bờ sông ngoảnh cổ lại nên người ta dù có đi đến
đâu, lúc về già hoặc trước khi chết cũng quay về cố hương. Nghe thì biết vậy.
Ai cũng bảo, cứ chiêm nghiệm xem sao.
Khi rời Hà Nội, mang gia đình về quê
sinh sống, cha tôi có ý thách thức số phận. Người chấp nhận một cuộc sống chân
tay vất vả, miễn sao con cái được học hành tử tế. Thế nhưng, chị lớn tôi dù học
rất giỏi đã phải bỏ dở chừng ở nhà làm ruộng giúp cha mẹ nuôi các em. Chị kế
tôi cố học đến lúc đỗ vào đại học có giấy gọi nhập trường gửi về địa phương thì
lại bị tay nhân viên bưu điện tâng công chuyển lén cho lão phó chủ tịch phụ
trách công an xã, ỉm đi. Một năm sau, do tình cờ gia đình tôi biết được chuyện
này. Người xưa từng dạy “trời đánh còn tránh miếng ăn” tàn nhẫn thay, tin ấy
lại đến đúng lúc cả nhà tôi đang ăn cơm. Cha tôi nghẹn nửa chừng miếng cơm và
ngả ngửa ra đằng sau. Có lẽ vì ức quá mà vẫn phải nín nhịn. Chị em tôi xô vào
vực dậy thì cha tôi choàng tỉnh, ngơ ngác rồi chợt nhớ ra. Người thở dài bỏ bữa
cơm ăn, lên giường nằm. Từ đó, cha tôi sinh kém ăn, kém ngủ, thân thể tiều tụy
dần song trí óc thì vẫn minh mẫn.
Từ khi cha tôi ốm, tôi tìm cách ngủ
riêng ra, mặc dù nhà tôi rất chật chội. Tôi lấy một cánh phản mọt kê lên hai
chồng gạch vỡ làm giường. Như thê được chừng nửa năm, một tối, cũng vào dịp giỗ
tổ, bỗng cha tôi gọi tôi sang ngủ cùng. Tôi ngây thơ ngủ ngon lành bên người.
Nửa đêm cha tôi lay tôi dậy và bảo “con cũng đã lớn rồi, gắng mà học hành lập
thân”. Tôi đáp “vâng” trong cơn ngái ngủ. Cha tôi lại bảo “Rồi mai sau con sẽ
thấy cuộc đời con người ta ngẳn ngủi chẳng là bao và những điều mà mình xem là
cao siêu đều trở nên bé nhỏ so với sự trường tồn của cuộc sống những người dân
bình thường, cứ lớp lớp theo nhau cần mẫn cấy cày trong mỗi làng quê. Đó là một
chân lý mà không phải dễ dàng nhận ra ngay được”. Rồi cha tôi thở dài, người
lần tìm tay tôi ấp ủ trong bàn tay lạnh giá của người. Nằm im bên người, cũng
như những đêm đông trước đây người kể chuyện, tôi cố huy động trí óc non nớt
của mình để mơ màng suy ngẫm những điều cha tôi vừa nói. Lúc đó tôi không đủ để
hiểu rằng, đấy chính là những điều cha tôi trăng trối lại và chút hơi ấm cuối
cùng từ thân thể người theo bàn tay giá lạnh truyền sang tôi là sự toát dương
để đi vào cõi vĩnh hằng. Hồi lâu, tôi ôm choàng và định rúc đầu vào người tìm
hơi ấm, thì thôi nhận thấy thân thể người đã lạnh ngắt, như đang dần khô cứng.
Tôi rùng mình giật tay ra, xong cha tôi đã nắm cứng lấy tay tôi. Hoảng hốt, tôi
hét toáng lên, rồi làng xóm đổ sang.
Lúc vừa thay xong quần áo cho cha, tôi
ngẩng nhìn lên, thấy đầy vườn, đầy sân, đầy ngõ những ngọn đèn dầu hỏa nhập
nhòa trong mưa phùn, thật giống hệt như ngày xưa tôi mường tượng về một thế
giới ma quái và thần thánh. Tôi bỏ ra ngồi im lặng một góc nhà, cho đến lúc ai
đó lay vai tôi, nhắc nhở tôi mọi công việc của người con trai trưởng trong đám
tang cha. Một người làng đứng sau hàng rào như bâng quơ nói to “Ai rồi chết
xuống đất cũng thành mà”. Tôi nghĩ, đi với ma cũng thế này.
Cha tôi nằm đây, đầu quay về hướng bắc
để mắt dõi hướng nam đón gió lành. Tôi nhớ lúc hạ huyệt cha tôi, ông thầy địa
lý đã nói thế. Tôi châm một bó nhang lớn cắm lên mộ người và nghĩ lại những
chuyện người kể, những điều tôi từng biết về người. Giờ thì tất cả dồn hết về
đây, một vuông cỏ biếc với mấy cụm hoa mào gà tím tái phơ phớt trong gió đồng
suốt bốn mùa…
Ôi chao, thấm thoát tháng ngày, chẳng
mấy chốc đầu tôi cũng sẽ lại điểm bạc. Nghĩ đến lúc mình sẽ tan vào cõi mênh
mông không để lại dấu vết gì, tôi đâm hoảng sợ, nhưng rồi tôi bình tâm trở lại.
