Tập ký Thời gian không trở lại,

 


Lưu trữ tư liệu, 

@@@

 

 

 

Thời gian không trở lại,

 

bút ký - ký sự - tản văn

 

 

 

Bạn học, một thuở,...

 

Thứ bảy, cuối tuần, đầu tháng mười một. Tiết cuối thu đầu đông thật đẹp, với nắng vàng, gió nhẹ, se se lạnh... Tiết trời tuyệt vời như vậy, thật lý tưởng cho các cuộc tụ bạ, hội họp bạn bè hoặc du hý đâu đó. Anh bạn cùng ngõ lại là bạn học cũ với tôi, vui vẻ thông báo cuộc họp khóa học sinh cấp ba xưa. Vậy mà tôi không tham gia được, đơn giản bởi cơ quan tôi có một hội thảo quan trọng, trùng lịch, mà tôi lại giữ một vai trò không thể vắng mặt. Tiếc hùi hụi song đành chịu...

          Ngày ấy, tôi nhớ như in, vào đầu thu năm 1972, bắt đầu một năm học mới. Vùng quê tôi, Văn Lâm, Hưng Yên, chỉ cách Hà Nội chừng vài chục cây số, vừa qua trận lụt lịch sử do vỡ đê sông Hồng mùa mưa bão năm 1971 nên nghèo khó xác xơ. Cùng thời điểm, cuộc chiến tranh chống phá hoại bằng không quân của Mỹ Ngụy ra miền Bắc đang vào độ quyết liệt. Năm học mới đầu cấp 3 của chúng tôi, trong bối cảnh ấy, thật khó có gì so sánh bằng. Do có thành tích học tập tốt, đặc biệt năm học cuối cấp và kết quả kỳ thi tốt nghiệp cấp 2 ( như THCS bây giờ ), tôi được tuyển thẳng vào cấp 3 ( THPT hệ 10/10 ) mà không phải qua kỳ thi tuyển như phần lớn bạn bè khác. Trường cấp 3 Văn Lâm, là trường cấp 3 duy nhất của huyện đóng tại thị trấn Như Quỳnh, bên trục quốc lộ số 5, đường giao thông huyết mạch nối Hà Nội với cảng Hải Phòng, nên phải sơ tán về làng Đoan Khê, cùng huyện và cách trường cũ chừng dăm cây số. Nhà trường đành phải dựng vội chục phòng học tạm tranh tre nứa lá nơi khoảnh đất đầu thôn được địa phương cho mượn. cho dù thế thì vật liệu cũng đâu có sẵn, nên đành huy động cả thầy và trò đóng góp. Thế là tất cả học sinh của trường, lứa học sinh đầu cấp chúng tôi, khi làm thủ tục nhập học cũng phải đóng góp mỗi người một cây tre và một bó rơm rạ để làm trường. Với nguyên liệu như vậy, ở quê không thiếu, song cái khó là đám học trò còi cọc chúng tôi làm sao để mang những thứ đó từ nhà đến trường qua quãng đường đi dăm bảy cây số khi không có một phương tiện nào khả dĩ. Riêng tôi, sinh ra ở phố, do chiến tranh đến cấp 1 về sống ở quê, không biết việc đồng áng, chưa làm nặng bao giờ, như cách nói của người xưa là bạch diện thư sinh, làm sao mang nổi những thứ cồng kềnh ấy đến trường được đây? May mà, lũ oắt chúng tôi cũng nghĩ ra một cách, ấy là vận chuyển thủy, lợi dụng con mương cái chảy ngang  điểm trường và cắt qua làng xã quê tôi. Dăm đứa chúng tôi hè nhau buộc những cây tre ấy lại với nhau làm thành chiếc bè nhỏ, để các bó rơm rạ lên chiếc bè tự tạo ấy, dùng dây thừng buộc chia hai bên, rồi phân đôi người đi hai bên bờ mương kéo bè đi. Cách thức thật tuyệt vời, khoa học, đơn giản và dễ dàng. Khốn nỗi, hôm ấy trời mưa cả ngày, tiết mưa ngâu muộn, không to nhưng tầm tã. Đám oắt chúng tôi quang áo mưa, sột soạt, hì hục kéo bè, chân đất đạp cỏ ướt bờ mương mà kéo. Vất vả nhất là khi vận chuyển bộ từng ấy thứ nửa cây số từ bờ mương đến điểm trường. Nhưng rồi cũng qua, nộp vật liệu xong, đi bộ về nhà, trời đã sang chiều, cả bọn đói và ngấm lạnh đến lả cả người. Trong mấy dứa chúng tôi hôm ấy, không may có Q. bị cảm lạnh. Bình thường Q. là đứa nhanh nhẹn và mạnh bạo, tuy không lớn xác nhưng rắn rỏi, hiếu động, hay nghĩ ra nhiều chiêu trò nghịch ngợm. Những tưởng cảm lạnh xoàng xoàng vậy thôi, không ngờ hàn nhiễm vào trong, bệnh ngày một nặng, dây dưa mãi không khỏi, ngày một ngày hai sinh biến chứng, gia đình phải đưa ra bệnh viên Bạch Mai chữa chạy. Chưa một ngày nào đi học, Q. nằm viện ngoài Hà Nội và dính đúng vào những ngày Điện Biên Phủ trên không, Mỹ điên cuồng ném bom vào Hà Nội, bênh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên và nhiều trọng điểm khác của thủ đô bị dội bom thành đổ nát. Q. không dính gì bom đạn, nhưng khi xuất viện thì thành phê nhân, người quẳt lại, gần như mất thị lực, phải bỏ học hẳn. Sau đó, Q. sống lay lắt, đầu óc vẫn minh mẫn, nhưng cơ thể còi cọc, không hề phát triển, mãi như một cậu học sinh cấp 2, cứ vậy  đến vài chục năm sau. Đấy là một câu chuyện buồn...

          Trở lại chuyện năm học ấy, khai giảng muộn, trường lớp mái rạ, khung tre, vách đất, nhưng tinh thần học hành của thầy trò thì hăng hái lắm. Nhưng chỉ học được già tháng thì phải nghỉ học để tránh bom, chiến dịch oanh tạc khốc liệt nhất của không quân Mỹ vào Hà Nội và miền Bắc trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Sau này, cụm từ “ Hà Nội 12 ngày đêm “ đã trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất của quân dân Hà Nội chống trả cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B-52 của quân đội Mỹ, đồng thời cũng là tên một bộ phim tài liệu của Đạo diễn điện ảnh-Nghệ sĩ nhân dân Bùi Đình Hạc phản ánh hiện thực trận chiến oanh liệt này. Chính 12 ngày đêm ác liệt ấy ( từ ngày 18 đến ngày 30 tháng 12 năm 1972 ), với những tổn thất nặng nề về mọi phương diện, chính phủ Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam, chấm dứt chiến tranh ở miền Bắc.  Vậy là, những cô cậu học sinh đầu cấp 3 chúng tôi năm ấy, đã cùng mọi người đi qua cuộc chiến tranh...

          Sau những ngày tháng Chạp năm 1972 lịch sử ấy, học sinh đi học lại. Tuy không còn phải lo máy bay ném bom, nhưng một nửa đất nước vẫn còn chiến tranh, nên tinh thần học tập để thành tài, sau này cống hiến cho sự nghiệp giải phóng thống nhất đất nước và xây dựng tổ quốc luôn ngự trong tâm trí chúng tôi. Trường và lớp tôi, được đón những bạn học sinh từ Hà Nội sơn tán về học cùng như Tâm, Tiến, Ngọc... đáy lên tinh thần thi đua học tập tốt. Cùng đó, một số thầy cô giáo theo chân học sinh sơ tán từ các trường của Hà Nội cũng về đây giảng dạy. Tôi nhớ lắm những thầy cô dạy giỏi ngày ấy, như cô Hòa dạy Vật lý, thầy Đức dạy Toán, thầy Lê Thường dạy văn ... Trong số đó, thầy Lê Thường đạy văn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi để sau này tôi theo nghiệp báo chí, văn chương...

          Năm học gian khó nhất trong đời học sinh phổ thông của tôi ( niên khóa 1972-1973 ) đã đi qua và để lại những dấu ấn không thể phai mờ. Năm học sau, ngôi trường tạm ấy không về lại cơ sở cũ mà di dời đến một địa mới và được xây dựng kiên cố đến tận nay. Tôi chuyển sang học trường cấp 3 Bần Yên Nhân, xa thầy cô và bạn bè cũ. Một số bạn học cùng lớp và nhiều thày cô giáo về lại Hà Nội...

          Sau này phương trưởng, với đám bạn học cùng quê thì mỗi dịp lễ tết về quê thi thoảng gặp nhau. Các bạn ở Hà Nội sơ tán về ngày ấy thì hầu như mất dấu. Mươi năm trở lại đây, thường cứ vào dịp ngày Hiến chương nhà giáo ( 20.11 ), các bạn cùng lớp, cùng khóa ngày ấy lại tổ chức gặp mặt nhau, tuy không đều nhưng đây là cơ hội để chúng tôi gặp gỡ nhau, cùng nhớ về một thuở... Chúng tôi hỏi thăm, lần mò tìm được một số thấy giáo cũ ngày ấy như thầy Đức, thầy Lê Thường, mời các thầy cùng về lại trường cũ chung vui. Mùa thu này, đã qua 40 năm ngày tốt nghiệp phổ thông, mọi người lại hẹn hò nhau. Vậy mà mình lỡ mất. Hẳn còn có nhiều bạn bè học sinh ngày ấy, vì lý do nào đó, cũng vắng mặt trong dịp vui trùng phùng sau gần nửa thế kỷ ?...

          Tự lòng mình an ủi, có hề hấn chi đâu, khi chúng mình luôn nhớ và nghĩ tốt về nhau, phải vậy không, các bạn học của tôi một thuở ?!...

 

Bâng lâng dạo bước vườn Bùi.

 

 

          Không hiểu sao, sau hơn ba mươi năm làm báo chuyên nghiệp, thêm nữa, tự thân học đòi theo nghiệp văn chương thơ phú, vậy mà cho đến tận bây giờ, tôi mới tìm về thăm Vườn Bùi, một địa chỉ văn chương nổi tiếng xứ Bắc ?...

          Đúng ra, phải gọi là Từ đường của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Tiếng tăm về Vườn Bùi, tôi đã nghe từ lâu. Lại cũng đã từng đọc một số bài viết, mà ở đó, có lý giải việc tại sao lại gọi từ đường này là Vườn Bùi, kể cả việc tranh luận cắt nghĩa bức đại tự đắp nổi trên cổng vào Vườn BùiMôn Tử Môn. Rằng, cụ Nguyễn Khuyến vốn gốc gác Can Lộc (Hà Tĩnh), di cư ra Yên Đổ (Bình Lục, Hà Nam) trước đó cả trăm năm, và người xứ Nghệ -Tĩnh gọi cây vối là Bùi, nên cụ Nguyễn Khuyến lấy gốc vối già trong vườn nhà mình, gọi tên Vườn Bùi, nhằm nhắc nhở con cháu sau này không được quên gốc rễ mình từ đâu mà ra; Nữa là, việc cắt nghĩa bức đại tự trên cổng vào Vườn Bùi, rằng đó là nhằm ám chỉ và có ý nhắc nhở các học trò, từng học chữ nghĩa của Thày (ở đây là Nguyễn Khuyến), sau này, nếu có đỗ đạt, làm quan to, làm nên công trạng gì thì cũng không được quên công ơn Thày dạy dỗ và khi vào viếng thăm từ đường của Thày thì cũng phải xuống ngựa, bỏ võng lọng, chui cổng mà vào... Đại loại thâm ý là như vậy.

          Thực lòng, đích chuyến đi này của tôi và bạn đồng nghiệp-nhà văn Nguyễn Trọng Huân là miền Tây xứ Thanh. Khi khởi hành, mấy cậu nhà báo trẻ tháp từng mới cho biết, rằng trên đường vào, sẽ ghé Bình Lục thăm tử đường nhà cụ Nguyễn Khuyến. Nghe vậy, lòng mừng khấp khởi. Từ Phủ Lý, một người quen, làm công tác bảo tồn di tích, di sản văn hóa của tỉnh Hà Nam đón và dẫn đường cho chúng tôi.

          Bắt gặp cổng làng Vị Hạ, rồi đình làng cổ mới được tu bổ, cho thấy công việc bảo tồn bảo tàng di sản văn hóa ở đây khá bài bản. Đường làng, ngõ gạch quanh co dẫn lối vào, với tấm biển chỉ nhà thờ dòng họ Nguyễn Tông. Đến cổng vào từ đường, thấy một tốp thợ đang chuẩn bị gạch, cát, sỏi, hình như đang có việc tu sửa từ đường thì phải. Theo cổng Môn Tử Môn mà vào, lại ngẫm nghĩ về thâm ý nhắc nhở học trò của cụ Nguyễn Khuyến xưa. Vì được hẹn trước, ông Nguyễn Thanh Tùng, người hiện đang trông coi Vườn Bùi, đón tiếp và hướng dẫn chúng tôi tham quan. Ông tự giới thiệu, rằng mình là hậu duệ đời thứ 5 của cụ Tam nguyên Yên Đổ. Khi thuyết minh, ông Tùng tỏ ra thông thạo và nói khá nhanh, nhưng không quên nhắc các nhà báo chúng tôi, rằng việc này việc kia, chỗ này chỗ nọ bị hiểu nhầm, viết nhầm, nên chúng tôi cần biết và viết cho đúng, đặng cải chính việc bị hiểu sai, viết sai...

          Theo chân ông Tùng, nghe ông nói, mà người tôi cứ bâng lâng, mỗi ngắm nhìn nơi này, chỗ nọ, lòng tự hỏi và tưởng tượng ra hình bóng cụ lưu dấu nơi đây từ hơn trăm năm trước...

          Truyền thống khoa cử của dòng họ cụ Tam nguyên trên đất Yên Đổ là bắt nguồn từ cụ Nguyễn Tông Mại. Trong thuyết minh của mình, ông Nguyễn Thanh Tùng hay nhắc đến cụ tổ khời nghiệp khoa cử của dòng họ mình là Nguyễn Mại. Tôi xin nhấn mạnh ở đây, người đó tên húy đầy đủ là Nguyễn Tông Mại. Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 của nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi (NXB Văn học, 2006) có chép về khoa thi Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736), đại ý là:  Nguyễn Tông Mại, sinh năm 1708, không rõ năm mất, quê Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam, 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn, niên  hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) , đời Lê Ý Tông, làm quan đến Hàn lâm viện Đãi chế. Sở dĩ phải nói cụ thể như vậy, để phân biệt Nguyễn Tông Mại (cũng được gọi là Nguyễn Mại) với một Nguyễn Mại khác có thật trong lịch sử ( Ấy là: Nguyễn Mại, sinh năm 1655, không rõ năm mất, quê Ninh Xá, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Hoàng giáp năm 1691, văn hay võ giỏi, từng làm Đốc trấn Cao Bằng, rồi Trấn thủ Sơn Tây, khi mất được phong Lễ Bộ Thượng thư, tước Quận công... –theo sách Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam do Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Quýnh chủ biên).

          Trong hậu cung Từ đường, có tượng cụ Nguyễn Khuyến tay cầm gậy trúc và được giải thích rằng, đương thời, Nguyễn Hoan, con trai cụ Nguyễn Khuyến, khi đi thi cử, dọc đường gặp một ông cụ tặng cho cây gậy chống và nói rằng, biết Nguyễn Hoan có cha già nên bảo ông nhận về cho cha mình chống. Chuyện kể là giai thoại và ít nhiều mang yếu tố huyền bí. Về Nguyễn Hoan, con trai cụ Nguyễn Khuyến cùng là người khoa bảng, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 có ghi chép việc đỗ đạt và làm quan của Nguyễn Hoan, như sau: “ Nguyễn Hoan, 1858- ?, người xã Yên Đổ, huyện Bình Lục... nay là thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Con Nguyễn Khuyến, cháu huyền tôn Nguyễn Mại. Sinh năm Mậu Ngọ, cử nhân khoa Giáp Thân (1884), 32 tuổi đỗ Phó bảng khoa Kỷ Sửu Thành Thái 1 (1889). Tri phủ Lý Nhân, sau cáo quan về nghỉ “.

          Như vậy, truyền thống khoa cử của dòng họ Nguyễn Tông trên đất Yên Đổ, Bình Lục kéo dài gần một trăm năn mươi năm, bắt đầu từ Nguyễn Tông Mại (1736) đến Nguyễn Hoan (1889). Nguyễn Khuyến là khúc giữa, và đỗ đạt cao nhất.

          Tha thẩn theo chân ông Nguyễn Thanh Tùng, biết thêm, hiểu thêm đôi câu đối do nhà khoa bảng yêu nước Nguyễn Thượng Hiền tặng cụ Nguyến Khuyến, rồi hàm ý sâu xa những đôi câu đối chính tay cụ Tam Nguyến thủ bút nơi hậu đường; rồi nữa là tấm biển mà vua Tự Đức ban tặng “Ân tứ vinh quy”, “Nhị giáp tiến sĩ”, và chiếc bình hương thờ cúng... Vườn ngoài, ao thu với kết cấu hai phần, ao dẫn (hình bút lông), ao chính (hình nghiên mực) theo thuyết phong thủy trấn trạch cho chủ nhân mệnh Hỏa... Ông Nguyễn Thanh Tùng cũng rất thông thạo, khi bàn về chữ nghĩa trong ba bài thơ Thu của cụ Tam Nguyên, theo ông, ví như: tựa gối ôm cần lâu chẳng được, thay vị tựa gối buông cần lâu chẳng được, và nữa, lá vàng trước ngõ sẽ đưa vèo, thay vì lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo... Loanh quanh, nơi này góc nọ, cảm giác như Ông cụ phảng phất đâu đây ngay bên mình vậy. Trời mưa nhiều, cây cối hoa lá tốt tươi. Nắng lên, tia sáng lỗ đỗ, lối gạch rêu xanh rờn trơn trượt. Ngẩn ngơ dừng trước tấm bia đá, nhẩm đọc bài Thu điếu được khắc hai mặt bằng tiếng Việt và tiếng Anh, càng thêm khâm phục cụ Tam Nguyến tinh tế trong quan sát và điêu luyện trong dùng từ...

          Dùng dằng chẳng muốn rời chân, nhưng không thể nấn ná, vì lịch trình còn dài. Khi tạm biệt, ông Nguyễn Thanh Tùng vẫn không quên lưu ý chúng tôi những gì âm tâm đắc.

          Lại quanh co đường làng, mà nhớ câu thơ cụ Tam nguyên “Lối trúc quanh co khách vắng teo”. Ao đình nước trong veo, mấy khóm hoa súng nở trên đám lá dập dềnh, như đưa ta về lại cảnh sắc nơi đây hơn trăm năm trước, khi cụ Tam nguyên dạo gót, ngâm vịnh ...

          Và trong tôi, một tứ thơ đã nảy: "Bâng lâng dạo bước vườn Bùi,/ hơn trăm năm những buồn vui, một thời...”.

 

Chỉ hơn 01,...

  

                                  

Vậy là, Seagames 29 đã kết thúc. Đoàn thể thao Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3 (sau Malaysia và Thái Lan), với tổng số huy giành được là 168, trong đó, 58 Vàng, 50 Bạc và 60 Đồng.

          Theo quy định chung về cách tính thành tích để xếp hạng ở Seagames, theo thứ tự là số huy chương Vàng, Bạc, Đồng đạt được. Và như vậy, cứ lấy số huy chương Vàng ra mà so, đoàn nào cao hơn thì xếp trên; nếu số Vàng bằng nhau thì so Bạc; nếu Vàng và Bạc bằng nhau thì so Đồng.

          Ở Seagames 29 này, Malaysia với lợi thế chủ nhà, có nhiều bộ môn vốn là thế mạnh của họ được đưa vào thi đấu, nên đã bỏ xa các đoàn khác bằng số huy chương Vàng cao ngất ngưởng là 145 (tổng số huy chương là 323). Kế sau, xếp vị trí thứ 2 là Thái Lan với 72 huy chương Vàng (tổng số là 246), bởi họ thực sự mạnh và điều đó đã từng được khẳng định trong nhiều năm nay. Còn Việt Nam chúng ta, xét về thực lực, ngang bằng với IndonesiaSingapore; có chăng, nhỉnh hơn chút xíu khi so PhilippinesMyanmar; còn Lào, Campuchia, Brunei và Timor Laste thì chẳng tính làm gì. Nhìn lại bảng thành tích, sở dĩ chúng ta xếp thứ 3, ngay trên Singapore là bởi ta hơn họ vừa đủ 01 huy chương Vàng (Singapore: 57 Vàng,  58 Bạc, 73 Đồng với tổng số huy chương là 188).

          Rõ ràng, có vẻ như, Singapore mạnh hơn ta khi so về tổng số, cùng số huy chương Bạc và Đồng đạt được. Nhưng... cái nhưng luôn luôn đúng, ấy là họ kém ta chỉ 01 huy chương Vàng, nên đành ngậm ngùi đứng ngay sau ta mà thôi. Bao công sức, bao mổ hôi nước mắt trong luyện tập và thi đấu, vậy mà, hơn bao nhiêu cũng chưa đủ, khi chỉ kém Một (01), đành tụt hạng.

          Vậy nên, ở đây, vai trò cá nhân hay mỗi cá nhân trong tập thể khi thi đấu, dù là đối kháng hay biểu diễn, là vô cùng quan trọng và có tính chất quyết định ! Các nhà quản lý và huấn luyện viên có tài giỏi bao nhiêu đi chăng nữa, song nếu như không có sự nỗ lực mang tính cá nhân, thì cũng là vô ích !...

          Xin viện dẫn một số trường hợp để chúng ta cùng suy ngẫm:

          Nếu như, Nguyễn Thị Ánh Viên, sau thất bại đầu tiên, mà sớm suy sụp tinh thần, thì đã không có một Ánh Viên bùng nổ, để rồi liên tiếp gặt hái được huy chương Vàng; hay như, khi đã đạt được 07 Vàng rồi, cô không nỗ lực để có thêm 01 Vàng nữa, thì Việt Nam sẽ không có con số 58 huy chương Vàng kia...

          Nếu như, không có một Nguyễn Anh Tú môn bóng bàn bình tĩnh, chắt chiu từng điểm thắng, sau khi Đinh Quang Linh thất bại nhanh chóng trước Gao Ninh- một tay vợt gạo cội của làng bóng bàn thế giới và đội tuyển Singapore, thì đội bóng bàn nam Việt Nam làm sao có cuộc lật đổ ngoạn mục trước đội tuyển bóng bàn nam Singapore, để giành tấm huy chương Vàng danh giá ?...

          Nếu như, mỗi cô gái trong đội tuyển bóng đá nữ của ta không cố gắng và phối hợp ăn ý, thì làm sao có thể ghi đến 6 bàn và giữ sạch lưới, dư hẳn 01 bàn thắng (trong khi chỉ cần 05 bàn) để hơn người Thái về hiệu số bàn thắng, đặng giành huy chương Vàng, góp phần đưa đoàn thể thao Việt Nam đến con số 58 ?...

          Nếu như, không có một cú cử ta chứa đựng sự nỗ lực phi thường và khát khao chiến thắng cháy bỏng của Trịnh Văn Vinh, thì làm sao anh có thể chiến thắng vận động viên của Indonesia khi quyết định tăng thêm 10 kg nữa vào tạ và nếu cử đạt thì cũng chỉ nhiều hơn 01 kg, trong khi vận động viên kia đã hết cơ hội ? Đây thực sự là một quyết định đúng đắn, táo bạo, nên đã lấy thêm được một viên gạch lát đường đi đến cột đích 58!...

          Nếu như, không có một Nguyễn Hữu Kim Sơn, vận động viên môn bơi, mới chỉ 15 tuổi và lần đầu tham dự Seagames, đã bứt lên về đích đầu tiên ở cự ly bơi 400 m hỗn hợp, giành huy chương Vàng, đồng thời phá kỷ lục Seagames tồn tại nhiều năm nay, thì ta đâu có con số 58 kia ?...

          Nếu như, không có một Lê Tú Chinh xuất sắc khẳng định vị thế tuyệt đối trên đường chạy cự ly ngắn (100m và 200m), cự ly danh giá nhất của bộ môn điền kinh, và đã xứng đáng với sự phong tặng danh hiệu “nữ hoàng tốc độ”, thì không biết chúng ta dừng lại ở cột mốc nào ?...

          Nếu như, không có sự nỗ lực có thể gọi là cuối cùng của một Nguyễn Thị Như Hoa, vận động viên môn kiếm 3 cạnh, người mẹ của hai đứa con nhỏ, xem Seagames 29 này là điểm cuối sự nghiệp thi đấu thể thao của mình, với niềm tin Vàng ?...

          Còn nhiều lắm, sự nỗ lực của hết thảy những người giành được huy chương, dù là màu gì, và cả những người không giành được huy chương nào, những huấn luyện viên, những người làm công việc quản lý thể thao v.v... Ngay cả những thất bại, mà điển hình nhất là trưởng hợp của vận động viên môn bắn súng Hoàng Xuân Vinh-nhà vô địch Olympic, cũng  là hữu ích khi cho chúng ta bài học chung về sức người là vô hạn và hữu hạn, về bản lĩnh và áp lực tâm lý thành tích khi thi đấu !?

          Chỉ hơn 01, mà chứa đựng bao công sức, mồ hôi và nước mắt, nỗi thất vọng và nụ cười mang niềm vui chiến thắng...

          Và hơn nữa, cho mỗi người chúng ta những bài học, sự chiêm nghiệm, suy ngẫm bên ngoài thể thao !...

 

 

Chiều Ghềnh Ráng.

 

           

Đấy là một buổi chiều giữa mùa hè miền Trung đầy nắng gió. Một buổi chiều đầy ăm ắp những hình ảnh về cảnh sắc thiên nhiên nơi Ghềnh Ráng và hình bóng, thanh điệu từ những câu thơ của Hàn Mặc Tử âm âm từ những trang sách hiện hình. Không hiểu sao, bước chân trên mảnh đất gần thế kỷ nay bao dung những con người bị cuộc sống ghẻ lạnh, chối bỏ, song đầu tôi lại cứ lởn vởn những câu thơ mượt mà êm ái bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Người thơ “ Sao anh không về chơi thôn Vỹ/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc ...”. No con mắt nhìn, đầy hình trong máy ảnh, nhẩm bụng sẽ viết một cái gì đấy. Vậy mà...

          Đầu năm 2008, vào công tác dài kỳ ở Miền Trung, tôi định bụng, chuyến công tác đầu tiên trong địa bàn mình phụ trách ( 9 tỉnh duyên hải miền Trung, từ Quảng Bình đến Khánh Hòa ), sẽ “ hành phương Nam “ và tạm dừng chân Bình Định. Thâm tâm, tôi muốn đến hai địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Bình Định mà mình chưa hề đặt chân, đó là Quy Hòa-Ghềnh Ráng và Tây Sơn.

          Thành phố Quy Nhơn như nhoài ra biển, mà  thế lao ấy là con đường dẫn lên Quy Hòa, Ghềnh Ráng. Nắng vẫn nắng, nhưng gió biển lồng lộng, làm không khí dễ chịu hẳn. Đường vào Quy Hòa lượn quanh co giữa đồi núi và biển, đất khô cằn nhưng đó đây vẫn có những loại cây hoang, mà giờ đây đã dần hiếm, bởi người ta đang săn tìm đưa về trồng vườn nhà thành cây cảnh. Núi, biển và cây dại nơi đây, đó là những thứ rất đỗi thân thuộc với những người không may bị mắc chứng bệnh phong hủi từ nhiều chục năm nay, kể cả Hàn Mặc Tử. Bóng dáng khu trại Quy Hòa hiện ra sau khúc quanh. Dù đã được nghe kể, được đọc những bài viết, được xem những hình ảnh về khu trại này từ lâu lắm rồi, song tôi vẫn có cảm giác tò mò.

          Nhiều thân phận người bệnh ở khu trại phong hủi này, nghề làm báo đã cho tôi tiếp cận họ qua nhiều phương thức khác nhau, nên khi đặt chân đến đây, thứ tôi mong muốn không phải là tìm gặp người này, kẻ nọ trong số họ để hỏi han những câu hỏi không nên hỏi, mà để cảm nhận bầu không khi đặc biệt nơi đây. Cũng mặt đất, cây cỏ, núi non, bầu trời và biển cả như vô vàn nơi khác, song con người thì lại mang thân phận khác. Căn bệnh quái ác mà họ mang trên mình, dù đã được khoa học chứng mình, giái đáp, song vẫn không dễ để cộng đồng gần gũi chia sẻ, bởi định kiến bao đời ăn sâu bám rễ bằng sự kỳ thị, e dè... Tha thẩn ngắm vườn tượng bên ngoài, mà đầu tôi cứ ong ong những bài thơ điên, những câu thơ kỳ dị của Hàn thi sĩ một thuở...

          Quay trở ra, lên Ghềnh Ráng. Một không gian Hàn Mặc Tử đậm đặc, từ ngôi mộ thi nhân đến nhà lưu niệm, rồi những bức ảnh Hàn thi sĩ, và ảnh những người đẹp liên quan đến đời thơ của thi nhân... Tất thảy đều gợi nhớ về người thi sĩ tài hoa bạc mệnh nổi tiếng của làng thi ca Việt. Thử hỏi, nếu thi nhân không bị mắc chứng phong hủi, mà lại thành đạt sánh bên các người đẹp đến đầu bạc răng long, thì biết đâu, lại chỉ làm ra những bài thơ ve vuốt nịnh đầm, chứ chắc gì, Hàn thi sĩ có được những bài thơ hay, những tứ thơ và hình bóng kinh dị trong mỗi bài thơ để sống mãi với nhân gian ?... Ôi, thật là một giả thiết không nên có ?!...

          Tôi tìm ra bờ biển, tương truyền, nơi xưa cũ, Hàn thi sĩ hay ngồi một mình nhìn ra biển, ngóng trông chờ điều kỳ diệu đến với mình. Nhìn ngắm bốn bề không gian. Chỉ cách khu nhà lưu niệm có một quãng ngắn khúc quanh, mà ở đây yên tĩnh lạ. Chỉ có tiếng sóng và tiếng gió. Kìa đá cuội. Những hòn cuội to nhỏ đủ cỡ rải rác khắp bờ, hẳn là có từ thời Hàn. Chiều muộn nghiêng hẳn về phía Tây, hắt những vạt nắng quái đan phía trên những con thuyền xa mờ tít ngoài vịnh. Giơ ống kính, thu không gian vào tầm nhìn. Bầu trời nghiêng, biển nghiêng, thành phố nghiêng, và nỗi nhớ cũng nghiêng chao về cố thi nhân ...

          Gần đây, tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa có chuyến công tác xuyên Việt. Dừng chân ở Quy Nhơn vào chiều đầu hạ. Bữa tiệc chiêu đãi tối được đặt tại nhà hàng ngay trên Ghềnh Ráng. Trần Đăng Khoa hình như lần đầu đến Ghềnh Ráng, nên anh có vẻ bỡ ngỡ với cảnh sắc nơi đây. Chúng tôi lại cùng nhau ngắm hoàng hôn buông trên biển, ngắm những viên sỏi bên bờ vịnh. Khoa tha thẩn, khẽ đọc mấy câu thơ của Hàn mà anh nhớ.

          Hai thi nhân lớn của làng thi ca Việt. Chẳng có gì để so sánh hay liên tưởng về thi ca, bởi họ thuộc về hai thời đại khác nhau. Có chăng, cùng tâm hồn Việt. Ngoài kia, biển trời Ghềnh Ráng đã sẫm một màu đêm ...

         

 

 

Chớm rét

 

 

Năm nay rét muộn. Mãi cuối tháng Mười âm lịch mới có những cơn gió bấc đầu mùa. Ngoài chút mưa lắc cắc, đủ để ướt lá, thấm mặt đường và chút xao động khi gió về, còn lại chưa đủ để xua đi cái nắng nóng kéo dài từ hè sang tận cuối thu...

Mấy nhà thơ sốt ruột, thi nhau làm thơ ca ngợi mùa thu đến, nào những lá thu vàng, những heo may ngọt vào mía, mọng nước vào bưởi, vào hồng, se lạnh vào đêm khuya, sương mù buổi sớm, thì mùa thu vẫn trốn ở nơi đâu... Rồi bão, rồi mưa ầm ào đâu đó, ngập lụt, lũ dâng ở đâu đó, xứ Bắc vẫn nóng nực như hè... Thời tiết thay đổi đến lạ, như chẳng màng gì đến quy luật muôn thuở... Thiên nhiên là vậy, đầy sự bất thường, xã hội con người cũng dường như cộng hưởng... Nóng chuyện biển khơi, nóng chuyện người di cư, nóng chuyện EU tan rã trước sự ly khai của quốc đảo Anh, nóng chuyện tranh cử tổng thống ở Mỹ... Có lẽ, từ người mà ra cả. Thực ra, thiên nhiên luôn vô sự, việc đúng sai, được thua, thuận nghịch là ở con người?...

Rồi thì gió mùa đông bắc cũng về. Chỉ những ai thức khuya dậy sớm mới nhận thấy sự thay đổi của thời tiết. Ngày xưa, Lưu Vũ Tích, một thi nhân đời Đường, cảm thu mà viết trong bài thơ Thu phong dẫn: "Triêu lai nhập đình thụ/ Cô khách tối tiên văn" ( có nghĩa là: Gió sớm se lạnh lùa vào cổ thụ trước sân/ ( Ta ) khách cô đơn là người biết đầu tiên,) Tinh tế thay và nhậy cảm đến nhường nào.

Sớm gió mùa, chớm rét. Trở dậy, trong nhà chỉ thấy se se. Lúc ra đường mới thấy gió, thấy lạnh. Mùa đông đã về thật rồi.

Cánh phụ nữ, mới hôm trước còn váy ngắn, tay trần, hôm sau trang phục đã "kín cổng cao tường". Nhưng rồi, chớm rét thôi, đâu đến mức lạnh co người. Quen quen một chút, lại muốn váy áo nõn nường, tung tẩy, dường như định níu thu ...

Ừ, chớm rét thôi mà, ngại chi đâu " Người tay trần áo mỏng/ Vờ như chưa có đông " !...

 

Chuyện cũ hâm lại,

hình như, chẳng để làm gì

 

 

Cuối xuân năm nay ( Đinh Dậu 2017 ), đầu tháng ba âm lịch, khi hoa gạo đã chớp chới đỏ nơi thôn dã, trên những triền thung vắng, sườn non miền Tây Bắc, Việt Bắc, báo hiệu hạ chớm sang, rét nàng Bân đã về đúng hẹn. Không những thế, suốt tháng ba, cứ dăm bữa, nửa tháng, lại một đợt gió mùa đông bắc tràn về. Lạnh vừa, song cũng đủ làm lòng người xao xuyến, nhất là sau những đợt nắng nóng xen kẽ. Tưởng hè đã sang hẳn, thì ngày đầu của tháng tư âm lịch, gió mùa đông bắc lại vê, chẳng hiểu đã là chót hay chưa? Vẫn biết, năm nay nhuận tháng sáu, tiết có muộn đôi chút, song quả là, cả mùa đông qua, lạnh lào khào vậy thôi, chứ đâu có những đợt rét đậm như mọi năm. Có người đùa bảo, nàng Bân giờ khác xưa rồi, chẳng mấy thương chồng, mà cũng đâu có thèm đan áo, vậy mà cứ trở đi trở lại nhiều thế, là sao? Câu nói vui thôi, nhưng ngẫm nghĩ, tự thấy, hình như, đã có những biến đổi gì đó, lệch với quy luật thuần túy hình thành bao ngàn năm rồi, cả về tính chất thiên nhiên và ý thức xã hội nữa ?...

Trước hết, là những thay đổi, lệch chuẩn, thậm chí cực đoan về khí hậu thời tiết... Hai mươi bốn tiểu tiết theo âm lịch nay không mấy đúng, chúng chỉ hiển hiện trong các quyển lịch treo tường mà thôi. Sự phát triển quá nóng của các quốc gia mới nổi, khó kiểm soát, đã làm ô nhiễm mặt đất, các dòng sông, cả đại dương bao la và bầu khí quyển bao bọc quanh trái đất. Tất cả làm tự nhiên bị dồn nén và nổi giận. Mà một khi thiên nhiên nổi giận thì hậu họa khôn lường... Rét muộn, rét tháng ba, rét nàng Bân theo cách gọi dân gian, chỉ là một biểu hiện cụ thể của thời tiết tự nhiên mang tính quy luật thôi. Nó ổn định, tức tự nhiên ổn định, chưa có gì phải lo, nó bất thường là tự nhiên bất thường...

Còn ngẫm về khía cạnh xã hội, từng ngày, ngấm ngầm, nhiều giá trị, quy chuẩn, đạo đức xã hội cũ đang dần mai một, trong khi những giá trị, quy chuẩn mới chưa kịp hình thành, hoặc còn chưa được công nhận, và mặc nhiên, hàng ngày, chúng tác động vào mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng ... tạo ra những hệ lụy, ảnh hưởng trực tiếp đến các mối quan hệ gia đình, xã hội, nhiều khi theo chiều hướng tiêu cực. Câu chuyện Nàng Bân xưa và nay khác nhau xa, thực ra chỉ là một cách nói, một biểu đạt của quan hệ đôi lứa, gia đình trong bối cảnh xã hội đa chiều, đang thay đổi nhanh chóng. Nếu trước đây, mối quan hệ này là sự tương tác trực tiếp, nếu ai đó muốn can thiệp vào, thì nay, mọi việc trở nên đơn giản, dễ dàng hơn, trước hết và gián tiếp, bởi sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, với sự hình thành của mạng xã hội. Giờ đây, giữa hai cá nhân ở xa cách cả một đại dương, cả nửa vòng trái đất, lại có thể tương tác với nhau trong nháy qua một cú chạm mà thôi,...

Bỗng nhiên, tôi nhớ lại ngày xưa, khi mình còn thơ bé. Tôi đã từng hỏi mẹ, khi thấy người lẩm bẩm cấu cửa miệng " rét tháng ba, bà già chết cống", lúc thời tiết tưởng đã sang hè, trời nóng bức là thế, lại đột ngột chuyển mưa rét. Ngày ấy, tôi nghĩ, rét tháng ba chắc phải rét lắm, rét đậm, rét căm căm thì bà già mới chết cóng chứ. Nghe mẹ tôi cắt nghĩa rồi, tôi mới hiểu, thực ra, rét tháng ba âm lịch ( tức Rét Nàng Bân ), cùng với đó là câu chuyện về nàng Bân thương chồng đan áo rét muộn, khi hạ đã sang, bèn cầu xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trời làm rét để chồng nàng được mặc áo rét nàng đan ấy, chỉ là huyền thoại mà con người tưởng tượng ra, để chỉ một tiết đoạn thời gian, một quy luận của thời tiết. Và thường nó đến đột ngột, khi người ta chủ quan, hoặc đã cất kỹ quần áo mùa đông, hoặc có đi đâu xa hay quyên mang phòng quần áo rét...

Nhân đợt rét muộn đầu tháng tư âm lịch này, giữa lúc cả châu Âu đang tiết cuối xuân ấm áp, bỗng dưng tuyết phủ trắng trời trắng đất, ngồi buồn, mang chuyện cũ ra hâm lại. Hình như, cũng chẳng để làm gì !...

 

 

 

Đầu năm đi lễ chùa.

 

1. Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở...  Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không dịch bệnh...Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi. Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền công đức ( gọi là tiền giọt dầu, thẻ hương ), nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay. Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa, xa gần có cả. Năm nay, mấy ngày tết, cũng loanh quanh đôi chùa phủ trong nội thành, thứ bảy rồi, mới đi xa hơn, thăm vãn chùa Tây Phương ( thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây cũ .

Đây là một ngôi chùa nổi tiếng xứ Bắc. thuộc đất thôn Yên, xã Thạch Xá. Tương truyền, bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 6-7, và trải qua rất nhiều lần trùng tu. Tuy nhiên, dấu ấn được ghi chép về quy mô, kiến trúc của chùa thì mãi đến vào thế đầu kỷ 17 thời nhà Mạc, với tên chữ là Sùng Phúc tự . Kế đó, là vào năm 1632, dưới triều vua Lê Thần Tông, chùa được xây dựng với quy mô 3 gian thượng điện, cùng hậu cung, hành lang tới 20 gian. Tiếp nữa, là vào các năm 1657-1682, chúa Trịnh Tạc cho phá bỏ chùa cũ, xây chùa mới cùng tam quan. Và cuối cùng, là dưới triều Tây Sơn, năm 1794, chùa được đại tu, đổi tên thành Tây Phương cổ tự, và dáng dấp kiến trúc còn giữ đến ngày nay. Thong thả từng bậc đá ong ướt át trong làn mưa phùn mùa xuân, qua 239 bậc mới tới được cổng chùa. Cổng chính, tấm biển chữ Hán Tây Phương cổ tự , mở ra bên trong một không gian chùa, với kiến trúc được đánh giá là tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo mỹ thuật thời Hậu Lê. Lần lần, tiền điện đến hậu điện, được thấy các pho tượng Phật cổ bằng chất liệu gỗ mít sơn thếp từ mấy thế kỷ trước, đặc biệt là các vị La Hán, đã đi vào thơ ca Việt qua bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của nhà thơ Huy Cận từ năm 1960: Các vị La Hán chùa Tây Phương/ Tôi đến thăm về lòng vấn vương/ Há chẳng phải đây là xứ Phật,/ Mà sao ai nấy mặt đau thương ? ... Cha ông yêu mến thời xưa cũ / Trần trụi đau thương bỗng hóa gần/ Những bước mất đi trong thớ gỗ/ Về đây tươi vạn dặm đường xuân .

Xung quanh chùa, những ngôi nhà dân chênh vênh bên sườn núi, những lối mòn tre trúc quạnh hiu, mùi khói bếp quện mùi hương trầm, tất cả làm nên một không gian thanh tịnh và ấm cúng. Tách khỏi nhóm người, một mình theo bậc thang dần xuống, tha thẩn ngắm nhìn, hỏi chuyện các bà cụ bán hàng rong hai bên. Những đồ lưu niệm mây tre đan, những con châu chấu, chuồn chuồn tre, lặt vặt...cùng đó là những lời mời chào chân quê . Nhìn các bà, các cụ đầu bạc khăn vấn đen, môi quết trầu, vừa mời chào bán hàng vừa gẫu chuyện xóm mạc, như thấy bóng dáng mẹ ta, dáng dì ta ngày nào. Có gì đó thân thương, chân chất, mộc mạc...

Thì ra, cõi Phật và cõi đời gần gụi nhau biết mấy !...

 

2.

 Đầu năm người đi lễ chùa

Xin phúc xin lộc cho vừa lòng ham

Còn em duyên mỏng chẳng cam

Cầu phật thương với cho làm dâu ai

Ta đến cửa phật thưởng mai

Tìm chút thanh tịnh dùi mài chữ Tâm

Vườn chùa lất phất mưa xuân

Tưởng không mà chốc ướt đầm lộc non...

 

Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa. Đây là bài thơ Lễ chùa tôi viết vào đầu xuân trước Quý Tỵ.

Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở...

Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không dịch bệnh...

Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi.

Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền công đức, nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay...

Đầu xuân Giáp Ngọ này, vào dịp cuối tuần, tôi cũng đã tranh thủ thời gian dạo chùa gần chùa xa. Càng đi nhiều, càng ngộ ra rằng, cõi Phật và cõi đời gần nhau lắm...

Mang máng nhớ một câu thơ:

 

Dốc đá phiến từ tâm

Đỡ bao bàn chân tới

Nhặt bóng với thời gian

Vẫn kiên lòng đứng đợi...

 

 

Dậy sớm thưởng trà.

 

Tôi là một người nghiện trà. Và cứ phải là trà Thái (chè Thái Nguyên.). Cà phê thì bạn bè, nơi công sở có câu chuyện riêng tư, kéo nhau ra quán cũng gọi một ly cho phải phép, thế thôi, cả tháng không uống không sao.

Song trà thì sáng nào cũng vậy, vùng trở dậy, vội đến mấy cũng phải bật bếp đun ấm nước, rồi mới làm dăm động tác thể dục và vệ sinh cá nhân, chờ nước sôi. Pha ấm trà nhỏ, uống vài chén rồi mới tính chuyện ăn sáng. Ở cơ quan, những lúc nghỉ tay, cũng phải đôi ba tuần trà cùng đồng nghiệp. Tối thì thôi, quả là cũng muốn uống nhưng lại lo mất ngủ. Thế cũng kể là nghiện được rồi . Mà ở đời, nghiện cái gì cũng có cái thú, cái phiền riêng.

