Bản thảo tập VƯỜN XƯA.

 


Lưu trữ bản thảo tập tản văn Vườn Xưa, 

@@@

Vườn xưa.

(Tập tản văn & ký sự của Nguyễn Chu Nhạc)

 

 

Cánh chim chơ-rao của buôn làng Cơ-tu,

 

Tôi biết đến tên loài chim Chơ-rao là qua thơ ca từ hồi đi học...

           Quả là như vậy... 
           Ngày học phổ thông, sách Trích giảng văn học dùng trong nhà trường, phần văn học cách mạng, có tác phẩm "Bài ca chim Chơ-rao" của nhà thơ Thu Bồn. Ngày đó, tôi yêu thích trường ca này bởi chất bi tráng và nồng nàn hơi thở Tây Nguyên, nên đã từng thuộc lòng phần trích đoạn, như sau này thuộc trường ca "Nước non ngàn dặm" của nhà thơ Tố Hữu vậy... Nhưng ngày đó, chỉ là lòng yêu văn chương thuần khiết thôi, chứ chưa thấu hiểu cội nguồn của cảm hứng thi ca, chữ nghĩa, nhất là những gì ẩn giấu, chất chứa trong mỗi câu thơ, khổ thơ  ấy... 
           "... Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang... Chim chơ-rao ơi, bay về buôn vắng/ Báo tin buồn đi khắp mọi nơi/ Mặt trời đã rụng hai tia nắng/ Rừng Tây ánh lửa đỏ sáng ngời...". Qua những vần thơ bi tráng ấy, loài chim chơ-rao đã được nhà thơ Thu Bồn nâng lên thành biểu tượng cho ý chí và sức mạnh tinh thần của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên một lòng theo cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương... Rồi nữa, trong ca khúc "Tiếng đàn Ta-lư", nhạc sĩ Huy Thục cũng nhắc đến loài chim này, dù chỉ thoáng thôi "...Con chim chơ-rao xinh, hót trên canh vui mừng công anh...",  song thế cũng đủ để lại ấn tượng về một loài chim rừng khác lạ. Ngày ấy, nghe thì biết vậy chứ đâu biết loài chim ấy thế nào.... 
           May sao, đến một ngày, tôi có cơ hội tìm hiểu và đắm sâu vào một vùng đất với cảnh vật, con người, sắc thái bản vị địa phương, để từ đó sống lại nguồn cảm xúc thi ca mà trường ca về loại chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn mang lại, từ thuở học trò...
            Ngày ấy, cũng đã mười năm rồi...

            Đầu năm 2008, cầm tờ quyết định và đôi lời dặn dò của Lãnh đạo Đài TNVN (VOV) vào Đà nẵng, phụ trách Cơ quan tại khu vực miền Trung, thú thật, ngoài quyết tâm, tôi chưa hình dung là mình sẽ thực hiện việc lên sóng phát thanh chương trình tiếng dân tộc thiểu số trong khu vực như thế nào. Địa bàn miền Trung dài dằng dặc, hàng ngàn cây số, với 9 tỉnh, từ Quảng Bình đến tận Khánh Hòa, có khá nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, vậy lựa chọn tiếng dân tộc nào đây? 
           Ý tưởng chỉ thành hình hài khi tham khảo bản khảo sát cũ của cơ quan từ người tiền nhiệm, và ý kiến của một vài đồng nghiệp cùng những người có vốn hiểu biết về các dân tộc thiểu số trong địa bàn, để đi đến quyết định lựa chọn tiếng Cơ-tu. Điều tra, khảo sát thấy, người dân tộc Cơ-tu chiếm số đông hơn cả, và sự ảnh hưởng của họ khá tốt với các dân tộc thiểu số khác trong vùng như Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân kiều v,v... Thêm nữa, tiếng Cơ-tu đã từng được La-tinh hóa trước đó, nên sẽ thuận lợi cho việc làm chương trình phát thanh...
           Có một sự cảm tính, song lại củng cố lòng quyết tâm trong tôi khi lựa chọn ngôn ngữ này, ấy là tình yêu văn học từ các tác phẩm Bài ca chim chơ-rao của Thu Bồn và Nước non ngàn dặm của Tố Hữu. Câu chuyện của nhà thơ Tố Hữu trong trường ca của mình thể hiện đậm nét, ấy là sự cảm tình và lòng kiên trung của người dân làng Rô, một buôn làng người dân tộc Cơ-tu ở huyện Giằng (Quảng Nam), một lòng hướng theo cách mạng, đã che giấu, đùm bọc, bảo vệ ông và đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ thoát khỏi sự truy tìm của giặc Pháp, khi hai người vượt ngục Đak Glei vào năm 1942 để tiếp tục hoạt động cách mạng ... 
           Còn về Bài ca chim chơ-rao của Thu Bồn, từ trích đoạn trong sách Giảng văn thời đi học, tôi cũng đã đọc cả trường ca và thật sự yêu thích tác phẩm này. Ai cũng biết, trường ca này, tác giả sáng tác về đề tài Tây nguyên, về tình thần bất khuất của bà con các dân tộc Tây nguyên, một lòng theo cách mạng, thông qua hai nhân vật điển hình là Hùng (người Kinh) quê miệt biển miền Trung và Rin (người dân tộc thiểu số) ở vùng núi cao, cùng nhau hoạt động, vận động đồng bào dân tộc đi theo cách mạng, đánh đuổi giặc Tây... Nhà thơ Thu Bồn, người quê Điện Bàn (Quảng Nam), sớm hoạt động cách mạng, làm báo ở Liên khu 5, rồi được cử lên địa bàn Tây Nguyên, nhà thơ đã sáng tác trường ca này khi đang hoạt động của vùng Chư Prông (Gia Lai), nơi có ngon núi cao nhất Tây Nguyên,... Đương nhiên, các địa danh, cảnh sắc, hơi thở và tính chất con người Tây nguyên hiện hữu trong trường ca. song ai dám bảo, Thu Bồn không phả vào đó hình ảnh của trai tráng quê hương miền biển Quảng Nam và chính bản thân mình vào trường ca qua nhân vật Hùng? Còn Rin, người dân tộc thiểu số, nhưng nhân vật này quê đâu trong mênh mông đại ngàn Trường Sơn miền Trung? Quảng Nam quê hương của nhà thơ với các huyện miền núi Hiên, Giằng, Phước Sơn, Trà My... tuy khác về đơn vị hành chính ngày nay, nhưng lại hòa chung một tính chất dân tộc miền núi cả đại ngàn Tây nguyên, ở phía đông Trường Sơn... Vì thế, Rin và đồng bào của mình có thể ở ngay chính vùng Chư Prông, nơi nhà thơ sáng tác trường ca, hay bất cứ một buôn làng nào đó trong bạt ngàn Tây Nguyên, như loài chim chơ-rao tự do chao lượn trên bầu trời đại ngàn Trường Sơn?... 
            Sau đó, khi chuẩn bị lên sóng tiếng Cơ-tu, tôi và các đồng nghiệp ở VOV Miền Trung có điều kiện gặp gỡ với đồng bào Cơ-tu, nhất là những người có kiến thức và sự hiểu biết về văn hóa phong tục dân tộc Cơ-tu như ông Arất Hơn (Chủ tịch Hội Khuyến học Tây Giang), một người có công sưu tập và truyền bá tiếng Cơ-tu, và ông Bríu Liếc (Chủ tịch UBND huyện Tây Giang), người biên soạn cuốn từ điển văn hóa phong tục Cơ-tu, thì được biết, người Cơ-tu rất yêu quý nhà thơ Thu Bồn, người con ưu tú của quê hương Quảng Nam mình, và họ cho rằng, trường ca Bài ca chim Chơ-rao là viết về cộng đồng Cơ-tu vốn sinh sống ở vùng Hiên, Giằng, Hòa Vang (Quảng Nam) và có thể cả khu vực Nam Đông, A Lưới của Thừa Thiên Huế... Trong một lần tâm sự, ông Bríu Liếc bày tọ sự tự hào rằng, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, không có một người dân Cơ-tu nào theo địch, họ một lòng theo cách mạng, chống ngoại xâm, như nhân vật Rin và buôn làng anh, là điển hình trong trường ca Bài ca chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn, của đất Quảng Nam son sắt, kiên trung... Vậy nên, người dân Cơ-tu thấy ở đó có bóng dáng văn hóa, phong tục, tập quán (như tục cà răng, căng tai, tượng nhà mồ, âm nhạc, hát lý, dân vũ, và nhiều nét sinh hoạt thường ngày... nhất là loài chim chơ-rao, loài chim thân thuộc hay đậu nóc nhà gươl )... Lẽ dĩ nhiên, cho rằng như vậy, vừa có căn cứ, vừa là cảm tính bởi sự yêu quý... Riêng mình, tôi thấy ở trường ca này của nhà thơ Thu Bồn có tính phổ quát cho các dân tộc sinh sống cả một dải đông Trường Sơn bao gồm phía tây miền núi các tỉnh từ Thừa Thiên Huế cho đến Khánh Hòa và các tỉnh Tây Nguyên...
           Quả là, vẻ đẹp văn chương đã lan tỏa đến những người làm báo chúng tôi, thêm yêu quý những người con của buôn làng Cơ-tu... Với riêng tôi, tình cảm yêu quý ấy, củng cố lòng quyết tâm thực hiện việc lập và phát sóng chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu. Một dân tộc có tiếng nói, chữ viết đã được La-tinh hóa, bản sắc văn hóa độc đáo, có truyền thống yêu nước cao độ, cư dân khá đông, sống rải rác dọc dãy Trường Sơn và vùng biên giới Việt-Lào, họ xứng đáng có một chương trình của mình trên sóng phát thanh của Đài quốc gia!...
           Rồi đó những ngày tất bật, quan trọng nhất là yếu tố con người. Chúng tôi đã tuyển được bốn nhân sự (2 cặp nam nữ) người dân tộc Cơ-tu ở các huyện Đông Giang, Nam Giang. Cái khó là, người Cơ-tu sống ở các vùng khác nhau (cao, trung, thấp) thì tiếng nói cũng ít nhiều khác nhau, vậy phải làm sao để tất cả cộng đồng dân tộc Cơ-tu và một số các dân tộc khác hiểu tiếng Cơ-tu như người Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân-kiều... cũng nghe được chương trình phát thanh này trong khi họ chưa có chương trình của riêng minh. Trình độ văn hóa đào tạo của các phát thanh viên Cơ-tu tương lai này cũng không đồng đều, duy nhất một em tốt nghiệp đại học Văn hóa,  người thì sau khi tốt nghiệp phổ thông có học thêm một vài lớp sơ cấp chuyên ngành ngắn hạn, người lại vừa tốt nghiệp phổ thông. Nghe nói tiếng Cơ-tu chỉ là một việc, song chuyển ngữ sang mẫu tự La-tinh sao đây, để thể hiện linh hoạt và sinh động văn bản Cơ-tu la-tinh trên sóng là rất khó,... Chúng tôi đã đưa các em lên thị trấn Prao (huyện lỵ của Đông Giang) nhờ ông Arất Hơn, một chuyên gia tiếng Cơ-tu, có kinh nghiệm giảng dạy, hường dẫn, chỉ bảo, kèm cặp hàng tháng giời mới tạm ổn. Hàm ý, chúng tôi ý thức việc cho các em được sống trong môi trường cộng đồng văn hóa, phong tục của mình mới là quan trọng, để ngay từ đầu, biết cách thể hiện bản sắc dân tộc mình trong sản phẩm báo chí. Rồi nữa, việc lựa chọn tên phát thanh viên, xây dựng và đặt tên các chuyên mục, âm nhạc, âm thanh, tiếng động sao cho mang hơi thở, sức sống, gợi không gian đẫm chất Cơ-tu...
          Vậy là, công sức của VOV miền Trung, sự nỗ lực của bản thân các em, sự hỗ trợ của địa phương và các đơn vị chức năng của VOV,  được đến đáp, khi ngày 15 tháng 9 năm 2009, chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu lần đầu tiên lên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi và vài đồng nghiệp lên Đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà kiểm tra khâu cuối cùng và chờ đợi... Đúng giờ phút, nhạc hiệu chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu vang lên, và lời chào của các phát thanh viên Cơ-tu lần đầu cất lên chào đồng bào Cơ-tu và thính giả xa gần,... khiến mấy anh em đồng nghiệp trong phòng máy kỹ thuật phát sóng mừng chảy nước mắt... Rồi cả hai đầu, Bà Nà và văn phòng cơ quan tại Tp.Đã nẵng nối điện thoại, thông báo cho nhau tín hiệu hai đầu đều tốt, cảm xúc mừng vui chộn rộn khi làn sóng phát thanh truyền tiếng nói Cơ-tu như những cánh chim chơ-rao bay lượn khắp bầu trời, trên bạt ngàn nương rãy và buôn làng Cơ-tu báo tin vui... 
           Ngay sau giờ phút lên sóng cảm động ấy, mọi người lại vùi đầu cho việc thăm dò, tìm tòi, điều chỉnh, để gần một tháng sau, vào ngày 12 tháng 10 năm 2009, Lễ công bố phát sóng chương trình tiếng Cơ-tu chính thức được diễn ra tưng bừng tại Đà Nẵng, có sự hiện diện của các bên cơ quan, chính quyền địa phương, đặc biệt là nhiều thính giả người dân tộc Cơ-tu từ buôn làng đến... Bà con vui mừng rưng rưng vô hạn, khi nghe tiếng nói của dân tộc mình trên làn sóng quốc gia, chào đón cánh sóng-cánh chim chơ-rao từ nay ngày ngày bay đến từng nhà sàn của buôn làng Cơ-tu... Với những người làm nghề chúng tôi, chung sự xúc động, còn mang ý nghĩa, đứa con thứ 12 của Hệ chương trình phát thanh tiếng dân tộc (VOV4) đã chào đời!... 

           Nhanh quá, mới ngày nào, vậy mà đã ngót 10 năm rồi đấy. Ngần ấy tháng ngày, có biết bao lo toan, khó khăn để duy trì và nâng cao chất lượng cho chương trình phát thanh này... Nhớ những ngày đầu. làm theo lối tắt, đường truyền của chương trình từ máy tính ở cơ quan qua internet đến mày tình của đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà, rồi từ đó tung lên trời, có những ngày mưa bão, mưa giông, đứt cáp truyền, chúng tôi lo đến thắt lòng làm sao nối lại cáp truyền, thậm chí, tính cả phương án nếu không kịp khôi phục đường truyền, phải cóp chương trình vào USB phi xe máy mang lên núi cao cho kịp giờ phát sóng... Lại nữa, lo nơi ăn chốn ở cho các bạn trẻ Cơ-tu đảm bảo cuộc sống hàng ngày để họ yên tâm làm việc... Ngần ấy khó khăn, rồi cũng vượt qua tất cả, khi đài phát sóng phải di dời từ đỉnh cao Bà Nà, nhường đất cho dự án phát triển du lịch khu vực, để xuống đỉnh cao Sơn Trà, mất vị thế độ cao vì  độ cao thấp bằng nửa so với cũ... Mừng nữa, các chàng trai cô gái Cơ-tu ngày nào bỡ ngỡ rời núi về phố làm phát thanh viên, nay đã phương trưởng, tu nghiệp bằng cấp đầy đủ, kinh nghiệm dày lên, và nhiều người không chỉ là phát thanh viên đơn thuần, mà đã trở thành cây bút thực thụ ... Mới đây, trong một lần đến Tây Nguyên, tôi có gặp nhà báo Đỗ Trọng Phụng, người từng công tác tại Cơ quan VOV Tây Nguyên ở Buôn-ma-thuột. Chuyện nghề, nhà báo Đỗ Trọng Phụng bảo, ngày ấy, ông đang chịu trách nhiệm quản lý Phòng Phát thanh tiếng dân tộc của VOV Tây Nguyên, với 6 thứ tiếng hàng ngày. Khi VOV Miền Trung lên sóng chương trình tiếng Cơ-tu, ông đã thích thú và khâm phục những người làm chương trình vì thấy ở đấy cái mới và sự sinh động. Ông đã nhắc nhở các biên tập viên của mình, hãy biết cách gạt đi sự tự hào và ỷ lại, để lắng nghe và học tập các bạn trẻ Cơ-tu. Tôi tin, ông thực lòng, khi bộc lộ điều này...
          Sau này, theo xu thế mới, phát thanh hiện đại, đa phương tiện, đa nền tảng để thích nghi với công nghệ 4.0, tiếng Cơ-tu cũng như toàn bộ chương trình tiếng dân tộc VOV4 đều ra thêm trang thông tin điện tử, thay vì cánh sóng, kỹ thuật internet đưa các chương trình tiếng dân tộc vươn xa khắp mọi nơi, đến với từng con người bằng lợi thế của mình. 
Khi một ngôn ngữ của dân tộc nào đó được sử dụng trên phương tiện báo chí, văn học nghệ thuật, ấy là dân tộc ấy có điều kiện phát triển mà vẫn có điều kiện bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Thế giới phẳng ngày nay, văn mình thế giới ùa vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu, sự giao thao văn hóa là một tất yếu, song vô hình chung, đã xảy ra một cuộc "xâm lăng" về mặt văn hóa của các nước mạnh... Có một ví dụ nho nhỏ, ngay trên chính những buôn làng Cơ-tu, ngày nào, bà con chỉ biết đến nương rãy, chiêng trống, múa hát... thì nay, thanh niên trai gái lại thích diện áo phông, quần bò, áo sơ-mi, váy tây, vợ chồng trẻ cưới nhau, sinh nở đặt tên toàn là tên nhân vật trong phim, hay tên các ngôi sao điện ảnh Hàn Quốc vì bội thực phim Hàn Quốc trên các kênh ti vi... Sự phai nhạt bản sắc dân tộc từ những điều nhỏ nhất ấy, không mấy ai để ý, diễn ra hàng ngày, và rồi đến một lúc nào đó, ta ngỡ ngàng nhận ra, nhiều biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc mình đã phai màu, thậm chí không còn nữa. Của cải, vật chất có thể mất đi, rồi lấy lại không mấy khó, còn khi bản sắc văn hóa mất đi, có thể sẽ mất đi vĩnh viễn, khó lấy lại lắm thay... Tuy nhiên, của cải là của mỗi người nên của ai nấy giữ, còn bản sắc văn hóa kia lại là của chung cộng đồng, dân tộc, thì ai giữ đây?!...
           Một câu hỏi khó giải đáp, ở quy mô cộng đồng, dân tộc, quốc gia, trong khi sự đa dạng về văn hóa vốn là tài sản quý báu của loài người, lại đang bị đồng hóa bởi số ít thực thể văn hóa của các nước mạnh. Sẽ là nhàm chán bao nhiêu, thậm chí sẽ là thất bại, khi không còn sự đa dạng về văn hóa?
            Với suy nghĩ đó, chỉ từ một thứ tiếng dân tộc, tiếng Cơ-tu, một trong 12 tiếng dân tộc được lên sóng đài phát thanh quốc gia, tôi đã bàn thêm về vai trò, sự quan trọng của nó trong công cuộc bảo tồn ngôn ngữ và qua đó góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số... Hiện giờ, chỉ là con số 12, nhưng một ngày nào đó, có thể sẽ là ngôn ngữ khác như Tày Nùng, Pa-cô, Vân-kiều lên sóng...
            Các bạn trẻ Cơ-tu của tôi ơi, các bạn đã lớn lên nhiều, đã thật sự trưởng thành rồi, hãy biết yêu quý và trân trọng những ngày tháng qua... Ơi, những A-lăng Lợi, Vơ-ních Oang, A-lanh Kim Cương, Hoith Nhàn, A-viết Sĩ, các bạn đã là những cánh chim chơ-rao của đại ngàn, của buôn làng Cơ-tu rồi đấy,... Các bạn đã gặt hái được những thành công, đó là những Giải Vàng trong Liên hoan Phát thanh toàn quốc, nhưng hơn cả, các bạn đã ở trong lòng mỗi người dân Cơ-tu, bởi ngày ngày các bạn đã làm bà con buôn làng Cơ-tu “ưng cái bụng”...  Hãy cùng các đồng nghiệp yêu quý của tôi ở VOV Miền Trung, cần cù và sáng tạo, biết chắt chiu để góp gió, nâng cao cánh sóng Cơ-tu...
            Giờ đây, vẫn những câu thơ của nhà thơ Thu Bồn theo tôi trong dòng ký ức về một thời: "Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang..." ./.

 

 

 

Chuyện học sinh giỏi văn,

 

 

Ngày xưa, hồi tôi đi học phổ thông, ngành Giáo dục ở ta đã sớm ý thức việc đào tạo học sinh giỏi các cấp. Tôi nhớ không nhầm, ngày ấy, người ta chỉ tập trung và hai môn chính, là Toán (Tự nhiên) và Văn (Xã hội). Hằng năm, theo hệ phổ thông 10/10, đều tổ chức kỳ thi học sinh giỏi tất cả các lớp từ 1-10. Nhưng, chỉ riêng các lớp cuối cấp là 4 (cấp I), 7 (cấp II) và 10 (cấp III) là lần lượt tổ chức kỳ thi học sinh giỏi từ cấp huyện, tỉnh thành phố và sau cùng là Toàn miền Bắc (khi ấy chưa thống nhất đất nước, còn phân miền Bắc-Nam). Riêng lớp 10 thì tổ chức kỳ thi từ cấp tỉnh, rồi toàn miền Bắc. Sau năm 1975, thống nhất chung ngành Giáo dục cả nước, thì cấp thi cao nhất là Toàn quốc, và theo đà phát triển mở rộng, các môn thi cũng được mở rộng sang các môn tự nhiên, xã hội khác (ngoài Toán và Văn)...

Thực ra, ngày ấy, cũng chưa có trường chuyên lớp chọn mang tính phổ biến ở các cấp và nhiều môn học như sau này. Thường là, sau mỗi kỳ thi học sinh giỏi các cấp, phát hiện ra một số học sinh giỏi, đúng ra là có năng khiếu Toán hoặc Văn, tập trung thành đội tuyển, mời một số giáo viên được cho là dạy giỏi hai bộ môn này, đến giảng dạy cho đội tuyển trong một thời gian ngắn. Cách đào tạo này na ná như huấn luyện gà nòi để thi đấu vậy. 

            Năm học lớp 4, tức là cuối cấp 1, tôi được chọn vào đội tuyển của cấp huyện, cũng tập trung ôn luyện chừng nửa tháng rồi tham dự kỳ thi học sinh giỏi Văn cấp tỉnh. Ngày ấy, tôi còn nhỏ và cũng không đạt kết quả gì, nên không nhớ kỹ, song tôi mang máng, chúng tôi cũng được rèn theo kiểu đề bài mở, chẳng hạn như "Em phải xa một làng quê một thời gian dài. Khi xa em nhớ nhất những gì ở làng quê mình? Em hãy kể chuyện đó...". Vậy cũng là khó rồi. 

Cho đến lớp 10, cuối cấp 3, tôi lại may mắn trúng vào đội tuyển học sinh giỏi môn văn của rỉnh Hải Hưng. Đề thi ở cấp tỉnh, không phải là đề mở, vẫn là kiểu cách bình giảng một chủ đề cúa tác phẩm văn học được giảng dạy trong chương trình học, tuy khó nhưng không có gì đặc biệt.
             Mùa xuân, 1975, đội tuyển học sinh giỏi mon Văn lớp 10 của Hải Hưng có 20 người được triệu tập về Trường cấp III Hồng  Quang, tại thị xã Hải Dương, hầu hết các huyện trong tỉnh đều có học sinh được chọn, tôi thuộc huyện Mỹ Hào. Năm lớp 8 tôi học ở Trường Cấp III Văn Lâm, nhưng sang lớp 9 thì tôi xin chuyển trường về Mỹ Hào cho gần nhà, đi học đỡ vất vả. Năm ấy, cấp III Văn Lâm, trường cũ của tôi không có ai được tuyển, nên tôi thấy buồn buồn. Tề tựu về cấp III Hồng Quang, tôi biết tin đội tuyển của mình có nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa nên mừng lắm. Từ khi học cấp I, tôi đã nghe danh về nhà thơ thiếu nhi này rồi, tuy nhiên chỉ nghe trên đài nói này nọ chứ đâu có sách báo để đọc mà biết thơ của Trần Đăng Khoa hay thế nào. May mắn, năm tôi học lớp 8 ở trường cấp III Văn Lâm, thầy giáo dạy Văn lớp tôi là thầy Lê Thường, một giáo viên giỏi bộ môn Văn của Ty giáo dục Hải Hưng. Thầy Lê Thường người Hà Nội, trước đó có nhiều năm công tác ở Ty Giáo dục Hải Hưng, và từng được Ty phân công tìm kiếm, phát hiện, theo dõi và kèm cặp các học sinh có năng khiếu Văn học, đặng ươm mầm tài năng, mong có được những Trần Đăng Khoa khác nữa. Thầy Lê Thường đi về nhiều địa phương trong tỉnh, và thầy cũng đã nhiều lần gặp gỡ, nói chuyện, với Trần Đăng Khoa, và sau đó viết bài phê bình, nghiên cứu về thơ Khoa. Tôi nhớ, khi dạy chúng tôi, thầy Lê Thường hay nói chuyện về thơ Trần Đăng Khoa. Thầy đăng đàn ngoại khóa Văn học nói chuyện cả buổi về Trần Đăng Khoa và tài năng thơ ca của thần đồng thơ. Thầy thuộc hầu hết thơ Khoa và hay chọn những bài điển hình đọc cho chúng tôi nghe. Tôi thích lắm, noi theo tập tọng làm thơ...
           Hôm đầu gặp mặt cả đội tuyển, tôi háo hức lần đầu gặp mặt thần đồng thơ mà tôi ngưỡng mộ bấy lâu. Vì thiếu cơ sở vật chất, nhà trường lầy tạm một căn phòng rộng, mà giữa phòng vẫn kê một chiếc bàn bóng bàn. Tất cả hai mươi đứa từ các trường cấp 3 trong tỉnh, được lựa chọn về đội tuyển, ngồi xung quanh chiếc bàn bóng bàn. Thầy giáo phụ trách đội tuyển là thầy Hậu, giáo viên dạy mon văn của trường Hồng Quang, được Ty Giáo dục cử phụ trách, đồng thời cũng là người dạy chính cho đội tuyển. Thầy Hậu dáng vè hiền lành, cử chỉ điềm đạm, phổ biến nội quy chung. Tôi nhìn quanh điểm qua tất cả các gương mặt, thầm tìm kiếm ai là thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Tôi quan sát một khuôn mặt nam sinh đeo cặp kính cận dày cộm, vì đoán đó là Khoa. Cậu ta luôn cúi xuống, chốc chốc ngước mình, mủm mỉm cười, tay cầm một chiếc bút vạch vạch vào mặt bàn bóng. Tôi hơi khó chịu, bởi là người biết chơi bóng bàn, tôi hiểu, việc đó rất có thể gây xước mặt bàn làm lệch đường bay của quả bóng nếu trúng vào vết xước. Thậm chí tôi bực mình, nhẩm bụng chê thần đồng thơ gì mà lại nghịch như vậy. Đến khi thày Hậu mời Trần Đăng Khoa phát biểu, thấy anh chàng phục phịch thấp lùn đứng lên, tôi thầm à lên, biết mình "bé cái nhầm". Anh chàng cận thị kia là Trịnh Bá Ninh, cùng trường cấp 3 Nam Sách với Trần Đăng Khoa. Thời gian ở đội tuyển, ba chúng tôi thân nhau như anh em, và tình bạn thân bộ ba ấy theo đến bây giờ... 
           Trở lại câu chuyện đội tuyển văn. Ngày ấy, mỗi đứa trong đội tuyển được đưa về ở nhờ nhà của một học sinh trong trường, nên ba đứa tôi không được ở cùng nhau. Thời gian ở đội tuyển, chúng tôi phải học cả ngày, buổi sáng bồi dưỡng văn, buổi chiều học các môn học khác cho kịp chương trình và để còn thi tốt nghiệp. Thày Hậu là người dạy văn chính, còn có thày Trị được mời từ một trường trong tỉnh lên giảng một số tiết. Chương trình bồi dưỡng môn văn, chúng tôi được ôn luyện các thể loại văn nghị luận chính như chứng minh, giải thích, bình giảng và sự kết hợp các thể loại này. Cùng đó, chúng tôi tập phân tích một số bài văn mẫu. Thêm nữa, có một số buổi ngoại khóa, nói chuyện văn thơ theo chủ để, nhằm mở mang kiến thức văn học chung... Năm ấy, thày Lê Thường không được gọi dạy đội tuyển, nhưng một lần đi công tác Ty Giáo dục, thày Lê Thường ghé thăm đội tuyển. Thày rất vui khi gặp lại tôi, người học trò cưng của thày khi tôi học ở trường cấp 3 Văn Lâm. Khi đó, tôi đứng đầu khối về môn văn, được thày Lê Thường tin tưởng, nhờ chép lại vào sổ lưu trữ một số bài văn hay của học sinh các trường mà thày tuyển chọn ra. Thày vui hơn khi gặp lại Trần Đăng Khoa. Khi còn công tác ở Ty giáo dục Hải Hưng, thày Lê Thường được giao nhiệm vụ tìm kiếm học sinh có năng khiếu văn học, nên thày từng qua lại nhà Trần Đăng Khoa nhiều lần, thân tình với gia đình Khoa, bố mẹ, anh ruột Khoa là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Thời gian ấy, chúng tôi còn được gặp gỡ một số văn nghệ sĩ của tỉnh nhà như nhà thơ Ngô Hoàng Anh, nhà văn Nguyễn Phúc Lai, nhà văn Triều Dương (Triều Dương khi đó ở Đài Phát thanh tỉnh, sau về tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn). Ngày ấy, ấn tượng nhất đối với tôi, không phải là các nhà văn, nhà thơ địa phương, mà là một cán bộ Tỉnh đoàn, chị Trần Thị Duyên. Chị Duyên, quê Thái Bình, cơ duyên đưa chị về công tác ở Tỉnh đoàn Hải Hưng, và chị là một cán bộ đoàn gương mẫu, người chị-người bạn thân thiết với Trần Đăng Khoa từ thời Khoa còn là thiếu nhi mới tập làm thơ. Chủ nhật, Khoa hay dẫn chúng tôi đến Tỉnh đoàn thăm chị Duyên, khi đó chị ở một căn phòng khu tập tập thể. Tôi nhận từ chị thứ tình cảm trìu mến, ấm áp. Biết chị bị bệnh tim, ngày càng nặng thêm,  khó qua khỏi, biết chị nhiều lúc cô đơn, khi chị từng từ chối tình cảm luyến ái của vài ba đàn ông vì không muốn làm phiền đến cuộc sống của họ... Mỗi khi chúng tôi đến, chị vui lắm. Mấy chị em líu ríu cả buổi. Sau khi giải tán lớp, mọi người về lại trường cũ, chị Duyên giữ địa chỉ, hay gửi thư thăm hỏi, động viên, nhất là mỗi khi có chuyện buồn. Khoa vào bộ đội, chúng tôi vào đại học, tứ tán dần, chỉ còn lại bộ ba Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh- và tôi là giữ mối liên lạc thường xuyên, qua lại nhà nhau. Mấy năm sau, chị Duyên mất vì căn bệnh tim, không ai trong số chúng tôi biết lúc đó. Sau Khoa biết tin, báo cho chúng tôi, mọi người rất buồn và thương nhớ chị. Riêng Khoa viết bài bài thơ “Bến đò” về chị, hay và cảm động. Câu kết thức dậy trong lòng người về một thuở “... Ta đi theo/ lòng vẫn ở nơi đây/ ai cũng chỉ có một lần/ cái thuở thơ ngây...”... Gần đây, xem bộ phim tài liệu “Thế giới nhỏ của Khoa” do truyền hình Pháp thực hiện từ ngày Khoa mới làm thơ, cùng hình ảnh nhà thơ Xuân Diệu, thấp thoáng bóng hình chị Trần Thị Duyên, tôi bồi hồi nhớ vê một thuở học trò giỏi văn ngày ấy....
           Lại chuyện thi. Năm ấy, kỳ thi được tổ chức lập Hội đồng thi tại từng tỉnh, khi đọc đề thi, mọi người ngơ ngác với dòng chữ cụt lủn "Văn học với việc xây đắp tâm hồn anh (chị)". Thể loại gì? Làm thế nào đây? Ai cũng bần thần. Tôi mất nửa tiếng đồng hồ, không biết bắt đầu như thế nào... Sau cái mở bài khá chật vật, tôi viết liên hồi kỳ trận, viết như kẻ mộng du, viết về sự say mê văn học từ ngày còn nhỏ, viết về văn học đã tác động lại mình như thế nào... Tóm lại là nghĩ sao viết vậy, viết như một sự giải tỏa, trài lòng... Mươi trang giấy kín đặc, viết đến mỏi rã tay cho đến hêt giờ. Nộp bài thi, cũng chẳng hiểu bài mình thuộc thể loại nào. Sau này, khi đã trưởng thành, cầm bút viết văn, tôi nghĩ, bài văn ngày ấy của tôi là tùy bút cũng nên. 
           Kỳ thi ấy, đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Nghe nói, đội tuyển Hải Hưng người cao điểm nhất cũng không vượt quá điểm 10/20 (theo qui chế, từ điểm 11/20 mới được xét giải). Thi xong, cả đội cười đùa vui vẻ, trêu nhau vì không biết làm theo thể loại nào. Cũng chẳng ai áp lực gì, có chăng Trần Đăng Khoa, bởi chàng ta là thần đồng thơ, lại giật giải Nhất kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc hồi cấp 2 (lớp 7/10). Kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền Bắc cuối cùng ấy (4.1975), người đoạt giải nhất là một nữ học sinh chuyên văn trường cấp 3 Thái Phiên, Hải Phòng, được chấm điểm 16/20. Mãi về sau, khi các loại sách tuyển chọn này nọ được xuất bản, tôi mới biết, đấy là năm đầu tiên Ngành giáo dục của ta dùng đề thi mở, và đáp án của đề thi ấy, yêu cầu thí sinh phải nêu được các chức năng cơ bản của văn học, rồi dùng các tác phẩm văn học đã đọc và học để chứng minh cho từng chức năng ấy... Thảo nào, ngày ấy, đội tuyển chúng tôi trượt hết, bởi chẳng một ai nghĩ ra vậy... 
           Song chẳng hề hấn gì, cái chính là chúng tôi được gặp và quen nhau, trở thành bạn thân đi bên nhau dọc chặng đường đời. Chúng tôi chia tay thày Hậu, thày Trị và những thày cô khác ở trường cấp 3 Hồng Quang. Chúng tôi, hai mươi thành viên đội tuyển chia tay nhau với những dòng lưu bút... Tất cả cùng ghi nhớ, bữa cơm liên hoan chia tay, trưa ngày 15/4/1975. Lưu luyến lắm, đã có nước mắt, và cả những mối tình lứa đôi nảy nở... Ai về trường ấy, riêng Trần Đăng Khoa đến tỉnh đội để nộp đơn xin nhập ngũ... Lúc ấy, tin chiến thắng dồn dập bay về từ chiến trường Miền Nam, những ngày sôi sục của chiến dịch Hồ Chí Minh...
           Về đến trường, bắt đầu những ngày ôn thi, thi học kỳ 2 và chuẩn bị thi tốt nghiệp. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Niềm hân hoan vỡ òa, khiến lũ học sinh cuối cấp chúng tôi như muốn bay lên. Từ đây, tha hồ học hành, để bay đến mọi miền khi non sông liền một dải... Phần lớn những thành viên chúng tôi vào đại học, những lạ thay, không một ai học ngành văn học cả. Tôi và Trịnh Bá Ninh học đại học nông nghiệp, Trần Đăng Khoa vẫn miệt mài quân ngũ, hay như Nguyễn Việt An học ngành điện, vào quân đội rồi thành chủ doanh nghiệp, song lòng yêu văn chương thì vẫn theo cùng. Có sao đâu, khi mầy chúng tôi vẫn theo đuổi văn chương, báo chí, để sau này và cho đến bây giờ, đều là dân báo chuyên nghiệp, văn thơ đủ loại. 
           Nhớ lại chuyện học sinh giỏi văn, còn là cái cớ để bàn thêm việc đào tạo gà chọi thi đấu, và việc ra đề mở của ngành giáo dục. Nên hay không nên đây ?
            Theo tôi, việc đào tạo học sinh giỏi văn kiểu gà chọi, nhằm thì thố giật giải này giải nọ, cho đến cùng, vẫn là "thành tích chủ nghĩa", giờ không nên duy trì nữa vì thực sự không cần thiết. Thành tích ấy chẳng nói lên điều gì. Với mỗi cá nhân, không riêng gì môn văn học, để có kiến thức cơ bản, đương nhiên việc giảng dạy ở các cấp học là cần thiết, nhưng để có một tài năng, thành nhân tài, có đóng góp cho sự tiến bộ và phát triển xã hội, lại phần lớn nhờ tư chất thông minh, sáng tạo và sự khổ luyện, nỗ lực của cá nhân đó. Điều ấy, lại mang tính chất cá biệt, chẳng thể đào tạo, bồi dưỡng. huấn luyện  mà thành. Thực tiễn đời sống xã hội đông tây kim cổ đã cho thấy chân lý đó. Trong một hội thảo bàn về giáo dục do Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức, có sự tham gia của một số vị lãnh đạo cao nhất ngành và các chuyên gia giáo dục xã hội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tham luận, đưa ra ý kiến, rằng anh có mười năm đi học, và sau đó phải mất mười năm để thoát ra khỏi cái vỏ kén kiến thức phổ thông mà trưởng thành như bây giờ. Như vậy, không có nghĩa là  phủ nhận vai trò của giáo dục, mà hàm ý, chỉ coi giáo dục như những chất liệu cơ bản, để mỗi người tự thiết kế, tạo nên sản phẩm mang dấu ấn cá nhân; rằng giáo dục ban đầu, không phải là cái bục cao, để rồi người ta đứng trên cái bục ấy thành cao hơn... Xin nói gọn trong lĩnh vực văn học, năng khiếu thiên bẩm là quan trọng nhất, còn việc học tập, bồi dưỡng kiến thức là góp  cho tài năng thiên bẩm ấy phát sáng thôi.
            Riêng việc ra đề mở môn văn học (và có thể mở rộng sang các môn xã hội khác như lịch sử, địa lý, triết học,...) là rất nên. Cần khuyến khích các nhà trường, các kỳ thi sử dụng đề mở. Những năm gần đây, ngành giáo dục sốt sắng thực hiện cải tiến, trong đó có việc làm sách giáo khoa, tổ chức thi cử, cấu trúc đề thi... Điều đó là chủ trương đúng, nhưng khi thực hiện, lại rất chi lúng túng, được cái này thì hỏng cái khác, tránh tả khuynh lại chạy sang hữu khuyên. Vì lẽ ấy, hầu như sau mỗi kỳ thi (vào bậc THCS, tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng), cả xã hội lại được dịp bàn tán, chê bai này nọ. Chê chán, người ta lại mang so sánh với các quốc gia có nền giáo dục tiến bộ. Việc ra đề mở cũng vậy... Đã có bao nhiêu bài viết trên mạng xã hội bàn luận về việc đề thi mở trong các kỳ thi tú tài ở Trung Quốc...
            Tôi nhớ, hơn chục năm trước, năm 2007, tôi tình cờ đọc một bài viết bàn về đề thi tú tài môn văn ở Bắc Kinh, yêu cầu thí sinh thẩm 2 câu thơ trong bài thơ Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên của Lưu Trường Khanh, đời Đường: "
            ",(Tế vũ thấp y khan bất kiến / Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh, dịch nghĩa là: mưa phùn làm ướt áo, có nhìn mà chẳng thấy/ hoa rơi từ từ xuống đất, nghe không tiếng động). Khi đó, tôi đã nghĩ là khó nhưng rất hay. Những năm gần đây đề mở họ ra còn thú vị hơn nhiều. Ví như mùa hè 2019, đề thi văn ở tỉnh Giang Tô, khiến mọi người phải lè lưỡi công nhận là hay và cực khó (Dựa theo tài liệu bên dưới, chọn góc độ, tự nghĩ đề bài, viết bài văn trên 800 chữ, không hạn chế thể văn (trừ thơ)."Mỗi vật đều có 1 tính, nước thì nhạt, muối thì mặn. Nước thêm nước vẫn là nước, muối thêm muối vẫn là muối. Chua ngọt cay nhạt mặn, năm vị điều hòa, cùng tồn tại hòa trộn tạo ra trăm ngàn vị khác. Vật đã thế, sự việc cũng thế, con người càng thế."). Và người ta lại bàn tán về bài luận của cậu học sinh đạt điểm tuyệt đối. Tôi không lạm bàn về đề thi này, song tôi ủng hộ cách ra đề mở kiều này. Cái gì hay và phù hợp thì nên nghiên cứu học tập. Tôi nghĩ, ngành giáo dục ở ta nên nghiêm túc nhìn lại mình. Có thể, kỳ thi mang tính phổ cập thì áp dụng đề mở các môn xã hội tự luận ở mức độ nào đó, nhưng các kỳ thi mang tính tuyển chọn thì nên áp dụng...
         
Thiết nghĩ, học sinh giỏi văn, và mở ra các môn xã hội khác, là để học kiến thức nền, còn muốn trở thành nhà nọ, nhà kia thì phải có năng khiếu, lòng đam mê và sự nỗ lực khác thường, mà những phẩm chất đó, không thể đào tạo, bồi dường mà nên.
         
Học giỏi văn, mà thiếu phẩm chất như vừa nêu, thì có mang danh xưng nhà nọ, nhà kia, vẫn chỉ là thứ "văn chương học trò" mà thôi!,,,

 

 

 

Có ai đò dọc cùng tôi ?...

 

 

Có ai đò dọc cùng tôi ?...

Tôi viết bài tùy bút "Thương nhớ những chuyến phà", đăng trên trang blog cá nhân, nhà văn Trần Tâm ở Quảng Ninh đọc rồi buông một câu cảm thán "Cuộc đời con người ta, phà sang ngang thì nhiều, nhưng hỏi có mấy ai đi đò dọc!?...". Tôi đáp: "Đò dọc nhọc nhằn, gian nan lắm, liệu mấy ai dám?...". Biết là, vất vả, nhọc nhằn đấy, nhưng việc đến người thì người phải đi thôi...

Vậy có ai đò dọc với tôi không?...