Lững thững đi bộ ra bến xe về Hà Nội,
đến trường cái quan, tôi ngoảnh nhìn lại phía mộ cha tôi. Những đầu nhang cháy
dở cứ hồng lên, còn tàn ngang thì bay tơi bời trong gió mùa đông bắc đang gầm
rít.
TRÚC NGUYỆT
Một sáng mùa thu, trời
còn tinh mơ, sư tổ Huyền Quang sau những phút ngồi thiền, ông bước ra khỏi Am
Dược. Bên ngoài, cây cỏ ướt sương đêm, tuy hơi đất, sương núi còn giăng mù
nhưng đôi mắt còn tinh anh của ông vẫn đủ thấy vòm trời thu xanh non buổi sớm
đang dần nhuốm hồng khi vầng nhật chồi lên ngang đầu núi, chỉ cách ông trong
tầm tay với. Ông khẽ giơ tay vươn người, và dường như giây phút này, ông quên
mình là người tu hành, ngỡ đang là đấng anh hùng quân tử có trí nuốt núi ôm
biển. Ông bước lên phía trước vài bước, chợt một loài cây thuốc đập vào mắt
ông, làm ông bừng tỉnh thoát ra khỏi ánh hào quang, trở về với thực tại. Ông
nghĩ, đây là loài thuốc quý, ta phải hái ngay, mà tại sao mọi ngày ta lại không
thấy nó nhỉ, mặc dù nó ở cách Am Dược của ta vài chục bước chân?...
Khi
hái thuốc, sư tổ Huyền Quang nghĩ về ca chữa bệnh cứu người đêm qua. Đã mấy
ngày rồi, ông rời chùa Hoa Yên sang Am Dược, ông đang dồn tâm sức vào nghiên
cứu, luyện một loại thuốc chữa chứng bệnh mà dân gian quen gọi là cảm nhập tâm.
Sau nhiều năm làm thuốc, chữa bệnh cứu người, đi đây đi đó trong thiên hạ, ông
hiểu đây là chứng bệnh cực kỳ nguy hiểm mà người nghèo lam lũ thường gặp phải.
Không có gì lạ cả, người dân lao động, nhất là nông dân nghèo khó, bất kể gì
mưa nắng, gió bão, làm lụng quần quật quanh năm, ăn uống chỉ quanh quẩn rau
dưa, tương cà, lại chẳng mấy chú tâm đến việc dưỡng sinh, gặp cơ địa bất lợi là
đổ bệnh ngay. Mà bệnh đến như núi đổ, thuốc thang chẳng có tiền, sinh mạng
người coi như thí cho trời đất, may rủi… Tối qua, ông đã chế xong thuốc, khi
đang lật giở mấy cuốn sách y cổ xem lại đôi chỗ còn ngờ ngợ, thì chú tiểu hớt
hải từ ngoài chạy vào am báo tin có con bệnh nguy cấp từ làng dưới chân núi
chuyển lên. Ông còn chưa kịp hỏi chú tiểu thì ông lực điền khiêng võng, một
người đàn bà nạ dòng và một cô gái trẻ đi theo, chừng là người nhà con bệnh đã
vào đến nơi. Ông vừa nghe người đàn bà khóc mếu kể bệnh của con mình và cầu xin
ông ra tay tế độ cứu mệnh, vừa xem bệnh. Cậu con trai chừng mười ba mười bốn, người
lạnh toát, mắt nhằm nghiền, hơi thở thoi thóp, đứt đoạn. Ông vừa xem bệnh, bắt
mạch vừa thầm chẩn đoán, đúng là ca bệnh mà mình có thể thử nghiệm loại thuốc
vừa chế xong. Ông không dám chắc cậu bé có qua khỏi không, nhưng đã đến nước
này thì một liều ba bẩy cũng liều, may
ra…. Quyết đoán, rồi ông làm luôn. Cô chị gái của con bệnh vừa khóc lạy ông vừa
luôn miệng một điều sư tổ, hai điều sư tổ rón tay làm phúc… Ông phải bảo họ
đừng làm thế, mà hãy cố gắng bình tâm, đừng làm rối lên, để ông tập trung vào
việc cứu chữa. Bảo họ vậy thôi chứ ông hiểu lòng họ làm sao bình tĩnh được. Chỉ
có người tu hành coi sinh mệnh như mây khói mới có thể bình tâm trong lúc nước
sôi lửa bỏng như thế này. Trời Phật phù hộ độ trì, may quá thuốc mới công hiệu,
người cậu bé ấm dần lên, hơi thở điều hòa, qua được cơn nguy kịch. Cậu bé được
đưa về Nhà Tổ chùa Hoa Yên tiếp tục thuốc thang. Ông định bụng, lát nữa sẽ rời
Am Dược về Hoa Yên, mang theo ít thuốc đã làm xong…
Về
đến Nhà Tổ, ông xem bệnh và bắt mạch lại cho cậu bé, lòng cảm thấy yên tâm vì
con bệnh đang hồi phục. Rồi ông kê đơn, điều chỉnh một vài vị đưa cho chú tiểu
bốc thuốc và căn dặn người nhà. Bà mẹ bảo cô con gái cố ghi nhớ lời Lão tổ dặn,
chứ bà đầu óc u mê chẳng thể nhớ nỗi gì. Tối qua, vừa vội vàng, vả lại với bản
tính của người tu hành, ông không để ý nhiều đến công việc ngoài đời, sáng nay,
ngồi bình tâm, đối diện với hai mẹ con, ông mới nhận thấy, cô con gái khá sắc
nước. Đôi mắt cô gái đen láy, sâu thẳm, ẩn chứa sự quyết liệt. Hình như chỉ một
thoáng mắt ông và mắt cô gái rõi vào nhau, khiến ông cảm nhận thế. Ông sực
mình, ngước cái nhìn lướt trên đầu cô gái. Cô gái quỳ nghe ông căn dặn như nuốt
lấy từng lời. Xong việc, ông lặng lẽ trở lui, bỏ mặc hai mẹ con, còn nghe phía
sau lưng tiếng hai người luôn miệng “Mô Phật”, “Bạch Tổ”. Chú tiểu đã pha sẵn
ấm trà mộc, bưng ra. Ông khoan thai rót một chén, đưa lên nhấp. Hương trà thanh
khiết khiến đầu óc ông khoan khoái, minh mẫn. Ông rõi mắt ra ngoài xa, bên dưới
là đường tùng, những cây xích tùng, thủy tùng được trồng từ thời Điếu ngự giác
hoàng Trần Nhân Tông xanh tốt. Còn phía dưới nữa, xanh mờ xa xa là làng xóm.