Thói quen uống trà sáng sớm là tôi nhiễm từ cha tôi. Ông vốn con nhà Nho, thuộc dòng thi thư, ngày nhỏ học chữ Nho với ông nội tôi, thế hệ khoa cử cuối cùng của triều Nguyễn. Sau ông mới ra Hà Nội, học quốc ngữ, tiếng Pháp và nghề hội họa thiết kế kiến trúc. Lúc làm ăn có tiền, ông cũng thuộc diện tiêu xài hoang phí, cao lâu, cô đầu, thuốc phiện đủ cả. Về sau thôi cả, rượu cũng chỉ đôi chén, riêng hút thuốc lào và uống trà là ông nghiện. Suốt những năm chiến tranh chống Mỹ, gia đình tôi rời Hà Nội về quê sinh sống. Thời buổi khó khăn, nghiện cái gì là khổ cái ấy. Tiếng là thuốc lào và trà là thứ sinh hoạt rẻ tiền, song kiếm cũng đâu có dễ. Thuốc lào Vĩnh Bảo và trà Thái thuộc loại thượng hảo hạng rồi. Ngày ấy, rẻ nhất là chè bồm, loại chè lá già sao giòn nhẹ bấc, pha uống chỉ thấy đăng đắng chan chát. Sang hơn tý chút là chè Thanh Hương, quen được gọi là chè ba hào hai, còn chè Hồng Đào cũng khó kiếm lắm. Hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán, anh cháu gọi cha tôi là cậu ruột, làm phó phòng thương nghiệp huyện, quý và biết tính ông cậu lắm nên giáp tết mới đến nhà chúc tết cậu sớm và biếu quà gồm một hộp mứt thập cẩm và một gói chè Hồng Đào. Nhiều năm như thế thành nếp, nên cứ gần tết, nhà chỉ lo gạo nếp, đỗ xanh, lá dong đủ gói nồi bánh chưng và chung được một góc con lợn, cùng vài ba con gà nhà nuôi được là ổn rồi. Thêm món quà biếu tết quý hiếm ấy là đủ cả. 

Thường ngày, cha tôi có thói quen uống chè sớm tinh sương. Người già khó ngủ. Cứ tầm bốn rưỡi, năm giờ sáng là cha tôi tỉnh rồi. Ông cố nằm thêm chút nữa vì sợ mình lục sục sớm quá ảnh hưởng giấc ngủ của vợ con. Ông trở dậy, nhóm bếp đun ấm nước lên rót đầy phích và xúc ấm pha trà. Dù thường ngày là chè bồm, chè ba hào hai, biết không mấy ngon nhưng nghiện thì vậy cũng là quý. Thỉnh thoảng, có tâm sự hoặc cần bàn bạc gì riêng với mẹ tôi thì cha tôi mới nài mẹ tôi dậy sớm đối ẩm. Có lần, tôi chợt tỉnh ngủ, nhìn qua màn, thấy cha tôi ngồi độc ẩm im phăng phắc. Bóng ông trong quầng sáng của ngọn đèn chai dầu hỏa đỏ quạch in hình trên bức tường nhà đắp đất chập chờn theo ngọn đèn hãm nhỏ bởi gió lùa qua khe đất nứt nẻ. Ngày ấy, tôi còn nhỏ, quá vô tư nên chẳng mấy hiểu, chứ sau này, tôi mới ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng, hồi ấy, sáng sáng độc ẩm trà trong im lặng như thế là cha tôi đang dồn nén những nỗi trăn trở khổ ải về cả tâm thần và thể xác, để mà tịnh tâm, và qua những phút giây đó, ông cần phải chứng tỏ sự vững vàng về mặt tinh thần, làm trụ chắc cho cả gia đình tôi vượt qua những khó khăn chung và riêng của một thời tao loạn, gian khổ... 

Trở lại câu chuyện thưởng trà ngày tết. Sáng mồng một, ngày đầu tiên của năm mới, cha tôi vẫn đậy sớm như thường ngày, dù đêm trước thức khuya đón giao thừa. Ông đun nước sôi rồi cẩn thận lấy gói trà Hồng Đào trên bàn thờ xuống, bóc lấy đủ ấm pha xong, đợi trà ngấm giót ( đúng ra là rót ) một chén đặt lên bàn thờ, thắp hương khấn mời gia tiên thưởng trà trước. Sau đó, ông mới gọi nhẹ đánh thức mẹ tôi và mấy chị em chúng tôi dậy cho năm mời khỏi rông. Ông giót ( rót ) thêm ba chén trà, một cho ông, một cho mẹ tôi, còn chén kia dành cho tôi, thằng cu bé còn chưa biết uống trà, thưởng trà là gì nhưng sẽ phải gánh vác vai trò trưởng gia, trưởng chi họ, sau này đảm trách phần lễ nghi thờ cúng của gia đình và dòng tộc. Xong tuần trà, mới đến phần lễ nghi cho khai bút đầu năm. Quả là, tôi uống chỉ thấy những chát đắng chứ nào biết ngon đâu, song sự thành kính của cha tôi cho tôi hiểu lờ mờ ở đấy chứa đựng những tầng ý nghĩa cao hơn giá trị ẩm thực đơn thuần, nó thuộc về văn hóa, tâm linh... Tôi đã thấy được cái thú vị, cái phiền hà, và nữa, còn thấy ở đó những triết lý về cuộc sống.... Lại ngẫm nghĩ về những ẩn dụ, minh triết về trà và uống trà mà Phạm Đình Hồ và Cao Bá Quát xưa đã bình mà thấy thèm, thấy khát. Sự khát thèm về một đời sống tinh thần phong phú mà cao sang, là để có cái đích mà vươn tới ... 

Sau khi cha tôi qua đời, dù không đến mức nghiện trà, song mẹ tôi vẫn giữ cái thói quen dậy sớm uống trà. Có thể, bà không hề nghĩ, không cần nâng lên thành triết lý như cha tôi, mà chỉ duy trì nó như một thói quen sinh hoạt, hoặc giả, bà chỉ muốn thắp lên một ngọn đèn vào lúc sớm hôm như sự báo hiệu ngày mới của một người chủ gia đình với bao lo toan, cần làm chỗ dựa cho con cái thôi chăng ? Chẳng hiểu do di truyền hay cuộc đời đã dạy cho tôi thành một người nghiện trà ?! Đời sống thường nhật là vậy. Bao lo toan bộn bề, bao xô bồ trần tục, bao buồn vui lẫn lộn... Chẳng nhẽ, cứ cắm cúi mà sống, mà chịu, mà hưởng ? Đâu mấy được ngẩng mặt lên, thanh tâm bên ấm trà buổi sớm ?

Giờ thì trà ngon đủ loại. Muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng cha tôi thì đã xa khuất quá lâu rồi. Mẹ tôi cũng thế. Mỗi tết, tôi sẽ lại làm như cha tôi từng làm xưa kia. Thành kính với gia tiên và song thân, có phần cho riêng mình, và dường như có gì đó cho con cái nữa. 

Như một người giữ lửa !...

Đi lễ chùa tháng Giêng,

 

 

1. Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở...  Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không dịch bệnh...Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi. Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền công đức ( gọi là tiền giọt dầu, thẻ hương ), nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay. Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa, xa gần có cả. Năm nay, mấy ngày tết, cũng loanh quanh đôi chùa phủ trong nội thành, thứ bảy rồi, mới đi xa hơn, thăm vãn chùa Tây Phương ( thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây cũ .

Đây là một ngôi chùa nổi tiếng xứ Bắc. thuộc đất thôn Yên, xã Thạch Xá. Tương truyền, bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 6-7, và trải qua rất nhiều lần trùng tu. Tuy nhiên, dấu ấn được ghi chép về quy mô, kiến trúc của chùa thì mãi đến vào thế đầu kỷ 17 thời nhà Mạc, với tên chữ là Sùng Phúc tự . Kế đó, là vào năm 1632, dưới triều vua Lê Thần Tông, chùa được xây dựng với quy mô 3 gian thượng điện, cùng hậu cung, hành lang tới 20 gian. Tiếp nữa, là vào các năm 1657-1682, chúa Trịnh Tạc cho phá bỏ chùa cũ, xây chùa mới cùng tam quan. Và cuối cùng, là dưới triều Tây Sơn, năm 1794, chùa được đại tu, đổi tên thành Tây Phương cổ tự, và dáng dấp kiến trúc còn giữ đến ngày nay. Thong thả từng bậc đá ong ướt át trong làn mưa phùn mùa xuân, qua 239 bậc mới tới được cổng chùa. Cổng chính, tấm biển chữ Hán Tây Phương cổ tự , mở ra bên trong một không gian chùa, với kiến trúc được đánh giá là tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo mỹ thuật thời Hậu Lê. Lần lần, tiền điện đến hậu điện, được thấy các pho tượng Phật cổ bằng chất liệu gỗ mít sơn thếp từ mấy thế kỷ trước, đặc biệt là các vị La Hán, đã đi vào thơ ca Việt qua bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của nhà thơ Huy Cận từ năm 1960: Các vị La Hán chùa Tây Phương/ Tôi đến thăm về lòng vấn vương/ Há chẳng phải đây là xứ Phật,/ Mà sao ai nấy mặt đau thương ? ... Cha ông yêu mến thời xưa cũ / Trần trụi đau thương bỗng hóa gần/ Những bước mất đi trong thớ gỗ/ Về đây tươi vạn dặm đường xuân .

Xung quanh chùa, những ngôi nhà dân chênh vênh bên sườn núi, những lối mòn tre trúc quạnh hiu, mùi khói bếp quện mùi hương trầm, tất cả làm nên một không gian thanh tịnh và ấm cúng. Tách khỏi nhóm người, một mình theo bậc thang dần xuống, tha thẩn ngắm nhìn, hỏi chuyện các bà cụ bán hàng rong hai bên. Những đồ lưu niệm mây tre đan, những con châu chấu, chuồn chuồn tre, lặt vặt...cùng đó là những lời mời chào chân quê . Nhìn các bà, các cụ đầu bạc khăn vấn đen, môi quết trầu, vừa mời chào bán hàng vừa gẫu chuyện xóm mạc, như thấy bóng dáng mẹ ta, dáng dì ta ngày nào. Có gì đó thân thương, chân chất, mộc mạc...

Thì ra, cõi Phật và cõi đời gần gụi nhau biết mấy !...

 

2.

 Đầu năm người đi lễ chùa

Xin phúc xin lộc cho vừa lòng ham

Còn em duyên mỏng chẳng cam

Cầu Phật thương với cho làm dâu ai

Ta đến cửa phật thưởng mai

Tìm chút thanh tịnh dùi mài chữ Tâm

Vườn chùa lất phất mưa xuân

Tưởng không mà chốc ướt đầm lộc non...

 

Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa. Đây là bài thơ Lễ chùa tôi viết vào đầu xuân trước Quý Tỵ.

Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở...

Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không dịch bệnh...

Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi.

Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền công đức, nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay...

Đầu xuân Đinh Dậu này (2017), sau ba năm liền đi lễ chùa Hương, tôi cũng đã tranh thủ thời gian dạo chùa gần chùa xa, trong đó có Tây Phương cổ tự. Lần này, đủ cả ba chùa, thượng-trung-hạ của quần thể Tây phương xứ Đoài. Lễ Phật mà trong đầu như nhẩm đọc bài thơ “ Các vị La hán chùa Tây Phương “ của nhà thơ Huy Cận. Càng đi nhiều, càng ngộ ra rằng, cõi Phật và cõi đời gần nhau lắm...

Mang máng nhớ một câu thơ:

 

Dốc đá phiến từ tâm

Đỡ bao bàn chân tới

Nhặt bóng với thời gian

Vẫn kiên lòng đứng đợi...

 

 

 

Đi ra ngoại ô

 

Lâu  rồi tôi mới đi ra ngoại ô. Hàng ngày, hoặc bận bịu việc công sở, từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối nhốt mình trong cái tòa tháp mưới mấy tầng, điều hòa ro ro cả ngày song vẫn toát mồ hôi vì các cuộc họp gối nhau; hoặc lại kéo va li trong phòng chờ máy bay bởi những chuyến công tác triền miên; hoặc ngủ gà ngủ vịt trong cái xóc lắc của các chuyến xe đi địa phương... Vậy mà, cuối tuần rồi, tôi đã bứt ra được, để lang thang ngoại ô. Một vùng bên kia sông Đuống...

Nhà văn Nguyễn Trọng Huân, đồng nghiệp VOV với tôi rủ rê: " Ông có rảnh, đi với tôi về quê vợ tôi, ngay ngoại ô, bên kia sông Đuống thôi. Tôi muốn quay ít cảnh, đặng làm cái clip gia đình.". Vậy là, chúng tôi ra ngoại ô, một ngày nắng oi nồng...

Xe chạy trên bờ đê sông Đuống, những câu thơ của Hoàng Cầm cứ âm âm trong đầu. Nói không ngoa, đây là một vùng đất cổ, một miền thơ. Dù ít nhiều bị đô thị hóa, song cây cối vẫn xanh mướt một màu và phảng phất đâu đó là nét thân thương của làng quê cũ ... Đê Mai Lâm đây rồi. Ngày nhỏ, tôi thường nghe cha tôi kể chuyện vỡ đê, và trận lụt do vỡ đê Mai Lâm là một trận lụt thế kỷ. Đây cũng là vùng quê của nhà văn Ngô Tất Tố, nơi ông đã lấy bối cảnh để viết tiểu thuyết " Tắt đèn " và các thiên phóng sự về văn hóa làng nổi tiếng của mình từ đầu thế kỷ 20. Cách đây hơn chục năm, khi dựng một Tạp chí truyền thanh nhân dịp Quốc khánh, tôi đã về đây, gặp gỡ, hỏi chuyện, phỏng vấn người nhà của nhà văn Ngô Tất Tố, cùng một số vị cao niên về đời sống nông thôn xưa và nay. Giờ làng mạc khác trước nhiều. Qua Mai Lâm, đến Đông Hội, rẽ theo triền đê vào làng cổ Lại Đà. Đây là quê vợ của nhà văn Nguyễn Trọng Huân. Đến lần đầu, mà cảm giác quen quen. À phải rồi, tôi đã thấy những lều quán chợ làng, những đình, những chùa, những cổng cổ, nhà thờ họ, ngõ gạch, vườn ao như từng có ở quê tôi và nhiều làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn phảng phất đâu đó trong thơ Tường Anh, bà xã của nhà văn Nguyễn Trọng Huân, mà tôi đã đọc trên blog của anh ..." Tráo trở phố phường không rơi lệ/ Mà rưng rưng trước lối rẽ về làng/ Dốc đê nhỏ, bờ cỏ may rung nhẹ/Lách chách tuổi thơ châu chấu đạp càng"( Dốc đê ); " Có phải con trâu lá đa của tôi?/ Nghé ọ cả một miền ký ức/ Gốc duối cuối vườn cất mật/ Vàng ba mươi năm đứng đợi tôi về " ( Về vườn xưa ).

Theo kiến giải của các bậc cao niên, tên làng cổ là Lai Xà ( có nghĩa là Rắn lại đến, một truyền thuyết về tên làng này ). Qua năm tháng, bị gọi chệch âm thành Lại Đà. Nghe nói, mảnh đất này, xưa sản sinh và nuôi dưỡng nhiều người học hành, đỗ đạt làm quan to trong các triều đại phong kiến, nay cũng có những cán bộ giữ trọng trách cao...

Tôi và Nguyễn Trọng Huân, nhạc sĩ Doãn Nguyên thơ thẩn ra chợ làng, thăm viếng chùa Cảnh Phúc, đình làng, đền thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền ( được sắc phòng làm thần hoàng làng ). Đó đây, bắt gặp những loài hoa hàng rào, biết tên và chẳng rõ tên, tất cả đều gợi cảm xúc về hồn làng, về miền thơ ấu tuổi học trò ở quê...

Ấn tượng mạnh trong tôi, ấy là dàn hoa ti-gôn đỏ thắm trên vòm mái cổng nhà ông bà nhạc của Trọng Huân. Lâu lắm rồi, tôi mới thấy một dàn ti-gôn đẹp vậy. Những cánh hoa ti-gôn như những mảnh vỡ trái tim, ứa máu, khiến ta nhớ đến câu chuyện tình đậm chất văn chương bí ẩn trong thơ " Hai sắc hoa ti-gôn " của T.T.KH ngày xưa..." Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ/ Anh sợ tình ta cũng thế thôi!".../ Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/ Trời ơi! Người ấy có buồn không/ Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ/ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng "... Tôi say mê lựa góc để thu vào ống kính của mình. Mấy anh chàng camera cũng vậy... Quên cả mâm cơm rượu thịt đã bày ra.

Chiều về, quanh quanh trên đê sông Đuống. Mưa đã nhiều, nước sông ngầu đục. Hết sông Đuống lại vòng ra đê sông Hồng. Tự nhiên lại nao nao nhớ tiếng gọi đò...

 

 

 

Gặp Nick Út,...

 

Nick Út là một người nổi tiếng, ở Việt Nam, ở Mỹ, và cả báo giới quốc tế nói chung. Trước hết, ông nổi tiếng bởi nghề nghiệp, một phóng viên nhiếp ảnh của một hãng thông tấn lớn, sớm thành danh bởi chính tác phẩm ảnh của mình, và cả đời theo đuổi sự nghiệp ảnh báo chí, giữ được đạo nghề cho đến lúc nghỉ hưu...

          Vì là người nổi tiếng, nên chúng ta không khó để tìm kiếm những thông tin về ông đầy trên mạng. Bởi vậy, khi viết về ông, tôi không muốn sa đà vào những điều người ta đã nói và viết, mà dành cho những ấn tượng và cảm quan của cá nhân tôi về ông. Tuy nhiên, thấy cũng cần nhắc lại một số thông tin cơ bản về nhân thân của Nick Út.

          Nick Út, tên thật Huỳnh Công Út, ( sinh ngày 29 tháng 3 năm 1951) là người Mỹ gốc Việt. Ông là phóng viên ảnh cho hãng tin Associated Press ( AP ), người chụp bức ảnh em bé Phan Thị Kim Phúc, thường được biết là "Vietnam Napalm Girl" - cô gái Việt Nam bị napalm, và những đứa trẻ khác bị bỏng do bom napalm của Mỹ tại Trảng Bàng- Tây Ninh, bức ảnh đã mang lại cho ông giải Pulitzer và ông trở nên nổi tiếng. Bức ảnh được xếp thứ 41 trong 100 bức ảnh có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20 do Đại học Columbia bình chọn ... Ông sinh tại Long An, là phóng viên ảnh cho hãng tin Associated Press (AP) từ năm 16 tuổi. Anh ruột của ông - Huỳnh Thanh Mỹ cũng là một phóng viên chiến trường làm việc cho AP - đã chết trong Chiến tranh Việt Nam, bản thân Nick Út cũng bị thương 3 lần trong Chiến tranh Việt Nam ”...

          Đấy là người ta tóm tắt về ông. Thiết nghĩ, cũng nên biết thêm một số thông tin khác gắn với Nick Út, như ông cũng có những thành công khác về sự nghiệp nhiếp ảnh sau bức “Em bé Na-pan”; việc ông vẫn thường xuyên liên lạc với Kim Phúc sau này (nhân vật trong bức ảnh, nay là Việt kiều định cư tại Canada); việc ông đã từng mở triển lãm ảnh tại Tp. Hồ Chí Minh cách đây chục năm nhưng không suôn sẻ. v.v...

          Giờ thì ông ngồi đây, trước mặt chúng tôi, các phóng viên, biên tập viên của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), những người yêu thích nhiếp ảnh, hoặc đơn giản là vì tò mò, muốn nhìn tận mắt cái ông nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới này xem đầu cua tai nheo ra sao?...

          Đúng 9 giờ sáng ngày 05 tháng 5 năm 2017, ông có mặt tại phòng giao lưu, trụ sở 58 Quán Sứ, Hà Nội theo lời mời của Ban Quan hệ quốc tế nhà đài. Sau phần chào hỏi xã giao thông thường, ông bắt đầu cuộc giao lưu với việc giới thiệu tóm tắt sự nghiệp nhiếp ảnh báo chí của mình qua một clip lên màn ảnh lớn... Trong lúc, ông chăm chú theo dõi những hình ảnh của mình với sự chăm chú và ít nhiều xúc động qua việc lén chấm nước mắt, thì nhiều người lại nhăm nhăm chụp ảnh ông...

          Trong số những người vừa xem hình ảnh, vừa tìm góc máy để chụp ông, có tôi. Tôi có mặt trước giờ ông đến, với tư cách của người tổ chức buổi giao lưu, vừa là người yêu thích nhiếp ảnh, và có cả mong muốn thỏa mãn sự tò mò nữa...

          Sau khi những hình ảnh trong clip được chiếu hết, màn hình phông trở lại bức ảnh nền “Vietnam Napalm Girl", Nick Út cũng đã trở về với gương mặt kiên nghị và quắc thước vốn có, ông lặng lẽ chờ đợi những câu hỏi của mọi người. Khán phòng im lặng chốc lát, vì dường như, tất cả vẫn đắm chìm trong suy nghĩ về những bức ảnh vừa được trình chiếu, mà chưa sẵn sàng đặt câu hỏi, cho dến khi người dẫn chương trình lên tiếng. Và rồi, thay nhau, các câu hỏi liên tiếp được đặt ra cho ông, chủ yếu xung quanh công việc nhiếp ảnh thời sự của ông, gắn với cuộc đời, và hãng thông tấn AP mà ông làm việc từ ngày đầu vào nghề cho đến khi nghỉ hưu vào năm ngoái... Gì thì gì, trung tâm của buổi giao lưu, của mọi câu chuyện, vẫn là tác phẩm “ Em bé Na-pan “, mà ở đó, có mối quan hệ tay ba, đó là Nick Út ( tác giả ) – Tác phẩm ảnh – Nhân vật ảnh ( Kim Phúc ). Và từ đó, là hàng loạt những mối quan hệ ăn theo khác, như tác giả với Hãng AP và giới nhiếp ảnh quốc tế nói chung; tác phẩm ảnh được giải Pulitzer hết sức anh giá này đã khiến chính quyền, người Mỹ và cả thế giới nhìn nhận về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam ra sao; và bản thân Nick Út đã ứng xử với tác phẩm của mình và đồng nghiệp như thế nào sau sự kiện này ? v.v...

          Trở lại cuộc giao lưu, Nick Út tỏ ra khá thoải mái khi trả lời các câu hỏi, kể cả những tâm sự về nghề nghiệp, mà theo tôi, chắc hẳn ông  đã tham gia những cuộc giao lưu, phỏng vấn kiểu này nhiều rôi. Có một điều thú vị, các nhà báo nữ của VOV rất hào hứng việc đặt câu hỏi, nhiều hơn các nhà báo nam, có lẽ, do sức hút từ sự từng trải đầy nam tính ở nơi ông? Riêng tôi, tuy không trực tiếp hỏi, chỉ loanh quanh tìm những góc máy vì muốn khắc họa chân dung Nick Út, nhưng hầu hết những câu hỏi và trả lời, tôi không bỏ lọt tai. Tôi tin những điều ông nói, phải chăng, từ cách diễn đạt trực diện, từ ánh mắt nhìn, động thái hình thể, tất thảy, đều cho thấy sự thẳng thắn, chân thành và cầu thị toát ra từ con người ông...

          Nick Út ngồi đấy, đối diện với mọi người, và cũng là đối diện với quá khứ của mình, tôi nghĩ thế, say mê mà tỉnh táo, cứng cỏi mà thân thiện, giữ khoảng cách mà vẫn gần gũi. Trong rất nhiều câu chuyện, tôi nhận ra ở Nick Út mấy điều cơ bản làm nên con người và sự nghiệp của ông, từ quá khứ cho đến hiện tại, ấy là, những nguyên tắc cơ bản của nhiếp ảnh báo chí, tính trung thực của tác phẩm và sự chân thành, cùng  với lương tâm của người cầm máy, mà những điều ấy, thiết nghĩ, là những giá trị chính yếu của đạo nghề...

          Có một nữ phóng viên đã hỏi Nick Út rằng ông đã làm gì ngay sau khi chụp bức ảnh “ Em bé Na-pan “ ? Không ngần ngại, ông nói về những giây phút ấy, sau khi bấm máy, ông đã chạy đến, tìm cách cứu giúp cô bé, như tưới nước rửa trôi chất cháy bám trên thân thể cô bé; rằng khi đó, cô bé và những người khác đều hoảng loạn, kêu cứu thế nào; rồi ông đưa cô bé đi cấp cứu ra sao ... Nick Út bảo, ông biết và ý thức rõ, rất có thể, vì việc đưa cô bé đi cứu chữa, ảnh của ông gửi về Hãng sẽ chậm trễ, kể cả việc có ai đó cũng chụp được cảnh tượng tương tự như ông, cho đăng báo trước ông, song vì đạo nghề và đạo người, đã không cho phép ông bỏ rơi cô bé mà không cứu giúp...

Và ông đã đúng, khi nghĩ vậy và làm vậy. Mọi người đã biết, đánh giá, thậm chí so sánh, câu chuyện giữa Nick Út cùng tác phẩm “Em bé Na-pan“, với Kevin Carter cùng tác phẩm “Kền kền chờ đợi“ cùng khoảng cách 20 năm giữa hai sự kiện làm nên hai kiệt tác ảnh này. Chính vì hành xử đúng, nên Nick Út đã không trở thành nạn nhân bởi chính sự thành công của mình, như người đồng nghiệp Kevin Carter đã vấp phải, và đã hứng chịu búa rìu của dư luận, sự rằn vặt lương tâm, sự bế tắc tư tưởng, đến mức phải tim cái chết. Còn ông, không có gì phải ân hận, để rồi đủ niềm tin và ý chí, đặng vững bước trên con đường nhiếp ánh báo chí, mà nhờ đó, đã gặt hái thêm những thành quả khi theo đuổi ảnh báo chí về Hoolywood... Theo tôi, có lẽ còn cao hơn cả thành công của sự nghiệp cá nhân, sau tác phẩm Em bé Na-pan“, cùng dư luận thế giới về tác phẩm này, Nick Út đã thay đổi nhận thức về chiến tranh, đặc biệt chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ý thức về độc lập tự do của dân tộc !...

Hơn thế, cho đến thời điềm hiện tại, ông đã nghỉ hưu của Hàng AP, song vẫn có thể tiếp tục công việc yêu thích, sự nghiệp nhiếp ảnh báo chí của mình với tư cách cộng tác viên, tham gia giảng dạy và nói chuyện về nghề ảnh báo chí của mình...

Hôm nay, ông-Nick Út, trước chúng tôi, những đồng nghiệp báo chí, với vẻ kiên nghị, đầy nhiệt huyết và sự chân thành, để nhìn thẳng và nói thẳng !...

 

 

 

Gió đầu mùa,...

 

Đã trung tuần tháng 9 âm lịch rồi mà tiết trời vẫn nóng. Dù đã thấy chút hanh heo đâu đó trong cái nắng, cái gió, trong màu lá cây ngọn cỏ nhưng tiết thu vẫn mơ hồ...

Dịp Trung thu thì trời còn nắng nóng như mùa hè. Nhấm nháp miếng bánh trung thu với trà ướp hương nhài, bụng bảo dạ "tháng tám nắng rám quả bòng" kia mà. Là mượn lời người xưa để ru ngủ mình mà thôi, chứ thực lòng, thèm cái se se lạnh lắm rồi. Cái thèm này, không giống cái thèm miếng ăn ngon khi đói, hay cái thèm rượu bia khi nhạt mồm nhạt miệng, hay nữa, cái thèm hương vị người khác giới khi con trai trẻ đương xuân;... Mà nó nhè nhẹ, se sẽ, rón rén, thấm dần vào trong ta, rồi lan tỏa đến từng li ti huyết quản, đến từng tế bào... cho đến khi nhận ra thì đã ngấm lắm rồi, say lắm rồi...

Một hôm nào đó, không nén được nỗi khát thèm, ta đã mượn cớ nỗi chờ đợi cà phê nhỏ giọt mà bộc lộ nỗi nhớ gió mùa "Riêng giọt thu ngần ngại/ se sẽ đọng, lặng thinh/ ghé song thiu thiu lá/ ngái ngủ khúc ru mình...". Ấy vậy, mà trời đất đâu có chiều lòng mình...

Đêm trước, phải chăng, vài ba ly rượu nhỏ tiếp khách trong bữa cơm tối mà cảm thấy nóng bức. Ngủ phải bật điều hòa, nói là dễ ngủ, song cũng là để tìm cái cảm giác hanh heo nhân tạo trong không gian bó buộc. Rồi như, hình như, ngoài hiên đêm có gì đó động đậy  thì phải. Sáng ra, mở cửa, chợt thấy cái se lạnh ùa vào. Gió mùa về thật rồi ư?...

Đi làm, phóng xe ra ngoài đường, gió lạnh tạt vào mặt. Lại thêm lất phất mưa. Mọi người dừng xe để mặc áo mưa. Ta thì không, cứ phong phanh phóng xe đi, để cảm cái se lạnh, cái ướt át đầu mùa. Đến nơi, mới thấy cái lạnh đầu mùa đã thấm qua áo mỏng vào người.

Phải đổi ngay áo khô để tránh bị ngấm lạnh. Và thay vì động tác quen thuộc mỗi đầu giờ làm việc là bật công tắc điều hòa, thì mở bùng cửa kính phòng làm việc...

Bật máy tính, rồi thừ người ra, như kiểm tra cảm xúc của mình. Bao xáo động đã yên tĩnh lại...

Lại mở cửa bước ra hành lang. Mấy nữ nhân viên trẻ trung váy áo mùa thu, ríu rít chào. Lơ đãng nhìn và đáp lại cho phải phép.

Ừ, cái xao động của gió đầu mùa bay đâu mất cả ?...

Phải chăng, đã cuối thu rồi, và một mùa đông sắp đến !...

Ừ, vì ta luống tuổi rồi mà !...

 

 

 

 

 

 

Gương mặt Simacai,

 

1. Mùa đông rẻo cao.

Simacai, mùa đông năm 2007.

Với bầu không khí giá rét, sương mù và mưa phùn suốt những ngày đông tháng giá như thế, sẽ là buồn tẻ nếu không có bầu không khí ấm cúng và thân thiện đem lại từ nơi những quán ăn nhỏ rải rác trong thị trấn. Quả là khi bước vào quán ở đây, mọi nỗi ưu tư thường nhật dường như được trút bỏ trong phút chốc. "Bàn ghế đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở", phảng phất câu thơ của Hoàng Trung Thông viết về miền núi những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, gợi về. Bát đũa bày lên bàn còn nóng hổi vì mới được nhúng vào chảo nước sôi trước khi mang ra cho khách. Thực khách cóng tay vì rét có thể cầm chiếc bát xoay nhẹ trên lòng tay mà sưởi ấm. Còn như vẫn thấy lạnh, khách có thể kéo ghế ngồi quanh một chiếc hỏa lò than tàu rực hồng phía bên trong với những bắp ngô nếp, sắn tươi, khoai lang đặt nướng sẵn trên rìa miệng lò dần chín mùi thơm lừng. Đặc biệt nữa, một chiếc đĩa sứ được đổ rượu bày lên bàn ăn, chủ nhường khách châm lửa cho rượu trong đĩa bùng cháy xanh lét, tỏa hương quyến rũ. Mọi khí lạnh và sương giá bị xua tan hết, chỉ còn lại bầu không khí của ẩm thực, khiến thực khách phải nén nuốt nước miếng, trước khi những món ăn được bưng ra. Đấy cũng là cách để chủ quán chào thực khách, cả ngầm khoe và cảnh báo về nồng độ và hương vị hảo hạng của loại rượu bản địa mà nhà hàng sẽ hầu khách quý. Rồi đó là món ăn, thường là măng luộc chấm chẩm chéo, rau rừng tiến vua luộc hoặc xào tỏi thịt bò, thịt thú rừng xào lăn, cá suối rán ròn ; còn món ăn cơm, có thịt gà ta rang gừng hoặc thịt lợn, giống lợn Mường Khương hay giống bản địa rang sém cạnh, canh măng chua hay canh mướp đắng… Tan bữa, sự dễ chịu vẫn còn ở cái giá cả cũng phải chăng. Cả khách, chủ đều hài lòng.

Hôm chúng tôi xuôi lại Bắc Hà, trùng vào ngày có chợ phiên Cán Cấu. Giàng A Giả tiễn chúng tôi bằng phiên chợ nổi tiếng của vùng quê mình. Khi chợ phiên Bắc Hà đang dần bị thương mại hóa bởi kinh tế thị trường dưới xuôi tràn lên thì chợ phiên Cán Cấu vẫn giữ được vẻ nguyên sơ. Không hiểu thường ngày thế nào, chứ khi đó, sắp đến tết Mông, mà tết Nguyên đán cũng đã gần, chợ phiên đông vui náo nức lắm. Đông vui là thế, song cũng có thể chia ra thành mấy nhóm hàng, chợ gia súc trâu, bò, ngựa, lợn, chó, gà ; chợ nông cụ và đồ gia dụng; chợ váy áo và hàng xén; và chợ của ẩm thực. Phiên chợ rẻo cao thường là chợ của sắc màu, của thanh âm và mùi vị. Chợ của sắc màu, bởi váy áo của cánh đàn bà phụ nữ rực rỡ đủ màu. Chợ của thanh âm, là bởi tiếng của nhiều dân tộc thiểu số, chen vào đó là tiếng khèn sáo từ sườn núi vọng xuống, tiếng ba hoa hay lè nhè của đám bợm rượu, tạp lẫn tiếng gia súc gia cầm. Chợ của mùi vị, trước hết bởi mùi thơm nồng của thắng cố quện với hương vị rượu men lá, mùi chua ngậy của món phở Mông, mùi thơm của xôi nếp nương, hương tinh khiết của món bánh pà-cúa-dế, và cả cái mùi nằng nặng của hơi người tỏa ra nơi áo váy…Trời rét ngọt, chúng tôi quây quần quanh tô thắng cố nghi ngút khói thơm, cùng tô mèn mén, nâng chén rượu, Giàng A Giả mặt đỏ ửng, nói với chúng tôi, thực ra là nhắm vào hai cô gái trong đoàn, rằng cậu ta có một tâm nguyện đã hứa với người cha, một ngày kia sẽ đưa cha về thăm phố phường thủ đô và vào Lăng viếng Bác Hồ. Trời đứng bóng, chia tay Giàng A Giả bịn rịn. Tưởng sẽ nhẹ nhàng mà xuôi. Tình cờ lại gặp những cảnh ngộ khác. Cách cái chợ phiên Cán Cấu chỉ một quãng ngắn thôi, có mấy ngôi nhà tĩnh lặng, như tách biệt khỏi cái chợ ồn ào và con lộ chạy ngang ngày đêm ầm ào tiếng xe cộ. Ở đấy, có hai cô gái trẻ khá xinh xắn người dưới xuôi, một là giáo viên tiểu học, một là nhân viên trạm y tế. Cô nhân viên y tế chưa cùng ai, còn cô giáo viên đã có con, bé gái hơn một tuổi. Hỏi ra, chồng dân vãng lai, làm đâu đó ở một xí nghiệp liên doanh dưới xuôi. chấm chẳng năm lên thăm vợ con đôi lần rồi biền biệt, để hai mẹ con nuôi nhau. Ba người, hai đàn bà và một bé gái ở với nhau thì vui sao nổi. Khi trò chuyện với cánh báo chí chúng tôi, hai cô tỏ ra vui vẻ, song nhìn kỹ vào gương mặt, vào sâu con mắt họ, vẫn ẩn chứa nỗi buồn tẻ, nỗi niềm xa vắng… Cứ như họ nằm đâu đó bên rìa cuộc đời, chẳng quan hệ đến ai, chẳng liên quan gì đến cái chợ, đến những chiếc xe qua lại ngày đêm ngoài kia … Chỉ có mấy cây mận, cây đào trước cửa, thì năm lại năm, đông qua xuân đến, hoa trổ cánh trắng cánh hồng, như an ủi, xẻ chia nỗi lòng của họ, lại như thầm báo hiệu một năm mới với chút hy vọng nhỏ nhoi !...Men bờ dòng sông Chảy mà xuôi, Simacai và Bắc Hà với giá rét sương mù đã ở lại phía sau. Nhưng nỗi lòng của mấy cô gái nọ, tâm nguyện của Giàng A Giả ước một lần đưa cha về thăm thủ đô, tiếng khèn Mông của già bản ở Nàn Sán, tiếng vó ngựa lóc cốc sớm tinh mơ về chợ Bắc Hà thêm nặng lòng người về. Rồi đó, hương vị thơm nồng của rượu Bản Phố, ngầy ngầy của món thằng-cố, hương thảo mộc tinh khiết của món bánh pà-cúa-dế…dìu dịu mà đằm thành nỗi nhớ lúc nào không hay…Tôi lại nghĩ về làng quê mình, lúc này hẳn mọi người đã ra đồng tìm hái rau khúc về làm bánh. Lại sắp đổ ải, và quay đi ngoảnh lại, tết Nguyên đán đã ập đến nơi rồi. Tha hồ mà tất bật, công việc đồng áng không thể bê trễ mà vẫn phải lo chuẩn bị củi lửa nồi bánh chưng, lại còn sắm sanh bao nhiêu thứ lặt vặt, mà cái gì cũng đều tiền cả, để cho cái tết tươm tất…

Rẩm riu lòng, tết này, có một cành đào núi nhỉ !...

 

         

2. Gương mặt Simacai.

Đã lâu lắm rồi, tôi chưa trở lại Simacai, cái vùng đất mờ sương khói hư ảo nơi địa đầu đất nước, kể từ mùa đông năm 2007. Vậy là đã gần mười năm qua...

          Lần đi Hà Giang cuối thu rồi, tôi xuyên từ Bắc Quang, Quang Bình, vượt Cổng trời núi đất phía Tây, băng ngang Hoàng Su Phì, men dòng sông Chảy đến Cốc-pài, rồi lại từ Cốc pài men núi cao vực sâu mà đi cắt sang đất Lào Cai. Xe đến ngã ba Lùng Phìn, nhìn cái biển chỉ đường, rẽ phải - Simacai... km, vậy mà đành rẽ trái về thị trấn Bắc Hà. Chợ Lùng Phìn chiều muộn hết khách, lều quán chơ vơ trống huếch, lòng hiu hiu buồn. Nhẩm lòng, Simacai ơi, hẹn trở lại vào một dịp nào đấy gần nhất nhé. Xuôi về hướng Bắc Hà, ngủ thiếp đi trong tiếng xe lướt quanh co đầu dốc chân đèo...

          Mùa đông năm ấy, chỉ cách tết nguyên đán chưa đầy tháng, mấy phóng viên chuyên mảng văn hóa đời sống chúng tôi lên đường đi Tây Bắc, Việt Bắc để viết bài tết. Lịch đi hết cả tuần, nên chẳng vội vàng gì, cứ nhẩn nha, dọc đường gặp gì hay gì lạ thì dừng đấy mà viết. Bờ nam sông Hồng, qua Sơn Tây, sang đất Phú Thọ, ngược Cẩm Khê mà lên Yên Bái. Mất vài hôm, có chút thú vị, lấy cảm hứng rồi ngược dòng sông Chảy mà lên. Đây là lần đầu tôi chạy tuyến đường này nên khá nhiều ngạc nhiên thú vị. Đèo dốc không quá cao, song quanh co, khúc khuỷu, với nhiều cung bậc sông suối. Đến cửa ngõ Bắc Hà thì gặp sương mù dày đặc, xe dò dẫm trong sương mà đi, bên vực sâu, bên vách núi dựng đứng, có chút lo lắng, nhưng rồi cũng vào được thị trấn. Lại mất mấy ngày ở Bắc Hà, công việc bận rộn và kết thúc mỗi ngày là cuộc rượu đãi đằng nghiêng trời lệch đất.

Simaicai, khi ấy, mới tách ra từ huyện Bắc Hà cũ. Thị trấn mới của huyện từ điểm giáp ranh Lùng Phìn ngược lên vài chúc cây số nữa. Dọc đường thấy mấy cải biển số chỉ đường, nào những Tả Củ Tỷ, Sán Chài, Nàn Sán,... đọc tên mà mường tượng cũng đã thấy những xa xôi, gian khó thế nào rồi. Khi anh lái xe bảo đã vào thị trấn, nhưng nào đâu thấy phố, thấy nhà, bao phủ là một bầu sương mù trắng xám. Ðúng trưa, trời rét nên đói bụng, trước hết là phải tìm quán ăn... Tình cờ và ấn tượng. Quả thực, đã mười năm rồi, tôi vẫn nhớ cái cảm giác lạ v à thú vị của bữa ăn ấy, quan ăn ấy. Miếng ngon nhớ lâu, người xưa bảo vậy, cấm sai...

Mấy ngày công việc ở Simacai, đi lại vất vả, song nhìn chung được việc, nên mọi người đều vui. Giàng A Giả, chàng nhân viên Phòng Nông nghiệp huyện, người Mông bản địa đã từng được gửi về học Đại gọc Kinh tế quốc dân Hà Nội, nói thạo tiếng Kinh, như con thoi đưa chúng tôi đến mọi hang cùng ngõ hẻm. Có lần vào bản Mông cheo leo, gặp trời mưa, dốc đất mấp mô đá, mấy chúng tôi phải dùng tay mà bấu víu bò lên, còn anh chàng nay cứ nhảy thoăn thoắt trên các mỏm đất đá mà chuyền như vượn. Lần ấy, tôi có đến Trạm biên phòng Sín Chải. Ðây là điểm giáp ranh với Trung Quốc. Trạm nằm kề bên bờ sông biên giới, phía đất ta địa hình khá bằng phẳng, còn bên kia đất bạn là vách núi dựng đứng. Quan hệ láng giềng ở khu vực này bấy lâu khá yên ổn. Bà con hai bên qua lại làm ăn vui vẻ. Các sĩ quan của trạm đều khá thạo tiếng Trung, tuy nhiên các anh vẫn thiếu một số sách tiếng Trung để phục vụ cho công việc. Giữ lời hứa với các anh, khi về Hà Nội, tôi đã tìm mua một số cuốn gửi lên trạm theo đường buu điện.

          Đường về, Giàng A Giả tiễn chân chúng tôi đến hết đất Simacai, và nhờ thế, tôi được hòa mình vào không khí náo nhiệt và đầy sắc màu của chợ phiên Cán Cấu cuối tuần. Có lẽ, đây là một chợ phiên khá đặc biệt ở vùng biên giới phía Bắc này. Về sự nổi tiếng, có thể chợ này không bằng chợ Bắc Hà  ( Lào Cai ), chợ Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc ( Hà Giang ), song theo tôi, chợ phiên Cán Cấu đặc trưng và ấn tượng hơn về sự nguyên bản sắc tộc. Giờ tôi vẫn nhớ cái cảm giác khi lần đầu ăn thắng cố ngựa tại chợ, hương vị quen quen là lạ khi nếm thử miếng bánh của người Mông có tên gọi là pà-cúa-dế được chế biến từ bột gạo nếp trộn với nước vắt giã từ một loại rau thảo dược có ở vùng rừng núi này... Rồi thêm nữa, là hình ảnh trạm y tế xã và ngôi trường tiểu học liền kề với mấy nữ nhân viên, giáo viên người dưới xuôi lên đây công tác, hoặc muộn chồng, hoặc có con nhưng phải nuôi con một mình. Những khuôn mặt chọt mừng vui vì được tiếp xúc với người dưới xuôi, lại là những người làm báo như chúng tôi, với hy vọng có thể thấu hiểu, chia sẻ, hơn nữa là nói hộ nỗi lòng họ, rồi ngay đó là sự thẫn thờ, cam chịu và thậm chí vô vọng vì cảnh ngộ hiện tại của mình... Với tôi, thật sự ám ảnh... Và đến bây giờ, nghĩ lại, vẫn còn dư vị cảm giác ấy!...

Giương mặt Simacai, hư ảo và sương khói của lần đầu gặp gỡ.

Lại chờ đợi cho lần gặp sau...

 

 

Hà Giang, những nẻo đời ...

 

1.  Với mỗi người Việt Nam, ai chẳng muốn được đặt chân tới hai cực nam-bắc của tổ quốc, ấy là Lũng Cú và mũi Cà Mau. Riêng với tôi, mũi Cà Mau thì tôi đã đến từ lúc còn rất trẻ, khi là chàng kỹ sư nông học vác ba lô lên vai rời ghế nhà trường vào đồng bằng sông Cửu Long làm quy hoạch nông nghiệp sau giải phóng niềm Nam dăm năm. Còn Lũng Cú, tận mùa thu  nay tôi mới đặt chân đến lần đầu, sau gần hai mươi năm bỏ nghề kỹ sư nông học theo nghề làm báo.

          Mùa thu đến muộn, mưa bão liên miên dầm dề từ hè sang. Đường lên thị xã Hà Giang từ ngoại ô Hà Nội đến Vĩnh Yên lũng bũng những nước. Rồi đó, dòng Lô Giang cuồn cuồn nước đục ngầu về xuôi. Nhìn dòng nước, tôi rẩm riu, dòng nước kia chứa đựng trong lòng nó những gì của thiên nhiên và con người ?