Là đò dọc thật, chứ không phải biểu theo nghĩa bóng, đi đò dọc cuộc đời, tức là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Tôi có đò dọc cuộc đời của tôi, và bạn thì cũng vậy. Nên chăng, ta có thể cùng nhau làm một chuyến đò dọc kiểu du ngoạn, souvenir với nhau mà thôi... Khi chờ đợi ai đó cùng đò dọc, tôi sẽ kể đôi chuyến đò dọc mà tôi đã từng trong cuộc đời bươn chải đây đó của mình...
           Tôi nhớ, ngày đi học, khi kể chuyện cuộc đời này nọ, bố tôi hay đọc câu ca "Thuận buồm xuôi gió thì chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh thì buồi anh dái chú". Thật tình, tôi không nỡ dùng từ tục, nhưng không giữ nguyên câu cửa miệng ấy thì chẳng thể lột tả được ngữ nghĩa, hàm ý của câu ca. Hàm ý, mượn chuyện đi đò dọc, để nhắc nhở, răn con người ta, chơi với nhau, kết chạ cùng làm việc, khi thuận buồm xuôi gió thì ra bề thân tình lắm, nhưng lúc lên thác xuống ghềnh, gian nan khó nhọc, người ta dễ này sinh mâu thuẫn, và lúc đó mới hiểu lòng người...
            Hồi tôi đang làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, cách đây cũng đã hơn ba chục năm rồi, tôi hay phải đi công tác cơ sở. Từ thị trấn huyện lỵ, đến các xã xa nhất, giáp biên giới với tỉnh Cam-pốt, Tà-keo của Campuchia, tôi thường chọn phương tiện tàu đò, ấy là đò dọc. Cỡ ba chục cây số, đò chạy tằng tằng len lách theo kênh dọc giữa đồng đất bạt ngàn tràm và năn nác. Mùa mước nổi mênh mông, chao ơi là sốt ruột. Khách đi tàu đò phần lớn là người buôn bán nhỏ, hàng hóa đủ loại, mùi cá mắm, gà vịt, hơi người nặng mùi, nhức mũi. Nhưng khổ nhất là cái khoản tiểu tiện. Giữa đồng nước chẳng đâu là bến bờ, chẳng biết đi vào đâu, mà nhịn thì cặng bụng muốn chết ngất...
           Có một lần, tôi làm chuyến đò dọc thực đã đời. Khi ấy, cơ quan tôi mua mấy trăm con bò, do thương lái gom từ bên Campuchia. Tiền đầu tư từ ngân sách của huyện. Cậu giám đốc người địa phương, thuộc diện thoát nạn mù chữ, chỉ thạo mỗi chữ ký, nên tôi với  tư cách là Phó giám đốc nông trường được giao chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục thanh toán tại hai đầu mua-bán, qua ngân hàng Tri Tôn (An Giang) và Hà Tiên (Kiên Giang). Từ thị trấn Tri Tôn đến Hà Tiên ước chừng 150 km theo đường thủy. Cả thảy ba người, tôi cùng một nhân viên nam người địa phương, thông thạo đường xá và nữ kế toán trưởng, thuê một tàu đò nhỏ trọn gói đi Hà Tiên. Theo kênh Tám Ngàn, tàu chạy miết ngang qua Hòn Đất, vùng đất mà nhà văn Anh Đức đã lầy chất liệu sống từ cuốc đời hoạt động của nữ anh hùng Phan Thị Ràng để xây dựng nên nhân vật chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của mình. Tàu đò theo các con lạch xuyên giữa đồng tràm bạt ngàn. Đất vùng này nhiễm phèn nặng, chỉ thích hợp với tràm. Chẳng thế mà, trước đây, không hiểu sao ngành nông nghiệp lại quy hoạch triển khai hàng chục nông trường chuyên canh lúa. Cứ cuối mùa mưa, đầu mùa khô, lúa đang thì con gái thì sặc phèn chết úa gần hết, lúc thu hoạch lúa được thóc thịt chỉ bằng một phần mười số thóc giống sạ xuống. Chính cái nông trường chăn nuôi bò tôi đang làm việc, ngay trước đó cũng lâm vào tình trạng như vậy, Bộ chủ quản bỏ của chạy lấy người, trả lại đất đai và cơ sở cho địa phương quản lý, tìm hướng chuyển đổi cây con phù hợp với đất đai, thổ ngơi bản địa... Ờ thời điểm ấy, tôi đã nghe nói, người ta đổ lỗi cho những ai đó, trong đó, có một nhà báo, viết sách ca ngợi hết lời về đồng bằng sông Cửu Long là vụa lúa của đất nước, với cách ví von hình tượng là đất nước ta mang hình cái đòn gánh, dải đất miền Trung, gánh hai thúng thóc hai đầu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Hình tượng thì quả là đẹp và ý nghĩa, nhưng đồng bằng lưu vực sông Hồng, nhiều năm đã thực sự là vựa lúa của miền Bắc, chứ đồng bằng sông Cửu Long khi ấy, mặc dù rộng lớn hơn nhiều, song mới chỉ là tiềm năng. Và một người nữa, người làm công việc quy hoạch, hoặc định chính sách của nhà nước, người định biến ý tưởng và hình tượng ví von của nhà báo nọ, thành hiện thực. Người ta rầm rộ cho thành lập hàng chục nông trường chuyên canh lúa ở vùng tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, và kết quả thất bại thảm hại, thóc lúa thu hoạch chỉ bằng một phần nhỏ của thóc giống gieo sạ, chưa kể bao nhiêu chi phí đầu tư khác. Sau nhiều thất bại cay đắng, vật lộn chuyển đổi mô hình canh tác, thau chua rửa phèn, rồi cũng đến ngày đồng đất miền Tây Nam bộ thành vựa lúa thật, khi người ta thay đổi tư duy, cơ cấu lại cây trồng thích hợp...
          Tàu đò của chúng tôi chạy mải miết, vợ chồng chủ tàu, chồng cầm lái, vợ nấu cơm bằng bếp đun than củi ngay trên tàu, phục vụ bữa ăn cho mọi người. Về phía Hà Tiên, xa xa thấy cột ống khói của nhà máy xi măng vươn trên bầu trời, ngày ấy, chúng là biểu tượng của công nghiệp ở miền Tây. Trời ngả bóng chiều, tàu đò đến vùng biển Vĩnh Hồ, nơi hội tụ của nhiều dòng kênh, trong đó có kênh Vĩnh Tế. Vĩnh Hồ tấp nập tàu thuyền vào ra, ngang dọc trong bóng hoàng hôn, ngút xa là cửa biển, bên kia là trung tâm thị trấn, cảnh sắc thật nên thơ. Tôi đã từng đọc lịch sử hình thành vùng đất này, hiểu câu chuyện của cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, đã dày công mở đất từ thời các chúa Nguyễn đàng trong. Biết lịch sử, tìm hiểu  thơ văn của Tao đàn Chiêu Anh các với Hà Tiên thập vịnh nổi tiếng...
            Sau một ngày tàu thuyền vất vả, đêm ấy, giấc ngủ vẫn chập chờn, phần lạ nhà, phần việc chính chưa xong. Sáng trở ra, ăn sáng và nhấp chút cà phê rồi vội đến ngân hàng. Xong thủ tục, cũng chẳng thời gian đâu mà ngắm nghía, len lách qua chợ đông đúc để trở về bến tàu đò, và lặng lẽ rời Hà Tiên. Thực lòng, tôi muốn thăm thú chút đỉnh, nhất là thăm chùa Hang,Thạch động, nhưng gấp việc, nên chẳng lòng dạ nào... Tàu lại cần mẫn, mải miết về lại Tri Tôn. Mấy bữa ăn cũng quấy quá cho xong. Mệt bã người, chui vào trong mui, nằm ngủ vùi, cho đến mãi nửa đêm thì về đến nông trường... 
          Mãi sau này, khi làm báo, tôi mới trở lại vùng đất Hà Tiên, bấy giờ mới có điều kiện thăm thú đây đó trong Hà Tiên thập vịnh. Và phải sau nhiều năm nữa, mùa hè 2018, tôi lại về Hà Tiên. Đi bằng xe hơi, nhanh chóng nên thăm thú được nhiều. Vẫn những di tích, danh thắng xưa, song nay đổi khác nhiều. Để kinh doanh du lịch, người ta cho mở rộng, thiết kế này nọ, nguy nga, sáng láng lắm, nhưng thực lòng, tôi thích vẻ xưa hơn... 
Chuyến đò dọc đi Hà Tiên năm 1985 ấy, dù sao vẫn khá êm ả bởi chúng tôi thuê bao cả chuyến, lại không gặp bất trắc gì. Sau này, đò dọc mà lại là đò chợ, phức tạp hơn nhiều. Tôi xin lại đây,...
          Đã 27 năm qua rồi, vẫn nhớ chuyến đi ấy. Hè năm 1992, tôi tháp tùng nhà văn Đặng Quang Tình, khi đó là Trưởng ban Thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), từ Hà Nội vào Nam thực hiện một công việc quan trọng, điều tra thính giả nghe đài. Xong công việc ở Nha Trang (Phú Khánh) và tại thành phố Hồ Chí Minh, thày trò chúng tôi đi Miền Tây. Cơ quan thường trú của Đài tại phía Nam điều hẳn một xe phục vụ. Ở Cần Thơ, bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang khi ấy là ông Nguyễn Hà Phan rất nhiệt tình với việc điều tra thính giả nghe đài trên địa bàn, khi chúng tôi đặt vấn đề trước. Song mọi việc ở đây, tạm chờ, ưu tiên cho chuyến xuống Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau). Tỉnh lỵ tại thị xã Bạc Liêu thì tôi khá thạo, bởi thời gian còn công tác ở An Giang, tôi đã vài lần sang đây, thăm các bạn cùng lớp Đại học Nông nghiệp I về công tác ở tỉnh này. Nhà văn Đặng Quang Tình bảo, phải điều tra ở Cà Mau mới đích đáng. Vậy thì Cà Mau thẳng tiến. Đích đến xa nhất là Rạch Gốc.

Trước đây, Rạch Gốc thuộc huyện Năm Căn, được phiên chế về huyện Ngọc Hiển. Khó khăn nhất là muốn đi đến đây, chỉ duy nhất phương tiện thủy, tàu đò. Thế là, cả xe và anh tài đành để lại thị xã Cà Mau. Thày trò tôi mua vé tàu đò đi Ngọc Hiển. Tàu đò lớn, khách đi đông, phần lớn cũng là người buôn bán vặt từ miệt biển lên thị xã mua hàng về bán, nên tàu đò đấy ắp hàng hóa. Kênh lớn, tàu bè qua lại tấp nập, sóng nước đánh ì oạp, nhất là khi có những chiếc ghe bè, ngất ngưởng hàng hóa, chạy qua khiến nhiều xuồng nhỏ của dân bị sóng đầy dạt, hoặc nước bắn tung tóe. Khách thương lái ăn uống, trò chuyện rôm rả, tôi nghe loáng thoáng câu được câu chăng, còn nhà văn Đặng Quang Tình không nghe quen, thỉnh thoảng lại hỏi lại tôi nhờ phiên  dịch xem họ nói gì. Ngày ấy, tình trạng ngăn sông cấm chợ khá phổ biến ở Miền Nam, và ở Cà Mau cũng vậy. Tàu đò chạy dăm cây số lại bắt gặp một trạm kiểm soát của một xã nào đó lập ra, để kiểm tra bắt hàng buôn lậu, ngày ấy, phổ biến là thuốc lá ngoại nhập lậu như Zet, Capstan, More, Dullhin... Tàu chạy ngang trạm, không thấy phất cờ thì cư vô tư chạy, còn thấy phất cờ thì dừng tàu, cặp bờ để nhân viên trạm xuống tàu khám xét hàng, kiểm tra, nếu thấy hàng lậu là phạt, hoặc tích thu. Qua một trạm, thấy có phất cờ, thay vì phải giảm tốc độ cặp bờ, thì người lái tàu đò phớt lờ, tăng tốc cứ giữa dòng mà chạy. Mấy nhân viên trạm tuýt còi, hô hoán bắt dừng nhưng không được, tức giận ôm súng CKC đuổi dọc bờ, và bất ngờ, nổ mấy phát súng. Chắc là chỉ bắn chỉ thiên để dọa, nhưng khách tàu đò nhốn nháo, hét lên vì sợ. Thày trò chúng tôi cũng sợ, phải thụp người nép sát lòng tàu, tránh đạn. Ngộ nhỡ đạn lạc thì khốn... Chủ tàu vẫn cố chạy không dừng, nên nhân viên trạm cũng đành bỏ cuộc. Thày trò chúng tôi đồ đoán, chắc chuyến này, khách buôn có nhiều hàng lậu nên tàu mới quyết chạy trốn như thế .. Rồi tàu đến bến cuối. Chúng tôi xuống bến, hỏi thăm, biết được, muốn đến Rạch Gốc, Tân An lại phải đi tiếp tàu đò. Thế là hai thày trò, tìm thuê một chiếc vỏ lãi để đi Rạch Gốc. Vùng này, sông nước, đầm phá mênh mông, chiếc vỏ lãi tắt ngang một góc đầm phá khá rộng, trời nổi cơn giông, rồi mưa ràn rạt. Ngồi trên võ lãi mỏng manh, giữa trời nước trong tiết mưa giống như thế, thày trò nhìn nhau, không khỏi lo lắng. Thấy vậy, người chủ đò bảo yên tâm đi, nước trông mênh mông vậy nhưng không sâu, khỏi phải lo lắng. Rồi võ lãi rẽ vào lạch nhỏ, đôi bờ đã loáng thoáng nhà dân, đã có gì đó ấm áp, đỡ hoang vắng. Rồi khu dân cư đông đúc Rạch Gốc đã hiện ra. 
           Cặp bờ, lên tìm gặp cán bộ khóm ấp, trình giấy tờ và đặt vấn đề công việc. Mọi người nhiệt tình lắm. Nước nôi qua loa và bắt tay vào công việc. Họ cử một người giúp việc cho thày trò, đưa chúng tôi đến từng hộ gia đình, phát phiếu, hướng dẫn cách ghi phiếu. Ngày ấy, dân cư tiếng là đông nhưng cũng chẳng mấy, phần lớn ở cặp đôi bờ kênh và khu vực chợ. Đôi bờ kênh qua nhau vẫn phải dùng xuồng ba lá, hình như có vài cây cầu khỉ ở những lạch ngang, chứ kênh chính, thuyền bè lớn qua lại để thông ra biển nên không có cầu vì sợ vướng. Chúng tôi làm một mạch, quên cả đói, miễn sao xong việc. Đến nhà nào, thấy chủ nhà có radio là mừng lắm. Nhưng người dân ở đây, chủ yếu là nghe tin tức và ca nhạc, dân ca, nhất là cải lương, vọng cổ. Gần như họ nghe không sót chương trình cải lương nào của nhà đài. Xẩm tối thì xong việc, nhưng quá muộn để trở về. Họ mời chúng tôi nghỉ qua đêm. Trong ngôi nhà cộng đồng gỗ lá, bữa cơm tôi được bày ra. Đồ nhậu có xoài xanh, khô cá đuối, lẩu cá lóc. Thày trò tôi cùng dăm cán bộ ấp và cán bộ văn hóa xã, cụng ly. Vài ba ly, chuyện trò rôm rả hơn. Lúc này, chúng tôi mới có dịp để hỏi thêm về địa lý, thổ ngơi, lịch sử vùng đất Rạch Gốc này.

Câu chuyện chủ yếu xoay quanh ngọn hải đăng trên đảo Hòn Khoai và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Từ biển Rạch Gốc ra Hòn Khoai không xa, chừng hơn chục cây số, ở đấy có ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào những năm đầu thế kỷ 20. Chắp nối từ câu chuyện kể của mọi người, biết ở đào này, còn có nhà tù để thực dân Pháp giam giữ tù nhân, trong đó phần lớn là những người theo tư tưởng cách mạng, chống Pháp. Đấy cũng là mầm mống để cuối năm 1940, nhà giáo, nhà báo Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo các tù nhân nổi dậy, đánh chiếm và giết tên chúa đảo. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một bộ phận của Nam Kỳ khởi nghĩa. Tuy rằng, sau đó, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Ngọc Hiển và những người tham gia khởi nghĩa bị Pháp bắt và xử tử, song ý nghĩa của nó lại lớn lao. Tinh thần vì cách mạng hy sinh của nhà giáo-nhà báo-nhà văn Phan Ngọc Hiển đã được ghi nhận, để sau này, người ta tôn vinh, lấy tên ông đặt cho tên đất ở vùng cực nam tổ quốc này...
          Đêm ấy, thày trò tôi đều khó ngủ, chuyện trò về nghề báo, nghề văn, về các vùng đất đã qua, quá nửa đêm về sáng mới chợp mắt. Sáng ra, chia tay ra về, các cán bộ ở đây cứ tiếc, bảo nếu ở lại vài ngày, có thể thuyền ra Hòn Khoai thăm thú cho biết. Biết là thế, nhưng kế hoạch công việc ở Cần Thơ đang chờ mà lịch trình đi hạn định. Hứa đại, khi nào trở lại sẽ ra Hòn Khoai. Lúc về, tôi mới có tâm trí quan sát kỹ cảnh sắc hai bên bờ kênh, vì biết rằng sẽ khó có thời gian trở lại đây. Thấy thấp thoáng xa xa hai bên bở là những vuông tôm. Ngày ấy, người dân mới khởi xướng việc nuôi tôm nước lợ vùng đồng ruộng, đàm phá ven biển. Đi sao về vậy, vẫn đò dọc như thế, nhưng suôn sẻ, bình yên. 
           Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua. Quả là không dễ trở lại. Nghe các bạn tôi ở Bạc Liêu, Cà Mau bảo là, Rạch Gốc bây giờ sầm uất lắm, đã được tách ra khỏi xã Tân An để trở thành thị trấn riêng, còn đảo Hòn Khoai đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn.
           Vậy có ai đò dọc với tôi không? Ta cùng trở lại Rạch Gốc. 
           Nhưng nghe nói, đường xá bây giờ đã đấu nối, có thể xe hơi bon bọn đến tận nơi, chứ không cảnh đò giang cách trở, đò dọc bồng bềnh như xưa nữa ... Song nếu muốn trải nghiệm, tôi và bạn vẫn có thể cùng nhau đò dọc...

 

 

 

Cổ Loa, một ngày và hai nghìn năm trước,...

 

 

Ngày mới làm báo chuyên nghiệp ở Đài TNVN, đã có lần, tôi theo các anh chị phóng viên lớp trên đi công tác Đông Anh, ngang qua đất Cổ Loa, thấp thoáng đâu đó vòng thành đất cây cối mọc xanh, nhưng đích đến của chuyến đi là các HTX nông nghiệp ngoại thành, nên nắc nỏm một ngày nào đó trở lại đây tìm hiểu sâu về mảnh đất lịch sử này. Ấy vậy mà, chẳng hiểu sao, kể từ đó đến nay đã ba mươi năm, tôi mới trở lại, trong khi tôi đã đi khắp đông tây nam bắc, thế giới mấy chục nước? Xa xôi gì đâu, từ trung tâm thành phố đến đây chỉ chừng vài chục cây số mà thôi. 

Chuyện An Dương Vương, vua của nhà nước Âu Lạc, với những huyền thoại về thần Kim Quy giúp nhà vua xây thành Ốc, chuyện Nỏ Thần và mối tình bi thương Mỵ Châu-Trọng Thủy đã ăn vào tiềm thức mỗi người dân xứ Việt, như một bài học sâu sắc về dựng nước và giữ nước, về sự cảnh giác cao độ với ngoại bang, đặc biệt với ngoại bang phương Bắc ...
            Buổi nay, tôi cùng nhà văn Nguyễn Trọng Huân, từ quê vợ anh, làng Lại Đà ven sông Đuống sang thăm nhà thơ Nguyễn Lâm Cẩn theo cái hẹn. Để đến được nhà Nguyễn Lâm Cẩn ở Uy Nỗ, Đông Anh, chúng tôi phải ngang qua Ngũ Huyện Khê, con sông có từ thời An Dương Vương, rồi ngang qua một khúc thành ngoài của thành Ốc. Đi bằng xe máy, nên thích đâu dừng đó, nên câu chuyện về thành Ốc bảng lảng trong suy nghĩ của tôi. Cuộc hàn huyên ở nhà Nguyễn Lâm Cẩn, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến) và ông  Đào Dục Tú, một cựu biên tập viên của chương trình phát thanh Việt Kiều (chương trinh phát thanhDành cho đồng bào xa tổ quốc của Đài Tiếng nói Việt Nam), người có vốn kiến thức về văn hóa-lịch sử khá tốt, nên câu chuyện của chúng tôi lúc trà dư tửu hậu, chủ yếu xoay quanh  lịch sử và phong tục vùng đất này...
           Và những câu chuyện phiếm ấy, như chất xúc tác, nên khi trở ra, tôi và nhà văn Nguyễn Trọng Huân, cùng la cà trong khu thành Ốc, sống dậy trong đầu óc những huyền sử Cổ Loa... 
            Nhà nước Âu Lạc và thời gian cai trị của An Dương vương Thục Phán, cách thời nay hơn hai nghìn năm trước, nên tư liệu về triều đại này cũng khá mơ hồ. Ngay việc xác định thời gian tồn tại, hiện cũng có ít nhất hai nguồn sử liệu. Đó là, theo 
như Đại Việt sử ký toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục thì cho rằng  An Dương Vương làm vua Âu Lạc kéo dài 50 năm, từ 257 TrCN đến 208 TrCN, đồng nghĩa với niên đại nhà nước Âu Lạc; Còn theo Sử ký Tư Mã Thiên được coi là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, lại cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TrCN đến 179 TrCN, tức là gần 30 năm. Vậy đâu là chính xác. Cho nên, lịch sử về triều đại này có tính huyền sử là vậy. Dẫu sao, đem so với nhà nước Văn Lang của các vua Hùng xa xưa, cứ liệu lịch sử của triều đại An Dương Vương có tính xác thực hơn.
           Chúng tôi tha thẩn, từ vòng thành ngoài, vào khu đền miếu, giếng Ngọc, rồi cánh đồng và khu dân cư xen kẽ, lại vòng thành ngoài, mường tượng về thành Ốc của hơn hai ngàn năm trước... Thực ra, cùng không khó để mường tượng cho lắm....
           Thử mường tượng, bắt đầu từ việc lập nước của Thục Phán. Theo cứ liệu lịch sử, ngài gốc Âu Việt (tức vùng Lưỡng Quảng ngày nay), sau khi đánh bại vị vua Hùng cuối cùng, rồi lập ra nhà nước mới, Âu-Lạc trên cơ sở sáp nhập Lạc Việt (nước Văn Lang) với Âu Việt của mình. An Dương Vương đã chọn đất Cổ Loa làm kinh đô của nhà nước mới, không chọn đất Phong Châu vốn kinh đô của nhà nước Văn Lang, và cũng không chọn đất thuộc lãnh thổ Âu Việt cũ của mình (như Phiên Ngung chẳng hạn). Xét về địa lý, Cổ Loa là vùng giáp ranh giữa đồng bằng và trung du, miền núi, vị trí khá trung tâm, giao thông thủy bộ đều thuận tiện, cư dân đông đúc. Về tầm chiến lược, thuận cho việc cai trị vùng đất mới chiếm được, tiến có thể mở mang bờ cõi xuống dải đất ven biển phương Nam, thoái có thể nhanh chóng rút về xứ cũ (Lưỡng Quảng). Việc định đô ở vùng đồng bằng rộng lớn, cũng cho thấy tư duy tiến bộ của An Dương Vương, ấy là xây dựng bộ máy cai trị nhà nước, chứ không phải ở nơi rừng rú hiểm trở với hình thức cai trị sơ khai mang tính bộ lạc, bộ tộc của các vua Hùng, 
            Ngày nay, cho dù có thể tham khảo nhiều tài liệu về thời kỳ này, thì chúng ta cũng chỉ thấy dẫn liệu từ các bộ sử như Hán thư của Ban Cố, Sử ký của Tư Mã Thiên và Đại Việt sử ký toàn thư. Gạn lọc trong mớ bòng bong ấy, có thể nhận biết mấy điểm cơ bản, đó là Thục Phán đánh chiếm nước Văn Lang của vua Hùng rồi lập ra nhà nước mới là Âu Lạc (trên cơ sở nhập Lạc Việt vào Âu Việt), song thời gian tồn tại của nhà nước Âu Lạc là 50 năm (257TrCN-208TrCN) hay 30 năm (208TrCN-179TrCN) thì cũng không rõ; thứ hai là việc An Dương Vương xây thành Ốc với truyền thuyết Rùa vàng chỉ dẫn, và thứ ba, nhà nước Âu Lạc bị mất bởi cuộc xâm lược của Triệu Đà để lập ra nước Nam Việt trên cơ sở gộp nước Nam Việt cũ của Triêu Đà (gồm Quế Lâm và Tượng quận, Nam Hải) với lãnh thổ của nước Âu Lạc, để thành nước Nam Việt rộng lớn, khi ly khai, lúc lại thần phục nhà Hán... 
           Ta lại hình dung từng sự kiện:
           Việc nhà nước Âu Lạc tồn tại 30 năm hay 50 năm tồn tại, còn bỏ ngỏ, không xác định.
            Việc thần Kim Quy báo mộng rồi rùa vàng bò để lại dấu chân và An Dương vương cứ theo đó mà làm chân móng xây thành Ốc, điều này có thể hiểu và lý giải được. Thực địa, vùng đất Cổ Loa là điểm tiếp giáp giữa đồng bằng và trung du, xưa kia có nhiều sông ngòi trong khu vực được thông nhau như sông Hồng, sông Đuống (Thiên Đức), sông Hoàng, sông Cầu, Ngũ Huyện khê... nên rất có thể có nhiều chỗ nền đất yếu, thậm chí lầy thụt. Như vậy, thành đất được xây trên nền đất yếu, dễ sụt đổ là đúng, Tuy nhiên, ngay trên khu vực lầy thụt cũng có nhiều dài đất ngầm, chân móng của vùng trung du nên nền đất cứng. Vậy, nhà vua hoàn toàn có thể xây thành đất khi biết lợi dụng những chỗ có nền đất cứng ở khu vực này để làm chân móng và xây thành trên đó. Việc rùa bò để lại dấu chân, có thể coi như một phát hiện, một gợi ý để nhà vua theo đó mà xây thành Ốc chăng?...
            Sự kiện Triệu Đà, vua của nước Nam Việt (khu vực Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải) đem quân xâm chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, để mở rộng lãnh thổ nước Nam Việt mới (bao gồm Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải và Âu Lạc) thì cảSử ký Tư Mã Thiên và Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép. Như thế, đã hai nghìn năm nay, mặc nhiên công nhận sự kiện này. Cùng đó, truyền thuyết về mối tình bi thương Mỵ Châu-Trọng Thủy đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt, phủ huyền thoại lên lịch sử dựng nước và giữ nước của xứ Việt ta, nên chúng càng có sức thuyết phục. Tuy nhiên, tra cứu sử sách, thì sự việc khổng hẳn như vậy. Cùng sự kiện này, Sử ký Tư Mã Thiên không hề nói đến chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy trong toàn bộ tiến trình Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc của An Dương Vương. Còn Đại Việt sử ký toàn thư và An Nam chí lược của Lê Tắc thì có nói đến chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy nhưng cũng không nhất quán. Có chăng, sách Lĩnh Nam chích quái thì kể chuyện này khá ly kỳ. Về bản chất, sách Lĩnh Nam chích quái là cuốn sách tập hợp các chuyện cổ tích, dân gian được sưu tầm thành sách từ cuối thời Trần, sau được Vũ Quỳnh chỉnh lý, cho nên, yếu tố thần thánh, ma quái, ly kỳ trong truyện mang tính truyền kỳ, thêm bớt cho hấp dẫn, khó xác thực với sự thật lịch sử. Vậy nên, chỉ có thể xem như một tài liệu tham khảo mà thôi.
           Gần đây, có một số nghiên cứu lịch sử, đưa ra nhận định, Triệu Đà không phải tưởng nhà Tần quê ở Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, vâng lệnh vua Tần, cùng tướng Đồ Thư mang quân nam tiến, đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương (như sử sách đã ghi chép). Theo nghiên cứu này, thì Chân Định, quê của Triệu Đà, chính là vùng Thái Bình, Việt Nam ngày nay, bởi Chân Định là tên cổ của vùng Kiến Xương (Thái Bình), và mãi đến đời vua Thành Thái triều Nguyễn, Chân Định mới được đổi thành Trực Định, phủ Kiến Xương.  Bằng chứng dẫn liệu, theo Hoài Nam Tử (bộ sách do Hoài Nam vương Lưu An biên soạn), có nói đến, nhưng ở đây, Úy Đà Đồ Thư, là chỉ chức danh võ quan của Đồ Thư, chứ không thể suy diễn Úy Đà thành Triệu Đà, để rồi sau đó hiểu là 2 tướng Triệu Đà và Đồ Thư được vua Tần lệnh cho mang quân đi đánh Âu Lạc? Cùng với đó, nghiên cứu này còn bác bỏ việc mặc định Chân Định quê của Triệu Đà, tức là huyện Chính Định thuộc tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Với cách hiểu mới, nghiên cứu này còn chỉ ra những căn cứ về đến thờ Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) ở Đồng Xâm (Thái Bình), Văn Giang (Hưng Yên) và một số lãng xã ở vùng Đông Anh, Cổ Loa (Hà Nội)... Cũng theo nghiên cứu này, việc Triệu Đà làm vua 70 năm và thọ tới 121 tuổi (ở vào thời hơn 2 nghìn năm trước) là một sự vô lý, khó tin?!... Điều này được lý giải bởi phân tích giai đoạn lịch sử ( Triệu Đà từ 207 TrCN đến 180 TrCN, danh xưng Triệu Văn vương, rồi Triệu Vũ đế). Kế tiếp là Triệu Hồ (cũng danh xưng là Triệu Vũ đế, từ 180-137 trCN). Tiếp nữa là Triệu Muội (Mạt), danh xưng Triệu Văn đế (từ 137-124 TrCN)... Và chấm dứt thời Vệ Dương vương Triệu Kiến Đức (112-111 TrCN).  Nếu như vậy, sẽ không có cuộc xâm lược nào của Nhà Tần sang xứ ta, mà chỉ là sự tranh đoạt giữa các thủ lĩnh của cả vùng Bách Việt rộng lớn mà thôi (bao gồm Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải, Giao châu). Điều này, chứng minh, ở vào thời ấy, Nam Việt Triệu Đà, đã tỏ ra hùng mạnh, khôn khéo hơn An Dương vương trong việc trị quốc, ổn định phương Nam, nhất là việc thi hành chính sách an dân, và đường lối ngoại giao, trước là với nhà Tần, sau là với nhà Hán ở phương Bắc, nhằm xây dựng nhà nước phong kiến cho cả vùng đất Bách Việt xưa kia ?...
          Như vậy, chúng ta đã có cái nhìn đa chiều hơn về thời kỳ xa xưa hơn 2 nghìn năm trước về lịch sử đất nước. Sẽ vẫn có những nghiên cứu, nhưng tranh luận về thời kỳ này. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới tính xác thực đến đâu còn chưa rõ, song cho chúng ta cái nhìn rõ ràng hơn, gần gũi hơn về một thời kỳ mà trước đây vẫn xem như huyền sử. Triệu Vũ đế (Triệu Đà) là người nước Triệu được vua Tần cử đi xâm chiếm Âu Lạc, hay Triệu Đà vốn người Âu Lạc, còn chưa rõ, thì có một sự thật lịch sử, ấy là sau khi đánh bại An Dương Vương, đã sáp nhập Âu Lạc và Nam Việt, và đem Âu Lạc chia làm 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, còn triều đình thì đóng tại Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay), mỗi châu quân lại giao cho một tướng cai quản. 
           Trong lịch sử nước nhà, có một thời kỳ dài hơn nghìn năm được gọi là Bắc thuộc, hay cụm từ sau này thường dùng là hơn nghìn năm Bắc thuộc. Vậy, hơn nghìn năm Bắc thuộc ấy được tính từ mốc nào? Điểm khởi đầu, nếu coi Triệu Đà là ngoại xâm phương Bắc, thì cũng có 2 khác nhau, ấy là năm 208 TrCN (theo Đại Việt sử ký toàn thư), còn năm 170 TrCN (theo Sử ký Tư Mã Thiên). Nếu coi Triệu Đà là người Nam Việt, thì tính từ năm 111 TrCN, khi Hán Vũ đế tiệu diệt nhà nước Nam Việt với vị vua cuối cùng là Vệ Dương vương Triệu Kiến Đức. Điểm kết thúc, cũng có các quan điểm để tính khác nhau. Ấy là năm 902 với khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ thành công, hoặc năm 938 khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, xây dựng nhà nước tự chủ. Trong thời kỳ Bắc thuộc, cũng có những giai đoạn tự chủ xen kẽ, ấy là thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43 sau CN) và thời Tiền Lý (Lý Bí, Triệu Việt vương, Lý Phật Tử, 544-602). 
          Một ngày để hiểu những biến cố lịch sử của cả một thời kỳ xa xưa từ hơn hai nghìn năm trước, quả là chuyện buồn cười. Thực ra, một ngày khởi đầu cho sự gợi mở.  Nhưng dù chỉ một ngày thôi, chẳng có gì đáng cười và sẽ là vô ích, nếu như không cho tôi cảm hứng để lần giở lại nhiều trang sử nước nhà, những điều mình đã từng học, từng đọc và đã quên đi do bận rộn công việc, mưu sinh. Lịch sử bất cứ một quốc gia nào cũng có những góc khuất, cũng có những điểm nghi hoặc dẫn đến sự tranh luận về sau. Vậy thì, huyền sử An Dương vương dựng nhà nước Âu Lạc, với chuyện thần Kim Quy, chuyện nỏ thần, và mối tình bi ai Mỵ Châu-Trọng Thủy vẫn lung linh màu sắc huyền thoại, thì có sao ? Điều quan trọng, nó cho các thế hệ dân Việt bài học không bao giờ được mất cảnh giác về nguy cơ ngoại xâm, để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia... 

 

 

 

 

Củ khoai nướng,

cánh diều và ước mơ cháy bỏng,...

 

 

"Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro" -
          Với riêng tôi, thì đây là bài thơ hay nhất của Đồng Đức Bốn. 
          Tất nhiên, tôi còn thích nhiều bài thơ, nhiều câu thơ khác của Đồng Đức Bốn, nhưng theo tôi, bài thơ ngắn chỉ vỏn vẻn bốn câu lục bát này, nhà thơ đã khái quát, thi vị hóa cái ước mơ bé nhỏ của hầu hết trẻ con nông thôn xứ Việt mình...

           Tôi đã từng bình bài thơ này trong chuyên mục của một tờ báo nọ, rồi cũng đã lấy câu thơ kết của bài thơ này làm tít cho một bài viết khác từ vài chục năm trước, khi Đồng Đức Bốn còn chưa mấy nổi và vẫn đang bước đường lang bạt của mình...
          Tôi kém nhà thơ Đồng Đức Bốn gần chục tuổi. nhưng có thể xem như cùng thế hệ, bởi hoàn cảnh xã hội nói chung và nông thôn Việt mình ở vào quãng thời gian ấy như nhau. Tôi đã có chục năm đi học ở quê và cũng đã từng một lần nếm mùi trượt đại học nên thấu hiểu và thấm thía thế nào là "mải mê đuổi một con diều/ củ khoai nướng để cả chiều thành tro"!?...
          Ngày đi học ở quê, tôi không mấy thạo việc đồng áng. Lỗi tại người gốc quê nhưng sinh ra ở phố, rồi chiến tranh lại phiêu dạt về quê, nên dở dang vậy. Mà đã ở quê, thì phải thạo việc nhà nông. Chuyện đồng áng đã có các chị gái tôi lo, việc của tôi là học, và cách hai ngày lại có một phiên trâu. Có phiên trâu nên phải chăn trâu thôi. Thường ra, chăn trâu cũng là một cái thú của người nhà quê, nhưng khi có đồng cỏ, có bãi chăn thả riêng. Đằng này, tấc đất tấc vàng, chỗ nào cùng là ruộng lúa và hoa màu thì biết thả trâu vào đâu cơ chứ? Chăn trâu, phiền nhất là không để trâu ăn lúa hoặc phá hoại hoa mầu của Hợp tác xã nông nghiệp. Nhưng sau mỗi vụ gặt, tranh thủ lúc đồng chỉ còn rơm rạ, tha hồ mà thả trâu và chơi diều giấy. Chuyện chăn trâu, vơ rạ rơm, lá cây khô đốt lửa, nướng khoai, thả diều thì đúng như Đồng Đức Bốn đã viết. Song hàm ý sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm. ấy là ước mơ bay cao bay xa của đám trẻ quê, làm sao ra khỏi lũy tre làng, làm sao thoát khỏi chuyện chăn trâu, cày bừa, gặt hái, thoát khỏi việc chân lấm tay bùn, nắng lửa mưa giông, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, như bao kiếp cha ông, tổ tiên mình đã làm đã trải?...
           Ước mơ ấy, không sai, và cũng tội lỗi chi đâu, là chính đáng đấy chứ. Thế nhưng, ước mơ cũng  khó khăn làm sao. Trẻ con ở nông thôn, những năm chiến tranh chống Mỹ, học hành được chăng hay chớ, ngoài giờ học ở trường, về nhà quẳng cặp ra đấy, còn giúp giập cha mẹ việc nhà nông nữa chứ. Cơ may, nhà nào khá giả chút, trẻ con đỡ đầu tắt mặt tối việc nhà, hoặc giả, trời cho đầu ông thông minh, học nhanh vào, chứ thời gian đâu mà học bài ở nhà. Buổi lên lớp, thầy cô giáo kiểm tra bài cũ, cả lớp rúm ró vào, sợ thầy cô gọi lên trả bài, chẳng biết gì mà nói. Sách giáo khoa chẳng đủ. học hành ra sao cũng được. Ở làng, cố hết cấp 2, tức là ngang cấp Trung học cơ sở bây giờ, trai phông phổng chút thì nhập ngũ, gái ở nhà giúp cha mẹ vài năm rồi lấy chồng. May ra, có dăm đứa thích học lên cấp 3 (bậc Trung học phổ thông), để có điều kiện thì trung học cao dẳng hay ước mơ đại học. 
           Tôi may mắn, bố mẹ cho cơ hội học lên, cũng có giúp thêm việc nhà nhưng chút ít thôi, vả lại, học lực khá, các lớp các cấp đầu diện đứng đầu, và năm nào cũng được chọn đi thi học sinh giỏi toán, hoặc văn, có năm cả hai. Ấy vậy, mà tôi trượt đại học, mới cay đắng làm sao?! 
            Số là năm cuối cấp 3, lớp 10, tôi thi học sinh giỏi môn Văn cấp tỉnh và trúng vào đội tuyển của tỉnh Hải Hưng để tham dự kỳ thi giỏi môn Văn học Toàn miền Bắc (khi ấy chưa giải phóng miền Nam thông nhất đất nước). Sau gần hai tháng tập trung đội tuyển tại thị xã Hải Dương, hoàn thành kỳ thi, đội tuyển giải tán, tôi trở về trường học nốt và dự kỳ thi tốt nghiệp vào tháng 5 năm 1975. Năm ấy, ta giải phóng miền Nam, phấn khởi thế nào, thi tốt nghiệp 6 môn, nhưng tôi vẫn hoàn thành kỳ thi xuất sắc. Thi đại học, tôi chọn trường Kiến trúc với mong muốn theo nghề của bố tôi là kiến trúc sư. Tôi có phần chủ quan, nghĩ thi thế nào cũng đỗ, lại thêm tơ tưởng tình yêu với một cô bạn gái chung đội tuyển học sinh giỏi. Chưa hết, trươc đó, tôi có tập tọng thơ phú, khi tham gia đội tuyển, gặp gỡ và học chung với thần đồng thơ Trần Đăng Khoa, lại thêm dính chuyện yêu đương, thế là thơ tuôn lai láng, sao nhãng ôn luyện toán, lý, hóa, nên kết quả, thiếu điểm để đủ chuẩn vào Đại học kiến trúc. Lòng những tái tê, cay đắng. Lúc ấy, tôi hiểu câu châm ngôn thế nào là "cười như thầy khóa hỏng thi"...
          Quyết chí thi lại năm sau, ở nhà giúp mẹ và tự ôn luyện. Giờ thi tôi thấm thía tình cảnh diều đứt dây là sao rồi. Vậy nên, sau này, đọc bài thơ Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn, tôi thấm lắm, thấy nhà thơ nói hộ lòng mình. Ngày ấy, dẫu bạch diện thư sinh, nhưng tôi đang ở cái tuổi sức dài vai rộng. Chẳng lẽ, ăn bám mẹ già, nên cũng phải chọn làm việc gì đó, giúp giập mẹ chứ. Ngoài phụ giúp mẹ, tuần vài buổi tráng bánh đa gạo, tôi nhận với Ủy ban xã đảm nhiệm việc kẻ khẩu hiệu trên các bức tường nơi công cộng, rồi nhận với HTX thôn việc đo lại ruộng.  Chữ tôi vốn đẹp, kẻ khẩu hiệu có thể trình bày theo dăm ba kiểu chữ khác nhau, chân phương, vuông thành sắc cạnh cũng được, mà bay bướm hoa mỹ cũng khá. Thế là, vài tháng một lần, người ta đưa cho tôi mấy khẩu hiệu mang tính hô hào, cổ vũ thi đua sản xuất, hoặc chào mừng gì đó để tôi kẻ lên tường. Mực thì tự chế bằng cách lấy lõi than chì của pin đã dùng hết, đập ra rồi tán mịn, hóa với nước thành mực. Còn bút cũng tự chế nốt, bằng cách chặt đoạn tay tre, đập tòe một đầu để chấm mực kẻ vẽ. Khi viết lên tường phải kê ghế đứng lên, hoặc bắc thang trèo lên viết. Cái khó là chữ to, viết sao cho đều nét, cỡ chữ bằng nhau và tính khoảng cách chia số chữ ra cho đều, trình bày sao cho cân đối. Lúc đầu, có chút chệch choạc, sau rút kinh nghiệm, khá ổn.
           Còn đo ruộng, với tôi thì quá dễ. Chỉ phải tội, chang chang ngoài đồng gần nửa tháng mới xong. Tôi đội nóng lá, chỉ việc đứng trên bờ, chỉ đạo mấy cậu thanh niên lội ruộng cầm sào đo. Ruộng to nhỏ, hình thù méo mó, cạnh bờ lệch nhau bao nhiêu, đều xong tuốt. Tôi cứ theo nguyên tắc, chia ruộng ra, quy theo các hình vuông, chữ nhật, tam giác hoặc hình thang, tính diện tích từng phần, rồi tổng lại là xong. Vậy là, với hai việc lớn đó, năm ấy giúp mẹ tôi một việc lớn, vì được xã trả cho một số công điểm kha khá. Thêm nữa, tôi cũng có được chút thiện cảm từ cán bộ thôn xã, làm nhạt đi cái suy nghĩ cố hữu về gia đình tôi vốn được quy là lý lịch "không trong sạch" ở thời ấy, đặng có đỗ đại học thì người ta mới phê duyệt thành phần lý lịch mà cho đi học.
           Có chút vất vả của việc nhà nông, có chút cay đắng của sĩ tử hỏng thi, tôi âm thầm ôn tập và kỳ thi năm ấy, tôi trúng tuyển với điểm khá cao. Tôi cũng không kén chọn trường này nọ, bởi khi ấy, mục tiêu của tôi là vượt ra khỏi lũy tre làng, còn học gì chẳng quan trọng. Chuyên ngành đào tạo ở Đại học là nông nghiệp, nhưng công việc sau này của tôi lại là báo chí. Và tôi thấy, nhưng năm tháng sống ở nông thôn và kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp, rất hữu ích cho việc làm báo chuyên nghiệp của tôi. Quan trọng, học cao lên, người ta học được cách nghĩ về mỗi sự việc, vấn đề, và để giải quyết nó thì có thể bắt đầu từ đâu. Hay nói cách khác là phép tư duy khoa học, biết chọn góc tiếp cận... 
          Kể từ ấy, đã hơn bốn mươi năm qua, nông thôn Việt Nam thay đổi nhiều lắm. Ruộng đất diện bờ xôi ao mật, tiện giao thông đã bị các xí nghiệp vừa và nhỏ thôn tính, lấy làm đất nền, mà có doanh nghiệp thì chỉ lấy cớ sản xuất này nọ, thực ra là chiếm dụng đất, chờ cơ hội kinh doanh bất động sản, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Sông ngòi thì ứ đọng và ô nhiễm. Đồng ruộng ít đi nhưng nhiều nơi bỏ hoang, không cấy hái hay trồng hoa màu gì. Người ta đổ lỗi cho sản xuất nông nghiệp ít lờ lãi, nông sản rẻ mạt. Nam thanh nữ tú thì nếu không ra được thành phố sinh sống thì cũng đi làm công ty quanh quất đâu đó, tháng kiếm lương dăm ba triệu, chứ chẳng ai muốn ở làng làm nghề nông, mặc dù bây giờ điều kiện đầu tư công nghệ và áp dụng cơ giới hóa thuận tiện. Ai cũng chê và buông bỏ nghề nông. Đồng ruộng chỉ dành cho những người già và người yếu thế không thể làm nghề gì khác. Sau vụ gặt, chẳng ai thèm gom rạ rơm, vì không nuôi trâu bò, còn đun nấu đã có bếp ga, bếp điện. Rạ rơm vun thành đống đốt khói bụi, ô nhiễm đầy trời... Lâu rồi, có đôi lần, tôi và bạn thân, nhà báo Trịnh Bá Ninh, người từng hơn hai chục năm làm Phó tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam, đối thoại với nhau về nông thôn, trước tình trạng mất đất nông nghiệp, trong khi nhiều cơ sở doanh nghiệp bỏ không nhà xưởng, anh than thở: "Cứ đà này, rồi sẽ có ngày, người ta phải cậy bỏ bê tông mà lấy lại đất mà trồng trót thôi"... Tôi đồng tình với bạn mình, và nghĩ, ngày ấy chắc không xa đâu...
           Nếu ngày xưa, Đồng Đức Bốn kiếm rạ rơm đốt lửa, mót khoai nướng ăn đỡ đói lòng, thả diều là để nuôi nấng ước mơ vượt ra khỏi lũy tre làng, thì bây giờ, việc bỏ quê, bỏ đồng ruộng như một sự đương nhiên, một mục đích rõ ràng của trai gái làng,..
          Củ khoai nướng, cánh diều và ước mơ cháy bỏng một thời...
Tôi đã vài ba lần gặp nhà thơ Đồng Đức Bốn, khi thì ở tòa soạn báo Nông nghiệp Việt Nam, lúc thì ở nhà của nhà thơ Trương Hữu Lợi. Có lần, Đồng Đức Bốn bắt tay tôi, vồn vã: "Mình có đọc những bài cậu bình thơ mình. Hay lắm, nhất là bình bài thơ Chăn trâu đốt lửa... Chưa biết cảm ơn sự đồng cảm của cậu thế này đây?...". Sau đó ít lâu, Đồng Đức Bốn nổi tiếng và trở thành hiện tượng thơ, cho đến lúc nhà thơ rời cõi tạm, tôi không gặp lại anh nữa...

        Nhà thơ ơi, thơ vẫn đấy, mà cảnh và người đã khác xa lắm rồi.

        Chẳng biết nên vui hay buồn đây!?...

 

 

Đường sang quê ngoại,

Ấy là con dường từ quê nội sang quê ngoại.

Với  tôi, quê nội luôn đau đáu trong lòng những ngổn ngang chuyện nhân tình thế thái, thì quê ngoại lại là nỗi nhớ nhung hoài niệm tràn đầy xúc cảm yêu thương, như một niềm an ủi, vỗ về mỗi khi nghĩ đến...  Sao vậy, tôi đã tự vấn mình để rồi tự trả lời,... 

Ngày nhỏ ở thành phố, trong các câu chuyện của bố mẹ, quê hương đã được song thân nhắc đến. Tuy nhiên, cả bố lẫn mẹ tôi, hay kể chuyện về quê ngoại, thi thoảng lắm mói có chuyện về quê nội. Trẻ con nên chỉ biết nghe chuyện và háo hức được về thăm quê. Lên 5 tuổi, lần đầu tiên tôi được theo các chị gái về quê dịp nghỉ hè, và đó là quê ngoại. Ngày ấy tàu xe khó khăn, nhưng về quê ngoại cũng khá tiện lợi. Bố tôi dắt mấy chị em chúng tôi ra Bến Nứa, mua vé xe khách chạy tuyến đường số 5, đến Chợ Đường Cái thì xuống. Thêm đoạn ngắn nữa là về đến nhà bà ngoại rồi. Sau lần đầu, tôi còn thêm vài lần về quê ngoại nữa, nhưng quê nội thì vẫn chưa biết. Bố tôi bào, quê nội tôi chỉ cách quê ngoại chừng dăm bảy cây số thôi.

Ở quê ngoại, mấy chị em chúng tôi vô cùng thích thú vì được sống trong không gian vườn tược ao chuôm rộng rái, đầy cây cối hoa quả. Thêm nữa, các bác và cậu dì tôi cũng hay cho con cài về quê nghỉ hè, nên có thời điểm, đám trẻ con chúng tôi ở nhà bà ngoại tôi lên đến hàng chục đứa, tha hồ mà vui chơi, leo cây hái quả, ra đồng thả diều.

Còn quê nội, tôi chỉ biết đến, khi gia đình tôi rời Hà Nội về quê nội sinh sống ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh chống Mỹ vào cuối năm 2\1964. Lúc ấy, đang học vỡ lòng, nhưng tôi cũng lờ mờ biết chuyện, để quyết định việc về quê nội sống, bố mẹ tôi đã bất đồng ý kiến nhau, khi mẹ tôi kiên quyết đòi về sống ở quê ngoại, đến mức ông bà to tiếng, dỗi bõ nhau... Sau này, lớn lên chút, tôi đã hiểu nguyên nhân vì sao ngày đó, song thân tôi lại bất đồng trong việc chọn về quê nào để sinh sống thời tao loạn ấy....