Chợt ông như cảm thấy mùi khói bếp thơm nồng, tai như thoảng nghe tiếng chó
sủa, tiếng lợn đòi ăn. Những âm thanh, hương vị của đời sống trần tục vẩn lên trong
lòng ông. Khác mọi lần, ông không kiềm chế, mắt mơ màng, thả hồn về chốn quê
nhà…
Gần
tám mươi năm về trước, có một cậu bé ra đời nơi hương Vạn Tải, châu Nam Sách,
lộ Lạng Giang. Cậu bé Đạo Tái, thuộc dòng dõi quan lại, song đến thời cha cậu
là Lý Quang Du, gia cảnh không còn bề thế nữa. Ngay từ khi mới sinh, Đạo Tái đã
có tướng kỳ dị. Cha cậu nhìn tướng mạo con mình thì lấy làm mừng bởi ông thấy ở
đó nét dị thường, báo hiệu sự xuất chúng khác thường sau này. Còn người mẹ, bà
không phát hiện thấy điều gì may mắn ở sự kỳ dị của con, mà chỉ cảm thấy lo
lắng cho việc dựng vợ, sinh con đẻ cái về sau. Cậu bé Đạo Tái càng lớn, sự kỳ
dị trong tướng mạo không bớt, bù lại, cậu vô cùng thông minh dĩnh ngộ, có chí
hướng học hành. Đạo Tái nổi tiếng khắp vùng về tài học rộng biết nhiều. Người
cha thì chỉ muốn cho con học hành, thi cử đỗ đạt, khôi phục lại danh gia, tiếng
tăm dòng dõi. Người mẹ lại chỉ nhăm nhăm dạm vợ cho con, vì bà luôn bị ám ảnh
bởi tướng mạo kỳ dị của con. Dùng dằng mãi bởi chí cha, ý mẹ khác nhau, rồi đến
năm mười lăm tuổi, gia đình cũng dạm vợ cho cậu. Nhưng ngay lần đầu, bên nhà
gái đã từ chối khéo. Người ta không nói toạc ra, song cha mẹ và bản thân Đạo
Tái cũng hiểu được ngụ ý bên trong, người ta chê cậu xấu trai, dị dạng. Cậu chỉ
tự ái đôi chút và cho rằng, bên nhà gái tầm thường, không thấy được vẻ đẹp trí
tuệ ẩn chứa trong cậu, không thấy được sự xuất chúng sẽ bộc lộ nay mai. Cậu tự
an ủi, rồi sẽ có ngày ta sẽ gặp được người nhận biết, trân trọng và khâm phục
tài năng của ta. Dân gian chẳng có câu " Gái tham tài , trai tham sắc " là gì. Bần hàn đến như thằng mõ
ở làng còn lấy được vợ, nữa là mình, dòng dõi quan lại, học rộng tài cao, chí
trùm thiên hạ!
Sau
đám ấy, cha mẹ cậu mấy lần định đánh tiếng đám này đám nọ, nhưng cậu đều nằng
nặc không chịu. Gặng hỏi mãi, cậu mới chịu nói, cậu chỉ muốn được cưới cô Mơ,
con gái một thấy đồ nho ở làng bên. Hồi nhỏ, khi mới ê a Tam Tự Kinh, cậu có theo học ông thầy này, chẳng bao lâu thì hết
chữ thầy, đành phải theo thầy khác. Cậu để ý, cô Mơ hơn cậu hai tuổi, sắc nước,
phổng phao nõn nà, hơn đứt hẳn đám con gái trong vùng. Thêm nữa, cô có đôi mắt
lá răm đen láy, lúng liếng như hút hồn người ta, mỗi bước đi, mỗi cử chỉ, đôi
trái đào tơ căng mẩy như quẫy trong yếm thắm. Từ lâu rồi, cậu thầm yêu trộm nhớ
cô Mơ. Cậy cha mẹ dạm hỏi cô Mơ, cậu thầm nghĩ, thế mới xứng đôi vừa lứa, trai
anh hùng sánh gái thuyền quyên. Người đẹp như cô Mơ, gia đình như ông đồ nho
kia mới thấy được tài cán của cậu. Nhưng rồi sự thể diễn ra không như cậu nghĩ.