          Tôi nhanh chóng quên đi cái náo nhiệt sắc màu của ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc được tổ chức tại thị xã Hà Giang để vượt dốc đến mấy địa danh vùng cao nổi tiếng của miền cao nguyên đá này. Biết không thể tham song tôi ý thức, chí ít cũng phải đến bốn nơi cần phải đến. Bắt đầu là Cổng Trời Quản Bạ. Ngày xưa đường xá hiểm trở, lên được đến đây hẳn đã cực nhọc lắm rồi, nên người ta mới mệnh danh cho nó là Cổng Trời. Giờ thì đây mới chỉ là cửa ngõ để vào cao nguyên đá khô cằn, hiểm trở và không kém phần bí ẩn. Đường tốt, trên đỉnh cao chót vót là những cột phát sóng, và một trong số đó là cột phát sóng FM của Đài Tiếng nói Việt Nam với nỗ lực mang tiếng nói của Đảng và Chính phủ đến mọi ngóc ngách khuất nấp, hẻo lánh nhất. Chợ Quản Bạ gần đứng trưa mà vẫn đông vui sầm uất lắm, dù mấy chảo thắng cố đã được thực khách xơi hết từ bao giờ. Len lỏi qua dãy hàng ăn thấy vui lây mà đói bụng bởi cái sự náo nhiệt và ngon miệng của bà con dân tộc thiểu số. Chợ phiên Quản Bạ có mấy điểm nhấn nữa, đó là dẫy hàng trang phục rực rỡ sắc màu với đám đông các cô gái tíu ran nói cười thử váy áo; cùng đó là những hàng bán điếu cày và khèn gỗ với màn chào hàng trầm buồn điệu khèn xen lẫn từng tràng tiếng rít nõ điếu cày; và nữa, ấy là từng dãy can nhựa to đầy rượu xếp hàng uốn lượn như bầy rắn khổng lồ giữa chợ. Chúng tôi vào nhà một người quen ở ngay thị trấn Quản Bạ, ấy là anh giáo Tự. Phạm Văn Tự quê Thái Thụy, Thái Bình, lên miền ngược dạy học hơn ba chục năm rồi, lấy vợ người Pù Nhi, hiện là hiệu trưởng Trường THCS Tam Sơn. Anh là cộng tác viên tích cực của Báo Giáo dục & thời đại, còn là một cây bút thơ địa phương. Trong hơi men ngà ngà bữa cơm thân mật tại gia, giáo Tự đọc rất nhiều thơ, phần lớn là nỗi niềm nhà giáo vùng cao, tình yêu trai gái người dân tộc, nỗi nhớ quê hương đồng bằng. Nghe mà da diết buồn. Tôi nhớ được một câu thơ hay của anh trong bài thơ Nỗi niềm cô giáo vùng cao :" Bao lần rồi lại bao lần/ Đá tai mèo cứng dưới chân đá mềm/ Thế mà chẳng mảnh tình riêng/ Có bao cô gái lỡ duyên đất này...".

          Rời Quản Bạ, biết là cố thêm chút nữa là có thể đến được đỉnh Cao Mã Pờ trên độ cao 1999 m sát biên giới Việt Trung, cách huyện lỵ Maliphô của Vân Nam không xa, song đành chịu khất lần sau. Ngược dốc băng qua Yên Minh, đến đất Đồng Văn, đoạn gần Phố Cáo đường dốc cua tay áo lại bị trận lũ năm trước bóc hết mặt trơ đá lởm chởm. Từ đoạn này trở lên, bắt gặp những trung tâm cụm xã song nhà ở còn rất lèo tèo, nghe đâu vì kiểu quy hoạch này không hợp với phong tục bà con người dân tộc nên họ không chịu đến ở. Đường treo leo trên cao thấy thấp thoáng bóng ngôi nhà cổ trong tán cây um tùm long thung lũng Sà Phìn, đó là nhà Vương. Bóng chiều chạng vạng, sương khói mờ ảo, rồi quá mù thành mưa. Chốc chốc lại bặt gặp đôi ba người dân say rượu tan chợ đi vắt sổ dặt dẹo ba bước tiến hai bước lùi trên đường tan chợ về. Kia nữa, một cô gái Mông còn trẻ say rượu nằm ngủ bên vệ đường, đầu gối lên tảng đá, váy áo vẫn xếp nếp che chân, che mặt...    

          Đêm thị trấn Đồng Văn se lạnh và có gì đó bí ẩn lan tỏa từ phía dãy phố cổ. Sáng hôm sau, chúng tôi đi Mã Pì Lèng trên chiếc xe rất ngon của Huyện uỷ Đồng Văn. Anh lái xe vừa thạo đường vừa hay chuyện. Những câu chuyện đường rừng ngồ ngộ nửa hư nửa thực. Hỏi Mã Pì Lèng có cao không? Chuyện kể rằng, có một đôi vợ chồng người Mông đi nương, chẳng may người vợ đánh rơi chiếc gàu sắt múc nước xuống sườn núi phía sông Nho Quế. Chiếc gàu rơi mãi cho đến tận sáng hôm sau mới rơi được nửa chừng. Hơn chục cây số đèo dốc treo leo với những cua tay áo, chúng tôi đến được đỉnh Mã Pì Lèng trên đất Mèo Vạc. Tấm bia đá ghi rõ : " Nhân dân vùng núi tiến kịp vùng xuôi, Trung ương Đảng khi về Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang, Đồng Văn, Mèo Vạc. Khởi công ngày 10-9-1959. Ngày hoàn thành 10-9-1965. Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc Cao Bắc Lạng, Hà Tuyên Thái, Nam định,Hải dương. Riêng dốc Mã-pì-lèng công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường ". Đứng từ đây phóng tầm mắt, sông Nho Quế mảnh như một sợi chỉ bạc uốn lượn trong sương núi huyền ảo. Tôi biết đến địa danh này qua thơ của Xuân Diệu và hối ký văn học Cát bụi chân ai của Tô Hoài. Trong thơ Xuân Diệu, Mã Pì Lèng đầy khí thế, còn qua hồi ký Tô Hoài lại có gì đó u uẩn. Núi hay người ? Người là núi và núi cũng là người chăng ?!...

          Nhà Vương ở thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, trên độ cao 1600m. Nhìn gần đồ sộ uy nghi kiểu dinh thự, khác hẳn với góc nhìn từ trên đường núi cao vì khi ấy có vẻ hơn như một khu chùa cổ. Tuy đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1993, song chưa được khai thác với mục đích du lịch vì bên trong còn những 6 gia đình con cháu ông Vương Chí Sình sinh sống. Nay huyện mới trưng dụng cấp nhà cho họ ra bên ngoài ở, nhằm bảo vệ di tích theo tinh thần Luật Di sản, và chuẩn bị khai thác vào mục đích du lịch. Anh cán bộ Phó Văn phòng huyện ủy phải vào Trường Tiểu học Lũng Phìn xin phép nhà trường cho cháu Vương thị Giàng, học sinh lớp 4, cháu 4 đời của ông Vương Chí Sình, nghỉ tiết học thể dục mở khóa cửa khu nhà cho chúng tôi vào tham quan. Theo bản thuyết minh của huyện, thì khu nhà này được bang tá Vương Chính Đức ( cha ông Vương Chí Sình ), người một thời từng được mệnh danh là Vua Mèo, cho xây dựng và khánh thành vào năm Khải Định thứ tám ( 1923 ). Khu nhà có cả thảy 64 phòng với chiều sâu 56m, bề rộng 22m và chiều cao từ 10 đến 12m, theo lối kiến trúc Trung Hoa đời Thanh kết hợp với phong cách bản địa, do các thợ giỏi từ Vân Nam, Quảng Tây cung hàng ngàn dân phu kiến tạo , tốn một khoản tiền lớn tới 15 vạn đồng bạc trắng ( 1 đồng bạc trắng tương đương 50 kg ngô thời đó ). Khu nhà chính tổ hợp hình chữ Mục ( mắt ), kết cấu chiều sâu gồm Tiền dinh-Trung dinh-Hậu dinh, nó vững chắc như một lâu đài cổ châu Âu bởi tường xây đá xanh, nhất là tường bao kiên cố ( cao 2m, độ dày 0,65m, cứ cách 6m có 1 lỗ châu mai), cùng 2 lô cốt-pháo đài phòng thủ và hệ thống hầm ngầm. Tha thẩn trong khu nhà, riêng tôi rất thích thú với những bình phong, câu đối chữ Nho. Qua cổng vào, chính tiền dinh là đôi câu đối :" Gia tích thiện hiền nhân xuất nhập/ Môn phong lưu quý khách vãng lai " ( dịch nghĩa là : Nhà tích thiện người hiền ra vào/ Cửa phong lưu quý khách tới thăm ). Bức đại tự 4 chữ lớn Biên chính khả phong ( nghĩa là: Chính quyền ở biên cương này mạnh ) v.v... Tất cả những thứ đó thể hiện sự vàng son một thời của dòng họ này trên cao nguyên Đồng Văn. Vương Chính Đức nguyên chỉ là một người làm công của Thổ ty Hoàng Tự Bình, song ông là người có chí, lại có uy tín rất cao trong vùng, nên được người Pháp đưa lên làm Chánh tổng, rồi đến đầu thế kỷ 20 được cho làm bang tá, cai quản cao nguyên Đồng Văn. Khi con trai ông, Vương Chí Sình ( còn gọi là Vương Chí Thành ) nối nghiệp cha, đã giác ngộ cách mạng, đi theo Cụ Hồ, góp phần gìn giữ một khu vực biên cương  hiểm trở của tổ quốc. Ông trở thành đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I, II, từng là chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất, đồng thời được Hồ Chủ tịch tặng đôi liễn Bất thụ nô lệ- Tận trung báo quốc ( nghĩa là : Không chịu nô lệ/ Dốc lòng vì nước ).

          Rồi đây khách tham quan sẽ ra vào khu nhà này, và nó sẽ là nhân chứng về những biến động của những con người và cả vùng đất này của một  thời, là bằng chứng về xu thế tất yếu không gì cản nổi của cách mạng dân tộc, về sự bình yên và thiêng liêng của toàn vẹn lãnh thổ !...

          Đường lên Lũng Cú trùng trùng núi, vẫn còn những nương ngô cằn cỗi vàng xỉn trên dải đá xanh lởm chởm, nhưng xem ra đất ở đây có vẻ màu mỡ hơn. Đồn biên phòng Lũng Cú rất nên thơ trong lùm xanh cây cối hoa lá, điều này chứng tỏ sự chăm chút của anh em chiến sĩ nơi đây ngoài nhiệm vụ chính canh giữ bình yên vùng biên cương hiểm trở của tổ quốc. Phó đồn trưởng Mạc Hà Túy đưa chúng tôi đến thăm Trạm biên phòng Lũng Cú rồi trèo lên đỉnh cao chân cột cờ Lũng Cú. Từ đỉnh này nhìn xuống, hai bên chân núi là hai hồ nước. Thì ra, đấy là hai mắt rồng, lý giải cái tên Lũng Cú là cách gọi chệch âm Hán của cụm từ mắt rồng mà thành. Lấm chấm những nóc nhà người dân tộc Lô Lô, một bản của Việt Nam. Song câu chuyện của chúng tôi nơi đỉnh cao chóp nhọn tổ quốc lại về người chiến sĩ quân y Trần Minh Tuấn của Trạm biên phòng Lũng Cú. Người mà tất thảy bà con dân tộc thiểu số vùng đất mũi nhọn này đều gọi một cách thân mật Bác sĩ Tuấn. Anh không quản ngại, nề hà chữa chạy bệnh tật cho bà con, còn bày cho mọi nhà cách ăn ở sạch sẽ, dạy cho các cháu chữ nghĩa, điều hay lẽ phải. Cuộc sống nơi đây là thế, cái hay cái tốt của đường lối, chính sách lớn lao thường lại thông qua những chi tiết cụ thể, qua hành vi ứng xử của một con người...

          Đường về, chúng tôi tạt qua Phố Bảng. Cái thị trấn biên giới vang bóng một thời từ đầu thế kỷ 20 với tư cách là huyện lỵ Đồng Văn, không còn sự sầm uất xưa, song ở đó vẫn  phảng phất bóng dáng vương giả cũ, lại xen chút u hoài qua dãy phố cổ người Hoa và nền móng nhà Vương (nhà Vương thứ hai, nơi Vương Chí Sình ở khi giữ chức chủ tịch UB hành chính Đồng Văn ), nền phố xá ngày trước... 

          Quanh quanh đường núi chênh vênh, kìa bên rìa mép đá, hai đứa trẻ người Mông, con chị chừng dăm tuổi, thằng cu em mới độ chập chững đi, chúng ngồi vắt vẻo, chắc chờ cha mẹ, hút dưới chân là vực thẳm sâu đến ba bốn chục thước. Mọi người ồ lên ái ngại. Nhưng đâu có phải là lần đầu thấy, tôi đã nhiều lần thấy đó đây trên các nẻo đường rẻo cao Tây Bắc, Việt Bắc. Song cảm nhận, có gì mong manh quá. Sự mong manh dễ đổ vỡ còn thấy ở thân phận con người dày nỗi nhọc nhằn. Đó là thân phận những cô giáo cắm bản, những cô gái người dân tộc còng lưng vừa gùi vừa xe sợi gai, thân phận những tráng niên say rượu dặt dẹo cuối buổi chợ phiên như bị đè nặng bởi dãy dãy can rượu ăm ắp. Nhớ đến câu nói vui của cánh nhà báo, rằng bà con nơi đây rượu nhiều như nước sông Lô mà lòng se lại. Cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số trên vùng cao nguyên đá này khá khẩm lên nhiều lắm. Nhưng chao ơi, cũng còn quá nhiều việc phải lo nghĩ, phải làm !...

 

          2.

Mặc dù làm báo chuyên nghiệp, song bước vào năm đầu của thế kỷ 21, tôi vẫn chỉ biết đến vùng đất Hà Giang địa đầu này qua bài hát “Hà Giang quê hương tôi” của nhạc sĩ Thanh Phúc với giọng hát tuyệt vời của nghệ sĩ gạo cội Kiều Hưng: “Ai về thăm quê hương tôi,/ nơi biên cương là đây/ có rừng cây thiên nhiên xanh biếc một màu/
Đây Hà Giang, đây Hà Giang quê chúng tôi...
“. Ấy là một thiệt thòi lớn. Vậy nên, sau đó, ngay lần đầu lên với Hà Giang, tôi đã say như điếu đổ mảnh đất này, và có thể nói, cho đến tận giờ, đây là tỉnh duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã đi tất cả các huyện, còn hơn cả Hưng Yên quê gốc tôi...

          Như bao người, lần đầu đến với Hà Giang, sau công việc chính ở thành phố, chúng tôi thẳng tiến phía Bắc, lên Cổng trời Quản Bạ, rồi vượt Yên Minh, qua Phó Cáo, đến thung lũng Sà Phìn thăm nhà Vương, rồi lên cột cờ Lũng Cú, về thị trấn Đồng Văn, và gắng thêm nữa lên Mã-pì-lèng, chọn điểm ngắm sông Nho Quế từ trên cao. Khi về thì tạt ngang Phố Bảng. Vậy cũng là thỏa mãn rồi. Song phàm người ta, biết một lại muốn biết hai, có ba có bốn lại đòi có năm, nên từ lần sau, lên đến Yên Minh thì tôi tạt ngang sang Mèo Vạc. Chuyến đi này, có nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, thân sinh kiến trúc sư-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, phóng viên trẻ Nguyễn Thịnh của VOV Giao thông, hơn nữa, lại có một nữ phóng viên trẻ xinh của Đài Phát thanh truyền hình tỉnh với vai trò hướng đạo. Dọc đường đi, câu chuyện trong xe rôm rả, thơ nhạc rổn rảng, nhất là câu chuyện trêu đùa nhau của đôi phóng viên trẻ, vì thế mọi người quên đi sự e ngại khi xe leo những cung đường cheo leo, một bên vách đá dựng đứng, còn bên kia là vực sâu thăm thẳm. Khi xe từ Mậu Duệ, sang Tà Lủng để đến thị trấn Mèo Vạc, trời đổ hoàng hôn, đường vắng teo, xe lao trong bóng chiều đỏ lựng, chuyển sang chạng vạng, tạo nên một cảm giác hư ảo như mê ngủ, và phố thị Mèo Vạc cũng hiện ra trong vầng sáng điện vàng khè chìm đắm giữa núi rừng hùng vĩ...

          Mệt nhọc và men rượu khiến giấc ngủ đến nhanh. Sáng trở dậy, sương mù giăng khắp nẻo. Sau khi lót dạ bằng món bánh cuốn trứng nóng hổi đặc trưng, chúng tôi thăm bản Lô Lô ngay rìa thị trấn. Đây cũng là một điểm du lịch của Mèo Vạc, khi người ta không thể đến Khâu Vai. Cũng chỉ là ngó nghiêng thôi, chủ yếu xem kiểu cách nhà cửa, nếp sinh hoạt của bà con dân tộc Lô Lô nơi đây. Đích chuyến đi này, ấy là Bắc Mê, vùng đất phía đông của Hà Giang, ở đấy có di tích Căng Bắc Mê, vốn xưa là Trại lính kiêm nhà giam của Pháp thời kháng chiến. Hỏi thăm dân bản địa đường từ thị trấn Mèo Vạc đi Bắc Mê, rồi cứ tọa độ ang áng vậy mà đi. Đường nhỏ cheo leo nhưng khá tốt, vắng vẻ đến mức xe chạy hàng chục cây số không một bóng người trên đường, đến nỗi khiến chúng tôi e ngại lo nhầm đường, và có muốn dừng xe để hỏi thăm cũng chẳng có ai để mà hỏi. Đành cứ thế đi liều, may mà đúng đường, bởi thực ra, đây là độc đạo. Ở một cung đường, chúng tôi dừng nghỉ vì bắt gặp một ngôi nhà người Mông tường rào đá, cổng gỗ đặc trưng khá đẹp. Vào nhà, đánh tiếng, vợ chồng chủ nhà đang nấu rượu. Họ mời chúng tôi nếm rượu, hứng chén vào vòi chảy của nồi rượu đang lên hơi. Nhấp thử thứ rượu ngô nóng hổi nấu từ mèn mén, nồng nồng ngai ngái. Hỏi chuyện chủ nhà, huyên thuyên một hồi, rồi chào nhau đi, không quên mua theo một can rượu ngô 5 lít cho vui lòng nhau. Không ngờ, tuyến đường này lại xuyên qua đất của Bảo Lạc, Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng, mà nếu ai đó, đi du ngoạn đến thành phố Cao Bằng, có mong muốn  thăm thú mấy, cũng phải ái ngại khi nhắc đến hai địa danh phía tây này của Cao Bằng.

          Chiếc cầu sắt, nghe nói được làm từ thời Pháp thuộc, bắc qua đôi bờ sông Gâm, nối thông thương thị trấn Bảo Lâm ( Cao Bằng ) với thị trấn Bắc Mê ( Hà Giang ). Ai ngờ ngay trên đỉnh cao nhìn xuống chiếc cầu sắt này, là Căng Bắc Mê. Dù được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh, song công tác bảo tồn ở đây khá sơ sài, đơn giản. Khi tha thẩn thăm thú di tích này, đầu tôi cứ ong ong bởi sự ám ảnh về câu chuyện không rõ thực hư, rằng một thời gian dài, nơi đây được tận dụng để giam giữ một số văn nghệ sĩ được cho là có những suy nghĩ lệch lạc về đường lối sáng tác ... Mà cũng chẳng biết nguồn gốc từ đâu và hỏi ai để rõ thực hư, nên đành bỏ ngỏ... Sự tiếp đón nồng nhiệt của các bạn đồng nghiệp ở Đài phát thanh huyện cho thấy người Hà Giang rất quý người, hiếu khách. Những câu chuyện buồn vui nghề nghiệp được kể ra trong hơi men rượu nồng.

Mùa hè 2016, tôi lên Hà Giang cùng nhà văn Nguyễn Trọng Huân và người bạn tôi, họa sĩ Lã Minh Kính, nguyên giảng viên Trường Mỹ thuật công nghiệp. Cũng tuyến đường Yên Minh-Mèo Vạc-Bảo Lạc-Bảo Lâm-thị trấn Bắc Mê. Lần này, thay vì ngủ đêm ở Mèo Vạc thì chúng tôi lại ngủ đêm ở thị trấn Bắc Mê. Đường đi, sau 5 năm có khá nhiều thay đổi, trước đây đường tốt vắng vẻ là thế, thì nay đường xấu bụi, ấy là do có đến mấy nhà máy thủy điện nhỏ đang được thi công trên sông Gâm-sông Nhiệm. Buồn ngủ, nên cũng chẳng để ý ngôi nhà người Mông trên chặng đường mấy năm trước có còn không và chủ nhân ngôi nhà ra sao.

Tự nhiên, lại thấy buồn buồn, đúng là thế gian biến cải vũng nên đồi thật. Thăm lại Căng Bắc Mê, nhà văn Nguyễn Trọng Huân cứ thắc mắc này nọ, những câu hỏi cũ như tôi từng nghe nói. Di tích càng xuống cấp và hoang vắng hơn trong nắng chiều hè lỗ đỗ trên vòm cây rừng cao vút và những bức tường gạch long lở rêu phong như phế tích...

Đêm ở thị trấn Bắc Mê khó ngủ. Họa sĩ Lã Minh Kính cứ chong chong với phác thảo đồ họa cho một sáng tác để dự Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc. Còn tôi, lại ong ong trong đầu câu chuyện năm nào về thân phận văn nghệ sĩ, rồi cả nghĩ về chặng đường đèo ngày mai...

 

3.

Trong lúc trà dư tửu hậu nơi công sở với nhau, tình cờ, tôi được biết, nhà thơ Trần Đăng Khoa chưa từng đặt chân đến đất Hà Giang bao giờ. Vậy nên, cuối thu đầu đông năm 2011, tôi chủ trì một hội thảo nghiệp vụ của Đài Tiếng nói Việt Nam với Hội Nhà báo và Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Hà Giang, trong đoàn công tác lên Hà Giang, có rủ Trần Đăng Khoa, thêm nhà thơ Trương Hữu Lợi và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền ( thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến ).

Tại hội thảo, sự có mặt và đăng đàn của một người nổi tiếng như Trần Đăng Khoa, khiến mọi người phấn khích lắm. Hôm ấy, mọi người còn ấn tượng, bởi nhà thơ Trương Hữu Lợi kể chuyện ông viết về khoán chui trong nông nghiệp ở Hải Hậu ( Nam Định ) những năm 80 của thế kỷ trước như thế nào, và việc báo chí  lên tiếng góp phần tạo tiền đề cho Chỉ thị 100 của Trung ương Đảng về khoán hộ trong nông nghiệp, cứu cả nước thoát khỏi đói nghèo. Tôi nghĩ, hẳn những người làm báo ở Hà Giang sẽ không quên cuộc hội thảo này.

Xong việc chính, cả đoàn đi dã ngoại để lấy cảm hứng viết bài. Trần Đăng Khoa bày tỏ muốn lên Đồng Văn, song phần đông lại muốn đi vùng núi đất phía Tây, gồm mấy huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì và Xín Mần, nơi giáp ranh với Bắc Hà, Simacai ( Lào Cai ). Vậy là quyết đi vùng núi đất phía Tây. Không ngờ, con đường đi Hoàng Su Phì tuy không ngược dốc dựng đứng như lên Quản Bạ, Yên Minh, những độ quanh co với những cua tay áo hẹp và liên miên lại hơn nhiều. Đến được Cổng trời vùng núi đất phía tây Hà Giang này, chúng tôi nghỉ ngơi chút ít đặng ngắm cảnh và chụp ảnh. Những thảm ruộng bậc thang ở đây tuy không tuyệt vời như Mù-cang-chải ( La Pán Tẩn, Chế Cu Nha ), song cũng rất đẹp, chẳng kém gì ở Sa-pa, và nghe đâu cũng đã được xép hạng di sản quốc gia.

Bò được đến thị trấn Quang Vinh, huyện lỵ của Hoàng Su Phì, chúng tôi loanh quanh hỏi thăm tìm trường dân tộc nội trú ở đây, có ý gặp một người quen của tôi và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền. Ấy là anh chàng có cái nick là Mắt Lạnh, mà tôi và bác Nguyễn Vĩnh Tuyền đã làm quen với nhau trên Blog Tiếng Việt từ vài năm trước, và cũng đã điện thoại qua lại lần. Tìm được trường, hỏi thì không ai biết, liên lạc điện thoại cũng không được, bèn thôi đi tiếp Xín Mần. Con đường vẫn quanh co như vậy, cho đến khi men theo dòng sông Chảy, cảnh sắc mới hiên hòa và thêm phần hữu tình. Nào ngờ, nơi sơn thâm cùng cốc như vậy mà phong cảnh lại nên thơ đến vậy. Chiều muộn, đến rìa thị trấn Cốc-pài, huyện lỵ của Xín Mần mà chẳng thể sang, bởi chiếc cầu nhỏ bắc qua sông lại đang sửa chữa, cấm lưu thông. Hỏi thăm dân bản địa mãi rồi cũng sang được bờ bên thị trấn nhưng phải mua đường và nhiều chỗ men theo sông suối đường xấu xóc nảy người.

Sau bữa cơm tối thịnh soạn tại bếp Ủy ban nhân dân huyện, có nữ Phó chủ tịch xinh đẹp, trẻ trung tiếp cơm, đoàn chúng tôi được mời tham dự đêm văn nghệ giao lưu của khu vực mấy huyện phía Tây Hà Giang tại Nhà văn hóa. Lẽ dĩ nhiên, nhà thơ Trần Đăng Khoa là nhân vật nổi bật nhất, như món quà bất ngờ cho cuộc giao lưu văn nghệ. Anh đăng đàn, kể chuyện tếu, đọc thơ trước sự chầm chồ, ngưỡng mộ của mọi người. Đoàn chúng tôi vì thế được thơm lây và quan tâm hơn. Đêm ấy, thị trấn nhỏ đông khách, hết phòng, nên đoàn chúng tôi được gửi ngủ nhờ bên Huyện đội. Cả đoàn ngủ chung trong một phòng lớn, ghép giường. Đêm lạnh, mái lùa, gió ù ù ngoài trời. Chúng tôi ai nấy khó ngủ, hết nằm lại ngồi chuyện ngẫu thâu đêm. Ai ngờ, đêm ấy trở thành kỷ niệm không thể nào quên, bời giờ đây, nhà thơ Trương Hữu Lợi đã mất do căn bệnh ung thư phổi năm 2015.

Sáng hôm sau, dậy sớm chơi chợ Cốc-pài. Đây là một chợ phiên rất nổi tiếng ở vùng này, như một số chợ phiên vungc cao nổi tiếng khác: chợ Cán Cấu ( Simacai ), Bắc Hà, Quản Bạ, Đồng Văn, Méo Vạc v.v... Chợn trên gò cao, sương mù dày đặc, bà con chơi chợ váy áo dân tộc Mông, Hà Nhì rực rỡ sắc màu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đầu mũ bê-rê đội lệch, trước ngực là chiếc máy ảnh kỹ thuật số có ống kính khủng, than thẩn hỏi chuyện và săn ảnh. Còn Trương Hữu Lợi và Nguyễn Vĩnh Tuyền thì len vào giữa đám đông váy áo sặc sỡ, chuyện trò, thử áo tìm mua mỗi người một chiếc áo chẽn Mông đen tay dài đặc trưng. Còn tôi thì săn ảnh các vị. Thật thú vị làm sao. Mặt trời lên cao, sương mù tan dần. Trong tôi, manh nha ý tứ và những câu đầu tiên của bài thơ “ Đi chợ Cốc-pài “ mà sau này được nhạc sĩ Doãn Nguyên phổ nhạc thành một bài hát hay... “ Nào em đi chợ Cốc-pài/ Tìm mua một chút sương mai mang về “...

Đêm ấy, anh chàng Mắt Lạnh gọi lại cho tôi, hẹn khi về thì chờ đón chúng tôi. Tiếc là, chúng tôi chọn tuyến khác, không qua Hoàng Su Phì nữa mà về theo đường Quang Bình, nên hẹn anh chàng ở thành phố Hà Giang. Cuối cùng thì mọi người cũng gặp được nhau. Anh chàng người dân tộc La Chí này có cái tên rất hay, Vương Bảo Thương, rồi còn mời chúng tôi thưởng thức món cháo ấu tẩu đặc sản đí phương.

Sau khi Nhà hát VOV thu thanh ca khúc Đi chợ Cốc-pài và phát sóng. Tôi có gửi tặng  Hoàng Thu Hằng, Phó Giám đốc Đài PTTH tỉnh Hà Giang, và còn nhò cô chuyển cho huyện Xin Mần. Nghe đâu, họ hay sử dụng bài hát này cho các sự kiện của huyện và có người đã chọn bài hát trong các đợt hội diễn văn nghệ ở địa phương. Tuy không nổi tiếng như ca khúc "Hà Giang quê tôi" của nhạc sĩ Thanh Phúc, thì ca khúc này cũng thuộc diện ca khúc hay về Hà Giang.

Hầu như năm nào tôi cũng lên Hà Giang một đôi lần, song cho đến đầu đông năm 2016, tôi mới trở lại cung đường này với người bạn đường quen thuộc, nhà văn Nguyễn Trọng Huân. Anh chưa từng đi tuyến đường này bao giờ nên tỏ ra vô cùng thích thú với quang cảnh vùng núi đất phía Tây này. Lại gọi điện cho anh chàng Mắt Lạnh, giờ đây đã lấy vợ, thì chàng ta đang đưa thanh niên tình nguyện xuống một xã vùng xa thị trấn. Đành lỗi hẹn. Dừng chân nghỉ tạm ở thị trấn Quang Vinh. Thấy một hàng nước mía đá, mọi người vào hàng mà không thấy chủ quán đâu, chờ một lát cũng không thấy ai, nên mấy cậu trẻ trong đoàn bèn tự ép mía, làm cho mỗi người một cốc uống giải khát. Dân bên đường thấy vậy cũng chẳng ai hỏi han gì. Uống gần hết, mới thấy một chàng thanh niên phóng xe máy về quán. Chàng ta nhìn chúng tôi thản nhiên như không, và sau giây lát ngờ ngợ, hỏi ra mới biết đấy chính là chủ quán. Nói đùa nhau một hồi, rồi trả tiền nước mía cho anh chàng, tiếp tục lên đường. Thật rõ chỉ có vùng đất này mới như vậy. Con người hồn nhiên, thoải mái, không phải đề phòng lẫn nhau. Chẳng bù cho dưới xuôi...

Lần này trở lại Cốc-pài, sau 5 năm, cảnh sắc không mấy thay đổi. Đáng nói là, chiếc cầu mói bắc qua sông vào thị trấn vừa được khánh thành trước đó chưa đầy tháng, tạo nên sự thông thương đáng kể cho vùng núi đất phía Tây này với Bắc Hà và Simacai của Lào Cai. Thêm nữa, cái chợ Cốc pài bị cháy trước đây hơn năm, nay đang được xây lại. Ăn bữa cơm trưa ở quán cơm bình dân thị trấn, thật ngon miệng. Nâng ly rượu lại bùi ngùi nhớ nhà thơ Trương Hữu Lợi, khi anh đã là người thiên cổ hơn năm rồi. Ngày ấy, anh thật vui và hồn nhiên như trẻ thơ...

Chúng tôi hỏi đường, thông sang Bắc Hà ( Lào Cai ). Cung đường này lần đầu tôi đi, cũng gian nan không kém, dọc dường, bắt gặp một cô gái trẻ ngồi xem bản đồ bên đường. Hỏi ra, cô bé mới tốt nghiệp đại học, đang làm thuê cho một hãng lữ hành, đi phượt một một mình để tìm hướng cho kinh doanh du lịch. Ôi, tuổi trẻ giờ thật táo bạo. Lại bắt gặp hai mẹ con người Mông ngồi trên mỏm đá chênh vênh bên bờ vực giữa trời đất bao la... Tha hồ lựa góc chụp ảnh. Đường gập ghềnh, sóng 3G chập chờn, ấy vậy, tôi vẫn gõ được bài thơ mới "Trở lại Cốc-pài" trên chiếc Galaxy Note 3... ” Năm nao đi chợ Cốc pài/ ngẩn ngơ váy áo sương mai tan dần,/ Kể từ ngày ấy lần khân/ hẹn người trở lại bao lần lại thôi, ... Hôm xưa chơi chợ sớm mai,/ nay mình trở lại Cốc pài đã trưa...”.

 

4.

Tôi trở đi trở lại với vùng đất Hà Giang bao nhiêu lần rồi tôi chẳng nhớ. Đơn giản, tôi yêu vùng đất cao nguyên địa đầu này, bởi đá, bởi cảnh sắc, bởi thời tiết thổ ngơi, hay bởi  con người... thì cũng chẳng rõ. Chỉ có thể nói, tôi yêu tất cả không gian, quang cảnh của vùng đất này mà thôi...

Thực lòng, năm nào tôi cũng mong muốn và đều cố gắng thu xếp công việc để lên với vùng cao nguyên đá này ít nhất một lần, nhất là mỗi độ thu sang, đông về, hoặc dịp cuối năm, sắp tết... Năm 2013, rập rình mãi rồi đành lỡ hẹn với Hà Giang, cho đến hè 2014...

Xong công việc ở huyện lỵ Bắc Quang, tôi và nhà nhà thơ Trần Đăng Khoa cùng một vài đồng nghiệp VOV lên thành phố Hà Giang để sáng hôm sau leo tuyến Quản Bạ-Yên Minh-Đồng Văn. Biết tin chúng tôi lên, anh chàng Vạn Lý đã í ới gọi điện, nhắn tin chờ đón từ mấy hôm trước. Với nhà thơ Trần Đăng Khoa, đây là lần đầu anh lên Đồng Văn nên ít nhiều háo hức, thắc thỏm. Dọc chặng đường leo núi, chốc chốc bắt gặp những khúc quanh ngoạn mục, những cảnh núi đá cheo leo, hùng vĩ bắt mắt, anh lại dừng xe, chọn cảnh, lựa góc để giương chiếc máy ảnh ống kính xịn lên bấm xì xạch tác nghiệp. Vì thế, khi lên tới thị trấn Quản Bạ, sương cũng đã tan trên Cổng Trời, cặp núi đôi nắng rọi và chợ huyện cũng đã dần vãn. Nghỉ chân làm chén nước trà, nhâm nhi vài món bánh trái sản vật địa phương, hỏi thăm và người quen, ngó nghiêng cái phố huyện này cũng thấy thu thú. Được biết, thầy giáo Phạm Văn Tình, hiệu trưởng trường THCS Tam Sơn, nhà thơ địa  phương của vùng đất Quản Bạ và ngành giáo dục Hà Giang, một người quen cũ của tôi từ gần chục năm trước khi lần đầu tôi lên Hà Giang, cũng đã nghỉ hưu mấy năm rồi. Tự nhiên lại nhớ mấy câu thơ trong bài thơ "Nỗi niềm cô giáo vùng cao " của Phạm Văn Tình. Tiếc là chẳng đủ thời gian để ghé thăm anh. Thôi đành hẹn anh dịp khác vậy... Sốt ruột, chốc chốc Vạn Lý lại gọi điện hỏi xem đoàn đã tới đâu rồi. Anh chàng luôn luôn nhắc là mình đang đợi mọi người ở Sủng Là, nơi có nhà Pao nổi tiếng. Với mảnh đất Hà Giang, chỉ có nhà Vương là đáng kể, chứ đâu có nhà Pao nào nhỉ ? Tôi cứ rẩm riu nghỉ vậy, song chưa tiện hỏi Vạn Lý...

Lên tới Sủng Là thì trời đã đứng bóng. Anh chàng Vạn Lý đã chấp chới bên lề đường giơ tay làm hiệu vẫy đón chúng tôi. Gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Đã từng biết văn thơ, thấy hình bóng nhau thấp thoáng trên Blog Tiếng Việt, rồi cũng đã từng í ới với nhau qua điện thoại bấy lâu, nay gặp nhau là nhận ra ngay chẳng cần phải giới thiệu. Những cái xiết tay thật chặt, những cái nhìn hồ hởi toát nên sự chân thành. Ôi, cái anh chàng một thời gian dài lấy cái nick " muahoaomoinomuon" ( mùa hoa ô môi nở muộn ) rất chi là điệu đà này, không ngờ lại là một người khá to con và dáng vẻ bên ngoài có gì đó " bụi bặm ", lãng tử. Nay với cái nick mới là Vạn Lý thì có vẻ hợp đây. Nhưng còn để xem đã...

Trong căn nhà đơn sơ, vợ chồng Vạn Lý tiếp chúng tôi bằng những ly nước mía đá ngon ngọt, thanh khiết, sản vật của người dân nơi đây. Tôi chợt nhận ra, thời tiết nơi đây thật dễ chịu. Trưa đứng bóng, nắng vẫn hong vàng mà cảm giác lại se se lạnh, khi mà vừa chiều tối qua, nơi huyện lỵ Bắc Quang và thành phố Hà Giang trời vẫn còn nóng hầm hập. Ôi, có gì đó báo hiệu sự thú vị cho chuyến trở lại cao nguyên đá lần này...

Để kiếm kế sinh nhai, anh chàng Vạn Lý mở cửa hàng ngay tại nhà mình chuyên về điện thoại di động. Nhìn quầy hàng đơn giản, có thể đồ đoán là anh chàng này kiêm luôn cả mấy việc bán máy, bán sim, sửa chữa điện thoại di động, và có vẻ như chủ quán cũng không mấy chuyên tâm...

Thời gian lưu lại nhà Vạn Lý chỉ chốc nhát, song tôi cũng biết được anh có vợ và hai cậu con trai. Vợ anh nguyên là cầu thủ bóng chuyền nữ của Hà Tây cũ. Những người có chiều cao khiêm tốn như nhà thơ Trần Đăng Khoa và tôi thì đều phải ngước mắt nhìn lên mà ngưỡng mộ chiều cao của cô. Nhanh nhẹn, hoạt bát trong tiếp khách của chồng, nhưng cô luôn chủ động né tránh việc chụp ảnh kỷ niệm với chúng tôi...

Vì cho kịp kế hoạch thăm nhà Vương trước khi dùng bữa trưa đã đặt sẵn ở một nhà hàng thuộc chân núi cột cờ Lũng Cú, đành tạm biệt gia đình Vạn Lý. Chúng tôi lên đường đến nhà Vương ở thung lũng Sà Phìn, với sự dẫn đường của Vạn Lý. Giờ mới biết tên thật của Vạn Lý là Tuấn Nghĩa. Còn cái nichk trên mạng thì chắc là anh chàng lấy theo cái tên của nhân vật Vạn Lý Độc hành Điền Bá Quang, một nhân vật lãng tử thái hoa nổi tiếng giang hồ trong tiểu thuyết chưởng " Tiếu ngạo giang hồ " của Kim Dung đây. Với riêng tôi, đã từng thăm nhà Vương và Cột cờ Lũng Cú ( cũ ) từ chục năm trước trong lần lên Hà Giang đầu tiên. Tuy không xa lạ, song mỗi thăm mỗi nhận biết thêm những điều mới mẻ, hoặc hiểu sâu hơn những ẩn ý bên trong, mà qua đó thấm hiểu lịch sử một thời của vùng đất gian khó này...

Cái thú của chuyến lên cao nguyên đá lần nảy, là sự gặp gỡ, quen biết với anh chàng Vạn Lý-Tuấn Nghĩa. Trong cái lắc lư, nghiêng ngả mỗi khi xe băng qua đoạn đường gập nghềnh, khúc cua quanh co, con người Vạn Lý lại hiện ra rõ lên một chút, hoặc qua câu chuyện anh chàng tự kể, hoặc qua những mẩu hội thoại mà nhận ra... Vạn Lý quê Lập Thạch ( Phú Thọ ), từng là lính thuộc Bộ Tư lệnh binh chủng Tăng Thiết giáp. Xuất ngũ, trải qua một số công việc, rồi trôi dạt lên vùng cao nguyên đá Đồng Văn nay. Cái mầm cây " bụi bặm" và chất lãng tử giang hồ khi gieo xuống mặt đất những đá là đá nơi đây, mọc ngay lên thành cây, loài cây trên đá. Rồi đó, trời xe duyên cho anh chàng lãng tử với nữ cầu thủ bóng chuyền gốc quê lụa nhỉnh hơn anh chàng một cái đầu. Hai thằng cu trứng gà trừng vịt theo nhau ra đời. Cái gia đình này, khi đã có một mái nhà trú ngụ, mua lại của một gia đình người dân tộc, để che sương che nắng, thì xem như đã là một thực thể đủ tư cách, điều kiện đứng chân trên bề mặt địa cầu rồi. Cũng chưa rõ, vợ Vạn Lý làm công việc gì, còn riêng với anh chàng, thì ngoài cái cửa hàng điện thoại tại gia ấy, anh làm đủ thứ công việc để có thu nhập, đại loại như lái xe thuê, hướng dẫn khách du lịch lữ hành v.v... Đã sẵn máu lãng tử, lại thêm nghề du lịch lữ hành, Vạn Lý làm thơ, viết báo, nhiếp ảnh nghiệp dư, và ít nhiều mon men vào lãnh địa chơi ô-tô, mô-tô cũ...Những lúc thấy Vạn Lý cao hứng về mấy thú chơi này, tôi cảnh tỉnh ngay: " Làm gì thì làm, chơi gì thì chơi, song không được phép xao nhãng việc nhà, không thể để cho vợ con thiếu thốn, thất học...". Vạn Lý vâng dạ và cười thật sảng khoái. Quả là anh chàng này có cái cười khá đặc biệt, có lẽ tôi chưa từng thấy ở ai, chưa từng nghe ở đâu thì phải...Tiếng cười, thoạt đầu nhỏ rồi rộ lên thoải mái hết mình và nhỏ lại thành một chuỗi thanh âm đều và dài dường như không dứt, nhưng khi dứt lại đột ngột bặt luôn. Kiểu cười lạ ấy, có gì đó ám ảnh tôi...

Đó đây, trong ký sự này, hoặc phảng phất trong những câu thơ của tôi về miền cao nguyên đá Hà Giang, có bóng dáng của nàng sơn nữ áo đỏ. Có lẽ, nhiều người yêu thích thơ Tố Hữu khó mà quên được câu thơ ấn tượng " Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi ..." trong bài thơ Việt Bắc của ông. Quả là, ở chốn rừng xanh, cái màu đỏ, của hoa chuối hoặc bất kỳ loài hoa màu đỏ nào khác đều nổi bật, và càng nổi bật và cuốn hút hơn, ấy là màu khăn, màu áo đỏ của thiếu nữ, đàn bà...

Vậy nên, trong chuyến trở lại cao nguyên đá lần này, đã có một màu đỏ áo áo thiếu phụ phảng phất trong tôi...

Với riêng tôi, mỗi lần lên với Hà Giang, là một phát hiện về con người của vùng biên ải đặc sắc này. Lần đầu tiên, từ ngót mười năm trước, tôi quen biết Thu Hằng.-nữ trưởng phóng Phóng viên của Đài Phát thanh Truyền hình địa phương, đến nay, cô đã trưởng thành với chức vụ Phó Giám đốc Đài tỉnh, còn tôi thành người thân của cả gia đình cô; Lần lên sau đó, tôi tìm gặp và quen biết một chàng thanh niên họ Vương người dân tộc La Chí, là giáo viên một trường Dân tộc nội trú ở Hoàng Su Phì ( ấy là blogger Mắt Lạnh trong Blog Tiếng Việt ); Rồi nữa, tiếp sau là anh Phúc.- Phó chủ tịch Hội Nhà báo Hà Giang, một nhà báo yêu nghề và đặc biệt say mê và một tay chơi âm thanh sành điệu...

Lần này thì, lãi to hơn, ngoài anh chàng Vạn Lý giang hồ lãng tử như tôi vừa kể, còn có nàng sơn nữ áo đỏ, họ Kim, người dân tộc Tày đột ngột xuất hiện như từ trên trời rơi xuống...

Nhớ là, hôm lên, sau bữa cơm chiều hơi quá chén ở huyện lỵ Bắc Quang, chúng tôi lên thành phố Hà Giang. Vừa nhận phòng khách sạn, chưa kịp tắm rửa, ngả lưng lơ mơ tạm bợ cho bớt say, thì nghe tiếng chuông phòng kêu vang. Choàng tỉnh, ra mở cửa, thì ngay trước mắt tôi là hai thiếu phụ, một sắc phục công an, một áo phông đỏ lẳn trong quần jean lửng bó. Chắc là họ nhầm phòng, tôi thoáng nghĩ. Còn chưa kịp hỏi, thì thiếu phụ áo đỏ đã nhau nhẩu : " Hai đứa chúng em là bạn thân học phổ thông ngày xưa với Th. nhân viên của anh... Chúng em trân trọng mời anh cùng chúng em đi uống cà phê ngắm phố phường Hà Giang...". Tôi đang muốn được ngủ một chút bèn từ chối khéo là mình hơi mệt và còn khuyên họ sang mời nhà thơ Trần Đăng Khoa ở phòng bên....

 

5.