Trong khi bố tôi không muốn bị mang tiếng sống nhờ bên quê vợ và ông tin tưởng vào lời hứa của anh em họ hàng bên nội giúp đỡ dựng nhà cửa, thì mẹ tôi lại bày tỏ sự bực tức về hết thảy những gì bà phải chịu đựng, ê chề ở quê nội thời cải cách ruộng đất, những lời tố điêu toa của anh em, họ hàng đối với bà nội tôi, và cả những ngày bị đội cải cách giam lỏng ở chuồng trâu..., thêm nữa, ở quê ngoại có sẵn đầy đủ tình cảm yêu thương chở che của đại gia đình đang chờ đợi... Và cái lý "thuyền theo lái, gái theo chông" đã buộc mẹ tôi, cực chẳng đã, đồng ý về quê chông sinh sống. Và thế là, một ngày đầu đông, trên chuyến xe cam-nhông, gia đình tôi rời bỏ phố phường thủ đô về quê nội sinh sống với nghề làm ruộng khi mà tất cả các thành viên trong gia đình không một ai thạo...

Thôi, chẳng buồn nói những khó khăn, vất vả, cực nhọc mà gia đình tôi đã chịu đựng và gắng sức vượt qua ở quê, để trở về với ký ức đường sang quê ngoại, như một hoài niệm êm dịu, an ủi lòng tôi ...

Quê nội và quê ngoại tôi cùng huyện nhưng đầu huyện, cuối huyện. Tình theo đường chim bay thì chỉ chừng 7 cây số thôi, và có hai lối sang. Lối thứ nhất, ấy là tắt cánh đồng làng Chùa, đến thị trấn Bần Yên Nhân, chừng 3 cây số, rồi từ đây đi ô tô tuyến theo đường số 5 đến Chợ Đường Cái thì xuống bến. Còn cách thứ hai, đi bộ tắt qua cánh đồng làng Chùa, rồi băng đồng mấy làng khác cùng thuộc xã mình, sang đất Lạc Hồng là đến quê ngoại tôi thuộc Thị Trung, Đình Dù. Ngày ấy, xe đạp là của quý hiếm, nhà tôi không có xe, bởi chiếc xe đạp duy nhất của bố tôi đã bị đem bán, để lấy tiền mua miếng đất vườn, làm nhà ở quê. Đi đâu, quanh gần xa, đều đi bộ cả.

Thường thì mỗi khi về quê ngoại, bố mẹ tôi hay chọn lối thứ hai, tuy đi bộ mệt hơn, nhưng chủ động, chứ không phụ thuộc vào ô tô. Tôi nhớ, đã có lần, hai bố con tôi chờ cả nửa buổi chiều mồng hai tết ở bến xe Bần mà không có xe, cuối cùng đành đi bộ dọc đường 5 đến chập tối mới đến quê ngoại. Hằng năm, có hai dịp để về quê ngoại, ấy là ngày giỗ ông ngoại tôi, và nữa là mồng 2 tết theo truyền thống "mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thày". Bố mẹ tôi cũng phân công, giỗ ông ngoại tôi, ưu tiên để mẹ tôi về, có ý để bà vừa được khấn cha vừa được thăm sức khỏe của mẹ, còn dịp mồng 2 tết thì bố mẹ tôi thay nhau xen kẽ. Riêng tôi, được cả nhà ưu tiên, dịp tết nào cũng được về quê ngoại, xem như một đặc ân của bố mẹ dành cho đứa con trai út và duy nhất của gia đình, còn hai chị gái tôi thì thay nhau từng năm...

Ngay năm đầu tiên khi về quê sinh sống, tết năm 1964 sang 1965, tôi lúc ấy, 7 tuổi, đã được bố tôi cho về quê theo lối tắt cánh đồng. Lúc đường lớn, khi bờ sông, rồi cả bờ ruộng, cứ theo lối người làm đồng đã đi thành lối mòn trắng cỏ. Tôi sợ nhất, mỗi khi phải đi ngang qua cửa quán Chuột của làng Thái Lạc. Quán cổ lại thêm cây si rậm rạp, nên bề ngoài quai quái thế nào ấy. Biết tôi sợ, bố tôi chấn an, bảo "Như quán Táo làng mình, chẳng có gì đáng sợ, con ạ". Là nói thế thôi, chứ nhìn nó âm u, rờn rợn, như có cả bầy ma quái ẩn náu...Tôi mường tượng, trong góc tối mờ mờ của quán, hàng đàn ma quái đầu người, mình chuột, leo trèo thoăn thoắt lên các hàng cột và vòm mái của quan. Bình thường, nhìn con chuột còn thấy sợ nữa là ma mình chuột đầu nhân... Và cũng nhờ chuyến đi đầu tiên băng đồng sang quê ngoại, tôi đã mang máng thuộc đường, để sau đó, trong một lần đi thi học sinh giỏi môn toán lớp Một ở trường cấp I Lạc Hồng, thày giáo bỏ quên không đón tôi, mặc dù sợ hãi, nhưng tôi lần hồi nhớ đường một mình cuốc bộ băng đồng về đến nhà mình. Sau này, nhớ lại, tôi cười thầm nghĩ, ngày ấy mình đã biết cách "tự cứu mình trước khi trời cứu".

Một lần khi ngang cánh đồng Thái Lạc, Lạc Hồng, bố tôi chỉ tay vào những lũy tre xanh bìa làng bảo là, làng này có một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Lý, cổ gần bằng ngôi chùa Lạng (Viên Giác tự) ở quê nội. Chùa Lạng quê tôi thì tôi từng nghe bố tôi kể chuyện nhiều lần, nhất là chuyện Thần Sấm đá gầm lên tức giận mỗi khi trong vùng có chuyện gì đó kinh thiên động địa. Khi về quê, bố tôi đã dắt tôi lên chùa Lạng, chỉ từng phế tích và giảng giải cho tôi biết, nên mường tượng chùa Thái Lạc cũng có gì đó giống chùa Lạng quê mình. Gợi ý của bố tôi ngày đó kích thích trí tò mò, nhưng không hiểu sao mãi sau này tôi mới đến thăm viếng chùa này, mặc dù cách quê ngoại tôi chừng non cây số và khá tiện đường. Chùa được xây dựng vào đời Lý Nhân Tông (năm Đại Định thứ 2, 1162) và thuộc hệ thống chùa Tứ pháp ở nước ta. Vì thờ Pháp Vân (Thần Mây) nên có tên chữ là Pháp Vân tự, và được biết, những bức vì gian giữa thượng điện có kiến trúc thời Trần, mà kiểu này hiện chỉ còn ở chùa Bối Khê (Thanh Oai) và chùa Dâu (Thuận Thành). Bức chạm khắc gỗ chạm hình thiên nữ Càn Thát Bà, là một trong Thiên Long bát bộ của Phật giáo, nên thuộc diện cổ nhất, quý hiếm của nước ta...

Thấy nhà tôi sáng, mọi người mừng lắm. Bố tôi bảo, bà ngoại tôi quý tất cả các con, nhưng mẹ tôi được bà quý nhất, là bởi, mẹ tôi chịu nhiều thiệt thòi, từ nhỏ đã sớm cùng bà ngoại tôi buôn bán, bươn chải giúp bà ngoại nuôi các em, nên ngoài tình mẫu tử, bà ngoại và mẹ tôi còn có tình cảm như bạn bè cùng chia sẻ mọi gian khổ, buồn vui... Bữa cơm chiều mồng 2 tết ở nhà bà ngoại tôi là vui nhất và ấn tượng nhất đi suốt tuổi thơ tôi cho đến tận giờ, khi mái đầu đã bạc. Ngoài sân vườn hồng tươi xác pháo tép xen lác đác cánh hoa đào, trong nhà bên mâm cỗ tết là bà ngoại tôi, các cậu di út và các bác, các cậu từ Hà Nội về, thêm đám trẻ con mươi đứa. Câu chuyện râm ran như chẳng bao giờ dứt.. Không khí đầm ấm gia đình ngày ấy sau này tôi hiếm thấy... Câu chuyện như không dứt ấy nối tiếp vào đêm đến rạng sáng, dường như không ai muốn ngủ, chuyện nọ dọ chuyện kia, buồn vui có cả...

Sáng mồng ba, tôi lại được theo người lớn đi chúc tết họ hàng bên quê ngoại. Niềm vui con trẻ cứ nhân lên cùng những hào, xu mới tiền mừng tuổi. Sau bữa cơm trưa mồng ba, bác và cậu tôi ra Hà Nội. tôi chào bà ngoại về lại quê nội.

Cũng con đường ấy, khác hắn chiều hôm trước sang với sự háo hức, lòng tôi thoáng buồn, theo chân bố, mẹ và chốc chốc ngoảnh lại nhìn dặng cây xanh bìa làng che khuất, thầm tìm nơi nhà bà ngoại. Lại ước ao và chờ đợi mồng 2 tết năm sau!...

Bà ngoại tôi khuất bóng đã hơn ba mươi năm. Mành vườn nhà bà ngoại vẫn còn đó. Ngôi nhà cũ được tu sửa thành nơi thờ tự. Người cậu út sống ở quê giữ đất giữ vườn. Theo lệ cũ, mồng 2 tết hằng năm con chàu vẫn về đông đủ. Và cho dù giờ đây, tóc đã bạc, mổi lần về đây, lòng tôi vẫn phấp phỏng bồi hồi như ngày xưa thơ bé!...

 

 

 

Ghé làng nước mắm Nam Ô,

 

Tôi là tín đồ của nước mắm. 

           Nếu có cái gọi là Đạo nước mắm, có lẽ tôi sẽ gia nhập?

           Là nói vui vậy thôi. Giả dụ thế, là để thấy sở thích ăn uống của tôi với nước mắm đến mức nào... Nó dường như không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của tôi. Mà nói luôn, nước mắm ở đây là nước mắm truyền thống từ nguyên liệu cá, chứ nhất quyết không phải là loại nước chấm công nghiệp, hoặc loại nước mắm giả cày, tức là cái loại nước được pha chế thêm vào nước mắm truyền thống để ra một thứ cũng được gọi là "nước mắm", mà người ta vẫn quảng cáo ầm ĩ trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. 
           Nghề làm báo, cho tôi điều kiện được đi đây đó khắp nước, nên cũng được nếm hầu như đủ các loại nước mắm ở các vùng miền, từ nước mắm Cát Hải (Hải Phòng), đến các loại ở Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, rồi Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Thiết, ... cho tới loại nước mắm tận cùng đất nước, ấy là Phú Quốc... Sở thích thì hợp với một vài loại, nhưng tựu chung, mỗi loại nước mắm làm theo phương pháp truyền thống ấy đều độc đáo riêng có. Tự nhận là tín đồ của nước mắm, ăn thì cứ ăn, thích thì cứ thích, mỗi bữa cơm hàng ngày, không thể thiếu nó, vậy mà, vừa mới đây, lần đầu tiên, tôi thị sát một làng nghề làm nước mắm, ấy là làng nước mắm Nam Ô, nằm kề mép biển dưới chân đèo Hải Vân, Đà Nẵng. Có lẽ là cơ duyên, cho tôi cảm hứng viết những dòng này....
           Trước khi tôi kể về những gì tôi thấy ở làng nước mắm Nam Ô, tôi lan man chút về cái sự nhớ và thèm nước mắm của mình, mỗi khi xa đất nước, đi học tập hay công tác ở nước ngoài. 
           Đầu tiên, ấy là chuyến sang Pháp học nghiệp vụ báo chí với thời gian gần hai tháng trời. Nhóm chúng tôi có năm người, thuê riêng căn hộ nhỏ của một Việt Kiều tại ngoại ô Paris, quận Montreuill. Chúng tôi tự nấu ăn với nhau, nên gia vị, thức ăn hàng ngày đều mua từ siêu thị. Gì cũng có nhưng nước mắm thì không. Thực ra, người ta bảo, muốn có nước mắm, phải mò đến quận 13, là nơi dân châu Á và người Việt Nam định cư nhiều, may ra kiếm được nước mắm Việt. Biết thế, nhưng trong 5 người, chỉ mỗi mình tôi nghiện nước mắm, nên ngại rồi cho qua. Đành kiếm tạm thứ nước mắm nhãn hiệu China có bán ở siêu thị, nhưng đây chỉ là loại nước chấm làm bằng đậu tương, cả mùi và vị đều nhạt toẹt, có còn hơn không thôi. Nhân đây, chuyện thêm, năm 2009, tôi tham dự một khóa học về chính trị xã hội tại Trường đảng trung ương Trung Quốc với thời gian tròn 2 tháng. Học ở Bắc Kinh, rồi đi thực tế ở Thượng Hải, Thiểm Tây và Vân Nam, phải nói chế độ ăn ở thuộc hạng sang trọng. Bữa ăn hàng ngày có nhiều món quý, bổ dưỡng như bào ngư, hải sâm tần thuốc bắc, nói chung là không thiếu thứ gì, song với tôi và mấy người thuộc diện nghiện nước mắm, thứ duy nhất cần mới ngon miệng là nước mắm Việt lại không có, nên ăn gì cũng chẳng thấy ngon, dù mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị.... Sau này, tôi tham dự một khóa học về hành chính công chừng nửa tháng ở Trường Hành chính quốc gia Pháp, đã có kinh nghiệm hơn, tuy không được mang theo nước mắm, nhưng biết trước sang đấy sẽ có nguồn cung rồi. Nhóm mấy người chúng tôi chọn ở chung một căn hộ khách sạn, tự nấu ăn, và khoái nhất là các đồng nghiệp của tôi ở Văn phòng VOV Paris mang đến tặng một chai nước mắm Việt. Có nước mắm cốt, nấu gì, ăn gì cũng thấy ngon...
           Có một người quen của tôi, cũng thuộc diện tín đồ của nước mắm, trong một chuyến công du nước ngoài, khi mọi người đang dùng bữa ở một nhà hàng thuộc hạng sang do phía đối tác mời, bữa ăn đang xôm, chợt anh buông một câu hỏi: "Sang đây đã mấy hôm, mọi người trong đoàn có thấy thiếu gì không?". Mọi người ngơ ngác, rồi đưa ra cái này thứ nọ, kể cả chuyện tế nhị, anh vẫn lắc đầu cười, gọn lỏn : "Nước mắm". Mọi người ồ lên, nghĩ thấy đúng. Một người trong đoàn bảo: "Thảo nào... tôi cứ cảm thấy thiêu thiếu gì ấy, mà không nghĩ ra...". Thấy phía bạn ngơ ngác, chúng tôi giải thích, họ cười vui, bảo là, có lần sang Việt Nam, đã dùng thử nước mắm, cũng thấy thú vị đấy, nhưng còn chưa quen với mùi nằng nặng của nó... Chuyện thế, để thấy ai nghiện nước mắm, nhất là quen ăn thứ nước mắm cốt, thêm tỏi và ớt xanh nữa, khi thiếu nó thì nhạt mồm nhạt miệng làm sao....
          Với tôi, nước mắm là già nữa bữa ăn, có nước mắm ngon, ăn rau dưa gì cũng thấy ngon miệng. Tôi thích nước mắm đến mức, ăn các món như bún chả, nem, hay ốc luộc, tôi cũng dùng mắm cốt, chứ không ăn kiểu pha loãng thêm đường này nọ. Tôi biết, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng mê nước mắm thuộc dạng này, thậm chí còn cực đoan hơn, tức là chỉ duy nhất mắm cốt, không cần chanh, tỏi, ớt, hạt tiêu gì cả, bữa ăn bày ra, thiếu nước mắm cốt là chưa dùng đũa... Mấy năm trước, trong một chuyến công tác Nhật Bản, đoàn chúng tôi bay sang Osaka, rồi ngược về KyotoTokyo. Mấy ngày ăn uống, cũng ý thức thử nhiều món ăn của Nhật Bản, vì biết người Nhật ăn uống rất tinh tế và đặc biệt chú ý cân bằng dinh dưỡng. Biết thế, nhưng với tôi, thiếu nước mắm là giảm ngon. Đã có lần, tôi thử xin nhà hàng nước mắm Việt, song họ bảo không có sẵn, và còn nói rằng, nếu có thì họ cũng không cho, bởi theo họ, nước mắm Việt sẽ át hết mùi vị thức ăn của họ. Nói cho cùng, họ cũng cực đoan, như mình, thứ gì cũng phải nước mắm vậy... May sao, về đến Tokyo, cô phiên dịch bảo sẽ đến khu công nhân người Việt để xin nước mắm cho tôi, thì Bùi Hùng, trưởng cơ quan thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Nhật Bản (VOV Tokyo), đã mang đến cho tôi chai nước mắm nhỏ để chúng tôi dùng bữa những ngày ở Tokyo. Thật quý làm sao. 
Trở lại với chuyện tôi thăm làng nước mắm Nam Ô ở Đà Nẵng. Thú thật, mươi năm trước, tôi đã sống ở thành phố này hai năm trời, vậy mà tôi chẳng ý thức gì đến làng nước mắm này. Lẽ dĩ nhiên, ngày ấy tôi ăn cơm tập thể cơ quan, hàng ngày, chị cấp dưỡng cho ăn loại nước mắm nào thì mình ăn loại đó, như mọi người thôi, khi ăn biết loại ngon loại không, nhưng chẳng đòi hỏi gì. Sau ra lại Bắc, mỗi lần vào công tác, hoặc khi anh em văn phòng cơ quan ở đây ra Bắc, tôi cũng hay nhờ mua hộ thùng nước mắm, phần nhà dùng dần, phần làm quà cho người thân. Anh em chọn cho loại nước mắm nhãn hiệu Dì Cẩn, ăn thấy hợp khẩu vị, ok, sau cứ vậy mà mua, chẳng truy nguyên nguồn gốc. Giờ đi thăm làng mắm Nam Ô, mới tự hỏi, không biết loại mắm nhãn Dì Cẩn nọ có thuộc lò nước mắm nào nhỉ? Đàn ông, đoảng vậy đấy. 
           Nhóm chúng tôi thăm làng mắm Nam Ô là theo lời hẹn, nhưng trục trặc nên thiếu người dẫn. Đường vào làng hẹp, lại bị che chắn bởi hàng rào tôn kẽm của một dự án sinh thái ven biển, nghe đâu đang bị treo đó. Từ đây, nhìn lên Hải Vân, cung đường phái nam đèo  gần ngay trên. Tôi nhiều lần qua lại cung đường đèo này, từ thời còn chưa có hầm Hải Vân, nhìn xuống thấy các làng mạc chân đèo bên mép vịnh biển, nhưng đâu có biết, những mái nhà lô xô kia là  làng Nam Ô... Đầu làng, gặp một người đàn ông ngồi trước cửa nhà, ghé hỏi thăm thì ông nhiệt tình nhận dẫn đường và giới thiệu. Thật may, người đàn ông họ Trần tên là Hà, hay Hòa gì đó (giọng nặng khó nghe khó phân biệt) lại là một người thạo việc này, khi dẫn chúng tôi đi thăm làng, ông còn mang theo một tập tài liệu hồ sơ để xin công nhận di tích cho làng Nam Ô. Loanh quanh một hồi, chúng tôi đến nhà ông Bùi Văn Phong, một gia đình làm nước mắm thuộc có tiếng ở làng. Ông Phong tỏ ra quen với việc tiếp xúc, giới thiệu cách làm mắm, PR sản phẩm nước mắm của nhà mình và lịch sử làng mắm Nam Ô với dân báo chí và khách tham quan. 
           Nghe nói, làng chài Nam Ô có lịch sử hình thành đến bảy trăm năm nay, từ thời Huyền Trân công chúa được nhà Trần gả bán vào dâu vương quốc Champa, thế kỷ 13, nhưng nghề làm nước mắm ở đây thì mới có chừng hơn trăm năm thôi. Chưa nói đến kỹ thuật làm mắm, riêng về nguyên liệu, cũng ít nhiều khác biệt, ấy là loại cá cơm than và muối hạt to mua từ Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận)... Trước đây, cả làng có hàng trăm hộ làm nước mắm, nhưng thời cuộc biến thiên, giờ chỉ còn hơn ba chục hộ thôi. Nghe đâu, giờ nguồn nguyên liệu cá cơm cũng không dễ kiếm, thêm nữa, đô thị phát triển nhanh chóng, nhiều hộ nhỏ lẻ, không có khả năng phát triển, cạnh tranh thị trường lờ lãi thấp, nên bỏ nghề mắm theo nghề dịch vụ khác. Chỉ còn lại những hộ khá, phát triển thành công ty mới có đầu ra ổn định, nên giữ nghề... Rồi đây, làng mắm Nam Ô sẽ ra sao?
           Chúng tôi loanh quanh thăm thú, ra miếu thờ thần Nam Hải (cá Ông Voi), miếu bà, chùa làng, mộ tiền hiền làng được cho là xưa kia đã hy sinh khi giải cứu Huyền Trần công chúa... Bãi Rạn của làng ấp sát chân đèo Hải Vân có không gian khá đẹp, tuy nhiên dải đất mép biển án ngữ suốt chiều dài của làng bị bỏ không, như con trăn khổng lồ chềnh ềnh quấn chắt lấy làng, nên nhiều khu vực của dự án bị dân làng xé rào vào xả rác, cho thấy sự bất hợp lý trong quy hoạch, và sẽ còn là câu chuyện dài kỳ, khó giải quyết ...
           Thực ra, việc thăm làng nước mắm Nam Ô, chỉ là cái cớ, gợi cho tôi những suy nghĩ về các cung bậc cảm xúc của nước mắm cá, loại nước chấm "độc nhất vô nhị" của người dân Việt. Chúng ta đều biết, ẩm thực Việt có tên và thuộc tốp đầu trên bản đồ ẩm thực thế giới, bởi nó là bản hòa tấu của ba nền ẩm thực thượng thặng, bản địa-Trung Hoa-Pháp, trong đó, nước mắm chế biến từ cá biển là chỉ  tâm xuyên suốt, là linh hồn... Hết thảy những ai quan tâm đến ẩm thực Việt, đầu biết đến một đầu bếp trứ danh người Pháp, ấy là Didier Corlou. Ông có nhiều năm sống ở Việt Nam, là đầu bếp trưởng của khách sạn Sofitel Metropole Hà Nội, và là thành viên của Viện hàn lâm nấu ăn Pháp. Didier Corlou nổi tiếng với biệt danh "ông Tây nước mắm", bời ông đã phát hiện ra nước mắm là một thức đặc biệt không đâu có và sử dụng nó biến ảo như phù thủy trong các món ăn Việt và cả ẩm thực Tây... Hãy nghe "ông Tây nước mắm" này nói về nước mắm Việt: "
Điều thú vị của nước mắm Việt Nam là tất cả vi khuẩn trong nước mắm đều thể hiện vai trò của nó, đều có lý do tồn tại và đều có lợi cho sức khỏe. Nó cũng giống như các loại vi khuẩn biến sữa thành phô mai vậy". 
          
Là ông Tây nói thế đấy, các nhà sản xuất nước chấm công nghiệp xứ ta nghĩ sao, khi tìm cách tiêu diệt nước mắm sản xuất theo truyền thống, bằng cách mập mờ vận dụng bản dự thảo Tiêu chuẩn quốc gia về Qui phạm thực hành sản xuất nước mắm,khuếch đại sự độc hại của chất histamin trong cá biển và nước mắm truyền thống?... Đành rằng, chất histamin là amin sinh học, có vai trò như một chất của bạch cầu, có nhiều trong cá biển, và hàm lượng tăng trong quá trình ủ chượp làm nước mắm theo cách truyền thống... Câu chuyện ở đây, thực ra là một trò bẩn trong kinh doanh, sẵn sàng loại bỏ cả những gì thuộc về truyền thống và bản sắc Việt, miễn là có lợi cho mình?...
          
Song, nói đi thì cũng phải nói lại. Dùng nước mắm truyền thống là thói quen của người Việt, nhưng nó sẽ chỉ quanh quẩn trong bếp nhà, dù có thêm nhiều người như "ông Tây nước mắm" quảng bá cho nước mắm Việt. Khi mà, bảng tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của nhiều nước trên thế giới còn chặt chẽ, trong đó có hàm lượng histamin, thì các nhà sản xuất nước mắm, đặc biệt các nhà nghiên cứu về công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm hãy làm gì đi, để hạ hàm lượng chất histamin xuống? Câu chuyện nhỡn tiền về cá ngừ đại dương của ngư dân xứ ta không xuất khẩu được sang Nhật Bản nếu không giết thịt theo công nghệ của họ, cũng là vì vậy... 
          
Ghé làng nước mắm Nam Ô chút thôi, vậy mà tôi thành người "nhiễu sự", chuyện nước mắm mãi không dứt. Riêng về làng nước mắm này, có được công nhận là di tích gì đó hay không, nghĩ cho cùng, chẳng mấy quan trọng, bằng một ngày nào đó, số hộ làm nghề nước mắm trong làng lại tăng lên. Ấy là khi những giọt tinh chất của biển cả dưới hình hài giọt nước mắm của làng, đã thực sự lên hương!...

 

 

 

 

Lang thang chuyện gốm

 

Tôi là người yêu gốm.
          Tôi vốn mệnh hỏa, nên tự thân yêu thích các vật dụng, vật trang trí bằng chất liệu gỗ và đất nung. 
           Riêng về gốm, vì yêu thích, nên hay sưu tầm, khi đi đâu, hễ biết và có điều kiện là tôi tìm đến, thăm thú các địa chỉ gốm, làng gốm...
           Ở miền Bắc, hầu như các vùng đất, các làng gốm nổi tiếng, như Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Đông Triều... tôi đều mò đến, thăm thú, chọn mua vài ba sản phẩm gốm mỹ nghệ, bổ sung cho bộ sưu tập của mình...
           Nhưng với các làng gốm nổi tiếng của miền Trung và miền Nam thì quả thật tôi chưa thạo, Thời gian biệt phái vào miền Trung, mỗi chuyến công tác, tôi gắng thu xếp công việc để ghé các địa chỉ gốm. Đương nhiên, gốm Thanh Hà là ưu tiên số một, vì tiện đường sá, lại gần ngay Hội An nên dễ đi. Ngang qua trung tâm Hội An như cưỡi ngựa xem hoa, tôi tìm đến làng gốm Thanh Hà. 

           Vào làng gốm Thanh Hà, ở vào thời điểm ấy (2008), thú thực tôi có chút thất vọng. Thì ra, chỉ có ngần này thôi ư? Làng vắng vẻ, lèo tèo mấy nhà còn giữ nghề. Ghé vào một nhà gần đường, sản phẩm gốm đã nung và gốm mộc không nhiều, chủng loại cũng ít. Chỉ có hai người đàn bà, một trung tuổi đang làm đất, một bà già đang chuốt gốm trên bàn xoay. Hỏi chuyện bà già đang nặn gốm, giọng Quảng nặng, nghe câu được câu chăng, tuy nhiên tôi cũng hiểu được đại khái, rằng làng giờ chuyển làm nghề khác dễ kiếm sống hơn, chỉ còn ít nhà giữ nghề gốm cha ông như nhà bà... Lại hỏi về sản phẩm gốm bây giờ, bà già phảy tay về đống gốm ý chỉ có bấy nhiêu, có làm thêm gốm con giống bộ 12 con giáp bán cho khách du lịch thăm Hội An cũng tàm tạm...
           Thăm rồi, về cứ rẩm riu nghĩ, chả nhẽ, gốm Thanh Hà mai một dần và mất đi? Một làng gốm có lịch sử hình thành lâu đời, từ cuối thế kỷ 15, đến nay khoảng 500 năm tồn tại. Gốm Thanh Hà có cội nguồn từ một dòng gốm Thanh Hóa, di vào đàng trong theo chân tiên chúa Nguyễn Hoàng vô phương Nam mở cõi mà nên ở đất này. Chắc hẳn, khi ấy, dấu ấn của gốm Chăm vẫn còn đậm nét trong đời sống dân sinh, nên dòng gốm này có tiếp thu, pha trộn với gốm bản địa để nên dòng gốm Thanh Hà hiện còn? Gốm Chăm hiện chỉ còn và phát triển ở Bàu Trúc (Ninh Thuận) và Bình Thuận. Một thời, nhất là vào thế kỷ 17, cùng với sự hình thành và phát triển của đô thị Hội An, gốm Thanh Hà phát triển rực rỡ và có mặt ở hầu hết các thị trường suốt dải miền Trung, còn ra cả thị trường nước ngoài, cho đến khi thương cảng Hội An suy thoái, thì gốm Thanh Hà cũng mai một dần,... Dẫu là vậy, thì dòng gốm mộc, không men, từ chất liệu đất sét vẫn lưu giữ được vẻ riêng có của mình. Còn giữ nghề thì còn cơ hồi sinh, phát triển?!...

          Khi suy nghĩ về làng gốm Thanh Hà mai một còn chưa vơi, thì có đồng nghiệp của tôi ở Đà Nẵng giới thiệu, là trong vùng có một nghệ nhân, trên cơ sở dòng gốm Thanh Hà phát triển thành gốm nghệ thuật, ấy là Lê Đức Hạ. Nghe nói, nghệ nhân này có cửa hàng giới thiệu sản phẩm của mình ở thị trấn Điện Bàn (Quảng Nam).

          Một ngày cuối tuần, tôi rủ vài đồng nghiệp đi thị trấn Điện Bàn. Hỏi thăm vòng vo tam quốc một hồi, chúng tôi tìm được cửa hàng gốm của nghệ nhân Lê Đức Hạ. 
          Ở gian hàng ngoài, tôi đảo qua lướt mắt thấy sản phẩm đất nung một số hình đơn giản và một số là tượng đất nung nhái các hình mẫu Châu Âu theo lô, nên không mấy ấn tượng. Nhưng bước chân vào gian trong, tôi sững người bởi các bình gốm cách điệu và nhìn biết là sản phẩm đơn chiếc. Mỗi bình một dáng vẻ, cách điệu, màu đất nung khác nhau cho thấy độ chín khác nhau, rồi ngay trên một sản phẩm, gốm lên màu khác nhau. 

         Quan sát kỹ, nâng từng chiếc bình ra xem kỹ, và lại bao quát, tôi nhận thấy, tính folklor và chất phồn thực trong gốm của Lê Đức Hạ rất đặc trưng. Điều này, chỉ có thể thấy ở tín ngưỡng phồn thực của người Chăm, vốn được thể hiện trong các hình họa, điêu khắc trên các đền tháp Champa. 

          Cùng với gốm dân gian phồn thực, có một dạng gốm khác, ấy là gốm chân dung. Trên các bình, lọ gốm cách điệu, Lê Đức Hạ khắc họa các khuôn mặt người, và cũng có vài dạng khác nhau, ví như khuôn mặt hài, bi, mặt nạ nhân vật tuồng, Hoặc khắc họa chân dung, ví như chân dung thi sĩ cuồng Bùi Giáng. Nghe nói, Lê Đức Hạ từng khắc họa chân dung nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn với tâm trạng ca khúc "Tôi ơi, đừng tuyêt vọng"... 

           Với những gì tôi thấy ở đây, thực sự đã làm nên một tên tuổi "Gốm Lê Đức Hạ" rồi. Theo thiển ý, tôi thấy, có một gốm Lê Đức Hạ riêng biệt, với sự kết tinh nhuần nhuyễn của gốm Thanh Hà (chất liệu, kỹ thuật nung nói chung), chất phồn thực của gốm Chăm và sáng tạo riêng của Lê Đức Hạ với sự cách điệu kiểu dáng, tạo hình họa chân dung... Vậy là Lê Đức Hạ đã tạo nên một phong cách riêng biệt, không trộn lẫn với bất kỳ ai. 
Nghe mọi người đồn, nghệ nhân Lê Đức Hạ, từng lập lò gốm của mình ở làng Đông Khương, xã Điện Phương, bên bờ sông Thu Bồn, rồi phá bỏ vì không bán được hàng, đi kiếm sống bằng nghề khác. Nhưng trời đày ông bằng nghề gốm nên quay lại niềm đam mê nghịch đất, để rồi thành công, thành danh ngoài mong đợi. Tôi còn vài lần trở lại cửa hàng của Lê Đức Hạ cùng với bạn bè mình, để gom lấy những sản phẩm đơn chiếc của ông. Mỗi lần trở lại, thấy các sản phẩm gốm mỹ thuật ấy vơi đi mà không thấy bổ sung, khiến tôi sinh chút hoài nghi. Hoài nghi bởi, những sản phẩm hàng lô bán xi thì nhiều, còn sản phẩm đơn chiếc lại không mấy, phải chăng sự thành công đã khiến nghệ nhân mê mải với chuyện kinh doanh và xao nhãng việc sáng tạo? Tôi mong một ngày nào đó, được thấy những sản phẩm độc đáo của Lê Đức Hạ, khiến người ta phải ngỡ ngàng như ngày nào!... Dẫu sao, cũng mừng cho sự thành công của nghệ nhân này... 

           Cuối năm 2009, sau khi kết thúc nhiệm kỳ công tác ở Cơ quan Đài tiêng nói Việt Nam khu vực miền Trung tại Đà Nẵng, tôi ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Đi cùng có vài phóng viên kết hợp công tác Huế và Quảng Trị. Có người mách tôi, ở Huế, ông Hồ Tấn Phan là người có bộ sự tập gốm cổ thuộc cỡ "độc nhất vô nhị". Một gợi ý không thể bỏ qua, chúng tôi liền tìm đến nhà ông (phố Cao Bá Quát, Tp. Huế). Thật may, ông Hồ Tấn Phan có nhà. 
           Vừa bước chân vào ngõ, tôi sửng sốt bởi không thể ngờ, đồ gốm cổ lại nhiều đến thế, là liệt ra đến vườn cổng nhà. Sao lại không ngạc nhiên cơ chứ, khi đồ cổ quý hiếm có số lượng đếm không xuể và được bày la liệt, chẳng sợ bị trộm cắp. Biết chúng tôi là nhà báo, ông Hồ Tấn Phan vừa pha trà mời khách, vừa vui vẻ trả lời những câu hỏi của chúng tôi, không ngại giãi bày tâm tư của người sở hữu một khối lượng "khủng" cổ vật quý hiếm. Phần lớn, cổ vật trong "ngôi nhà gốm" của ông là gốm Sa Huỳnh (niên đại 2.500 trước) và gốm Chu Đậu, cùng đó, có cổ vật từ thời văn hóa Đông Sơn, các triều đại Lý Trần, Champa và nước ngoài...

Ông Hồ Tấn Phan cho biết, phần lớn số cổ vật mà ông có được là thu gom từ các vụ trục vớt những con tàu đắm ở vùng cửa sông Hương. Để làm được việc đó, cùng với sự hiểu biết và lòng say mê, ông đã bỏ bao công sức, tiền của cho bộ sưu tập khủng này. Tranh thủ lúc ông bận trả lời phỏng vấn của phóng viên VOV, tôi loanh quanh quan sát nơi bày cổ vật của ông...

           Cơ man là gốm, gốm trong nhà, tủ, bàn, kệ, bậu cửa, lỗ thông hơi, góc của, thềm nhà... nghĩa là nào bày được là bày... Ngoài sân vườn thì thành nhóm, thành kiêu, bên gốc cây, nơi thành giếng, mép sân, góc vườn...  Ở độ tuổi bảy mươi, khi ấy, ông còn khá khỏe, tuy thân hình gày guộc. Đối thoại với Hồ Tấn Phan, thấy niềm đam mê gốm cổ trong ánh mắt, trong giọng điệu, trong mỗi cử chỉ khi thuyết trình về gốm cổ nói chung và bộ sưu tập của mình... Ông còn là một người sưu tầm sách, sách cổ, sách quý, đặc biệt là những bộ sách về văn hóa-lịch sử-dư địa chí, tự vị, khảo cổ học... Ông lần giở cho chúng tôi xem một số bài báo viết về bộ sưu tập gốm cổ của mình...

Chia tay, ông tiễn chúng tôi ra ngoài ngõ, rời chân đi mà tôi cứ ngoái lại nhìn đống gốm cổ bày tràn ra mép hàng rào... 

           Năm 2016, nghe tin nhà sưu tập Hồ Tấn Phan mất ở tuổi 77, và trước khi mất ít lâu, ông đã làm một việc đầy ý nghĩa. Ấy là hiến tặng Ủy ban Biên giới quốc gia bộ 'Đại Nam thực lục' của Quốc sử quán Triều Nguyễn do Trường Đại học Keio, Nhật Bản thực hiện. Tôi hiểu, mình đã may mắn, dù chỉ một lần được đàm thoại và tận mắt chiêm ngưỡng bộ cổ vật, gốm cổ của Hồ Tấn Phan, nhà sưu tập-nghiên cứu văn hóa Huế... 

            Cùng trên mảnh đất Huế, nghe danh làng cổ Phước Tích đã lâu, bản thân qua lại vùng đất này không biết bao nhiêu lần, vậy mà đến năm 2014, tôi mới tìm đến thăm làng cổ vang danh gốm này...

            Làng Phước Tích năm bên bờ sông Ô Lâu êm ả, thanh bình thuộc huyện Phong Điền, cách thành phố Huê hơn ba chục cây số. Thời điểm tôi đến, trùng với Festival Huế 2014, nên đây cũng là một điểm tham quan cho du khách...

            Loanh quanh trên các nẻo đường làng, ít khi bắt gặp người dân, chỉ dăm ba đám khách thơ thẩn, ngó nghiêng. Nhà cổ, vườn rộng, hàng rào cây là đặc điểm chung, Bắt gặp một điểm trưng bày gốm, trương khẩu hiệu "Lễ hội hương xưa làng cổ 2014, điểm trưng bày và quảng diễn gốm Phước Tích", chúng tôi rẽ vào thăm. Chủ nhà tuổi trung niên, anh vui vẻ chào mời khách nhưng vẫn không ngừng bàn xoay tạo gốm. 

            Hỏi chuyện, biết làng hiện còn ít nhà theo nghề này, chủ yếu là lòng đam mê, muốn lưu giữ nghề truyền thống của một làng gốm danh tiếng xưa nay ở đất cố đô. Xem tấm bảng về lịch sử hình thành, biết làng Phước Tích có lịch sử lâu đời 500 năm nay, từ thời đầu chúa Nguyễn đi mở đất. Theo đó, nghề gốm dần hình thành. thịnh vượng mang lại danh thơm và nguồn sống cho làng.

            Cũng như nhiều làng gốm cổ truyền khác, Phù Lãng,Thổ Hà, Thanh Hà, Bàu Trúc, gốm Phước Tích là gốm mộc, không men từ chất liệu đất sét. Thời nhà Nguyễn, làng Phước Tích từng phải nộp một số lượng nhất định nồi đất nung cho triều đình dùng nấu cơm, thảo nào dân gian có câu ca "Om Phước Tích ngon cơm Hoàng đế..." là vậy. Nghe nói, Phươc Tích đã từng có sản phẩm gốm được bán sang Nhật Bản...  Ngày nay, tuy số nhà làm gốm ít, nhưng chủng loại, kiểu dáng, tạo hình mỹ nghệ trên sản phẩm phong phú hơn xưa nhiều, và rõ ràng có sự chi phối của mỹ thuật công nghiệp hiện đại.

            Làng vẫn còn một số nghệ nhân, nhưng nghe đâu chỉ gia đình ông Lê Trọng Diễn là giữ được bộ sưu tập trưng bày cho thấy sự phong phú của làng gốm Phước Tích một thời. Bầu không khí làng tĩnh lặng, có gì đó buồn buồn, đó đây bắt gặp dấu tích vài ba lò gốm cổ, lò gốm cũ, bị bỏ hoang, không đỏ lửa từ lâu rồi, song là minh chứng cho một làng gốm Phước Tích từng thịnh vượng...

            Gốm cổ, mai một, rồi lại hồi sinh. Tôi đã thấy điều đó ở gốm Phù Lãng, gốm sứ Chu Đậu, Đông Triều,... và mới đây là dòng gốm Thanh Hà ở Hội An.
            Gần chục năm trước, lần đầu đến làng gốm Thanh Hà, tôi đã ít nhiều thất vọng, như đã kể cùng mọi người, nhưng giờ đây, gốm Thanh Hà đã hồi sinh với một sức sống mới. Một trung tâm trưng bày-một bảo tàng gốm quy mô và đẹp đẽ đã được dựng lên ở đây, mà người ta quen gọi là Công viên đất nung Thanh Hà. Công viên đất nung này là ý tưởng hiện thực của kiến trúc sư Nguyễn Văn Nguyên, thiết kế và là chủ nhân. Tổng thể, chia thành 2 khu vực, khu biểu trưng "lò úp" là để trưng bày lịch sử hình thành phát triển của gốm Thanh Hà, với ý nghĩa lưu giữ các giá trị truyền thống. Còn khu biểu trưng "lò ngữa" là nơi trưng bày các sản phẩm gốm Thanh Hà và một số dòng gốm khác như Phù Lãng, Bát Tràng, Vĩnh Long... 

            Tôi và mấy đồng nghiệp ở VOV miền Trung đến tham quan công viên đất nung này từ những ngày đầu khai trương. Quả thật, với phần trưng bày đất nung mới mô hình các công trình kiến trúc thuộc hàng kỳ quan thế giới (như Nhà thờ Đức Bà Paris, Tòa Bạch Ốc, đền Tajmahan, Tượng nữ thần Tự do, Nhà hát opera Sydney...), tôi không mấy thú, song khi bắt gặp những sản phẩm gốm Thanh Hà qua quá trình hình thành và phát triển thì vô cùng thích thú. Phần bày các dòng gốm khác cũng rất thú vị. Với quy mô như vậy, chủ đầu từ chắc phải bỏ ra nhiều chục tỷ để thiết kế xây dựng. Lỗ lãi thế nào chưa biết, song phải có lòng đem mê và ý chí khá lớn mới làm ra được. Điều đó thật đáng khâm phục. 

            Đáng bàn hơn nữa, là ý nghĩa xã hội, cộng đồng to lớn, khi mà vừa duy trì bảo tồn nghề truyền thống, vừa đem lại công ăn việc làm cho người dân làng gốm. Giờ đây, du khách về làng gốm Thanh Hà, ngoài việc thăm thú, vua sắm sản phẩm, còn được thỏa thú vui trải nghiệm tự tay nặn đất ra sản phẩm của mình... 

            Mong là, gốm Phước Tích cũng có ngày như thế...
            Lang thang chuyện gốm, rong chơi chút vậy... khi mà, đích tiếp theo của tôi là gốm Bàu Trúc, gốm Đồng Nai, gốm Vĩnh Long...

            Trong khi chưa đặt chân đến làng gốm Bàu Trúc  (Ninh Phước. Ninh Thuận), tôi có được xem một video về  quá trình làm gốm Bàu Trúc khá thú vị. Dòng gốm Chăm này, từ ngàn xưa đến nay dường như không thay đổi. Ta có thể thấy mấy đặc trưng của gốm Bàu Trúc, khiến nó khác biệt với các dòng gốm dân gian khác trên dải đất hình chữ S này.

            Ấy là, thợ làm gốm tất cả đều là phụ nữ. Phải chăng người Chăm theo chế độ mẫu hệ nên việc làm gốm là việc hệ trọng phải do người đàn bà làm? Và phải chăng, người đàn bà vốn được xem là khéo tay hơn trong các việc thủ công?

            Ấy là, nguồn nguyên liệu là đất sét nhưng được pha trộn thêm cát mịn theo một tỷ lệ phù hợp với từng loại và kích cỡ của gốm  .

            Ấy là, người đàn bà làm gốm không dùng bàn xoay, cho đến nay vẫn vậy, khi tạo dáng gốm, người làm xoay tay, xoay mông tròn quanh bệ gốm, có lẽ vậy mà dáng người đàn bà thợ gốm khá đẹp, ngực nở bụng eo, mông mở và bước chân uyển chuyển?

            Ấy là, cách tạo hoa văn trang tri trên gốm khá đơn giản, không cầu kỳ, hoa mỹ, nhưng rất ấn tượng, bắt mắt, mang sắc thái nghệ thuật dân tộc rõ ràng, làm nên sự độc đáo riêng. Dụng cụ tạo hoa văn trên gốm cũng đơn thuần từ các vật dụng trang sức của người đàn bà trong sinh hoạt đời thường. 

            Một sự đặc biệt nữa, ấy là kỹ thuật đốt gốm. Gốm Bàu Trúc không nung gốm trong lò mà nung trần ngoài trời. Lót củi xuống đáy, úp gốm lên, phủ rơm và trấu lên trên cùng, rối đốt, thành gốm màu tự nhiên tùy mức độ tiếp xúc lửa.          

           Khi nào thăm Bàu Trúc, tôi sẽ lại kể câu chuyện của mình ... 

 

 

 

Lâu lâu ra ngoại ô

 

Lão khọm Huân (tên gọi vui tôi hay dùng để gọi nhà văn Nguyễn Trọng Huân) mấy lần tỉ tê rủ sang chơi nhà lão ở ngoại ô, bên kia bờ sông Đuống. Lần chần mãi rồi cũng sang...
         