Ông thầy đồ kia mừng lắm, đồng ý gả ngay, song cô Mơ lại quầy quậy chối từ.
Thoạt đầu, hai nhà và cả cậu đều nghĩ, cô Mơ chối từ chẳng qua chối vờ làm cao
lấy giá. Thế nên, khi cô Mơ nhất nhất cự tuyệt, thì mọi người hết sức ngạc
nhiên. Đám học trò trong làng chơi với cậu dò hỏi và báo cho cậu một tin, thật
như sét đánh ngang tai, cô Mơ phải lòng một anh kép hát đẹp trai người trong
vùng, đang lưu diễn nay đây mai đó. Ông bà đồ bảo cậu cứ yên tâm, sẽ thuyết
phục cô Mơ bằng được. Cha mẹ cậu lấy làm bực bội, có ý cho rằng ông đồ là người
có chữ mà không biết cách dạy con, và người như cô Mơ có bỏ đi cũng không tiếc.
Cậu không nghĩ thế. Quả thật, lần bị cự tuyệt này, thoạt đầu cậu cảm thấy bị
xúc phạm ghê gớm, nhưng là người trẻ tuổi, sớm đọc nhiều sách, hiểu chữ Thánh
hiền nên sau cú choáng váng, cậu nhanh chóng vỡ vạc, tự nhủ mình nên tôn trọng
tình cảm riêng tư, nên hiểu nỗi lòng cô ta. Ở đời, chuyện quả kiếp nhân duyên
là vậy. Người đời chẳng dạy rằng Ép dầu
ép mỡ, ai nỡ ép duyên là gì, và cũng chẳng phải vô cớ mà nhà Phật tự răn mình,
răn đời Tu là cõi phúc, tình là dây oan!
Có điều, cậu cảm thấy thương cô Mơ, bởi cậu linh cảm rằng, cô Mơ cứ nhất nhất
lăn lóc với mối tình ấy rồi cuộc đời cô cũng sẽ chẳng ra gì. Cậu lựa lời xin
với cha mẹ thôi không hỏi cô Mơ làm vợ cho cậu nữa.
Quả
nhiên, khi cậu cố quên hình bóng cô Mơ để sôi kinh nấu sử chờ ngày ứng thí thì
được tin cô đã trốn nhà theo chàng kép hát bảnh trai dẻo mỏ đi đâu không biết.
Cậu thở dài, ngửa mặt nhìn trời mà than. Với cô Mơ, thôi như thế là xong một
kiếp người. Không báo hiếu cha mẹ, không nuôi chồng làm nên sự nghiệp, còn việc
sinh đẻ, dạy dỗ con cái nên người hay không thì còn chưa rõ, chỉ được mỗi cái
tình, nhưng ôi thôi, tình chỉ là cái tình tang!...
Dường
như, ngay từ độ ấy, cậu đã ngộ ra được một điều gì đấy xem như chân lý ở đời,
dẫn dắt cuộc sống sau này. Cậu chỉ dồn sức vào chuyện dùi mài sách vở. Khoa thi
hội năm Bảo Phù thứ ba, triều Trần Thánh Tông (1275), Đạo Tái đỗ Trạng Nguyên.
Thông thường, nếu là người có vợ, khi vinh quy bái tổ sẽ là cảnh võng anh đi trước võng nàng theo sau,
còn như chưa có vợ thì sau đại đăng khoa
cũng sẽ là tiểu đăng khoa, nhưng với
Đạo Tái lại không tất. Lúc thong dong trên đường cái quan về làng, thoàng trong
suy nghĩ, Đạo Tái mường tượng, đi sau võng mình là võng của cô Mơ. Chỉ thế
thôi, còn sau đó, tất cả là niềm vinh hạnh cho cha mẹ, dòng họ, làng xã choán
ngợp tâm hồn chàng. Những ngày ở quê với cha mẹ chờ ngày đi làm quan thiên hạ,
niềm vinh hạnh vơi đi thì nỗi cô đơn trong lòng chàng lại lớn dần lên. Chàng cứ
tự hỏi, sao cô Mơ kia không biết nhìn người, cái bền vững của đời người thường
tiềm ẩn nơi nội tại, đâu phải ở vẻ hào nhoáng bên ngoài. Thế nhưng, cái phù du
thì bao giờ cũng hấp dẫn, nó như ngọn lửa cứ bùng lên, như rượu nồng tỏa trên
miệng chén, như ánh lân tinh xanh lét ma quái trong đêm đen, làm con người ta
mờ mắt, lú lẫn lý trí, xô dạt người ta vào với nhau, bất cần hậu quả và cái đó
được người đời gọi là tình yêu.