Sáng hôm sau, tôi mới được Thuận, nữ đồng nghiệp họ nhà VOV giới thiệu về cô nàng họ Kim này, và ngỏ ý xin phép tôi cho cô cùng tham gia đoàn chúng tôi lên Đồng Văn. Nàng Kim áo đỏ ngồi cùng xe Trần Đăng Khoa, và vì vậy, tôi mới có điều kiện tìm hiểu để biết thêm về nhân thân nàng Kim. Ngày còn đi học, nàng ta yêu sớm, vừa tốt nghiệp phổ thông đã yêu và nhanh chóng về làm dâu nhà người. Chồng của nàng Kim, một anh chàng người Mông học cùng trường. Nghe nói, cái mối tình trai Mông-gái Tày này cũng dữ dội và ly kỳ lắm thay. Nàng sớm có con gái đầu lòng nên đường học hành ít nhiều lỡ dở. Bố chồng nàng Kim vốn là một trí thức quan chức có tiếng ở địa phương. Hỏi ra, mới biết, từ lần lên Hà Giang đầu tiên, tôi cùng một vài nhà báo của VOV và Đài báo tỉnh đã  từng đến tận gia đình ông này để phỏng vấn nhân dịp lễ kỷ niệm thành lập tỉnh. Có bố chồng là một trí thức người Mông, lại thuộc hàng quan chức tỉnh, nên cô về làm dâu với nhiều thuận lợi về công việc và điều kiện ăn ở. Nhưng rồi, như một quy luật định sẵn. cái gì đến nhanh thì cũng đi nhanh... Họ yêu nhau dữ dội và nhanh chóng nên vợ nên chồng, sinh con đẻ cái, rồi ngay đó, hạnh phúc đôi lứa và sự yên ấm gia đình nhanh chóng tiêu tan, tất cả chỉ bởi cái tinh cả ghen và tật suốt ngày say xỉn của anh chồng mà ra. Thêm nữa, mỗi khi ghen quá hóa mất khôn, mỗi khi say xỉn, anh ta về nhà giở thói vũ phu, hành hạ, đánh đập, đuổi vợ chạy cùng đường phố chợ... Hạnh phúc gia đình nhau chóng tiêu tan, thì sự hành hạ và cam chịu lại kéo dài suốt tháng nhiều năm... Cứ thế, như chẳng bao giờ chấm dứt, thử hỏi con người ta chịu đựng sao đây. Cả hai bên gia đình đều cảm thông, chia sẻ với cô, song rồi đến một ngày, họ mới xong cái thủ tục pháp lý để ai đi đường người nấy. Nghe nói, dù gia đình bên chồng khá giả, nhưng người chồng sau đó thân tàn, dặt dẹo, nghiện ngập, bệnh tật và mới mất cách đây vài năm...

Cái chết ấy của người chồng cũ, mặc dù họ đã ly dị nhau đến bảy năm rồi, có thể nàng Kim vẫn ít nhiều cảm thấy có lỗi, song nó thực sự chấm dứt sự khổ ải về cả thể xác lẫn tinh thần, đem lại một cuộc sống mới cho cô... Để có một nàng Kim trẻ trung, hoạt bát  trong trang phục áo phông đỏ, quần jean bó lửng rất chi là hiện đại của ngày hôm nay...

Rồi cũng lại như một sự đền bù, đứa con gái của họ xinh xắn, học hành nên người, có công ăn việc làm, lập gia đình, và vừa mới đây, nàng Kim đã lên chức bà ngoại. Ôi, mới ngoài bốn mươi, lại như chim vừa xổ lồng, nàng Kim-bà ngoại bốn mươi này, có gì đó na ná giống bà ngoại trong một bài thơ của Nga có tên " Bà ngoại vội ra nơi hò hẹn " mà tôi không nhớ tên tác giả, chỉ nhớ mỗi câu kết bài thơ: " Bà ngoại vội ra nơi hò hẹn/ Bởi vì bà mới có bốn mươi thôi...

Nhớ hôm từ thành phố Hà Giang lên Đồng Văn, dọc đường dừng đây đó để nhà thơ Trần Đăng Khoa chụp ảnh, rồi ghé chơi chợ phiên Quản Bạ, khiến anh chàng Vạn Lý sốt ruột, chốc chốc lại điện thoại hỏi mọi người đã đi đến đâu rồi. Vạn Lý lo mọi người chưa thuộc đường nên cứ dặn đi dặn lại rằng nhà mình ở Sủng Là, nơi có nhà Pao...

Tôi hơi lấy làm lạ vì mảnh đất Đồng Văn này thì chỉ có Nhà Vương ( dinh thự cha con vua Mèo, Vương Chính Đức & Vương Chí Sình ), chứ làm gì có nhà Pao nào nhỉ ? Rẩm riu trong bụng vậy, song tôi cũng không tiện hỏi lại Vạn Lý xem nhà Pao là cái nhà gì.

Lúc ngồi uống nước mía đá trong nhà Vạn Lý rồi, chợt nhớ, tôi bèn hỏi Vạn Lý chuyện này. Ôi, thì ra, nhà Pao là một ngôi nhà cổ của người Mông ở Sủng Là, được các nhà làm phim " Chuyện của Pao " ( kịch bản chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của nhà văn Đỗ Bích Thúy ) mượn làm phim trường chính quay bộ phim này, và sau đó bộ phim được trao Giải Vàng của Liên hoan phim toàn quốc, rồi được gửi dự Liên hoan phim quốc tế ...Thế là ngôi nhà ấy bỗng nổi tiếng, trở thành điểm tham quan du lịch cho khách mỗi khi lên Đồng Văn; và không những thế, còn được người ta chi tiền để tu bổ, bảo tồn...

Song, ngay trưa đó, chúng tôi không vội rẽ vào thăm nhà Pao, chỉ cách nhà của Vạn Lý chừng vài trăm mét, vì vội cho kịp độ đường, vả lại, muốn dành sự tò mò cho lúc về...

Sáng hôm sau, khi đã Nhà Vương, đã Lũng Cú, Mã-Pì-Lèng, đã cà phê đêm phố cổ Đồng Văn rồi, về tới Sủng Là, chúng tôi mới rẽ vào nhà Pao. Tôi đã xem phim "Chuyện của Pao" một lần, và cũng đã cách đây lâu lâu rồi, nên chỉ nhớ mang máng ngôi nhà cổ người Mông trong phim và một số tình tiết trong phim, song khi vào đến nơi, vẫn có cảm giác là lạ. Gì nhỉ ? Trước hết là những ruộng hoa hồng phía ngoài ngõ bản, giống hồng, cách trồng bón, chăm tỉa khá chuyện nghiệp, gợi nhớ xứ sở hoa hồng Bun-ga-ry mà tôi mới thăm năm ngoái; rồi nữa, là cái cổng gỗ mới được tôn tạo... Nhưng khi vào trong sân, lại bắt gặp những nét thân thuộc trong kiến trúc, vật dụng của văn hóa Mông. Người lớn, trẻ con líu ríu cả bầy. Người phụ nữ, hẳn là chủ nhà, mang can rượu ra cùng bộ ly nhỏ, rót mời khắp lượt chúng tôi... Đấy là phong tục hiếu khách của người Mông. Vạn Lý nói chuyện với chủ nhà bằng tiếng Mông, còn nàng Kim thì trẻ trung, nhí nhảnh trong bộ váy áo màu đen, hết tựa cột gỗ, lại lêo lên lưng chừng cầu thang làm dáng nhờ tôi bấm máy cho mấy kiểu ảnh... Có gì đó, na ná cuộc đời của các nhân vật trong bộ phim, tôi bất chợt lấy cuộc đời của nàng Kim mà so sánh... Phong tục xưa cũ, lạc hậu, cùng sự thiếu thốn về vật chất và tinh thần, sự kém hiểu biết, và sự hẻo lánh về địa lý... còn trói buộc cuộc sống của bà con người dân tộc thiểu số vùng cao đến bao giờ nữa đây ?...

Chia tay anh chàng lãng tử Vạn Lý, xe xuôi về thành phố Hà Giang. Vẫn còn đó những khúc cua kinh người, những vực thẳm hiểm trở, những đá núi ngổn ngang, cùng mây trời lang thang...

Và vẫn còn đó, nàng Kim, đã bớt nói cười, như có gì đó tư lự theo nhịp xe chạy ...

Đồng Văn, Sủng Là đã là phía sau rồi...

 

6.

Kể từ lần gặp nàng Kim ấy, thỉnh thoảng thấy hình bóng nàng Kim trên Facebook, tùy tâm trạng, cũng cảm nhận vào đôi câu. Đã có gì tươi tắn trên những bức ảnh, và như vậy, có thể hiểu với nàng Kim, những tháng ngày u ám đã qua rồi...

Đầu đông năm 2015, tôi lại có chuyến công tác lên Hà Giang, với những người đồng nghiệp, bạn đường quen thuộc là nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhà báo Nguyễn Thịnh. Chuyến đi này mang yếu tố điền dã, thêm tư liệu và lấy cảm hứng để viết bài Tết. Rủ thêm nàng Kim, nhận lời đi cùng. Thẳng đường thành phố Hà Giang, lên cổng trời Quản Bạ, lang thang phiên chợ chợ cuối tuần, rồi Yên Minh, Đồng Văn. Lần  đi này, chúng tôi không lên Cột Cờ, Lùng Cú, hay Mã-pì-lèng nữa, mà dừng ở Sủng Là, thăm gia đình anh chàng Vạn Lý. Trước chuyến đi, tôi báo tin, Vạn Lý vui lắm, nhắn qua điện thoại là “ Không ăn hàng quán  gì cả. Chú ưu tiên, ăn bữa cơm gia đình với nhà cháu. Vợ cháu nấu ăn ngon lắm, món miền xuôi, miền ngược đều ngon cả. Rồi chú sẽ thấy...”. Lời quảng bá tài nấu ăn của vợ Vạn Lý nghe thật hấp dẫn. Thực ra, thử tài nấu nướng của vợ Vạn Lý là phụ, cái chính là muốn hưởng cái không khí bữa cơm gia đình trên vùng câo chót vót này.

Đường lên, vẫn quanh co đèo dốc, vượt cổng Trời Quản Bạ, rồi Yên Minh. Vớt vát chút nương rãy hoa tam giác mạch muộn, nên mọi người dừng chân chiêm ngưỡng và chụp ảnh, nhất là khi có mấy cháu bé gái người dân tộc thiểu số trong trang phục dân tộc mình, chụp cùng.

Nghe nói, cái tên hoa tam giác mạch là do dân báo chí đặt cho, dựa theo hình dáng của loài hoa này mà thành tên. Có nhiều người cho mình là tác giả của cái tên và cách gọi này. Thật chẳng biết tin ai. Thực ra, nó chỉ là một loạt cây lương thực có cái tên La-tinh theo phân loại thực vật là Fagopyrum esculentum moench, thuộc họ rau răm Polygonaceae, có khả năng sống trên địa hình núi cao, chịu được hạn hán, nên đồng bào dân tộc Mông , dân tộc Lô Lô gieo trồng theo mua nhằm có thêm nguồn lương thực cứu đói, hoặc làm bánh mà thôi. Cái chính, nó được dân báo chí văn chương nâng tầm lên thành loài hoa đặc biệt ở vùng đất này là do hình thái hoa và màu sắc thay đổi từ khi nở đến lúc tàn. Dẫu sao, loài cây hoa này đã góp phần tô điểm và có sức thu hút khách du lịch, làm nên sự đặc sắc cho vùng cao nguyên đá này...

Đến Sủng Là, chúng tôi cứ tới lui loanh quanh tìm nhà của anh chàng Vạn Lý mà không thấy, mặc dù hơn năm trước, tôi và Trần Đăng Khoa đã ghé thăm. Cho đến khi Vạn Lý bổ ra đường vẫy tay gọi. Thì ra, thay vì cái cửa hiệu bán và sửa chữa điện thoại cũ kỹ hôm nay, nay biến thành cửa hàng một nửa bán đồ gỗ, nửa kia bán đồ điện. Ui chao, anh chàng Vạn Lý đã làm ăn lớn rồi đây, thành ông chủ có cửa hàng to nhất thị tứ Sủng Là rồi.

Ngó nghiêng quanh quất, cái thị tứ này, đã ít nhiều thay đổi, nhà cửa nhiều thêm và cũng có vẻ sầm uất hơn. Điều đáng nói, khí hậu ở khu vực này thật tuyệt vời, rất trong lành và luôn se lạnh ngay cả vào mùa hè. Nó thực sự như một Sapa của vùng cao nguyên đá Hà Giang, ngay cả khi thành phố Hà Giang, thậm chí thị trấn Đồng Văn có nhiệt độ trên 30 độ C thì ở đây cũng chỉ hơn 20 độ C. Nhiệt độ thật lý tưởng cho việc hình thành một khu nghỉ dưỡng mùa hè. Cùng với nhà Pao, bà con ở đây cũng đã biết trồng những loài hoa xứ lạnh, tạo thêm điểm nhấn và sự phong phú cho Sủng Là. Tỉnh, huyện đã biết tận dụng biến nơi đây thành một điểm du lịch của huyện, cùng với Nhà Vương, Cột cờ Lũng Cú, Phó Bảng, phố cổ Đồng Văn, Mã-pì-lèng... khi mà ngày ngày, nhất là vào dịp cuối tuần, đã có những chiếc xe ca đổ dăm bảy chục đến hàng trăm khách ghé đây thăm thú.

Sau chốc lát tay bắt mặt mừng, tôi mới có dịp hỏi thêm Vạn Lý về sự thay đổi cửa hàng. Nắm bẳt được nhu cầu của người dân bản địa, Vạn Lý vay thêm chút vốn, sửa sang lại cửa hàng nhà mình, còn thuê thêm một nhà đối diện để bày bán đồ gỗ, chủ yếu là giường, tủ, bàn ghế, chất lượng tầm tầm, giá cả phải chăng, cùng đó, là một số mặt hàng đồ diện dân dụng thiết yếu. Và bước đầu, có vẻ khấm khá hơn. Vậy là anh chàng đã biết chọn nghề, biết chí thú làm ăn chứ không lông bông như hồi đầu dừng chân chọn mảnh đất này định cư kiếm kế sinh nhai. Chẳng hiểu, những lời tâm huyết về nghề báo, nghề văn gian nan và khó kiếm sống mà tôi nói cùng anh chàng từ những lần gặp trước, với ý tứ khuyên răn, có thấm không mà chàng ta thay đổi hẳn. Khi tôi gợi lại Vạn Lý về cái máu giang hồ tứ chiếng cũ, anh chàng cười sảng khoái, kiểu cười lạ lùng chẳng giống ai, bảo rằng, lâu lâu có bạn cũ dưới xuôi lên rủ rê thì cũng chiều bạn lang thang chút đỉnh thôi, chứ bây giờ máu mê làm ăn lắm rồi, còn phải nuôi mấy đứa nhóc trứng gà trứng vịt nữa chứ. Vậy là ổn.

Bữa cơm gia đình thật ấm cúng và ngon miệng. Vạn Lý mời thêm anh bạn hàng xóm chung vách, chủ cửa hàng sửa chữa xe máy, người dân tộc Mông, vừa bạn nhậu, bạn láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau. Trời rét, thức ăn ngon và lạ miệng, nhắm với rượu trắng cao độ, hàn huyên đủ thứ chuyện trên giời dưới biển, miền ngược miền xuôi, làm gì chả ngon. Vạn Lý lấy làm vui, ăn ít, chủ yếu giới thiệu món, uống nhiều và nói cũng lắm. Anh chàng tỏ vẻ hãnh diện với bạn mình khi anh làm bạn với chúng tôi. Còn anh chàng người Mông kia, cũng khéo ăn nói nên không khí thêm phần phấn khích. Quả là, mấy món ăn thịt bò nướng, sườn lợn ướp mắc khén ( hạt tiêu rừng ), củ cải muối, củ cải xào lòng gà thì là, ăn thật ngon. Nàng Kim và Nguyễn Thịnh tranh nhau nói, còn Nguyễn Trọng Huân chỉ uống, rít thuốc và gật gù, tủm tỉm cười. Nhìn dáng vẻ anh, tôi biết, anh đã nảy ra trong đầu ý tưởng cho những mẩu chuyện ngăn ngắn vui vui đêu đểu trên Facebook của mình.

Tiệc tan, ai cũng ngà ngà say. Vì không định ngủ lại nên chúng tôi đành phải tạm biệt vợ chồng Vạn Lý để về lại thành phố. Vạn Lý mang mấy bao gai dứa, nhỏ chốc lát đã đày củ cải trắng trồng ngay nương sau nhà. Củ cải sạch, nghĩa là không phân hóa học và thuốc trừ sâu, to và ngon mắt. Tuy ngại nặng song không nỡ từ chối tấm lòng của vợ chồng Vạn Lý nên chúng tôi đành chất cả lên xe...

Đường về, tôi mơ màng trong hơi men. Ý nghĩ chập chờn về Vạn Lý, về nàng Kim đang ngồi bên cạnh, rồi về anh chàng Mắt Lạnh Vương Bảo Thương. Ui, thân phận anh chàng Mắt Lạnh cũng lạ lắm. Cha là người dân tộc La Chí bản địa, mẹ là người Hà Nam, lên Hà Giang dạy học từ lúc còn son trẻ, làm cô giáo cắm bản; rồi phải lòng hay trúng bùa ngải gì đó của một chàng trai La Chí. Họ lấy nhau, có hai mặt con, nhưng chàng ta tính khí lang bạt, hay mặc cảm tự ty, đã bỏ nhà lang thang đây đó, nhất định không chịu về nhà, Vợ nhiều lần tìm, rồi sau này, anh em Mắt Lạnh khi khôn lớn cũng đã tìm cha, nhưng không thấy. Chỉ nghe nói ở đây, rồi ở đó, song tìm đến nơi thì chẳng gặp người, sau thì thôi hẳn. Giờ mẹ con họ ra sống ở gần thị trấn Bắc Quang. Chàng Mắt Lạnh sau khi tốt nghiệp trung cấp nghề, vào dạy nhạc họa ở Trường dân tộc nội trú huyện Hoàng Su Phì... Lần này, qua điện thoại, chàng ta báo tin đã có bạn gái và sắp cưới vợ và muốn ra mắt chúng tôi. Mừng cho cu cậu. Vậy là còn cái hẹn với cặp vợ chồng chưa cưới Mắt Lạnh tại thành phố Hà Giang nữa. Hai bên đường những rừng núi, vực sâu trùng điệp, thấp thoáng. Tôi thiếp đi trong hơi men...

 

 

7.

Cao nguyên đá đang xuân,...

Trước tết nguyên đán Đinh Dậu chừng tháng, tôi tranh thủ lên Hà Giang, theo tuyến Bắc Quang-Quang Bình- Hoàng Su Phì-Xín Mần, rồi vượt sông Chảy đến thị trấn Cốc-pài, lại băng suối, men núi mà sang đất Simacai, Bắc Hà của Lào Cai, nghĩa là vùng núi đất phái Tây. Khi ấy, sang đầu tiết đông, tuy cảnh sắc Việt Bắc màu nào cũng có vẻ đẹp riêng, song thời tiết đầu đông chưa có mưa xuân, nên cỏ cây ít nhiều trơ trụi...

Còn lần này, tôi theo chân đoàn công tác của Ðài Tiếng nói Việt Nam lên Hà Giang, đi theo tuyến Bắc Quang-Vị Xuyên-Quản Bạ-Yên Minh-Đồng Văn-MèoVạc, rồi về. Tiết xuân đang độ, lòng người thêm phần phấn chấn. Trước đó, cả tuần trời tiết nồm, trưa chiều nóng ẩm, khó chịu. Ðúng ngày đoàn công tác lên đường, một đợt gió mùa đông bắc mạnh tràn về, Hà Nội mưa chút ít rồi tạnh, còn Hà Giang mưa nhiều hơn. Có chút lo lắng vì phải tổ chức sự kiện ngoài trời, nhưng lòng lặng thầm vui, vì trời mưa xuân thế này, cỏ cây cao nguyên đán sẽ tốt tươi biết mấy!...

Dọc đường lên, ngang qua Lập Thạch ( Vĩnh Phúc ), vùng đất nổi tiếng khô cằn, mệnh danh “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, trời lâm thâm mưa bụi, cây cối xanh tươi; rồi ngược lên chút nữa, đất Sơn Dương, cỏ cây hai bên đường xanh rì, bắt gặp dòng Lô xuôi về, tuy mùa này cạn nước, nhưng cây cỏ đôi bờ xanh mỡ, nhẩm bụng, cao nguyên đá chắc cũng một màu xanh non cùng tiết đang xuân thôi... Trong đầu bỗng váng vất mấy câu thơ: Ðã qua mùa tam giác mạch,/ mưa xuân đá cũng lên xanh,/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ,/ địa tầng bỗng hóa mỏng manh,...

Qua Hàm Yên, rồi sang đất Vĩnh Tuy, dòng sông Lô từ đây mang tên sông Miện, nhiều khúc quanh, đá chen chúc lổn nhổn lòng sông cạn nước. Chợt nhớ, cam Hàm Yên dẫu có vị riêng, song không đậm đà bằng cam sành Hà Giang, tuy vậy, họ đã xây dựng được thương hiệu, và hơn thế nữa, hàng năm, còn tổ chức được lễ hội cam, nhằm quảng bá thương hiệu, trong khi đó, cam sành Hà Giang vẫn chưa có gì ngoài giá trị thật của mình. Vậy là, có chuyện để nói, để bàn với các lãnh đạo của tỉnh Hà Giang rồi, rằng phải gắng làm sao để đưa giống cam sành vốn có của vùng dất cao nguyên đá địa đầu này lên xứng tầm với chất hượng tuyệt hảo của nó. Từ Bắc Quang đến Vị Xuyên, trong bóng chiều xâm xẩm tối khi gió mùa đông bắc đang mạnh dần, cùng lắc rắc mưa xuân, vẫn nhận ra đâu đó nhưng cây đào núi điểm hoa hồng phót bên lề đường, nơi thung vắng, đầu núi non...  Mùa xuân đang hiển hiện đó đây...

Thành phố Hà Giang lên đèn, tuy lung linh hơn ban ngày, song lại khó thấy được cảnh sắc núi non trùng điệp bao quanh. Thị xã Hà Giang cũ, nằm trên đôi bờ sông Miện, nối nhau bằng cây cầu Yên Biên nhỏ xinh và khá nên thơ. Xưa cũ, thị xã nền trũng  nhiều so với núi non bao quanh nên rìa thị xã mới có con dốc mang tên Dốc Mã Tim, hiểu nôm na là dốc cao, ngựa leo vượt dốc có thể mệt đến vỡ tim. Cũng là nghe người dân bản địa nói vậy thì biết thế thôi. Không hiểu mọi người thế nào, chứ riêng tôi, mỗi lần lên Hà Giang, ngủ lại, dù là ở thành phố, hoặc Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Bắc Mê hay Hoàng Su Phì, Xin Mần, thì ban đêm luôn mang trong mình cái cảm giác ít nhiều thấp thỏm, bí hiểm chi đó,.. Bởi gì thì chẳng rõ, song có lẽ, ngày ấy lâu rồi, lần đầu lên với Hà Giang, thăm nhà Vương, Phó Bảng, ngủ ở thị trấn Đồng Văn mấy đêm, thị trấn khi đó cổ và cũ, thưa vắng lắm, điện chiếu sáng lờ mờ, lại thêm nhà khách huyện tồi tàn, khó ngủ, đêm thao thức, trong đầu cứ váng vất, ẩn hiện những câu chuyện mà nhà văn Tô Hoài kể lại trong thiên hồi ký Cát bụi chân ai của ông và mấy nhà văn khác về cái thị trấn này cùng bao sự ly kỳ, khác lạ...

Trong bữa cơm tối chiêu đãi đoàn công tác chúng tôi của lãnh đạo tỉnh, có chút hơi men, tôi đã cao hứng đọc vài chương từ trường ca Ai lên Mèo Vạc cùng tôi của mình để mọi người cùng nghe. Bí thư tỉnh ủy Triệu Tài Vinh tỏ vẻ thích thú bảo rằng, người miền xuôi mà hiểu về mảnh đất, phong tục và con người Hà Giang như thế thì còn hơn nhiều người Hà Giang đấy...

 

8.

Hoa đào đá cao nguyên,

Nói hoa đào mùa xuân, ai cũng nghĩ ngay đến các xứ hoa đào nổi tiếng, ấy là Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Mộc Châu (Sơn La), Sa-pa và Y Tý (Lào Cai), chứ mấy ai nhắc đến Hà Giang đâu. Vậy mà, chuyến đo lên miền cao nguyên đá cuối xuân này, tôi thực sự lạc vào một miền hoa đào đẹp không tưởng. Song hãy khoan nói đến vội,...

Hành trình của chuyến đi này, là khánh thành cụm máy phát sóng FM tại Trạm Phát sóng phát thanh Quản Bạ. Khi đến, đây tiết trời còn mù sương sớm, tôi thực sự ngỡ ngàng trước hàng đào cổ thụ mới bắt đầu trổ hoa hé nụ dọc con dốc ngược lên Trạm Phát sóng, trong khi mây xứ hoa đào nổi tiếng kia mùa hoa đã đi qua. Sau khi làm thủ tục cắt băng khánh thành, có một số tiết mục văn nghệ do đội văn nghệ địa phương sở tại biểu diễn chào mừng, độc đáo và ấn tượng nhất là trích đoạn Lễ cấp sắc của người Dao. Đây chir là dấu hiệu ban đầu về sự thú vị của chuyến đi.

Gần trưa, chúng tôi xuống thung lũng gần đó vào một bản thăm mô hình di lịch cộng đồng (home stay). Những ngôi nhà trình tường (đất nện) của người Dao điển hình ở bản được dựng lên để đón khách du lịch, nhất là khách du lịch người nước ngoài. Họ rất thích được sống thử trong những ngôi nhà trình tường, vốn truyền thống của người Mông, Dao, Hà Nhì ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Ở đây, hoa đào, hao lê đang nở rộ. Có cây đào, nguyên cả cây đầy mình hoa, rực rỡ và quyến rũ vô cùng,...

Sai bữa cơm trưa ăn tại bản, tuy vội nhưng vẫn có hơi men, đoàn công tác do Bí thư Tỉnh ủy Triệu Tài Vinh dẫn đầu, băng vượt dốc lên Yên Minh. Từ đây nước lên, dọc hai bên đường, chỗ thưa chỗ dày, đào nở hoa hồng, đỏ rạng rở, còn lê mận cũng trần mình hoa trắng tinh khôi. Đến Sủng Là và Phố Cáo thuộc đất Đồng Văn thì tuyệt diệu, cứ ngỡ mình đang vào chốn Bồng Lai tiên cảnh, bởi đào lê chen sắc mờ sương  chiều, thấp thoáng những ngôi nhà trình tường, những bờ rào đá miên man... Đẹp sửng sốt, nhưng xe theo đoàn, băng băng vượt lên. Nên chẳng thế dừng xe mà chụp ảnh hay quay phim. Chỉ còn biết ngẩn ngơ chép miệng mà tiếc, đành bấm vội mấy kiểu ảnh nhạt nhòa qua khung cửa kính xe chạy mà thôi....

Lên đến chân đỉnh cột cờ Lũng Cú, chiều đã muộn. Tiết cuối xuân mà trời rét căm căm. Dăm cây đào nơi chân bâc thang lên cột cờ cũng đầy mình hoa, chao rung bần bật trong gió mạnh. Trạm trưởng bộ đội biên phòng sở tại thực hiện nghi thức tặng cờ cho Đài Tiếng nói Việt Nam, Tông Giám đốc Đài đón nhận trong không gian thiêng liêng đầy cảm động của mọi người, và trong bầu không khí ấy, Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Kỷ đọc thơ về Trường Sa, khiến mọi người lặng đi vì xúc động...

Sớm hôm sau, đoàn công tác lên đỉnh Mã Pì Lèng. Với tôi, đây là lần thứ năm lên đỉnh dốc này trên cung đường Hạnh phúc. Lần này, khác những lần trước. Nếu trước đây, dưới đáy vực thăm thắm kia, dòng sông Nho Quế len lõi giữa hai bên vách đá dựng đứng chất ngất tới trời mây, trông như sợi chỉ mỏng manh, thì nay, ngang dòng Nho Quế mảnh mai ấy, một con đập dựng cắt ngang của một nhà máy thủy điện đang dần hinh thành. Được biết, không những thế, trên những chi lưu là sông Gâm, sông Nhiệm, còn có nhiều thủy điện vừa và nhỏ đang được xây dựng. Theo cung đường, đoàn công tác thông sang Mèo Vạc, rồi vòng lại Yên Mình để về thành phố Hà Giang. Vì tiếc hoa đào đẹp, tôi và nhà báo Kim Trung, hai người đi chung một xe, thầm rủ nhau tách đoàn, trở lại theo lối cũ. Thế là chúng tôi thoải lòng...

Đi chậm, gặp hoa đào đẹp thì dừng xe, tìm góc máy. Dọc đường từ thị trấn Đồng Văn xuôi xuống, cơ man những đào, lê, mận nở rộ, hồng xen trắng miên man. Cung đường vòng vèo, ven đường cỏ dại đương xuân mơn mởn, những bờ rào đá, cổng ra vào có mái, những nếp nhà Mông... tất thảy hòa quện vào nhau, làm nên một khung cảnh như cổ tích, hay xa xưa đâu đó từ nhiều thế kỷ trước hiển hiện... Tôi và nhà báo Kim Trung say sưa, loanh quanh tìm góc máy... Chụp, rồi chụp, mãi mà không no mắt nhỉn, không chán tay bấm máy. Cậu lái xe cũng rất mê ảnh, giở máy và ống kín xin ra chụp, thậm chí còn hăng hơn cả hai chúng tôi...

Cứ thế, hết Phó Cáo, xuôi Sùng Là, vẫn miên man những đào lê mận. Nhưng vì sợ không theo kịp đoàn về hội quân ở thành phố Hà Giang, nên chúng tôi đành bỏ qua nhiều cảnh hoa đào đẹp. Lúc ấy, Kim Trung mới tiết lộ cho biết, rằng dân Hải Phòng quê anh, không thích chơi đào tết Sa-pa, hay Mộc Châu, Lạng Sơn như dân Hà Nội, mà chỉ chuộng thứ đào đá xứ Hà Giang này. Theo họ, giống đào đá Hà Giang hoa màu không rực rỡ tươi tắn, mà có màu hồng trầm, cánh dày hơn và rất bền hoa. Triết lý là, cây gì, hao gì, con vật gì, kể cả con người, sinh tồn trên cáo nguyên đá này, đều phồn thực và có sức sống mãnh liệt, có sự dẻo dai, bền bỉ phi thường !?...

Cứ cho là như thế đi.

Xe chúng tôi đi miên man như lạc vào xứ đào lê, cho đến khi nắt gặp màu ban trắng tía chớp chới nơi bìa thành phố Hà Giang...

 

9.

Hành trình Chiêu Lầu Thi,

Theo tiếng Dao, Chiêu Lầu Thichín tầng thang, chín bậc thang, chính xác hơn là chín tảng đá bậc thang. Đây là một địa danh, chỉ đỉnh núi cao, có độ cao hơn 2.500 m so với mực nước biển, thuộc hành trình từ Hồ Thầu vượt sang Nàng Đôn ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

Hãy khoan nói về hành trình đầy gian nan, mạo hiểm lên đỉnh Chiêu Lầu Thi của chúng tôi, để nêu lý do, tại sao chúng tôi lại dò dẫm lên đỉnh cao này làm gì ?...

Số là, sau chuyến công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) do Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Kỷ dẫn đầu lên lem việc với tỉnh Hà Giang dioj cuối xuân Đinh Dậu, tại trụ sở lịch sử 58 Quán Sứ, Hà Nội, VOV và tỉnh Hà Giang thực hiện chương trình phối hợp công tác giữa hai bên. Theo biên bản hợp tác đôi bên, có một nội dung cụ thể, ấy là việc VOV sẽ xây dựng một trạm phát sóng phát thanh trên địa bàn huyện Hoàng Su Phi, thuộc vùng núi đất phía Tây của tỉnh Hà Giang. Theo Bí thư Tỉnh ủy Triệu Tài Vinh, khu vực giáp ranh giữa hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần, có rất nhiều đỉnh cao, thuận lợi cho việc chọn độ cao để nâng tầm phủ sóng. Ví như, đỉnh Tây Côn Lĩnh (độ cao 2.427m trên mực nước biển), nhưng để chinh phục đỉnh cao rất vô cùng gian khó, tuy nhiên, cùng thuộc dãy núi Tây Côn Lĩnh, còn có đỉnh cao thứ hai, ấy là Chiêu Lầu Thi, có độ cao kém chút, 2.402 m. Vậy là chọn đỉnh Chiêu Lầu Thi, vì ở đây đã có đường lên, từ Hồ Thầu sang Nàng Đen, về mùa khô hanh, xe ô tô có thể lên được.

Việc tiếp theo, là lập đoàn khảo sát thực địa Chiêu Lầu Thi. Lịch khảo sát hoãn đi hoãn lại nhiều lần, bởi người này người kia mắc việc; nữa là, mưa gió liên miên cả tháng trời hoành hành tàn phá các tỉnh miền núi phía Bắc, Hà Giang tuy không bị nặng như Yên Bái, Sơn La, song đường sá bị phá hỏng, nguy cơ lũ ống lũ quét, sạt lở đất đá cao... Rồi thì đoàn cũng lên đường, không thể trì hoãn mãi.

Từ thị trấn Việt Quang của huyện Bắc Quang, đoàn khảo sát của VOV có thêm sự tham gia dẫn đường của các cán bộ Ủy ban nhân dân tỉnh do Phó Chủ tịch Trần Đức Quý phụ trách, cùng lãnh đạo và một số phóng viên của Đài Phát thanh truyền hình Hà Giang. Đến Thông Nguyên, cổng Trời núi đất phía Tây, đoàn dừng chân, chuyển bị tinh thần cho chuyến “phượt“ chinh phục đỉnh Chiêu Lầu Thi. Càng vào sâu đường càng vòng vèo và hẹp dần, cho đến điểm tập kết thuộc xã Hồ Thầu, chân dốc đường lên Chiêu Lầu Thi. Cả đoàn khảo sát tập kết tại một quán lá sát chân núi. Ở đấy đã có mấy cán bộ của huyện Hoàng Su Phì và xã Hồ Thầu. Đặc biệt, có gần hai chục nam thanh niên người dân tộc Dao với ngần ấy chiếc xe máy, đa phần nhãn hiệu Win Tàu. Từ đây, lên đỉnh Chiêu Lầu Thi, mỗi thành viên đoàn khảo sát sẽ được đèo bằng xe máy, bởi đây là phương tiện duy nhất có thể lên đỉnh được. Nghe nói, để lên tới đỉnh, phải vượt qua chặng đường ngược dốc dài hơn chục cây số. THeo thông tin của cán bộ huyện xã, thì sau 49 ngày mưa liên tục, con đường đất sỏi đá này vốn có thể đi bằng ô tô vào mùa hanh khô, nay thành bãi chiến trường dằng dặc đất đá ngổn ngang như sau những trận bom B52. Tôi ngước mắt nhìn lên, chợt nhớ Bí thư tỉnh ủy Triệu Tài Vinh là người Dao, quê đây, và đã có lần, anh khoe rằng từng chinh phục đỉnh Tây Côn Lĩnh lên độ cao tuyệt đối là 2.427 m trên mực nước biển (cũng có ý kiến cho là 2.443m), để lấy lại dũng khí, xốc lại tinh thần, đặng vượt núi chinh phục  đỉnh Chiêu Lầu Thi...

Không một ai có mũ bảo hiểm, không một công cụ hỗ trợ gì, tôi ngồi lên yên sau chiếc Win Tàu của một thanh niên người Dao trẻ măng và khá nhỏ con. Cứ thế, từng chiếc, hai người một xe, cả đoàn rồ máy bắt đầu vượt dốc.  Càng lên cao, đường càng khó đi. Mưa lũ xẻ nứt toát con đường, nhiều đoạn bị sạt lở, đất đá bị kéo trôi tuột xuống vực sâu đến hai phần ba mặt đường. Mưa cũng làm trôi đất cát, làm mặt đường trồi trơ những đá lổng chổng làm xe nhảy lồm chồm, xóc như bật tung cả người khỏi yên xe. Tôi ôm chặt lấy bụng cậu thanh niên Dao để khỏi bị bung ra. Nhiều chỗ đường đất cát lún thành rãnh sâu, bánh xe quay tít không nhính lên nổi. Tôi xuống xe, leo bộ cho yên tâm. Khi đã quen dần với đường, tôi dần dà hỏi chuyện cậu tài xế xe ôm. Cậu ta cho biết, tên Triệu Tà Sơn, mới đôi mươi, đã lấy vợ và có một con trai mới 6 tháng tuổi. Hôm nay, cậu cùng mọi người được xã huy động tập trung để chở đoàn khảo sát. Bình thường, thi thoảng cũng chở khách du lịch thuê lên đỉnh Chiêu Lầu Thi, hoặc sang thẳng Nàng Đen ở sườn bên của dãy núi Tây Côn Lĩnh này; rằng nhà cậu ta cũng có chút nương rãy trồng thảo quả. Vài ngày một, cậu lại chạy xe lên chăm rãy thảo quả, kết hợp kiếm rau về chăn nuôi lợn; rằng con đường này được làm dăm năm nay, bình thường ô tô vẫn chạy được, nhưng năm nay mưa quá nhiều và liên tục nên đường mới bị phá hỏng nặng nề như thế này... Cậu ta nói tiêng Kinh không thật sõi,  song chắp nối những lời kể đứt đoạn, tôi hiểu, người dân Hồ Thầu đây vẫn còn nghèo lắm, làm lụng vất vả quanh năm mà thu nhập chẳng được bao nhiêu...và cậu mong ước một ngày nào đó đời sống người dân khấm khá và đỡ vất vẻ hơn. Có lẽ, đấy cũng là mơ ước của Bí thư Triệu Tài Vinh, người con của mảnh đất Hồ Thầu này...

Lần lượt, các xe cũng tập kết ở điểm có độ cao 2.235m. Ở đây, có mấy ngôi nhà, nghe nói của Công ty Bình Minh xây dựng. Tuy nhiên, nghe nói, công ta này cũng chưa làm ăn gì được, nên huyện và tỉnh có ý đinh thu hồi để giao cho Công ty TH True Mill. Đoàn khảo sát quyết định lên cao thêm. Lại ngược dốc mà lên, hồi lâu cũng đến được điểm cao 2.402 m của Chiêu Lầu Thi. Hầu như cả đoàn, ai cũng ưng chọn mặt bằng của điểm cao này để dựng trạm và cột phát sóng.

Tôi lặng nhìn lại con đường mình vừa vượt qua, lại ngắm khúc quanh trườn sang sườn núi bên kia xa nữa là Nàng Đen heo hút trong sương mùa dày đặc. Mây đen đang ùn ùn dâng ngay đầu núi. Lác đác giọt nước chạm mơ hồ trên tóc, không rõ mưa hay sương núi. Mọi người nhắc nhau xuống núi gấp vì chiều đã muộn và đổ mưa thì chặng xuống sẽ vất vả khôn lường...

Lại cắm đầu xuống dốc. Với dân đi núi chuyên nghiệp, xuống núi khó và nguy hiểm hơn lên núi. Các tay lái tắt máy thả trôi xe và chỉ nổ máy về số khi cần thiết để ghìm xe lại mà thôi. Biết vậy, song giờ đã phần nào quen đường nên tôi bớt đi cảm giác lo ngại. Thậm chí, dăm ba chỗ thấy cảnh đẹp và hùng vĩ, tôi còn bảo cậu tài xế cho xuống để lựa góc lây mấy kiểu ảnh. Xuống chân dốc, mới hú via hoàn hồn. Mọi người đùa bảo nhau, vừa qua một chuyến du lịch mạo hiểm...

Tối ấy, đoàn khảo sát chúng tôi nghỉ ở nhà khách của huyện Hoàng Su Phì tại thị trấn Vinh Quang. Cơm chiêu đãi đặc món dân tộc, dăm chén rượu bản nồng cay. Đêm nằm nghe mưa. Những trận mưa rừng lúc mau lúc thưa, ru rín cả đêm. Gần sáng chợt tỉnh, Lắng tiếng mưa mà nghĩ lại, vậy là mình đã chinh phục được đỉnh Chiêu Lầu Thi, và thiếu chút nữa, lên được đỉnh Tây Côn Lĩnh.

Ngẫm nghĩ, lại nhớ đến câu thơ của Cụ Hồ ngày xưa, khi Cụ còn gian nan trên bước đường cứu nước: “Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh/ Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa“...

Và một c âu chuyện mới được mở ra. Ấy là chuyện bàn về câu thơ của Cụ Hồ, trong bài thơ “Mới ra tù tập len núi”, đỉnh Tây Phong Lĩnh được Cụ nhắc đến trong bài thơ này, là nói tránh đi. Thực sự, ấy chính là đỉnh Tây Côn Lĩnh của đất Hoàng Su Phì thuộc Hà Giang này!?...

Chuyện còn bỏ ngỏ. Đợi một ngày nào đó trở lại bàn thêm !...

 

 

 

Lại thèm canh rau tập tàng...

 

Cuối tuần, ngủ nướng.

Nhưng rồi, không quen, vẫn trở dậy, đun nước, pha trà, pha cà phê.

Trong tiết thu dìu dịu, ngắm cà phê phin nhỏ giọt, bật ti vi lơ đãng, ngó nghiêng vài trang mạng. Ấy cũng là cái thú riêng buổi sáng cuối tuần...

Anh bạn đồng nghiệp, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, đã thấy cập nhật buổi sáng cuối tuần của mình. Nhìn cái gương mặt ngô ngố của chàng ta, khoe việc hái rau tập tàng mà đầu óc lại toàn nghĩ đến quốc gia trọng sự, đến nỗi hái nhầm cả rau dại, mà cười thầm. Cái anh chàng này, làm bộ làm tịch thế thôi, là lấy cớ để cạnh khóe chuyện xấu ngoài xã hội, là để khoe có vườn tược ở quê vợ đấy mà.

Vậy là lại nhớ, lại thèm món canh rau tập tàng...

Thực ra, bây giờ, ra chợ, cũng có thể mua được món rau tập tàng để nấu canh. Nhưng mà, nói đến món canh rau tập tàng, là nói đến cái thú phải tự kiếm, tự nhặt nhạnh nơi vườn nhà.

Có lẽ, món canh rau tập tàng, là thứ canh rau có một không hai trên thế gian này, chỉ riêng có ở xứ mình. Ấy là món cánh rau hái ở vườn nhà, ở hàng rào, dù cây trồng hay cây mọc dại ăn được. Ngày đi học ở quê, nhà tôi cũng có vườn rộng, nên ràu trồng và rau dại đều nhiều. Dịp xuân hè, mưa nhiều, rau lên xanh tốt bời bời. Mỗi tuần, dăm bữa ăn rau tập tàng. Mẹ tôi, các chị tôi, và tôi nữa, chỉ cần mang rổ ra vườn, nhặt nhạnh một nhoáng là đã trên lưng rổ, nào rền cơm, mồng tơi, rau đay, rau mảnh cộng, lá mướp non, lá ớt non và nụ hoa thiên lý. Nấu canh cua là ngon nhất. Còn không, nấu với tôm khô, tép khô, thậm chí nấu suông nêm chút bột ngọt là được nồi canh ngon lành; thêm cà muối xổi, đĩa đậu rán, lạc rang mặn là nên bữa cơm thanh đạm, ngon miệng lắm rồi.

Nhớ canh rau tập tàng, là nhớ về mẹ. Người mẹ vất vả, tần tảo một đời vì con cháu, nhất là mẹ đã đi qua những tháng năm tao loạn bởi thời thế, những cuộc chiến tranh đầy hy sinh, chết chóc, những thiếu thôn về vật chất và đầy đọa về tinh thần...

Mẹ bình dị như món canh rau tập tàng, mẹ vĩnh cửu như mạch nguồn chẳng bao giờ khô cạn... Nhưng khi biết thấm những nỗi đau đời, biết thương cha nhớ mẹ thì cũng đã muộn rồi. Song muộn, con hơn không... Lại nghĩ đến anh bạn Trọng Huân, anh cũng đã già rồi, và mẹ anh cũng đã khuất bóng. Tháng trước, cùng anh về thăm lại căn nhà trên mảnh vườn xưa cũ ven sông Luộc nơi phố bờ sông trấn Ninh Giang. Anh đứng nhìn mảnh vườn đã sang tay chủ khác, mặt nhầu nhĩ, tóc bạc giả nửa mái đầu, lưng gù xuống, mà lòng tôi đầy lên nỗi thương nhớ mảnh vườn quê. Dẫu sao, tôi còn chút đất với ngôi thờ tự, tuy chẳng đủ để trồng rau, để lau hoang cỏ dại, đặng hái rau tập tàng... Song, nỗi khát khao có nhà vườn canh cánh trong lòng anh, không còn đất ở quê mình thì anh dành dụm mua đất xây nhà làm vườn ở quê vợ, một làng quê ngoại ô, nơi ngã ba sông Hồng và sông Đuống. Nhưng thôi mà, Trọng Huân ơi, hãy chia sẻ cùng tôi nhé, những dòng này, liệu có an ủi được chúng mình chăng: "... mình một đau/ mẹ những mười đau /sông oằn lũ mùa thu/ lất phất  trắng ngàn lau/ tôi lại thêm một lần/ lớn dậy... Bằn bặt/ từ đây/ trên vai gày/ gánh/ tần tảo/ mẹ nặng thêm biết mấy/ cho tóc tôi thêm xanh/ tóc mẹ bạc/ thêm phần/ bước thẳng bước xiêu/ bước chậm bước nhanh/ đi về phía chân trời đầy giông gió... ".

Vậy nhé, cho tôi chia sẻ món canh rau tập tàng với nhé, anh bạn già đồng nghiệp của tôi ơi ?!...

 

Lên miền hoa ban trắng

 

 

Đi Tây Bắc, lần nào cũng vậy, dù nhàn tản thăm thú hay vội vàng công việc, đều có cái thú riêng của nó. Thường là chuyến đi vào dịp cuối năm, hay bị vội vàng hơn những chuyến đầu xuân.