Đây là ngôi nhà lão mới làm xong chừng hơn năm nay trên mảnh đất bố mẹ vợ cho vợ chồng lão ở bìa làng Lại Đà, Đông Anh, Hà Nộ. Đây là một làng cổ nằm ven theo chân đê sông Đuống gần ra ngã ba sông nơi  sông Hồng chẽ nhánh đổ nước vào sông Đuống. Mặc dù là làng cổ, xưa thuộc trấn Kinh Bắc, cũng từng có ông Nghè (tiến sĩ) cụ Cử (cử nhân), nhưng không thể nổi tiếng bằng Mai Lâm cũng thuộc vùng này hay rộng ra xứ Đông Ngàn cũ. Xưa kia, nói Đông Ngàn, là muốn nói cả một vùng đất thuộc Kinh Bắc nằm ven kinh thành Thăng Long, có nhiều người đỗ đạt làm quan trong các triều đại phong kiến. Còn Mai Lâm thì là vùng xung yếu đề sông Hồng từng nhiều lần xảy ra vỡ đê gây ngập lụt trôi nhà cửa, chết người, mất mùa đói kém bao thể kỷ nay, cho đến đận lụt năm 1971 mới chấm dứt; chưa hết, đây là quê của nhà văn hóa Ngô Tất Tố (Đầu xứ Tố), nổi tiếng với ký sự Việc làng, tiểu thuyết Lều chõng,Tắt đèn nên được nhiều người biết đến. Vậy cái làng Lại Đà này có gì để mà tự hào với mấy làng kia đây? Lần đầu lang thang đến đây, cũng đã dăm năm trước, khi ấy, Trọng Huân đã đưa tôi đi thăm chùa làng (Cảnh Phúc tự), kể chuyện về cụ Cử chết đói, và thăm Từ đường dòng họ Nguyễn Phú của bố vợ Trọng Huân, rồi cắt nghĩa cái tên làng Lại Đà vốn là tên biến âm, gọi chệch từ tên cổ Lai Xà (tức Rắn lại đến) và sự tích của nó. Mấy năm qua mà làng đổi khác nhiều. Số là, cây cầu Đông Trù (thay cho Phà Đông Trù cũ) và con đường cao tốc, nối với cao tốc từ cầu Nhật Tân đi sân bay Nội Bài và các tỉnh phía Bắc, tạo sắc thái mới cho vùng đất ven đê chiêm trùng này. Lại thêm, chủ trương mở rộng thủ đô Hà Nội sang tả ngạn sông Hồng nhằm tạo sự cân đối, khiến nhiều cánh đồng làng được đưa vào diện quy hoạch, chuyển đổi sang đất phát triển đô thị, thương mại, vui chơi giải trí, nên đất làng Lại Đà cũng như một số làng khác quanh đấy lên giá vùn vụt. Rồi người dân cũng đồn nhau rằng đất ấy khí thế đang vượng lắm, có thể phát này nọ... Thiên hạ thế nào thì chẳng rõ, riêng với lão khọm Huân, ba mươi năm về thủ đô lập nghiệp, chui rúc trong căn hộ diện tích vừa tròn 15 m2, dù có chồng lên vài ba tầng, thì vẫn là tù túng, sao bằng căn nhà mới  trên mặt bằng khuôn viên vườn gần 300 m2 theo lối hiện đại, tiện nghi khá đầy đủ. Bạn bè, đồng nghiệp vui đùa lão, bảo khi già, về hưu rồi mới phát cung điền trạch...

Lần chần đợi chiều buông nắng vãn mới lên đê ngóng cảnh lấy hứng. Cũng định đi sớm hơn chút đặng sợ muộn quá nắng tắt thì chụp ảnh không đẹp, song lão khọm Huân lúi húi mê mải chỉnh cái đầu tượng đất sét, thú vui nghịch đất mà lão mới nảy sinh chừng mươi ngày nay, nên không nỡ giục sợ lão mất cảm hứng,...

Chiều muộn hai lão khọm lai nhau lên đê Tả Hồng về phía ngã ba Dâu, nơi sông Đuống-sông Hồng gặp nhau. Tàu bè vào ra tấp nập. Trên bờ đê, Pháo đài Xuân Canh, một di tích cấp quốc gia từ thời đánh Pháp thì bé tí tẹo như điếm canh để bỏ hoang, bị lút đi bởi ngôi chùa làng còn đang xây dở lại to ngất ngưởng. Ngầm so sánh, có chút chạnh lòng...

Nhìn dòng nước sông Hồng đỏ ngầu sau những ngày mưa nguồn cuồn cuộn đổ vào sông Đuống để rồi lưu thông sang sông Thái Bình đầu kia, chợt ngộ ra một điều mà mình đã hiểu nhầm mấy chục năm qua. Sao lại như vậy nhỉ? Mình đã nhiều lần ngang qua sông Đuống, và mỗi lần đều ngó nghiêng dòng nước chảy, sao lại không ý thức việc dòng nước sông Đuống chảy theo hướng nào? Chỉ có thể lý giải, mình đã quá vô tình vô ý ngần ấy năm, không chịu tìm hiểu xem con sông Đuống chảy ra sao, mà đầu óc tự nhiên nghĩ nó từ sông Thái Bình về sông Hồng để ra với biển, trong khi thực tế, nó là chi lưu của sông Hồng, chia lũ sông Hồng từ thượng nguồn băng qua miền quan họ về mạn Chí Linh để rồi hợp lưu  và trở thành phụ lưu của sông Thái Bình, ra biển.

Có lẽ nào, những câu chuyện lịch sử đã làm lu mờ yếu tố địa lý đơn thuần của dòng sông này?

Thời Trần, như chuyện Hội nghị Bình Than xưa ấy, nhà Trần nghị sự đồng tâm hiệp lực đánh giặc Nguyên Mông, thuyền ngự hai vua Trần (Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông)  theo dòng Thiên Đức (Thiên Đức Giang, tên chữ cổ của sông Đuống)  ra bến Bình Than, thuyền than củi của Trần Khánh Dư từ nơi tá túc là Chí Linh vội đến bến Bình Than để gặp thuyền ngự nhà vua, mong được trọng dụng trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, đặng phò vua giúp nước chống ngoại xâm phương Bắc...

Hay  như chuyện vua Lê Nhân Tôn đi tuần du miệt Chí Linh, Lục đầu giang, và vùng Đông Bắc, ghé thăm trang ấp của Nguyễn Trãi để rồi gây nên vụ án Lệ Chi viên (vụ án Vườn vải) để rồi vợ chồng Nguyễn Trãi-Nguyễn Thị Lộ cùng gia tộc mấy đời bị tru di, đã làm đầu óc người ta mụ mị, chẳng còn nghĩ được gì khác?

Và xa xưa hơn nữa, Nguyên phi Ỷ Lan (tức Linh Nhân Hoàng Thái hậu) là con nhà canh cửi, sinh trưởng nơi bãi sông nương dâu sông Đuống này, sau thành nhân vật lịch sử nổi tiếng, ảnh hưởng đến sự hưng thịnh của Triều Lý...

Bao nhiêu câu chuyện lịch sử triều chính bao phủ, giăng mắc như tơ nhện, và còn được đồng hóa với những giai thoại dân gian khiến cả đôi bờ sông Đuống thành vùng huyền thoại...

Hay chăng, bài thơ say đắm lòng người "Bên kia sông Đuống" của thi sĩ Hoàng Cầm đã mê hoặc người ta:"...Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ/ Xanh xanh bãi mía bờ dâu/ Ngô khoai biêng biếc...", đã khiến tâm trí người ta sinh ngẩn ngơ, mà dễ lạc hướng chăng?  Hay là vì mình hiểu sai nên cứ suy đoán, mà đổ lỗi cho đầu óc mụ mị vậy chăng?
         
Trời nổi cơn giồng mùa hạ, ráng đỏ ối phía cầu Nhật Tân. Vội trở về nhưng ngang qua công trình Thủy nông Bắc-Hưng -Hải điều tiết nước sông Hồng-sông Đuống với hệ thống kênh mương nội đồng xây dựng từ hơn nửa thế kỷ qua, đã góp phần làm nên nhũng mùa vàng 5 tấn ở đồng bằng Bắc bộ, lại buâng khuâng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ, hy sinh đã qua... Đổ dốc đê về làng, nhìn vạt cỏ xanh sườn đê, lại chợt nhớ câu thơ của Tường Anh, bà xã Trọng Huân nhắc về kỷ niệm thời đi học ở quê với tiếng lách chách châu chấu đạp càng... Câu thơ như mới đây thôi vậy mà các cô cậu học trò trường làng ngày ấy đã nên ông nên bà cả rồi...

Một bên là thảm lúa vàng chưa kịp gặt, còn một bên thì đất ruộng đang bị san ủi, lố nhố nhà cao tầng đang lên... Trọng Huân chỉ mấy chung cư cao tầng đàng lên, bảo ai đó đã đầu tư mua vài ba căn hộ ở đấy, nghe loáng thoáng chẳng rõ. Lại chạnh lòng, chỉ vài ba năm nữa thôi, sẽ chẳng còn lúa má với ruộng vườn.... Có chăng, chỉ còn cây đa già mình đang đứng đây và ngôi chùa làng (Cảnh Phúc tự) cách đó không xa, cùng những câu chuyện cổ mà thôi !...

 

 

 

 

Lên Vĩnh Yên

 

 

Lâu rồi tối mới lại lên Vĩnh Yên, với đúng nghĩa của nó, chứ không phải là cưỡi xe lướt ngang qua...
          Ngày trước, cái tên Vĩnh Yên nghe có vẻ xa xôi. Chẳng thế mà nhà thơ Vĩnh Mai, trong một lần lên Vĩnh Yên đã mở đầu bài thơ "Lên Vĩnh Yên" của mình bằng câu thơ thật gợi: "Mùa thu dừng lại ở Long Biên/ Để một mình tôi lên Vĩnh Yên...". Ngày đi học, đọc câu thơ ấy, đã lây cái cảm giác cô đơn, xa ngái và nỗi buồn man mác của nhà thơ... Vâng, đấy là hơn nửa thế kỷ trước, đường sá khó đi nên sinh cảm giác xa xôi là vậy. Giờ thì Vĩnh Yên đã gần kề thủ đô rồi, đường sá lại thuận tiện.
          Qua sân bay quốc tế Nội Bài, bỏ lối lên cáo tốc Hà Nội-Lào Cai, một chặng nữa rồi rẽ ngang đã vào sâu đất rừng phòng hộ Sóc Sơn. Thêm một thôi đường, quanh co, qua sân gôn Minh Trí là đến ranh giới giữa Sóc Sơn ( Hà Nội ) và bên kia là đất Vĩnh Yên rồi. Ranh giới giữa đất thủ đô và đất bán sơn địa Vĩnh Yên chỉ một con đường quanh co kiểu đường làng, nhưng bây giờ đã được nâng cấp ô tô đi được. Đất cát luôn là chuyện khó lường, bên này bên kia đường thôi là giá trị đã có thể gấp đôi nhau, đơn giản bởi khác nhau ở mỗi cái tên gọi. Mới biết, người Việt mình thích làm sang, sính cái tên gọi, thích được làm dân phố xá?...
          Dăm bảy năm nay mới trở lên thăm trang trại vườn rừng của người chị gái. Lần trước lên đây, cây cối còn thưa thớt, chủ yêu mấy loài cây lâm nghiệp. Đất trung du cằn cỗi nhưng cũng đủ cho các loại cây ăn quá nhiều nước xanh tốt đơm hoa kết trái, như khế, roi, sung, mít, xoài... 
          Lang thang ra ngoài đường, dạo quanh quất các trang trạng nhà vườn gần đấy, bắt gặp hương thơm ngọc lan và sắc màu của mai đỏ và ti-gôn... Loài hoa ti-gôn trồng trên dất cằn mà hoa lên màu đẹp thế. Loài hoa này giờ hiếm dần, nhường chỗ cho các loại cây hoa giấy dễ trồng hoa đủ các màu bắt mắt không hương vị gì...
          Lại nhớ đến dàn hoa ti-gôn nơi cổng nhà bố vợ nhà văn Nguyễn Trọng Huân ở làng Lại Đà, Đông Anh, Hà Nội mình thấy vài năm trước. Thấy hoa ti-gôn, tự nhiên những câu thơ của bài thơ HAI SẮC HOA TI-GÔN của TTKH và cuộc đối thoại thơ với Thâm Tâm gần một thế kỷ trước lại ùa về... "...Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, / Thở dài trong lúc thấy tôi vui, / Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ, /Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!" ...
          Chỉ cần thế thôi, mặc dù bây giờ không phải là mùa thu, nhưng các loài quả mọng nước, những loài hoa và những câu thơ cũ... đã làm cho cái nắng đầu hè, sự quá trớn của gió Lào khô nóng, cũng dịu đi nhiều...

Và lòng người cũng yên ả...

 

 

 

Mưa dầm tháng hai,

 

Tháng Hai âm lịch.

           Chưa đến rằm nhưng đã có nhiều ngày mưa, đúng tiết mưa dầm xứ Bắc. Chẳng nhớ hôm mồng Một có mưa không? Nhớ lời mẹ tôi dạy từ ngày còn nhỏ, hễ mồng Một, ngày đầu tháng âm lịch nào mà có mưa là cả tháng ấy mưa nhiều...

           Mưa phùn, mưa bụi, mưa xuân, ấy là một. Kiểu mưa này chỉ có ở Bắc bộ và bắc miền Trung. Sở dĩ có nhiều cách gọi là do thói quen của từng vùng, miền và từng người mà thôi. Gọi mưa phùn, là người ta hình dung, mưa như cỗ máy thiên nhiên phun mạnh vào không gian thành những hạt nước nhỏ xíu; còn gọi mưa bụi hay mưa phấn, ấy là hạt mưa li ti như khói, như bụi, giăng mờ mịt bầu không; còn gọi mưa xuân là bởi kiểu mưa này chỉ có vào tiết xuân. Thường là vào cuối tháng Giêng, kéo sang hết tháng Hai, mùa xuân, xen kẽ giữa những đợt không khí lạnh khô hanh từ phương Bắc tràn xuống, và những ngày oi nóng như mùa hè, là những ngày có không khí lạnh yếu đi lệch Đông ra phía biển, gặp khí nóng phương Nam chặn lại, đưa hơi nước từ biển bốc lên, gặp không khí lạnh từ Bắc vào, tạo thành những đám mây mưa, song chỉ đủ sức làm thành kiểu mưa phùn, mưa bụi cho đất liền mà thôi. Với tình chất vậy, tạo nên tiết nồm ẩm, nóng lạnh thất thường, rất khó chịu, khó lường cho con người, vạn vật...
         Tùy mỗi năm, sụ chệnh lệch giữa cách tính theo dương lịch và âm lịch sự chênh nhau về thời gian độ vài ba tuần, thậm chí bốn năm tuần. Thời vụ, tiết trời được người xưa ấn định cho vạn vật, được tả trong ca dao, tục ngữ thì tính theo âm lịch. Ví như, tiết Giêng Hai âm lịch chẳng hạn, theo dương lịch thì là cả khoảng thời gian các tháng hai, ba, tư của năm dương lịch rồi. Lại ví như, câu ca dao "Tháng Giêng là tháng trồng khoai, tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà, tháng Tư cày vỡ ruộng ra,,." cho thấy nông lịch của người xưa. Dĩ nhiên, cái nông lịch này là theo tập quán canh tác xưa cũ, của nền văn minh lúa nước của vùng Bắc bộ, canh tác năm chỉ một đến hai vụ lúa nước, xen kẽ là hoa màu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên... Ngày nay, nông lịch này không còn phù hợp nữa, bởi sự can thiệp của con người bằng khoa học kỹ thuật trong tạo giống cây trồng phản ứng ánh sáng trung tính, trong chế độ tưới nước, điều chỉnh nhiệt độ, nên thời vụ của từng loại cây trồng cũng khác đi... Còn cây cối thiên thiên thì chịu tác động của biến đổi khí hậu nên việc ra hoa, kết trái, đổi màu, trút lá cũng ít nhiều thay đổi...
         Tiết mưa phùn tháng Hai cũng đa dạng lắm. Nếu như không khí lạnh yếu, thường chỉ trời mưa bụi vào lúc chiều tối, qua đêm đến sáng ngày sau, ban trưa thì trời hửng. Nếu không khí lạnh mạnh hơn, có thể trời lắc cắc mưa thành hạt rồi kéo dài vài ba ngày thành mưa dầm. Thường gió mùa về lúc nửa đêm về sáng. Đêm trước đi ngủ, trời còn chưa mưa, nhưng rồi, trong giấc ngủ mơ màng ta nghe lơ mơ đâu đó tiếng động nhẹ, mau thưa, rồi lắc cắc, lộp độp, tiếng mưa gõ vào mái hiên, lá cây ngoài ban công, rồi rỏ giọt... Sáng ra, sân đã ướt đầm... Mưa lây nhây, trời có lúc tạnh, rồi lại mưa, cứ thế vài ba ngày liền. Ẩm ướt, lép nhép...
         Trong tiết mưa dầm tháng Hai, cũng đã là tháng ba dương lịch rồi, khi hoa bưởi hoa chanh đã vãn, hoa xoan rộ lên rồi nhanh chóng qua đi. Ấy là lúc hoa gạo bung trời, đỏ lựng, đỏ ối tùy thời tiết hay cảm giác của người ta. Lúc đầu. lác đác hoa, gợi con người ta về một sự khởi phát, rồi cả cây bừng nở, thì cho người ta sự viên mãn, và khi hoa gạo vãn dần, lại cho ta cảm giác buồn buồn của sự rụng rơi, hoài niệm, luyến tiếc. Các cây gạo nở hoa cũng trước sau khác nhau tuy theo độ tuổi của cây. Thường là, những cây gạo còn non, hoa hay trổ sớm, cái kiểu háo hức của tuổi trẻ, và hoa cũng không bền, nhanh chóng rụng hết. Cây già hơn, hoặc cổ thụ, thường điềm tĩnh, hoa nở chậm, cũng lớp lang, cành già cành non, cành bổng, cành la, hoa trước hoa sau, nên mùa hoa kéo dài cả tháng trời và lúc nào cũng cho ta thấy vẻ đẹp của nó. Hoa gạo có phẩm chất và vẻ đẹp ấn tượng trong mọi kiểu thời tiết... Này nhé, trời hửng nắng, hoa gạo tươi rạng cả khung trời nơi nó đứng, cho người ta cảm hứng sáng tạo. Trời sương mờ, nhiều thứ cỏ cây bị sương che phủ, riêng bông hoa gạo, to tướng và đỏ lựng điểm xuyết trong màn sương làm cho quang cảnh hư ảo, mộng mĩ, mê hoặc cõi trần. Còn như trời mưa gió, hoa gạo ở trên cành thì tươi rói, khi rụng xuống, không mỏng manh tan tác như cánh phượng, mà ngổn ngang, bề bộn và có gì đó quằn quại như những nỗi đau đời, nỗi niềm thương cảm chưa tan...
        Cứ thế, suốt hàng tháng trời, từ độ trung tuần tháng hai, đến tận gần cuối tháng ba âm lịch, hoa gạo đó đây, khi lác đác, lúc đỏ tung trời xứ Bắc bộ. Và để rồi khi mùa hè đến, quả gạo lại một lần nữa tung trời những sợi tơ trắng. Ngày xua, những nhà nghèo, người ta đi nhặt, lượm những sợi tơ gạo ấy về nhồi làm áo, gối và chăn ấm cho mùa đông đấy. Chẳng thế mà, đã có ý kiến đề xuất lấy Hoa Gạo làm quốc hoa.
         Với riêng tôi, một lần đi thăm chùa Keo ở Vũ Thư, Thái Bình, nhằm đúng vào mùa hoa gạo. Từ trên đê cao, nhìn xuống cổng chùa Keo, mấy vầng hoa gạo đỏ ối phủ kín cả tam quan chùa. Những cội gạo già mốc thân, thi thoảng buông vai ba bông gạo xuống lộp bộp khiến người ta giật mình thảng thốt. Nhìn lên, bất ngờ một bông gạo rơi, xoay tròn như chiếc ô trên cao xuống, có cảm giác như vòng luân hồi trần gian. có một bà cụ già, lưng còng gập xuống, lẩn thẩn tìm trong đám hoa gạo thảm đỏ khoảng trống trước cửa chùa, nhặt lấy vài bông hoa gạo cầm về, chẳng hiểu để làm gì. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh trong tôi mỗi mùa hoa gạo...
        Sáng nay, trước rằm tháng Hai, trời mưa bụi giăng mờ mịt phố phường Hà Nội. Mưa dầm đã mấy ngày nay rồi. Tiết trời này thật điển hình của mùa xuân Bắc bộ. Người đi đường áo mưa cũng được, mà không áo mưa cũng chẳng ướt. Lại rẩm riu nhớ câu thơ của Trần Đăng Khoa "Mưa bay như khói qua chiều/ Vòm cây như rỏ giọt đều qua đêm... / Sáng ra mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô"...
         Và thế, tiết mưa dầm tháng hai ẩm ướt sẽ dần qua,...
         Mùa xuân rồi cũng cạn ngày,...

 

 

 

 

Ngẫm về ý thức Nhật Bản,

 

Vâng, lại chuyện Nhật Bản,
         Ấy là mùa thu năm 2005, tức là đã gần 14 năm rồi. Khi ấy, Bộ Y tế thành lập một đoàn công tác, do một vị Phó Chánh văn phòng Bộ làm Trưởng đoàn, với thành phần hơn chục người, gồm một số cán bộ quản lý y tế trực thuộc Bộ này và dăm nhà báo của mấy cơ quan báo lớn như Đài TNVN, TTXVN, Báo Nhân dân... Tôi khi ấy là Phó trưởng ban Ban Văn hóa Xã hội (VOV2) được cơ quan cử tham gia. Chương trình công tác dài chục ngày và thời gian làm việc chật cứng, hầu như không có thời gian trống để nhòm ngó, thăm thú Đất nước Mặt trời mọc. Chương trình này do bên ta đề xuất và tự túc hoàn toàn (đi lại, ăn ở ...) và phía bạn chỉ hỗ trợ việc đặt lịch làm việc cho đoàn mà thôi. 

  Chúng tôi được phía bạn bố trí ở Trung tâm Y tế Quốc tế ngay quận trung tâm của thủ đô Tokyo ( Sịnjuku ). mỗi người một phòng riêng rộng 9 m2, có giường tủ, bàn làm việc, WC, và một ấm điện để dun nước uống. Ăn uống ra sao tự lo liệu lấy. 

          Chương trình làm việc, chủ yếu là tìm hiểu việc người Nhật ứng phó như thế nào khi gặp bệnh lạ và dịch bệnh nguy hiểm nói chung. Chẳng là, khi ấy, cả Việt Nam và Nhật bản vứa trải qua căn bệnh Shapre và Dịch cúm gia cầm

         Hôm đầu, bạn hẹn tập trung ở điểm đón vào 9h trước của sảnh chính của khách sạn hội nghị, nơi chúng tôi ở. Đúng 9h, phần lớn chúng tôi có mặt, người được giao đưa đoàn công tác có mặt, tươi tỉnh dợi sẵn rồi. Điểm quân, trong đoàn có 4 nữ thì thiếu 3 người. Người dẫn đường tỏ vẻ không vui. Chừng 5 phút sau, mấy cô nữ váy áo xúng xính, son phấn đầy mặt, mới đủng đỉnh xuất hiện. Người dẫn đường tập trung, phổ biến việc làm trong ngày, và không quên phê bình, nhắc nhở mấy bạn nữ không đúng giờ, và đề nghị, không có lần thứ hai muộn giờ như thế nữa, bởi như vậy là không tôn trọng nhau.

         Tối hôm ấy, cánh nam giới chúng tôi rủ nhau ra phố, đi loanh quanh khu vực gần đấy cho biết. Đến một ngã tư, đang đèn đỏ với người đi bộ. một vị trong đoàn, ngó nghiêng thấy chiều đèn xanh không có xe, bèn nhanh nhẩu băng qua đường sang phía bên kia. Khi anh ta vừa sang đến hè đường bên kia thì một chàng cảnh sát giao thông đã đứng đợi sẵn. Yêu cầu phạt anh ta vì vừa vi phạm luật giao thông, kh chưa có tín hiệu cho người đi bộ sang đường mà anh này đã sang. Hai bên tiếng Anh bồi, giải thích một hồi, kể cả tay khua loạn lên nhưng vẫn không hiểu nhau. May anh này nhớ ra, lấy chiếc name card của vị đại diện Bộ Y tế Nhật bản, người chịu trách nhiệm toàn bộ chuyến công tác của đoàn, đưa cho anh cánh sát. Anh này liền điện thoại cho vị kia, và sau một hồi đàm thoại, anh chàng Việt mình được thả vì đã có người chịu trách nhiệm bảo đảm... Hú vía.

          Chưa hết, hôm chúng tôi đến một trung tâm nghiên cứu y tế. Một tiến sĩ của Trung tâm này thuyết giảng, khi nói về dịch cúm gia cầm, vị này chia sẻ với Việt Nam cũng vừa trải qua. Anh ta bảo, Nhật chưa sử dụng đến vắc-xin vì thấy vẫn còn kiểm soát được, trong khi Việt Nam đã dùng vắc-xin cúm gia cầm rồi. Vị đó nhấn mạnh, quan trong hàng đầu là y thức của người chăn nuôi khi phát hiện bệnh, khẩn cấp báo co các cơ quan hữu quan để khoanh vùng, xử lý, dập dịch triệt để, tránh nguồn bệnh lây lan thành dịch lớn thì rất khó kiểm soát. Như vậy, ta thấy ở đây, mối quan hệ tay ba trong khâu dập dịch, ấy là: Người chăn nuôi - Cơ quan dịch tễ - Các cấp chính quyền, cùng chung trách nhiệm, quyết liệt, triệt để, và để làm được việc này, cùng lại phụ thuộc vào 3 yếu tố, là: Ý thức - nguồn lực - tổ chức thực hiện. Một người trong đoàn của ta hỏi vị tiến sĩ nọ, rằng ở Việt Nam, khi xảy ra dịch gia súc gia cầm, nhiều người biết nhưng không tiêu hủy mà vẫn bán chạy, nên dịch bệnh lây lan nhanh, liệu điều này có ở Nhật Bản không? Vị tiến sĩ nọ nghiêm mặt, vẻ kiên quyết đầy tự tin rằng: "Điều này không thể xảy ra ở đất nước chúng tôi. Bạn hỏi câu hởi này là thừa, nếu không muốn nói là có ý côi thường đất nước chúng tôi đấy.". Nghe họ trả lời vậy mà thấy ngượng, ngượng cho người hỏi, ngượng cho ý thức kém cỏi của người dân mình.

Vậy thì, lỗi là từ đâu ?
         Trở lại chuyện xứ ta, nhiều năm nay, chưa bàn dịch bệnh ở người, mà chỉ bàn dịch bệnh trên gia súc gia cầm thôi đã thấy lỏng lẻo. kém hiệu quả thế nào. Hô hào thì to, nhưng khi thực hiện thì ông chẳng bà chuộc. Trước đây, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng gia súc, dichj lợn tai xanh... đã hoành hành và gây thiệt hại lớn đến thế nào. 
          Nay, xứ ta, dịch tả lợn châu Phi xảy ra đã mấy tháng trời, lây lan một nửa số tình thành, gây thiệt hại tính đến thời điểm này là 4% tổng đàn lợn cả nước. Vậy mà, hô hào, quyết tâm thì vẫn hăng hái lắm, nhưng thực tế lại khác hoàn toàn. Lợn bệnh thì đó đây, người dân bán chạy đặng vớt vát chút tiền, lực lượng dịch tễ thì thiếu và yếu, nguồn lực tài chính mỏng, còn các cấp chính quyền, rồi cả hệ thống chính trị vào cuộc, nhưng vẫn  chỉ là nói cho có mà thôi... 
          Trở lại luận điểm ban đầu, chung quy vẫn là Ý THỨC. 
         Còn làm sao để có Ý thức trách nhiệm cao thì xin mọi người tự tìm câu trả lời cho mình ?...

 

 

 

Nghĩ về Đạo đức nghề y của Hải Thượng Lãn Ông,

 

 

Mùa xuân năm 2014, tôi và nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhà báo Mai Dung tham gia Ban giám khảo vòng sơ khảo Liên hoan Phát thanh khu vực các tỉnh phía Bắc tại Đài Phát thanh truyền hình Nghệ An. Xong việc, chúng tôi ngược đường lên Phố Châu, Hương Sơn, Hà Tĩnh thăm một người quen là nhà giáo Vũ Trọng Hoài, và tìm hiểu mô hình nuôi hươu lấy nhung ở đây. Vũ Trọng Hoài đón chúng tôi ở điểm hẹn, anh bảo, gần đấy có Mộ phần đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và ngỏ ý đưa chúng tôi đến thăm viếng...

Trước đây, tìm hiểu, tôi đã biết, danh y Lê Hữu Trác chán cảnh triều chính xã hội tao loạn cuối thời vua Lê chúa Trịnh, mặc dù ông đã được chúa Trịnh Sâm hai lần triệu về kinh sư, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chính chúa Trịnh Sâm, được nhà Chúa trọng vọng, nhưng ông đã quyết rời bỏ kinh thành Thăng Long về lại quê ngoại ở Sơn Trung, Hương Sơn (Hà Tĩnh), dành những năm cuối đời tiếp tục việc nghiên cứu y thuật, hái thuốc, hành nghề chữa bệnh cứu người, viết sách, đặng để lại cho đời sau những bộ sách quý (Thượng Kinh ký sự, Y tông tâm lĩnh)...

Lê Hữu Trác sinh ra trong một dòng tộc khoa bảng ở Liêu Xá, Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên), nhưng ông lại không theo con đường khoa cử của cha ông, mà ngay từ trẻ lại về sống ở quê ngoại Hương Sơn theo học nghề y.

Khi chúng tôi thắp hương hành lễ trước mộ phần của Đại danh y, mây từ rừng núi phía tây kéo lên, trời nổi giông gió, rồi đổ mưa, trận mưa cuối xuân thấm nhuần đất đai cây cỏ...

Trở ra, tôi đã làm bài thơ này:

         

Lắng mình trước mộ Lãn Ông

Người yên nghỉ giữa mênh mông đất trời,

Ngàn Sâu, Ngàn Phố đầy vơi

Mấy trăm năm trước đón Người về đây,

 

Xa xa xanh thẫm rừng cây

Bóng Người lẫn với ngàn mây thuở nào

Cực thân hái thuốc non cao

Cứu nhân độ thế gian lao quản gì,

 

Phồn hoa đô hội bỏ đi

Chính trường tao loạn kể chi nhân quần

Cầm bằng giữ lấy chữ Nhân,

Dụng tài dụng đức chuyên cần đạo y,

 

Thượng kinh ký sự  truyền kỳ,

Y tông tâm lĩnh cũng vì mai sau,

Buồn sao những kẻ mưu cầu,

Quên đi y đức vò nhàu lương tâm !...

 

Một vùng trời đất lặng câm

Gió mùa bỗng nổi lâm thâm mưa về...

 

Bài thơ này, tôi muốn ca ngợi y thuật và đạo đức nghề y của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, sau đó đã được bạn bè, người quen của tôi đồng cảm , chia sẻ ...

Bác sĩ Trương Thị Mầu, nguyên Giám đốc Bệnh viện huyện Bá Thước, Thanh Hóa: “Tôi vẫn thuộc 9 điều Y huấn cách ngôn của Hải Thượng Lãn Ông. Ngày xưa có nhiều người treo ấn từ quan để về quê làm thuốc chữa bệnh cứu người. Vậy nghề Thuốc cần chất Người nhất. Cần cái phần tốt đẹp trong sáng để hành nghề. Cần biết động lòng trắc ẩn, thiếu nó thì rầu lòng lắm. Nhiều người nói một đường làm một nẻo, nên lắm nhiễu nhương. Cám ơn anh đã cho hiểu sâu thêm về danh y.”.

 

Nhà thơ Lê Điệp ở Cẩm Phả, Quảng Ninh: "...Cầm bằng giữ lấy chữ Nhân,/ Dụng tài dụng đức chuyên cần đạo y,"...vậy mà thực tế ta vẫn  phải "... Buồn sao những kẻ mưu cầu,/ Quên đi y đức vò nhàu lương tâm !..." Mong những người trong ngành y bây giờ đọc bài thơ này soi gương nhìn lại mình!”

 

Nhà giáo Hoa Mai ở Thành phố Hồ Chí Minh: “Cầm bằng giữ lấy chữ Nhân/ Dụng tài dụng đức chuyên cần đạo y...”. Thực lòng, mình muốn nhiều thầy thuốc ở ta đọc bài thơ và ghi nhớ câu thơ này”.

 

Nhà thơ Trần Ngọc Ước ở Quảng Ninh:

“Tôi đọc bài thơ này và muốn nối vần cùng tác giả:

Một vùng trời đất lặng câm

Gió mùa bỗng nổi thâm thâm mưa về,

Mới hay cái đạo làm nghề

Đồng tiền đưa lạc lối về ngành y. “

 

Nhà thơ Nguyễn Lâm Cẩn ở Đông Anh, Hà Nội cảm thán với một sự hoài nghi không nhỏ:

          “Phồn hoa đô hội bỏ đi/ Chính trường tao loạn kể chi nhân quần/ Cầm bằng giữ lấy chữ Nhân,/ Dụng tài dụng đức chuyên cần đạo y, ...

          Mấy ai có nhân cách lớn ấy!?...”.

 

          Nhà thơ Phạm Đăng Kim lấy việc đối vịnh để ca ngợi đạo ý của Hải Thượng Lãn Ông:

“Một mình bên mộ Lãn Ông
trời xanh, mây trắng với bông hồng đào
ta ngồi lặng giữa trời cao
viếng người trong cõi chiêm bao một mình

Rừng xanh thẳm, sắc lung linh
lâm thâm lá thuốc rung rinh sắc trời
non cao , đường dốc lên trời
cứu nhân độ thế suốt đời cho dân

Đời người chỉ một chữ nhân
khi tài đức , cả lúc cần...đạo y
vẫn còn bao kẻ mê si
bỏ quên y đức, nghĩ gì lương tâm !

Trời mờ đất cũng lặng câm
heo may vẫn thổi, lâm thâm mưa phùn ...”

 

          Bằng cách này hay cách khác, mọi người đều bày tỏ sự kính trọng nhân cách và đạo y của Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, đồng thời cũng lấy làm buồn lòng về sự sa sút đạo y của ngành y ở ta hiện nay...

          Tôi có một người quen, anh là bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, chuyên phẫu thuật thần kinh ở Bệnh viện E Hà Nội. Là một quân nhân thời chiến tranh gian khổ, xuất ngũ, theo học tiếp trường y con dang dở khi nhập ngũ, sau là một bác sĩ giỏi. Ngoài công việc ở bệnh viện, anh có thú vui là chơi môn thể thao bóng bàn và viết blog. Tôi đọc khá kỹ các bài viết trên trang blog của anh, ở đấy, ngoài phần hồi ký về cuộc đời quân ngũ và ý kiến về các vấn đề nóng của xã hội hiện nay, thì anh dành nhiều trang viết cho nghề y và công việc của một bác sĩ phẫu thuật, hàng ngày phải đối diện với sinh tử của bệnh nhân, đồng loại. Tôi đặc biệt thích những bài viết kể chuyện những ca cấp cứu khó, những tình huống xử lý bệnh trọng và cả tâm lý của chính mình cùng các đồng nghiệp khi hành nghề... Hơn một lần, anh phân tích mổ xẻ tâm lý của các tiêu cực trong ngành y hiện nay bị người ta xem như là biểu hiện của sự sa sút đạo đức nghề, không phải để biện hộ cho ai, mà như đi tìm sự cứu rỗi cho mình. Đã có lần, tôi nghe anh giãi bày tâm sự khi chúng tôi trò chuyện với nhau, về dự định hoàn thiện cuốn sách  y học của mình và cả những dự định sẽ tiếp tục làm việc cho một bệnh viện tư nào đó... Tiếc thay, anh chưa kịp thực hiện những dự đinh đó thì đã ra đi mãi mãi bởi một cơn nhồi máu cơ tim khi đang thi đấu bóng bàn vào ngày nghỉ giữa mùa nóng oi xứ Bắc... Trong cuộc đời hành nghề y của mình, anh đã cứu bao nhiêu người thoát khỏi lưỡi hái tử thần, vậy mà, đến lượt anh, thì chẳng có thầy thuốc nào kịp ra tay. Âu cũng là số mệnh cả.

          Tôi nhớ, ngày ấy, khi đọc bài thơ viết về Hải Thượng Lãn Ông, anh đã gọi điện cho tôi, bày tỏ suy nghĩ của mình về bậc danh y và đạo y ngày nay mai một ra sao, nguyên cớ thế nào... bởi anh sợ ghi cảm nhận thì không xuể, không thể hết bao ý nghĩ cứ lởn vợn trong đầu, nhất là lý giải cái gọi là “sự sa sút của đạo nghề”...

          Giờ đọc lại bài thơ này, lại nghĩ về sự cống hiến vô bờ bến của bậc đại danh y xưa, và thấy nhớ người bạn bác sĩ của mình...

          Ừ, người tử tế sao không trường thọ nhỉ !?... Và dường như, sau khi họ mất đi, người ta mới nhận ra sự tử tế ấy ?!...

 

 

 

Ngược dốc lên Tây Nguyên,

 

Đi dọc Tây Nguyên/ mùa mưa/ đất ngả lòng/ sậm đỏ/ cỏ xanh lan/ bướm ra / suốt dọc đường/ trắng/ vàng/ nâu/ chờn vờn/ trong cỏ rối... Nắng/ chói chang/ mây dạt trôi/ từng cụm/ đột ngột/ mưa/ ướt áo em rồi,/ đột ngột/ nắng/ rám bắp trần/ áo mỏng/ cô lẻ/ xa/ ai/ ngược dốc triền đồi,.../Ta/ bỗng hiểu/ cao nguyên/ muôn đời / khát,.. " - Một lần đi đọc Tây Nguyên cách đây dăm năm, tôi đã viết những dòng như vậy trong bài thơ của mình. May mắn sao, bài thơ lọt mắt xanh Nhạc sĩ Trọng Đài, anh phổ nhạc và Nghệ sĩ Việt Hoàn hát, để tăng sức lan tỏa... 

           Lần này, sau gần ba năm xa cách, tôi trở lại Tây Nguyên trên chuyến xe của các đồng nghiệp ở Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt nam khu vực Tây Nguyên (VOV TN), từ thành phố biển Đà nẵng, ngược dốc lên, về thủ phủ cao nguyên, thành phố Buôn-ma-thuột...Tôi lẩn thẩn, đầu óc cứ rẩm riu nhẩm tính số lần mình ngược xuôi cung đường này, nhưng làm sao mà nhớ nổi. Đã hơn chục năm nay, bao chuyến đi, bao công việc ở vùng đất này thì nhớ sao cho xuể..
          
Từ năm 2008, khi luân chuyển công tác vào VOV Miền Trung tại Đà Nẵng, tôi hay có việc lên Tây Nguyên nên biết đến cung đường này. Trước đó, để đến Buôn-ma-thuột bằng đường bộ, từ Tp.Hồ Chí Minh, tôi đã theo tuyến ngang Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đak Nông, nhưng quả thật, tôi không mấy ấn tượng, bởi chẳng gợi cho tôi điều gì, Còn khi từ Đà Nẵng lên thị trấn Prao (Đông Giang) vốn tên cũ là huyện Hiên (nay chia thành Đông Giang và Tây Giang), rồi nhập vào Quốc lộ 14 ở huyện Nam Giang (tên cũ là huyện Giằng), lại gợi tôi nhớ những câu thơ của Tố Hữu trong trường ca Nước non ngàn dặm nổi tiếng của ông ngày nào. ("...Non cao rực rỡ ánh vàng/ Đêm rằm vằng vặc bến Giằng trăng lên…/ Con thuyền rời bến sang Hiên/ Xuôi dòng sông Cái, ngược triền sông Bung...". Có lẽ, tôi là người hoài cổ chăng, khi không mấy thích cái tên mới là Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, mà ưa cái tên cũ là Hiên và Giằng ?... Vùng đất này còn có "Làng Rô nhỏ của tôi", mà nhà thơ Tố Hữu đã gọi một cách thân thương trong trường ca của mình "... Ơi làng Rô nhỏ của tôi/ Cao cao ngọn núi chiếc nôi đại bàng/ Trăm năm ta nhớ ơn làng/ Cánh tay che chở bước đường gian nguy...", với lòng biết ơn vô hạn, khi ông vượt ngục Đak Glei vào năm 1942, lạc đến làng Rô (thuộc Cà Zy, huyện Giàng, Quảng Nam) và được đồng bào người dân tộc Cơ-tu che chở, nuôi sống, thoát nạn truy tìm của lính Pháp, để chỉ đạo cách mạng... Lẽ di nhiên, tôi không phải là ông, nhưng vẫn thấm được cái tình cái nghĩa của người làng Rô nói riêng và người dân tộc Cơ-tu dành cho cách mạng từ gần tám mươi năm trước...
          
Vậy là mỗi thước đất, từng cây số, dọc quốc lộ 14 lên Tây Nguyên, những chiến tích của hai  cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ, thống nhất đất nước, như những cuốn phim quay chậm trong đầu tôi... 
          
Lần này cũng vậy, xe lướt nhanh, qua Thạnh Mỹ (Nam Giang), khi những câu thơ của Tố Hữu và câu chuyện làng Rô còn vương vấn trong đầu thị thị trấn Khâm Đức (Phước Sơn) đã hiện ra trước mặt. Nhà cửa ở đây có nhiều hơn, nhưng người qua lại vẫn thưa thớt như mươi năm trước lần đâu tôi qua. Mấy năm gần đây, nói đến cái tên Phước Sơn thì nhiều người biết, nhất là dân giang hồ, bởi đã từng thu hút dân đào đãi vàng tứ xứ kéo đến. Mỗi hẻm núi, lạch suối rừng Phước Sơn bị dân tìm vàng đào bới, cày nát. Mấy ai đâu còn nhớ đến Khâm Đức với di tích và ký ức về một trân chiến oanh liệt của bộ đội Giải phóng thắng lực lượng lính Mỹ Quân lực Cộng hòa từ nửa thế kỷ trước (tháng 5/1968)... và sự anh dũng hy sinh của 16 chiến si Tiểu đoàn đặc công 404  thuộc Quân khu 5 (ngày 05.8.1970) khi tấn công căn cứ Khâm Đức ... Hẳn cái sân bay Khâm Đức xưa nay đã thành phế tích?...
           
Qua Khâm Đức, vượt đèo Lò Xo, con đèo ngoằn ngoèo hiểm trở nơi ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum, nơi ghi dấu mà bất kỳ ai qua con đèo này đều phải chú ý bởi hơn chục năm trước, một đoàn cựu chiến binh của Hà Nội rủ nhau thăm lại chiến trường xưa Tây Nguyên đã không may tử nạn bởi một tai nạn ô tô mất lái lao xuống vực sâu dăm chục mét. Huyện giáp ranh đầu tiên là Đak Glei, nơi có nhà ngục của thực dân Pháp mà nhà thơ Tố Hữu từng bị giam giữ trong bước đường làm cách mạng của ông. Nhà ngục này còn là nơi giam giữ các nhà hoạt động cách mạng như Huỳnh Ngọc Huệ, Lê Văn Hiến, Chu Huy Mân, Trần Văn Trà... Chính từ nhà ngục này, năm 1942, ta đã tổ chức cho hai đồng chí Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ vượt ngục, đến trú ngụ tại Làng Rô, để sau đó các đồng chí chỉ đạo cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở khu vực Trung bộ. Vì lẽ đó, ngục này đã được xếp hạng là Di tích lịch sử..
           
Vượt Đak Glei sang Ngọc Hồi. Mấy năm trước, tôi đã quá bộ đến cửa khẩu Bờ Y, đường rộng thênh thang nhưng người xe vắng vẻ, biến thành sân phơi nông sản cho bà con nông dân, cỏ mọc um tùm lan cả ra mép đương nhựa nên cũng thành bãi chăn thả gia súc. Chẳng hiểu ta tính toán thế nào mà thông thương Việt-Lào ở khu vực ngã ba biên giới này lại nên nỗi vậy? Bạn trẻ ngày này chỉ biết đến một cửa khẩu Bờ Y là trọng điểm kinh tế thương mại Việt-Lào-Campuchia hoang vắng, kém hiệu quả, có lẽ không biết đến dấu tích chiến tranh với một chiến trận Pleikan hết sức oanh liệt và phần thắng thuộc về ta vào thàng 10 năm 1072. Gần nửa thế kỷ trước, căn cứ chiến lược Pleikan của Mỹ đã bị bộ đội ta xóa sổ, mà ý nghĩa quan trọng bậc nhất của chiến thắng này, là mở rộng vùng giải phóng, tiêu diệt âm mưu của Quân đội MỹQuân lực Việt Nam cộng hòa là trấn giữ điểm ngã ba biên giới này nhằm ngăn chặn con đường vận chuyển quân lương và vũ khí của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam đi nhờ trên đất bạn Lào và Campuchia... Năm 2012, tôi cùng người tiền nhiệm của mình (vốn là một quân nhân thời chống Mỹ) đã cùng nhau làm một chuyến đi ngược, tức là từ Buôn-ma-thuột, xe về Đà Nẵng, băng qua Gia Lai, đến Kon Tum rồi xuôi xuống Quảng Nam theo đường Hồ Chí Mình và quốc lộ 14. Trước khi nghỉ hưu, người đồng nghiệp của tôi muốn thăm lại chiến trường xưa nơi đã từng chiến đấu trong trận chiến Pleikan-Ngọc Hồi. Anh bồi hồi nhớ lại và kể cho tôi nghe một vài tình huống của trận chiến, kể cả vết thương sâu hắm đã thành vết sẹo dài trên đùi anh... Nay đi trên đường cây cối nương rãy xanh tươi bạt ngàn, sẽ thật khó nhận ra dấu tích của chiến tranh, kể cả những người tham gia trực tiếp như anh. Song ký ức thì dường như vẫn tươi roi rói... 

            Vượt qua Pleikan, đã lại Đak Tô-Tân Cảnh. Chính trên mảnh đất này, hơn năm mươi năm trước, cuối năm 1967 đã diễn ra một chiến dịch lớn dữ dội giữa Quân Giải phóng quân miền Nam Việt Nam (QGPNMVN) với Quân lực Hoa Kỳ (QLHK) với chiến thắng thuộc về ta. Ngoài việc tiêu diệt sinh lực địch rất lớn, chiến thắng này còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng, ấy là sự khẳng định sức mạnh của QGPMNVN hoàn toàn đủ sức đối chọi với QLHK, đồng thời cho thấy sức mạnh của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ, chính vì vậy, các đơn vị tham chiến của ta đã được tặng thưởng Huân chương quân công hạng nhất... Sau đó 5 năm, mảnh đất lịch sử này lại thêm một lần nổ ra trận chiến giữa QGPMNVN với Quân lực Việt Nam cộng hòa (QLVNCH) vào cuối tháng 4 năm 1972 với sự tham chiến của một số vũ khí tối tân hơn... Một đồng nghiệp của tôi, có người cha xưa tùng tham gia chiến dịch Đak Tô-Tân Cảnh năm 1967 và hy sinh tại đây. Gia đình anh cũng mới cất bốc đưa di hài người cha về nghĩa trang quê nhà... Thiết nghĩ, cũng không cần nhắc nhiều về chiến dịch Tây Nguyên với điểm mở đầu là giải phóng thành phố Buôn-ma-thuột vào mùa xuân năm 1975, mở màn cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, bởi tự thân nó đã nói lên tất cả. Song ai cùng biết, chiến dịch cuối cùng ấy, là sự tích hợp sức mạnh ý chí và kinh nghiệm thực tiễn, kể cả máu xương đã đổ của tất cả các trận chiến lớn nhỏ trong suốt cuộc chiến tranh trường kỳ giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà... 
           