Chàng
có tình yêu hay không? Đã nhiều lần chàng tự vấn mình như vậy. Rõ là chàng có
mối tình của mình. Hễ thấy mặt cô Mơ, hay chỉ là mơ tưởng về cô ta hay thôi,
chàng đã thấy lòng mình bùng lên ngọn lửa, thấy môi miệng mình đượm vị rượu
nồng, thấy đầu óc phiêu diêu không theo sự điều khiển của lý trí. Không là tình
thì còn là chi nữa? Khi chưa học hành đỗ đạt thì chàng còn kìm nén được. Nay
công thành danh toại, ước vọng ấy lại bùng phát, thiêu đốt, hành hạ chàng.
Nhưng trời đất trớ trêu thay, cho chàng sự hanh thông hơn người thì lại lấy đi
của chàng vẻ bình thường của một con người. Tướng mạo kỳ dị của chàng che khuất
sự hanh thông, mà không phải người thường nào cũng phân biệt nổi, nhất là đàn
bà. Nếu làm quan, chàng sẽ phải lập gia đình, lấy vợ sinh con như ngàn vạn đàn
ông khác. Không thể không như thế! Song chàng không đủ can đảm, không dám hỏi
vợ một lần nữa vì sợ bị từ chối, đã làm quan Trạng thì không thể bị từ chối như
kẻ thư sinh bạch diện. Và chàng tự biết, nếu có lấy được vợ, rồi suốt đời,
chàng cũng chỉ sống với hình bóng cô Mơ trong tâm tưởng. Và còn bởi, chàng
không chiến thắng nổi hình hài của chính mình. Vậy thì chỉ còn cách sống một
cuộc đời khác người thường, xa lánh bụi trần mà thôi?!...
“Bạch
thầy” – chú tiểu khẽ thưa khiến ông bừng tỉnh – “Người nhà bệnh nhân muốn đưa
bệnh nhân xuống núi về nhà… ý Thầy thế nào ạ?”. Ông khẽ xua tay: “Bảo với họ…
để ta theo dõi bệnh thêm vài ngày nữa… đề phòng bệnh biến chứng… Chuyện thuốc
thang cứ làm như ta đã dặn”. Chú tiểu đi rồi, ông lại thần người ra, tự vấn, ta
giữ họ lại thêm vài ba ngày nữa làm gì nhỉ, thực ra, bệnh cậu bé đã thuyên giảm
nhiều, có thể cho về nhà tĩnh dưỡng được rồi? Phải chăng ta lưu luyến gì họ? Họ
cũng như bao người bệnh khác mà ta từng cứu giúp?...
Huyền
Quang nghĩ đến pháp danh của mình, nghĩ đến ngày mình quyết định từ bỏ chốn
quan trường và cuộc đời trần tục, xuất gia đầu Phật. Khi ấy, nhân một lần theo
Quan gia (vua Trần Nhân Tông), ông gặp Pháp Loa ở chùa Vĩnh Nghiêm. Tuy Pháp
Loa trẻ tuổi hơn ông nhiều lắm, nhưng có lẽ sớm giác ngộ, nên ông đã nhận thấy
ở vị cao tăng này sự siêu nhiên tịnh độ đến mức hút hết tâm trí ông. Và dường
như ngay lập tức, ông linh cảm mình sẽ theo con đường của Pháp Loa thiền sư.
Sau khi nghe Pháp Loa thuyết giảng, ông lĩnh hội được sự minh triết ở đó, và
thấy rằng, lòng mình đã hường về Đức Phật, hướng đến tư tưởng cao siêu từ bi hỉ xả của nhà Phật rồi. Rời quan
trường về tu tại chùa chỉ còn là thời gian nữa mà thôi. Và chặng đường tu luyện
dài dằng dặc dần đi qua, không nhẹ tựa lông hồng như lúc đầu ông nghĩ. Để từ bỏ
những ham muốn, thói quen trần tục, ông đã phải chiến đấu thực sự với bản ngã của
mình, và để thắng được mới cực khổ làm sao! Các vị tiền Tổ thay sau khuất bóng.