Nhớ là, có lần, đã giáp tết, công việc bề bộn, cứ bị cuốn theo cái sự gấp gáp, náo nức của không khí tết, nên ngoài việc ngó nghiêng tìm mua lấy một cành đào rừng, thì chẳng còn thời gian đâu mà thăm thú... Lần vào dầu xuân, đã chủ định, rảnh rang hơn. Chẳng gì thì cũng vừa mới hết tháng ăn chơi, vả lại mùa xuân hãy đang còn kia mà. Nhớ dạo thu năm ngoái, anh bạn đồng nghiệp, là chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Điện Biên nhắn nhe bằng lời mời hấp dẫn  : “ Mong được đón anh ở Điện Biên, nhưng hẹn anh vào mùa ban xuân tới “. Vậy mà mùa ban đến, định theo lời mới mà lên, thì anh chàng lại bay vào Nam, chờ theo tàu Hải quân ra thăm Trường Sa. Thôi kệ, mùa ban đâu có đợi người . Thích thì cứ đi thôi.

Đúng hôm lên đường thì một đợt gió mùa mạnh tràn về. Suốt dọc đường, từ Hòa Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Hát Lót lên Sơn La, mưa rét tầm tã, rả rích một điệu ru rín buồn buồn của trời đất, trong khi ấy, thì cập nhật thông tin toàn là tuyết rơi dày gây khó khăn cho công tác cứu hộ động đất, sóng thần ; chuyện phun nước làm mát lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản ; tin chuẩn bị đánh nhau to ở Libya... Lởn vởn trong đầu, ý nghĩ về một đợt lũ tiểu mãn có thể giảm nguy cơ cháy rừng, và cung cấp một lượng nước đáng kể cho cây cối và tích thêm nước cho thủy điện, khiến cho lòng người có cái để mà vui ...Những cung đường Tây Bắc, mấy năm qua đi lại, đã thành quen thuộc, khúc nào quanh co nguy hiểm, mùa nào hay sương mù dày đặc, chỗ nào có bản Mông, bản Thái, mùa nào có hoa gì nở ... Ấy vậy, trời mưa rét, cũng mất hết cả phương hướng. Lúc nghỉ chân tìm chén trà nóng ở gần thị trấn nông trường Mộc Châu, lạnh run người, thì ra nhiệt độ xuống tới 4 độ C.  Xe cứ lầm lụi trong mưa, chốc chốc một cây gạo hoa trổ đỏ ối cả cây trơ vơ bên sườn dốc hiện ra trong màn mưa. Xe đông người, vậy mà một cảm giác cô đơn len lén dâng lên.. Mấy ngày, ngoài sự hứng khởi trong  thực thi công việc, chút thăng hoa xen lẫn cảm giác trống rỗng khi nghiêng ngả trong các cuộc rượu tại bản Thái, vẫn còn sự chờ đợi về màu hoa ban trắng rừng núi Tây Bắc. Lại  Thuận Châu,  rồi vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo. Đã thấy lác đác những cây ban hoa trắng, nhưng ủ rũ trong mưa rét và sương giá. Cả thành phố Điện Biên chìm trong mưa rét. Đêm, nằm bẹp trong phòng kín Nhà khách tỉnh, nghe mưa rơi đều đều ngoài trời, loáng nhoáng màn hình ti vi là những cảnh tuyết dày ở Sa pa cùng các gương mặt hớn hở của người lần đầu thấy tuyết, cảnh người dân Nhật Bản đang vật lộn với giá rét tuyết phủ kín trong đống đổ nát khổng lồ của động đất  và sóng thần. Có gì đó hơi bất nhẫn...

Ngủ vùi trong hơi men và những xúc cảm đan xen, chộn rộn. Lại mơ màng về một màu hoa ban trắng ...

Vâng, đấy là cảm xúc về một miền hoa ban trắng của những năm trước, nó đã thuộc về ký ức, dù chưa xa. Đến mùa ban này, tôi cầm trong tay cái giấy mời của Ban tổ chúc Lễ hội hoa ban Điện Biên. Có gì đó háo hức. Ngay như Sơn La, mặc dù không phải là xứ sở của hoa ban, thì ở thành phố đó đây, cũng đã bắt gặp những băng-rôn quảng bá về Lễ hội hoa ban, và ngẫu hứng thay, tôi đã chộp được mấy bức ảnh hoa ban khá ưng ý từ vài ba cây ban cô lẻ mình đầy hoa trắng tinh trong nắng chiều xuân óng ả. Lại vượt đòe Pha Đin, giờ đã hạ cốt thấp hơn nhiều so với tuyến đường trên cao xưa kia “ ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” của những chiến binh Tây Tiến. Khi băng ngang quê hương của người anh hùng thiếu niên Vừ A Dính thời chống Pháp, hoa ban ven đường, và trên những vạt đồi đã nhiều hơn. Càng gần thành phố Điện Biên, thủ phủ của miền hoa ban trắng, dọc đường vào, bắt gặp những cây ban mới trồng theo hàng lối quy củ. Hẳn là địa phương chủ động phát triển loài cây hoa này nhằm củng cố thương hiệu miền hoa ban cho mình nhằm phục vụ cho mục đích du lịch sau này.

Thành phố Điện Biên, đang xuân mà nóng như mùa hè. Cảm thấy hơi vị khó chịu đặc trưng của gió lào trong không khí. Tuy không ngập trong màu trắng hoa ban thì đó đây, trên đường phố, các điểm tham quan như Đồi A1, Nghĩa trang Điện Biên, khu di tích Hầm Đơ-cát, và bờ sông, khe suối, màu ban trắng đã dày hơn. Ai đó, lý giải cho việc đúng vào dịp lễ hội hoa ban mà ban nở lại không nhiều, rằng trước đó mấy ngày, một trận giông lốc mưa lớn khi gió mùa đông bắc tràn về đã làm phàn lớn số cây ban nở hoa bị rụng hết, rằng sau trận giông lốc, đường phố ngõ xóm đầy xác hoa và canh cây gãy. Nghĩ mà xót mà thương cho lễ hội thưa vắng sắc trắng tinh khôi của hoa ban. Song rồi, bù lại, đêm lễ hội, các tiết mục dân ca, dân vũ được trình diến khá kỳ công và đặc sắc văn hóa phong tục vùng miền, với kết thúc là vòng xòe lớn kết nối niềm vui của con người từ mọi vùng miền...

Chẳng hề hấn gì, trong tôi, những câu thơ lấp ló:

... Ban đang mùa mở hội

Ta lại tìm xa xôi,

ước một bàu tĩnh lặng

chỉ còn màu hoa thôi...

 

Mùa nước nổi

 

          Vào dịp Quốc Khánh năm 2017, có đến ba cây cầu được nói đến, ấy là khánh thành cây cầu vượt biển Tân Vũ-Cát Hải (Hải Phòng) dài nhất Việt Nam, và trước đó, cầu Cao Lãnh và cầu Vàm Cống ở đồng bằng sông Cửu Long cũng vưa hợp long. Cái tên Vàm Cống gợi lên trong tôi bao kỷ niệm từ gần bốn chục năm trước ùa về...

          Ngày ấy, mùa mưa lũ năm 1981, tôi-chàng kỹ sư nông nghiệp trẻ mới tốt nghiệp, nhận quyết định vào công tác ở An Giang. Cùng đi với tôi vào thành phố Hồ Chí Minh, có Hoàng Gia Trình, bạn cùng lớp và hai người nữa, một nam một nữ, học trước tôi một khóa. Ba người vào vào An Giang, riêng Hoàng Gia Trình vào Minh Hải (khi ấy nhập Bạc Liêu và Cà Mau). Lo ăn đường, mẹ tôi gói ít bánh chưng cho tôi và Trình mang theo. Dọc đường vào, gặp áp thấp gây mưa, ngập úng và sạt lở đèo Cù Mông (Nghĩa Bình) và đèo Cả (Phú Khánh). Hành khách đi tàu hỏa Thống Nhất phải dặt dẹo ngủ trên tàu, ngủ nhà ga, đi bộ, tăng-bo mấy đoạn, ngót một tuần mới vào được thành phố Hổ Chí Minh. Ai nấy, quần áo nhàu nát lấm lem, lại bị đám xe lam Sài Gòn lừa, loanh quanh mãi mới ra được bến xe Miền Tây.

          Xe rời thành phố từ mờ sương, lút vào miền Tây Nam bộ. Qua cửa kính xe, lần đầu tôi thấy đồng ruộng bao la đến thế, quanh cảnh mà tôi chưa từng thấy ở đồng bằng Bắc Bộ. Tôi nghĩ về cuốn sách của nhà báo Phan Quang viết về đồng bằng sông Cửu Long mà tôi mới đọc, thầm đồng tình với ông khi đưa ra nhận định, vùng đất này là vựa lúa khổng lồ của nước ta, nó không những thừa nuôi dân ta, còn dư để mang bán ra nước ngoài. Ngày ấy, nghĩ thế là đúng, song thực ra, không chỉ đơn giản là vậy?!...

          Xe đến Bắc Mỹ Thuận, xe nối đuôi rồng rắn, chờ xuống phà. Sông Hậu mênh mông nước ngầu đục vì đang mùa mưa, đôi bờ bên này thuộc Tiền Giang, bên kia là Vĩnh Long. Lần đầu thấy sông Hậu, lại biết thêm người Nam gọi Phà là Bắc. Những chiếc phà 2 tầng như tòa nhà di động, nghe nói được sử dụng từ thời Mỹ Ngụy, xen kẽ đưa thoi đôi bờ. Qua được Bắc Mỹ Thuận mất hơn tiếng đồng hồ. Quang cảnh đôi bờ tấp nập hàng quán ăn nhậu, những người bán hàng rong rao ời ợi đến sốt ruột; có một món hàng nghe đến quen tai vậy mà không luận ra được, mãi sau này tôi mới hiểu đúng là nem Lai Vung.

          Xe cứ chầm chậm miên man mãi như chẳng bao giờ tới đích. Đồng thì mênh mông, chủ những nước là nước, cỏ đồng năn nác ngập đầu, sen súng lênh bềnh, khiến con đường cảm giác như sợi dây thừng dải ngoằn ngoèo trên biển nước vô tận. Tôi nhẩm đọc các biển tên địa danh hai bên đường, thấy nôm na, ngồ ngộ, buồn cười. Tôi nhớ lắm, khi ấy, cái tên Lấp Vò như ám vào đầu, và tôi rẩm riu nghĩ mãi, tại sao người ta lại gọi tên như vậy? Rồi cũng chẳng hỏi ai, cứ tự mình xét đoán, cả những khi sau này, mỗi lần nghỉ phép ra Bắc, xe lên thành phố lại ngang qua Lấp Vò. Lại hình như có một thời gian người ta đổi tên thành Thanh Bình thì phải? Khi ấy, tôi chỉ nghĩ, cái tên mới này chữ nghĩa quá, chẳng ấn tượng bằng Lấp Vò được. May mà, đã trở lại với cái tên gốc.

          Trở lại chuyện cũ. Ngày ấy, sau một thời gian ngắn ở thị xã Long Xuyên, tôi được điều về Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, đóng tại xã An Lạc, giáp ranh thị trấn huyện lỵ. Đây là vùng đất Bảy Núi cũ, được chia tách làm hai, Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây cũng là vùng đất duy nhất ở miền Tây Nam bộ có đất cao, gò đồi. Những gò đồi lổn nhổn rải rác kéo sang Hồn Đất, Hà Tiên, Rạch Giá. Với địa thế đặc biệt, vùng đất này trở thành huyền thoại trong quá trình khai mở của các đời chúa Nguyễn trong mấy trăm năm qua. Trong số mấy người cùng tôi gồng gánh ba lô, hòm xiểng vào Nam ngày ấy, duy nhất một bạn nữ ở thị trấn Tịnh Biên (An Giang) lập gia đình với một sĩ quan biên phòng sở tại và định cư hằn ở đó, còn lại, tôi cùng anh bạn Hoàng Gia Trình và một người nữa, kẻ trước người sau trở lại Bắc cả. Sau ngót bảy năm lăn lộn ở Tri Tôn, tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo chuyên nghiệp. Chính nhờ nghề làm báo, nên sau này tôi thường xuyên ytowr lại miền Tây Nam bộ, kể cả mảnh đất Tri Tôn, và khi ấy mới có thời gian để mà ngẫm nghĩ về lẽ thiệt hơn của hệ sinh thái ngập nước ở đây vốn tồn tại từ hàng ngang năm trước.

          Với người dân miền Tây Nam bộ, mùa nước nổi bao giờ cũng là nỗi mong chờ của người dân. Nước về mênh mang, rửa chua, thau phèn, và đặc biệt đem về một nguồn lợi thủy sản dồi dào, phong phú, không dám nói là vô tận. Sinh thái ngập nước nhiều trăm năm nay đã là một đặc trưng phong thổ của cả vùng đất này. Ngưới dân Việt Miên sinh sống ở đây cũng đã dần thích nghi đến quen thuộc và trở thành tập quán, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất, tâm sinh lý và cộng đồng, xã hội. Cũng từ đây, các hình thức ca hát, diễn xướng dân gian, nghệ thuật mang đặc trưng thổ ngơi hình thành và phát triển. Những điệu lý, vọng cổ, cải lương ra đời và mãi lưu truyền, trở thành tài sản phi vật thể quý giá của vùng đất...

          Đã có một thời gian, chúng ta thiếu suy xét, cho xây dựng hàng loạt những nông trường bộ tại vùng đất phèn nặng của tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, dẫn đến thất bại, rồi tan rã. Kế đó, chúng ta lại ào ạt với chủ trương “vựa lúa khổng lồ”, làm thủy nông nội đồng, thoát nước biển Tây, miễn sao có được thật nhiều diện tích trồng lúa hai vụ, giống ngắn ngày, tăng năng suất. Công bằng mà nói, miền Tây Nam bộ đã thực sự trờ thành vựa lúa, không những dân ta đủ gạo ăn, còn dư thừa để xuất khẩu hạng nhất nhì thế giới.

Nhưng, khi đã no đủ rồi, lúc ấy mới ngẫm nghĩ, thấy tiêng tiếc nền tàng vật chất và xã hội xưa cũ, quen thuộc, ấy là sinh thái ngập nước. Càng ngẫm, càng thấy cái lý, cái cơ sở khoa học và lợi ích to lớn và toàn diện của hệ sinh thái này. Đó là sự cân bằng và sắp xếp của tự nhiên. Rồi nữa, lại nghĩ, giá như mình đừng nóng vội, bình tĩnh mà nhìn nhận, đánh giá, so sánh, để rồi chỉ quy hoạch vùng lúa đến mức nào đó, trên nền tảng của sinh thái ngập nước... thì có phải bây giờ, ta sẽ thế này, thế kia... lợi ích đôi đường ?...

Mấy năm gần đây, những năm ít mưa, thêm nạn thủy điện nơi thượng và trung lưu sông Mê-kông, dẫn đến mất mùa nước nổi, rồi nạn xâm mặn, sâu bọ, chuột phá v.v... lợi bất cập hại. Khi ấy, ta mới thấy tiếc, thấy thèm, thấy khao khát mùa sa mưa, nước nổi đến chừng nào !?...

Gần đây, trong một chuyến về Đồng Tháp, Bí thư Tỉnh ủy Lê Minh Hoan, trong lúc làm việc và cả khi tiếp cơm đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam, ông say sưa nói về chương trình, mỗi thôn ấp, mỗi vùng đất-một sản phẩm hàng hóa,... Để ý, tôi thấy ông luôn miệng nói về sinh thái ngập nước với những lợi ích của nó. Có một câu, hình như đã thành câu cửa miệng của ông “mình đã sai, thấy sai, thì mình sửa thôi”. Lê Minh Hoan cũng nổi tiếng là một người yêu sen. Loài hoa đặc trưng và nổi tiếng của vùng Đồng Tháp Mười.

Bữa cơm khách, Bí thư Tỉnh ủy Lê Minh Hoan chăm chút đến từng chi tiết, món ăn, như rượu dừa, các món chế biến từ sen và cá đồng, cá sông, loại chỉ có ở Đồng Tháp và miền Tây, rồi cả chuột đồng mà ông gọi chệch là sóc tràm; rồi nữa, tặng phẩm là khăn rằn làm bằng tay, khăn rằn chế thành ca-vát... Tôi bày tỏ sự đồng cảm với ông về sinh thái ngập nước, và sự cần thiết hồi phục hệ sinh thái này ở vùng đất Đồng Tháp, và hơn thế là cả vùng Tây Nam bộ, chỉ cần duy trì một diện tích vừa đủ để trồng lúa mà thôi.

Bằng hiểu biết của mình, có thể ít nhiều hạn hẹp, nhưng với cả tấm lòng, tôi yêu và tâm đắc hệ sinh thái ngập nước, cũng yêu và thèm khát mùa nước nổi !... Ở đó, có kỷ niệm về một thời gian khó nhưng giàu mơ ước; ở đó, có tình yêu, nỗi xa cách, cùng sự thất bại và nỗi thất vọng; ở đấy, còn có sự tìm tòi và tự nhận thức, để rồi đi đến sự minh triết !...

 

 

Mưa phùn giêng hai,

 

Năm rồi, mùa đông không mấy rét. Những ngày tết nguyên đán Đinh Dậu tuy không thật rét như mong muốn của nhiều người, song cũng đủ lạnh khô mỗi khi về đêm và buổi sáng, dù ban trưa ít nhiều có nắng ấm. Đến cuối tháng giêng, trời đã dày sương lúc chiều chạng vạng và buổi sớm mai, kiểu trời báo hiệu sắp có mưa phùn. Quả nhiên, sang tháng hai âm lịch, tiết trời âm u, mù sương, mưa phùn mưa bụi lây phây cả ngày, đến mấy ngày, thậm chí suốt cả tuần. Ai nấy, cũng kêu trời nồm ẩm khó chịu, nhất là những người mắc chứng hô hấp, hoặc xương khớp. Người khỏe thì cũng thấy ỉu xìu, ươn ươn, khó ngủ. Ấy vậy, kêu ca mà làm gì !...

Lâu rồi, tôi mới thấy tiết trời vùng Bắc bộ điển hình nồm ẩm giêng hai đến vậy. Kiểu tiết trời này, ngày xưa là thường, hầu như năm nào cũng na ná vậy. Có lẽ, tiết trời bất thường, không còn tuân theo hai mươi bốn tiểu tiết, trên cơ sở phân đoạn lịch âm điển hình, đã trở thành phố biến, và là sản phẩm của biến đổi khí hậu chăng? Ngày xưa, cũng có năm thất thường, có hiện tượng thời tiết cực đoan, quá nóng, quá rét, song cơ bản là hài hòa, tiết thuận, nghĩa là điển hình mùa nào ra mùa nấy. Chính vì thế, thiên nhiên theo mùa, vạn vật, cỏ cây hoa lá thuận theo mùa, con người lâu thành quen, nó ăn sâu bám rễ vào tiềm thức, trạng thái, tình cảm, tâm lý, cảm xúc...; rồi qua đó mà ảnh hưởng đến phong tục, văn hóa, nghệ thuật, xã hội nữa... Giờ thì thất thường và bất thường, thật đáng lo ngại đây chứ !...

Vâng, lại ngày xưa, tiết giêng hai nồm ẩm, với biểu hiện đặc trưng là dầy mây, sương mù, mưa bụi mưa phùn lây nhây... Nhưng đấy là mùa của hoa xoan tím ngát, mùa của hoa chanh, hoa cam thơm dìu dịu tinh khiết, mùa của hoa bưởi sực nức vườn quê; rồi nữa hoa mơ hoa mận, hoa lê trắng xóa sườn đồi... Nữa là, cỏ non tơ mơn mởn khắp chốn cùng quê. Lại nhớ câu thơ Nguyễn Du: "Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa/ Thanh minh trong tiêt tháng ba/ Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh...", rồi câu thơ cổ Việt  " Xuân du phương thảo địa...".

Tiết trời này, rau khúc đồng cũng lên xanh mỡ, tha hồ mà thu hái để làm món bánh khúc thơm ngon. Mùa thu cũng có rau khúc, nhưng khúc thu già và cỗi hơn khúc xuân.

Cho đến khi, chợt trời nổi cơn giông, bầu trời thấp thoáng lóe sáng lằng ngoằng những tia chớp mảnh, rồi thoảng đâu đó từ xa xôi ì ầm tiếng sấm, ấy là đã qua tiết tháng hai nồm ẩm, báo hiệu mùa hạ sắp đến. Cho đến khi, chớp chới vài ba bông gạo đỏ đầu làng, cuối xóm,  đầu non sườn núi, và vườn nhà ai, hoa lựu lập lòe đâm bông...

         

Cuối xuân bàng đã lá xanh,

Sót đôi chiếc đỏ trên cành ngẩn ngơ,

Thôi đừng, mùa đợi tháng chờ

Kìa bông hoa lựu thập thò lửa nhen,...

 

 

 

Ngày xưa, tôi yêu bóng đá...

1.

          Tôi viết bài này, ngay sau khi Real Madrid vừa thua Atletico Madrid, câu lạc bộ cùng thành phố, 1-2, song vẫn thắng chung cuộc với tổng tỷ số 4-2 (lượt đi 3-0) để vào chung kết Champion Legue (CL) với Juventus (Italia) mùa bóng 2016-2017. Và cũng, khi U20 Việt Nam vừa thua U20 Argentina với tỷ số 1-4, một cuộc tập rượt, thử sức cần thiết, trước khi sang Hàn Quốc tham dự VCK Giải U20 thế giới.

          Nói như vậy, để thấy, tuy không còn yêu bóng đá nhiều như ngày xưa nữa, song tôi vẫn theo dõi, cập nhật khá đầy đủ những thông tin về bóng đá trong nước và quốc tế ...

          Tôi yêu bóng đá từ khi nào thì tôi không nhớ, song chắc chắn từ khi còn nhỏ, ấy là cái hồi học tiểu học cơ.

          Tôi nhớ, gia đình tôi mới chuyển từ Hà Nội về quê Hưng Yên sinh sống, sau khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ Ngụy ra miền Bắc bắt đầu nổ ra năm 1964. Ở vào thời điểm ấy, vùng quê Văn Lâm (Hưng Yên) của tôi cách thủ đô hơn hai chục cây số, nên có nhiều trường Đại học ở Hà Nội sơ tán về. Đầu năm học lớp 3 (1967), lớp học của tôi đón hai bạn mới về, ấy là Minh và Dung. Họ là hai anh em ruột, con một gia đình là cán bộ của Trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội theo nhà trường sơ tán. Minh được bố mua cho quả bóng đá bằng cao su màu đỏ. Chiều chiều, Minh mang bóng ra sân kho Hợp tác xã và rủ chúng tôi cùng đá. Lũ trẻ con chúng tôi thích lắm, chia quân làm đôi, xếp cọc gôn bằng gạch, quần nhau, vừa đá vừa cãi nhau chí chóe. Không đứa nào chịu làm thủ môn cả, chỉ thích đá ở trên để ghi bàn thắng. Có buổi, cậu rm út của Minh tên là Tuấn, mới học lớp 1, bé quá nên không được đá, nó đứng ngoài khóc và dọa Minh mách bố chúng rằng Minh chưa học bài đã mang bóng đi đá. Minh tức lắm, vừa dỗ vừa dọa cu Tuấn nhưng không ăn thua, đành thu bóng mang về khiến chúng tôi chưng hửng. Cũng có buổi, chú Mẫn, bố của Minh ra xem, và còn làm trọng tài cho chúng tôi. Tôi vẫn nhớ, ngày ấy, chú Mẫn đã điều hành trận đấu của đám trẻ con chúng tôi bằng những thuật ngữ bóng đá nước ngoài, như corner (phạt góc), penalty (phạt đền, phạt 11m),... mà mãi sau này lớn lên, tìm hiểu tôi mới biết. Bóng cao su, đá sân gạch, nên chỉ sau một tuần, đến mươi ngày là cùng, bóng bị rách, hoặc thủng châm kim đâu đó, xi hơi, mềm ra, không còn nảy, đá chán lắm. Bóng hỏng, song chúng tôi không kìm nén được khát thèm đá bóng, bèn nghĩ cách tự tạo bóng. Chúng tôi lấy rơm khô, hoặc sợi đay quấn tròn lại, bọc bên ngoài bằng bao sợi gai thành bóng, nhưng đá một hồi, dây tuột, phòi bùi nhùi, không đá được nữa. Chán chê, lại thay bằng bóng bưởi. Quả bưởi nhỡ, lấy trộm làm bóng đá, để bưởi không cứng, bớt đau chân, phải mang hơ lửa cho héo bớt, mềm đi mới đá được. Là thiếu bóng thì mới phải vậy, chứ đâu có hay ho gì. Nhà chú Mẫn, dù có thương và chiều con lắm, thì ngày ấy tiền bạc khó khăn, mua một quả bóng cao su cũng phải tỉnh toán, thêm nữa, cũng phải đợi hàng tháng, chú ra Hà Nội về thì mới có bóng mới. Những lần như thê, thật vui. Đấy, tuổi thơ yêu bóng đá của tôi là vậy... Đến khi vào cấp 2, gia đình chú Mẫn ra lại Hà Nội, Minh, Dung, Tuấn cũng theo gia đình. Lũ trẻ chúng tôi không còn bóng cao su để đá nữa, phong trào chơi bóng sân kho cũng tan dần. Sau này, tôi còn gặp lại mấy anh chị em trong gia đình chú Mẫn, và có có những chuyện thú vị xảy ra...

          Lớn lên chút nữa, tự tìm hiểu để có thêm chút kiến thức về bóng đá, tuy nhiên, mọi thứ vẫn khó khăn lắm, nữa là bóng đá. Ấy vậy mà, khi còn phân miền Bắc- Nam, riêng miền Bắc có rất nhiều các đội bóng đá (ngày đó chưa dùng cách gọi chuyên nghiệp là Câu lạc bộ, mà đơn thuần gọi là đội bóng, và cách tổ chức tập luyện, thi đấu vẫn ít nhiều mang tính phong trào). Nổi tiếng nhất là Thể Công và Công an Hà Nội. Còn có các đội khác, là Phòng Không không quân, Than Quảng Ninh, Công an Hải Phòng, Xây dựng Hà Nội, Dệt Nam Định... Sau năm 1975, thống nhất Bắc Nam, có thêm các đội là Công an Tp. Hồ Chí Minh, Hải Quan, Cảng Sài Gòn; rồi nữa, là các đội Công nhân Nghĩa Bình, Công nghiệp Hà Nam Ninh... Theo thời gian, các đội bóng, hoặc giữ nguyên, hoặc giải thể, tách nhập, đổi tên, và tóm lại, hoạt động của tất cả các đội đều mang tính bao cấp, bởi các ngành, hoặc địa phương xây dựng, quản lý. Với cách này, phải nói, đã có nhiều đội bóng tên tuổi, có thành tích cao, đóng góp nhiều cầu thủ giói cho đội tuyển quốc gia và bóng đá nước nhà trong các giải đấu khu vực và các nước thuộc phe XHCN cũ...

          Với riêng tôi, ngày nhỏ đâu được xem trực tiếp trận đấu tại sân vận động, có chăng, nghe tường thuật qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, là hạnh phúc lắm rồi. Tôi nhớ, mình bắt đầu biết đến bóng đá thế giới, ấy là Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1974 tại Tây Đức (tức Cộng hòa liên bang Đức, khi nước Đức còn chia cắt thành Đông-Tây). Giải đó, Tây Đức vô địch, song khi ấy bóng đá phe XHCN lấy làm tự hào, bởi ở vòng đấu loại, đội tuyển Đông Đức đã thắng đội tuyển Tây Đức với tỉ số 1-0, còn đội tuyển Ba Lan thì giành giải Ba chung cuộc, khi mà họ lần đầu trình làng túc cầu thế giới dàn cầu thủ trẻ đầy tài năng và triển vọng mà sau đó trở thành những tên tuổi lớn, như: Lato, Boniek, Tomaszewsky, Deyna, Szarmach... Ngày đó, những thông tin về bóng đá nói chung, chủ yếu là qua các bài bình luận trên báo viết và sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, với các chương trình bình luận

          Tiếp đến Vòng chung kết Giải bóng đá thế giới năm 1978 do Argentina đăng cai, lần đầu tiên, người hâm mộ và khán giả cả nước được xem tường thuật trên truyền hình. Thời ấy, tôi đang là sinh viên của Đại học Nông nghiệp Hô-xê Mác-ti (nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) đóng tại Châu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Mỗi chiều tối, cánh sinh viên nam yêu bóng đá chúng tôi rồng rắn kéo nhau lên khu tập thể cán bộ Nhà trường xem nhờ tivi của các gia đình cán bộ giảng viên. Nhà ai có tivi cũng phải mở toang cửa chính, cửa sổ cho mọi người xếp hàng, đứng ngời lố nhố bên ngoài nghiêng ngó. Hồi đó, tivi tuyền đen trắng, chưa có màu như bây giờ, kiểu loại cũ kỹ như Nep-tuyn, và các loại mua đồ cũ từ miền Nam mang ra, hoặc đồ Nhật cũ như Shapp, Sanyo... buôn từ đường thủy tàu viễn dương.

Cho dù thế nào, được tận mắt xem các đội bóng lớn với nhiều cầu thủ hàng đầu thế giới tranh tài đã là sung sướng lắm rồi !...

 

2.

May mắn là năm 1987, từ một kỹ sư nông nghiệp công tác ở miền Tây Nam bộ, viết báo nghiệp dư, tôi được chuyển về làm báo chuyên nghiệp tại Đài Tiếng nói Việt Nam, cơ quan báo chí hàng đầu của nước ta. Rồi đó, năm 1994, sau vài vị trí công việc, tôi chuyển về làm biên tập viên của Ban Văn hóa xã hội nhà Đài. Đây là một ban biên tập lớn, thích thú  hơn vì đây là nơi chuyên làm các chương trình phát thanh về thể thao nói chung và bóng đá nói riêng...

Ngày nhỏ, ham mê bóng đá là vậy, đến lúc học đại học, nhà trường có sân vận động khá tốt, nên sinh viên chúng tôi hay chơi bóng đá, song chủ yếu là gôn tôm. Do hạn chế về thể chất, thuộc dạng thấp bé nhẹ cân, nên sau này đi làm, tôi không chơi bóng đá nữa, song sự hâm mộ thì không hề giảm, trái lại còn cao hơn. Vậy nên, khi được làm việc trong môi trường có thể thao, bóng đá, tôi chuyển hết sự hâm mộ của mình vào công việc tổ chức sản xuất, bình luận bóng đá qua phương tiện báo chí của nhà Đài. Ở thời điểm này, cặp bình luận và tường thuật bóng đá trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam là Đình Khải, Hoài Sơn. Bình luận viên Đình Khải là người nhà Đài, còn bình luận viên Hoài Sơn là cộng tác viên. Có thể nói, đây là cặp bài trùng bình luận phát thanh trực tiếp bóng đá nổi tiếng một thời. Người được giao tổ chức sản xuất và phụ giúp thêm phần tường thuật là biên tập viên Xuân Bách (anh là con trai ông Nguyễn Văn Thu, biệt danh Thu Râu, người tường thuật bóng đá đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam).

Thấy được khả năng bình luận bóng đá của tôi, lúc ấy, do thiếu người, phần muốn tăng cường thêm nhân sự tường thuật trực tiếp các trận đấu, lãnh đạo Ban biên tập đã yêu cầu tôi, tham gia cùng tổ sản xuất chương trình bình luận bóng đá trực tiếp, với việc xem và nghe nhóm tường thuật làm việc, đặng học hỏi kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc bổ sung làm bình luận viên trực tiếp. Theo đó, tôi đã có một số buổi tham gia công việc cùng tổ bình luận.

Khi ra sân Hàng Đẫy, tôi ngồi bên cạnh các bình luận viên, học cách họ quan sát các tình huống và diễn biến trên sân rồi chuyển thành ngôn ngữ tường thuật và bình luận. Được cái, tôi có trí nhớ tốt, khá thuộc tên cầu thủ, cái khó là cách quan sát số áo mặc để chuyển thành tên cầu thủ một cách nhanh và chính xác sao cho kịp tình huống bóng lăn,... Song khó nhất, vẫn là cách đọc trận đấu, ấy là nhìn ra cách các đội bố trí theo sơ đồ chiến thuận nào, rồi vận hành ra sao, chẳng hạn như: đội hình 4-4-2, hoặc 3-5-2, hoặc nữa, 4-3-3, rồi có thể biến thiên thành 4-3-2-1 .v.v... Để có thể thành thục hơn, có buổi, tôi không ra sân, ở nhà, xem qua tivi, ngồi trước màn hình tập tường thuật một mình... Cho đến lúc, tự cảm thấy, mình có thể giúp việc cho tổ bình luận, hoặc tham gia bình luận một chốc một nhát cho tổ bình luận, thì có chuyện xảy ra, khiến tôi từ bỏ hẳn ý dịnh trở thành bình luận viên trực tiếp tường thuật bóng đá...

Số là, trong số các đồng nghiệp, có ai đó, hình như không muốn tôi tham gia việc này, đã có lời ra tiếng vào, gián tiếp cạnh khóe này nọ. Vậy là tôi thối chí, vì tự ái, vì bực bội, và vì gì gì nữa cũng chẳng rõ ...

Tôi đã không trở thành một bình luận viên bóng đá, tường thuật trực tiếp các trận đấu cũng đơn giản vậy thôi. Cho đến giờ, tôi cũng chẳng truy xét quyết định ấy là đúng hay sai nữa. Mỗi khi nghĩ đến, bật cười, rồi thử hình dung, nếu mình thành bình luận viên bóng đá thì sẽ thế nào nhỉ? Cuộc đời, chẳng ai có thể làm mãi một việc, kể cả công việc mình yêu thích và việc nó giúp mình thành danh . Đã có vài lứa bình luận viên bóng đá thay nhau làm công việc này. Riêng mình, tôi chuyển sang công tác quản lý ở cơ quan, và việc này, đã giúp cho tôi có cái nhìn bao quát hơn, mà cũng cụ thể hơn, để hiểu được những gì mình đã trải qua trong nghề nghiệp. Hiểu để trải lòng mình, để bao dung hơn với người khác, để bớt đi sự thiển cận, để tổ chức công việc tốt hơn, ... Nói vui, tôi không trở thành bình luận viên trực tiếp tường thuật bóng đá thì trái đất vẫn không ngừng quay!...

Và hơn thế, không tham gia công việc ấy, nhưng quan trọng là, tình yêu bóng đá vẫn còn trong mình, thì mình thiếu gì cách để tiếp tục công việc ấy dưới những trạng thái khác cơ chứ ?....

 

3.

Có một thuận lợi, Ban biên tập của tôi, một phần công việc là các chuyên mục thể thao. Khi ở cương vị Phó trưởng ban biên tập, tôi được Trưởng ban giao phụ trách một số mảng, trong đó có thể thao nói chung và bóng đá nói riêng. Bóng đá được xem là môn thể thao vua, hay nói chữ nghĩa, là Túc cầu giáo, đúng trên phạm vi toàn thế giới, ngay cả nước Mỹ, vốn ưa chuộng bóng chày, bóng bầu dục, bóng rổ, thì cũng không thể thờ ơ với bóng đá được.

Hễ nói đến bóng đá, không thể nào tách rời người hâm mộ bóng đá được. Hay nói một cách khác, thiếu người hâm mộ, bóng đá không còn là bóng đá nữa. Ở quy mô toàn cầu, Giải vô địch bóng đá thế giới tổ chức 4 năm/lần, và Giải vô địch bóng đá châu Âu cũng tổ chức 4 năm/lần, xen kẽ nhau, thế nên, cứ 2 năm, người hâm mộ lại được thỏa mãn tình yêu bóng đá của mình. Còn về cấp độ hằng năm, đã từng có 3 loại Cúp châu Âu, ấy là, C1 - dành cho các đội vô địch quốc gia, C2 - dành cho các đội đoạt cúp quốc gia của mình, và C3 - dành cho các đội xếp thứ hạng cao ở mỗi giải vô địch quốc gia mà không thuộc diện các cúp C1, C2. Sau này, Liên đoàn bóng đá thế giới ( FIFA ) đã sắp xếp lại, đổi tên cúp C1 thành Champion League, và sáp nhập cúp C2, C3 thành Europa League. Ngoài ra, còn có các cúp Libertadoress của Nam Mỹ, Cúp các đội vô địch các châu lục (Confederation Cup), v.v... Dân hâm mộ tha hồ mà xem, trực tiếp trên tivi, khi các đài  truyền hình đua nhau mua bản quyền trực tiếp.

Nhiều quá, hóa nhàm. Điều này cũng lại đúng, chí ít với riêng tôi. Song hãy khoan nói đến cái sự nhàm ấy, để nói về lòng hâm mộ và tình yêu dành cho bóng đá trước đã.

Ban biên tập của tôi, cứ mỗi mùa bóng đá, ngoài việc cùng tham tổ chức bình luận trực tiếp, còn phải thông tin kết quả thì đấu và viết các bình luận ngắn về bóng đá và tất thảy những gì liên quan đến giải đấu. Vậy nên, cứ mỗi mùa, mỗi giải như thế, Ban biên tập lại thành lập ra một nhớm các biên tập viên của mình, chủ yếu nam giới, để thực hiện công việc này. Lắm việc thêm bận rộn, mệt và vui. Và một khi đã là bóng đá, lúc xem trực tiếp hay khi bình luận, nhất là những trận đấu vào giờ ban đêm, thường bao giờ cũng kèm theo đồ nhậu lai rai, và cá độ trong nhóm bình luận với nhau,... Cá độ, được thua không phải là tiền bạc, chỉ là chầu bia hơi, cũng là để tăng cường sự hưng phấn, hăng hái cho công việc tiếp theo mà thôi...  Riêng tôi, dân hâm mộ bóng đá trong ban biên tập suy tôn là sư phụ trong việc dự đoán kết quả các trận đấu thuộc cúp C1. Tự thân, tôi cũng không thật rõ là tại sao tôi lại dự đoán kết quả thi đấu ở cup này chính xác đến vậy. Có lẽ, do tìm hiểu kỹ các đội và tương quan giữa các đội với nhau, mà cũng chưa hẳn vậy, nhiều khi đúng lại là do cảm tính cũng nên.

Mỗi cá nhân, ai cũng là fan của một đội tuyển quốc gia, một Câu lạc bộ nào đấy, và như vậy, không tranh khỏi chuyện khích bác lẫn nhau khi xem thi đấu và cả khi bình luận. Thế mới vui, mới cay cú, mới là bóng đá chứ. Riêng mình, tôi yêu thích đội tuyển Áo thanh thiên-Italia (Azzurri ) với lối đá giàu trí tuệ, thiên về chiến thuật, khi đó các cầu thủ nổi tiếng đẹp trai và tài hoa còn xỏ giày như P. Mandini, R. Donadoni, M. Tassotti, F. Baresi, A. Costacurta v.v...; còn ở cấp độ câu lạc bộ, tôi mê mẩn AC Milan ( Italia ) từ thời có bộ ba Hà Lan bay gồm: F. Rijkaard, R. Gullit, M. Van Basten làm mưa làm gió sân cỏ châu Âu... Và đã là tình yêu, là fan hâm mộ, thì sau này, dù đội tuyển Italia và CLB AC Milan có sa sút, hoặc phong độ trồi sụt thế nào đi chăng nữa thì tình yêu ấy cũng không thay đổi là bao...

Với bóng đá trong nước, ngày xưa tôi yêu mến đội Thể Công, mà một khi tình cảm đã nghiêng về một đội bóng, thì như một lẽ đương nhiên, đội kình địch với đội bóng mình yêu thích sẽ bị xem thường, thậm chí ghét bỏ. Với tôi, quy luật đó không phải là ngoại lệ, tôi không ưa Đội bóng Công an Hà Nội, bởi nó là kình địch, thậm chí là khắc tinh của Thể Công. Các đội bóng phía Nam, tôi có chút tình cảm với Cảng Sài Gòn... Sau này, xã hội hóa bóng đá, các đội bóng xứ ta bị xóa tên, đổi chủ, sáp nhập, giải thể, thành lập mới, bản sắc các đội cũng vì thế mà mất đi. Có bói cũng chẳng tìm đâu thấy bóng dáng tài hoa, tài tử xưa. Đơn giản, bóng đá là tiền bạc, các ông chủ bỏ tiền nuôi đội bóng thì họ phải thu về cái gì chứ. Giờ chỉ còn những cái tên gắn với những cụm từ nghe mà thấy ghê người như “chém đinh chặt sắt  với các đội Sông Lam Nghệ An, Hài Phòng... May ra còn sót lại chút phong cách tấn công hào hoa ở đội Hoàng Anh Gia Lai, nhưng hiệu quả thi đấu lại yếu...

Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, đương nhiên, mọi thời kỳ, tôi luôn đứng về Đội tuyển bóng đá Việt Nam, nhưng rồi thường thất vọng về phong độ và kết quả thi đấu kém cỏi của nó....

Thêm nữa, nạn cá độ bóng đá và liên kết bóng đá kiểu “tay đôi, tay ba, tay tư, tay năm...” hoành hoành ở xứ ta khiến một số đội tụt hạng oan, rồi đó là một số đội buộc phải giải thể, nhiều cầu thủ bị cấm thi đấu, thậm chí ngồi tù vì tham gia dàn xếp tỉ số, vì ăn tiền cá độ v.... Chẳng riêng gì xứ ta, bóng đá Đông Nam Á cũng vậy. Các ông trùm cá độ ở khu vực này đã vươn những chiếc vòi bạch tuộc luồn lách khắp sân cỏ châu Á, thậm chí châu Âu, châu Mỹ.

Gần đây, cơ quan tôi ( VOV ) có phối hợp với Liên đoàn bóng đá Việt Nam và vài nhà tài trợ tổ chức Giải bóng đá trong nhà ( Futsal ) liền 3 mùa giải. Tôi có tham gia ban tổ chức giải đấu này, vì thế có điều kiện tiếp xúc và làm việc cùng một số quan chức cao cấp nhất của Liên đoàn. Trong những lúc trà dư tửu hậu, có vị giải thích với tôi, rằng, ngoài mục đích tài chính và thương mại, bóng đá còn đem lại giá trị về mặt chính trị, nhất là ở các quốc gia tư bản. Các chính khách, các nhà tài phiệt tham gia họa động bóng đá, mỗi khi có bầu cử, họ thu được khá nhiều phiếu bầu cho mình từ phía người hâm mộ. Vậy đấy!...

Thêm nữa, công việc quá bận rộn, những trận đấu hấp dẫn mấy nhưng về đêm cũng chẳng thức trắng để xem, nhằm bảo vệ sức khỏe; rồi đó, mạng xã hội đưa đến cho ta sự tiện lợi, sự quảng giao và bao lý thú khác, lẽ nhiên, niền say mê bóng đá cũng chị chiếm mất chỗ. Thích thì vẫn thích đấy, song còn như xưa nữa!...

Tôi kết thúc bài viết này, cũng là lúc bóng đá xứ ta vừa chấm dứt sự phiêu lưu lãng mạn của mình tại sân chơi tầm thế giới, ấy là đội tuyển U20 bị loại ở vòng đấu bảng của Giải vô địch bóng đá thế giới U20, sau 3 trận, với kết quả 01 điểm, 01 trận hòa, 02 trận thua, đứng chót bảng, không ghi được bàn thắng nào, mà thủng lưới những 6 bàn. Kết quả vậy, không vui là đương nhiên, song cũng chẳng vì thế mà buồn, bởi nó phản ánh đúng sức ta, thực lực ta chỉ đến thế thôi!...

Thôi thì, vẫn cứ dành tình yêu cho bóng đá dù đã bớt đi niềm đam mê và sự cay cú được thua, xem như một niềm vui riêng mình, lại như một sự khích lệ chung cho bóng đá nước nhà !...

 

 

 

Nghe lũ về,

 

Lũ đã về, đài báo loan tin như vậy.

Vậy là, lũ đã về, dù lũ muộn, lũ nhỏ...

Rồi những hình ảnh đầu tiên về lũ miền Tây Nam bộ hiển hiện trên màn ảnh ti vi. Đâu đó, còn là hình bóng của bà con ở vùng đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu thuộc An Giang, Đồng Tháp,... với gương mặt hân hoan đón lũ về,... Vậy là, miền Tây đã có mùa nước nổi...

Lại nhớ, mới trước đó, các phương tiện thông tin đại chúng thi nhau làm các phóng sự về nỗi mong ngóng, khát thèm lũ của bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đơn giản, bởi lũ không về là mất mùa đủ mọi thứ. Lịch sử của vùng đất này đã cho thấy điều đó, và mùa lũ hằng năm cũng đã làm nên thổ ngơi, làm nên tập tục canh tác, lối sống, ăn sâu vào máu thịt, làm nên tính cách con người, mà cao hơn, là yếu tố cấu thành văn hóa vùng miền...

Vậy mà, lũ không về, thì còn gì là miền Tây Nam bộ nữa đây?... Lẽ dĩ nhiên, sự phát triển của khoa học công nghệ, của kinh tế xã hội cho phép con người ta can thiệp sâu vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo chiều hướng có lợi. Tuy vậy, cao siêu hơn cả vẫn là sự thuận theo, nương theo và vận dụng tự nhiên để mà sinh sống. Cái đó là phát triển bền vững đấy, chứ đâu xa...