Giờ con đường Hồ Chí Minh chạy dọc biên giới xuyên mấy tỉnh Tây Nguyên thênh thênh xe lướt nhanh, hai bên đường là cao su, hồ tiêu, cà phê và muôn loài cây cỏ, hoa trái của một dài Trường Sơn, Tây Nguyên hùng vĩ xanh mướt kia, bên dưới, mỗi thước đất đều ghi dấu của một thời bom đạn, gian khổ hy sinh, mất mát... 

           Nhớ về những năm tháng đó, để thấy một miền Tây Quảng Nam cùng Tây Nguyên không chỉ có thác ghềnh, voi thú, hoa bướm và những sản vật có giá trị kinh tế cao, đang dần trở thành một trọng điểm kinh tế-du lịch ngày nay, mà còn có một truyền thống bất khuất kiên cường, những dấu tích lịch sử, một quá khứ hào hùng, có thể khai thác như một thế mạnh riêng có...
          
... Cứ thế, Tây Nguyên, khát ngàn đời Tây nguyên...". Tôi như mê đi trong tiếng hát giữa bạt ngàn trời đất Tây Nguyên, khi đã thức dậy một Tây Nguyên trầm tích,..../.

 

 

 

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,...

 

 

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy",...
           Trước hết, lạy xin cố thi sĩ Quang Dũng, vì mượn một câu trong bài thơ "Tây Tiến" của ông để làm tít cho tản văn này!...
           Mùa xuân, tháng Giêng Kỷ Hợi, chúng tôi, những sinh viên lớp CN21B Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) hẹn nhau tụ hội về cao nguyên Mộc Châu, họp mặt trùng vào dịp kỷ niệm 38 năm tốt nghiệp đại học. Việc này tưởng dễ, nhưng lại rất khó, bởi mọi người tứ tán, công việc, hoàn cảnh gia đình, tình trạng sức khỏe khác nhau, là thế. Với sự cố gắng thu xếp chuẩn bị của một nhóm bạn, cuộc gặp mặt thật đầm ấm vui vẻ, tuy chưa đầy đủ...

           Thực ra, trong vòng hai mươi năm qua, vào các dịp Trường Đại học tổ chức hội trường cách 5 năm một lần, chúng tôi về dự, nhưng năm nào đông thì cũng được mươi người, bầu không khí đông đúc, chộn rộn, gặp nhau tay bắt mặt mừng chốc lát nên chẳng nói được gì, chủ yếu thấy mặt nhau thôi. Nay chúng tôi có riêng với nhau mấy ngày đường thì thỏa sức mà chuyện trò ôn lại kỷ niệm xưa ...

            Sở dĩ, chúng tôi chọn cao nguyên Mộc Châu, bởi đây là vùng đất du lịch, cảnh sắc mùa xuân thật tuyệt vời, nhưng đó chưa phải là lý do chính...  Chuyện là, từ gần 40 năm trước, cuối xuân năm 1980, lớp chúng tôi đã lên đây thực tập giáo trình và học mấy môn học thực địa những ba tháng trời. Ăn ở trường, ký túc xá không thiếu chuyện "nhất quỷ nhì ma", nhưng đi xa lâu ngày thì đây là lấn đầu tiên...
            Mấy chuyến xe ca chở chúng tôi theo Quốc lộ 6, rời trường từ sớm tinh mơ. Xe ngang qua thị xã Hà Đông, cắt sông Đáy, Chương Mỹ, rồi Xuân Mai. Phần đông chúng tôi đều bỡ ngỡ, thời bao cấp tàu xe khó khăn, mấy ai được đi đâu xa. Ngược sông Đà, lên thị xã Hòa Bình, vượt Dốc Cun để lên Cao Phong. Xe leo dốc Cun, mây mù giăng đỉnh núi, thung lũng dưới sâu thấp thoáng trong sương những nếp nhà sàn Mường. Anh Quý Tam, một cựu quân nhân, người cùng quê với nhà thơ Nguyễn Bính, yêu văn thơ, đọc mấy câu thơ Quang Dũng "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi...". Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến chưa được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy nên nhiều người không biết đến, nghe thấy thật gợi, cảm giác hoài niệm xa xôi... Anh Tất Mai, cũng một cựu quân nhân, quê Sài Sơn, Hà Tây, tỏ thông thạo: "Lát nữa, cung đường này men sườn núi, có thể nhìn thấy thung lũng Mai Châu đấy". Chúng tôi, ờ à, nghe vậy thôi chứ mấy ai biết thung lũng Mai Châu diện mạo thế nào đâu... Chiều muộn, đoàn đến nơi, tập kết tại hội trường Nông trường bộ Mộc Châu. Chúng tôi nhận phòng nghỉ ở khu nhà khách của Nông trường Bộ. Ngày ấy, nông trường này mới được Cu-ba viện trợ xây dựng theo hiện đại theo mô hình sản xuất tập trung bò sữa-đồng cỏ-nương chè. Đêm thảo nguyên, sương mù se lạnh, trăng trong bát ngát. Cảnh đẹp huyền diệu, nhưng tôi lại khó ngủ... Mãi sau này, tôi mới được nghe chuyện nhà thơ Tế Hanh viết câu thơ  được nhiều nhà phê bình nhắc đến “Nông trường ta rộng mênh mông/ Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài” là khi ông đi thực tế và sáng tác tại Nông trường Mộc Châu này...

           Sau nửa tháng học tập mấy môn học, chúng tôi được chia thành các nhóm, mỗi nhóm mươi người về các đội sản xuất. Tôi nhớ tên mấy đội như Vườn Đào, Tân Tiến, 19/5, 7/5. 8/4... Nhóm của tôi về Đội 8/4, ở sâu trong núi, cách nông trường Bộ chừng dăm cây số. 
           Chúng tôi được bố trí ở trong một ngôi nhà tập thể của công nhân, và để nhường nhà cho chúng tôi, các công nhân phải dồn sang các khu nhà khác ở chật chội với nhau. Đội có khoảng trăm người thì gần hết nữ công nhân, người quê các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ như Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, độ tuổi trên dưới đôi mươi. Chỉ có dăm nam giới, ấy đội trường người gày quắt và mấy công nhân chuyên các việc cơ khí. nặng nhọc. Đội này chuyên về đồng cỏ và chăn nuôi bò sữa, nên các nữ công nhân cũng được phân chia theo các đầu mục công việc như chăm sóc đồng cỏ với những giống cỏ có thành phần dinh dương cao mà giống được nhập từ châu Mỹ, rồi việc thu lượm, phơi khô, bảo quản, ủ chua... Còn chăn nuôi thì thuần giống bò sữa lang trắng đen (holstein) gốc Hà Lan. Sinh viên chúng tôi được thực tế cùng các công nhân làm một số công việc. Có hai loại công việc thú nhất là theo bò ra đồng chăn thả. Sau khi thả bò ra các lô cỏ theo kiểu quay vòng, thì tìm chỗ mát ngồi tán gẫu khi trời nắng, còn hôm nào râm mát thì tha thẩn trên đồng ngắm mây núi, thả hồn mông mơ, hoặc đi nhặt nấm đất, nấm cỏ nảy rất nhiều sau mưa... Việc nữa là trực đêm khi có bò cái chửa dự đẻ. Việc trực này, thú vị lắm, vừa biết kỹ thuật đỡ đẻ cho bò, vừa có thể nướng ngô nướng sắn ăn đêm, và khi bò đẻ thì sớm hôm sau có sữa đầu để ăn, vì loại sữa này không chế thành thương phẩm được, chỉ dành cho bê sơ sinh bú và thừa ra thì cho người chăn nuôi dùng.
           Có một sự thú vị nữa với cánh sinh viên nam, ấy là chuyện trò, tán tỉnh các nữ công nhân. Ngày ấy, hầu hết các nữ công nhân đều chưa có chồng. Khá nhiều cô xinh xắn nhưng vẫn ế, đơn giản là không có nam giới. Một số cô hơn cánh sinh viên trẻ chúng tôi vài ba tuổi nhưng vẫn gọi là anh xưng em tuốt. Điều ấy khiến các chàng sinh viên bọn tôi sướng rơn, tán veo véo chẳng ngại gì. Tôi nhớ, đội của chúng tôi khi ấy có mấy cô khá xinh xắn là H, bộ phận đồng cỏ, D và L, bộ phận chăn nuôi. Mỗi cô một vè, H hay nói hay cười hay hát, L khỏe mạnh xởi lởi tự nhiên, D kín đáo ít nói và hơi lạnh. Tôi đã mấy lần theo H đi thả bò và hái nấm, cũng đã có lần trực bò đẻ với L, riêng D thì chỉ chuyện trò đôi câu bởi cô này chủ động né, nghe đâu là cô dành tình cảm cho một chàng sinh viên nào đó từng lên đây trước chúng tôi... Nếu xinh và có duyên, cũng khổ vì tình, nhưng xấu và vô duyên thì còn khổ hơn,
            Ấy là chuyện của một nữ công nhân ở đấy. Giờ tôi không còn nhớ tên cô bé. Cô bị chứng điên tình. Cô người bé nhỏ, gương mặt kho coi, nghe nói vì si mê một chàng nào đó và bị hắt hủi, phát chứng điên tình. Lâu lâu cô ta lại phát cơn. Có lần buổi tối, phòng mấy nam giới chúng tôi tán gẫu, hát hò trước khi đi ngủ thì bỗng cô ta xộc vào, đầu tóc rồi bời, tâm trạng mất kiểm soát, miệng gào, lao người định chộp người này, ôm người kia, khiến chúng tôi bất ngờ, hoảng loạn đâm bổ hết ra ngoài. Nhờ có đám công nhân can thiệp, vừa khống chế vừa dỗ dành đưa cô gái về. Sau vụ này, cánh sinh viên cảnh giác, cứ chập tối ra vào chốt cửa lại, là vì sợ cố gái kia lại phát cơn thì phiền... Tôi cứ rẩm riu chuyện cô gái điên tình, nghĩ rồi thầm so sánh với mấy cô xinh xắn kia, thấy cũng có hơn gì nhau đâu, bởi cùng duyên phận ế ẩm và lận đận ?... Có lần, ông giám đốc nông trường bảo "Ước gì quanh đây có các đơn vị bộ đội, có lẽ, nữ công nhân của nông trường đỡ ế?". Một sự thật chua chát, nhưng lại rất chi là nhân văn...
           Vào ngày nghỉ, cánh sinh viên rủ nhau, và rủ thêm vài ba nữ công nhân đi vào các bản người dân tộc thiểu số chơi. Trong khu vực có các bản người Thái, người Mường và Mông. Chúng tôi đi bộ dăm ba cây số, tha thẩn thăm thú cảnh sắc và quan sát đời sống của bà con dân bản. Đúng mùa đào quả, có lần, chúng tôi vào bản xin hái đào ăn thỏa thuê. Lần mò vào bản Mông hoa. đường xa, lúc về mệt quá, may đi nhờ được xe tải của quân đội, về tới nhà đói lả người...

           Có ngày nghỉ. chúng tôi rủ nhau ra nông trường Bộ chơi. Ở đấy có của hàng, của hiệu, đông vui hơn. Chúng tôi háo hức lắm. Đi từ lúc sớm mờ sương. Thời tiết cao nguyên châu Mộc thật lý tưởng. Giữa mùa hè nóng bức mà trời luôn mát mẻ. Đêm thì se lạnh, ngủ phải đắp chăn mỏng. Sáng và chiều về đêm thường có sương mù. Có ngày sương dày đặc, cách nhau độ mươi mét đã nhìn không rõ người. Cuốc bộ ra đến nông trường bộ, dù trời se lạnh thì cũng toát mồ hôi. Nhưng vui là hết mệt ngay vì đang tầm chợ đông. Với tôi, thích nhất là lượn vào ngó nghiêng hiệu sách nhân dân, xem có cuốn nào hay mới xuất bản và giá cũng phải chăng  đủ tiền mua. Tôi còn có thể tìm mua được vài quả bóng bàn, tích trữ dành khi về trường chơi, bởi ở dưới xuôi, bói cũng không ra. Bóng bàn ở đây tuy có nhưng là của hiếm nên bán cũng hạn chế, tán chị hiệu sách mỏi miệng mua được vài ba quả.

            Thời gian qua nhanh, thoáng đã đến ngày chia tay. Con người ta khi bén duyên, thấy cảm mến cảnh sắc và con người đất này thì phải xa. Những cuộc gặp gỡ chia tay chung, riêng. Cả khách và chủ, ai cũng có người để nhớ, để sau này còn thư từ liên lạc. Ngày ấy chưa có internet như bây giờ. Điện thoại riêng cũng vậy. Chỉ mỗi cách gửi thư dán tem thôi. Tôi cũng thư đi thư lại đôi ba lần, rồi bận bịu lao đầu vào thực tập và làm đề án tốt nghiệp... 

            Hơn chục năm sau, khi về làm báo chuyên nghiệp ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi mới có dịp quay trở lại thị trấn Mộc Châu. Lần ấy, tôi và một vài nhà báo đi cùng đoàn khảo sát của Bộ Lâm nghiệp thực hiện một đề án khảo sát sinh thái vùng lòng hồ sông Đà, Ngủ lại một đêm ở Mộc Châu, vẫn khu nhà khách của Nông trường do Cu-ba xây dựng ngày nào. Đêm sương se lạnh, thao thức khó ngủ. Thầm nhớ về mấy cô gái ngày nào, chẳng biết các nàng đã chồng con gì chưa. Không có thời gian, và cũng chẳng biết họ còn nhớ mình không mà tạt vào thăm lại đội xưa. Rồi mải mệt với chuyến đi gần nữa tháng xuyên mấy tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái rồi về Phú Thọ... Lại bẵng đi dăm năm nữa, khi cơ quan tôi lập cơ quan thường trú khu vực đóng tại thị xã Sơn La, khi ấy tôi hay đi qua Mộc Châu, nhưng cảnh cũ đã thay đổi. Nông trường bộ thành thị trấn Nông trường, mô hình nông trường chè-bò sữa nuôi trồng tập trung đã đổi sang hình thức khoán hộ... Vậy thì các cô nàng xưa cũng chẳng biết ra sao? Cảm xúc trào dâng thì cũng đủ cho tôi giải tỏa bằng bài thơ mà thôi,... "Hoa cải trắng/ miên man triền vắng/ gió đông về/ ướt lạnh nỗi niềm xưa,/ những thảm cỏ xanh như ao ước/ những nàng bò mơn mởn ăn mơ,/... và em nữa,/ nàng tiên đồng cỏ/ sương đêm buông/ lều trại mông lung/ em quá trẻ/ còn ta thì khờ dại/ cùng run bên bếp củi bập bùng.../ phố nhỏ nông trường/ giờ thành thị trấn/ em lên bà,/ ta đã quá xa xôi/ vừa mới đó,/ ba mươi năm có lẻ/ em ấm phận rồi/ ta nỗi nhớ mồ côi...".
           Qua lại nhiều lần, trà dư tửu hậu cũng cho tôi đôi chút thông tin, được biết L đã lấy chồng, nhà ở gần đội cũ, cậu con trai lớn đã đi làm, và đã có lần cụng ly với tôi. Chỉ vậy thôi cũng làm tôi bâng khuâng mường tượng rõ nét cảnh sắc, con người của gần ba mươi năm trước... 
           Lần này, chúng tôi được cùng nhau trở lại mảnh đất từng ấp ủ ước mơ của lứa kỹ sư nông nghiệp của những năm tháng đất nước vừa thống nhất. Vậy mà, giờ đã thành các ông bà hưu cả rồi... 
           Trở về vùng đất xưa, chẳng ai thấy mình già cả, lại trẻ trung, bông đùa, chòng ghẹo nhau như thuở sinh viên...
Ngần ấy con người trong ngần ấy năm tháng, sự nghiệp, cuộc đời thành bại khác nhau, nỗi vui buồn cũng khác nhau, nhưng chẳng hề hấn gì...
            Đêm họp mặt, hát hò tưng bừng.
cứ vui hết cỡ, dù đã là các cụ hưu cả rồi.  Riêng tôi, lên đọc thơ về cao nguyên Châu Mộc, lể chuyện vui một thời, mà lòng rưng rưng như cất lên tiếng gọi... Ơi các cô nàng trẻ trung, xinh đẹp ngày ấy đâu rồi ?!... Ơi tuổi trẻ đầy gian khó nhưng nhiều mơ ước đâu rồi ?...

            Và tôi biết, đêm nay lại mất ngủ, bời ký ức xưa sẽ ùa về !... ,/.

 

 

Nhàn đàm chuyện củi lửa, đốt lò,...

 

Gần đây, chuyện củi lửa, đốt lò, mình cũng đọc để biết. Nhiều quá đâm nhàm, nên chẳng muốn bàn mà làm gì... Lâu nay, sách vở cũng đọc nhì nhằng này nọ, kể cả Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử từng ngó ngàng gọi là có. Mới đây, nhân người bạn mọt sách tiện mua tặng cho cuốn LÃO TỬ, ĐẠO ĐỨC KINH, của Nxb Hồng Đức, bản mới có đầy đủ nguyên văn chữ Hán, bản âm Hán Việt và dịch nghĩa, rõ ràng, mạch lạc, lại thêm hình vẽ, nhìn bắt mắt lắm. Dạo này, trời nắng nóng, nhàn việc, nên lấy ra túc tắc đọc chơi, và ngộ ra nhiều điều mà trước đây vẫn lơ tơ mơ... 
          Ngay như cái câu "Đạo khả đạo phi thường đạo/ Danh khả danh phi thường danh" mình cũng đã từng trích dẫn cho bài biết này nọ, giờ cũng sáng tỏ hơn nhiều, khi nhìn nhận đó là điểm khởi đầu của minh triết, là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, hòa hợp nhuần nhuyễn trong sự tương quan vận hành của Trời Đất-Vạn vật-Con người, đặng tồn tại và phát triển,...
          Đến một đoạn, nhẩm đi nhẩm lại, thấy thú vị, chợt liên tưởng chuyện thế sự, củi lửa, đốt lò hiện tại  "... Thị dĩ thánh nhân hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn. Phi dĩ kỳ vô tư tà. Cố năng thành kỳ tư. Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh. Phù duy bất tranh, cố vô vưu. Xử chúng chi sở ác..." ( được dịch, hiểu nghĩa: Đối với mọi việc, thánh nhân thường để người khác đi trước Đối với việc của bản thân mình thường không suy tính đến mà vẫn đến trước. Đem bản thân đặt ra bên ngoài sự an nguy, khiến sinh mệnh bản thân được bảo toàn. Đó chính là không muốn thu được lợi ích cho bàn thân mình. Người phù hợp với đạo giống như nước vậy, nước khéo trợ giúp vạn vật nhưng không tranh đoạt ngắn dài với vạn vật. Do không tranh đoạt dài ngắn nên không phạm phải lỗi lầm, nó thường ở nơi thấp trũng nên mọi người không muốn tới...)
           Ôi, thì hẳn, mấy người đã và đang bị mang ra làm củi đốt lò, ắt không phải là thánh nhân rồi!... Có lẽ, nhiều người trong số họ có cũng đã từng nghĩ, từng cho mình là thánh nhân, có quyền cao chúc trọng, được quyết sách này nọ, nhưng thực tế công việc của mình họ lại lằm ngược đạo lý của thánh nhân. Rốt cuộc phú quý chẳng lâu bền, nay có bị làm củi cho vào lò để đốt cũng phải thôi !...

Nhàn đàm chút, đặng có cái mà dõi theo dòng thế sự...

 

 

 

Nhớ thương một vùng quê,

 

 

Ấy là miền quê thuộc Xứ Đoài...

Thuở sinh viên, ham đọc thơ, tôi đã biết đến câu thơ hình tượng và gợi nhớ của nhà thơ Quang Dũng: "Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em đã bao ngày em nhớ thương?"... 

           Đấy là miền đất để lại trong tôi nhiều thương nhớ.

1.

           Ngày ấy, ngoài vùng đất Hải Hưng quê tôi, và Hà Nội nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, thì xứ Đoài là miền đất tôi đi về nhiều nhất, và miền đất ấy đã để lại trong tôi những ấn tượng khó phai... Không phai thì nhớ, mà đã nhớ thì hay thương...

           Cùng lớp đại học với tôi có Cường (tên đầy đủ Nguyễn Viết Cường), nhà ở huyện Mỹ Đức (Hà Tây cũ). Cường kém tôi một tuổi, người phổng phao, gương mặt thông minh, má phinh phính măng tơ, điển trai. Hai đứa chúng tôi nhanh chóng thân nhau. Lớp hơn bốn chục đứa, học hành cùng nhau, chơi với nhau cả, nhưng hợp tính tình này nọ, nên chỉ sau chừng nửa năm học, tự nhiên hình thành các nhóm nhỏ, cặp đôi, ba bốn, dăm bảy đứa một. Tôi rất thân với Gia Trình, bởi hai thằng người còi còi và đều là mọt sách, dễ bàn chuyện sử sách. Còn tôi với Cường, cũng khá thân nhưng lại hợp ở sở thích khác. Cường quê gốc Huế, bố Cường là người Phong Điền, Huế, tập kết ra Bắc năm 1954, sau kết hôn với mẹ Cường là con gái vùng dâu tằm Lai Tảo, Mỹ Đức, Hà Tây. Gia đình sống ở quê ngoại, bố làm việc ở Sở Xây dựng Hà Tây, trụ sở ở thị xã Hà Đông, hàng tuần mỗi chủ nhật đạp xe về nhà ở Tảo Khê. Nghe chuyện, biết vùng quê ngoại bạn mình là một vùng dâu tằm rộng lớn ven sông Đáy yên bình, tôi rất muốn về thăm.
            Rồi một ngày, Cường đèo tôi trên chiếc xe đạp của bạn, kẽo kẹt xuyên thị xã Hà Đông, đến Ba La Bông Đỏ thì rẽ theo đường đi chùa Hương. Vừa đi, Cường vừa giới thiệu cho tôi biết các địa danh dọc đường như Xốm, Thạch Bích, Bình Đà, Vác, Chuông... Qua cầu Ba Thá, chúng tôi bám theo đường bờ sông Đáy, gập ghềnh khó đi. Làng xóm và các ruộng dâu tằm san sát. Sông Đáy dòng chày êm đềm như dải lụa mềm uốn lượn len giữa những xóm làng bình yên...
             Con sông Đáy, là một sông lớn chày vòng vèo bên hữu ngạn sông Hồng. Nó là chi lưu của sông Cái, nhận nước qua của Hát Môn của dòng Hát Giang, loanh quanh về đến Phủ Quốc (Quốc Oai) rồi qua đất Chương Mỹ, len giữa Ứng Hòa và Mỹ Đức. Do cấu tạo địa hình dòng chảy, nên từ lâu phần thượng nguồn này đã bị bồi lấp, chẳng thế mà trước đây, Quang Dũng đã viết trong bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây" của mình "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" là thế. Do phần thượng nguồn này bị bồi lấp nghẽn dòng, nên trong hành trình của mình, dòng sông tồn tại là nhờ nhận thêm nước của nhiều dòng sông có nguồn từ vùng núi đá vôi Hà Nam-Ninh Bình như suối Yến, sông Nhuệ, sông Hoàng Long, sông Gián Khẩu, và lần nữa tiếp nước từ sông Hồng qua con sông Đào ở Nam Định... rồi về biển ở của Đại An, nơi giáp ranh giữa Nghĩa Hưng (Nam Định) và Kim Sơn (Ninh Bình)... Trong lịch sử, dòng sông Đáy rong ruổi quanh co khắp vùng lưu vực hữu ngạn sông Cái để về với biển, xứng đáng nhận được nhận sự ca tụng của đại thi hào Nguyễn Du: "...
Cổ kính tiều quy minh nguyệt đảm/ Triều môn ngư tống tịch dương thuyền/ Mang mang viễn thủy tam xuân thụ/ Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên..." (Thanh Quyết giang vãn thiều), dịch ngĩa là :"...Lối mòn tiều phu gánh củi về dưới ánh trăng/ Thủy triều lên, ngư phủ đầy thuyền trong bóng hoàng hôn/ Cây xuân phất phơ giữa trời nước mênh mông/ Đôi bờ nhà dân lững lờ khói tỏa...". Có gì đó, phảng phất nỗi buồn tha hương như thơ Bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ "Đèo Ngang". Những tầm hồn đồng điệu là vậy chăng ?...
          
Lẽ dĩ nhiên, ngày ấy, anh bạn Cường chẳng thể biết vùng quê ngoại của mình lại nên thơ làm vậy. Thực ra, tôi cũng đâu hơn gì bạn mình, là mãi sau này, tìm hiểu thêm mới vỡ vạc ra thế. Phải nói, hiếm có con sông nào chảy loanh quanh giữa đồng bằng Bắc bộ, mất hút vào làng mạc xóm thôn, nhiều chỗ ngỡ mất dòng, rồi lại ùa ra ở một khúc quanh đâu đó. Có lẽ vì thế mà sông Đáy thẩm thấu biết bao tinh hoa phong hóa Bắc bộ từ văn hóa của cư dân đôi bờ trong suốt hành trình tim ra biển của mình. Một thời, người ta hay nghêu ngao câu hát "Dòng sông Đáy quê em, sông trăng hay sông lụa, nong kén vàng như lúa, tròn vạnh một góc trời" ( Ca khúc "Dòng sông quê anh dòng sông quê em", thơ Lai Vu, nhạc Đoàn Bổng). Rồi học hành sách vở, lại có người thắc mắc, tại sao Cụ Hồ có thể  đi thuyền trên dòng sông Đáy trong thời kháng chiến nhỉ, khi đọc bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy"? Thực ra là nhiều người nghĩ nhầm, con sông Đáy mà Cụ Hồ đề thơ năm 1949 (Dòng sông lặng ngắt như tờ/ Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo/ Bốn bề phong cảnh vắng teo/ Chỉ nghe cót lét tiếng chèo thuyền nan...) là con sông Phó Đáy (cũng được gọi là sông Đáy), một phụ lưu bên tả ngạn sông Lô, có thượng nguồn ở Bắc Cạn, chảy qua địa bàn Tuyên Quang về Vĩnh Phúc nhập vào sông Lô... 
          
Về đến trại tằm Tảo Khê, vừa tầm bữa trưa. Hai đứa mệt nhoài, nhưng không khí bữa cơm gia đình vui quá nên quên cả mệt. Nhà Cường được Trại tằm ưu tiên cho ở trong một căn hộ cấp 4 mấy gian ngay khu hành chính của Trại. Nhà có bốn anh chị em, chị gái lớn nhất học cao đẳng sư phạm xong chờ phân công công tác, em trai dưới Cường đang học đại học Thương mại, cô em gái út đang cuối cấp 3. Hôm ấy, nhà thiếu cậu em học thương mại, và bố Cường không về cuối tuần, nên tôi và Cường được ba người phụ nữ là mẹ, chị và em gái săn sóc tận tình. Buổi chiều, hai thằng rủ nhau ra tắm sông Đáy. Nhà gần bờ đê, có cầu gạch bến sông và cây đa tỏa mát, quang cảnh bình yên đầy chất quê. Nước sông đầy, nhưng êm đềm nên hai đứa thỏa sức bơi lội. Có lúc, tôi thả người ngửa mặt nhìn mây trời lững lờ, đầu óc bay bổng nghĩ về một tứ thơ vừa nảy, để rồi câu thơ thành hình "Chưa một lần về thăm quê dâu/ chỉ nghe hát về vùng tơ lụa ấy/ mà sáng nay khi vừa trở dậy/ câu hát em mang tơ quấn quanh tôi/ Đêm không ngủ lạ nhà nghe ngoài trời mưa rơi/ những hạt mưa xuân lập bập trên lá dâu non mỡ/ tôi bỗng hiểu lời ví von trong bài hát đó/ tiếng mưa như tiếng tằm ăn...".
            
Bóng chiều về vàng suộm cả một khúc sông, phủ dần lên nương dâu xanh ngắt. Cây đa bên cầu sông bỗng trở nên huyền bí. Xa xa là dãy núi xanh mờ, nơi ấy có chùa Hương Tích, hun hút nối sang vùng đá vôi Kim Bảng mờ dần. Lác đác vài bóng chim bay cắt mặt sông về tổ... Tự nhiên, tôi muốn là người họa sĩ thâu tóm quang cảnh hoàng hôn thanh bình này vào tranh...
            
Bữa cơm tối, cả nhà ríu rít. Mọi người nhắc đến bố Cường. vì ông bận việc không về. Hai chị em gái khi nhắc đến cậu en trai Cường học xa nhà mãi trên Việt Trì lâu lâu không thấy về, khi thì đùa yêu kể tội Cường này nọ. Mẹ thì luôn miệng nhắc mọi người ăn đi. Tôi chỉ biết cười trừ, thèm cái không khí đầm ấm gia đình này quá... Đêm, tôi có chút khó ngủ vì lạ nhà, nhưng rồi mệt quá ngủ say lúc nào không biết, mơ hồ ngoài trời có mưa, khi mở mắt ra trời đa sáng bạch. Nhà vắng tanh, mọi người đi đâu cả. Tôi ra sân, nhìn quanh quất có ý tìm mọi người thì cô em út ùa về, lấy nước cho tôi đánh răng rửa mặt, rủ tôi tranh thủ trước bữa ăn sáng, sang trại xem cho tằm ăn đã. Thật sống động và thích mắt. Xem tằm ăn lại nghĩ về câu tục ngữ "ăn như tằm ăn rỗi". 
            
Sau bữa cơm trưa chủ nhật, tôi và Cường lại kẽo kẹt đèo nhau lên trường. Dọc bờ sông Đáy, chốc chốc tôi ngoái lại. Chưa xa mà đã nhớ. Lòng muốn quay trở lại nơi này...
            
Và không lâu sau, tôi trở lại nơi này. Ấy là khi tôi và Cường đã bảo vệ xong luận án tốt nghiệp, chờ phân công công tác. Thời gian rảnh rỗi, trước khi lớp chia tay Cường rủ rê tôi về Tảo Khê chơi. Lần này, mỗi đứa một xe, đạp sóng đôi về Mỹ Đức. Hai đứa ghé qua phòng làm việc của bố Cường, đèo một số thứ về trước. Nhà đông vui, vì chàng sinh viên đại học Thương mại cũng về nghỉ hè. Nhà có cái điếu cày, cả ba bố con thay nhau hút, và mỗi lần hút, bố Cường ho sù sụ, cho thấy sức khỏe ông giảm sút. Chị gái cả đã được nhận công tác ở một trường cấp 2 cách nhà vài cây số, đợi qua hè là đi dạy. Chỉ mỗi cô em út trong nhà là lặng lẽ buồn buồn vì điểm thi đại học không cao. Mỗi bữa cơm, nhà vẫn vui nhộn. Lần này, đã quen thung thổ và nhiều thời gian nên tôi chơi đây đó thoải mái. Cũng tắm sông, cũng xem chăn tằm, lần này, thấy em gái út ít buồn vì lo trượt đại học, nên tôi hay chuyện trò hỏi han hơn. Rồi tôi đèo gái út đến trường học nơi chị gái mới nhận công tác, lại vào làng gần đấy thăm bà ngoại Cường, bà cụ già lão sống thui thủi một mình, miễn sao để em vui. Nhìn cô bé lăng xăng quét dọn nhà cửa, nấu nướng cho bà, mà lòng tôi ái ngại. Cô bé học giỏi, nhưng học tài thi phận là thế. Em bảo tôi, giọng buồn như có nước mắt, rằng năm nay trượt, sẽ gắng ôn để năm sau đỗ vào đại học Y khoa. Có những lúc, hai anh em bỏ xe, ngồi bệt xuống vệ cỏ, lặng ngắm dòng sông Đáy nước lững lờ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ... Quả nhiên, năm sau cô bé đỗ điểm cao vào Đại học Y Hà Nội, khi gia đình về quê ở Phong Điền, Huế thì cô bé chuyển về học Y khoa Huế. Sau này hai anh em chúng tôi thi thoảng gặp nhau, và câu chuyện còn dài... Hôm ra về, Cường tiễn tôi đến thị xã Hà Đông. Hai đứa đi rất sớm lúc trời còn mờ tối. Chúng tôi không đi theo đường cũ mà xuyên tắt qua các làng xóm để ra Chúc Sơn. Tiếng chó sủa dấm dẳng suốt các làng xóm dọc đường, có những con chó táo tợn lẵng nhẵng đuổi theo xe chúng tôi cả đoạn dài, và những hình ảnh, âm thanh ấy đeo đẳng trong trí nhớ của tôi đến tận bây giờ...

            Vài năm gần đây, tôi có dịp trở lại vùng đất này, nhưng cảnh cũ người xưa đã thay đổi cả rồi. Người chị lớn của Cường không theo gia đình về Huế mà lấy chồng người địa phương, nhà ở cách nơi cũ một đoạn ngắn. Tôi có ghé chơi, đi lại đoạn đê trước khu Trại tằm nhìn vào thấy khác lạ, chỉ phảng phất hình ảnh xưa cũ trong tâm trí mà thôi. Sông Đáy như cạn dòng chẳng còn nhiều nước như ngày ấy, cả vùng dâu bạt ngàn cũng đâu còn nữa. Chỉ một số hộ dân vẫn giữ nghề chăn tăm, chứ không còn mô hình tập thể nữa... 
           
Ngày ấy, tôi đi nhận việc ở An Giang, còn Cường vào Bạc Liêu. Ở trong ấy, tôi có vài lần sang Bạc Liêu thăm Cường và các bạn học cùng lớp công tác ở đó, nên biết sơ sơ cuộc sống của gia đình bạn mình khi về quê ở Huế. Vật đổi sao dời là vậy. Nhớ đất là vì nhớ người, và nhớ người nên yêu quý cả vùng đất cũng là thế...
          
Câu chuyện của tôi về một vùng quê lụa vẫn còn dài. Và tôi vẫn sẽ kể tiếp về đất và người... 

         

          2.

          Cùng nằm dọc sông Đáy đoạn chảy qua “Hà Tây quê lụa”, còn có một làng quê, nổi tiếng xưa nay là làng nón, làng Chuông. Tôi cũng đã đôi lần về đây chơi.

          Cùng lớp đại học với tôi và Cường, có Phạm Văn Vinh. Quê Vinh ở làng Chuông, thuộc đất Thanh Oai. Vùng đất này xưa có nhiều người đỗ đạt, nhưng thiên hạ lại biết đến vùng đất này bởi một sản phẩm hình dị đời thường mà ai cũng dùng, ấy là chiếc nón.

          Ngày ấy, kinh tế khó khăn, đói kém, phàm nhu yếu phẩm cần thiết cho đời sống hàng ngay như gạo, thịt, cá, đường, vải mặc, chất đốt đều phải mua bằng tem phiếu theo tiêu chuẩn. Sinh viên chúng tôi, học bổng 18 đồng một tháng, đưa hết vào bếp ăn tập thể. Thế nên, chuyện ăn sáng, ăm đêm, bồi dưỡng, liên hoan gì là tiền túi bố mẹ cho, đóng góp vào. Vào năm cuối, chúng tôi hay tổ chức liên hoan, khi thì cả lớp, lúc lại theo tổ, rồi nhóm dăm đứa với nhau. Mua thịt thì đắt, mà được ít, ăn không đã. Vinh cùng tổ với tôi, đưa ra một sáng kiến, ấy là món lòng lợn. Ngon, nhiều, khoài khẩu và cũng khá rẻ. Nhưng lòng lợn thì mua ở đâu? Số là, bố của Vinh làm ở công ty thương nghiệp huyện Úng Hòa, trực tiếp phụ trách lò mổ của huyện tại thị trấn Vân Đình. Vinh sẽ xin bố cho mua mấy cân lòng ở đây với giá ưu tiên. Thế là ổn rồi, tha hồ mà đánh chén.

           Vậy là tôi theo Vinh về nhà từ chiều hôm trước. Ngày đó, tôi chỉ biết lơ mơ về nón làng Chuông. Về đây, tôi lần đầu được mục sở thị. Làng cổ, nhiều nhà ngói cũ. Nhà Vinh cũng là một ngôi nhà đẹp, làm theo kiểu truyền thống, cửa bức bàn. Mẹ của Vinh lúc ấy tuổi cũng đã cao, bà không làm nón vì nhà neo người. Vinh dắt tôi đi chơi loanh quanh trong xóm, nhưng nhà họ hàng. Đến nhà nào cũng thấy làm nón cả. Nón Chuông ở vào thời điểm ấy, bán chạy lắm, nên ngoài nghề nông, có nghề phụ này là có thêm thu nhập, đời sống bà con khấm khá hơn nhiều làng khác trong vùng, có chăng chỉ kém tí chút Bình Đà, làng có nghề làm pháo ở ngay gần đó. Nghe nói, chợ làng rất sầm uất, bởi ngoài nhu yếu phẩm đời sống, người ta còn mua bán nguyên vật liệu và sản phẩm làm nón. Mẹ Vinh không trực tiếp làm nón, nhưng chạy chợ, vừa vui lại có thêm đồng ra đồng vào. Đêm ngủ, tôi chộn rộn vì lần đầu ngủ trong một ngôi nhà cổ như thế, như có gì đó rờn rợn bởi không gian u hoài... Nghe đâu, làng nghề này có lịch sử ba trăm năm rồi. ngoài nón đội thông thường thì nón thúng quai thao, loại nón đặc biệt mà các chị hai, chi ba Quan họ dùng làm phục trang hát ngày hội, tha thướt điệu đà là do làng Chuông này làm. Sáng sớm tinh mơ, mẹ Vinh gọi chúng tôi dậy, ăn qua quýt rồi hai đứa đạp xe đi Vân Đình lúc trời còn mờ tối. Tới nơi, trời vừa sáng. Vình vào lò mổ, chốc mang ra mấy túi, lòng và tiết đông. Có hàng, mừng rơn. Hai thắng cắm cổ đạp vội về Hà Nội, sang ngay trường ở Châu Quỳ có kịp làm bữa trưa. Bữa liên hoan thật linh đình, khoái khẩu... Sau đó, tôi và Vinh còn có một chuyến đi mua lòng lợn như thế nữa. Những năm gần đây,  sau bao nhiêu năm phiêu bạt mỗi đứa một nơi. bạn bè gặp lại nhau, tôi hỏi thăm thì biết bố mẹ Vinh mất cũng đã lâu. Vinh định cư ở Hà Nội, nhưng vẫn giữ mảnh đất vườn ở quê. Căn nhà cổ bức bàn cũng được sửa sang làm nơi thờ tự. Nhưng thường ngày đóng cửa, chỉ khi tuần rằm mồng một, hay lễ tết chi đó, Vinh về mở cửa thắp hương. Làng Chuông có một dạo nghề làm nón cũng điêu đứng vì thời trang bây giờ khác xưa. Song nay, nghe nói lại hồi phục vì người dân nghĩ ra một hướng đi mới đặng duy trì nghề truyền thống của làng. Thật mừng khi một làng nghề truyền thống không bị mất đi, bởi đó là giá trị văn hóa cổ truyền mang tính bản địa.

          Tôi là người có duyên với vùng đất này. Khi về làm báo chuyên nghiệp ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi và người bạn thân của mình là nhà báo Trịnh Bá Ninh công tác ở Báo Nông nghiệp, thường xuyên đi về Vân Đình. Số là, Ninh có bạn gái, làm cùng cơ quan, quê ở thị trấn Vân Đình. Từ khi họ còn chưa cưới nhau, Ninh hay về nhà người yêu chơi, hoặc giỗ tết chi đấy, anh hay rủ tôi đi cùng. Vậy là hai đứa, khi đèo nhau, hoặc sóng đôi đạp xe, vừa đi vừa chuyện trò linh tinh cho đỡ mệt, lúc cao hứng lại nghêu ngao máy câu thơ Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Chế Lan Viên...  Với tôi, Vân Đình không xa lạ gì, bởi tôi đã từng đến đây cùng Vinh từ thời sinh viên rồi. Ngày ấy, món vịt cỏ, hay thịt chó Vân Đình chưa được mấy người biết đến và đâu sẩm uất  như bây giờ. Thời buổi khó khăn, cũng chắng mấy ai quan tâm đi lễ chùa Hương, dịch vụ ăn uống, thương mại cũng thưa thớt, sơ sài. Thị trấn vắng vẻ và có gì đó nên thơ. Người dân ở đây lại hay kể chuyện và tự hào về sự kiện Bác Hồ về thăm Nhà thương Vân Đình vào năm 1963, một điểm sáng và là đơn vị xuất sắc dẫn đầu của ngành y tế trong phong trao thi đua yêu nước.

Quả là, tôi yêu mến sự yên ả thanh bình của vùng đất này.

Mỗi khi ngang qua thôn Bặt Xá, bóng dáng nhà thờ Thiên chúa giáo, gây trong tôi một cảm giác là lạ, khó tả. Nghe nói, đây là quê của cụ Bùi Bằng Đoàn, một nhân sĩ yêu nước. Ăn cỗ ờ Vân Đình cũng rất ngon, dù món ăn và cách chế biến thông thường. Nhưng ở đây có một món ăn rất ấn tượng và ngon miệng đối với tôi, đấy là món “tam tam”. Thực chất, đó là món “giả ba ba”.  Chữ ‘ba ba” được gọi theo tên chữ là “tam tam”, có gì đó lạ tai, gây sự hấp dẫn. Nguyên liệu chính nấu món này, không có thịt ba ba thì lấy thịt lợn ba chỉ thay thế, có thêm chuối xanh, và lạc ... nghe nói đủ vị phải là chín (9) thứ. ba ba là chín (phén nhân), ba ba, tam tam là món thịt ba ba (giả ba ba). Ôi, phức tạp quá. Nhưng mà ăn lạ miệng, ngon. Sau này, về lại đây, ăn cỗ hễ không có món này là tôi có cảm thấy thiêu thiếu. Bà mẹ bạn gái Ninh, sau là mẹ vợ anh, nấu món tam tam rất siều. Tôi đã học mót nấu thử nhưng không ngon như ở Vân Đình. Chắc là có bí quyết chi đó?

Là cơ duyên thì đi đâu rồi cũng gặp. Run rủi sao, tôi lập gia đình, vợ tôi tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc đích thị Thanh Oai (Hà Tây cũ). Bố mẹ vợ tôi lập nghiệp ở Hà Nội từ hơn nủa thế kỷ trước, nhưng người Tam Hưng, xã có hai làng lớn là Hưng Giáo và Bối Khê. Ngôi chùa Bối Khê (Đại Bi tự) là một ngôi chùa cổ nổi tiếng xa gần, có lịch sử khoảng tám năm (lập năm 1338 dười triệu Trần Hiến Tông). Bối Khê còn là quê gốc của Trạng nguyên Nguyễn Trực, người đứng đầu trong bảng vàng khoa cử Việt Nam, người mà dân gian lưu truyền là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Về khoa thi Hội niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), triều Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi làm chủ khảo, Nguyễn Trực đỗ Tiến sĩ, khi Đình thí được lấy làm Trạng nguyên và trở thành Trạng nguyên khai khoa của triều Hậu Lê. Đây cũng là khoa thi đầu tiên được lưu giữ vào văn bia hiện còn ở Văn Miếu-Quốc Tử giám Hà Nội Còn chuyện ông là lưỡng quốc trạng nguyên thì theo tôi chỉ giai thoại dân gian mà thôi. Tôi đã dày công khảo cứu các bộ sách sử Việt Nam đều không thấy bằng chúng xác thực nào, nên nghĩ, dân gian cho là thế này thế nọ là một cách để tôn vinh cho các danh nhân mà họ yêu mến, kiểu như tích chèo cổ Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa vậy... Dẫu rằng vậy, những ghi chép về cuộc đời làm quan thanh liêm, có nhiều cống hiến cho dân cho nước của Nguyễn Trực, ông hoàn toàn xứng đáng với sự tôn thơ của người dân trong vùng, cần chi phải lưỡng quốc trạng nguyên hay không. Hiện nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Trực ở Bối Khê, Tam Hưng, Thanh Oai (Hà Tây cũ), được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia Việt nam từ năm 2011.

Hằng năm, vùng quê này có hội làng vào ngày 12 tháng giêng âm lịch, người dân ăn tết như tết Nguyên đán, với các lễ nghi và trò chơi dân gian. Tôi hay về hội làng, trước là thắp hương cho bố mẹ vọ, thăm chùa làng, xem hội dân gian...

Tôi muốn trở lại với câu chuyện cô em gái út nhà Cường với tính chất là một cái kết có hậu. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về nhận công tác ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, lập gia đình với một bạn học cùng trường, và hiện giờ chống em là Trưởng một chuyên khoa của bệnh viên này. Vợ chồng em có hai con, gái trai đủ cả, các cháu đều học giỏi. Nghe đâu, em cũng vừa nghỉ hưu, đặng có thời gian chăm sóc các con, nhất là cháu gái đầu đang học cao học ở Sài Gòn.

Một vùng quê văn hiến, lại gắn với bao nhiêu ký ức một thời tuổi trẻ, sao mà không nhớ không thương cơ chứ ?!...

 

 

Những chiếc lá bồ đề.

 

Trong công viên Thống Nhất Hà Nội, có mấy cây bồ đề nằm rải rác bên lối đi quanh hồ Bảy Mẫu, gần góc tiếp giáp với đường Lê Duẩn. Chiều chiều, đi bộ thể dục trong khuôn viên, tôi thường đi dưới bóng râm mát của những cây bồ đề này mùa lá cây sum suê, còn khi mùa rụng lá, tôi lại giẫm chân lên thảm lá bồ đề rụng bời bời mặt đất... Rồi một ngày, đầu óc tôi nảy ra một sự so sánh,...