Hương Vân Đầu Đà Trúc Lâm Điều Ngự (Trần Nhân Tông) và Pháp Loa thiền sư nơi
niết bàn có thể mỉm nụ cười nhà Phật mà hài lòng vì ông – vị tổ thứ ba của
Thiền phái Trúc Lâm đã giác ngộ và truyền bá tư tưởng của dòng trong loại chúng
sinh. Ở cái tuổi bảy sáu, trụ trì nơi Yên Tử, ông thấy đầu óc mình vẫn minh mẫn
lắm, nhưng sương khói đã phủ ánh nhìn, cơ gân đã dão, dòng máu trong huyết mạch
không còn sôi sục như thuở nào nữa, tuy chưa nguôi, song ông đã có thể yên tâm,
thư giãn, buông lỏng cơ gân không cần phải kiềm chế, mà chờ cái ngày Phật gọi
theo hầu. Vậy mà, dạo này tự nhiên ông thấy lòng mình chộn rộn, cứ như đang chờ
đợi một cái gì đấy, là lạ…
Một
buổi sáng, sư tổ Huyền Quang thong thả bách bộ trong sân chùa Hoa Yên, rồi chợt
thấy lòng mình phấn chấn, ông quá bộ đi dạo theo đường tùng xuống sâu dưới sườn
núi, nơi mà lâu nay ông không đặt chân tới. Cây gậy trúc mấu trong tay ông
không rờ rẫm mà linh hoạt hẳn lên. Chợt ông nghe phía dưới một chút có tiếng gì
như là tiếng người thở dốc vẻ nặng nhọc lắm. Dừng trên bậc đá, ông nhìn xuống,
thấy một người đặt đôi thùng gánh nước trên quãng đất khá bằng phẳng. Người đó
khẽ vặn người cho đỡ mỏi và nhìn dáng vẻ, cử chỉ của người đó, ông đoán là đàn
bà, mà không chừng còn là một cô gái thanh tân. Người đó vuốt chiếc khăn mầu
thâm đất choàng kín đầu xuống vai, để lộ gương mặt đàn bà, rồi cởi tung khăn,
lau mồ hôi trên mặt và cổ. Đúng là một thiếu nữ. Tất cả những cử chỉ đầy nữ
tính ấy không qua được ánh mắt già nua sương khói của ông. Chợt cô gái ngước
nhìn lên và bắt gặp ông từ trên cao nhìn xuống, cô lúng túng choàng lại chiếc
khăn lên đầu, nhấc đòn gánh lên vai thì thấy ông giơ tay làm cử chỉ hãy khoan,
cứ nghỉ đi, nên cô gái lại thôi. Ông xuống theo từng bậc đá và cảm thấy bước
chân mình không bình thường, tuy nhiên, ông cố gắng giữ vẻ khoan thai. Cô đứng,
ngước mắt lên, chờ đợi và dường như ông cảm thấy cô nhấp nhổm định chạy phăng
lên đỡ ông dìu xuống vì mấy lần ông vấp chân. Rồi cuối cùng, ông cũng xuống tới
nơi cô gái đỗ gánh. Cô gái cúi đầu “Bạch sư cụ”. Ông nhìn cô gái, khuôn mặt bị
chiếc khăn chùm thâm che khuất chỉ lộ đôi mắt to đen và chút vầng trán trắng
mịn, thấy như quen quen, rồi lại nhìn gánh nước, đôi thùng đều mức già lưng,
phủ lên mặt một tàu sen úp, vừa che bụi đường vừa làm cho nước đỡ sóng, hỏi cô
gái: “Nữ thí chủ từ đâu đến? Mang nước đi đâu?”. Cô gái cúi đầu e lệ: “Bạch sư
cụ… Con tên là Bích… Đào Thị Bích ạ… Nhà con ở xóm Giếng, ngay dưới chân núi
này… Chắc sư cụ chưa hạ sơn đến đấy bao giờ nên không biết… Xóm con có một cái
giếng nổi tiếng nước ngọt, pha trà thơm ngon nhất cả vùng… U con bảo, từ nay
mỗi tháng đôi lần gánh lên núi hầu sư cụ và nhà chùa nước pha trà… Hình như sư
cụ không nhận ra… sao ạ?”. Cô gái cởi chiếc khăn quàng đầu bảo: “Giờ hẳn sư cụ
nhận ra!.... Mới tháng trước, em trai con gặp bạo bệnh, u con và con cùng người
nhà võng lên núi phiền sư cụ cứu giúp, gặp thầy gặp thuốc mà qua khỏi. Cả nhà
con nguyện đội ơn tái sinh suốt đời không dám quên!”. Ông nhớ, khoát tay bảo:
“Không phải như thế… Mà cũng không cần thế… Nhà chùa coi việc giúp người làm
việc thiện, cứu nhân độ thế là bản tính của mình… Không ơn huệ chi đâu!...”. Cô
gái cúi gằm, thưa: “Bạch. Không dám ạ!... Dẫu sư cụ và nhà chùa không xem làm
trọng, nhưng mà… về phần bản thân gia đình con vẫn luôn đội ơn trời bể ạ!”. Ông
khẽ cười: “Thôi được! tùy thí chủ… Dẫu sao ta cũng cảm ơn nhớ tói, mang cho
nước ngon nấu trà… Nhưng lần này thôi nhé… Sau không phải vất vả thế… Đường núi
hiểm trở khó đi, mà nữ thí chủ thì… yếu sức”. Ông định nói còn trẻ, song kịp
nói chệch đi. Cô gái hồn nhiên: “Bạch sư cụ… Con khỏe lắm… U con thường bảo con
là gái mười bảy bẽ gãy sừng bò mà!”. Ông suýt bật cười thành tiếng: “Ơ… vậy à!
Thôi bây giờ nữ thí chủ hãy cất gành theo ta lên chùa”. Ông đi trước, cô gái
gánh nước theo sau. Chỉ vài chục thước là lên đến sân chùa mà ông trèo đã run
chân, thế mà cô gái gánh như không, lại vừa đi vừa ríu ran đủ thứ chuyện. Cô
bảo cha cô trước là thầy đồ, nhưng yểu mệnh mất sớm, nếu không thì giờ cô cũng
viết được chữ Nho, rằng tuy là phận gái nhưng cô ham thích học lắm. Ông nghe,
chỉ ầm ừ qua chuyện. Tự nhiên ông nghĩ, sao ngày xưa, cái cô Mơ kia cũng là con
nhà tử tế có học hẳn hoi mà không được như cô gái này, lại không yêu người
nhiều chữ, đi say mê anh kép hát dẻo mỏ? Âu cũng là quả kiếp nhân duyên mà nên
cả thôi!... Ngần ngừ một lát, ông ướm hỏi: “Thế nhìn tướng mạo ta, nữ thí chủ
không thấy… gì sao? Cô gái tròn mắt vẻ không hiểu: Sao cơ ạ… Con thấy như tiên
ông giáng trần cứu thế… Con mạo muội nghĩ…. lúc còn trai trẻ, hẳn sư cụ thông
minh dĩnh ngộ lắm!.. Ông nghe mà chấn động trong lòng, và cảm thấy mặt mình
nóng lên. Suốt một thời trai trẻ, ông chưa bao giờ được nghe một lời khen về
diện mạo mình như thế, nên ông mang mặc cảm về tướng mạo kỳ dị của mình ngàn ấy
năm trời đã thành quen, nay bỗng dưng vậy, ông bỡ ngỡ như cậu bé mới lớn. Ông
hít một hơi thật sâu, phẩy tay bảo: “Thôi nữ thí chủ làm đi”.