Cũng lại chạnh lòng về mùa lũ năm ngoái. Miền Tây mất lũ, nạn xâm mặn hoành hành, thất bát đủ điều. Nguyên nhân thì có nhiều, song chung quy thì vẫn ở trời và tại người mà ra cả thôi...

Lại nhớ chuyện xưa cũ, gần bảy năm trời mình ở đấy (1981-1987), năm nào cũng theo đúng quy luận, lũ về đúng vụ, làm nên mùa nước nổi mênh mang cho miền Tây Nam bộ. Con người hài hòa cùng thiên nhiên, cuộc sống giản dị và thân thiện xiết bao. Vậy mà, mới qua hơn 1/4 thế kỷ, mọi sự đã khác xa rồi. Đành rằng, cuốc sống tiện nghi có khấm khá chút đỉnh, nhưng sao mà lối sống và suy nghĩ của con người lại khó khăn làm vậy? Quả là một sự đánh đổi đến xót lòng !...

Rồi nữa, nao lòng, thương nhớ chuyến đò xưa, chuyến đò của cuộc đời minh thời trai trẻ. Ngày ấy, mình đã có chuyến công du theo đường kênh rạch, từ thị trấn Tri Tôn (An Giang) đến thị trấn Hà Tiên (Kiên Giang) bằng tàu đò, thậm chí ghe thương hồ, luồn lách kênh rạch, sông ngòi, ròng rã mấy ngày trời, vạch một đường chéo tự nhiên xuyên suốt tứ giác châu thổ Long Xuyên-Hà Tiên... Những bữa cơm dân dã đạm bạc với khô nướng, dưa chua bông điên điển, cay xè ớt chỉ thiên; những ly rượu đế khê nồng nâng lên đặt xuống, tiếng đàn đàn kìm đệm cho những câu vọng cổ buồn thương não nề; rồi nữa, những buổi hoàng hôn đêm buông trong tiếng muỗi vo ve ngoài mùng giăng trong khoang thuyền, và mùi mồ hôi khét nồng của đàn ông sông nước, mùi gây gây ngầy ngậy của đàn bà nạ dòng ... tất thảy, hòa quện, cư ngụ trong khoang thuyền chật chội làm nên một bầu sống nửa thật, nửa hư ...

Như thế, có thể nào mình lại quên ?...

Chẳng thể nào quên,

vậy nên, càng nhớ lũ,

thèm lũ biết chừng nào !...

 

 

 

 

Ngược dốc lên Suối Giàng

 

 

Cuối thu, sau chuyến lên xứ trà Shan Tuyết Suối Giàng ( Yên Bái ), tôi đã có một phóng sự ảnh về xứ trà này, và nhủ lòng, khi rảnh sẽ viết một chút gì đấy. Là khi bận rộn quá, nên tự hứa với lòng mình như vậy ...

Có lẽ, sự thèm muốn được ngắm tận mắt những cây chè Suối Giàng, loại chè cổ thụ đã trở thành huyền thoại, bắt đầu từ bữa cơm trưa dọc đường lên Mù-cang-chải, tại một quán ăn ở phố thị Văn Chấn. Sau bữa cơm ăn vội với mấy món ăn đặc trưng miền núi là thịt gà rang gừng, dế và ong đất non chiên ròn, có chén rượu xứ rừng đưa cay, thêm bát cháy cơm gạo nương thơm phức do chính tay cô chủ quán duyên mặn mà đưa ra, khiến đám lữ khách chúng tôi dễ sinh cảm xúc. Ngon miệng, no cơm, ngà ngà mặt mày, dù vội mấy, thì vẫn phải đôi ba chén nước chè mới dứt ra để lên đường. Chè Suối Giàng thơm ngon, liếc mắt đọc mấy dòng quảng bá chè Suối Giàng viết nghệch ngoạc trên vách, tôi hỏi thăm cô chủ quán đường lên Suối Giàng có xa không. Biết là chỉ hơn chục cây, đường tuy dốc nhưng dễ đi, nhẩm bụng lúc về sẽ lên tận Suối Giàng xem sao.

          Một ngày, với xôi nếp thơm và suối nước nóng Tú Lệ, rồi ngược đường mà lên Mù-cang-chải. Dẫu trời giở quẻ, chợt nắng chợt mưa, song cũng thỏa lòng mà chạy nhảy, mà ngắm và tha hồ chụp ảnh, thu hình những thảm ruộng bậc thang lúa đang chín vàng mơ, vàng chanh khắp rẻo cao La Pán Tẩn. Thỏa mãn ruộng bậc thang rồi, nỗi thèm lữ khách lại trở lại với huyền thoại về chè cổ thụ Suối Giàng.

Theo lời đồn đại, trà Shan Tuyết được hái từ những cây chè cổ thụ ở Suối Giàng to cao và đứng chênh vênh nơi mép núi, bên bờ vực, đến nỗi, muốn hái được chè, chủ nhà phải nuôi khỉ và huấn luyện cho chúng cách hái chè thay người. Nghĩa là chúng được chủ nhân đeo lên người những chiếc gùi nhỏ, rồi thoăn thoắt lên cây chè cổ thụ, leo trèo, đánh đu, đánh võng để hái những búp những lá chè bỏ vào gùi. Thực hư thế nào chẳng biết, song nghe vậy đâm kích thích trí tò mò.  Đường về, lại dừng chân nơi quán ăn mấy hôm trước, cơm rượu ngà ngà rồi, mấy người chúng tôi không thể trì hoãn “ nỗi sung sướng “, ngược dốc mà lên Suối Giàng bằng được.

Từ đường 32 rẽ ngang, đường lên Suối Giàng tuy dốc ngược và khá quanh co nhưng dễ đi. Nếu nhìn trên bản đồ, Suối Giàng khá gần thị xã Nghĩa Lộ tính theo đường chim bay. Có lẽ, ngày trước đường lên đây khó đi, nên những cây chè Suối Giàng bị bỏ quên đến thành cổ thụ như ngày hôm nay. Không cần hỏi, cứ đi, áng chừng cây số đường mà ngược mãi lên, đến khi thấy con đường dường như chùn lại, có nguy cơ mất hút đâu đó, thấp thoáng những chân tường rào đá và mái nhà gỗ đặc trưng của người Mông, đồ đoán đã đến nơi. Bỗng nhiên con đường như biến mất, chỉ thấy cây thấy nhà. Chúng tôi dừng xe, ngơ ngác, chờ hồi lâu mới gặp một  người đàn bà Mông đi rãy về. Chị không mấy thạo tiếng Kinh, hai bên ú ớ chỉ chỏ một hồi, chúng tôi hiểu là mình đã đứng trên đất Suối Giàng rồi. Đường nhựa đã hết, đoạn dốc tiếp theo bò ngoằn ngoèo như rắn trườn được rải cấp phối đất đá lổn nhổn khó đi, hai bên loáng thoáng những cây chè cổ thụ . Cố đi thêm, xe chúng tôi sa vào giữa một bản người Mông và dốc càng hẹp, càng xấu, có lẽ chỉ có ngựa và ngựa sắt ( chỉ xe máy côn tay bà con dân tộc thiểu số quen dùng ) là đi nổi. Đành lùi xe tìm chỗ quay đầu.

Chúng tôi thả bộ, tản mỗi người một nơi tuỳ ý. Xứ chè Suối Giàng huyền thoại là đây ư ? Cuối thu, thời tiết nơi đây đã khá lạnh và dày đặc  sương mù. Lần đầu tiên tôi biết đến trà Shan Tuyết, thứ trà được chế biến từ búp những cây chè cổ thụ gốc to người ôm, là qua bút ký của nhà văn Bùi Nguyên Ngọc  ( cố nhà văn Bùi Nguyên Ngọc gốc người miền xuôi, lên miền Tây Bắc dạy học, định cư và  viết văn, ông đã hy sinh trong chiến dịch biên giới năm 1979 ). Nói trà tuyết, người ta quen nghĩ đến xứ lạnh , cây chè sinh trưởng trong tuyết giá mùa đông, song cái lạnh ở đây chỉ là một phần thôi. Chữ tuyết được gắn cho trà, là bởi, búp chè cổ thụ hái về, khi sao lên, cuộn xăn lại như con sâu, lớp ngoài lên một màu mốc trắng ngà phủ nhẹ  tựa như có một lớp tuyết trắng bám vào mỏng tang, lên hương thơm quyến rũ... 

Trà Suối Giàng từ cây chè cổ thụ, là một trong thứ trà Shan tuyết hiếm hoi của miền Tây Bắc.  Tuy không còn nhiều, song khắp đó đây, trong vườn nhà, nơi đỉnh đồi, sườn dốc, ven đường, những cây chè cổ thụ gốc xù xì, thân cành uốn lượn như bôn-sai đứng chơ vơ chịu gió lạnh và sương mù.  Tôi say mê tìm góc độ, ghi vào khuôn hình mỗi khi gặp một cây chè cổ thụ ưng ý. Lần hồi, chúng tôi dần ra phía rìa bản, ở đấy có một ngôi nhà với vườn tược bề thế .  Vườn rộng với vài chục cây chè cổ thụ, xen kẽ là những cây sa-mu ngọn vươn cao vút. Chúng tôi vào tận nơi, cậu thanh niên chủ nhà vồn vã mời khách vào thưởng trà. Tường tận, đây là thôn Giàng B, xã Suối Giàng ( Văn Chấn ), cậu thanh niên tên Hoàng A Tuân ( thực ra là cải từ họ Vàng – Vàng A Tuân ), là con rể của ông chủ nhà đích thực. Bố vợ A Tuân, người Mông, tổ tiên định cư ở đây chừng hai trăm năm nay, trải qua nhiều đời rồi. Cũng chẳng hiểu, cây chè đứng trên đất này đã bao lâu, số cây còn lại có cây nào hai trăm tuổi ? A Tuân pha trà mời khách. Chúng tôi mang bánh trung thu ra mời. Vợ A Tuân, cô gái người Mông đã biết cách ăn mặc tân thời, trong  lúc chồng tiếp khách thì cô luôn tay xới đảo búp chè cần mẫn. Nhấm miếng bánh trung thu rồi chiêu hớp trà shan tuyết, lặng ngắm những viên đá cảnh muôn hình vạn trạng bày như La hán khắp nhà, thật thú vị chừng nào. Thì ra, ông bà chủ nhà tên là Đằng và Trà, nên gói trà có dán

giấy nhãn mác Đằng Trà, với địa chỉ, số điện thoại liên lạc, cùng đôi dòng chỉ dẫn cách pha hẳn hoi. Vậy là bà con người Mông mình đã biết làm sản phẩm hàng hóa rồi. Nhưng theo lời A Tuân, chỉ số ít biết cách làm như gia đình bố vợ cậu, còn lại phần đông bà con dân bản vẫn bán búp chè, hoặc tự chế vài ba chục ký bán chợ lấy tiên tiêu vặt, chứ chưa sống được, lại càng không thể làm giàu từ đặc sản quý hiếm này.  Ngay như gia đình A Tuân, cùng với trà Shan Tuyết, còn bán cả đá quý, đá cảnh  để có thêm thu nhập.

Trong số mấy chục cây chè cổ thụ trong vườn nhà A Tuân, có một cây to nhất, cỗi thân cỡ người ôm, được ngành nông nghiệp cho gắn biển đánh số 01 thuộc chương trình bảo vệ giống chè Shan Tuyết đầu giòng của tỉnh Yên Bái . Vậy là không lo mất giống chè quý Shan tuyết Suối Giàng. Song việc bảo tồn và phát triển thế nào lại là một câu chuyện khác.

Rời Suối Giàng về xuôi, chúng tôi không quên mua mỗi người vài cân chè Shan Tuyết Suối Giàng nhãn hiệu Đằng Trà, và đôi ba hòn đá cảnh làm kỷ niệm chuyến đi. Vị trà thơm ngon quyến rũ thưởng thức ngay nơi gốc cây chè quý hiếm đầu giòng còn lưu mãi nơi họng.

Hẹn một ngày gần, trở lại với Suối Giàng !...

 

 

 

Nhớ bão rằm tháng tám xưa,

 

Năm nay, đúng dịp Trung Thu, mưa gió nhiều ở khắp nơi, trẻ em vui thì vẫn vui đấy, song khó mà được ngắm cảnh trăng tròn và phá cỗ dưới trăng. 

Thời tiết thản nhiên, vận hành theo quy luật của mình, khó mà chiều lòng người được. Thường thì vào dịp này, đã qua hẳn tiết Ngâu tháng bảy, nên trời dễ quang mây, trong trẻo. Nhưng cũng có năm, thời tiết bất thường, Ngâu muộn nên tiết mưa dầm kéo cả sang tháng tám âm lịch. 

Cũng không hẳn do biến đổi khí hậu gây nên sự bất thường, trước đây, thời tiết bất thường từng có nhiều rồi. Tôi nhớ, cách đây mấy chục năm, khi ấy tôi đang học đại học năm cuối. Năm đó, tết Trung thu đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, tôi từ trường đạp xe về quê ăn rằm tháng tám với mẹ. Đài báo bão, lại đổ bộ vào trung tâm đồng bằng Bắc bộ. Thường thì dịp này, bão ít lên phía Bắc, mà hay vào miền Trung. Vậy mà, năm ấy, đúng chiều muộn rằm tháng tám thì bão đổ vào. Gió cấp 12 gầm rú, lồng lộn trên không trung, quật nát bươm những ngọn tre, cây trái trong vườn cũng tơi tả. Bưởi, hồng xiêm, và sấu, ổi vườn nhà rụng hết, vung vãi khắp vườn...

Gió giật, làm tung một góc mái rạ chái nhà tôi. Hai mẹ con tôi lúng túng, chẳng biết chống đỡ ra sao. Chỉ biết chốt chặt những chốt cửa chính, cửa sổ mà thôi. Gió theo chỗ mái bị thổi bay, xộc vào nhà, xô đổ đồ đạc trong nhà. Rồi mưa. Mưa như trút. Khi mưa to thì gió cũng giảm đi nhiều. Lúc ấy, không còn lo chốt cửa nữa, hai mẹ con tôi lo tìm thau chậu, ang nồi, có bao nhiêu mang ra hết để hứng nước mưa. Con chó mực, cũng rấm rẳng kêu, luẩn quấn bên chân chủ lo chống dột ...

Trời tối, bão tan, mưa ngớt nhiều. Hai mẹ con tôi mở cửa, ra sân vườn. Chao ơi, tất cả đều tan hoang, ngổn ngang. Lại cắm cúi lo dọn dẹp, nhặt hoa quả rụng đầy vườn...Mẹ tôi thì cứ ca cẩm, rằng mưa bão cướp mất tối vui ngắm trăng phá cỗ Trung thu của bọn trẻ. Mà ngày ấy, thời bao cấp còn nghèo, trẻ quê đâu có quà gì. Cây trái vườn nhà có gì thì bầy nấy, trò chơi cũng là những chiếc đèn ông sao tự mầy mò dán lấy, rồi đó đốt những hạt bưởi khô xâu thành chuỗi để tinh dầu bưởi cháy phát những tia sáng kèm mùi thơm hăng hăng...

Năm nay, trung thu lại mưa nhiều. Nhớ trận bão rằm tháng tám xưa. Nhớ mẹ. Và nhớ tuổi trẻ đã đi qua ... 

 

 

 

Nhớ mùa cá linh

 

 

Hôm nay, tôi về quê, về thăm khu vườn cổ tích của tuổi thơ tôi. Đám giỗ ông ngoại tôi. Họ hàng, con cháu bên ngoại về đông, vừa chục mâm cỗ. Ông ngoại tôi, mất từ hồi tôi còn chưa được sinh ra, nên chỉ biết qua tấm ảnh thờ. Bà ngoại tôi thọ đến gần chín chục, nhưng mất cũng mấy chục năm rồi. Suốt thời nhỏ đi học, đi sơ tán tránh máy bay Mỹ ném bom, rồi sau này học đại học, tôi thường xuyên về quê ngoại. Hè năm 1981, sau khi tốt nghiêp đại học,  tôi đi miền Nam nhận công tác tại An Giang, đến chào bà ngoại, bà còn căn dặn tôi đủ thứ... Rồi vài năm sau, năm nào tôi cũng nghỉ phép ra Bắc, lại kẽo kẹt đèo mẹ tôi trên chiếc xe đạp cọc cách sang quê ngoại thăm bà và các cậu dì. Tôi nhớ, khi ấy bà đã yếu nhiều, nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn. Bà hỏi chuyện miền Nam, tôi say sưa kể bà nghe, về mùa khô nóng cháy, về mùa sa mưa nước nổi nơi tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, kể về xứ sở “ muỗi kêu như sáo thổi, đỉa nổi như bánh canh “, về  miệt viễn biên Thất Sơn với những câu chuyện ly kỳ , về canh chua cá rô bông súng, về mùa cá linh sông Hậu với những món ăn dân dã lạ miệng ... Đi dạo trong vườn cổ tích của bà ngoại, lại thấy nhớ mùa cá linh miệt vườn sông nước Nam bộ...

Chả là, hơn nửa tháng trước, tôi trở lại miệt vườn. Khách sạn nằm kế bên bến Ninh Kiều ( Cần Thơ ), ngày đêm phành phạch tiếng máy tàu đò qua lại, xa xa là cây cầu Cần Thơ mảnh như sợi dây giăng ngang chao trên sông nước mênh mang. Mấy ngày ở  Cần Thơ trời nắng nóng, nhưng  mùa sa mưa đã đến. Buổi đi chơi sang cù lao giữa sông Hậu, đang bữa ăn sang trọng nhà hàng, chợt ai đó nhắc đến mắm cá linh, thế là mọi người nhao nhao nói về món ăn cá linh. Nào canh chua cá linh nấu bông điên điển, nào cá linh hấp rau kim thất, cá linh kho khô sả ớt, cá linh kho mía nục, cá linh nướng, cá linh tẩm bội chiên giòn, lẩu cá linh ...Thôi thì đủ món. Nói ra, đang bữa ăn mà ai nấy còn phát thèm. Lại một ai đó bảo, cá linh bây giờ hiếm lắm, thành đặc sản rồi. Đến mùa cá linh, cỡ tháng bảy âm lịch, chỉ còn miệt An Giang, Đồng Tháp may còn, nhưng cũng thưa thớt lắm. Muốn ăn cá linh, phải đi nhà hàng, mắc thấy mồ, chứ đâu có rẻ rề, ê hề ngoài chợ như ngày xưa nữa...

Ngày xưa. Cái ngày xưa ấy đâu có xa xôi gì, mới chỉ ngót ba chục năm qua thôi. Ngày ấy, tôi ở thị trấn Tri Tôn. Huyện Tri Tôn được tách ra từ huyện Bảy Núi thành hai ( Tri Tôn, Tịnh Biên ). Đây là vùng núi duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Những năm chiến tranh chống Mỹ Ngụy và chiến tranh biên giới Tây Nam 1979, vùng đất này là chiến trường ác liệt, bị tàn phá ghê gớm. Khi tôi đeo ba lô vào nhận công tác ở đây, chiến tranh mới đi qua có vài năm. Các cơ quan cấp huyện, cơ sở tạm bợ, ăn nhờ ở đậu. Dấu tích của chiến tranh vẫn hiện diện với những hàng rào thép gai, với súng ống đạn dược còn nhan nhản đây đó, đặc biệt, mấy nghìn bộ cốt của người dân Ba Chúc bị quân Pôn-pốt giết hại vẫn quàn nổi trong một tòa tháp ngay tại xã Ba Chúc...

Ấy là mùa nước nổi, mùa lũ đầu tiên tôi biết. Bao bọc bốn phía thị trấn Tri Tôn bé nhỏ xơ xác là đồng ruộng ngút mắt. Làng mạc xa xa, nhô lên trên cánh đồng nước nổi là những tán dừa, tán lá thốt nốt, thi thoảng là chóp nhọn tháp chùa Khmer. Những con đường liên xã, liên huyện như những sợi dây thừng mảnh giăng mấp mí mặt nước. Khi ấy, cả đồng bằng mênh mông là xứ sở của cỏ dại, năn nác, bàng, của tôm cua ốc ếch, của trăn rắn, lượn trạch. Con kinh Tám Ngàn rạch đôi thị trấn Tri Tôn, một đầu nối với con kinh chạy về phía Kiên Lương, Hà Tiên, còn một đầu thông vào kinh rạch Thoại Sơn. Mùa nước, đi đâu, cũng cứ tàu đò, ghe thuyền, bo bo, tắc ráng mà chạy là tiện nhất. Tôi quen dần với thổ ngơi, và món ăn miền Tây Nam bộ. Những canh chua cá rô bông súng, những khô cá, dưa bông điển điển, đũa mắm, những cá tra, cá ba sa, chán kho lại canh. Và cá linh. Cá linh, với người dân nơi đây, vừa là món bình dân, rẻ  và ngon vì chế được nhiều món, vừa là thứ thực phẩm quý vì có mùa. Hằng năm, cứ tầm tháng tư âm lịch là mùa sa mưa bắt đầu, đến độ tháng 6 âm lịch là có cá linh non, nhưng rộ nhất là tầm tháng 7, tháng 8 âm. Khi ấy, lũ miền Tây sắp đạt đỉnh, cá linh do ngư dân đánh bắt trên sông Hậu, hay những kinh rạch nhận nước từ sông Hậu. Cơ man cá linh. Chợ nào, trên bộ hoặc dưới sông, cũng đều bán cá linh. Nhà nhà ăn cá linh, thường xuyên cả tháng trời. Nghe nói, giống cá này, vốn sinh trưởng ở vùng Biển Hồ của Cam-pu-chia, từ cá bột, đi thành từng đàn lớn, cứ theo nước mà xuôi, vừa xuôi vừa lớn dần, khi đến sông Cửu Long của ta thì thau tháu rồi...

Thị trấn nơi tôi ở, phổ biến nhất là món cá linh hấp rau kim thất, cá linh kho khô sả ớt. Lâu lâu, mới ăn món cá linh tẩm bột chiên giòn, và lẩu cá linh. Đây là hai món ưa thích với cánh nhậu nhẹt, bởi độ khoái khẩu của nó. Để tiếp khách, hay bạn nhậu, chủ nhà chỉ cần mua mớ cá linh, rẻ rề, làm hai món ấy, thêm vài ba món rau dưa gia giảm, dăm xị đế, là thỏa mái tang bồng... Ngà ngà hơi men, ấy là lúc cánh dân địa phương ôm ghi ta lõm, bập bùng ca sáu câu vọng cổ. Tôi là người yêu chèo và dân ca quan họ, không thích cải lương, vọng cổ, song trong bầu không khí như vậy, lòng cũng rưng rưng một nỗi buồn xa xứ, xa quê, xa khu vườn cổ tích của bà ngoại, xa người bạn gái cũng đang được điều đi dạy học ở một vùng chiêm trũng cách Hà Nội hàng trăm cây số...

Dạo đó, thấy tôi một mình cơm niêu nước lọ ở nhà tập thể, chị Tư Chọn, người cùng cơ quan, quê Thạch Thất ( Hà Tây ), lấy chồng tập kết, sau theo chồng về quê Bảy Núi, bảo tôi góp tiền tháng ăn chung cùng gia đình chị. Người xứ Bắc, nhưng chị nấu mòn ăn Nam rất khéo, nhất là món ăn từ cá linh. Cũng nhờ chị, tôi được ăn hầu hết các món xứ Nam. Vào mùa cá linh, bữa cơm tối nào, chị cùng thay đổi, làm món để tôi và anh Tư chồng chị có mồi mà nâng lên đặt xuống. Cách đây mấy năm, vợ chồng anh chị Tư Chọn ra Bắc, về thăm quê chị ở Thạch Thất, có tìm và ghé thăm gia đình tôi. Vui mừng khôn xiết, tôi mời anh chị ăn cơm gia đình, chọn làm những món Bắc thật đặc trưng, để anh chị đỡ thèm đỡ nhớ. Bữa ăn, chuyện nọ dọ chuyện kia, thế nào lại nhắc đến món cá linh. Thấy thèm và nhớ làm sao... Đâu chỉ nhớ riêng món cá linh, mà nhớ cảnh, nhớ người, nhớ xứ sở, và nhớ cả thời trai trẻ bồng bột, vụng dại của mình nữa kia...

Tha thẩn trong vườn cổ tích, lòng dạ lại để đâu đâu nơi đồng bằng nước nổi tít phương Nam. Ừ, đã lại đến một mùa sa mưa nữa rồi đấy nhỉ. Chả trách, tóc mình mỗi bạc thêm...!...

 

 

 

Nhớ những mùa đông xưa,

 

          Ấy là những mùa đông xưa, cách đây hơn bốn mươi năm trước...

          Ngày đó, tôi học phổ thông và sống ở quê. Cái thằng tôi, sinh ra ở phố, vì chiến tranh mà về quê sinh sống. Không quen đầm ải, chuyện nhà nông biết đôi ba việc đơn giản. Vậy nên, khi làm lụng có vất vả hơn, nhưng bù lại, tôi nhìn cảnh quê cũng ra chiều thi vị hơn, chứ không thấy toàn những vất vả, khổ ải như người ở quê. Những năm tháng ấy, chiến tranh liên miên, nên đời sống nói chung và ở nông thôn miền Bắc còn thiếu thốn lắm, và đầy gian khó.

          Quê tôi, người dân quanh năm suốt tháng trông vào hai vụ chính, song mùa thối chiêm khê, thu nhập từ cây lúa bấp bênh lắm. Thêm vụ đông, thì cũng  quanh  quẩn những khoai lang, khoai tây, su hào, rau cải, ... toàn loại nông sản giá trị kinh tế thấp, gọi là thêm thoắt cứu đói. Thôi thì, tận dụng được thứ gì quý thứ đó. Từ vụ năm đến vụ mười nhanh lắm, nhưng từ vụ mười chờ đến vụ năm của năm sau thì lại dài, những sáu, bảy tháng trời, lấy gì mà ăn cho ấm bụng, màng no đủ, chứ nào ai dám mơ đến chuyện ăn ngon.

          Lẽ là vậy, song đời sống ở quê, nếu biết tận dụng, liệu cơm gắp mắm, khéo bếp núc thì không những no mà còn có miếng ngon với những món ăn quê mùa tìm kiếm quanh quất. Sau vụ mười, tiết cuối thu vào đông, là năm hết tết đến. Đây cũng là dịp việc nông tạm nhàn, để người nhà quê trổ tài kiếm ăn thêm. Gặt xong, rơm rạ nhanh chóng được phơi khô, đánh đống để dùng lợp mái, đun bếp và làm thức ăn dần cho trâu bò những ngày đông giá rét không thể chăn thả ngoài đồng được. Những năm mưa bão, mưa ngâu nhiều, thì khu vực đồng trũng ngập nước, phải gặt bằng lưỡi hái hớt phần ngọn bông, gốc rạ còn dài. Khi vào thu đông, nước cạn đi, mặt ruộng sền sệt, để lại những vũng nước lớn nhỏ, ấy là nơi trú ngụ của tôm cá, cua ếch, lươn trạch,... ngay những loài chim chóc như rẽ giun, le le, mòng kết, cuốc cuốc, làm nơi kiếm ăn, rồi chúng quấn gốc rạ, cỏ năn nác thành tổ. Còn những chân ruộng khô, gốc rạ và cỏ dại lên nhanh, mọc ra những thảm rau khúc tần lấm tấm xanh non... Lúc này, người dân quê thỏa sức tìm kiến nguồn thực phẩm thiên tạo ấy bằng những dụng cụ và cách thức truyền thống. Những chân ruộng cao hơn, nơi ruộng dộc thì làm cây vụ đông, như khoai lang, khoai tây, su hào, cải canh, cải bẹ ... vừa để bán cho dân phố, vừa làm thực phẩm hàng ngày. Đây cũng là thời điểm những tay thợ săn chuột đồng chứ danh ở quê hành nghề, họ dẫn theo mấy chú chó nhà được huấn luyện cách đánh hơi săn chuột, và chỉ một ngày lang thang trên đồng đã được đầy ắp lồng những chú chuột đồng chuyên ăn thóc, béo nung núc. Còn dưới sông ngòi, sau mùa mưa lũ, nước sông Cái đổ về ngầu đục phù sa màu mỡ và tom cá, dịp thu đông cũng cạn bớt dòng, ấy là khi dân chài lưới, ống chúm, giọ rô, vó tôm thi nhau săn bắt...

          Giờ là lúc nói về các món ăn quê. Món ăn dân dã ở quê thì nhiều lắm, song có mấy món thật ấn tượng với riêng tôi. Kể ra đây để nhớ về một thuở đã xa lắm rồi.

          Món thứ nhất, ấy là món cá kho tai cà. Món này chế biến đơn giản, nhưng cũng phải chú ý khâu nguyên liệu. Cà bát được nén vại từ mùa hè. Khi muối nén, người ta chú ý, chọn những cuống cà chưa già, chẻ đôi bỏ đi phần lõi cứng, cắt gọn phần tai nhọn, rồi cho vào vại nén chung với cà bát. Đến thu đông, lấy tai cà muối ra, cho vào niêu đất kho chung với mớ cá đồng, nêm đủ mặn, đun nhỏ lửa, khi nước kho sền sệt, vùi niêu, ủ trấu để qua đêm. Hôm sau mang ăn, cá kho hơi sém niêu, chín nục, ăn bùi nhai kỹ cả xương, nhất là miếng tai cà, thấm chất ngọt từ cá, nói không quá, ngon tuyệt vời, đặc biệt, những ngày giá rét ăn món này với cơm gạo mới, thêm chút dưa chua. No căng bụng mà miệng vẫn thòm thèm. Với tôi, khó có món ăn nào ngon hơn...

           Món thứ hai, ấy là món đọt cải già, cải ngồng xào thì là. Khi cải đã quá lứa, người ta thu hoạch lá để làm dưa, còn phần thân già cứng; cải đã lên ngồng, trừ phần để già lấy hạt làm giống mùa sau, còn lại cắt ngồng cải ăn dần. Người ta tước bỏ phần vỏ bì cứng bên ngoài thân, lõi cải bên trong vẫn mềm, đem cắt vát thành những thanh mỏng, ngồng cải cũng vậy, đem xào mỡ suông, nếu có chút tóp mỡ mới rán thì càng ngon, xào khi chín tới, thì bỏ thêm rau thì là, đảo qua cho dậy mùi. Món này, chấm chút nước mắm, đưa cay với rượu cuốc lủi cũng rất tuyệt. Cùng với ngồng cải non luộc chấm nước mắm trứng, ngồng cải được người ta mang ra ví von, rằng “ gái một con, ngồng cải non “. Tuyệt.

          Món thứ ba, ấy là món chế từ chuột đồng, chứ không phải là chuột cống ở thành phố ( bây giờ, bọn bất lương bắt chuột cống chế biến giả thành chuột đồng chuyên ăn lúa gạo, hoặc con dúi, tức là chuột núi, chuyên ăn củ quả và các loại hạt rừng ). Nếu ai đó, sợ hoặc ngại trước món ăn cực kỳ dân dã này, thì xin bỏ qua cho. Thực tình, đây là món ăn truyền thống ở nhiều vùng quê xứ Việt mình, trong đó có quê tôi. Chuột đồng làm sạch, chặt bỏ đầu đuôi, bàn chân và nội tạng, để ráo, đem hấp cách thủy đến chín, lấy ra, để nguội rồi nẹp que tre tươi bó lạt chặt như bó giò, mùa đông lạnh thành ra như thịt đông. Chặt miếng, ăn chấm với muối tiêu lá chanh thái tăm, nhậu khoái khoái khẩu, ăn quen còn ngon hơn thịt gà.

          Thực ra, còn biết bao món ăn dân dã của người quê, ngon và dẻ. Với riêng tôi, bao năm trời rời quê về định cư lại nơi đô thị. Nhớ lắm những mùa đông quê, nhớ cảnh sắc, nếp sống chịu thương chịu khó, nhớ những món ăn, những bánh khúc, bánh tẻ, cá kho tai cà, rau dưa... mà món gì cũng ngon,... Ở đấy cón hồn cốt quê hương bản quán, có tình làng nghĩa xóm, có bóng dáng thời cuộc đi qua...

          Thêm nữa, bởi nó gắn với những ký ức về cha mẹ, và cả nhưng mối tình thơ dại thời hoa niên đã mất !...

 

 

 

Những người thầy nghề báo của tôi

 

Nghề đào tạo chính quy của tôi là kỹ sư canh nông, chẳng dính dáng gì đến báo chí, văn chương cả. Hồi đi học phổ thông, mặc dù đôi ba lần được nhà trường chọn đi thi học sinh giỏi môn văn các cấp, song vẫn chỉ là thứ văn học trò. Năm cuối cấp 3 ( nay là Trung học phổ thông ), tôi may mắn được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi môn văn của tỉnh Hài Hưng cũ tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc ( khi ấy chưa giải phóng miền Nam thống nhất đất nước ). Kiến thức thu lượm chẳng được bao nhiêu, song bù lại là bầu không khí văn chương chữ nghĩa. Đội tuyển có 20 người, đặc biệt, có hai người mà sau này ảnh hưởng đến thiên hướng và nghề nghiệp báo chi văn chương nơi tôi, ấy là nhà thơ Trần Đăng Khoa ( khi ấy được xem là thần đồng thi ca đất Việt ) và  nhà báo Trịnh Bá Ninh.

          Tốt nghiệp đại học, năm 1981, cầm quyết định vào tỉnh An Giang công tác, tôi đinh ninh sẽ gắn cuộc đời mình với nghề kỹ sư canh nông, chuyên ngành mình được đào tạo chính quy. Khi ấy, đất nước thống nhất đã 5 năm, các nhà quản lý ngành nông nghiệp đưa mô hình HTX nông nghiệp và kỹ thuật canh tác của miền Bắc vào áp dụng đại trà ở miền Nam, nhưng không thành công. Vì vậy, công việc kỹ thuật ở một Ban Nông nghiệp cấp huyện nơi tôi công tác hầu như chẳng có gì để làm. Thời gian rảnh, tôi tìm hiểu thực tế tập viết báo. Làm báo nghiệp dư, thôi thì “ vơ bèo vạt tép”, có gì viết nấy. Huyện Tri Tôn ( được tách ra từ Bảy Núi ) là huyện miền núi biên giới không những của tỉnh An Giang mà cả miền Tây Nam Bộ, địa hình địa lợi có núi rừng, có vùng ngập nước, kênh rạch chằng chịt, chạy ngút ngàn về phía huyện Hòn Đất, Hà Tiên ( Kiên Giang ), cặp kênh Vĩnh Tế, bên kia là đồng đất nước bạn Campuchia. Dân số huyện, hai phần ba là người Khmer sinh sống, còn lại là Kinh và Hoa. Điều kiện địa lý, kinh tế xã hội phức tạp và khá phong phú ấy, được coi là có “ đất “ cho người viết báo nghiệp dư như tôi. Tôi viết câu chuyện truyền thanh, chuyện “ buôn, sóc, bản, mường “,  giới thiệu văn hóa dân tộc Khmer cho các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Về đề tài nông nghiệp, tôi viết bài cho báo Nông nghiệp, mà người bạn thân từ thưở học trò của tôi là nhà báo Trịnh Bá Ninh đang làm phóng viên tại đấy. Để đăng được, Trịnh Bá Ninh phải cắt gọt, biên tập lại nhiều. Không những thế, anh còn viết thư động viên, chỉ dẫn tôi việc chọn đề tài... Qua đấy, tôi học học được từ anh khá nhiều, từ cách chọn đề tài, chọn thể loại, góc tiếp cận vấn đề  v.v... Có thể nói, nhà báo Trịnh Bá Ninh ( hiện là Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam ) là người thầy dạy nghề báo chí đầu tiên của tôi.

          Rồi mạnh bạo hơn, tôi viết bài gửi Trịnh Bá Ninh nhờ anh chuyển sang báo Nhân Dân. Lúc bấy giờ, nhà báo Tô Vương là phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, nông thôn của báo Nhân Dân. Sống ở địa phương lại viết báo nghiệp dư, nên những bài viết của tôi chỉ mang tính phản ánh, chẳng có gì to tát, và chắc hẳn còn nhiều khiếm khuyết. Nếu ngại, có thể quẳng chúng vào sọt rác. Điều đáng nói ở đây, là nhà báo Tô Vương đã biết trân trọng những bài viết từ cơ sở của những người viết báo nghiệp dư như tôi. Qua sự biên tập của anh, bài viết nuột hơn và được nâng tầm. Cứ thế, dần dà, tôi có gần chục bài viết được đăng trên Báo Nhân Dân. Ở vào thời ấy, quả là có nằm mơ tôi cũng chẳng dám nghĩ  mình làm được như vậy, nếu không có sự nhiệt tình nâng đỡ, chắp cánh của nhà báo Tô Vương.

          Và cơ hội trở thành người làm báo chuyên nghiệp đã tới. Sau vài năm cộng tác, Báo Nông nghiệp đồng ý tiếp nhận tôi với điều kiện làm phóng viên thường trú của bản báo tại các tỉnh phía Nam. Lúc bấy giờ, tờ báo này chưa có văn phòng đại diện tại phía Nam mà chỉ có một phóng viên duy nhất ở nhờ Văn phòng Bộ Nông nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng rồi, việc ấy không thành, tôi không về được  Báo Nông nghiệp, song một cơ hội mới lại mở ra, ấy là việc về đầu quân làm phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam. Thời gian cộng tác với chương trình phát thanh Đại gia đình các dân tộc Việt Nam của Đài, tôi được biết, bài vở của mình được phóng viên Hoàng Đồng biên tập rồi dàn dựng thành tác phẩm báo phát thanh. Thật không ngờ, tháng 10 năm 1987, tôi cầm tờ quyết định do Tổng biên tập Trần Lâm ký, về nhận công tác tại Phòng Tiếp dân & xử lý đơn thư thuộc Ban biên tập Thính giả,Đài Tiếng nói Việt Nam, thì người phụ trách phòng chính là nhà báo Hoàng Đồng. Từ cộng tác, nay trở thành nhân viên thuộc cấp, anh quý tôi và coi nhau như anh em. Làm báo viết, có thể nói là tôi biết chút ít, song báo phát thanh có đặc trưng riêng của nó, và việc sử dụng máy ghi âm thì tôi mù tịt. Nhà báo Hoàng Đồng chính là người thầy đầu tiên dạy tôi làm báo phát thanh. Hàng ngày, anh chỉ bảo và hướng dẫn tận tình, chi tiết, cả những bí quyết, mẹo mực của nghề.. Vì thế, khá nhanh chóng tôi trở thành người giúp việc và đồng tác giả với anh một số bài điều tra vụ việc, hiện tượng  tiêu cực trong xã hội lúc bấy giờ. Khi ấy, vợ anh đi xuất khẩu lao động nước ngoài, kinh tế eo hẹp, mình anh gà trống nuôi con. Tôi không có nơi ăn ở, nằm bàn tại cơ quan, nên nhiều hôm anh rủ tôi về nhà anh ăn cơm và ngủ luôn ở đấy. Thực lòng, tôi kính anh như người thầy dạy nghề, người anh thân thiết. Cùng với nhà báo Hoàng Đồng, còn có hai người mà tôi xem như thầy dạy nghề báo chí văn chương, ấy nhà văn Vũ Đình Minh ( Ban Văn học nghệ thật Đài Phát thanh tuyền hình Hà Nội ) và nhà thơ Trần Phương Trà ( tức Trần Nguyên Vấn, Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam )...

          Sau này, khi trưởng thành, tôi được đào tạo thêm về nghề báo chí qua những khóa học ngắn hạn trong và ngoài nước, song những bài học đầu tiên về báo chí do các anh chỉ bảo vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong tôi và chẳng bao giờ cũ. Ngay cả khi,  được phân công đảm nhiệm một số công việc quản lý báo chí nghề nghiệp ở một cơ quan báo chí lớn, bản thân, đã xuất bản được hơn chục đầu sách văn xuôi, thơ, phê bình văn học, báo chí, tôi vẫn luôn trân trọng và biết ơn những người bạn, người anh đồng nghiệp với tư cách là những người thầy dạy nghề cho tôi.

Và hơn thế, họ còn là người thầy trong cuộc sống của tôi...

 

 

 

Non Tản, sông Đà,...

 

Vậy là tôi đã lên đỉnh non Tản, vào một ngày mưa, cuối tháng Ba âm lịch Đinh Dậu...

Cái duyên lên đỉnh non Tản cũng thật tình cờ.

Kênh VTC16 ( 3N ) - Kênh truyền hình Nông nghiệp-Nông thôn  của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC tổ chức Lễ kỷ niệm tròn 7 năm thành lập tại Khu Resort Ba Vì, và tôi là khách mời. Lần đầu tiên tôi lên núi Ba Vì, loanh quanh các đền chùa và khu nghỉ dưỡng dưới chân núi thì nhiều rồi. Thay vì ở cốt 400 thì lại nhầm địa chỉ, lên đến cốt 800, tận chân Đền Thượng, đền thờ Tản Viên Sơn Thánh.

Vậy là cơ duyên. Dù biết là giờ khai mạc lễ kỷ niệm kia đã định sẵn, thì đã lên đến đây, không thể không leo trèo mà lên đỉnh non Tản, kính viếng Đền Thượng. Trời se lạnh, lắc rắc mưa, hậu quả của đợt rét Nàng Bân thứ ba trong tiết cuối xuân đầu hạ này. Trong số mấy người, chỉ có tôi và một đồng nghiệp nữ thì chưa từng lên Đền Thượng. Vậy thì đã lên tới đây rồi, không thể không lên thăm viếng Đền Thượng. Thế là hai chúng tôi quyết tâm leo, và khi ấy, cũng chưa hình dung hết sự vất vả khi phải vượt hơn ngàn bậc đá để lên được đỉnh non Tản...

Khi leo những bước đầu tiên, chợt câu chuyện kể về hiệp thợ Chàng Thôn ( Thạch Thất ) được Thần Non Tản vời lên đỉnh núi để sửa chữa Đền Thượng trong truyện ngắn “ Trên đỉnh Non Tản “ của cố nhà văn Nguyễn Tuân, ùa về. Ngày xưa đọc, chỉ hiểu lờ mờ. Sau này, đọc lại, ngẫm nghĩ, mới hiểu được, ẩn giấu bên trong câu chuyện tâm linh kỳ bí và có chút hoang đường ấy, là khát vọng về sự chinh phục, về ý thức vươn lên của con người...

Trời vẫn lắc cắc mưa, áp lực về thời gian khi phải trèo cao, quả là một thử thách sức lực và ý chí của con người không nhỏ. Nữ đồng nghiệp đi cùng tôi, diện trang phúc đi lễ hội, váy liền guốc cao gót, thử hỏi leo trèo ngược núi sao đây. Mới chừng phần tư chặng đường, cô đã chững lại, muốn quay trở xuống. Cung cảnh ấy, tôi chẳng dám động viên cô leo tiếp. May thay, và lạ kỳ, đúng dịp nảy, Đền Thượng cũng sửa sang, nên có mấy người dân địa phương, được thuê vác gỗ, chuyển vật liệu lên đỉnh để tu sửa Đền Thượng,.. Thấy vậy, một người trong số họ bỏ dép đi chân đất, nhường đôi dép nhựa cho nữ đồng nghiệp của tôi mượn. Vậy là chúng tôi có thể song hành, quyết tâm leo tiếp...

Ngày nhỏ đi học, sách Giảng văn có bài về Truyện núi Tản Viên, truyền thuyết về Sơn Tinh-Thủy Tinh. Sau này, đọc thêm sách Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh nhuận chính, rồi nữa là truyện Sự tích một ngày đẹp trời của nhà văn Hòa Vang, có thêm tài liệu để suy ngẫm, phản biện, đối chứng và cái nhìn đa chiều về một sự tích, dù sự tich ấy đã hình thành hàng ngàn năm và ăn sâu bám rễ vào tâm thức người dân...

Đường lên cao, càng trèo càng quanh co dốc ngược. Gặp những người đi xuống, chào hỏi và động viên nhau vài câu, để có quyết tâm mà lên tiếp... Trong sự mỏi gốc và mệt nhọc, ý nghĩ trong tôi vẫn lẩn quẩn những câu chuyện về nguồn gốc Thần Tản Viên-Sơn Tinh... Nhiều người biết đến nguồn gốc thần tổ của Ngài, rằng Ngài là một trong trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, là một trong số năm mươi người con theo cha xuống biển, rồi từ biển ngài ngược cửa Thần Phù vào đất liền và lựa chọn núi ngọn Tản Viên Ba Vì mà định vị thành Sơn Tinh để có câu chuyện Hùng Vương thứ 18 ( Hùng Duệ Vương ) kén rể cho Ngọc Hoa công chúa, dẫn đến chuyện tranh đấu giữa Ngài và Thủy Tinh... Rồi nữa. từ cuốn Ngọc phả ở đền Lăng Xương ( Thanh Thủy, Phú Thọ ) khai lập từ năm 1011 đời Lê Thái Tổ ( niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 ) cho thấy nguồn gốc dân nghèo của Ngài với cái tên Nguyễn Tuấn ( con của ông bà Nguyễn Cao Hành-Đinh Thị Đen, cùng mẹ nuôi Ma Thị )... Cảm quan khoa học, hình như, theo thời gian, đã có một sự đồng hóa lẫn nhau trong quá trình hình thành thần tích giữa nguồn gốc dân nghèo với nguồn gốc thần thánh của Ngài ?...