Cây bồ đề là một loài cây đặc biệt. Đặc biệt, không phải vì giá trị về chất liệu gỗ, hay hương thơm tinh dầu như nhiều loài thực vật cũng được cho là đặc biệt khác trên trái đất này!?...

           Vậy thì điều gì làm nên sự đặc biệt của Bồ đề?

Theo dân gian, thì trước khi Phật giáo ra đời, bồ đề đã được một số nước châu Á xem như loại cây thiêng. Song phải đến khi bồ đề được gắn với truyền thuyết về sự giác ngộ thành chính quả của Thích-ca-mâu-ni (Phật Tổ) thì nó mới được coi là loài cây thiêng bậc nhất của Phật giáo và các tín đồ nhà Phật.

Có lẽ. nhiều người biết đến phát tích của Phật giáo. Kể rằng, hơn 500 năm trước Công nguyên, Hoàng tử Ấn Độ là Gautama Siddhartha khi đi khất thực đã đến ngôi làng nhỏ Sambodhi nằm bên bờ sông Falgu (nay là Bodh Gaya, bang Bihar, miền Bắc Ấn Độ). Tại đây, ngài đã ngồi dưới gốc một cây bồ đề, thiền định 49 ngày đêm và sau 3 ngày 3 đêm cuối triền miên của thiền định, ngài đạt được sự giác ngộ. Để rồi, sau đó 7 ngày, Ngài tời Sarnath và bắt đầu việc giảng đạo, từ đấy hình thành Phật giáo và lớn mạnh đến ngày nay. Một điều quan trọng nữa, ấy là gần ba trăm năm trước CN, tăng-ni Phật giáo đã làm được việc vô cùng quan trọng, là chiết lấy một nhánh cây từ cây bồ đề Đức Phật thiền định thuở ban đầu, mang đi trồng ở Sri Lanca, và cho đến tận bây giờ, cây bồ đề ấy vẫn tồn tại ở Annaradapura (Sri Lanca), đồng thời, trở thành cây bồ đề nổi tiếng và lâu đời nhất trên toàn thế giới. Từ đó, tín đồ Phật giáo đã nhân giống bồ đề cổ này mang đi trồng ở nhiều nơi thờ tự của Phật giáo trên khắp hành tinh chúng ta...

Người ta cho rằng, Bồ đề Đạo tràng hiện nay chỉ có tuổi đời 130 năm, là mầm nhánh của bồ đề từ gốc cũ cây bồ đề tổ mà Đức Phật đã ngồi dưới tán nhập thiền để thành chính quả, sau nhiều lần cây  bồ đề ở chính vị trí này bị phá hủy bởi thiên tai và nhân tai. Còn đại tháp Giác ngộ ở chùa Mahabodhi đã có tuổi đời 1.500 năm, kề bên gốc bồ đề tổ, cũng từng nhiều lần bị hư hại rồi được trùng tu, còn đến ngày nay...

Vậy là bồ đề (Bodhi, có nghĩa là Giác ngộ), cũng thăng trầm cùng lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo, trải qua 2.500 năm, để hưng thịnh như ngày nay. Như vậy, bồ đề đã trở thành loài cây thiêng là bởi nó được xem như một biểu tượng của sự giác ngộ và trí huệ của Phật giáo.

Bồ đề được trồng ở khắp nơi trên trái đất này, tuy nhiên, các cây bồ đề cổ thụ hay cây mới được trồng ở các chùa chiền, nơi thờ tự của Phật giáo đều được cho là linh thiêng hơn ở những chỗ bình thường khác bởi Phật tính của nó...

Với tôi, cũng đã được các đồng nghiệp sau những chuyến công du sang Nepan, Sri Lanca và Ấn Độ về, tặng cho chiếc lá bồ đề đất Phật được ép khô bằng plastic như một vật quý, do người dân bản địa chọn làm thành sản phẩm mang tính souvernir. Dĩ nhiên, chiếc lá bồ đề đất Phật ấy, dù mang tính chất souvernir thì luôn được người ta trân trọng cất giữ, xem như hiện vật có Phật tính.

Thêm nữa, tôi cũng từng được cho là may mắn, đứng dưới tán của Bồ đề đất Phật, đặng hưởng phúc đức từ nhà Phật. Ấy là, năm 2012, tôi được cử làm trưởng đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) có chuyến công tác đến Yangon, Myanmar, làm việc với Đài Phát thanh & truyền hình quốc gia nước này. Phía bạn đã mời đoàn chúng tôi đến thăm viếng Chùa Vàng (Shwedagon Zedi Daw), một ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất của Myanmar và là ngôi chùa có tuổi đời thuộc hàng cao nhất của Phật giáo thế giới. Chùa này linh thiêng bởi còn lưu giữ 8 sợi tóc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (xá-lợi). Tương truyền, ngôi chùa này được xây dựng từ thời Phật Thích Ca vẫn còn sống trên thế gian này, và như vậy, cũng có nghĩa, ngôi chùa có lịch sử khoảng 2.500 năm tuổi. Không những thế, tháp chính của chùa cao 98m được dát vàng toàn bộ, đồng thời được nạm 5448 viên kim cương và 2317 viên hồng ngọc, búp kim cương trên cùng gắn một viên kim cương 76 ca-ra. Nghe nói, với việc lưu giữ 8 sợi tóc của Đức Phật tổ, chùa Vàng này là một trong mấy ngôi chùa trên thế giới có bảo vật linh thiêng, là xá-lợi của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Tôi và đồng nghiệp đã được phía bạn bố trí vào chiêm bái tượng Phật ngọc quý hiếm, và đã chụp ảnh dưới tán bồ đề cổ thụ ở chùa này...

Trở lại chuyện các cây bồ đề trong công viên thành phố Hà Nội. Tôi đã chứng kiến vòng chu kỳ một năm của vô vàn chiếc lá bồ đề này. Khí hậu ở xứ ta, bồ đề vàng lá vào cuối đông và sang đầu xuân mới rụng, sau ít ngày thân cành trơ trụi, bồ đề nảy búp non và xanh lá tiết đầu hạ, rồi cứ xanh thế, già dần qua tiết thu, khi nhiều loài cây khác lá ngả vàng và rụng, thì lá bồ đề vẫn xanh cho đến tận tiết Đông chí mới dần ngả màu, mãi đến đầu xuân mời lác đác rụng... Và một vòng tuần hoàn mới lại bắt đầu...

Đạp chân lên thảm lá bồ đề bời bời trong công viên thành phố, có những ai suy ngẫm về những chiếc lá bồ đề này chăng? Nếu ở nơi Đất Phật, thì hẳn những chiếc lá bồ đề kia sẽ được người ta lượm hết để biến chúng thành vật mang Phật tính. Và như thế, mỗi chiếc lá bồ đề Phật tính sẽ được người đời lưu giữ lâu dài...

Song, như vậy, chắc gì đã hơn những chiếc lá bồ đề ở công viên kia và hết thảy những cây bồ đề nơi bình thường khác. Thiết nghĩ, chẳng cần triết luận mà làm gì... Đơn giản, theo vòng luân hồi, những chiếc lá bồ đề bình dị  kia nhanh chóng hoai mục tan vào trong đất, để rồi cuối mùa xuân sau đó, chúng sẻ lại hiện hình hài mới, những búp lá bồ đề non xanh?...

 

 

 

Ơi con sông nuôi lớn tuổi thơ tôi,...

 

 

Hôm sang chơi nơi ẩn cư của nhà báo  Nguyễn Trọng Huân ở làng Lại Đà, Đông Anh (Hà Nội), hai chúng tôi đã đèo nhau dọc bờ đê sông Đuống lên tận Xuân Canh, nơi có ngã ba Dâu, điềm nguồn sông Hồng chia nước cho sông Đuống. Ngang qua trạm thủy nông Xuân Canh có vẻ hoang vắng, Trọng Huân bảo: "Dăm ba chục năm trước, cái trạm thủy nông này quan trọng lắm đây... Nay vắng như chùa Bà Đanh, chẳng hiểu nó còn hoạt động không, hay để thành phế tích ?".  Trọng Huân thở dài. Ngắm dòng sông nối nguồn phía trong đê nước trong xanh, cây cối đôi bờ xanh um, đủ thấy, có chăng trạm cũng hoạt động cầm chừng...

           Những hình ảnh đó cứ đeo đuổi tôi. Tôi lại nghĩ về dòng sông quê tôi, cũng là một dòng chảy quan trọng của hệ thống thủy nông Bắc-Hưng-Hải từ hơn nửa thế kỷ trước, dẫn nước từ hạ lưu sông Hồng qua cống Xuân Quan thuộc Văn Giang (Hưng Yên), chảy cắt đầu thị trấn Bần Yên Nhân, ngang làng quê tôi thuộc Văn Lâm, tiếp xuôi về mạn Cẩm Giàng (Hải Dương), và cuối nguồn nhập vào đâu thì tôi không rõ. Nó cũng không có tên cố định, khúc qua Bần thì được gọi là sông Bần, đoạn ngang qua làng tôi thì dân mấy làng ở đây gọi là sông Khê, theo tên làng quê tôi là Thanh Khê... Thực ra, làng lấy theo tên sông đấy chứ, bố tôi bảo vậy. Thanh Khê tức là dòng sông trong xanh kia mà, Tôi nào ngờ, dòng sông này chảy mãi trong tôi, mặc dù, tôi chỉ gắn bó với nó chừng nươi năm tuổi đi học và sau đó tôi rời quê trở lại phố phường nơi tôi sinh đã hơn bốn chục năm rồi...
           "... Con sông tuổi thơ tôi/ dòng chảy quanh năm suốt tháng/ âm thầm nuôi những cội đa từ thời Lý/ ngày bé, những thằng tôi/ đập chân bám rễ tập bơi/ nhí nháu chuồn chuồn cắn rốn/ mùa lũ/ nước/ từ sông Cái về cuồn cuộn/ ngầu ngầu phù sa/ nuôi cây trái ruộng vườn/ vất vả kiếp người/ lam lũ xóm thôn/ thấm giọng ru khê nồng trưa hè oi ả/ ấp ủ đàn bà ngực bồng, hồng đôi má/ tẩm sinh lực đàn ông giữ giống nòi..."... Tôi đã viết thế trong trường ca Con sông tuổi thơ tôi như một nhận thức về dòng sông quê suôt thời thơ dại của mình ... Trong các sáng tác thơ văn từ ngày đầu cầm bút cho đến giờ, dòng sông quê này luôn ám ảnh tôi, và cái cầu sông trước cửa đình làng, đã được tôi gọi bằng cái tên hoa mỹ là Bến MộngBến MơBến Mê gì đó nữa ... Đến nỗi, mỗi khi nghĩ về quê là hình ảnh mảnh vườn xua có nếp nhà gianh ba gian hai chái tường đất vách rơm mà bố mẹ tôi làm những năm đầu chiến tranh chống Mỹ khi rời Hà Nội về quê, và sau đó chính là hình bóng con sông uốn lượn qua làng với nhũng bờ tre, dặng vối xanh um ngả bóng xuống mặt sông, lại  hiện ra trước mắt...
          Ngày ấy, con sông nên thơ lắm, một năm chia rõ hai mùa nước thay đổi. Từ đầu đông cho hết mùa xuân, nước cạn và trong, lặng lờ soi bóng tre, bóng vốí và mấy cây đa, cây bàng cổ thụ. Còn từ giữa hè cho đến trung thu, nước đầy ăm ắp, và năm nào mưa lũ nhiều thì nó nhận phân lũ từ sông Cái, qua cống Xuân Quan, nước về ngầu đỏ, chảy xiết dòng, mang theo phù sa màu mỡ và cá tôm về. Nước sông luôn được thau rửa vậy nên đến mùa cạn vẫn trong sạch.
         Cùng với con sông, còn có một hệ thống mương máng và cừ nước để điều tiết nước theo mùa vụ, và hơn thế, tạo ra một diện tích mặt nước đáng kể cùng hệ sinh thái phong phú của nó. Tính thời gian, từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng bổ nhát cuốc đầu tiên phát động chiến dịch thủy nông Bắc-Hưng-Hải, đến độ ấy chừng dăm, bảy năm, nên hệ thống mương máng tốt lắm. Con mương cái lừng lững, có đoạn chạy ngầm đáy sông với hệ thống cống xi-phông đóng mở tùy ý và một trạm bơm nước tầm trung. Sông có mấy khúc thu hẹp để bắc cầu qua. Nối mương cái là mương con như con lươn, con trạch chạy hút, len lỏi qua các cánh đồng, làng xã. Tôi nghĩ, cách làm thủy lợi ngày ấy rất hiệu quả về tính năng và sự đa dạng. Khi làm mương, người ta đào đất đắp mương nổi, hai bên tạo thành hệ thống cừ nước và các cừ nước này khá đắc dụng trong việc tiêu nước khi úng thủy, dự trữ và cấp nước khi hạn hán, lại là nơi dung dưỡng các loài thủy sản tự nhiên. Trong khi, các mương máng nổi hay chìm này thì ngoài chức năng chính là dẫn nước, thì nó còn được sử dụng là đường thủy, bộ, đó là chưa kể là nguồn cung cấp phù sa và thủy giống từ sông Cái về. Sườn đê còn là thảm cỏ tự nhiên để chăn thả trâu bò và nơi cư ngụ tạm cho các loài chim muông. Sau này, chẳng hiểu sao, người ta bỏ hệ thống mương máng nổi đắp đất, và trên chính hệ thống này, cho bê tông hóa, mang gạch, xi măng xây thành máng nước bé tin hin, bỏ các bờ mương nham nhở, triệt tiêu đường thủy bộ có từ mương máng và cừ nước xưa. Tôi đã suy nghĩ để lý giải chủ trương này. Phải chăng, do phát triển quá nhiều thủy điện (áp lực năng lượng), nên nước tự nhiên bị giữ lại các hồ thủy điện trên nguồn, xả nước nhỏ giọt theo thời tiết mưa lũ hay hạn hán, và mùa vụ theo nông lịch, nên ngay sông Cái cũng cạn dòng, còn đâu là nước phù sa đổ vào đất nông nghiệp thau rửa ruộng đồng như xưa. Nguồn nước ít, thì đương nhiên phải bê tông hóa kênh mương để tiết kiệm nước, cần chi mương máng to kềnh. Xin nhớ cho là, đồng bằng Bắc bộ mênh mông, hệ sinh thái của nó những ba tầng cơ đấy, mặt đất, bầu trời và mặt nước, chứ không phải là các nhà kính trồng trọt công nghệ cao mà ứng dụng tưới tiêu nhỏ giọt... Cái mất lâu dài và cay đắng là tính đa dạng của hệ sinh thái đồng bằng Bắc bộ, mà nhỡn tiền là ô nhiễm các dòng sông. Lẽ dĩ nhiên, còn tại sự phát triển bữa bãi và sự thiếu ý thức của doanh nghiệp, người dân trong việc xả thải nước và rác sản xuất, sinh hoạt. Thế nên, các con sông nhỏ và kênh mương nội đồng giờ đây chẳng khác gì ao từ nước đọng?...
          Tôi cho rằng, đã có đánh đổi và phải trả giá, khi lấy năng lương làm trọng, mặc nhiên bỏ quên sự biến đổi theo chiều hướng xấu của hệ sinh thái vùng hạ du khi phát triển thủy điện thái quá ở Bắc bộ. Nó chẳng khác gì sự trả giá khi đánh đổi việc tăng sản lượng lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long để xuất khẩu, bằng cách be bờ đắp đập để tăng diện tích trồng lúa, giảm diện tích ngập nước tự nhiên của cả vùng Tây Nam bộ. Bây giờ, nhiều địa phương ở vùng này đã nhận thức được sự trả giá dắt này, nên cứu vãn khi cho phá bỏ bớt bờ be, đập ngăn, trả lại sinh thái ngập nước cho nhiều khu vực mà trước đó chính họ đã cố sống cố chết ngăn lại để làm lúa... Tây Nam bộ đã vậy, còn đồng bằng Bắc bộ thì sẽ sao đây, hỡi những nhà quản lý tam nông, các nhà thủy thủy hại kia, xin hãy lên tiếng trả lời?...
          Con sông quê tôi, hơn chục năm nay đã bị bức tử. Tôi đã đọc lời ai điếu cho nó khi viết thêm một chương tái bút trong trường ca Con sông tuổi thơ tôi của mình :"...Con sông tuổi thơ tôi/ rời quê/ tôi xa/ mấy chục năm trời/ vẫn loanh quanh một dòng sớm tối,/ cội đa xưa/ già thêm ngần ấy tuổi/ mùa mưa giông,/ chẳng còn nước tràn trề,/ chẳng phù sa mỡ màu/ theo con nước xuôi về/ nuôi dưỡng những đồng cao ruộng trũng./ mùa nước cạn. đáy sông thành thùng vũng,/ bốc hôi tanh/ tôm cá trốn sạch rồi,/ những ống khói lò cao/ mái tôn lạnh vòm trời/ cả một/ quãng bờ sông/ nay trờ thành bãi rác,/ cỏ bờ xưa/ hoang chiều xơ xác,/ những chân tre, những vòm vối đâu rồi?..."
          Mỗi lần về quê, ra đồng thắp hương cho ông bà, cha mẹ, tôi hay ra bờ sông, lặng nhìn dòng nước đèn ngòm, sủi bọt, lờ đờ rác trôi nổi, lại mường tượng về tuổi thơ những lần bơi vượt sông đuổi trâu ăn lúa, và những mùa nước lũ, đầy ắp, cuồn cuộn sắc phù sa; mường tượng những chiều hôm nhá nhem mấy chị em đi thả vó tôm ở các cừ nước ven mương, rồi những ngày mưa rào tháng sáu, nấm đất chồi trắng tinh, lổn nhổn như ở trứng gà đẻ lang nơi sườn bờ mương nổi: và những buổi chiều đám trẻ con, học sinh nghỉ hè chăn trâu, thả diều giấy; cả khi mùa mưa lũ tháng bảy đồng áng nước ngập trắng băng, bở mương máng trở thành độc đạo để ra đồng...

Chẳng lẽ, dòng sông quê tôi, theo thần phả các chùa chiền, đã có từ thời Lý. Trải qua các triều Trần, Lê, Nguyễn đều được nạo vét, tu bổ để để còn trong xanh và hữu ích cho cuộc sống con người đến giữa thế kỷ 20. Vậy mà, chỉ mấy chục năm thôi, nó đã ngoắc ngoải, thoi thóp ...

Và tôi lại nuôi dệt hy vọng cho nó: "...Sông của tôi xưa/ một dòng xa xanh/ chỉ sống động/ trong thẳm sâu ký ức.../ Ơi con sông,/ thao thiết nơi tiềm thức/ có bao giờ/ trờ lại tươi xanh,/ cứ chảy đi/ dù có loanh quanh,/ hãy sống lại/ những bậc cầu/ ngày trước,/ để chiều hè,/ dòng ăm ắp nước/ trai gái làng/ tắm nghịch trêu nhau,/ để chiều chèo sân đình/ nuôi dưỡng dòng sâu,/ để lịch sử chảy/ ngược mãi về thời Lý,/ để những mối tình/ của một thời vụng dại,/ thêu dệt làng quê./ nên những tấm hoa văn.../ để thằng tôi/ lại là trẻ lăng xăng,/ ước lớn lên/ để bơi ngang,/ bơi dọc,/ bến đời/ mỗi trẻ làng/ thỏa sức/ từ bến sông quê/ đến mọi bến chân trời,/ Ơi,... con sông/ nuôi lớn/ tuổi thơ tôi,,...". /.

         

 

 

Pù-luômg, ai đã đến đây?

 

Đã nhiều năm nay, kể từ xuân Quý Tỵ (2013), năm nào cũng vậy, nhóm văn nghệ sĩ Hà Nội (gồm Nguyễn Chu Nhạc, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh Kính, nhạc sĩ Phạn Quang Hiển, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền ...) hay rủ nhau vô xứ Thanh thăm thú nhóm văn nghệ sĩ ở đó. Điểm tụ tập xứ Thanh Hóa, thường là gia đình nhà văn Trịnh Tuyên ở huyện Cẩm Thủy. Đón bạn văn chương Hà Nội, cùng với Trịnh Tuyên, còn có nhà thơ Phạm Duy Đức và các bạn yêu văn chương quanh đấy như  Nguyễn Trọng Nghĩa, Trịnh Phú Đa, Phạm Mai, Phùng Hương Nhu... Xa hơn chút hay về hội tụ, có nhà văn Ngô Xuân Tiếu (Vĩnh Lộc), nhà thơ Đào Phan Toàn (Triệu Sơn), các nhà thơ Trương Thị Mầu và Ma Bích (Bá Thước)... Mỗi vị đến chung vui, thường mang theo sản vật từ địa phương mình...

Trong số ấy, đều đặn nhất có nhà thơ Phạm Duy Đức và nhà thơ Trương Thị Mầu. Xuân Ất Dậu (2015), ngày chúng tôi gặp mặt, nhằm đúng vào ngày 27.2 dương lịch, nên bác sĩ-giám đốc Bệnh viện huyện Bá Thước, Trương Thị Mầu không thể đến được vì phải lo việc ngày Y tế Việt Nam, đành vắng mặt, nhưng không quên gửi đặc sản ốc đá Bá Thước ngon nổi tiếng đến để mọi người chung vui... Tôi làm thơ vui, có mấy câu trêu Mầu "... Bạn bè lâu gặp lại/ thơ phú đọc đôi câu,/ cuộc vui cùng nâng chén/ chợt nhớ thiếu Thị Mầu" , đủ thấy, bác sĩ Trương Thị Mầu đã để lại ấn tượng tốt trong bạn bè  ...Tôi nhớ, trong những lần trà dư tửu hậu, Trương Thị Mầu, hay nhắc lời mời chúng tôi quá bộ đến chơi vùng đất Bá Thước và cùng nhau tham quan Khu bảo tồn thiên nhiên Pù-luông, một vùng đất vẫn giữ được vẻ nguyên sơ. Cứ ừ à cho vui lòng nhau thôi, chứ chưa dám chắc thực hiện lời hứa với bạn văn... Vậy mà, đầu hạ năm nay (2019), chúng tôi quyết đi Pù-luông, nhưng rồi hoãn đi hoãn lại vài lần, chuyến đi mới thành. 

Tử Hà Nôi, đoàn có 5 người ,theo đường Trường Sơn, đọc đường vô Thanh, chứng tôi bàn chuyện rôm rả, nhắc lại những kỷ niệm của những lần vô Thanh trước. Mấy năm nay, bạn văn chương xứ Thanh đã vắng bóng vài người, mất đi, trước là Nguyễn Trọng Nghĩa, và mới đây là Phạm Duy Đức. Lần này, nhà văn Trịnh Tuyên và Ngô Xuân Tiếu cũng không lên Bá Thược dự cuộc gặp gỡ bởi có việc  đột xuất, bất khả kháng.

Gần trưa, chúng tôi tới được Trung tâm Y tế của bác sĩ Trương Thị Mầu. Trung tâm này được Mầu thành lập sau khi nghỉ hưu. Cùng đón khách với cô, có nhà thơ người dân tộc Mường là Ma Bích, và mấy cô giáo là người quen thân của Mầu. Lợn bản các món bày mẹt, nhắm với rượu bản địa do nhà thơ Ma Bích mang đến, thật tuyệt vời. Chuyện vui mâm tiệc, là chuyện về Pù-luông. tiếp thêm cho chúng tôi thêm hào hứng chuyến lên Pù-luông ban chiều...

Đầu chiều, hơi rượu còn ngà ngà, nhưng hành trình còn nhiều, chờ cho bác sĩ Mầu và mấy cô giáo đi cùng chuẩn bị ít tư trang cho buổi tối nghỉ tại nhà sàn homestay, là chúng tôi lên đường. Khi đến đầu thị trấn Cành Nàng, huyện lỵ của Bá Thước, bác sĩ Mầu chỉ cho tôi mảnh đất ven đường, rộng sâu vào trong núi, bảo rằng cô có dự định xây dựng một trung tâm dưỡng lão tại đây, bởi nhu cầu có thật của xã hội và sự tâm huyết của mình...
          Xe rẽ vào đường núi, ngược dốc mà lên, đường nhỏ nhưng dễ đi. Hồi lâu, đến điểm cao, lối rẽ đi Thành Lâm, chúng tôi dừng lại, tìm góc máy để chụp suối và những thửa rộng bậc thang lúa bắt đầu chín vàng. Trời mây giông kéo lên, gió ào ạt và lộp độp mưa. Dẫu vậy, vẫn quyết đi Bản Đôn bởi đến Pù-luông mà không ghé Bản Đôn thì thật uổng phí. Xe lại quanh co hút vào lối đi kiểu lối mòn, ruộng bản chen nhau trập trùng. Chốc chốc, gặp xe ngược chiều, lại lựa tránh nhau. Mưa mỗi nặng hạt. Không đành quay đầu, cứ đi tiếp. Trời đổ mưa sầm sập, cũng là lúc ruộng bậc thang vàng sắc lúa chín hiện ra, chỉ đành chụp ảnh qua cửa kính xe mưa mờ mịt. Vào sâu nữa, đến trung tâm khu bản Đôn, thấy khá nhiểu ô tô, xe khách cỡ lớn chở khách tham quan. Chúng tôi định tìm đến điểm cao nhất của bản để quan sát và chụp ảnh toàn cảnh, nhưng xe nêm cứng, đường trơn trượt và mưa vẫn sầm sập không dứt. Loanh quanh, lựa cách kéo kính xe mà chụp vội được dăm góc máy. Tiếc tiếc là nhưng đanh chịu, quay trở ra... 

         Đường trở ra, mưa ngớt dần, mấy cái đập tràn, lúc xe vào bình thường, vậy mà khi trở ra, đã tràn nước, may xe gầm cao nên qua ngon lành. Bác sĩ Mầu bảo, ở vùng này, xe cấp cứu y tế đã từng gặp nguy hiểm khi lâm vào tính trạng lũ từng lên nhanh sau mưa như thế này. Khi đến điểm tập kết tại một bản ven đường thuộc xã Thành Sơn, ngay chân Pù-luông thì mưa dứt hẳn. Trời rạng, mọi người có thể vác máy loanh quanh tìm góc ảnh...
         Thực ra, khu bảo tồn thiên nhiên Pù-luông, người ta cho là giá trị của nó chính là độ cao và chất nguyên sơ. Cách rừng quốc gia Cúc Phương chừng vài chục cây số đương chim bay nên địa chất, địa mạo và sự đa dạng sinh học không mấy khác. Có chăng, Pù-luông có độ cao và chất nguyên sơ hơn. Các bản làng người Mường, người Thái sống trong vùng đệm, không phá vỡ sinh thái, mà còn tạo thêm sự phong phú về sắc thái bởi yếu tố văn hóa bản địa. Giá trị của Pù-luông là vậy. Ở đây, ruộng bậc thang có đấy, nhưng không bạt ngàn như Mucangchai (Yên Bái), hay Sapa (Lào Cai), Hoàng Su phi (Hà Giang), nên nó cho người ta cảm giác về sự nhỏ xinh, duyên dáng, yên bình hơn...

         Nét đáng quý của Pù-luông là chưa có sự xô bồ của kinh doanh du lịch tràn tới phá vỡ sự bình yên. Ngoài một vài resort tụa trên sườn núi, còn lại là những ngôi nhà sàn gỗ kiểu homestay nên chất nguyên sơ hầu như hiện diện ở đây đó. Và như vậy, nó thực sự cho con người cảm giác bình yên, khoan khoái vì được hòa mình vào thiên nhiên tinh khiết.
           Có một chuyện hay hay về các giáo viên làm du lịch. Bác sĩ Mầu bảo, hơn mươi năm trước, những giáo viên trẻ bị điều đi Thành Lâm, Thành Sơn, khóc như mua vì coi như bị đầy vào vùng rừng núi heo hút. Buồn chán đấy, nhưng không ai bỏ việc. Nhiều cặp nên duyên vợ chồng, bám trụ làng bản dạy học, với đồng lương ít ỏi thôi. Ai ngờ, dăm năm trở lại đây, du lịch Pù-luông khởi sắc, nhiều gia định thầy cô giáo mạnh dạn vay vốn, làm nhà sàn mới, kinh doanh du lịch homestay, kinh tế nhanh chóng khá giả. May là, cũng không ai bỏ nghề giáo, họ chỉ coi làm du lịch cộng đồng là việc thêm, thuê lao động tại chỗ, nên một công đôi việc. Giờ thì chẳng thầy cô nào đòi về trường ở thị trấn nữa. Ngay như ngôi nhà sàn chúng tôi ở, cũng do một cặp vợ chồng giáo viên ở đây làm chủ. Mà chủ nhà là giáo viên, nên giao tiếp thưa gửi cũng lịch sự lắm...

           Tối đó. mâm cơm của chúng tôi hầu như sản vật của địa phương và được chế biến theo đúng kiểu ẩm thực bản địa. Cá suối, ốc đá, vị Cổ Lũng ngon tuyệt. Rượu cũng được ngâm chế thảo dược trong vùng, uống là lạ và thú vị. Và đương nhiên, rượu vào lời ra, không thơ phú chút thì cũng uổng. Cạnh mâm chúng tôi là một cặp trai gái người nước ngoài, Vậy là có cuộc giao lưu giữa họ với chúng tôi. Thì ra họ đến từ Mỹ, là kiến trúc sư, đã vài lần đến Việt Nam. Giao lưu rượu thì cũng không cần ngôn ngữ lắm, cử chỉ thân thiện đã đủ rồi. Tuy nhiên, điện thoại di động của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền và của cô gái Mỹ đều cài đặt phần mềm dịch ngữ Anh-Việt nên chúng tôi và họ thoải mái nói chuyện. Hiểu nhau nên chuyện cởi mở, và uống cũng rất vào... Chợt nghĩ, tư duy tiến bộ, người dân họ thật sướng, đi khắp nơi trên trái đất này, nếu có thể. Chẳng bù cho dân ta, quanh năm suốt tháng, vắt mũi bỏ miệng, kiếm được chút tiền thì chẳng dám tiêu pha, lo tích cóp phòng tuổi giả sức yếu, chẳng dám đi đâu xa cả... 
          Đêm ấy, chúng tôi ngủ cùng sàn với một hội chuyên Flycam từ Hà Nội lên. Họ hát và nói chuyện khuya lắm nên chúng tôi khó ngủ. Thời tiết se lạnh, trong khi Hà Nội và thành phố Thanh Hóa nóng chảy mỡ. Kiểu khí hậu này, tôi chỉ thấy ở Sapa, Đà Lạt, Tam Đảo và Sìn Hồ (Lai Châu), Sủng Là (Hà Giang). Nếu biết tận dụng vào phát triển du lịch với điều kiện bảo tồn sinh thái và bản sắc văn hóa bản địa, ta sẽ có thêm một khu nghỉ dưỡng lý tưởng vào mùa hè...
          Tôi chập chờn trong tiếng suối chày thâu đêm...lúc to lúc nhỏ. Ai đó nói mê, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền khúc khắc ho khan, bác sĩ Mầu góc sàn bên kia lập lòe với ánh sáng màn hình điện thoại hình như khó ngủ về tách cà phê ban chiều? Nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhà thơ Ma Bích thì khe khẽ mở cửa xuống cầu thang nhà sàn nói chuyện phiếm. Một đêm đa sắc màu cảm xúc. Và rồi, tôi thiếp đi chẳng hay, khi tỉnh giấc, âm thanh đầu ngày vẫn là tiếng suối thác gần đâu đó. Bác sĩ Mầu và nhà thơ Ma Bích cùng mấy cô giáo đã sửa soạn xong đồ đoàn, Họ phải về sớm vì bác sĩ Mầu bận việc gì đó. Những cái ôm, cái bắt tay chào nhau thân ái, đầy lưu luyến. Hẹn nhau vào mùa sau... Cầu mong cho những dự án y tế và an sinh của bác sĩ Trương Thị Mầu sớm thành sự thật, đặng mang lại lợi ích cho cộng đồng xã hội.
          Bữa sáng cũng rất tuyệt vời. Cháo vịt và xôi nếp nương đồ. Gặp lại đôi bạn trẻ người Mỹ. Họ tươi tỉnh lắm, chắc hẳn đã có những trải nghiệm tuyệt vời...
          Dù lưu luyến, nhưng chặng đường còn dài, chúng tôi thẳng đường Phú Lệ, xuyên Quan Sơn, tìm đường sang Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình. Con đường vòng vèo trên sườn núi cao, vắng bóng xe cộ. Chốc chốc gặp một tốp công nhân làm đường. Trên đỉnh núi mây vấn khăn, còn thung lũng chờn vờn sương khói, thấp thoáng nếp nhà sàn lộ ra qua tán lá dày.  Yên bình biết bao! Tôi thầm nghĩ, sẽ còn quay trở lại nơi này... Nhưng mai kia, khách du lịch ùn ùn kéo đến, chẳng hay cảnh quan nơi đây có còn chất hoang sơ và tinh khôi như bây giở không. Nghĩ thế, chưa rời xa mà lòng đã buâng khuâng....
         Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền bất giác ngân nga một câu thơ...

         Pù-luông ơi, ai đã đến đây?

 

 

 

Quán Táo

 

Quán có tên gọi là QuánTáo .

Và cũng chẳng hiểu vì sao, quán lại mang cái tên như vậy?...

Quán Táo là cái quán ở làng quê nội của tôi, làng Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Đây là cái quán cổ, ở ngoài đồng, dành cho người làng đi làm đồng có chỗ nghỉ chân, tránh nắng mưa như bao nhiêu làng quê khác ở Bắc bộ...

Về cái tên, Quán Táo, ngày nhỏ, vốn hay tò mò, tôi từng hỏi cha tôi, một người am tường lịch sử, địa lý và quê hương bản quán của minh, thì ông bảo cũng chẳng rõ. Song cha tôi cũng đã đưa ra vài gợi ý. Có thể, Táo là tên người? Lại có thể, Táo là Bếp, tỷ như ông Táo? Và cũng có thể, Táo là cây táo? Hay chăng, ngày xưa chỗ này từng có cây táo?

Sau này, lớn lên, đọc nhiều sách vở, khi về quê, nhìn thấy cái quán đó, tôi vẫn chưa hài lòng với những gợi ý của cha tôi, nên tìm hiểu thêm. Tra cứu sách cổ, thấy chữ Táo, còn có vài ba nghĩa nữa, chẳng hạn, nghĩa là Reo (reo hò), rồi nghĩa là Nồng (chỉ cảm giác, như nồng hậu, nồng nàn, mùi nồng nồng...). Như vậy, cũng chỉ là mở rộng diện tìm kiếm, chứ không lý giải được nguồn gốc cái tên quán. Lại tạm bằng lòng, chờ đợi thêm vậy ...

Cuối năm 1964, sau sự kiện Vinh Bắc bộ, Mỹ lấy cớ để thực hiện cuộc chiến tranh bằng không lực ra miền Bắc, nhà tôi chuyển từ Hà Nội về quê. Có mấy ấn tượng về làng quê nội từ ngày đó cho đến giờ, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua song tôi còn nhớ rõ. Ấy là cây cầu Cốn bắc qua con sông quê bằng những thanh tà-vẹt đường sắt ghép lại với nhau, mỗi khi có ai đi qua nó nhún nhẩy, sợ sợ là; ấy là cây gạo to đầu làng Chùa gần lối vào chìa Lạng, sau cây chết khô và bị đánh gốc; là cây đa cổ thụ cầu sông làng tôi; và nữa là ngôi quán cổ có tên là Quán Táo này.

          Nhà tôi được cấp một sào ruộng diện 5 phần trăm, cách quán Táo chỉ mấy thửa ruộng, độ vài dăm chục mét thôi. Nỗi lần theo mẹ hay các chị gái ra ruộng, nhìn quán Táo với cây hoa gạo từ xa thấy có gì đó bí ẩn, rờn rợn, còn bởi gần quán trên khoảnh đất cao liền kề bờ sông có khu nghĩa địa của làng ngồn ngang những gò mả. Thế nhưng, đến tận nơi thì cũng khống nỗi sợ. Ngày ấy, mới chừng 8 tuổi, sau lần đầu mò vào thám thính ngôi cổ quán này, rồi sau đó, những năm tháng sống ở quê, chăn trâu với đám trẻ làng, tôi thành thân thuộc với quán Táo như hết thảy người làng...

Quán nằm kề bở sông Khê, cửa quán nhìn hướng ra khúc quanh của con sông, kiến trúc ba gian mái thấp, và các xà cột đầu bằng đá, mái lợp ngói cổ dày dặn có lót ngói chiếu. Chính vì lối kiến trúc này đã làm cho quán, mùa hè thi mát rượi, mùa đông lại thấy ấm áp, kiểu như nhà trình tường của người dân miền núi vậy. Những cột đá chính của quán nên nước thời gian nhẵn thín. Có một cột đá của quán, trên thân cột, hằn sâu một vết tựa như dao chém. Nghe dân làng đồn, ngày xưa có một người làng bị xử trảm tại quán này, vết dao chém cổ người đó mạnh và bén đến mức ăn sâu vào cột đá quán và dấu chém đó còn đến giờ. Nghi hoặc, tôi đã có lần hỏi cha tôi. Ông nghĩ ngợi một hồi rồi bảo rằng, thực hư thế nào thì cũng chằng rõ và cũng chẳng thấy ghi chép ở tài liệu, sách nào, mà chỉ là chuyện truyền miệng đời này sang đời khác vậy thôi. Chuyện rằng, ở vào thời mạt Lê, vua Lê Chiêu Thống trị vì, cuộc chiến Trịnh Nguyễn dằng co, thua được, còn nhà Trịnh thì cũng xảy ra cuộc tranh giành ngôi vị khi chúa Trịnh Sâm ốm yếu và qua đời. Trong triều thì phe phái, ngoài đời thì trộm cướp nổi lên, có một người bản địa giữ một chức quan nhỏ, nên trong làng cũng nảy sinh đố kỵ, thù ghét lẫn nhau, vì tranh giành ruộng đất và sự ảnh hưởng đến người làng. Khi quân Tây Sơn ra Bắc, làng quê tôi chỉ cách kinh thành Thăng Long vài chục cây số nên thuộc quyền cai quản của quân Tây Sơn. Bấy giờ có một vị hào bá ở làng theo quân Tây Sơn, vì thù ghét và muốn triệt hạ đối phương của mình, đã tâu với quân Tây Sơn, vu cho vị quan kia cái tội làm phản, ấy là trung thành với nhà Lê Trịnh. Thế là vị quan kia bị quân Tây Sơn bắt tội, đưa về quê nhà, xử trảm ngay tại quán Táo. Vết chém hằn sâu vào cột đá là từ đấy. Cứ thế mà suy, thì ngôi quán này, phải được làm trước đó, vậy lâu đời vài trăm năm nay rồi cũng nên ?...

Gần quán Táo, có một cống xi-phông được xây dựng trong hệ thống thủy nông Bắc-Hưng-Hải (Bắc Ninh-Hưng Yên-Hải Dương) từ những năm 60 của thế kỷ 20, nối con sông Khê chảy ngang sườn làng tôi với kênh thủy nông nội đồng. Lấy cảm hứng từ quán Táo, khúc sông quê và cái cống thủy nông này, tôi đã xây dựng thành một số tình tiết cho mấy truyện ngắn của mình ( truyện Thanh Minh quê nhà , Ngày xưa ấy và Giải thoát...). 

Giờ đây, con sông quê luôn nước cạn do các gồ thủy điện từ thượng nguồn sông Hồng trữ nước, lại thêm các xí nghiệp nhỏ thải nước bẩn làm ô nhiễm cả. Quán Táo thì xuống cấp, mái ngói trũng xuống và dột nát, nom tiều tụy lắm. Gần đây, tôi có ngang qua chốn này, tiếc là không kịp ghi lại chút hình ảnh. Cây gạo già mỗi cỗi thêm, mỗi năm vào dịp tháng ba, vẫn gắng sức trổ đầy hoa đỏ, như báo hiệu sự có mặt của mình trên thế gian này ?...

Nhìn vầng hoa gạo và những bông gạo rụng tơi bời thảm đỏ lối đi mà sao lòng tôi rưng rung ?!...

 

 

 

Tản mạn về sách,...

 

Tản mạn về sách, tự thân cái tít đã nói lên, điều tôi định viết gì ở đây. Thực ra, những câu chuyện về sách, tôi cũng đã viết từ lâu lắm rồi và những tản mạn đó tôi đã đăng tải trong vài ba tập sách trước của tôi, là Lên núi tầm mai, Những người thắp lửa... Tuy nhiên, những chuyện ấy từ hai chục năm trước và có thể nói, đã xưa lắm rồi, bởi thời đại 4.0 thì mọi sự đều nhanh chóng thuộc về quá khứ... Lâu nay, tôi rẩm riu, định viết thêm gì đó về sách, nhưng vì bận rộn lại thôi... Nay thời gian cũng rỗi rãi hơn, nên có thể nhẩn nha mà bàn luận dăm ba điều...

         Một chiều, đi bộ thể dục ở Công viên Thống Nhất, tình cờ thấy Hội sách đang mở. Trong cái nắng đầu hè 35 độ C, người chơi hội sách khá đông, mà phần lớn lại ở độ tuổi thanh thiếu niên. Có chút ngạc nhiên và mừng thầm, vậy ra, đâu phải giới trẻ quay lưng với văn hóa đọc... Là mừng thế thôi, chứ thực ra cùng phải xem mọi người đọc sách gì và đọc như thế nào đã ?...

 

1. Ngày xưa tôi đọc sách,

Có thể nói, ngày thơ bé, tôi đọc sách từ khi còn chưa biết nhận mặt chữ cái. Vô lý. Chưa biết chữ thì làm sao đọc sách được. Có đấy, đó là nghe người lớn kể chuyện sách. Cách đọc sách kiểu này, còn hiệu quả hơn là tự đọc. Bởi khi ấy, đầu óc không bị phân tán, tất cả nhăm nhăm như nuốt lấy từng lời kể, mà tình tiết câu chuyện còn được người kể diễn đạt, nhấn nhá khiến chuyện sinh động, hấp dẫn hơn. Vả lại, người giỏi kể chuyện còn biết thêm bớt cho câu chuyện hoàn thiện hợp lý hơn theo logic chuyện kể. Chình vì thế, người nghe chuyện một cách tập trung, nghe xong, có thể kể lại câu chuyện đó cho người khác được ngay... Nếu bạn không tin, bạn cứ thử mà xem, sẽ rõ điều tôi nói...

           Và người kể chuyện sách cho tôi ngày thơ bé, ấy là cha tôi. Ông vốn là một kiến trúc sư từ thời Tây, sành chữ Nho và biết Pháp ngữ, đọc khá nhiều sách, Đông Tây kim cổ, ở vào thời ấy, gọi đùa ông là mọt sách cũng được. 
           Khi tôi đến tuổi vào học lớp Vỡ lòng (hệ 10.10 ở miền Bắc trước đây), cũng là thời điểm đất nước bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, sau sự kiện Vịnh Bắc bộ-05.8.1964. Mặc dù lúc đó, gia đình tôi ở Hà Nội, nhưng sách vở cũng không dễ có. Có lẽ, để khơi dậy lòng yêu sách trong cậu con trai út nhỏ dại, bố tôi đã nghĩ ra một cách thích hợp và vô cùng hiệu quả. Ấy là, trước lúc ngủ, khi hai bố con đã yên vị trên giường, tranh thủ lúc mẹ tôi còn dọn dẹp nhà cửa, bố tôi kể cho tôi một câu chuyện nào đó, hoặc một đoạn, một chương trong truyện dài kỳ, như Ngàn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten, Truyện cổ Grim....
           Sau đó, khi gia đình tôi chuyển về quê sinh sống theo lệnh giảm dân số ở thủ đô thực hiện chính sách thời chiến, thì việc đọc sách thành không tưởng. Ngày ấy, trường lớp bậc Tiểu học (cấp I) không có, toàn phải học nhờ chốn đình chùa. Trẻ con nhếch nhác. học hành chểnh mảng, chỉ muốn bỏ học, thử hỏi lấy đâu ra sách mà đọc, trong khi sách giáo khoa còn khan hiếm. 
           May thay, một chân trời tri thức mở ra trước mắt tôi, chuyện không tưởng lại thành hiện thức. Mấy khoa của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về quê tôi, và họ mang theo về một phần thư viện của nhà trường. Lại may, có vài đứa con cán bộ giáo vụ và hành chính của trường cũng theo về, học cùng lớp với tôi. Thế là chúng có sách gì đọc thì tôi có sách ấy đọc ké. Chẳng là, lúc ấy, tôi thuộc diện học giỏi của lớp, lại thêm gia đình cũng từ Hà Nội về, nên mấy đứa nhanh chóng chơi thân với nhau. Thậm chí, có sách chúng không đọc nhưng cũng mượn để mang cho tôi. Thế là, mới học lớp 3, lớp 4, tôi đã đọc Thần thoại Hy LạpNhững người khốn khổKhông gia đình , và khá nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của nền  văn học Nga-Xô viết... 
            Lại tiếp, khi Trường Tổng hợp ra Hà Nội, thì chi vài ba năm sau, trong quãng thời gian không kích của Mỹ ra miền Bắc, một bộ phận của trường chính trị trung ương lại sơ tán về, và theo đó cũng là kho sách của họ. Lần này, sách khá nhiều, nhưng tôi có sách đọc, không phải là nhờ quen người ở trường, mà nhờ hai người chị gái. Lúc ấy, hai người chị tôi vào độ tuổi mới lớn, hinh thức khá xinh, nên là đối tượng để các chàng sinh viên để mắt, tăm tia... Các chàng hay đến nhà tôi chơi, lấy cớ uống trà đạm đạo chuyện văn chương chữ nghĩa với bố tôi, song thực ra là tìm cách tán tính các chị tôi. Các chàng mượn sách truyện mang đến cho hai chị tôi đọc, và chẳng biết các chị có nhòm ngó gì không, chứ thằng em tôi thừa nước đục thả câu, giành đọc ngốn ngấu tất cả sách gì đến tay... Thời kỳ này, tôi được tiếp cận những Tây Du ký, Thủy Hử, Hồng Lâu mộng thuộc hàng kinh điển của Trung Quốc, rồi Gia đình của Ba Kim, Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba, Không gia đình của Hec-to Ma-lô... Văn học Nga-Xô viết thì có Đội cận vệ thanh niênSông Đông êm đềm, Trong chiến hào Stalingrad, và cả Những linh hồn chết, Taras Bulba của Gogol, Sông Đông êm đềmĐất vỡ hoang của Solokhov, Cánh buồm đỏ thắm của Grin ... Tôi không nhớ xuể những tác phẩm thuộc hàng kinh điển của văn học thế giới mà tôi đọc ngày ấy... Ngày ấy, tôi cũng rất mê truyện Kiếm hiệp. Tôi nhớ, có một bộ sách kiếm hiệp xuất bản từ thời Pháp thuộc theo từng tay sách một, mỗi tay chỉ có một hồi, dầy cỡ nghìn trang, tên là Lục kiếm đồng, tôi mượn được, đọc đến thuộc lòng. Sau đó, tôi có thể kể loại toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp đó từ đầu đến cuối, chính xác đến từng tình tiết, thế võ...