Đổ
nước xong vào chum, cô gái còn lau chau kể đủ thứ chuyện ở xóm của cô, ông nghe
câu được câu mất. Nhìn dáng vẻ trẻ trung, thanh tân, hồn nhiên của cô gái, ông
hồi tưởng lại tuổi trẻ của mình ở quê nhà. Giá như ông không học hành đỗ đạt,
không tình nguyện vào cửa thiền phụng sự Đức Phật, mà chỉ là một anh nông phu
thuần phác, thì có lẽ bây giờ cũng con đàn cháu đống, có đứa áng tuổi như cô
gái trẻ kia. Cô gái chào ông, vẻ như dùng dằng xuống núi. Ông đứng ở sân chùa
nhìn cô gái quẩy đôi thùng không ngúng nguẩy men bậc đá xuống, cứ như làm dáng,
làm duyên với ai ấy… Ông mỉm cười một mình, nhìn trời đất, cây cối thấy xanh
non đằm thắm lạ. Ông cứ đi đi lại lại nơi sân chùa, không để tâm đến thời khắc
trôi qua. Mặt trời đằng sau lưng đã khuất núi tự khi nào chẳng rõ. Sương núi
dâng lên tỏa hơi lành lạnh. Ngay trước mặt, trăng thượng thuyền như con thuyền
tròng trành trên vòm trời làm vành trăng nhỏ cũng sóng sánh trong khuôn miệng
chum đầy nước. Tự nhiên tứ thơ nảy trong óc, rồi ý, rồi lời ào ạt đến. Ông lẩm
nhẩm đọc thành tiếng: “Vằng vặc trăng mai
ánh nước/ Hiu hiu gió trúc ngâm sênh/ Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ/ Mâu Thích
Ca mà thú hữu tình”. Tối ấy, khác mọi ngày, ông không làm sao tập trung tư
tưởng, ý nghĩ hướng về Đức Phật khi tụng kinh.
Sư
tổ Huyền Quang thấy mình đang vân du tới một miền non xanh nước biếc, chim chóc
líu lô. Đang bỡ ngỡ nhìn ngắm cảnh sắc và tự hỏi đây là miền đất nào thì ông
chợt thấy mấy khóm trúc gần nơi mình đứng khẽ rung rinh và một người đàn bà
hiện ra, ăn vận như một nữ sĩ, hỏi ông: " Cảnh mới nhưng người xưa, Huyền
Quang đại sư có nhận ra chăng? ". Giọng nói quen quen, như ông đã từng
nghe nhiều lần. Ông ngập ngừng: “Nữ thí chủ…”. Người đàn bà như là đang cười
nụ: “Thế là đủ biết đại sư vẫn chưa nhận ra người cũ rồi. Vậy… thiếp xin mạn
phép dùng tên tục… Đạo Tái…. Chẳng nhẽ chàng vẫn chưa nhận được tiện thiếp là
ai ư?”. Ông tròn mắt, thốt lên: “Cô Mơ!... Thôi đúng là…. Người xưa… Có dễ đến
dăm mươi năm rồi mới thấy đây… Nhưng mà… những tưởng kiếp truân chuyên đã giải,
người khuất bóng lâu rồi?”. Người đàn bà e lệ: “Vậy là không uổng… Vì thiếp mà
chàng ôm hận suốt đời… Có lẽ khi xuống tuyền đài cũng chưa tan?”. Ông chợt ý
thức thân phận mình, nghiêm nghị: “Nữ thí chủ nhầm rồi… Bần tăng đã rửa sạch
bụi trần… Dốc lòng theo Đức Phật…”. Người đàn bà khẽ ngúc ngắc đầu: "Nhầm ư? … Thiếp không nhầm đâu… Có phải
vừa mới đây thôi, chàng vẫn nặng lòng với bụi trần?... Vằng vặc trăng mai ánh
nước. Hiu hiu gió…”. Ông sửng sốt ngắt lời: “Nữ thí chủ…. biết bài thơ của ta
ư? Ta cảm hứng mới nhẩm trong óc, chưa viết ra và cũng chưa đọc cho một ai… Vậy
mà…”. Người đàn bà khẽ cười: “Thế chàng quên rằng thiếp siêu hình, là người của
cõi khác rồi ư?”. Ông sượng sùng, bẽn lẽn cứ như người làm điều gì xấu bị bắt
quả tang: “Phải chăng, nàng… nàng nhập vào, xui khiên cô gái xóm Giếng đến thử
lòng ta?”. Người đàn bà không trả lời, hỏi lại: “Chàng nghĩ như thế ư?... Thì
cứ cho là vậy thì đã sao!...”. Ông thở dài não ruột: “Thôi… dầu sao ta cũng cảm
ơn nàng… giúp ta hiểu rõ lòng mình… Già nửa đời người từ bỏ vinh hoa phú quý,
những tưởng giũ sạch được bụi trần… ai ngờ đến lúc nghĩ mình đắc đạo… lại hóa
ra vẫn thơ ngây, ham hố… Ôi kiếp trần gian, căn quả mới nặng nề làm sao! Chả
trách… Đức Phật gọi ngàn vạn người theo nhưng tới bến không đầy nửa mống”.