Có lẽ, đây cũng là lần đầu, khi trèo bậc dốc viếng thăm các đền chùa, tôi có cảm giác không điều khiển được đôi chân của mình, khi đầu óc vẫn tỉnh táo với đầy lòng quyết tâm lên bằng được nơi Đền Thượng tọa lạc ở cốt 1.200 ... Những đoạn nghỉ ngắn dần, hơi thở cũng gấp gáp hơn, mồ hôi đẫm lưng mặc dù tiết trời khí núi se lạnh. Ấy vậy mà những người dân vác gỗ lên sửa đền Thượng vẫn trèo thoăn thoắt, thản nhiên trò chuyện với nhau và động viên du khách, cứ như họ được thần thánh nâng bước vậy. Tôi cứ liên tưởng, rồi đồng hóa họ với các thành viên hiệp thợ Chàng Thôn được Thánh Non Tản đưa lên núi sửa đền trong truyện ngắn “ Trên đỉnh Non Tản “ của Nguyễn Tuân xưa.

Đến khi mệt mỏi không muồn bước nữa, thì cũng là lúc tai nghe được tiếng nhạc ngũ hành du đương trầm bổng, như nâng bước chân mình... Và rồi, chũng tôi cũng lên được Đền Thượng...

Hành lễ rồi, vẫn còn đền Mẫu trên cao hơn nữa. Lưỡng lự, định bái vọng, nhưng rồi như có ai xui khiến, lại tiếp tục ngược dốc trèo nữa. Lên đến nơi, muốn đứt hơi, song bù vào đó, là cái cảm giác sảng khoái của kẻ đi chinh phục... Lại thấm thêm cái thông điệp mà cụ Nguyễn Tuân gửi gắm trong tác phẩm văn học của mình. Một tứ thơ váng vất trong đầu...

Lên cao  bao nhiêu lại phải xuống bấy nhiêu. Giờ không quá mệt nhọc, song lại có cái cảm giác chênh vênh, bẫng lẫng. Người đời bảo, khi lên mỏi gối, lúc xuống chồn chân,... Ngẫm cấm có sai !...

Trời đã bớt mưa, nhưng sương mù ngập lối cỏ cây. Cho dù vậy, cũng chọn góc, bấm máy được mấy khuôn hình non Tản, sông Đà, mây đùn như khói...

Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chiều về, bên tách cà phê thư giãn, xả nỗi mệt nhọc, màn hình tivi lại đúng chuyên mục Chuyện văn học nghệ thuật, có phóng sự về nhà thơ Quang Dũng, chàng thi sĩ đích thực của vùng đất Sơn Tây, núi Tản sông Đà...

Những câu thơ của Quang Dũng, người con của núi Tản sông Đà ấy đã ám ảnh tôi một thời ... Và giờ đây, trên đỉnh non Tản, tôi đã được ngắm sông Đà uốn mềm mại dưới chân núi, và có thể ngắm “ xứ Đoài mây trắng lắm  khi trời dứt mưa, hé nắng ...

 

Nước Nga ký sự

 

1.     Bước đi trên đất nước Nga mênh mông,

 

          Mong ước mãi, thế rồi tôi cũng được đặt chân và bước đi trên đất nước Nga mênh mông, trong chuyến công tác theo thỏa thuận giữa Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) với Đài Nước Nga ngày nay (Russia Xergodnhia, hay Rossia Today). Mặc dù, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã tách ra, thì diện tích còn lại của nước Nga ngày nay vẫn rộng hơn 17 triệu cây số vuông, và nếu đem so sánh với nước ta, tính tròn 330 nghìn cây số vuông, tức là 0,33 triệu cây số vuông, sẽ hình dung thấy nước Nga mênh mông như thế nào...

          Song, trước khi nói đến cái cảm giác bâng lâng không thật chân khi bước chân trên đất nước Nga, trong thâm tâm và sự việc cụ thể, có vài sự băn khoăn, bực mình. Ấy là khi làm đoàn, bộ phận phụ trách Quan hệ quốc tế của cơ quan tôi, xếp lịch đi một tuần, khời hành ngày 01.6 và kết thúc ra về vào 07.6. Nhẩm lịch âm, ngày đi trùng mồng 7 và khi về 13 tháng 5. Nghĩ bụng, các cụ xưa dạy rằng “chớ đi ngày bảy, chở về ngày ba”, phàm đi đâu, làm công việc quan trọng gì thì chỉ trùng một cũng đã cảm thấy bất an, đằng này lại trùng cả đi lẫn về. Quan hệ quốc tế, quyết định ra rồi, đổi lại sao đây. Thôi thì kệ, ra sao thì ra. Tuy vậy, đoàn có bốn người, chỉ mình tôi nghĩ, chằng nói ra với ai, kẻo lại xôn xao, phiền lòng. Chuyến bay mang ký hiệu SU291 của Hãng Aeroflot, hàng không Nga cất cánh đúng giờ, sau 10 tiếng bay liền đã hạ cánh êm ru xuống đường băng sân bay Sheremetyevo-2. Thở phào nhẹ nhõm. Làm thủ tục nhập cảnh, mấy cửa an ninh dành cho khách Việt mang hộ chiếu phổ thông dài dằng dặc, mà cửa vẫn mang ký hiệu đỏ, tức là chưa có người làm. Trong lúc chờ, vài đồng nghiệp của tôi làm dáng chụp ảnh, ngay lập tức nhân viên an ninh sân bay đã xuất hiện bắt xóa hết các ảnh vừa chụp bởi quy định cấm quay phim, chụp ảnh tại đây. Ấy là phiền hà đầu tiên.

          Mấy người chúng tôi, tiếng Nga bập bõm, tiếng Anh cũng bồi, hỏi một hồi cũng tìm được sang của Diplomat. Tưởng là sẽ thuận lợi, không ngờ, dầy dà to. Mặc dù dùng hộ chiếu công vụ, song mấy người chúng tôi cứ phải thay nhau tiến lên lùi lại nhiều lần, còn nhân viên an ninh sân bay thì cứ gõ gõ nhập nhập, hết dùng kính soi hộ chiếu lại ngắm mặt nhận diện đối chiếu, khiến cả dòng người đợi phía sau bị ách tắc. Chán rồi cũng nhập cảnh xong. Lại thở phào vì được việc, nhưng cũng bực mình phiền toái không đáng có. Ngoài trời lạnh dưới 10 độ C, mọi người lục tục lôi áo rét ra mặc. Đã tiết đầu hạ mà vẫn rét vậy, trong khi ở Hà Nội, nóng đỉnh điểm lên đến 42 độ. Cây cối xanh rờn, bầu trời chiều nằng nặng mây xám, nghe lác đác hạt mưa... Mọi người, thi nhau tạo dáng chụp ảnh, lấy cái mái vòng chìa ra mang dáng vẻ lưng con kỳ đà làm phông nền. Tôi miên man với dòng suy nghĩ, ước ao từ thuở thiếu thời khi biết yêu văn học Nga, mong một ngày nào đó, được đến đất nước vĩ đại của Lê-nin, quê hương của cách mạng vô sản thế giới, được bước chân trên Quảng trường Đỏ, chiêm ngưỡng điện Kremli, được nghe bài hát “Chiều Moskva“ ngay tại xứ sở Bạch dương, và còn biết bao nhiêu thứ “được” nữa. Vậy mà, mãi đến tận nay, khi mái đầu đã ngả bạc, khi mình bước đến ngưỡng cửa tuổi nghỉ hưu, thì mới thấy đây. Mới mùa hè năm ngoái, trong chuyến công tác thăm và làm việc tại Hungary và Rumania, cả đi và về, tôi chỉ được transsit qua sân bay quốc tế Demodedovo của Nga, nghĩa là chưa được nhập cảnh vào đất Nga, nên chỉ ngó nghiêng, rồi tìm mua mấy món đồ lưu niệm tại quầy souvernir ở sân bay như búp-bê gỗ Matryoska, miếng dán tủ lạnh mang hình biểu tượng Nga, và chai rượu ẩn trong vỏ ngoài hình cuốn Kinh thánh v,v... để lấy cái cảm giác là đã từng được đến Nga rồi...

          Dòng suy tưởng bị cắt đứt, khi ai đó reo lên “Kìa, xe Điệp Anh đến đón đây rồi”. Và ngay đó, chiếc xe lán vào lề đường cạnh chỗ chúng tôi đứng chờ, và Điệp Anh, trưởng cơ quan thường trú của Đài tại Nga, tươi cười vẫy tay chào qua cửa kính xe còn chưa kịp mở. Một hồi hàn huyên, khi xe chuyển bánh, chúng tôi mới mang chuyện sân bay ra kể. Điệp Anh cười bảo, vậy là còn nhanh chán. Rồi ra, chúng tôi mới hiểu tại sao phiền toái như vậy, ấy là an ninh sân bay họ còn phải vào mạng do xem tên tuổi chúng tôi có trùng với ai đó thuộc diện Nga cấm nhập cảnh hay không. Khi xác định rõ, họ mới cho nhập cảnh. Là bởi, trong những năm qua, có khá nhiều người Việt mình nhập cảnh trái phép, mượn cớ đi du lịch, thăm thân rồi trốn ở lại làm ăn, và có cả những người phạm tội này nọ, thế nên mới ra nông nỗi này. Mà trong số những người thuộc diện bị cấm nhập cảnh vào Nga, có khá nhiều mang họ Nguyễn, cái họ được cho là phổ biến nhất ở Việt Nam. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân, hậu quả này đều từ dân mình mà ra cả, chê trách chi họ đây.  Nghĩ mà buồn.

          Và rồi, một phiền toái nữa lại đến ngay đó, ấy là nạn ùn xe tắc đường xảy ra như cơm bữa ở Moskva, nhất là trên những đường vành đai, đường đi sân bay, hoặc đến những trung tâm thương mại lớn. Như Hà Nội và Sài Gòn vậy, nhưng khác ở chỗ, họ chỉ mỗi ô tô và vẫn quy củ, còn xứ ta thì hổ lốn về mọi phương diện. Đường rộng, mỗi bên 4 làn xe, ấy vậy mà cứ phải nhích từng chút. Điểm tập kết của chúng tôi là khách sạn Salut, khoảng cách còn những gần năm chục cây, vậy thì bao giờ mới đến. Ngoài trời, mưa bắt đầu nặng hạt, cái rét như tăng thêm...

 

2.     Đi dạo trên Phố Arbat,

          Đây là một trong số mấy địa điểm mà bất cứ ai, lần đầu đến thủ đô Moskva, không thể không tìm đến.

          Phố Arbat là một phố đi bộ nổi tiếng ở Moskva. Nó nổi tiếng bởi nhiều nhẽ. Trước hết, con phố dài chừng cây số này có nguồn gốc lâu đời, từ cuối thế kỷ 15, vốn dĩ là nơi tập trung sinh sống của những thợ thủ công tài hoa từ khắp nước Nga dồn về, họ chuyến làm nghề phục vụ cho giới quý tộc. Trải qua hơn năm trăm năm hình thành, phố Arbat mang đậm phong cách kiến trúc và màu sắc văn hóa Nga cổ truyền, cho đến tận nay. Hiện đi dạo trên con phố này, du khách có thể bắt gặp những hiệu sách, những quầy bán hàng lưu niệm như đồ sứ Nga, búp-bê gỗ Matrioshka, ấm Samovar, tranh ảnh v.v... Các nghệ sĩ dân gian đường phố cũng thường xuyên tụ tập trình diễn âm nhạc, dân ca, dân vũ Nga cổ truyền... Phố Arbat còn nổi tiếng bởi ở đó có ngôi nhà mà đại thi hào thế giới-mặt trời thi ca Nga-A.X. Pushkin sinh sống một thời gian ngay sau khi kết hôn với Natalia Goncharova. Ngôi nhà này ngày nay trờ thành nhà lưu niệm về Pushkin, được sơn màu xanh ngọc, hình như là màu yêu thích ở Nga vì một số công trình kiến trúc quan trọng ở Nga ( chẳng hạn, Cung điện Mùa Đông-bảo tàng Ermitage ở Saint Petersburg ).

          Hôm ấy, tranh thủ thời gian ngắn trước giờ làm việc với Đài Nước Nga ngày nay, chúng tôi đổ bộ xuống phố Arbat ngay gần đó. Bầu trời nặng mây, rồi mưa lắc rắc, khiến cái lạnh tăng thêm. Khách bộ hành thì che ô mà đi, còn chúng tôi thì cứ đầu trần. Lần đầu đến đây, và biết rằng khó có thể quay lại, nên cứ đi được đến đâu thì đi. Vì trời mưa, lại đầu buổi sáng, nên con phố còn vắng. Tôi chọn góc máy chụp ảnh, cảm giác buồn buồn len lỏi trong mình, Ngắm ngôi nhà Pushkin rồi nhẩm đọc những câu thơ của ông còn trong trí nhớ: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể/ Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;/ Nhưng không để em bận lòng thêm chút nữa,/ Hay hồn em phải gợn sóng u hoài... Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,/ Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.”. Từ cuộc hôn nhân với tiểu thư quý tộc Natalia Goncharova, đã như một sự báo trước cho cái chết của nhà thơ ở tuổi 38 sau cuộc đấu súng nhằm bảo vệ danh dự với viên sĩ quan kỵ binh người Pháp là D’ Anthes, người được cho là dan díu với vợ ông, trong một âm mưu đã định nào đó?!

          Và một điều nữa, ấy là cuốn tiểu thuyết “Những đứa trẻ phố Arbat” giàu chất tự chuyện của nhà văn Anatoli Rybakov, một người con của phố Arbat. Tác phẩm này, cùng với một số tác phẩm khác của ông đã được dịch ra hơn 50 thứ tiếng trên thế giới, nó đã khiến con phố này vốn đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng hơn. Bản thân tác giả, nhà văn Rybakov, cùng cuốn tiểu thuyết của ông đều chung số phận long đong, lận đận. Rybakov phải lang thang kiếm sống, rồi bị tù đày bị tội “tuyên truyền phản cách mạng”, còn cuốn tiều thuyết thì được viết từ đầu những năm sáu mươi nhưng phải đến cuối những năm tám mươi mới được xuất bản. Tuy nhiên, số phận cũng đã mỉm cười với Rybakov, cuốn tiểu thuyết này khi xuất bản, đã được xem như quả bom tấn trên diễn đàn văn học Nga thời hiện đại, nó đã góp phần vinh danh tên tuổi Rybakov. Sau này, cuốn tiểu thuyết còn được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập, nên phố Arbat lại nối riếng hơn. 

          Trời mỗi lúc mưa thêm nặng hạt, thời gian lại không có, đành nhìn con phố hun hút buổi sáng còn thưa thớt người qua lại, nhìn ngôi nhà màu xanh ngọc xưa của Pushkin lặng buồn trong mưa và thầm mong, một ngày nào đó được quay trở lại, để khám phá thêm về con phố nổi tiếng này ...   

 

          3. Một ngày ở Quảng trường Đỏ.  

           Đây cũng là một địa danh nổi tiếng, mà chỉ cần chụp ảnh mình ở đấy, là ghi nhận mình đã đến nước Nga, đến Moskva.  

          Hôm ấy là cuối tuần, trời lại rét dưới 10 độ C, ấy vậy mà quảng trường đông nghịt người. Chúng tôi phải gửi ô tô khá xa rồi đi bộ vào khu vực quảng trường. Khách du lịch, người Nga hay người nước ngoài thì hầu như ai cũng phải làm vài ba kiểu ảnh, lấy phông nền nhà những chóp nhà thờ Chính thống giáo Nga hình củ hành được dát vàng, và bức tường màu nâu đỏ. Chương trình của chúng tôi là dành cả một ngày cho địa điểm này với mấy việc cụ thể, đó là: vào lăng viếng Lê-nin và thăm thú các hoạt động nghệ thuật ngoài trời ở khu vực Kremli, tiếp đó là đến điểm sổ O của nước Nga, kiểu như point zero ở Paris, và sau cùng là xem vở ballet Hồ Thiên Nga của Tchaikovsky tại Cung đại hội ngay trong khu vực  Quảng trường Đỏ,

          Những năm gần đây, những biến cố chính trị ở nước Nga và thế giới, đưa nước Nga vào diện có hoạt động khủng bố nên chính quyền Nga tăng cường việc kiểm soát an ninh nội địa. Để vào được khu vực phía trong, tất cả mọi du khách phải qua cửa kiểm soát an ninh, máy soi chiếu đồ đạc mang theo, thậm chí cảnh sát còn bắt mọi người phải mở túi đồ, để họ bằng khám tay, mới được vào. Lại tiếp tục rồng rắn xếp hàng để đến khu vực tường đỏ và nơi có Lăng Lê-nin...

          Mất khá nhiều thời gian xếp hàng, nhích từng bước một. Đây cũng là thời gian để tôi quan sát quang cảnh xung quanh khu vực và thả bổng ý nghĩ về lịch sử nước Nga. Phần đông du khách nước ngoài, lần đầu đến đây, nếu không nghiên cứu trước, hoặc được giới thiệu trước, thì dẽ hình dung và lầm tưởng Quảng trường Đỏ-Điện Kremli na ná như kiểu Quảng trường Thiên An môn-Tử Cấm thành Bắc Kinh (Trung Quốc). Thực ra, không phải vậy. Ở Tử Cấm thành Bắc Kinh, đấy là khu vực được bao bọc kín bởi tường thành cao, hào nước sâu bên ngoài, với các cửa thành ở bốn mặt, và từ quảng trường Thiên An môn sau khi qua cửa thành vào bên trong, là quần thể các cung điện và công trình kiến trúc đồ sộ, tráng lệ, là nơi tổ chức các hoạt động trọng đại của quốc gia, nơi thiết triều của nhà vua và nơi sinh sống và hoạt động của đại gia đình hoàng gia. Còn như, Quảng trường Đỏ-Điện Kremli (thuật ngữ kremli là chỉ một dạng thức thành quách Nga nói chung, vì vậy, ở một số thành phố cổ khác của nước Nga cũng có kremli) lại là một quần thể bao gồm tường thành, pháo đài, cung điện, nhà thờ (cụ thể, Nhà thờ chính thống giáo Thánh Basil và Nhà thờ Đức Mẹ Kazan), các đài phun nước, và sau này thêm Lăng Lê-nin, Bách hóa tổng hợp (GUM), tượng đài (nguyên soái Jukov), Mộ chiến sĩ vô danh-Ngọn lửa vĩnh cửu...

          Để vào lăng viếng trước thi hài Lê-nin, lại phải tiếp tục qua thêm cửa soi chiếu an ninh nữa, rồi tiếp tục theo chân tường thành đến khu vực Lăng. Cho đến khi đứng trước lối vào của lăng, nhìn những khách thăm viếng tranh thủ chụp ảnh lưu niệm với nhau, với những người lính gác lăng, tôi mới thực tin là mình đã đến được đây. Lặng lẽ theo dòng người vào lăng viếng Lê-nin, khi người lính gác nhắc nhở, tôi mới biết mình đã quên là vẫn còn đội chiếc mũ bê-rê chống lạnh trên đầu, bèn tạ lỗi bỏ xuống. Về cấu trúc bên trong, giống như lăng Bác Hồ ở ta, hay đúng hơn là chuyên gia Liên Xô cũ giúp ta xây dựng lăng Bác nên cấu trúc tương đồng. Lê-nin nằm đó trong quan tài kính, kể từ khi Người mất, đã gần một trăm năm trôi qua, và lịch sử đã đi những bước dài, mà bản thân nước Nga cũng có những thay đổi lớn lao... Lắng nghe lòng mình, không có sự xúc động như lần đầu vào lăng viếng Bác Hồ. Phải chăng, vì quá xa về khoảng cách địa lý, xa về thời gian, sự khác biệt về văn hóa Đông-Tây, thêm nữa, có lẽ vì xã hội đã biến đổi nhiều, nên với bậc vĩ nhân như Lê-nin, vẫn đầy lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ, nhưng không có được sự xúc động rưng rưng kiểu “liền thịt liền xương, máu đỏ da vàng” như với Bác Hồ. Tự thâm tâm, tôi hiểu, ý nghĩa và giá trị vô cùng lớn lao của Cách mạng tháng Mười Nga, cùng  với vai trò là người khởi xướng và thuyền trưởng chèo lái con thuyền cách mạng Nga đến thành công, kế đó là sự ảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng vô sản thế giới nói chung, và Cách mạng tháng Tám của Việt Nam nói riêng, đến ngày nay...

          Đang mùa du lịch, Quảng trường Đỏ có nhiều hoạt động mang tính cộng đồng nhữ triển lãm sách và văn hóa đọc, biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng v.v... Ngắm nhìn rồi chụp ảnh lấy phông nền là tháp chuông đồng hồ điện Kremli, biểu tượng của Liên Xô cũ và nước Nga ngày nay, có lịch sử lâu đời những hơn sáu trăn năm; rồi trong đầu tôi như tái hiện những tình tiết vở kịch nói Chuông đồng hồ điện Kremli, do Nhà hát Kịch Việt Nam dựng (cũ là Đoàn Kịch nói trung ương), khởi đầu do nhà hoạt động sân khấu Thế Lữ đạo diễn. Đây là một trong số bộ ba vở kịch cách mạng của Pogodin, nhà soạn kịch nổi tiếng của Liên Xô cũ, mà ở đó lãnh tụ cách mạng tháng Mười Nga- V.I. Lenin là nhân vật chính. Cho đến nay, vở kịch này vẫn được liệt vào dạng kinh điển sân khấu kịch nghệ ở Nga, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và nhiều nước thuộc phe CNXH cũ, trong đó có Việt Nam... Lượt nhanh khu vực quảng trường, tôi tìm đến Điểm cây số Không ( O ), ở đây cũng đông nghịt khách. Ai ai cũng muốn một lần đứng vào vòng tâm, kể cả việc tung đồng xu, mong rơi trúng và nằm lại trong vòng tâm ấy và hy vọng tìm sự may mắn cho mình, theo lời người ta vẫn đồn vậy,...

          Thời gian có hạn, chẳng dám tìm chỗ ăn uống chút gì vì sắp dến giờ xem ballet Hồ Thiên Nga. Ngang qua khu vực có Ngọn lửa vĩnh cửu cháy lên và tỏa sáng từ Mộ chiến sĩ vô danh, chúng tôi dừng chốc lát, chụp vài kiểu anh lưu niệm mình đã đến nơi đây. Thời gian chúng tôi cúi đầu trước Mộ chiến sĩ vô danh & Ngọn lửa vĩnh cửu thì chỉ  giây lát, song câu chuyện về nó lại rất dài. Xuất phát điểm của biểu tượng Mộ chiến sĩ vô danh bắt đầu từ năm 1920, khi người Pháp cho lập ở Paris để nhớ công trạng và tưởng niệm những người lính quân đội Pháp đã hi sinh trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất, sau đó, ở Liên Xô cũ, nhằm tưởng nhớ các binh sĩ đã chết trong các cuộc cách mạng Nga và thời kỳ nội chiến, mộ chiến sĩ vô danh được thiết lập ở nhiều nơi. Đến năm 1966, kỷ niệm 25 năm ngày chiến tằng Phát-xit Đức, Mộ chiến sĩ vô danh bắt đầu được đặt tại khu vườn Aleksandr dưới chân tường điện Kremli, và một năm sau đó, ngày 08.5.1967, biểu tượng Ngọn lửa vĩnh cửu- được lập ngay trên mặt Mộ chiến sĩ vô danh, từ tâm ngôi sao năm cánh đắp nổi trên mộ, và chính thức khánh thành cụm kiến trúc công trình biểu tượng này, cùng đó là dòng chữ khắc trên nền đá hoa cương “Anh là chiến sĩ vô danh, nhưng chiến công của anh là bất tử”, cho đến ngày nay... Vâng, chỉ giây lát thôi, nhưng biết bao câu chuyện, bao tình tiết từ những cuốn tiểu thuyết, những bộ phim Liên Xô mà tôi đã từng đọc, từng xem suốt một thời tuổi trẻ, đi học, lập thân lập nghiệp xưa cũ, như hiện vể tất cả...

          Lại một hồi vất vả, xếp hàng, soi chiếu an ninh, rồi chúng tôi cũng an vị trong lô ghế của mình của tầng trên Cung Đại hội trong khu vực Quảng trường Đỏ, chờ đến giờ thưởng thức vở ballet Hồ Thiên Nga. Đây là một món quà bất ngờ không có trong chương trình định trước khi đoàn công tác sang Nga, mà Điệp Anh, trưởng cơ quan thường trú VOV tại Moskva dành cho chúng tôi. Bất ngờ mà đúng mong ước, nên quý lại càng quý. Hơn nghìn chỗ ngồi của cung chật kín không một chỗ trống. Rồi những âm thanh đầu tiên của vở diễn bắt đầu vang lên, lập tức mọi người như mê đi và dần chìm đắm vào những vũ điệu ballet, từng tình tiết của vở diễn và đặc biệt là âm nhạc của Tchaikovsky. Chỉ biết là tuyệt vời về mọi phương diện, cho đến khi kết thúc, các vũ công ra chào, tiếng vỗ tay biểu thị niềm vui của khán giả kéo dài mãi không ngớt, khiến các diễn viên phải chào nhiều lần...

          Cuối ngày, đói mệt, nhưng vui, chúng tôi được cơ quan thường trú tại Nga chiêu đãi bữa tối tại một quán ăn thịt cừu nổi tiếng ở trung tâm phố cũ Moskva. Một ngày tuyệt vời ở Quảng trường Đỏ là thế !...

 

          4. Nghĩa trang Danh nhân ở Moskva & những linh hồn bất tử.

         

Đấy là cách gọi dễ hiểu của Nghĩa trang Novodevichy. Nghĩa trang này nằm ngay bên cạnh Tu viện Novodevichy - Di sản thế giới được UNESCO công nhận. Đúng ra, ý tưởng về một nghĩa trang dành cho những người nổi tiếng bắt đầu từ những ngôi mộ của một số người nổi tiếng được chôn cất trong khuôn viên của Tu viện Novodevichy. Tu viện này được xem là nổi tiếng nhất của Moskva, bởi ngay nay vẫn giữ được sự nguyên trạng ban đầu từ thế kỷ 17. Sự nổi tiếng này kéo theo sự nổi tiếng cho nghĩa trang danh nhân.

          Khi đến thăm viếng nghĩa trang Danh nhân, tôi chưa mấy hiểu về nó, hoàn toàn theo sự chỉ dẫn của Điệp Anh, trường cơ quan VOV tại Nga. Cô vốn là một phóng viên thời sự lâu năm, học đại học chuyên ngành tiếng Nga, và tính tổng thời gian làm việc tại Nga được 8 năm, nên có sự hiểu biết kha khá về lịch sử và văn hóa Nga. Khi bước chân qua cổng chính, Điệp Anh đã lưu ý rằng, ở đây có phần mộ của một số danh nhân là chính khách, nhà khoa học, các văn nghệ sĩ, và anh hùng Liên xô cũ, mà cô từng biết và cũng đã từng viếng mộ những lần trước. Với số lượng khoảng 27 nghìn ngôi mộ ở đây, nên không có sự chỉ dẫn thì chẳng biết đâu mà tìm, vậy chỉ có thể đi viếng một số ngôi mộ mà cô thông thạo thôi. Trước hết, chúng tôi tìm đến viếng mộ của cố tổng thống Nga B, Elsin ở ngay trung tâm. Ngôi mộ này được kiến trúc mang hình quốc kỳ Nga gợn nếp đang bay với ba màu đắp nổi. Tình cờ, ngay cạnh đó, có một đám đông tụ rập, có âm nhạc, có tiếng loa, và hình ành của nhà thơ-nhà văn-nhà soạn kich cách mạng lưu vong người Thổ Nhĩ Kỳ là Nazim Hikmete. Tôi đã từng đọc về thân thế sự nghiệp và thơ ca của ông từ hồi đi học nên biết. Ông này từng học tại Đại học Phương Đông tại Liên xô, sau đó về quê nhà sáng tác văn học và họa động xã hội, rồi bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ, sống lưu vong tại Liên xô cho đến khi mất vào ngày 03.6.1963, mà không bao giờ được trở về quê hương nữa. Hôm ấy, tình cờ đúng ngày 03.6, vậy tính ra là ngày giỗ lần thứ 54 của Nazim Hikmete, nên Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ tại Nga đã tổ chức lễ tưởng niệm ông ngay tại phần mộ. Không ngờ, nhà thơ lưu vọng nổi tiếng, mình từng đọc từ ngày xưa, lại được chôn cất tại đây, và nay do tình cờ lại được chứng kiến lễ tưởng niệm ông... Sau đó, chúng tôi viếng mộ cố Thủ tướng Nga, ông Y.M. Primakov. Ông này mới mất năm 2015, và phần mộ cách mộ của B. Elsin mộ quãng ngắn. Thời kỳ cuối thế kỷ 20, khi Elsin cầm quyền với cương vị Tổng thống, nước Nga đã xảy ra tình trạng khủng hoảng lãnh đạo, trước khi Elsin tìm ra được một người đủ bản lình để cầm cương nước Nga mới thay mình là V. Putin, ông đã liên tục tìm kiếm và thay thế hàng loạt các chính trị gia ở cương vị Thủ tướng, trong đó có V. Chernomyrdin, Y. Primakov. Khi được Elsin lựa chọn vào cương vị thủ tướng, vị chính trị gia người gốc Ucraina này đang là Ngoại trưởng. Ngoài sự nghiệp chính trị, Primakov còn là một viện sĩ, nhà Đông phương học, nhà kinh tế tài ba.

          Theo sự chỉ dẫn của Điệp Anh, chúng tôi lần lượt đến viếng mộ các nhà khoa học và sáng chế như I.P.Pavlov, nhà tâm sinh lý học, viện sĩ, đoạt giải Nobel năm 1904; A.N. Tupolev, nhà chế tạo hàng không của dòng máy bay TU; anh hùng vũ trụ G.S. Titov... Đặc biệt là cụm 3 ngôi mộ của gia đình cố Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên xô một thời, Nikita Sergeyevich Khrushchyov, cùng vợ và cháu trai. Đây cũng là câu chuyện, là nỗi niềm một thời của riêng Đảng cộng sản Liên xô cũ và cả phe Xã hội chủ nghĩa nói chung. N.S. Khrushchyov là người thay thế Stalin làm Tổng Bí thư sau khi ông này mất vào năm 1953. Năm năm sau, Khrushchyov kiêm thêm chức Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên xô (tức Thủ tướng) và lãnh đạo Liên xô cho đến năm 1964, thì mất quyền lực bởi bị bỏ phiếu bất tín nhiệm, và thay vào đó, L. Brezhnev làm Tổng Bí  thư  và A. Kosygin làm Thủ tưởng. Ông bị giám sát chặt chẽ bởi cơ quan an ninh tình báo, vì bị quy kết là người theo chủ nghĩa xét lại, cũng như trước đó, là người chủ trương chống lại việc Stalin hóa ỏ Liên xô cũ. Cùng được an táng bên cạnh mộ ông là phần mộ người vợ thứ hai, bà Nina Petrovna Kukharchuk, và người cháu, Nikita Khrushchyov, mới mất năm 2007. Đây cũng là điều hiếm thấy ở Nghĩa trang Danh nhân này. Khách viếng thăm nghĩa trang, hầu như ai cũng đến cụm mộ này, có phần vì sự kính trọng, phần vì thỏa lòng tò mò.

          Tiếp theo, chúng tôi tìm sang khu vực mộ của các văn nghệ sĩ. Điệp Anh cho biết, trước đây, có mộ của nhà văn Nga lỗi lạc, là Nikolai Gogol, nhưng gần đây bị di dời đến nơi khác. Thật tiếc thay. Tôi vốn kính trọng và yêu văn chương của Gogol với tác phẩm bất hủ là “Những linh hồn chết” và tiểu thuyết anh hùng ca “Ta-rat Bulba“. Ở đây, tôi chợt có một sự liên tưởng thú vị. Ấy là, tác phẩm xuất sắc làm nên tên tuổi N. Gogol ấy là tiểu thuyết “Những linh hồn chết”, kể chuyện về một thương lái (tên là Chichikov) đi khắp nước Nga chỉ để buôn những linh hồn chết của  nông nô từ các địa chủ, mang tính mộng mị và hài hước, song nó phản ánh một nước Nga lạc hậu, nghèo đói và mê muội, đòi hỏi phải có những thay đổi lớn lao về xã hội và quản lý xã hội, vậy nên nó mang tính dự báo; còn bản thân nhà văn N. Gogol và các danh nhân yên nghỉ nơi đây, thì linh hồn họ đều là bất tử !...

Chúng tôi tìm viếng mộ của N.A. Ostovsky, tác giả của tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” lẫy lững một thời khi được dịch sang tiếng Việt, và được xem là tấm gương để nhiều thế hệ thanh niên noi theo. Rồi đó là mộ của nhà văn-đạo diễn V. M. Sucsin. Vô tình, tôi còn phát hiện thấy bia mộ của nhà văn Alexander Fadeyev, cựu Chủ tịch Hội Nhà văn Liên xô, tác giả của các tiểu thuyết nối tiếng một thời là “Đội cận vệ thanh niên” và “Chiến bại”, được cho là đã tự sát bằng súng ngắn vào ngày 13/6/1956 tại căn nhà mình,... Vậy là cũng chỉ mười ngày nữa là đến ngày giỗ của ông... Rồi nữa, như một linh tính, tự dưng tôi nhớ và nhắc đến nhà văn Nga, nhà viết kịch và truyện ngắn xuất sắc là A. P. Tsekhov (1860 - 1904) cùng những nỗi khổ riêng tư với người vợ nghệ sĩ và bệnh tật của ông. Vậy mà, tôi đâu có biết, chính phần mộ của A. P. Tsekhov cũng nằm trong nghĩa trang này, và hơn nữa, vì có phần mộ của ông, cùng những người nổi tiếng khác, là cái cớ để nước Nga lấy nghĩa trang Tu viện Novodevichy làm nghĩa trang Danh nhân như bây giờ. Nếu biết trước, thế nào tôi cũng hỏi thăm để được kính cẩn cúi đầu trước anh linh nhà văn xuất sắc này, mà tôi vốn xem là đệ nhất nước Nga cổ kim!...

          Sau tìm hiểu thêm, tôi mới biết, ngay tại đây, còn có bia mộ của những con người không những nổi tiếng của nước Nga mà cả thế giới, ấy là khoa học Lev Landau (1908 - 1968)-Giải Nobel Vật lý và Pavel Alekseyevich Cherenkov (1904 - 1990)-Giải Nobel Vật lý; họa sĩ Isaac Levitan (1860 – 1900), tác giả của tác phẩm “Mùa thu vàng”; các nhà văn Aleksey Tolstoy (1882 - 1945), Ilya Ehrenburg (1891 - 1967), Mikhail Bulgakov (1881 - 1940); nhà thơ Vladimir Maiakovsky (1893 - 1930); nhà soạn nhạc Dmitri Shostakovich (1906 - 1975);  đạo diễn kiêm diễn viên điện ảnh Sergei Bondarchuk (1920 - 1994), v.v...  Ôi, thật đáng trách và đáng tiếc làm sao, mà chung quy là lỗi từ sự thiếu hiếu biết!...

          Lướt nhanh nghĩa trang Danh nhân Moskva, có cảm quan, đây không phải là một thế giới chết, thế giới của những linh hồn, trái ngược với cái chết, ấy là sự bất tử. Vâng, bất tử về mọi phương diện, ấy là giá trị của những con người tên tuổi trong quá khứ, là giá trị lưu truyền, là tiếng vọng lịch sử, là một bảo tàng sống động về nghệ thuật điêu khắc, bởi mỗi ngôi mộ đã là một công trình nghệ thuật điêu khắc, hội họa tuyệt mỹ.

Hơn thế, nó đầy sinh khí !...

 

5. Điền trang Yasnaia Poliana, trăm năm & một ngày,

Đi Tula, thăm điền trang của gia đình đại văn hào Lev Tolstoi là lịch trình đã được vạch sẵn của đoàn công tác trước khi sang Nga. Sau một ngày bận rộn từ sớm đến khuya trong cái lạnh dưới 10 độ C, nào thăm viếng Nghĩa trang Danh nhân, thăm Quảng trường Đỏ, viếng Lăng Lenin và xem ballet Hồ Thiên Nga... hôm sau, chúng tôi ra ngoại ô và thẳng tiến hướng tỉnh lỵ Tula.

Tula có ranh giới với thủ đô Moskva, về phía Nam và cách chừng gần hai trăm cây số. Thoát khỏi khu vực đường vành đai 3 luôn ở trong tình trạng ùn tắc xe, chúng tôi bắt đầu tăng tốc, chạy với tốc độ 120km/h. Thành Phương, phóng viên VOV tại Nga cầm lái, anh có hơn 5 năm ở Nga, là người dẫn đường, kiêm việc phiên dịch cho chúng tôi trong chuyến thăm Tula này. Đường tốt, thưa xe, băng ngang cánh đồng Nga. Nhìn bên ngoài, cỏ xuân xanh mướt mát, và trên thảm cỏ xanh mênh mông như tới tận chân trời ấy, là thảm hoa màu vàng, chỗ thưa, chỗ mau, thoạt nhìn ngỡ một loài cúc dại, nhung hỏi ra là bồ công anh. Tự nhiên, giai điệu bài hát “ Cánh đồng Nga( Russkoie pole ) của Ia. Phrenken và I. Goph,  mà từng nghe từ thời viên, với giai điệu trầm bổng da diết ại âm vang trong đầu... “Mượt mà những cánh đồng lúa nước Nga, đẹp sao những lúc trăng lên cao, tuyết nhẹ rơi...Ơi nước Nga mến yêu, lòng tôi mãi bên người, dù trong hạnh phúc hay gian lao, cùng người đi tới, nước Nga đẹp tuyệt vời... Những cánh đồng lúa nước Nga, là niềm kiêu hãnh, là ước mơ của chính tôi, đồng xanh ngát một màu, niềm kiêu hãnh của mình, lòng tôi mãi mãi không xa rời những cánh đồng... dù đại ngàn hay biển khơi, đẹp sao bằng những cánh đồng Nga... “... Giai điệu bài ca mãi âm vang trong ý nghĩ, lại chợt nhớ đến nhận định của một người bạn đồng nghiêp báo chí, sau chuyến công tác sang Nga của anh cách đây vài năm, rằng nông nhân Nga bây giờ lười biếng, chẳng chịu làm, để đất bỏ hoang. Nay hỏi ra, mới biết, không hẳn nông dân Nga lười nhác, ấy là, vì nước Nga quá rộng lớn, nên nông dân có thói quen, trên mỗi diện tích đất nông nghiệp, chỉ canh tác một năm, năm sau cho đất nghỉ và xem đó là khoa học, là cách làm nông nghiệp sạch và bền vững. Cũng nghe nói, có một thời gian, nước Nga thụ động vào hàng hóa của châu Âu, nông dân đua nhau ra thành phố, đến khi Nga bị Mỹ và Châu Âu cấm vận, tổng thồng V. Putin đã kêu gọi tinh thần tự lục tự cường dân tộc, nông dân Nga đã hăng hái sản xuất, và ngay đó, nông sản lại dồi dào...

Chẳng mấy chốc, nóc các công trình cao của tỉnh lỵ Tula đã hiện ra trước mặt. Thành phố cũ kỹ, xe chúng tôi theo tâm trục thành phố, ngang qua trung tâm phổ cổ với quảng trường và nhà thờ. Chẳng hiểu nó mấy khác với sinh thời của Lev Tolstoi ? Xe chay ngang qua khu bảo tàng Vũ khí. Nghe nói, ngày trước Tula là trung tâm sản xuất ấm Samovar, và nay có bải tàng về lại ấm nước đặc trưng Nga này. Theo biển chỉ dẫn, chúng tôi rẽ theo hướng vào điền trang Yasnaia Poliana.

Bãi để xe ngoài công điền trang hầu như chật kín, không phải ngày nghỉ cuối tuần mà khách tham qua khá đông, khách châu Âu và các đoàn tua du lịch Trung Quốc. Qua cổng vào bên trong, khung cảnh đã tuyệt vời, với hổ nước, cây xanh những phong và sồi, những mái nhà xanh ngọc ẩn hiện, những lối mòn nhỏ len hun hút giữa hàng bạch dương, nên thơ và khơi gợi sự bí ẩn, tò mò cho du khách. Chúng tôi mua vé tham quan có hướng dẫn viên người bản địa, nên đi theo sự chỉ dẫn. Không ngờ, toàn bộ khu điền trang hiện tại rộng tới 412 hecta (nghe nói, kể cả ruộng đất, ngày trước rộng gấp ba lần hiện tại), và ngày ấy từng thuộc 5 chủ đất. Gia đình Lev Tolstoi đã mua trường để có được diện tích rộng và diện mạo như ngày nay ta thấy. Hiện những hàng rào ranh giới đất cũ thuộc các chủ khác vẫn được giữ nhằm tái hiện diện mạo xưa, phục vụ cho du lịch. Điền trang rộng vậy, nên tùy theo thời gian và nhu cầu của du khách, người ta bố trí 3 điểm chính, ấy là ngôi nhà khách của người cha Tolstoi, nay được trung bày thành bảo tàng về thân thế sự nghiệp, đặc biệt sự chuyển biến về tư tưởng của Tolstoi;  thứ hai, là ngôi nhà Lev Tolstoi sinh sống và viết văn; và cuối cùng là ngôi mộ nhà văn ẩn sâu nơi rừng xanh kín đáo của điền trang. Theo quy định, quang cảnh bên ngoài, du khách được thỏa mái chụp ảnh, quay phim, nhưng khi vào bên trong mỗi tòa nhà trưng bày thì cấm tuyết đối. Do sơ ý không quan sát thấy biển cấm bên ngoài, nên khi bước vào trong ngôi nhà mà Tolstoi sinh sống, tôi đã vô tình bấm máy một kiểu, và ngay lập tức phải sorry. Xem lại, giờ lại thấy vui vì chí ít có một kiểu ảnh bên trong. Ngôi nhà này, về cơ bản vẫn giữ nguyên kết cấu 2 tầng, cầu thang gỗ, nhiều phòng nhỏ hẹp, thông nhau chạy vòng quanh phía trước sau ôm lấy trung tâm là phòng khách lớn. Ở phòng này, bày các hiện vật nhằm tái hiện cuộc sống của nhà văn từ hơn một trăm năm trước ( Tolstoi qua đời ngày 20.11.1910 ) tại quê nhà, sau khi ông bỏ nhà ra đi, kết thúc chuỗi năm tháng dài bất đồng với vợ về nhiều thứ, trong đó có quan điểm về việc giải phóng nông nô, và ông bị ốm nặng rồi qua đời ở nhà ga xe lửa Astapovo (nay là thị xã mang tên Tolstoi) cách điền trang không xa. Tường phòng treo đầy tranh chân dung nhà văn, cùng vợ và con gái ông, được vẽ bởi họa sĩ Nga nổi tiếng là Kramxkoi và các họa sĩ nổi tiếng cùng thời của châu Âu... Đặc biệt là phòng ngủ, phòng đọc sách và phòng ông ngồi viết văn, mà ở đó có trưng bày những trang tiểu thuyết của F. Dostoievsky khi vừa mới được xuất bản đã được Tolstoi tìm đọc ngay và tỏ lời khen ngợi, rồi đó là sách về triết học cổ Trung Hoa là Lão Tử, Khổng Tử. Sinh thời, Lev Tolstoi cũng là con mọt sách. Ở đây, còn có căn phòng, nơi nhà văn ngôi viết những chương đầu tiên của bộ tiểu thuyết bất hủ “Chiến tranh và hòa bình”. Ngày ấy, đây chỉ là một cái kho chứa đồ, để tranh bị quấy rầy, Tolstoi đã trốn biệt vào đây, khời thảo cuốn tiểu thuyết này... Và cũng căn nhà này, còn có chiếc đồng hồ cổ vẫn chạy từ gần hai trăm năm nay, có chiếc ghế sô-fa, nơi mấy đời nhà Tolstoi ra đời trên đó, rồi góc riêng dành cho người anh trai yểu mệnh, Nikolai, mà ngày nhỏ rất gắn bó và được Tolstoi vô cùng yêu quý, người đã phát hiện ra một bí mật gia đình-ấy là mảnh đất đầy yếu tố hoang đường là Hang Đặt Cũ và khe Xói, que Xanh, cùng quan niệm về hạnh phúc toàn gia “anh em nhà kiến“, người hướng dẫn đã giới thiệu vậy.