           Chỉ biết, những tác phẩm văn học dù đọc ké, đọc vội đó đã củng cố trong tôi lòng ham mê đọc sách và tình yêu văn chương...
           Và lòng đam mê sách ấy, đã cho tôi sự kiên nhẫn và khát khao tích cóp sách, xây dựng tủ sách cho riêng mình sau này...

          
2. Tủ sách cá nhân
           Thú đọc sách, lòng đam mê sách khi hình thành và lớn dần trong tôi, thì tôi bắt đầu nảy sinh ý muốn lập tủ sách gia đình. Đọc sách ké, sách mượn cũng phải nhờ cơ may, vậy lấy đâu ra tiền để mua sách cơ chứ? Bản thân mới học cấp 2 (như bậc THCS bây giờ), được bố mẹ nuôi ăn học đã là phúc rồi, thời chiến tranh, thiếu thốn, đói kém đủ đường, miếng ăn cho vào miệng còn không đủ thì lấy đâu ra tiền mua sách. Hoặc giả, ngày ấy có tiền đi chăng nữa, cũng không biết mua sách ở đâu. 
          Để có tủ sách, thì cần có tủ và sách. Tủ thì tôi sử dụng ngăn chứa chính giữa chiếc tử chè bằng gỗ gụ cũ, kê chính giữa nhà, làm bàn thờ tổ tiên của gia đình. Bố tôi kể, chiếc tủ chè thuần gỗ gụ này là bố tôi mua lại của người ta, nghe đâu, cuộc chiến ở phổ phường Hà Nội giữa quân ta với quân Pháp vào mùa đông năm 1946, nó từng là vật dụng được người dân mang ra đường chất đống làm chường ngại vật và chiến lũy ngăn quân Pháp, thế nên toàn bộ cửa tủ và lèo hoa văn bị mất hết. Khi nhà tôi còn sống ở Ngõ Trúc Lạc, Hà Nội, chiếc tủ này đã dùng làm tủ thờ, lúc chuyển về quê, nó vẫn giữ công năng ấy. Vì mất hết cánh, mẹ tôi mua một viếng vải nhựa dầy nền kẻ ô khá đẹp phủ lên, vừa trang trí lại che được phần cánh tủ bị mất. Trong tủ để ít bát đĩa cổ, ít đồ thờ tự và những vỏ hộp nhôm sữa Gi-gô của Pháp đựng lặt vặt. Tôi xếp gọn số đồ đạc ấy vào một bên, còn cỗ trống thừa ra, cũng đủ chứa vài ba chục cuốn sách...
Vậy chỉ thiếu sách. Tính sao đây? Loanh quanh, tôi tìm được sổ sách giấy tờ của người chị gái, thấy có cuốn sách dạy về kỹ thuật nuôi bèo hoa dâu làm phân xanh (giờ gọi là phân hữu cơ) bón ruộng do Hợp tác xã nông nghiệp phát cho, và một cuốn sách Trong chiến hào Stalingrad, bìa dày giấy đẹp. bản tiếng Việt được xuất bản từ Liên Xô, đóng dấu thư viện đại học... Tôi biết cuốn này do một chàng sinh viên mượn từ thư viện nhà trường mang đến nịnh người đẹp (chị tôi), rồi quên không lấy lại, tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần rồi. Vậy là có 2 cuốn làm lưng vốn ban đầu...
            Và bắt đầu cuộc tìm kiếm để thiết lập tủ sách riêng cho mình. Tiền không có, và nếu có, cũng không biết mua ở đâu. Trẻ con ở quê ngày xưa, rất ít khi cha mẹ cho con cái tiền bạc, Vậy mà, tôi có cách kiếm tiền đấy. Kiếm một cách chính đáng. Trời phú cho tôi tài chơi bi. Tôi bắn bi thuộc loại giỏi nhất xóm. Khoảng cách xa mấy, tôi bắn cúng trúng, rất ít khi trượt. Bọn học sinh, chơi bi một hồi với nhau, tôi ăn hết bi của chúng. Chúng nó nể tôi lắm. Được rồi, đứa nào có tiền mua, tôi bán lại cho chúng, giả thử, mua bi mới ở bà hàng xén, một hào mua được mười viên bi, còn nếu mua bi cũ của tôi, thì được những mười lăm viên. Bán lại cho chúng được tiền, trước sau, tôi sẽ lại ăn hết số bi của chúng. Có đứa, thấy tôi chơi thì không dám chơi nữa vì sợ tôi ăn hết. Bán bi được ít tiền, tôi không ăn quà, dành để hôm nào lên thị trấn, vào hiệu sách tìm mua truyện. Cứ thế, tủ sách của tôi có thêm các quyển Số phận của chú bé đánh trống của nhà văn Liên Xô, A, Gai-đa, Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách. Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài...          

            Hồi học cấp 3, trường ngay thị trấn Bần Yên Nhân, vào kỳ nghỉ hè, các học sinh phải chia thành nhóm để trực trường. Đến phiên trực của tôi, mẹ tôi cho ít tiền để buổi trưa mua gì ăn. Tôi uống nước cầm hơi, nhịn ăn trưa, vào hiệu sách dốc hết tiền mua được một cuốn truyện, đọc ngấu nghiến đến chiều về nhà với cái bụng rỗng, người đói lả... 
           Cứ dần dà, cái tủ sách ngầm trong lòng bàn thờ ấy đầy lên, và theo đó, kiến thức sách vở và mơ ước mơ hồ về một ngày kia mình trở thành người cầm bút lớn lên, rõ hình hài... 

           3
. Truy tầm và tích cóp.


           Vào đại học, tôi học ở Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đóng tại Châu Quỳ, Gia Lâm. Cùng học, có anh bạn Trịnh Bá Ninh, người chung đội tuyển học sinh giỏi văn Hải Hưng, lại thêm người bạn cùng lớp quê Thái Bình là Hoàng Gia Trình. Trình cũng là người đọc nhiều. Ngày ấy, tôi và Trình có thể nói chuyện hàng ngày về Tây Du ký, Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa... Thích đọc sách, nên cũng thích tầm mua sách. Khốn nỗi, vẫn câu chuyện tiền đâu? Hồi đó, nhà nước ta vẫn duy trì chế độ học bổng cấp đại học. Sinh viên trúng tuyển vào trường, được cấp học bổng 18 đồng một tháng, khi ấy tiễn cũ giá trị lắm, số tiền học bổng chi vừa đủ cho 2 bữa ăn mỗi ngày, và ở thì ký túc xã nhà trường. Giáo trình nhà trường cho mượn, hết năm thu lại. Còn tiêu pha gì thêm, dĩ nhiên là tiền gia đinh cho. Như vậy thì cũng chẳng có tiền, tích cóp, lâu lâu mua được một cuốn. Đời sống sinh viên, ưa ca hát và thích thơ. Đấy là đời sống tinh thần chính của sinh viên, lại chẳng mất chút phí nào. Hát nhạc đỏ, rồi cũng biết nghêu ngao dăm bài hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn... Còn thơ thì Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, cũng có một số người biết thơ Puskin, Lermantov, Nhekraxov, Chiutrev. Exenhin, Maiakovsky... Ngày ấy, tôi và Trịnh Bá Ninh chịu khó mua thơ lắm. Yêu thơ là chính, với lại, mua thơ rẻ hơn mua tiểu thuyết, nên đến khi tốt nghiệp, tôi mua được cả trăm tập thơ, chủ yếu là các nhà thơ Việt nam hiện đại. 
 May mà, đến năm thứ 3, nhà nước có chính sách, gia đình nào đang có từ 2 người đang học Đại học thì được một suất trợ cấp, giá trị 4 đồng. tháng. Nhà tôi, có 2 người, chị gái tôi học trên tôi một khóa, cùng trường, nên tôi được xét hưởng trợ cấp. Hằng tháng được nhận 4 đồng, cũng là một khoản kha khá, đỡ mẹ tôi một tiền tiêu vặt, tôi có đồng ra đồng vào, quà vặt lúc đói bụng và mua vài cuốn sách.
           Hầu như tuần nào, tôi cũng đảo qua hiệu sách nhân dân ở phố Châu Quỳ, đến thành thân quen chị bán hàng ở hiệu sách. Quen rồi, có cái lợi, dặn chị bán sách khi có sách văn học mới thì để dành cho mình, hoặc lúc tìm được sách hay nhưng lại không đủ tiền thì nhờ chị cất giữ đến lúc đủ tiền thì mua... Ngoài hiệu sách ấy, chúng tôi còn quen thân với mấy hiệu sách khác ở thị trấn Gia Lâm, thị trấn Bần Yên Nhân, thị trấn Nam Sách (quê Trịnh Bá Ninh). Lâu lâu sang Hà Nội, thế nào cũng phải lượn vào Hiệu sách Hà Nội-Huế-Sài Gòn ở góc cắt phố Tràng Tiền-Ngô Quyền. Vào đấy, thực ra chỉ thỏa mãn thú tầm sách thôi, chứ thực ra ít khi mua được sách. Tiếng là hiệu sách lớn nhất thủ đô, nhưng đa chủng loại, đông người mua, nên rất hiếm khi sách văn học hay, quý còn đến tay mình. Chính ở mấy hiệu sách nhỏ nhà quê kia, chúng tôi lại mua được sách hay vì có chân trong chân ngoài...
           Nói chung, hễ đi đến đâu, thấy có hiệu sách nhân dân là mò vào. Đến các thị trấn, thị xã nào, nếu có điều kiện là hỏi thăm, tìm hiệu sách. Sau này, tôi vào nhận công tác ở mãi tận huyện Tri Tôn, thuộc vùng Bảy Núi, biên giới thuộc tỉnh An Giang. Với gần bảy năm trời làm việc ở đây, cái hiệu sách nhỏ ở trung tâm phố huyện ấy đã cung cấp cho tôi nhiều sách hay và quý của các tác giả nổi tiếng thế giới, như Những người khốn khổNhà thờ Đức Bà Paris của V. Hugo, Bông hồng vàng của C. Paustovsky, Chuyện núi đồi và thảo nguyên của T. Aimatov, Đỏ và đen của Standal, Bà Bovary của G. Flobert, Anna Karenina của L. Tolstoi, Những vì sao của A. Đô-đê, Tuyển truyện ngắn của Sê-khốp, Truyện ngắn Turgeniev... Thời bao cấp, thiếu thốn đủ thứ, những cuốn sách hay ấy được in trên giấy đen, mặt nhẵn mặt xù xì, nhưng trẻ trung mắt tinh, khát khao hiểu biết, đọc ngấu nghiến, rồi đọc nghiền ngẫm. Mỗi chuyến đi phép ra Bắc, tư trang dồn đủ một ba-lô, để còn tha theo cả bao tải sách. Tàu xe cách rách, rong ruổi từ miền Tây lên Sài Gòn rồi đợi tàu ra Bắc, về Hưng Yên, mất cả tuần, nhưng không thấy vất vả, là vì có niềm vui, thỏa nối đam mê ...

           4. Loạn sách, biết chọn gì đây.


            Cuộc sống thay đổi thật nhanh. Khi có đủ cơm gạo, no cái bụng rồi, thì các phương tiện khác như radio, ti vi, tủ lạnh, xe máy cũng không mấy mà có. Sách cũng vậy, các nhà xuất bản, các đầu nậu làm sách nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu của người đọc. Và theo đó, các hiệu sách nhân dân, thuộc hệ thống phát hành sách do nhà nước quản lý từng giữ vai trò quan trọng suốt một thời kỳ, lắt lay và thui chột, rồi biến mất, thay vào đó là các cửa hàng sách tư nhân. Loạn sách. Nhưng trước khi bàn về loạn sách, tôi kể chút chuyện về một việc làm dại dột của mình... 
           Ấy là khi, tôi làm việc ở Hà Nội, mẹ tôi cũng ra thành phố ở với một người chị gái của tôi, ngôi nhà gianh ở quê, nơi mà ngay đi học tôi đã bắt đầu lập tủ sách cá nhân với cái hộc tủ thờ mất cánh, bị bỏ không. Sợ thất lạc và ẩm mốc, tôi chuyển toàn bộ số sách có được đến vài trăm quyển đến để nhở nhà của một người chị gái khác ở quê. Thời ấy, trên văn đàn của ta bắt đầu xuất hiện một hiện tượng mà các nhà phê bình văn học ở ta gọi là nền văn học phải đạo.Báo chí văn nghệ bàn ra bàn vào, có y kiến là đã đến lúc cáo chung cho nên văn học phải đạo. Những sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu như "Phiên chợ Giát", "Mùa trái cóc ở miền Nam", "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành", "Cỏ lau,"...  được người đọc khen ngợi này nọ... trong khi nhiều tác phẩm văn học khác, ngay cả tiểu thuyết Dấu chân người lính của chính ông, từng được khẳng định, lại bị coi nhẹ...Và đương nhiên, những điều đó ảnh hưởng đến tôi. Chẳng hiểu sao, tự nhiên tôi thấy những tập thơ mà tôi dày công tích cóp trở nên nhạt nhẽo, một chiều, rồi quy chung vào cái gọi là "nền văn học phải đạo". Khi tôi được cấp một gian nhà cấp bốn ở khu tập thể cơ quan, cùng với những vật dụng thiết yếu là giường tủ bàn ghế, tôi đặt đóng ngay một cái giá sách, bằng gỗ tốt bởi một thợ vườn. Tôi mang số sách gửi nhở nhà người chị ở quê lên trưng vào giá sách mới nhà mình. Ước mơ hai chục năm trời đã thành hiện thực. Nhưng, tôi đã cố tình bỏ lại gần trăm tập thơ ở quê, mặc người nhà chị gái sử dụng tùy ý. 
            Giờ nghĩ lại, thấy mình không phải. Cho dù có thế nào đi chăng nữa, thì đó cũng là công sức, sáng tạo của mỗi tác giả. Thật lòng, nghĩ mình có lỗi với sách, với  các nhà thơ ấy... 
            Trở lại chuyện loạn sách. Bắt đầu từ việc đổi mới kinh tế, kéo theo là các kiểu đổi mới. Các nhà xuất bản không còn tự chủ được nữa, dẫn đến việc phải liên doanh với các nhà đầu tư, mà ngày đó, người ta quen gọi là "đầu nậu". Riêng tôi, lúc ấy cũng có vài ba cuốn được in theo hình thức này. Ví như, tập truyện ngắn "Đêm nguyệt thực", tập sách đầu tay của tôi dự thi ở Nhà xuất bản Hà Nội, đã được một đầu nậu nhận in, phát hành ( 1993) và may mắn đoạt giải; hay như tập truyện ngắn "Hoa tầm xuân" (Nxb Văn học) thì do Công ty Phát hành sách liên doanh với đầu nậu in; hoặc tập "Những người thắp lửa" (Nxb Lao động) và tập tản văn "Lên núi tầm mai" (Nxb Văn học) do Trung tâm Văn minh văn hóa Đông Tây in, phát hành, rồi tập truyện ngắn "Tổ ấm chim câu" (Nxb Lao Động) do một tư nhân bỏ vốn in ấn, phát hành ... Người viết sách vui vì sách được xuất bản mà mình không phải bỏ vốn. Những tập sách khác và cho đến tận bây giờ, sách của tôi vẫn xuất bản, phát hành theo cách thức này... Thực lòng, tôi biết ơn những người làm sách, vì nhờ có họ mà những sáng tác của mình được ra đời...
            Hà Nội giờ đây có nhiều nhà sách tư nhân, song nổi tiếng nhất vẫn là phố Nguyễn Xí, gần khu vực Bờ Hồ. Ở đây, người tìm sách, mua sách ngày nào cũng đông nghịt. Sở dĩ đông, là bởi trước hết gần trụ sở của Tổng công ty phát hành sách trung ương có từ thời bao cấp, lại ở trung tâm, tiện cho người mua sắm nói chung. Các nhà sách liền kề nhau, chủng loại đa dạng, giá cả phải chăng (luôn có chiết khấu, giảm giá)... Người yêu sách ở Hà Nội, ai cũng biết đến bà Mão. Có thể coi, bà là một trong số ít người đưa ra hình thức bán sách theo cách thức tại nhà, không cần cửa hàng. Ngày ấy, một số nhà mặt đường ở đây cho thuê kinh doanh sách, còn nhà bà Mão lại ở sâu trong ngõ hẹp, tít trên tầng hai. Bà Mão đã nghĩ ra cách, lấy mấy phòng ở của nhà mình, bày toàn sách, trên vách, dưới sàn xếp kín đặc, người mua bỏ giày dép, dầm cả lên sách mà chọn tìm, mua gì ra ngoài bàn ở hành lang tính tiền. Vậy mà khách đông nườm nượp, hơn cả cửa hàng cửa hiệu sang trọng... Cách thức này của bà, sau rất nhiều người học theo... Bà Mão nổi tiếng đến mức, mới năm trước, bà mất, một số báo và rất nhiều trang Facebook đã đưa tin, bởi có khá nhiều phóng viên, nhà báo từng là khách hàng của bà từ ngày họ còn là sinh viên nghèo... 
            Lâu lâu, nhớ thú tầm sách, hoặc mỗi khi đau đầu vì công việc, tôi hay chọn đi tầm sách để giải tỏa. Sách bây giờ in đẹp, bìa bắt mắt, gợi mở. Phải công nhận, việc thị trường lĩnh vực xuất bản, người làm sách phải cạnh tranh, cùng với sự lựa chọn đầu sách, in ấn đẹp, giá cả hợp lý, giới xuất bản có nhiều chiêu độc để sách bán chạy. Thói quen của tôi, bước chân vào bất kỳ một hiệu sách nào, cũng lướt mắt đáo qua một lượt, rồi xem kỹ và quyết định mua hay không. Tôi nhớ, có lần, tại một hiệu sách trên phố Bà Triệu, Hà Nội, tình cờ, tôi bắt gặp và mua một cuốn sách mỏng ở chỗ bày sách đại hạ giá, nhưng hóa ra lại được cuốn sách quý, ấy là tập thơ "Xem đêm" của nhà văn Phùng Cung. Có lẽ, nhiều bạn đọc không biết đến cuộc đời truân chuyên của nhà văn này. Ông bị dính án văn chương, nghe nói vì cái truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" bị quy kết này nọ, bị cho là cạnh khóe nhân vật cao cấp nào đó. Tập thơ "Xem đêm" là tập hợp cả đời thơ của Phùng Cung gồm mấy trăm bài ngắn dài, được ông viết phần lớn trong thời gian bị tù đày hơn chục năm gì đấy. Lại nghe nói, ông Nguyễn Hữu Đang, (người từng chịu trách nhiệm tổ chức việc dựng Lễ đài cho buổi ra mắt của Chính phủ Cụ Hồ, ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình), đã trích một phần tiền lương truy lĩnh sau khi ông này được phục hồi nhân phẩm, để Phùng Cung có tiền xuất bản tập thơ đó. Theo tôi, đây là tập thơ hay nhất trong vòng mấy chục năm nay ở ta. 
            Loạn sách, nhưng tôi vẫn mua sách theo cái kiểu của riêng mình...
            Ấy là, tìm mua loại sách thuộc hàng kinh điển, dùng làm tài liệu tra cứu khi cần thiết.
           Ấy là, sách bộ mới một số tác phẩm nổi tiếng của các tác gia văn học thế giới (ví như L. Tolstoi, V. Hugo, G. Maupassant, O. Balzac Y.Kawabata, Mạc Ngôn  ...).
           Ấy là, sách theo thú chơi của mình. Ví như, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, tôi có những mấy bộ bản in khác nhau, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Đông Chu liệt quốc của  Phùng Mộng Long,  Thủy Hử của Thi Nại Am cũng có mấy bộ kiểu như vậy...
          Ấy là, một số tác phẩm thuộc các tác giả giật giải Nobel văn chương hằng năm, hoặc các tác phẩm được làng phê bình văn học đánh giá cao... 

Ấy là sách kiếm hiệp. Tôi mê sách kiếm hiệp từ nhỏ, nên mua đủ toàn bộ tiểu thuyết  võ hiệp của Kim Dung và một số tác phẩm của các tác giả kiếm hiệp khác cùng thời với ông.
          Cứ thế, dần dà, tủ sách của tôi lên đến vài ngàn cuốn.

         
5. Ps 

         
Chiều muộn, đi bộ công viên, thủ túi quần có 100k. Ngang qua Hội sách đã tàn, hầu hết các quầy đã đóng thùng cho lên xe chở về. Còn ít quầy vẫn cố nán lại vì chiều khách, Ghé một quầy bán cả sách cũ và mới, hỏi "Có bộ BÀI CA SƯ PHẠM của Makarenko không?". Thưa rằng: "Cháu không có ở đây, nhưng ở quấy nhà cháu số... đường Giải phóng, cháu có đấy. Hôm nào chú qua, cháu bán cho"... 

          Lại ghé vào Nhà sách Nhã Nam, khách mua bán vẫn tấp nập. Lướt nhanh, nhặt ra 3 quyển này, thanh toán hết có 90k, vẫn thừa 10k bỏ túi. Trên đường về, giải thích cho cô con gái, sinh viên năm thứ 3 Đại học Kinh tế Quốc dân, rằng tại sao bố lại mua 3 cuốn này (HỒ.của Y., Kawabata, NGÀY XƯA của Nguyễn Nhược Pháp, và ĐIÊU TÀN của Chế Lan Viên, thuộc Tủ sách Viet nam Danh tác. Định mua cả Tập thơ THU của Lưu Trọng Lư nữa, nhưng không đủ tiền nên đành bỏ lại). Cô con gái gật gù, à ra thế. Cháu cũng hay đọc sách, nhưng sách nó chọn thường là sách học, sách tham khảo, và tiểu thuyết ngôn tình... Mua cuốn HỒ của tác giả người Nhật bản là Yasunari Kawabata, lòng có chút thích thú.     Trong các quốc gia châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, xét về văn chương (mở rộng ra lĩnh vực Triết học, Lịch sử, Địa lý...) thì đứng thứ 3 là Nhật Bản, theo tôi. Cho đến giờ, Nhật Bản đã có 3 tác giả được trao Nobel Văn chương, mà Yasunari Kawabata là người mở đầu và vĩ đại nhất... Tôi đã thích các tác phẩm của ông này, bộ ba tiểu thuyết XỨ TUYẾT, TIẾNG RỀN CỦA NÚI, NGÀN CÁNH HẠC. Các tác phẩm khác của ông cũng rất hay, là VŨ NỮ IT-ZU và NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ... Hy vọng cuốn HỒ này cũng sẽ thú vị... 

          Chính vì yêu vắn chương của ông, tôi đã có một Tiểu luận về nhà văn này và các tác phẩm chính của ông...

          Giờ thì tôi vẫn mua, nhưng chọn lọc rất kỹ. Đam mê sách thì vẫn còn, song phải biết san sẻ cho những thú vui, nghỉ dưỡng khác, phù hợp với lối sống chậm trong một xã hội công nghệ hối hả...

          Vả lại, còn phải dành thời gian cho viết nữa...

 

 

Thú uống trà & những lời bàn.

 

1. Vị minh tiểu kệ

         

          Câu  Vị minh mạc thác hoa là một câu trong bài Vị minh tiểu kệ của Chu Thần Cao Bá Quát. Trong sách Trà Kinh của tác giả Vũ Thế Ngọc (NXB Văn Nghệ ân hành năm 2006) có đăng bài này. Tôi xin được sao toàn văn ra đây để có cái mà luận bàn.    

                                    Vị minh tiểu kệ

                             Tuyển hữu mạc thủ khí  

                             Thủ khí mê kỳ nhân       

                             Vị minh mạc thác hoa

                             Thác hoa ly kỳ chân

                             Hiểu tính cấp thanh tuyền

                             Tề thân lý tân hoả

                             Vô yên giữ trần khí

                             Hối thủ nhất tiếu khả

                             Nhứ hướng quý thanh chân

                             Bất dụng ngoại thước ngã

                             Vô dĩ nhất ác khan

                             Phóng nhĩ tỵ quan gia

                             Huyễn phục phi tráng nhan

                             Phồn âm biên đại nhã

                             Thí lưu nhất chuyển ngữ

                             Tự tại chứng hiện quả.

          Bài kệ này được tác giả sách dịch như sau : 

                                  Bài kệ uống trà

                             Chọn bạn chọn bề ngoài

                             Không thấy điều hẳn hoi

                             Uống trà có ướp hoa

                             biến mất hương trà rồi

                             Sáng sớm múc nước giếng

                             lửa nhỏ nắm than rời

                             Không khói cũng không bụi

                             rửa tay khề khà ngồi

                             Nếm mùi cốt thực chất

                             không cần thêm vị ngoài

                             chớ vì chút của hiếm

                             lừa dối mũi ta hoài

                             Người đẹp không ở áo

                             thơ hay thường ít lời

                             Kệ này hãy ghi nhớ

                             chứng quả việc trên đời.

 

          Tác giả còn cho biết thêm là bài kệ này có phần chú rằng Cao Bá Quát viết tặng người bạn tâm giao của ông là Phan Nhạ (người vốn cùng là can phạm với ông trong vụ án trường thi khoa Tân Sửu 1841), vì ông này có thói quen thích uống trà ướp sen bằng cách bỏ trà mạn vào nụ sen để qua đêm rồi mới lấy ra pha.

          Theo quan niệm và ý thích của Cao Bá Quát thì uống trà là cứ phải trà mộc chứ không pha tạp, không ướp bất kỳ hương hoa gì. Cứ thuần khiết hương trà tự nhiên, ấy mới là cách uống trà của các bậc cao nhân quân tử.

          Theo ý hiểu của tôi, với quan niệm như vậy, Cao Chu Thần đã vượt qua cái ngưỡng của thú uống trà, của văn hóa ẩm thực, mà vươn tới tầm triết học rồi.

          Để luận bàn thêm, xin được diễn nôm cái cốt của bài kệ như sau: Rằng cái việc uống trà mà trà lại đem ướp hương hoa thì chẳng khác gì việc chọn bạn song chỉ chú ý bề ngoài thôi. Như thế hẳn chẳng được điều tử tế hay ho gì. Rằng những việc thế ấy là cốt ở thực chất chứ không thể tin vẻ ngoài được, kẻo không mãi quen thành ra tự lừa dối mình. Việc pha trà cũng phải đúng cốt cách và thưởng  thức với  một tâm thế thoải mái. Ví như người đẹp không ở áo và thơ hay chẳng nhiều lời vậy.Việc này có thể ghi nhớ, rồi đem chứng nghiệm để làm bài học ở đời.     

          Có thể rút ra, một triết lý mà Cao Bá Quát gửi gắm trong bài kệ này là, muốn biết được thực chất của mỗi con người, bản chất của mỗi sự việc thì làm sao phải gạt bỏ đi hết thảy những gì là bề ngoài, là sự che đậy.

          Tôi lại nhớ đến người đời đã từng triết lý về vị nhạt, cái nhạt. Rằng ở đời, sau khi đã nếm đủ các vị chua cay mặn chát đắng ngọt thì mới biết cách nếm vị nhạt, thấy được ý nghĩa sâu sắc của vị nhạt. Mà vị nhạt lại chính là hương vị vốn có của tự nhiên, của bản thể vậy! Cũng như con người ta, sau bao trạng thái ái ố hỉ nộ bi, trải nghiệm rồi mới thấm thía mà ngộ ra cái nhạt, ấy cũng là thiền vậy !

          Biết vậy, song mà khó lắm thay !

 

2. Những lời bàn góp:

Tản văn này, tôi đã đăng trong tập sách Những người thắp lửa (Nxb Văn học, 2009). Đây là quan điểm của tôi, ủng hộ minh triết của Chu Thần Cao Bá Quát, khi bậc cao nhân đem ví thú uống trà như việc chọn bạn mà chơi. Tuy nhiên, mọi người sẽ nghĩ sao về thú vui này? Để thăm dò ý kiến nhiều người, tôi đã cho đăng bài viết trên trang cá nhân ở mạng Blog Tiếng Việt, và nhận lại những ý kiến khác nhau, khá thú vị. Chọn nêu ra đây, để cùng tham khảo:

Cựu chiến binh, đại tá Phạm Huy Việt ( Nghệ An ):

Chính xác. (ý là đồng tình với quan điểm của cụ Cao Bá Quát)
Tôi cũng không thích uống trà ướp với bất cứ thứ hương gì.
Có điều pha trà không đơn giản chút nào. Tôi thích trà từ xưa nên cũng pha được để uống. Hôm nào Chu Nhạc ghé nhà chắc phải đãi một ấm cho ngọt giong cả ngày.

 

Phan Bích Thủy, một nhà hoạt động xã hội (Hà Nội):

Mặc dù rất thích uống trà sen nhưng quả thật là tôi  rất tâm đắc bài kệ của cụ Cao Bá Quát. Thật là chí lý và sâu sắc!

           Phúc đáp của Chủ bút với Phan Bích Thủy:
           Đấy là triết lý sâu xa, đời sống lại khác. Mình cũng vậy thôi, ngoài trà mộc ra, mình cũng thích uống trà bạch cúc. Nếu đến chỗ mình, bạn sẽ được thưởng cả 2 loại trà đó.

 

Tùng Quân, một người làm công tác khoa học, đồng thời là ông chủ quán cà phê ở Vinh (Nghệ An)

Uống trà tẩm hương giống như uống rượu ngâm thuốc bắc...người biết thưởng trà cũng như thưởng rượu không bao giờ làm thế, có như vậy mới thưởng thức hết tinh túy của nó...(đồng tình với Vị minh tiểu kệ).


          Đặng Nguyễn, họa sĩ ở Quảng Yên (Quảng Ninh):

Qua cách thưởng thức trà- bài kệ "Vị minh tiểu kệ" đã với lên cái tầm của Thiền- quả là hàm ý- chí lý.

 

Bùi Hải Đăng, cựu chiến binh, hiện thầy thuốc Đông y, thầy phong thủy ở Gia Lộc (Hải Dương):

Cách uống trà của Cao Bá Quát đã gửi một triết lý nhân sinh cao cả... Với tính cách ấy, việc ông đã dám chống lại triều Nguyễn cũng là điều dễ hiểu...

 

Nhược Mộng, một giáo viên ở thành phố Vũng Tàu:

Dậy sớm được nghe anh bàn luận về việc uống trà thật sự là ngẫm việc đời. Thì ra nhâm nhi chén trà có cái thú vui riêng là vậy! Không có bạn hiền bên cạnh thì cũng còn ta với ta! Miền Bắc khí hậu rét lạnh nên vị trà thẩm thấu tim gan. Nhưng miền Nam trà thường chỉ để giải khát nên ướp nhiều hương vị. Thưởng thức trà như các anh ngoài ấy thì là nghiện trà rồi vậy!...

Trình Tuyên, nhà văn, nguyên sĩ quan cảnh sát điều tra ở Cẩm Thủy (Thanh Hóa):

Qua bài kệ mà bộc lộ cốt cách của bậc đại nhân đại trí, đầy triết lý nhân sinh. Người đọc thật sáng cái tâm.

 

Nguyễn Cao Thâm, nhà văn (Hà Nội):

           Tôi nghiện chè (trà), lại ở vùng chè Thái Nguyên nhiều năm nhưng vẫn thích chè shan tuyết. Chè shan tuyết Bắc Cạn, Hà Giang cũng rất ngon...

 

          Văn Lâm An, sĩ quan, kỹ sư xây dựng ở Vinh ( Nghệ An):

Ngẫm mới thấy các cụ nhà mình dạy đời quả là thâm thúy.

 

            Đào Phan Toàn, cựu chiến binh, thày thuốc Đông ý ở Phố Giắt (Thanh Hóa) thay vì bàn luận, bằng bài thơ Uống trà nhớ bạn:
          Nhấp chén trà ngon nhớ bạn ở nơi xa
          Xa, xa lắm, tới nửa vòng trái đất
         Ở nơi ấy có đêm Người thao thức
         Chén trà thơm tới tận dải Ngân hà

          Cầm trên tay, hương vị của quê nhà
          Có nắng gió, cả vị mồ hôi mặn
          Đất Trung du, tháng này mưa mấy bận
          Búp chè xanh, nỗi nhớ cũng xanh xao
          Chát ngọt đầu môi như thuở ban đầu
          Hơi ấm miên man lòng Người viễn xứ
          Thương mhớ quê nhà , những đêm không ngủ
          Nhấp chén trà ngon, nhớ bạn ở phương xa...


         
Nguyễn Việt An, chủ doanh nghiệp ở Tp, Hồ Chí Minh:

          Có lần tôi được người bạn tặng 1 lạng trà toàn chữ Tàu. Nghe nói loại trà này cả triêu đồng/1 lạng. Mở ra thấy toàn là "hạt trà" bằng hạt đậu đen. Khi pha thì bung ra nguyên lá. Uống phảng phất như có mùi thuốc bắc... Tôi quên mất tên, giờ không nhớ là trà gì ? Nói về trà, chợt nhớ Trần Đăng Khoa có bài thơ "Đầu xuân uống trà cùng bạn" khá hay.
         Nhắp chén trà thứ nhất 
         Da thịt bỗng tỏa hương 
         Đời thực thành cõi mộng 
         Trần gian hóa thiên đường 

         Ta nâng chén thứ hai 
         Cho đất trời tinh khiết 
         Tâm ta bừng sáng ra 
         Biết thêm điều chưa biết 

         Mai sau đời dẫu tuyệt 
         Chắc gì hơn lúc này 
         Nào nhâm nhi chén nữa 
         Hai đứa mình cùng… bay…

         Phúc đáp của Chủ bút với Nguyễn Việt An:

         Lão Trần Đăng Khoa dạo này hay uống trà chỗ tôi. Song cái bàn trà ở phòng làm việc của lão ấy, thì "ôi thôi là bẩn". Lão ta chỉ quen uống trà ké thôi, chứ ở nhà, lão ấy toàn uống nước đun sôi để nguội,...

           Nguyễn Trong Huân, nhà báo, nhà văn ở Đài Tiếng nói Việt Nam:       

 

         Lâu rồi không uống trà, thưởng thức trà. Hồi còn sinh viên,có lẽ rỗi thời gian và đói nên hay thưởng ngoạn trà, có khi ra tận phố Trâu Quỳ, hay chui vào làng uống ( Gia Lâm, Hà Nội). Thưởng thức trà nó rẻ, hợp với túi tiền sinh viên chăng. Có một lần, sau khi thưởng thức trà ở cái làng giáp trường, lúc về bị dân quân vác súng đuối theo, họ còn hồ, dừng lại, không thì bắn. Phòng ký túc của tôi có lần thưởng thức trà vào đêm trăng, lại có hoa quỳnh nở, ngoài trà còn một nồi quân dụng cháo đường tầm bổ....Ôi, nhớ một thời gian khó!...

 

         Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà thơ (thân sinh Kiến trúc sư, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến ), người mọi nhẽ bằng thơ :

         Trà ngon đâu
         Bạn hiền đâu
         Bề ngoài hoa lá… nhạt màu hẳn hoi
         Lửa nhỏ cùng nắm than rời
         Tinh mơ gàu nước giếng trời đem pha
         Tránh bụi khói – đón hương trà
         Rảnh tay, khoanh gối, khề khà thưởng hoa
         Độc ẩm – thực cốt nghê nga
         Vị ngoài loại bỏ tự ta lựa tìm
         Lụa là phủ nét đẹp tim
         Thơ hay kiệm chữ lời chìm trong câu
         Chứng quả ngàn vạn sắc màu
         Thưởng trà câu kệ nhớ lâu trên đời...

 

Quả là thú vị. Trở lại với Vị minh tiểu kệ mang tính triết học nhân sinh của danh nhân Cao Bá Quát. Thực ra, Chu Thần mượn chuyện uống trá để luận về con người, bàn việc chọn bạn mà chơi, và cao hơn thế  là dạy khéo đáng quân vương, bậc cai trị thời ấy về cách nhìn nhận, đánh giá mà dùng người hiền tài trong thiên hạ nhằm hưng thịnh quốc gia.

Gần đây, nhân các sai phạm trong khâu thi cử xáy ra ở đó đây, cho thấy hệ thống giáo dục nước nhà có vấn đề bất ổn, dư luận xã hội lại nhắc đến Cao Quá Quát và vụ án trường thi khoa Tân Sửu (1841) ra để so sánh, luận bàn...

Thiết nghĩ, nếu lấy các sai phạm trong thi cử vừa mới đây để so sánh với vi phạm trường thi ngày xưa của Cao Bá Quát, thì chẳng khác gì lấy than chì bì với kim cương, lấy bụng tiểu nhân đo lòng người quân từ.

          Xưa ấy, Cao Bá Quát phạm lỗi chấm thi, thực ra là muốn cứu những người hiền tài có tầm nhìn chiến lược, quan hệ đến quốc gia hưng vong, và ngầm chống lại cái quy định “kỵ húy” sặc mùi thống trị của các triều đại phong kiến,...

          Với Chu Thần Cao Bá Quát, cách uống traf và đánh giá con người, thực ra, chỉ là một!?...

 

 

Thương nhớ những chuyến phà.

 

Trong cuộc đời làm việc của mình, nhất là từ khi vào nghề làm báo chuyên nghiệp, những chuyến công tác đó đây, gần xa, tôi đã từng qua biết bao chuyến phà... Từ chuyến đò ngang sông quê đầu đời ngày nhỏ đi học, cho đến ngưỡng tuổi già, để xuôi chuyến đò dọc cuộc đời dần về cuối bến, làm sao nhớ nổi những lần đò phà ngang bến bãi cơ chứ ?,,, 

Có lẽ, ở xứ sở Việt mình, với mỗi người, tiếng hát ru của mẹ thời thơ ấu và tiếng gọi đò khi lớn khôn là gợi nhớ nhất, nó đi theo ta suốt cả cuộc đời !?...

"Đò ơi... đò ơ ơ ơ...i...", tiếng gọi đò lúc chiều buông bến vắng, của những ai từng lỡ đò, chờ đò mãi chẳng được, thả một nỗi buồn len vào lòng lữ khách và mãi không tan... 

           Ở xứ sở mình, nắng lắm mưa nhiều, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, ai đâu biết có bao nhiêu bến đò, phà?... Sông ngăn cách trở, vô tình cho những con đò, chiếc phà sứ mệnh nối liền hai bờ thương nhớ của mỗi đời người...
           Đã bao lần qua đò, qua phà, chẳng thể nhớ số chuyến, nhưng vẫn có những lần đò phà để nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ này nó không cồn lên như nỗi nhớ tình yêu đầu đời đánh mất, cũng chẳng khứa vào lòng như những trắc trở đường đời, mà nó chỉ man mác như có như không, chợt thấy chợt tan, mỗi khi ta ngang qua một dòng sông nào đó ...
           Chuyến phà đầu tiên tôi mà tôi nhớ lại rất bình yên, Ấy là khi tôi đang học đại học. Cậu bạn cùng lớp Hoàng Gia Trình, rủ về thăm nhà bạn ở mãi tận Hưng Hà, Thái Bình. Tôi lai Gia Trình trên chiếc xe đạp Phượng Hoàng từ nhà tôi, gần Phố Nối, theo đường 39 đến thị xã Hưng Yên, rồi rẽ theo đường đê vài cây số đến bến phà Triều Dương thuộc địa phận Tiên Lữ. Dòng sông Luộc nước hiền hòa, đôi bờ xanh rờn ngô lúa. Ngoài con sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình, thì đây là lần đầu tiên tôi biết sông Luộc. Anh bạn Gia Trình chỉ tay sang bờ bên kia bảo, qua phà đi thêm chục cây số nữa mới đến, ở phía ấy còn có sông khác là Trà Lý. Tôi nghe tên sông này hay hơn tên sông Luộc nên thích ngay. Không ngờ, sông Luộc còn có tên chữ là Phú Nông. Ngày xưa qua sông này về quê vợ Thái Bình, thi hào Nguyễn Du đã cảm tác thành thơ (Độ Phú Nông giang cảm tác). Xưa kia, Nguyễn Du gắn bó với vùng đất sông Luộc này. Ngay từ khi còn nhỏ, lúc gia đình ở Thăng Long bị loạn lạc, Nguyễn Du đã được Đoàn Nguyên Tuấn, bạn thân của Nguyễn Nghiễm (anh ruột Nguyễn Du) đưa về nhà mình ở Quỳnh Côi (Thái Bình) nuôi ăn học như người thân trong nhà. Không những thế, sau đó vợ của Nguyễn Du là em gái Đoàn Nguyễn Tuấn, và ông trở thành con rể của Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục. Thái Bình trở thành quê vợ và nơi trú ngụ của Nguyễn Du, bởi sau này, dưới triều Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan, nhưng Nguyễn Du vẫn giữ quan điểm trung với vua Lê chúa Trịnh, không muốn làm quan với nhà Tây Sơn, cũng lánh về đây ở ẩn một thời gian. Khi làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Du từng được bổ làm Tri huyện Phù Dung (thuộc Phù Cừ, Hưng Yên) liền kề vùng đất này. Vậy ra, một phần ba cuộc đời ông sống ở vùng sông Luộc này, bao nhiêu lần đò giang qua sông, nên có thơ cảm tác là phải thôi. Thời ấy, đôi bờ sông Luộc hẳn xanh tươi lắm, nên Nguyễn Du đã tả trong thơ mình "
Du nhân vô hạn cảm/ Phương thảo biến thiên nhai" ( nghĩa là: Người lãng du dạ đầy thương cảm. Cỏ thơm rợn đến chân trời ).
         
Trở lại chuyến đi ấy, Gia Trình qua lại đây nhiều nên khi yên vị trên phà, kể cho tôi nghe sơ lược lịch sử vùng đất quê mình, trấn Sơn Nam Hạ, xưa cũng là nơi phát nghiệp đế vương của nhà Trần (Hải Ấp, Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình)... Chuyến đi ấy để lại cho tôi ấn tượng tốt về một vùng quê thuần nông thanh bình, yên ả. Để sau đó, trước khi cùng Gia Trình vào Nam nhận công tác, tôi về lại đây, một mình trên con ngựa sắt Phượng Hoàng, lốp nứt phòi cả săm, phải quấn tạm bằng dây chun, tôi phải vất vả vác xuống phà...
           
Cùng với Gia Trình, chúng tôi vào Nam nhận công tác trên chuyến tàu hỏa bão táp vào đầu thu năm 1981, dọc đường phải nhiều lần tăng-bo, ngủ vạ vật ở nhà ga vì mưa bão miền Trung gây sạt lở chắn đường ở đèo Cù Mông, đèo Cả. Chia tay nhau ở Bến xe miền Tây, Sài Gòn, Gia Trình lên xe đi Bạc Liêu (Minh Hải), còn tôi về Long Xuyên (An Giang). Lần đầu chạm mặt đồng bằng sông Cửu Long bạt ngàn cò bay thẳng cánh, thấy Cửu Long giang sóng nước ra sao. Cho đến tận giờ, mỗi nhớ lại, tai tôi vẫn âm vang tiếng rao của những người bán hàng rong, đặc biệt là rao bán nem Lai Vung ở bến Bắc Mỹ Thuận qua sông Tiền. Tiếng rao cất lên đều đều, buồn buồn, gợi nỗi nhớ nhà da diết, dù mới đi xa nhà có một tuần. Người Nam gọi phà là bắc, lúc ấy tôi chưa hiểu, nên cứ nghĩ là bến phà Mỹ Thuận này ở phía Bắc, vậy còn bến phà nữa ở phía Nam. Nhưng rồi, xe đi trên đất huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến bến phà nữa, là Bắc Vàm Cống, qua sông Hậu, bờ bên đã là đất Long Xuyên (An Giang) rồi. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi ai, phần vì ngại, phần "sợ quê", để dần dà tìm hiểu sau. Miền Tây Nam bộ đang mùa lũ, năm ấy lũ lớn, đồng ruộng trắng băng, phân biệt ruộng với sông nhờ những hàng dừa nước xanh chớp chới. Con phà đầy nhóc ô tô, xe máy và người, lừng lững như dãy nhà hai tầng chênh chếch nương theo con nước mà sang bờ bên. Buồn vui chộn rộn, lạ lẫm xen chút lo lằng, không biết mình sẽ nhiệm sở ra sao. Đầu lởn vởn câu thơ Huy Cận "Lòng quê rờn rợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". 
           
Khi về Bảy Núi, Tri Tôn công tác và ở đấy gần bảy năm trời, tôi bao lần qua lại mấy bến phà này (Vàm Cống, Cần Thơ, Mỹ Thuận) mỗi lần lên Sài Gòn,đi phép ra Bắc. Rồi đó, những chuyến đò dọc, chẳng khác chi dân thương hồ miền Tây, đi công việc tại những điểm xa như Ba Chúc, Lạc Quới, Vĩnh Gia, hay sang tận Hòn Đất, Hà Tiên...
           