Người đàn bà cảm thông: “Xin người đừng tự dày vò mình như thế!... Ngay thiếp
đây sớm đa đoan, chịu đủ mùi đắng cay mặn chát trần đời cũng không đến mức phải
trách mình như vậy. Mình làm mình chịu. Thế mới là can đảm, thực lòng… Ngay cả
những người đã từng trót bị vấy bẩn, Đức Phật cũng không xa lánh, bỏ rơi, chỉ
cần có tâm phục thiện và gắng sức làm theo thì chẳng cần phải khổ hạnh, căn
chay niệm Phật… Thiếp hiểu Phật tại tâm là vậy , thấu thế nào
là thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ…. cũng là vậy!”. Ông thẫn thờ như tự nhủ
mình: “Không ngờ… người ấu trĩ lại là ta… Giữ chay tịnh nhưng tâm…”. Thấy ông
bỏ dở chùng câu than, người đàn bà an ủi: “Được Đức Phật gọi theo ngài nhiều
năm nay, bản thân ngộ thêm bao điều mà trước đây mù mờ sáng tối… Người như đại
sư rồi thế nào cũng tới được bến thanh minh.. Chỉ có điều, với sự rối lòng vẩn
trí như vừa rồi, đại sư sẽ mang tiếng với hậu thế đấy. Và cũng không dễ gì rửa
được…!” Ông điềm tĩnh: “Đa tạ lời chỉ giáo. Giờ thì ta chẳng quản ngại gì, kể
cả tai tiếng với người đời… Trời đất chắc thấu hiểu cái tâm của ta!”. Người đàn
bà biểu lộ sự hài lòng: “ Vậy là cuộc tái ngộ với người xưa không uổng. Thời
khắc đã mãn… Hẹn gặp lại ở nước Phật!...”. Ông còn chưa kịp định thần để nói
lời tiễn biệt thì chớp mắt người đàn bà đã mờ nhân ảnh không thấy đâu nữa. Ông
tần ngần: “Kìa… Sao lại vội vàng làm vậy!”.
Huyền
Quang mở bừng mắt. Ông nhìn trân trân, ngộ mình. Sư bác thấy ông mở mắt, mừng
quýnh: “Ôi… sư tổ tỉnh rồi. Ban nãy thấy sư tổ biền biệt, mạch trẩm, những
tưởng sư tổ… Rồi chợt lại thấy sư tổ … môi cứ mấp máy liên hồi thành tiếng
nhưng không rõ lời, cứ như là đang nói chuyện với cõi người khác… chúng tăng
nghĩ… cơ chừng… sư tổ đang vân mộng về cõi Phật… mới bớt lo”. Huyền Quang khẽ ờ
trong cổ và thầm nghĩ, thì ra mình vừa qua một giấc mộng. Bần thần hồi lâu, ông
cố nhớ những gì xảy ra trong mộng. Ừ, bây giờ ông chẳng sợ gì nữa. Cái đáng sợ
nhất là bản ngã, thì ông đã vượt qua rồi. Tiếng để đời ư? Rồi một ngày kia
người đời sẽ hiểu. Chân lý có con đường riêng của mình, dù rằng vòng vèo khuất
lối. Ông phẩy tay ra hiệu bảo mọi người đỡ ngồi dậy. Thấy ông đứng lên định đi
thì sư bác và mấy chú tiểu xúm ngay lại đỡ hai bên. Ông bảo mọi người cứ để ông
tự mình, không cần phải giúp sức, bởi ông muốn ra bên ngoài một mình: “Chừng canh mấy rồi nhỉ?”. Sư bác thưa: “Bạch thầy… còn chưa tới canh một”. Ông
đi chậm rãi, từng bước một ra sân chùa. Nhìn trời, trăng thượng huyền đã xế
khuất chân trời phía Tây, ánh sáng mờ mờ song vẫn còn đủ để ông thấy rõ những
cây đại xung quanh và đường tùng dưới kia, cả những vạt trúc nhấp nhô miên man
như vô tận…
Lòng
thanh thản lạ thường, ông cảm nhận một trạng thái chưa từng thấy ở mình. Một vì
sao đổi ngôi vạch sáng chéo vòm trời. Vậy là có thêm một sinh linh nơi phàm
trần được Đức Phật gọi theo. Ông cứ muốn một mình, đứng mãi nơi sân chùa này
với cảm giác hạnh ngộ như vậy!...”
( GỒM 16 TRUYỆN )
Nhận xét
Đăng nhận xét