Sau này, anh bạn Gia Trình rời Bạc Liêu, về nông trường Đông Anh, Hà Nội làm việc, tôi cất công đến thăm bạn, lần mò hỏi đường, người ta bảo đừng theo đường vòng Cầu Đuống mà đi tắt qua bến phà Đông Trù, gần ngã ba Dâu, nơi sông Đuống lấy nước từ sông Cái. Sông không rộng nhưng nước xiết, nên cảm giác sờ sợ. Qua phà, đạp xe theo đường đê, ngang đất Mai Lâm, lại nhớ đến chuyện bố tôi hay kể rằng ngày xưa hay vỡ đê sông Cái hoặc sông Đuống, đâu quãng ấy, nên đời sống người dân trong vùng cơ cực lắm.  Năm nào mùa mưa lũ, cũng lo ngay ngáy, sợ vỡ đê, chẳng chết trôi thì cũng chết đói. Chẳng thế mà, cụ Ngô Tất Tố, người quê đây, chẳng cần đi đâu xa, cứ chất liệu thực tế ở vùng quê mình mà viết nên các tác phẩm kinh điển của văn chương xứ Việt là Việc làngTắt đènLều chõng... Nhờ thế, khi làm báo chuyên nghiệp, tôi đã trở lại vùng quê này, để thực hiện một chương trình phát thanh đặc biệt trong dịp Lễ Quốc khánh.

            Trong cuộc đời làm báo chuyên nghiệp, công tác liên miên, sông ngòi, đò phà là chuyện cơm bữa. Hầu như các phà lớn, tôi đều qua hết, như phà Tân Đệ, Đò Quan, Ninh Cơ (Nam Định), phà Bính, phà Gót, phà Đình Vũ (Hải Phòng), phà Bãi Cháy (Quảng Ninh), phà Đà Bắc (Hòa Bình), phà Bến Thủy (Nghệ An), phà Sông Gianh, bến đò Son (Quảng Bình), bến đò Vàng (Bắc Ninh), bến đò Ninh Xá (Hải Dương) ... 

            Phà Bãi Cháy, ngày trước cắt ngang vịnh biển, rộng và luôn đông khách, mỗi lần qua chờ cả tiếng đồng hồ là chuyện thường. Những ngày mưa giông, thời tiết xấu, phải qua phà thật ái ngại. Tôi đã gặp những lần như thế, lần qua Hòn Gai công tác, nhân tiện ghé thăm gia đình nhà thơ Trần Nhuận Minh, và một lần khác, đúng khi có bão rớt, tìm gặp nhà văn Dương Hướng và nhà thơ Trần Ngọc Tảo, nhờ chỉ dẫn để xuống Cẩm Phả, tầm bằng được nhà văn Võ Huy Tâm, thực hiện cuộc phỏng vấn ông về tác phẩmVùng Mỏ. Ngồi trên phà mà cứ nơm nớp lo lắng, ngộ nhỡ... May là không có chuyện gì bất trắc. 
            Giờ thì những nơi ấy phần lớn có cầu cả rồi. Nhiều cây cầu mang tầm vóc thể kỷ, như cầu Bãi Cháy, cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, và mới đây nhất là Vàm Cống cũng đã thông xe, bỏ lại đó bến Bắc Vàm Cống, nơi ghi dấu ấn đầu tiên cuộc đời công chức của tôi. Năm 2017, trước khi nghỉ hưu, tôi có dịp đi lại tuyến đường Lấp Vò (Đồng Tháp) qua Bắc Vàm Cống sang Long Xuyên, để đi tiếp Tri Tôn, nơi 37 năm trước, tôi qua đây đi nhiệm sở, bắt đầu cuộc đời công chức của mình. Con phà hai tầng rẽ nước sang bên, nhìn cây cầu xây dở vắt ngang sông mà lòng nao nao, nhớ lại ngày xưa ấy, nhìn những cụm lục bình, nhưng cành mục trôi dạt trên sóng nước, tự nhiên thương cảm cả con phà lẫn những thợ thuyền vận hành, rồi sẽ ra sao khi thông cầu. Giờ thì tất cả đã đi bến bờ khác cả rồi... Một con đò nhỏ chở tuổi thơ ta qua sông quê, hay con phà khủng thì cũng như nhau cả thôi, đều có thân phận, đều trôi chảy cùng dòng sông và dòng đời !...

             Có một bến đò mà tôi chưa nhắc đến. Đấy là bến đò Hàn qua sông Thái Bình, từ thị xã Hải Dương sang đất Nam Sách. Bến đò này một thời như bến đò tình yêu của tôi. Ngày đó, tôi và người bạn gái ấy, hay cùng nhau qua đò Hàn sang Nam Sách thăm nhà Trịnh Bá Ninh và Trần Đăng Khoa, là những bạn chung của hai tôi. Mối tình đầu vụng dại, chỉ biết yêu hết lòng, còn chẳng biết đoán ý của người bạn gái nữa. Đò giang, sóng nước, mây trời, và cả thơ phú, đều bồng bềnh, choi vơi, nương theo tâm trạng buồn vui của lòng mình và gương mặt tươi tắn hay đượm buồn của người ấy... Và hình như, ở vào tuổi mới lớn, trong tình yêu, con gái thường là người dẫn dắt thì phải? Tôi như con đò để người ấy cầm lái, chèo đi đâu cũng được... Mối tình đầu đánh mất, cầu qua sông cũng đã bắc đâu đó, người xưa đi lấy chồng, mình cũng đã yêu người khác, rồi lập gia đình. Nghe đâu bến đò ấy vẫn còn, vì cuộc đời luôn có người lỡ dở cần qua sông...

            Tôi và người bạn ấy, sau gặp lại nhau, trêu đùa như chưa từng có chuyện gì, cũng chẳng còn nỗi đau khứa lòng nào... Nhưng bóng dáng con đò và tiếng gọi đò ơi lan trên sống nước một thuở thì vẫn như đâu đó!... Cuộc sông không thể dừng lại, những cây cầu hiện đại thay thế cho đò phà là lẽ đương nhiên, không thể à ơ thương nhớ mãi được. Cũng biết vậy, nhưng con người ta, chẳng thể cứ bảo không là thôi ngay được, khi mà nỗi nhớ thương những bến bờ và những chuyến đò, chuyến  phà một thuở, không phài là tội lỗi gì !,,,

 

 

Tín hiệu mùa xuân

         

Đầu tháng chạp, vừa qua tiết Đông chí, vậy mà trời như có vẻ xuân. Đêm, ngủ mơ màng đâu như có tiếng mưa nhè nhẹ, rơi rơi, ru rín, rả rich… Sáng dậy, mở cửa nhìn ra thấy mái hiên nhỏ giọt, lối vào ngõ nhà ướt át…

          Đi đường, cân nhắc rồi thây kệ, chẳng áo mưa gì. Trời mờ hơi mưa, xuyên màn mưa bụi, lúc đầu không sao nhưng chỉ một chút là bụi nước mờ mắt kính, vạt trước áo khoác ngoài cũng nhếnh nháng… Ấy là chút lộc sớm của mùa xuân...

          Lâu rồi, mới thấy đây. Tự nhiên, nhớ mấy câu thơ rất chi tinh tế của Lưu Trường Khanh, một thi nhân đời Đường (Trung Quốc), trong bài thơ Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên, đã viết “Tế vũ thấp y khan bất kiến/Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh”, dịch nghĩa tiếng Việt là “Mùa phùn làm ướt áo, nhìn mà chẳng thấy/ Hoa nhẹ nhàng rơi xuống đất, nghe không thành tiếng”. Quả là hay và tinh tế làm sao. Được biết, hai câu thơ này từng được sử dụng làm đề thi cho học sinh toàn Trung Quốc trong một kỳ thi tốt nghiệp bậc Trung học phổ thông. Một người bạn thơ của tôi, blogger Hoa Mai đã dịch là “Mưa phùn áo ướt nhìn chẳng rõ/ Hoa rơi từng cánh bẫng như không”. Dịch thế cũng là hay.

          Tiết mưa phùn, mưa xuân, hơn ngàn năm nay vẫn vậy. Thời ấy, thi nhân Lưu Trường Khanh, đi thuyền dọc sông, gặp tiết mưa xuân đã cảm thán mà viết vậy… Đến thời nay, nhà thơ xứ Việt mình, Trần Đăng Khoa, cũng tài tình lắm thay khi tả cảnh mưa phùn, mưa xuân, trong bài thơ Mưa xuân, đã hạ bút: “Mưa bay như khói qua chiều/ Vòm cây như nhỏ giọt đều qua đêm/ Tiếng mưa vang nhẹ khắp miền/ Lòng rung như chiếc lá mềm, khẽ sa/ Sáng ra, mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô”… Thật tinh tế và gợi cảm!...

          Nhưng tiết mưa phùn, với người thành phố, có thể làm người ta khó chịu, bởi sự ướt át, nhớp nháp, ẩm thấp, nhưng với nhà quê, mưa phùn có cái duyên và sự thú vị của nó. Sống ở quê lâu, nhìn đâu cũng thấy sự chuyển biến của vạn vật theo tiết trời… Ngoài cánh đồng, sau nhưng ngày rét khan khô hạn, mưa phùn đất ẩm, những chân ruộng chưa vỡ, rau khúc miên man màu xanh non, còn chân ruộng mạ, mỗi ngày nhìn cũng đổi khác. Cây vụ đông như su hào, bắp cải, cải cúc mỡ màng hơn. Trong làng ngoài ngõ, ướt át lầy bẩn bùn đất có đấy, nhưng ta sẽ thấy thú vị khi thấy vạt bèo trên ao cạn đã xanh hơn, hàng rào cúc tần, xương rồng thì tươi  roi rói… Trong vườn, những vạt cải sót, cải giống lên ngồng rung rinh hoa vàng ngậm nước mưa như nạm ngọc. Và, những cây bười, cây chanh hoa đâm nụ sớm hương lan dìu dịu… Bày gà mẹ, gà con túc túc dắt nhau tìm bới, bắt sâu bọ, côn trùng trong đất ẩm… Mọi vạn vật đều cựa quậy, sống động hẳn lên, chờ tiết xuân sang,… Mưa phùn là tín hiệu đầu tiên của mùa xuân đấy…

          Ấn tượng làm sao, trong màn mưa bụi giăng mờ ngõ xóm, là những loài hoa màu đỏ. Và nữa, màu áo đỏ, khăn choàng đỏ của các chị, các cô gái quê cũng ấn tượng lắm thay và có sức khơi dậy trong ta niềm hứng khởi xuân !...

 

 

Từ nghệ thuật thực cảnh

nghĩ về chiếu chèo sân đình,

 

Thật khó diễn tả nổi cảm giác trước sự tráng lệ của Thực cảnh Ký ức Hội An... Một sự choáng ngợp trong không gian ánh sáng và âm thanh cùng những cảnh vật, con người sống động, linh hoạt và đầy biểu cảm ...

Đó là những gì tôi mục sở thị  thực cảnh Ký ức Hội An. Thực tình, trước khi xem, tôi đã thử hình dung, nhưng quả thực, nó khác với mường tượng của tôi, về độ tráng lệ, về kỹ xảo ánh sáng, sắc màu, sự sống động, về số lượng người tham gia, về cảm xúc tức thì nơi tôi...

          Thực cảnh tái hiện lịch sử hơn bốn trăm năm hình thành của Hội An với sự pha trộn của văn hóa Việt-Champa, Nhật bản, Trung Quốc, Bồ Đào nha, Pháp... Thậm chí, có những hình ảnh tái hiện lại câu chuyện từ thời Huyền Trân công chúa nhà Trần vào làm dâu xứ sở Champa (đầu thế kỷ 14), và xa xưa hơn nữa, là những sinh hoạt của xứ sở Champa cổ từ thế kỷ thứ 10 ... 

           Đây là lần đầu tiên tôi xem nghệ thuật thực cảnh. Năm 2002, trong một lần công tác sang Trung Quốc, tôi đi dọc tuyến Nam Ninh-:Liễu Châu-Quế Lâm, và từ Quế Lâm, theo dòng Ly Giang tôi đi thị trấn Dương Sóc, một địa điểm du lịch nổi tiếng ở miền nam Trung Quốc. Dọc đường, du thuyền ghé bờ để du khách tham quan hang động Quan Mâu. Nghe nói, vài năm sau đó, người ta dựng sân khấu thực cảnh ngay gần đó để diễn vở thực cảnh Chuyện chị Ba Lưu, do Trương Nghệ Mưu làm tổng đạo diễn. Các đồng nghiệp sau tôi sang đó, được phía bạn mời xem, về kể lại, tôi cứ tiếc là không được mục sở thị. Nay được xem Ký ức Hội An thật đã mắt đã tai, thây với quy mô này, hẳn là hoành tráng hơn thực cảnh Chuyện chị Ba Lưu. 

Ở quy mô ngược lại, ấy là chiếu chèo sân đình. 
          Với người dân xứ Bắc, nhất là các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng-sông Thái Bình, thì chèo là hình thức sân khấu phổ biến và được yêu thích nhất. Ngày nhỏ đi học, nhất là những năm chiến tranh về sống ở quê, tôi mới biết nhiều về chèo. Thời ấy, các địa phương hầu như đều có đoàn chèo chuyên nghiệp, nổi tiếng như chèo Thái Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Bắc, Nam Hà và Hải Hưng quê tôi. Nhưng được xem các đoàn chèo chuyên nghiệp diễn là rất hiếm, thì bù lại, các chuyên mục Dân ca và nhạc cổ truyền của Đài Tiếng nói Việt Nam phát các làn điệu chèo, hoạt cảnh chèo khá nhiều. Người ta biết đến tên tuổi của các nghệ sĩ hát chèo qua làn sóng như Minh Lý, Kim Đức, Minh Tâm, Như Hoa, Đỗ Xuân... Còn mỗi đoàn chèo, đều có những diễn viên gạo cội nổi tiếng của mình, và lâu lâu họ lại được mời thu thanh để phát trên đài nhằm phục vụ đông đảo thính giả. 
           Chuyện chiếu chèo sân đình, là một hình thức văn nghệ cộng đồng có từ xưa vào những dịp làng có hội, lễ tết gì đó. Hình thức biểu diễn này thường do một gánh chiều gia đình, hành nghề lưu diễn khắp nơi để kiếm sống, hoặc do những người yêu thích chèo tự biên tự diễn như một sinh hoạt tình thần vui làng xóm. Nghe cah tôi kể lại, ngày trước, hình thức chiếu chèo sân đình khá phổ biến, vì nghệ thuật sân khấu chưa mấy phát triển, vả lại đời sống thôn dã xưa thích hợp với hình thức diễn xướng kiểu này, biểu diễn các rích chèo cổ, các trích đoạn, chẳng hạn như: Súy Vân giả dại (Kim Nham), Thị Màu lên chùa (Quan âm Thị Kính), Tuần ty Đào Huế (Chu Mãi thần) v.v... Vừa giải trí gây cười vừa có tính giáo dục cao. Sau này, những năm chiến tranh ở miền Bắc, tuy đã có nhiều đoàn văn công, đoàn tuồng, chèo, cải lương nhưng lưu diễn địa phương khó khăn, vả lại còn sợ máy bay địch bắn phá, nên hình thức chiếu chèo sân đình trở nên phù hợp với hoàn cảnh và khá hữu dụng. 
           Quê tôi ngày ấy, tuy không phải là đất chèo, thì cũng có những người do nghe chèo trên Đài mà mê chèo. Chiến tranh, phim ảnh, văn nghệ hiếm nên làng xã khuyến khích các hoạt động văn nghệ quần chúng. Hầu như làng nào cũng thành lập đội chèo, thành viên thì hổ lốn, già trẻ, trung niên, thanh niên chưa có gia đình, lại có những ông bố và mẹ vài ba con, miễn là biết hát chèo sơ sơ và nhiệt tình là được. Hình thức thì cũng búa xua, hát đơn, hát đôi, hoạt cảnh, dựng trích đoạn chèo cổ đều được. Vui thì có nhưng buồn cũng chẳng phải không. Nhiều anh chị tập tành, biểu diễn chung mà bén duyên nên vợ chồng. Lại có những cặp có vợ chồng cả rồi. khi tập chung với nhau nảy sinh tình cảm, tình giả thành thật, rạn nứt hôn nhân. Buồn nữa, có nhưng chị vợ bộ đội, chồng xa nơi chiến trường, ở nhà đi tập chèo lại có thai... Tôi nhớ, có nhà văn nào đó đã viết thành truyện, Thị Màu lại phải nuôi con riêng của Thị Kính ngoài đời, là chuyện hoàn toàn có thật... Thế mới là cuộc sống!?...
           Dù chiến tranh và thiếu thốn, nhưng vẫn có những đoàn văn công trung ương và địa phương đi lưu diễn. Quê tôi, cách Hà Nội vài chục cây số đường chim bay, nên năm đôi lần có đoán văn công chuyên nghiệp, tuồng, cải lương, kịch nói, chèo đến biểu diễn vài ba đêm. Đấy thực sự là ngày hội của làng quê. Tôi nhớ, các vở chèo cổ như Kim Nham, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Quan âm Thị Kính, Tấm Cảm, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... được các đoàn dựng, đưa về biểu diễn. Cả xã có cái chợ Lạng, sân gạch rộng, dưới tán mấy cây bàng cổ thụ, gần trụ sở Ủy ban xã, lại vị trí trung tâm, được chọn là nơi dựng sân khấu biểu diễn. Mọi người nô nức mua vé đi xem, phải đi sớm để giành chỗ ngồi gần sân khấu. Vở nào cũng có đoạn hài cười nôn ruột, lại có đoạn cảm động rơi nước mắt. Làng xã hân hoan cả tuần, cả tháng, đi đâu người ta cũng bàn tán các tình tiết trong vở diễn. Giờ nghĩ lại, thấy những buổi biễu diễn sân khấu ngày ấy có sức mạnh tinh thần ghê gớm, một sự doping khó có gì bằng...

Có một thời kỳ, diễn ra sự đổi mới trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, thì lĩnh vực sân khấu cũng vậy. Ở ta, kịch Lưu Quang Vũ là một hiện tượng rầm rộ. Lặng thầm, sau hoạt cảnh chèo Đường về trận địa, ít nhiều mang tính thử nghiêm, soạn giả Tào Mạt tung ra bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước lấy đề tài lịch sử nhưng lại có sự cách tân. của mình ( Lý Thánh Tông tuyển hiền, Nhiếp chính Ý Lan và Lý Nhân Tông kế nghiệp) đã để lại tiếng vang và dấu ấn sâu đậm trong hoạt động sân khấu cô truyền là sự phát triển của nghệ thuật chèo.
           Ấy là thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật biểu diễn nói chung. Đó cũng là niềm hạnh phúc của các nghệ sĩ. Giờ đây, con người ta có quá nhiều thứ giải trí, thời đại 4.0 thì nằm trên giường người ta cũng có thể lựa chọn được các hình thức giải trí mà mình yêu thích, chẳng cần phải bước chân ra. Sân khấu và nghệ thuật biểu diễn bị thu hẹp đất sống, và như vậy sẽ mai một, nếu không tìm cách biểu đạt mới, cách sống mới cho phù hợp với thời đại ? Đương nhiên, hiện nay, vẫn còn đó các nghệ sĩ hát và biểu diễn chèo sống chết với nghề như Quốc Anh, Thanh Ngoan, Thanh Hoài, Hồng Ngát, Văn Chương, Xuân Hinh, Thu Huyền v.v... nhưng để cứu vãn chèo, mang lại sức sống cho chèo không chỉ có lòng yêu nghề là đủ?...
           Song tôi đã thấy sức sống mới của nghệ thuật biễu diễn ở Hội An. Người ta đã đưa nghệ thuật sân khấu ra đường phố, như dân ca bài chòi, cải lương vọng cổ, hát tuồng... và nghệ thuật thực cảnh (qua thực cảnh "Ký ức Hội An") là một cách làm mới hoàn toàn...
           Đương nhiên, Hội An có sự thuận lợi, ấy là điểm du lịch nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới, mà không phải nơi nào cũng có. Hội An biết tạo ra sản phẩm du lịch mới và du khách đến Hội An đông là điểm mấu chốt cho nghệ thuật tìm được đất sống ở đây. Hội An biết cách nuôi dưỡng du khách và khách tiếp thêm sức sống cho Hội An...

           Và, chiếu chèo sân đình, đâu có chết. Hình thức này tự tìm được sức sống mới cho mình ở nơi làng xóm. Giờ đây, người dân tự biết cách nuôi dường hình thức này, bởi khi biễu diễn chiếu chèo sân đình, người ta đến xem, không đờn thuần là thưởng thức nghệ thuật, mà là được tham gia vào hoạt động và tạo sự gắn kết cộng đồng, là tình nghĩa xóm làng, những thứ không gian mạng chưa đem lại cho họ!?...

 

 

 

Vườn xưa,

Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, ở tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hung Yên, cách thủ đô chừng vài chục cây số đường chim bay. Mảnh đất rộng chừng gần hai sào Bắc bộ, được bố mẹ tôi mua vào năm 1965, sau khi nhà tôi chuyển từ một căn hộ tại Ngõ Trúc Lạc, bên bở hồ Trúc Bạch, Hà Nội, về quê sinh sống theo chính sách thời chiến-giảm dân số ở thủ đô, khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ mở đầu cho cuộc chiến bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc. Sau này, được biết, cái chính sách "giảm dân số ở thủ đô" ấy chỉ thực hiện với đa phần gia đình có quê và thuộc diện bị xem là "thành phần không trong sạch" theo chủ nghĩa lý lịch phổ biến vào thời ấy...

Về sống ở quê, quen dần, lại thấy được cái vẻ đẹp bình dị muôn thuở của thiên nhiên làng quê Việt mình. 

          Trên mảnh đất đầu làng ấy, bố mẹ tôi làm ngôi nhà 5 gian kiểu 3 gian 2 chái, tường đất vách rơm bùn, lợp rạ truyền thống ngàn đời của làng quê Bắc bộ. Cùng đó là căn nhà ngang gồm bếp, chuồng trâu, chuồng lợn và chỗ vệ sinh, cũng bằng chất liệu tre đất rơm bùn. Đất trống hai đầu hồi nhà thì một bên là chuồng gà, bên kia là đống rơm, đống rạ. Trước nhà, có mảnh sân hẹp lát gạch Bát Tràng cũ do mua lại. Vài cây cau vươn cao bên dưới có vài cây nhài và gốc lựu, mà quê tôi quen gọi là thừu lựu liền với sân gạch. Phần lớn đất phía ngoài sân để làm vườn tược trồng các loại rau theo kiểu tự túc, tự cấp. Các cây lưu niên có sẵn và được trồng thêm, loại ăn quả thì có na, mít, bưởi, chanh, hồng xiêm, ổi, nhãn và sấu. Góc vườn và sau nhà có mấy bụi chuối tây, tiêu đủ cả. Liền kề với vườn là miếng ao nhỏ hẹp có sẵn, được đào sâu thêm lấy đất đắp tường nhà và tường bao vườn. Gốc vườn nơi hay bị cớm nắng thì có ít dong giềng. Bốn xung quanh, giáp nhà hàng xóm và đường, ngõ làng là lũy tre, cùng dây mây gai là dăm cây ruối, cây màng dè, cây xoan và hoa dâm bụt, cùng khúc tần. Thế thôi, đã có hoa trái, rau cỏ ăn quanh năm rồi.
        Cuối Chạp hay sang Giêng, tùy tiết sớm muộn hàng năm, khai mùa là hoa chanh, hoa bưởi. Hoa bười nụ to, mùa sai hoa thì trĩu cả cành những nụ những hoa, cánh trắng nhụy vàng tinh khôi, thơm sực nức vườn nhà, Mẹ tôi hay hái hoa bười, chì vài ba chùm thôi, bày đĩa nhỏ đặt lên bàn thờ thắp hương. Thói quen này, là mẹ tôi học từ bà ngoại tôi. Bưởi sai hoa, nên ngắt bớt đi, để nhiều tự hoa cũng rụng rơi, bởi chỉ để vừa hoa thành quả thì cây mới đủ sức nuôi quả lớn. Nở cùng thời điểm, nhưng hoa chanh khác hẳn, khi nụ thì tím nhạt, lúc nở ra mới trắng ngà, hoa nhỏ và hương thơm dìu dịu. Thực lòng, tôi thích quan sát và mê hoa chanh hơn, vì tìm thấy ở đấy sự khiêm nhường mà vẫn tươi tắn sắc hương...
        Qua giêng hai, trời bắt đầu có dấu hiệu hè sang với những cơn giông chiều, đêm ì ầm tiếng sấm. Ấy là lúc cây lựu lấp ló nụ đỏ. Mỗi khi thấy hoa lựu, bố tôi hay ngân nga câu Kiều "Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tưởng lửa lựu lập lòe đâm bông"... Đây cũng là thời điểm cây nhà đua nụ hoa trắng. Nếu như lựu chỉ làm người ta ấn tượng với nụ hoa đỏ như ngọn đèn dầu hỏa thì hoa nhài lại trắng muốt thơm hương. Có lẽ vì quê tôi ít trồng hoa sen và thói quen sinh hoạt, bố tôi thích uống trà nhài hơn. Nên mỗi khi có hoa nhài, bố tôi thường dậy sớm, nhắt những bông nhài chớm nở còn đẫm sương mai, rồi tự ướp với trà, loại trà Thanh Hương giá ba hào hai xu một gói. Ngày ấy, uống trà cũng là một thú vui xa xỉ, và loại đắt tiền như Hồng Đào thì có nằm mơ, đơn giản vì không có tiền mua và có tiền cũng không mua được vì chỉ bán phân phối cho cán bộ thôi. Nhưng sau này, nghiện trà, tôi mới hiểu một thực tế và có thể xem như một đạo lý, ấy là trà ngon, tỷ như trà búp Thái Nguyên thì chỉ nên uống mộc, mới thấm được cái ngon của hương vị tự nhiên thổ ngơi của trà. Còn như trà ướp, dù là ướp gì, sen hay nhài hay loại hoa, hương liệu khác thì chỉ nên dùng trà lại nhì, loại ba mà thôi. Chính loại trà không phải là thượng thặng mới cần đến hương vị ngoại lai để tăng vị thơm ngon cho mình... Như triết lý được đại danh nho Cao Bá Quát đã đưa ra.
       Tháng ba, hoa gạo đỏ ối đầu làng, triền đê, nơi cổ quán, chùa chiền. Người chị gái lớn của tôi đi làm đồng về, nhặt theo mấy bông hoa gạo to tướng về bỏ lên mặt bể nước, vừa rửa chân tay nơi sân giếng, vừa khe khẽ hát "Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên. Mộc miên hoa ơi..."... Bỏ dở câu hát, chị bảo "Cái tên Mộc miên hay thế, mình lại gọi là hoa gạo... Có ăn được đâu cơ chứ...". Tôi nghe lời bái hát, lơ mơ hiểu là bài hát về tình hữu nghị hai nước Việt-Trung, chẳng mấy quan tâm nhưng tôi lại hình dung ra những cây hoa mộc miên đỏ ối nơi biên cương xanh ngút ngàn. Chỉ thế thôi, trong tôi đã nảy mầm nỗi khát khao được đi đây đó ... Rồi chị quay ra đố tôi "Em có biết ở miền Nam, Tây nguyên ấy, người ta gọi hoa gạo là gì không?" Hỏi rồi, chẳng đợi tôi trả lời, chị bảo: "Là hoa Pơ-lang đấy. Cái tên cũng thật hay...". Và chị lại hát bài hát về hoa Pơ-lang:"Tây nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ, thứ hoa nào đẹp nhất rừng, Tây nguyên ơ ơi..." Tôi nghe chị hát mãi vẫn chưa thấy nhắc đến cái tên pơ-lang, nhưng tôi cũng không hỏi lại... Sau này lớn, tôi mới biết, chị gái tôi hát cho niềm mơ ước tuổi trăng tròn của chị, cho khát khao tình yêu đôi lứa thời lửa đạn, khi trai tráng làng quê ra trận hết cả, trong đó có chàng trai đã ngỏ lời yêu với chị, và không bao giờ trở về ... 
        Giờ cũng là lúc vườn nhà phủ một màu tím hoa xoan nở chạt ngọn cây. Lúc này, vẫn còn rơi rớt những trận gió mùa đông bắc, sân vườn ẩm ướt. Mỗi dịp vậy, mẹ tôi lắc đầu, ái ngại, bà thương bầy gà con cóm róm trong mưa lạnh, mắt lên mộng vì chứng cúm thời tiết, lò dò, ngơ ngác kiếm ăn mùa hoa xoan. Bầy gà con bị vậy, nhiều khi mất cả đàn, còn vài ba con sống sót là may. Mỗi khi gà bị cúm, bố tôi lại sai mấy chị em chúng tôi lấy tỏi giã chắt nước rỏ vào miệng cho chúng uống, rồi thóc đem ngâm với nước vôi trong cho gà ăn, mong cả đàn qua khỏi, còn có cái mà bán, có miếng mà ăn lúc giỗ chạp. Cái mùa hoa xoan chẳng đem lại lợi lộc gì, mùi thì hăng hắc, ngai ngái, ám ảnh, khó thoát, dù ngoài sân hay trong nhà, nhưng màu tím của nó trên vòm trời chiều thì rất chi là ấn tượng.
         Đây cũng là lúc những mảnh đất trống lấm tấm lên mạ non. Tôi hay có cái trò câu công cống. Gọi là câu công cống hẳn nhiều người không hiểu là câu con gì. Thực ra, ấy là câu con sâu đất. Khi mặt đất se đi, quan sát kỹ sẽ thấy có những lỗ nhỏ như chôn kim lác đác đây đó. Tôi bứt những cọng mạ non, hoặc búp nõn tre, cắm xuống các lỗ đất chân kim ấy, khi thấy cọng mạ động đậy, ấy là chú sâu đất đang cắn mồi cọng mạ, bèn rút dần cọng mạ thật khẽ và khi gần lên mặt đất thì rút thật nhanh, kéo tuột con sâu lên, lấy sâu làm mồi bồi dưỡng cho bầy gà con đang bị ốm... 
        Mùa hạ sang, ấy là mùa của nhiều loài hoa vườn nhà. Trước hết là những loài hoa đỏ, như râm bụt, dong giềng. Hoa râm bụt thì chỉ có sắc, không hương, phá gam đỏ điểm tô cho bờ rào xanh, bởi khúc tần và dây tơ hồng vàng, còn hoa dong giềng không những sắc đẹp, nếu ai biết nó thì còn ăn được. Chẳng hiểu ai dạy, tôi đã biết tút lấy búp hoa trong cùng, mút chút dịch từ lõi búp, có vị ngọt là lạ. Thật thú vị. Biết chẳng béo bổ là mấy, nhưng lại có cảm giác của con ong đi tìm mật. Còn xương rồng nữa, những bụi xương rồng hàng rào hay trên mặt tường vườn rau cũng dày hoa. Mặc dù xương rồng là loại cây chịu khô hạn vô địch, nhưng mùa hạ mưa nhiều, xương rồng cũng mở màng hơn và vì thế sắc hoa đỏ hay vàng của nó cũng tươi tắn hơn, làm con người ta cũng thấy hưng phấn hơn lên...
         Chưa hết, chỉ riêng một cây sấu ven ao ngay lối cổng vào lấm tấm hoa, lẫn vào vòm lá xanh khiến người ta khó thấy. Và nó chỉ hiển hiện khi dưới gốc cây dát một thảm màu trắng ngà vàng,... Ấy là khi hoa sấu rụng, người ta mới biết đến sự có mặt của nó...
        Tiết cuối hạ, khi những đầm sen ngoài đồng đã vãn, mảnh ao nhỏ lại tím sịm hoa bèo Nhật Bản, làm góc vườn nhà đầy sinh khí. Loài hoa chẳng mấy ai để ý nên nó cứ vô tư hớn hở, như chỉ thể hiện sự có mặt cùa mình mà thôi. Song sự có mặt của nó làm cho mảnh ao nhỏ quanh năm cớm nắng bởi bóng tre và những cây lưu niên khác, bừng tươi tỉnh, nhất là mỗi chiều tà trời nổi cơn giông nổi, theo đó là những hạt mưa to lộp độp trên lá bèo. Dây mướp ven ao, được bắc dàn lán ra mặt ao đầy hoa vàng và bóng hoa in hình trên mặt nước, khiên đám rô ron tưởng nhầm, lao xao đớp bóng hoa, cho đến khi những bông hoa mướp đực héo rụng xuống, ấy là lúc bày cá con lau chau tranh ăn, quấy nước ao sủi bọt khí. Đám rau muống nước cũng chẳng chịu thua nở đầy hoa tím, kéo sang cả thu. Hình ảnh ấy in đậm trong tôi, để một ngày nào đó, bật ra mấy câu thơ nhớ quê "Quê nhà dường đã vào thu/ Hình như có tiếng chim gù đâu đây/ Ao vườn hoa tím nở đầy/ Có con săn sắt động dây muống chiều"...
         Rồi bỗng một ngày, khi len lỏi vào hàng rào vườn nhà để tìm ngắt những quả ruối chín vàng mọng bỏ vào miệng ăn, bỗng nhiên cẩm nhận một mùi hương là lạ. Hương gì nhỉ? Tự hỏi mà chẳng thể trả lời. Mùi hương ấy như có lại như không. Mỗi làn gió thổi, mùi hương lại dậy lên, từ sáng đến trưa, rồi chiều, càng rõ dần, và mùi hương ấy hiển hiện, như mùi chuối chín, hay dứa chín. Ở quanh quất đâu đây thôi. Bố tôi bảo: "Hoa dứa dại đấy. Cứ tìm đi, khắc thấy". Tôi căng mũi lần tìm, như chú khuyển vàng đánh hơi... Đây rồi, giữa bụi mây gai xen kẽ dứa dại hàng rào, từ nách lá, một bông hoa vàng nhạt nhô lên. Mùi hương lạ từ đấy tỏa ra, sực nức. Ai đã từng một lần ngửi hương hoa dứa dại sẽ chẳng thể nào quên, vì nó không lẫn với bất kỳ thứ hương nào khác. Tôi mách bố, ông bảo:''Dứa dại ít khi nở hoa, nên ai tìm thấy hoa dứa dại là may mắn lắm đấy". Chẳng biết thật hư, nhưng từ khi tìm thấy hoa dứa dại, tôi luôn chờ đón sự may mắn kỳ diệu nào đó sẽ đến với mình!...
         Mùa hạ qua đi. Tiết thu sang, sấu chín, lộp độp rụng mỗi khi trời chuyển gió. Bưởi cũng già quả, nhưng ăn vẫn còn he, phải đợi đến tiết Trung thu quả mới đủ nước vào ngọt. Đây cũng là thời kỳ oi nước lên. Lúc này, vườn nhà hầu như vắng màu hoa. Ấy là lúc, những bông hoa xương rồng nhỏ xíu vẫn kiên trì, túc tắc nở, đem lại chút màu sắc cho vườn. Khi ấy, mới thấy thương thấy quý loài cây hoa này làm sao!... 
           Ở tít trên cao, hoa cau nào ai biết. Chỉ những chú chim sẻ mùa hè là hay ríu rít, lách chách, chí chóe trên nách bẹ cau, để thòi ra những sợi rơm khô từ tổ của mình. Rồi một sáng, phảng phất đâu đây chút hương dịu nhẹ. Gì thế nhỉ? Lúc múc nước, chợt thấy mặt nước bể lấm tấm hoa cau. Mãi sau này, tồi hiểu, ấy là dấu hiệu  của tiết heo may, khi một thần đồng thơ đã viết những câu thơ "Nửa đêm nghe ếch học bài/ Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây/ Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau". Hay và tinh tế làm sao...
         Nhà tôi, có đào giếng khơi, bên giếng là bể nước. Bố tôi cầu kỳ để một chậu quỳnh. Ngay chân bể chứa nước là khóm giao. Bố tôi bảo: "Cây quỳnh phải có cành giao mới hợp". Ông mang câu thơ Kiều ra diễn giải, rằng chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều trong truyện của Nguyễn Du thì trời đất, quang cảnh cũng đều giao hòa, quấn quýt "một vùng như thể cây quỳnh cành giao"... Hàng năm, vào tiết cuối thu, may mắn thì khóm quỳnh đơm hoa. Từ lúc thấy quỳnh nhú nụ, bố tôi giao cho tôi theo dõi hàng ngày. Mỗi ngày, nụ quỳnh một lớn và nhú cao hơn. Hồi hộp lắm, mỗi khi chờ xem quỳnh nở. Hoa quỳnh thật lạ, chỉ nở vào đêm, và thường đêm có trăng sáng. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới hạ bút: "Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...". Ban chiều, quỳnh còn chúm chím, đầu nụ nứt hé lộ chút cánh trắng, tôi mừng lắm vội báo tin cho bố tôi. Tối ấy, xong công việc, sau bữa cơm tối, bố tôi cho bày chiếc bàn học của tôi và mấy chiếc ghế ra sân. Ngoài ấm trà, có chút hoa quả vườn nhà và mấy cái kẹo lạc. Cả nhà quây quần chờ xem quỳnh nở. Cho đỡ sốt ruột, bố tôi kể chuyện, những Tây Du Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... mấy chị em tôi mải nghe, quên cả hoa. Cho đến lúc bố tôi đột ngột dừng kể khi chuyện vào độ hấp dẫn nhất, chúng tôi còn ngơ ngác chưa hiểu sao lại vậy, thì bố tôi cười bảo: "Quỳnh nở rồi kìa! Mình xem hoa quỳnh cơ mà". Chúng tôi mời ở người. Quỳnh nở thật, cánh trắng nhị vàng nhạt, mỏng manh, tinh khiết và hương dịu nhẹ. Lúc ấy, nhớ tới câu thơ Kiều, tôi để ý, thấy cả một vòm trời bát ngát ánh trăng, dòng Ngân Hà mềm mại lấp lánh, vắt ngang bầu trời. Tôi ngợp đi và đêm ấy không tài nào ngủ được, không biết là do hưng phấn, hay do uống chén trà? Không ngủ, tôi nghĩ miên man, và chợt phát hiện thấy mình đổi khác... Tôi mơ màng nghĩ đến mấy đứa bạn gái đang tuổi phổng phao, ngực nhu nhú mầm...
         Quỳnh của mùa thu đã nở. Cả năm chờ đợi, duy có một lần, là lúc này đây. Nhanh lắm, đêm nở, sáng ra ánh trời, mọi sự huyền diệu ban đêm bay đi đâu hết. Quỳnh đã héo dần. Nhìn những cánh hoa quỳnh ỉu xìu trong nắng hanh, tư lự, tự hỏi lòng, sao loài hoa năm nở một lần, hiếm hoi, lại nhanh úa tàn làm vậy? Và tôi chợt sáng ra trong ý nghĩ, cũng như giấc mơ đêm qua ấy, bao hồi hộp bay bổng tuyệt vời của chút tình cảm luyến ái le lói, len lỏi, đầy hưng phấn đã vụt tan biến khi mình bừng tình dậy lúc ban mai. Vậy thì quỳnh chỉ là giấc mộng đêm thu mà thôi. Cũng như sau này, cuộc đời ban cho tôi bông quỳnh khác, nhưng rồi, vẫn như ngày thơ dại, mải nghe chuyện bố tôi kể, tôi lặn ngụp giữa những rối ren thị phi chuyện đời, nhãng đi và xảy mất phút bừng nở của quỳnh, để lúc tỉnh ra thì hoa không còn tươi nguyên nữa. Lại nhớ đến một bài thơ đời Đường của Đỗ Thu Nương "Khuyến quân mạc tích kim lũ y/ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì/ Hoa khai kham chiết trực tu chiết/ Mạc đãi vô hoa không chiết chi"... Thì ra, có một đạo lý, trời đất tạo hóa không cho phép sự tuyệt diệu dài lâu và vững bền, mà chỉ đến trong một chớp mắt, cho người ta cơ hội nắm bắt, còn ra, chỉ như ảo ảnh, lý tưởng về sự hoàn mỹ vĩnh hằng, để cho con người ta ý thức về sự gian khó, để khao khát sống, khao khát vươn lên, mà chẳng biết bao giờ đạt được !?...
          Những trận gió mùa đông bắc đầu tiên khe khẽ về vào lúc chiều hôm hay mãi nửa đêm. Cây vườn xào xạc. lắc cắc, rào rào những hạt mưa mau thưa, chợt có chợt không. Chỉ những ai tỉnh ngủ mới nhận biết được. Hoặc trong cơm mộng mị, thấy mưa rơi ở xứ mộng mơ xa lơ xa lắc nào đó. Sáng ra, rùng mình se lạnh, mới biết mùa đông đã bén mảng... Những loài cây mùa đông lác đác rụng lá. Mấy cây bàng ngoài bến sông cũng đã ngả màu lá sậm, chờ một ngày đỏ lựng. Chiều chiều, mẹ tôi hay quét lá vườn, mang về phơi để bếp đun dần. Phần lá vụn và rác rưởi còn lại, không đun được thì hun đống đốt thành đống rấm, khói lên thơm nồng, quện với sương chiều muộn phất phơ lên giời, tạo lên một quang cảnh hư ảo trời đất lẫn vào nhau ... Ngày bé, mỗi sâm sẩm tối, trong làn gió lạnh buốt, tôi mơ hồ thấy hồn tổ tiên nương bóng khói đống rấm mà về thăm con cháu... Liên tưởng, ớn mình, nhưng quả thực tôi không mấy sợ...
          Những tưởng, mùa đông thì chẳng mấy hoa. Song không, đây là thời điểm đám rau giữa vườn về già lại đơm sắc màu. Nổi bật, là những cây rau cải xanh, để già lấy hạt làm giống mùa sau, bừng lên sắc hoa vàng tươi rói. Hoa cải vàng rung rinh trong gió bắc khiến cả khu vườn mùa đông ngỡ ảm đạm lại tươi tắn phấp phới sắc màu, đủ sức lôi cuốn loài côn trùng hút mật đỡ lòng lúc ngày đông tháng giá... Và tôi lại thấy mẹ tôi cất giọng buồn buồn câu ca dao "Gió đưa cây cải về giời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Sao lại thể nhỉ? Tôi chẳng dám hỏi mẹ nữa, nhưng cứ âm âm trong suy nghĩ câu ca dao buồn ấy. Sau này, biết ăn rau cải sống, rồi ăn món mù-tạt làm từ dầu cải, thấy vị cay nồng xộc thẳng vào mũi lên tận óc, lại nghĩ, còn hơn cả vị đắng của rau răm ấy chứ? Thật chẵng rõ người xưa hàm ý gì qua câu ca dao ấy?...
         Chưa hết, có một loài hoa gần như không mấy ai để ý, chính là hoa thì là. Nhà trồng vạt thì là, để khi thi thoảng nấu riêu cá, hoặc khi xào khoai tây với tóp mỡ, gia vị thì là làm dậy mùi món ăn. Dùng không nhiều nhưng lai rai cả năm. Bỗng một ngày thì là già cũng trổ hoa, màu vàng nhạt, thả chút hương ngai ngái là lạ. Sắc hoa thì là gần gam màu nhưng không lẫn vào hoa cải. khiến mảnh vườn mùa đông bừng sáng và ấm áp hẳn lên. Rìa rãnh nước chảy còn có hàng hương nhu, cuối năm lấy để đun nước tắm tất niên. Hoa hương nhu gam sẫm, thui thủi nở và tàn chẳng ai hay, bởi giá trị hương thơm cúa nó vào hết thân và lá rồi... Sự có mặt của loài hoa này chì mang ý nghĩa vòng tuần hoàn sinh tồn mà thôi...
          Cuối đông, gần tết Nguyên đán, xen kẽ giữa những trận gió bấc rét là những ngày tiết trời ấm lên, gió nồm đưa hơi ẩm từ biển vào, mỗi sáng sớm và chiều muộn hay sương mù, rồi quá mù thành mưa, lất phất mưa phùn. Mẹ tôi hay dùng thành ngữ "quá mù ra mưa" để chỉ những gì đi quá giới hạn chấp nhận của nó trong cuộc sống... Vậy là tiết xuân vừa chớm. Những khoảng đất trống trong vườn, xen với rau cỏ, để ý thấy những cụm cây dại, hoa nhỏ trắng xanh, chẳng biết gọi tên là gì. Tôi hỏi mẹ, thì bà bảo là hoa tầm xuân và ngân nga câu ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em đi lấy chồng chẳng tiếc lắm sao?"... Sau này, tôi có tra cứu, hỏi han này nọ, nhằm kiếm tìm loài hoa tên tầm xuân, thì được mặc định cho cây trường xuân, là loại hoa hồng dây leo hàng rào, và giống này có nguồn gốc nước ngoài. Ngẫm nghĩ, thấy không phải vậy. cây hoa tầm xuân trong ca dao kia quyết không phải là loại trường xuân-hồng dây này. Tôi nghí, chiểu theo ca dao, dân gian. tầm xuân chỉ loại hoa cỏ dại nở hoang ruộng vườn vào lúc có mưa xuân, mà xưa kia các cô gái quê hay hái vào cái tuổi mộng mơ mới lớn, chớm biết yêu, nên tục gọi là tầm xuân mà thôi. Đơn giản vậy, mà cũng có vẻ phù hợp với văn cảnh câu ca dao "bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân" chứ?... 
        Mảnh vườn xưa, quanh năm bốn mùa hoa trái ấy không còn nguyên nữa. Sau khi bố tôi mất, mấy chị em chúng tôi, người về nhà chồng, người ra thành phố công tác. Tôi cũng hành phương Nam gần chục năm trời. Mẹ tôi theo ra thành phố chăm con cho chị gái tôi, bà nhượng nửa mảnh đất cho người bà con họ hàng. Phần còn lại bỏ hoang, ngôi nhà tranh tre tường đất xưa sinh dột nát, rồi bị phá bỏ đi. Gần đây, mấy chị em tôi hùn nhau, xây trên phần đất còn lại một ngôi thờ tự, trồng ít cây, hoa cho ấm bụi, đẹp nhà, nhưng chẳng thể như xưa... 
         Tôi nhớ lắm mảnh vườn xưa thương mến, trong ký ức bộn bề cuộc sống hiện tại. Nơi mà hàng năm, qua bốn mùa hoa trái, bố mẹ chỉ bảo, tôi đã nhận ra và dần thấu hiểu những triết lý nhân sinh. Và điều đó, đã dẫn dắt tôi ngang dọc đường đời...  ./.

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhận xét