Ở ngôi nhà, ngày xưa, cha thân sinh ra nhà văn chuyên sử dụng làm nhà khách, nay là bảo tàng trừng bày hiện vật, tranh ảnh liên quan đến một thời gian dài, bắt đầu từ thời kỳ Tolstoi nhập ngũ. Có một khoảnh đất trống khá rộng, nối giữa hai ngôi nhà này bằng một lối đi, còn chút dấu tích, nghe nói, cha của nhà văn đã định cho xây thêm một dinh thự nữa để ở thì khi mới chuẩn bị, ông mang bệnh rồi mất, khi ấy Tolstoi mới lên 9 tuổi. Trở lại với ngôi nhà khách xưa, trong đó có tranh ảnh Tolstoi trong trang phục lính ở Kavkaz và Sevastopol, nhà văn với các người bạn văn chương như I. Turgeniev, nhà văn với đám trẻ con nghèo rách rưới-con của những nông nô trong vùng ở trường học-ngôi trường mà chính nhà văn cho mở; rồi nữa, là nhà văn cùng người vợ của mình, cả bút tích bức thư nhà văn tỏ tình với tiểu thư Sofia Andreyevna Behrs, khi nàng mới 18 tuổi (còn Lev Tolstoi, 34)... Và rồi, nàng tiểu thư ve như vô lo vô nghĩ, kém chồng 16 tuổi ấy, đã sinh liền một mạch cho nhà văn những 13 người con (chỉ 9 người sống đến trường thành), trở thành thiếu phụ giỏi giang trong quản lý điền trang, phục vụ chồng, nuôi con khôn lớn, đem lại những hạnh phúc gia đình cho nhà văn, khiến ông an tâm đọc sách và viết truyện. Theo năm tháng, sự bất hòa giữa hai vợ chồng nhà văn nảy sinh, Tolstoi là người nhân văn, chủ trưởng giải phóng nông nô, còn vợ ông, chỉ quan tâm quyền lợi tài sản của gia đình và chống đối việc giải phóng nông nô... Cứ vậy, cho đến một ngày, khi đó đã ở tuổi 82, cùng với người bác sĩ của gia đình, Tolstoi bỏ nhà, vô định, lên tàu từ nhà ga gần điền trang nhà mình giữa thời tiết tuyết rơi lạnh giá, rồi thọ bệnh mà mất tại nhà viên trưởng ga nhà ga xe lửa Astapovo...

Theo lối đi, chúng tôi như lút vào rừng sâu, hai bên là những căn nhà gỗ, những chuồng nuôi gia súc tái hiện thời nhà văn còn sống, những hàng sồi cổ thụ, những cây phong, bạch dương và ngân hạnh. Nghe nói, có những cây sồi đã mấy trăm năm tuổi, nghĩa là từ thời ấy, nhà văn đã từng miêu tác trong các tác phẩm văn học của mình. Vườn xa xa toàn những táo và lê. Năm nay, tiết muộn, một số cây táo còn lác đác trổ hoa trắng. Được biết, năm nay có thể mất mùa táo, bởi trước đó, thời tiết nước Nga, khu vực thủ đô Moskva và vùng lân cận, trong đó có Tula, trời đổ bão tuyết bất thường, rồi sau đó còn có giông lốc rất mạnh, gây sập nhà, gẫy đổ cây cối, và đương nhiên, làm hoa táo rụng gần hết.

Ngôi mộ của nhà văn hiện ra thật bất ngờ. Thực lòng, khi tìm viếng mộ Lev Tolstoi, tôi vẫn mường tượng, nó sẽ như một ngôi mộ nào đó của các nhà văn mà tôi từng thấy ở nghĩa trang Danh nhân Moskva. Vậy mà, chỉ là “một nấm cỏ khâu xanh rì” như câu thơ Nguyễn Gia Thiều đã viết. Đại văn hào năm đó, đã già một thế kỷ trôi qua, nấm đất dài, dày cỏ xanh, không bia mộ, và khuôn viên ngôi mộ cũng cỏ xanh mướt. Nghe nói, đây chính là nơi xưa kia, người anh Nokolai đã phát hiện ra, và câu chuyện “que xanh”-khe Xói-Hang Đặt cũ, mãi ám ảnh nhà văn cho đến cuối đời. Và hình như, khu vực ấy, ngày xưa là khu nghĩa địa của các nông nô. Yên ngủ ngàn thu nơi đây, hẳn nhà văn toại nguyện, như những gì ông từng mong ước...

Khi mọi người đã quay trở ra, riêng tôi vẫn nán lại, một mình, lặng ngắm quang cảnh xung quanh, chỉ thuần rừng xanh, cây cỏ. Chợt một chàng tiếng chim của loài chim nào đó mà tôi không rõ vang lên trong vòm cây cao xanh, quanh quất nhìn chẳng rõ tiếng hót từ đâu. Và, mấy câu thơ của bài thơ “Thăm điền trang Yasnaia Poliana” đã manh nha  nảy sinh trong tôi “... Hương hoa gì xa đưa/ Giấc ngàn thu Người mộng/ Vòm cây nào khẽ động/Tiếng chim hót ru Người,..”,

Trên đường trở ra, tôi còn bắt gặp một lễ hội dân gian của người dân quanh vùng, ở một thung lũng đầy những sồi và cây lê, táo. Họ múa hát, ai cũng đội trên đầu hoặc quàng cổ một vòng hoa như nguyệt quế...

Đã ngả chiều, chúng tôi ăn tạm ở một quán ăn ngay cổng chính của điền trang. Quán ăn thiết kế toàn bằng gỗ sồi, nhỏ xinh và sạch sẽ, món ăn cũng đơn giản. Cùng với món súp cá và bánh mì, Thành Phương gọi một món ăn truyền thống, ấy là món bánh làm từ bột mì trộn sữa bò, mật ong, có chút nhân nho khô trên mặt. Nghe nói, người dân vùng này, trong lễ Tiễn mùa đông, bao giờ cũng phải có món bánh đó.

Về đến Moskva, chiều cũng đã muộn, thời điểm này, đến 9 giờ đêm trời vẫn sáng, thậm chí còn thấy mặt trời. Tối nay, chúng tôi còn phải ra ga tàu hỏa, đi Saint Petersburg...

Với tôi, điền trang Yasnaia Poliana của nhà văn Lev Tolstoi, đã trăm năm và chỉ một ngày !...

 

6. Saint Petersburg, cách mạng & tình yêu,

 

Khi chuyến tàu loại hai tầng có giường nằm bắt đầu chuyển bánh rời Moskva đi Saint Petersburg, mọi người vui vẻ hàn huyên đủ các thứ chuyện, song trong tôi, ý nghĩ và sự ám ảnh về vụ nổ bom xảy ra lúc 14g40 giờ địa phương ngày 03.4.2017 đoạn giữa hai ga tàu điện ngầm Sennaya PloshchadTekhnologichesky Institut, thuộc St. Petersburg làm 14 người chết và 49 người bị thương. Và sau đó, giới chức Nga xác nhận kẻ đánh bom là Akbarzhon Dzhalilov, một công dân Nga, 22 tuổi đến từ nước cộng hòa Trung Á-Kyrgyzstan, người này còn được coi là thủ phạm đặt quả bom thứ hai tại ga tàu Ploshchad Vosstaniya trong thành phố nhưng đã bị vô hiệu hóa, chưa đủ để người ta yên lòng về một sự bình yên. Nghĩ ngợi sinh khó ngủ, nhưng rồi sự mệt mỏi sau hành trinh liên miên cũng làm cho tôi thiếp đi...

Tỉnh ngủ, mặc dù mới 6 giờ sáng, nhưng trời đã sáng bạch từ bao giờ. Mùa này, gần sát tháng đêm trắngSaint Petersburg, đêm chỉ buông lờ mờ một vài tiếng chi đó mà thôi.

Xuống ga, chúng tôi nhập vào dòng du khách đông đúc và ai cũng đầy ý thức cảnh giác về nạn móc túi, trộm cắp vặt ở thành phố này mà Điệp Anh đã cảnh báo. Chiếc xe chúng tôi thuê đã đợi sẵn. Xe chuyển bánh, Điệp Anh chỉ ngay vào một ngôi nhà có kiến trúc hình tháp tròn, bảo đấy là nhà ga Ploshchad Vosstaniya, nơi đã tìm thấy vật liệu nổ và được vô hiệu hóa, chung với vụ đánh bom khủng bố ngày 03.4 nọ. Tự nhiên cảm thấy rờn rợn, song thôi, kệ.

Sau khi ăn sáng và cafe nhanh ở một quán quen, chúng tôi ra bờ sông Neva để tham quan pháo đài Petropavlov và chiến hạm Rạng Đông. Trước hết, về Pháo đài, nó còn có tên gọi Pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô , hoặc  Pháo đài thánh Pyotr và Pavlov theo cách gọi của người Nga. Đi loanh quanh trong thành phố, hầu như góc nào cũng thấy cái chóp tháp cao của nó, nghe đâu, ngày trước, không một công trình kiến trúc nào ở đây được phép bằng hoặc cao hơn. Pháo đài này được xây dựng từ đầu thế kỷ 18, theo lệnh của Nga hoàng Pyotr Đại Đế. Nơi đây, có đại giáo đường thánh Thánh Phêrô và Phaolô, sau còn là nơi an táng của mấy đời Nga hoàng. Pháo đài này nằm trên một đào nhỏ giữa dòng Neva, nên phải qua một cây cầu, chúng tôi mới sang được khu vực Pháo đài. Tiếc là giờ mở cửa khá muộn nên chúng tôi không thể chờ để vào tham quan bên trong được, vì hành trình trong này còn dài...

Ngay gần đấy, là Chiến hạm Rạng Đông. Trong số chúng tôi, hồi đi học, môn lịch sử thế giới, nhất là về cuộc cách mạng tháng Mười Nga, hầu như ai cùng biết, chiến hạm Rạng Đông đã nổ phát súng đầu tiên, vào ngày 07.11.1917, báo hiệu cho cuộc tấn công cuối cùng vào Cung điện Mùa Đông, dinh lũy cuối cùng của Chính phủ cách mạng tư sản Nga tại thành phố Saint Petersburg (khi đó mang tên là  Petrograd), khi chính vị thuyền trưởng lúc ấy là Aleksandr Belyshev, và hầu hết thủy thủ đoàn đã tham gia đảng Bolshevik. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử thế giới cận và hiện đại, gây ảnh hưởng và hiệu ứng lớn như thế nào với phong trào cách mạng vô sản và đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên phạm vi toàn thế giới, thì người ta đều biết cả. Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ đây. Thế nên, chiến hạm Rạng Đông lại có ý nghĩa mang tính biểu tượng cao. Sau này, tìm hiểu kỹ, tôi mới biết thêm là, chiếm hạm Rạng Đông này nguyên là một tuần dương hạm thuộc hải đội Viễn Đông, và nó cũng có một lịch sử , số phận khá ly kỳ và lý thú...

Giờ đây, chiến hạm Rạng Đông hiền lành neo đậu sát bờ, ngày đêm nghe sóng nước Neva ru ngủ, với tư cách là một bảo tàng sống động, và hơn nữa, nó vẫn được trei cờ hiệu của Hải Quân Nga, bởi vẫn được phiên chế một đơn vị hải quân quản lý, sử dụng... Tuy hình dáng bên ngoài không mấy khác, song nhiều bộ phận để cả phần thân tàu chìm dưới nước đã được đại tu, thay thế. Bên kia bờ sông Neva, là Cung điện Mùa Đông xưa, được sơn màu xanh ngọc-trắng, nay là Bảo tàng Ermitage (Hermitage) nổi tiếng thế giới. Ngắm sông nước Neva dạt dào, lại nhớ cuộc đối thoại thơ đã trở thành huyền thoại giữa Olga Berggoltz và Berssonov, mà thời sinh viên mới biết yêu, ai cùng từng biết, từng đọc những câu thơ tình da diết của Bài thơ cuộc đời : “ Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ/ Khúc hát say mê một thời thiếu nữ/ Ngôi sao sáng bừng trên sông Neva/ Và tiếng chim kêu mỗi buổi chiều tà/ Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọ ngào/ Em mới hiểu bấy giờ anh có lý/ Chuyện cũ qua rồi, anh cũng xa cách thế/ Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa/ Lũ trẻ lớn lên tiếp bước theo ta/ Lại nhấp vị ngọt ngào thuở trước/ Vẫn sông Neva những chiều sóng nước/ Nghĩ cho cùng, họ có lỗi đâu anh...”. Mấy chúng tôi cùng đọc, thay nhau đọc, người câu trước, người câu sau, hết cả bài thơ.

Dù sau này, có người tìm hiểu, khảo cứu, cho rằng cuộc tình và đối thoại thơ này không có thật trong đời, và Bài thơ cuộc đời là Olga Berggoltz viết tặng chồng mình, một nhà thơ Nga- Boris Kornilov (1907-1938) nguyên có tên Chuyện mười năm trước, thì cũng chẳng ai buồn tin mà làm gì. Đơn giản, bởi huyền thoại kia đã quá đẹp, đã hằn sâu vào trái tim và ký ức thời tuổi trẻ đầy yêu đương và thất vọng trong tình yêu đôi lứa, của mỗi người rồi.

Với riêng tôi, cũng là vậy đó!

Chẳng hơi đâu truy tìm, để mà tin hay không.

Bởi điều đó có ý nghĩa gì đâu.

Và hơn thế, giờ đây, tôi đang đi bên sóng nước Neva !...

 

7. Cung điện, thú ăn chơi của Sa hoàng xưa,

Lịch sử nước Nga cho thấy, nửa cuối thế ký 18 và cả thế kỷ 19, nước Nga bị châu Âu xem thường và bỏ lại phía sau, bởi sự lạc hậu, trị trệ  và nghèo đói xác xơ. Ấy là nhìn về khía cạnh xã hội và đời sống dân chúng. Tuy nhiên, trong lòng một nước Nga nghèo đói và lạc hậu ấy, nước Nga lại có mấy thứ mà châu Âu không thể xem thường được, thậm chí còn phải ngưỡng mộ, ấy là sự ăn chơi xa hoa bậc nhất của các Sa hoàng (Hoàng đế Nga) và sự nảy sinh ra các văn nghệ sĩ tài hoa cũng vào cỡ bậc nhất thế giới. Điều này ta có thể thấy rõ trong những tác phẩm văn học của các nhà văn Nga nổi tiếng như N. Gogol, I. Turgeniev, A.Tsekhov, V. Korolenko, L Tolstoi... Hãy khoan nói về các tài danh nghệ sĩ Nga, để nói về sự ăn chơi tột đỉnh của các Sa hoàng...

Ấy là các công trình kiến trúc, cung điện, vườn hoa, đài phun nước... do các Sa hoàng cho xây dựng ở nhiều nơi, nhất là Siant Petersburg và Moskva. Trước chuyến sang Nga chừng mươi ngày, tình cờ tôi được xem một phim tài liệu giới thiệu về các cung điện, công trình kiến trúc cổ ở Saint Petersburg, như cung điện Mùa hè, cung điện Mùa thu, cung điện Mùa đông... Nay thì tận mắt mục sở thị.

Trên đường từ trung tâm Saint Petersburg đi thăm Cung điện Mùa Hè, chúng tôi ngang qua ngôi biệt điện cổ, nghe nói nay trưng dụng làm nơi ở và làm việc của Tổng thống Nga, V. Putin mỗi khi ông này rời Moskva về Saint Petersburg, và dĩ nhiên, vì lý do an ninh, nên để chiêm ngưỡng nó, chúng tôi đành cho xe chạy chầm chậm, hạ kính, chụp ảnh mà thôi. Ít phút sau, đã đến Cung điện Mùa Hè.

Đây là cách gọi thông dụng theo mục đích sử dụng của cung điện này. Tên của nó là Peterhof, và nghe nói là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất nước Nga. Vậy thi  Peterhof phải có những giá trị gì chứ? Được biết, cung điện này được khởi công xây dựng từ năm 1714 dưới thời cai trị của Sa hoàng Tzar Peter Romanov (1672-1725), sau khi vị vua này thăm nước Pháp, muốn nước Nga cũng có một Cung Versailles của Nga, vậy nên đã vời đến các kiến trúc sư và điêu khắc gia từ khắp châu Âu đến thiết kế và thi công. Địa thế cung điện rất đẹp, rộng hơn nghìn hecta, nằm bên dòng Neva, kề ngay vịnh Phần Lan. Mênh mông như thế, với 7 công viên, gần hai chục lâu đài và hàng trăm suối và cụm đài phun nước, nên khách du lịch khó mà ngắm hết được. Đầu hè mà trời rét tê, nhất là mỗi khi gió thổi mạnh từ vịnh Phần Lan vào, mấy gã đàn ông chúng tôi mò tìm quán quanh đấy để kiếm tách cafe cho đỡ thèm...

Ôi thôi, thỏa mãn cái này thì mất cái khác. Mải nhâm nhi ly cafe nóng, chúng tôi quên mất cái hẹn lúc 11g vào khu bên trong để được thưởng thức màn nhạc-nước. Ấy là, cứ đúng 11 giờ trưa, bản nhạc thủy xướng thánh ca của  Reinhold Glieres vang lên thì cũng là lúc hàng trăm tháp nước cùng phun trào trắng xóa. Khi Điệp Anh, phóng viên VOV Nga lôi được mấy gã chúng tôi vào thì bản nhạc đã hết, giờ thì chỉ còn được thưởng thức các tháp nước phun trào mà thôi. Quả là đáng tiếc. Theo lối đi, chúng tôi lần dần ra vịnh Phần Lan, tha thẩn tìm mua cho mình mấy món đồ souvenir, như khăn quàng cổ hand-made địa phương màu sắc, hoa văn phong phú đẹp mắt, rồi búp-bê Nga matryoshka và biểu tượng Saint Petersburg...

Thú vị nhất là theo các lối đi men theo mép vịnh Phần Lan, rồi len lỏi giữa những khoảnh rừng thưa toàn bạch dương, sồi và ngân hạnh trên nền cỏ xanh như mơ điểm xuyết màu vàng hoa bồ công anh, những ngòi nước nhỏ chảy ngoằn ngoèo với những chú vịt cỏ bơi lội, còn trên bở là những chú chim tha thẩn kiếm mồi, những chú sóc nhỏ tung tăng. Thật mà như trong cổ tích...

Rời cung điện Mùa Hè, chúng tôi tiếp đến Cung điện Mùa Thu, cách đó không mấy xa. Đây cũng là cách gọi thông dụng của Cung điện Ekaterina. Tên gọi này được đặt là để ghi nhận công lao của người cho xây dựng cung điện, ấy là Hoàng hậu Ekaterina của Sa hoàng Pyoth Đại Đế, và sau này là Nữ hoàng Ekaterina ( Catherine )-nữ hoàng đầu tiên của nước Nga hùng cường.

Có lẽ, phải nói thêm đôi chút. Trước hết, tên tuổi của Pyoth Đại Đế thì nhiều người biết, ấy là vị Sa hoàng đã có công lao đưa một nước Nga lạc hậu ở vào thời điểm cuối thế kỷ 17 thành một nước Nga vĩ đại và hùng cường, sau khi vị vua này tìm hiểu học hỏi từ các nước Tây Âu để thực hiện một loạt cải cách và chiến tranh mở mang bờ cõi. Đây cũng là vị vua cho xây dựng Saint Petersburg từ một vùng đầm lầy ven vịnh Phần Lan thành thành phố nguy nga tráng lệ, nơi mở cửa nhìn sang châu Âu. Sau này, người ta dựng tượng Pyoth Đại Đế ngự trên mình chiến mã ngay tại thành phố này, và dân gian quen gọi là “Kỵ sĩ đồng”. Sinh thời, đại thi hào A. Pushkin đã sáng tác một truyện thơ có tên “Kỵ sĩ đồng“ lấy cảm hứng từ đây.

Kế theo, là chuyện về Nữ hoàng Ekaterina (nguyên là Hoàng hậu của Sa hoàng Pyoth Đại Đế). Bà xuất thân là một nông nô gốc Latvia, do xinh đẹp và thông minh, đã trở thành người tình, rồi hoàng hậu của Sa hoàng. Bà là người đã có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà vua, trong việc cải cách đất nước và chiến tranh mở mang bờ cõi. Trong thời gian Pyoth Đại Đế mải chinh chiến xa nhà, bà đã tìm đất và cho xây dựng cung điện này, mà theo cách nói duyên dáng và hài hước của bà khi mời Sa hoàng lần đầu diện kiến, ấy là “Đây là ngôi nhà thôn dã mà thiếp đã xây cho hoàng đế của thiếp".  Lẽ dĩ nhiên, ngôi nhà thôn dã ngay ấy đã được tiếp tục mở mang, xây dựng để có diện mạo Cung điện Ekaterina ngày nay. Trung tâm và cũng là điểm nhấn quan trọng nhất, ấy là Phòng Hổ phách. Đây vốn là quà tặng của nhà vua Phổ tặng cho Sa hoàng Pyoth Đại Đế. Nghe nói, nó được thiết kế trang hoàng từ 6 tấn hổ phách tốt nhất của vùng Baltic cùng thêm nhiều vang ròng. Tiếc thay, trong Thế chiến thứ II, quân đội phát-xit Đức khi chiếm Saint Petersburg, theo lệnh của Hitler đã tháo dỡ Phòng Hổ phách và đưa đi đâu mất cho đến tận bây giờ vẫn không dấu tích. Sau này, Phòng Hổ phách được tái thiết theo nguyên trạng. Khách tham quan đến đây ai cũng muốn được chiêm ngưỡng, vì thế xếp hàng dài dặng dặc đợi vào xem. Vậy nên, chúng tôi đành ngậm ngùi mà bỏ qua vì không có thời gian, để ngắm nhìn quanh cảnh khác. May mắn, trước chuyến đi Nga chừng mươi ngày, tình cờ tôi được xem một phim tài liệu nói về các công trình di tích nổi tiếng ở Saint Petersburg và ở đó đặc biệt nói về Phòng Hổ phách của Cung diện Ekaterina... Với tôi, đấy cũng là chút an ủi.

Lang thang đây đó trong khuôn viên cung điện mênh mông, những cung điện, phòng ốc, tượng đài, cây cối, hồ nước trong màn mưa bụi mờ kiểu như mưa phùn xứ ta cũng đã thỏa mãn rồi. Đặc biệt, với tôi, vẫn là thảm cỏ xanh rờn thảm chân rừng thưa với những bức tượng đơn lẻ và màu hoa vàng điểm xuyết, cùng những chiếc ghế dài sơn màu trắng toát. Vẫn một cảm giác nửa thực nửa mơ...

Nơi đây, ngày xưa, từng có tên là Hoàng thôn (Tsarskoe selo), nơi nhà thơ A. Pushkin từng sống những năm tuổi thơ đi học và bắt đầu biết yêu, bắt đầu làm thơ, bắt đầu lập chí, ...

Vậy là có chuyện để nói rồi !...

 

8. Chuyện Hoàng thôn & nhà thơ A. Pushkin.

 

Quả thật, hầu như các thế hệ tuổi trẻ ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, suốt nửa thế kỷ qua, ai đã từng đi học, học đại học, đến tuổi ngấp nghé yêu đương, không biết đến tên tuổi Pushkin. Đơn giản, bởi không riêng nước Nga, nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đều coi nhà thơ A. Pushkin là “mặt trời thi ca Nga”.

Không những biết đến tên tuổi, còn thuộc thơ, nhiều dăm ba bài, chí ít, một vài câu thơ say đắm tình yêu của ông. Với cánh nhà báo nói chung, và riêng tôi, cũng vậy. Cùng với sự nghiệp thi ca, văn chương, cái chết vì đấu súng nhằm bảo vệ danh dự tình yêu, đã khiến thiên hạ nâng tầm Pushkin lên đỉnh cao huyền thoại của văn chương nước Nga và nhân loại. Vậy nên, khi được biết, cung điện Mùa Thu (cung Ekaterina)-điểm tham quan thuộc thị trấn Pushkin, tôi càng thêm háo hức. Dọc đường đi, trời mây sầm sì, lắc cắc mưa, xe chạy đều trong hơi men ly rượu vang của bữa ăn trưa, những câu thơ của Pushkin tái hiện trong giấc ngủ chập chờn “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu/ Trước mắt anh em bỗng hiện lên,/ Như hư ảnh mong manh vụt biến,/ Như thiên thần sắc đẹp trắng trong./Trong day dứt sầu đau tuyệt vọng,/ Giữa ồn ào xáo động buồn lo/ Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng,/Bóng dáng em anh gặp lại trong mơ ... Quả tim lại rộn ràng náo nức,/ Vì trái tim sống dậy đủ điều:/ Cả thiên thần, cả nguồn cảm xúc,/ Cả đời, cả lệ, cả tình yêu.”.( “Gửi K”, Thúy Toàn dịch )...  

Hòa vào dòng du khách, chúng tôi tiến sâu vào thị trấn Pushkin, qua hàng loạt những quầy lưu niệm, tôi chọn cho riêng mình một bức tượng đồng chân dung bán thân A. Pushkin. Điểm tập kết của hầu hết các toán du khách, trước khi vào Cung điện Ekaterina, là vườn hoa nơi có chân dung nhà thơ. Khác với nhiều chân dung khác của ông, bức tượng này tạc toàn thân Pushkin trong tư thế ngồi nghiêng với vẻ mặt đầy tư lự. Ngắm và tự hỏi, không biết nhà thơ suy tư điều gì ? Ngay đấy, có một nghệ nhân dân gian chuyên vẽ chân dung và chép lại thơ Pushkin siêu nhỏ trên cuốn sách mi-ni. Tôi cũng chọn mua cho mình một cuốn sách min-ni cùng lời đề tặng của nghệ nhân với giá trăm rúp. Cách đấy một chút là trường Lyceé, nơi ngày xưa Pushkin cùng nhiều con em hoàng gia, quý tộc Nga theo học. Nghe nói, chính tại nơi đây, tư tưởng cách mạng đã này sinh trong nhà thơ và những bài thơ đầu tiên đã được Pushkin sáng tác.

Tsarskoe selo (Hoàng Thôn), nguyên được Hoàng hậu Ekaterina (sau lên ngôi Nữ hoàng-Ekaterina) tìm chọn để xây cung điện Mùa Thu, mà ngày ấy, bà gọi là “ngôi nhà thôn dã” dành tặng đấng quân vương của mình-Pyoth Đại Đế. Về sau, được Nữ hoàng Elizabeth, và nhất là Nữ hoàng Ekaterina II cho mở mang, xây dựng nguy nga tráng lệ, trên diện tích ba trăm hecta, đặc biệt là phòng Hổ phách do hoàng đế nước Phổ tặng thuộc diện có một không hai trên trái đất này. Trong thế chiến thứ 2, quân đội Phát-xit Đức của Hitler tàn phá cung điện, cây cối nơi đây, và khi rút đi chúng đã gỡ bỏ mang đi mất tích phòng Hổ phách. Sau này, nước Nga đã bỏ công và bao nhiêu tiền của tái tạo căn phòng theo nguyên trạng, để mang diện mạo ngày nay. Tsarskoe selo cũng mang tên mới, thị trấn Pushkin, thì dấu ấn về Mặt trời thi ca Nga-A. Pushkin, đã góp phần làm cho Quần thể cung điện Mùa Thu vốn đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng hơn. Và như vậy, cùng với những tên tuổi lỗi lạc là Pyoth Đại Đế, Nữ hoàng Ekaterina I, Nữ hoàng Elizabet, Nữ hoàng Ekaterina II và nữa, thi hào A.Pushkin được khắc ghi vào lòng người dân Nga mãi mãi...

Buổi chiều đến thị trấn Pushkin, nhằm ngày mồng 5 tháng 6. Vô tư thăm thú phong cảnh tuyệt sắc, kể cả việc chụp ảnh trước tượng nhà thơ Pushkin, mà đâu có nhớ, chỉ ngày hôm sau thôi, mồng 6 tháng 6, đúng vào ngày kỷ niệm 318 năm ngày sinh của A. Pushkin (ông sinh 06.6.1799). Sở dĩ chúng tôi nhớ ngày này, là vi khi chúng tôi đi thăm thú Cung điện Mùa Đông, tuyến đường metro lại qua nhà ga mang tên Pushkin. Vừa lúc chúng tôi đến đây thì bắt gặp nhóm phóng viên của một Đài Truyền hình Nga đang ghi hình, phỏng vấn, tường thuật từ nhà ga này nhân kỷ niệm ngày sinh của A. Pushkin. Mặt trời thi ca Nga đã lặn từ năm 1737, nghĩa là đã 280 năm trôi qua, những vần thơ, những sáng tác thi ca, văn chương của Người vẫn được người đời lưu giữ nguyên vẹn, không những thế, thời gian càng trôi qua, giá trị văn học ấy lại càng gia tăng và trở thành di sản vô giá của nước Nga và nhân loại !...

 

9. Thăm bảo tàng Ermitage,

 

Đây chính là Cung điện Mùa Đông xưa của bao đời Sa hoàng Nga.

Về sự đồ sộ và tráng lệ của Bảo tàng Ermitage vào loại bậc nhất thế giới, không ai nghi ngờ. Chính vì thế, trong ký sự này, tôi phải dành riêng cho nó một mục, mặc dù, tôi chỉ có 2 giờ đồng hồ để thăm thú theo cách nói cửa miệng, ấy là “cưỡi ngựa xem hoa”.

Trên thế giới có hàng ngàn, hàng vạn bảo tàng, song khi nói đến tầm cỡ hàng đầu, thì có hai cái tên được nhắc đến ngay, đó là Bảo tàng Louvre ở Paris (Pháp) và Bảo tàng EtmitageSaint Petersburg (Nga).

Và may mắn cho tôi, đã hai lần thăm bảo tàng Louvre, và giờ đây, thêm bảo tàng Ermitage. Nhân đây, trước khi bày tỏ cảm xúc của mình khi thăm thú bảo tàng Ermitage, tôi lan man một chút chuyện về bảo tàng Louvre.

Ấy là, năm 1996, lần đầu tiên tôi sang Pháp, cũng là chuyến đi châu Âu đầu tiên trong đời, theo học một khóa nghiệp vụ báo chí chừng tháng rưỡi. Cứ cuối tuần là mấy đứa trong nhóm ba lô trên vai, chui rúc, luồn lách khắp Paris bằng metro. Vào bảo tàng Louvre, háo hức lắm, cả ngày lang thang hết phòng nọ đến phòng kia, say sưa ngắm nghĩa những hiện vật, đặc biệt là tranh, tượng của các danh họa trứ danh thế giới, đặc biệt là phòng trưng bày các hiện vật liên quan đến Napoléon III. Vậy mà, khi về Việt Nam, có người hỏi “vào bảo tàng Louvre có đến xem bức họa nổi tiếng La Gioconda của Leonardo da Vinci không ?”, thì lúc ấy mới ngớ người ra, rồi thầm tự trách mình ngu dốt vì thiếu thông tin. Chao ôi, từ bao năm nay, chân dung nàng Mona Lisa với nụ cười nửa miệng được danh họa Da Vinci vẽ từ thế kỷ 16 trở thành nổi tiếng bậc nhất thế giới này, mình đã từng xem qua sách báo, phim ảnh bao lần rồi, thế mà khi ở bên cạnh nó, mình lại lướt qua như một kẻ ngốc nghếch chẳng biết gì. Đáng trách làm sao. Vậy nên, mùa thu năm 2013, trong chuyến sang Pháp học khóa hành chính ngắn hạn tại trường L’ ENA (Trường Hành chính Quốc gia Pháp), khi thăm lại bảo tàng Louvre, điểm đầu tiên tôi tím đến là phong trưng bày bức La Gioconda bậc nhất thế giới này, đặng chụp một bức ảnh lấy bức tranh làm phông nền để giải quyết khâu oai.

Và giờ đây, dạo chân trong bảo tàng trứ danh Ermitage mênh mông này, dù đã có ít nhiều kinh nghiệm, song vẫn chỉ như “kẻ mù” vì thiếu thông tin chi tiết về nó. Có thể bám theo một đoàn nào đó có thuyết minh, song tiếng Nga của mình lại bập bõm không đủ hiểu, còn như, dựa vào phóng viên Điệp Anh thuyết minh cho thì kiến thức của cô nàng về bảo tàng này cũng không mấy tốt. Thôi thì, đành “mục sở thị” trước đã rồi tìm hiểu sau. Tuy nhiên, lang thang đây đó, tôi cũng đã được nhìn ngắm các kiệt tác của các danh họa lừng danh thế giới như: Rafael, Giorgio, Tiziano, Rembrandt, Monet, Renoir, Degas, Picasso... Và đặc biệt, có một phòng danh riêng trưng bày các họa phẩm của Leonardo da Vinci. Về hội họa, có thể nói là phong phú nhất. Người Nga đã dành riêng một khu vực để trưng bày tranh nhằm vinh danh những người anh hùng dân tộc của mình đã từng đánh bại đội quân bánh chiến bách thắng của Napoléon vào năm 1812 dưới sự chỉ huy của nguyên soái Kutuzov, với hơn hơn ba trăm bức cả thảy, còn riêng Kutuzov thì chân dung lớn của ông đước trưng bày ngay phòng phía cửa chính vào. Nói trộm vía, ông này, nghe nói bị hiếng một mắt và tầm vóc thường thôi, chứ không mấy oai phong lẫm liệt như chân dung được trưng bày ở đây. Sau phòng tiền sảnh có chân dung nguyên soái Kutuzov, là mấy căn phòng chính điện, nơi có ngai vàng của các Sa hoàng, ấy là cặp vợ chồng Sa hoàng-Hoàng hậu Pyoth Đại Đế và Ekaterina rồi Nữ hoàng Elizabeth. Lịch sử hình thành Cung điện Mùa Đông khởi thảo từ thời Pyoth Đại Đế (năm 1711) và tiếp đó là Nữ hoàng Ekaterina. Các công trình kiến trúc thành phần được xây dựng tiếp các đời Nữ hoàng Elizabeth và Ekaterina II để có diện mạo ngày nay.

Thăm bảo tàng Ermitage, không thể bỏ qua chiếc đồng hổ Chim Công. Đây là chiếc đồng hồ được đặt làm từ Anh quốc mà Nữ hoàng Ekaterina II tặng cho một trong những sủng thần của mình là Quận vương Potemkin-Tavrichesky ( ông này còn được xem là một trong những người tình của Nữ hoàng ). Trải qua hơn ba trăm năm, mặc dù ngay từ ngày đầu đã phải sửa chữa hỏng hóc do quá trình vận chuyển, đến giờ nó vẫn chạy tốt, và nghe nói hàng tuần được lên giây cót một lần vào chính Ngọ ngày thứ Tư.

Quả thật, với khoảng 60 ngàn hiện vật được mang trưng bày ở ngót một nghìn căn phòng lớn nhỏ, trong tổng số 3 triệu hiện vật, mới thấy bảo tàng Emitage đồ sộ thế nào. Nếu có thời gian, dành cả tuần để thăm thú, chiêm ngưỡng cũng chẳng xuể, huống chi chỉ vài giờ đồng hồ như chúng tôi đây. Cũng cấn phải nói thêm về quảng trường Cung điện Mùa Đông bao la với Cây cột lớn Aleksandry. Cây cột này được dựng vào năm 1834 nhằm tôn vinh chiến thắng của quân đội Nga trước đội quân viễn chinh của Napoléon, ở chính giữa quảng trường. Nghe nói, nó cao gần năm chục mét, bằng đá nguyên khối, tự trọng khoảng 600 tấn, và được dựng với sức người rất lớn, cùng kỹ thuật tinh vi, chuẩn xác khi người ta không cần bất cứ thứ ốc vít, dây chằng nào. Những tòa nhà, công trình phụ cận xung quanh quảng trường cân xứng, hài hòa góp phần làm cho Cung điện Mùa Đông-Bảo tàng Ermitage càng thêm tuyệt mỹ...

Và nữa, dòng Neva từ bao đời nay vẫn ngày đêm dạt dào sóng nước vỗ về, ru ngủ Emitage và những trầm tích, di sản văn hóa vậy chất, tinh thần, và tính cách Nga sống mãi,... Bên ô cửa sổ Phòng Leonardo da Vinci của bảo tàng Emitage, nhìn ra dòng Neva, khi một con tàu thủy du lịch trắng muốt chạy ngang, bờ kia sừng sững Pháo đài PetropavlovskChiến hạm Rạng Đông, tôi đã nghĩ như thế !...

 

10. Chuyện nhặt dọc đường Nga,

Với thiên nhiên mênh mông, tuyệt vời như vậy, với những di sản lịch sử-văn hóa vật thể và phi vật thể như vậy, nước Nga thật tuyệt vời, khó có gì chê trách. Tuy nhiên, dù chỉ một tuần trên đất nước Nga bao la rộng lớn ấy, vẫn có những chuyện buồn, chuyện đáng lo ngại... và cả chuyện đáng học hỏi.  Tạm nhặt ra đây vài chuyện...

Thứ nhất: Ấy là nạn trộm cắp vặt.

Trước khi rời Moskva đi Saint Petersburg, phóng viên Điệp Anh của Văn phòng VOV-Moskva, người chịu trách nhiệm dẫn đoàn kiêm phiên dịch cho đoàn công tác của chúng tôi, cảnh báo về nạn trộm cắp vặt ở Saint Petersburg. Cô nhắc mọi người nên để tiền bạc, đồ vật quý, các loại giấy tờ quan trọng tại nhà cô ở Moskva. Chỉ nên mang hộ chiếu tùy thân và tiền bạc đủ tiêu, nhất thiết cũng phải giữ rất cẩn thận.

Từ lúc đặt chân xuống ga xe lửa Saint Petersburg trở đi, mọi người trong đoàn đếu tâm niệm để ý, cẩn trọng, nhất là ở chỗ đông người, chen chúc. Và sau gần hai ngày ngao du ở thành phố này, mọi chuyện đều an toàn, vui vẻ, suôn sẻ. Nửa buổi chiều, trước bữa cơm tối để rồi ra fa xe lửa trở lại Moskva, chúng tôi tranh thủ vào một siêu thị lớn ở ngay trung tâm thành phố, đặng ngó nghiêng mua sắm chút ít. Lúc ngồi đợi nhau trong siêu thị, tự nhiên, anh T.-một thành viên trong đoàn bảo:“Ùi, cứ bảo ở đây trộm cắp vặt kinh lắm, chẳng kém gì Paris, vậy mà mấy hôm rồi, lang thang đây đó, đâu thấy chi. Chỉ thấy thành phố tuyệt đẹp và yên bình. Vậy đâu có đến nỗi...”. Mọi người đều gật gù tán thưởng câu nhận định của T.

Chúng tôi xuống một ga meto gấn nhất di chuyển đến quán ăn Pagoda (quán Chùa Một Cột) của người Việt. Khi đổi tuyến, lúc lên tàu, đang giờ cao điểm đông khách, chợt có mọt xô đảy chen chúc. Vừa yên vị, T. thất thần sờ quanh người và bảo tôi “Anh à, em mất ví tiền rồi”. Lúc ấy, tôi mới hình dung lại vụ chen lấn xô đẩy khi lên tàu vừa rồi, và hiểu rằng, tình huống đó là kẻ gian tạo ra để nhân sự rối loạn móc túi, lấy đồ của khách. Biết là, kẻ gian không chỉ một mà là một nhóm, có thể vẫn đang ở ngay toa tàu đó, hoặc chúng chuyển tay nhau cất giấu đồ ăn cắp, hoặc đã di chuyển sang toa tàu khác, không bắt quả tang, lại bất đồng ngôn ngữ, nên mất cắp ngay trước mắt mà đanh cam chịu mất. Xuống tàu rồi, không riêng T. mà cả đoàn đều ngơ ngác, hỏi han nhau, đồ đoán này nọ, âu cũng là sự chia sẻ, an ủi nhau mà thôi. Lỗi ở T. là chủ quan, lại thêm quá sơ hở khi anh để ví ở túi quần sau, cộm hẳn lên, lại quên cài khuy an toàn. Bình tĩnh kiểm lại, tiền mất không nhiều nhưng cũng không ít. May mà giấy tờ quan trọng và hộ chiếu không sao, thêm nữa mấy cái thẻ visa cũng cất cả ở Moskva, nên không có gì phiền toái. Chỉ đơn thuần mất tiền. Lúc ấy, mới giá này giá nọ, rằng khi ở siêu thị đã định mua thứ này đồ kia nhưng lại thôi, nếu mua thì đâu còn tiền mà mất. Ôi thôi, thì lắm chuyện... Giờ mới bảo nhau, chẳng kém gì Paris, có khi còn siêu hơn.

Riêng chuyện trộm cắp vặt ở Paris thì tôi đã từng bị, đã từng chứng kiến nên ít nhiều hiểu rõ. Chuyện ấy, tôi chưa từng kể trong vài thiên ký sự về nước Pháp trước đây. Nhân chuyện này, lan man tý chút. Năm 1996, khi học nghiệp vụ báo chí ở Paris, một người trong nhóm chúng tôi bị móc túi mất chút tiền vặt; Năm 2013, trong một lần dạo chơi, mua sắm trên một đại lộ gần quảng trường Concord, tôi bị một ả bohemieng ăn diện áo choàng lông như một bà hoàng, kéo khóa ba lô đeo vai định chôm đồ, may mà tôi kịp phát hiện, mụ ta tảng lờ chuồn vào một cửa hàng vờ mua sắm; Năm 2014, một thành viên trong đoàn chúng tôi khi đi meto bị đám trẻ con người di-gan móc ví, may mà chúng tôi bắt quả tang, quây chúng và lấy lại được ví. Đấy là mấy chuyện vặt ở Paris...

Trở lại nạn trộm cắp vặt ở Nga. Có thể nói, đây là một biểu hiện xấu của xã hội Nga phải chấp nhận. Nếu là xã hội Liên Xô trước đây, người dân chỉ ở mức sung túc, khó có chuyện ai đó làm giàu được, song nền tàng xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa, những chuyện trộm cắp vặt hoành hành và nhiều biểu hiện xã hội tiêu cực khác ít có đất để mà tồn tại. Xã hội chuyển đổi, năng động hơn lên, cái tốt nhiều, nhưng cái xấu cũng không ít. Gì thì gì, nước Nga cũng phải chấp nhận cả mặt tốt và mặt xấu, đặng tự tìm cách giải quyết thôi !...

Chuyện thứ hai: Ấy là cách giải quyết những va chạm và xung đột giao thông.

Theo những phóng viên VOV, nước Nga giàu có lên, ngoài hệ thống phương tiện giao thông công cộng vốn sớm phát triển và tiện lợi như xe buýt, tàu điện ngầm, tàu hỏa, tàu thủy, song phương tiện ô tô cá nhân cũng tăng rất nhanh. Ở các thành phố lớn như Moskva, Saint Petersburg... nạn ách tắc, ùn xe xảy ra như cơm bữa hàng ngày. Và như vậy, sự va chạm, xung đột giao thông cũng thường có. Tuy nhiên, khi xảy ra chuyện va quyệt phương tiện, các bên đều tìm cách giải quyết rất ôn hòa, nhẹ nhàng, lịch sự, theo chiều hướng hỗ trợ, cùng nhau giải quyết, còn việc phân giải đúng sai, bồi thường thiệt hại, ấy là việc của các lực lượng chức năng là cảnh sát và bảo hiểm. Trong khi ở ta, phần lớn, hoặc trốn tránh trách nhiệm, hoặc sửng cồ, cãi cọ, đánh đấm, thậm chí sau đó còn gây thù oán, truy sát lẫn nhau... Thêm nữa, các cơ quan chức năng, hoặc liên đới. nhiều khi cũng xử lý thiếu mạch bạch, không công bằng... Riêng việc này, ta phải học nước Nga nhiều.

Chuyện thứ ba: Ấy là chuyện thay máy bay trước giờ cất cánh,

Hôm về, lo tắc đường chậm giờ nên đoàn chúng tôi xuất phát trước giờ bay những 4 tiếng. Mọi việc đều suôn sẻ, hàng họ không vấn đề gì, check-in cũng nhanh chóng. Thời gian còn, chúng tôi lang thang trong khu vực xuất cảnh, tìm mua thêm chút hàng lưu niệm. Đúng giờ, lên máy bay, an tọa. Cũng đúng giờ, máy bay lăn bánh ra đường băng chờ cất cánh. Nhẩm bụng, vậy là chỉ khoảng 9 giờ bay là xuống Nội Bài...

Vậy mà, chiếc Airbus 330-300 không cất cánh, lại chầm chậm chạy vào khu vực đỗ. Mọi người ngơ ngác hỏi nhau xem có chuyện gì? Tôi nhẩm trong đầu, tự tìm nguyên nhân: trục trặc kỹ thuật, đón thêm khách vip, có vấn đề về nhân thân hay hàng hóa, thậm chí, đe dọa khủng bố? Rồi cửa bên hông máy nay mở ra, thang áp vào, và một tốp nhân viên dăm người lên, họ trao đổi với phi công. Một hành khách người Việt nói chuyện với nhau trong nhóm, nhưng to đủ để nhiều người xung quanh nghe rõ, rằng sẽ thay máy bay khác. Quả nhiên, sau chừng 20 phút chi đó, tiếp viên trưởng thông báo, mời tất cả hành cảnh xuống ô tô về khu vực phòng đợi chờ thay máy bay. Mọi người tỏ ta chán nản, hoặc lo lắng, phàn nàn này nọ. Lại một nữ hành khách Việt ngao ngán: “ Đã bảo là đừng có đi vào ngày mười ba “ ( hôm ấy nhằm ngày 13 tháng 5 âm lịch, ứng vào câu cửa miệng “chớ đi ngày bảy chớ về ngày ba” ). Lại vạ vật gần 2 giờ đồng hồ ở phòng chờ trong trạng thái, đói mệt và có phần lo lắng. Nhiều người gọi điện, nhắn tin, chát với người thân về tinh trạng chậm chuyến thay máy bay nay.

Sau cùng, xe lại đưa hành khách ra một chiếc máy bay cùng chủng loại đỗ lẻ loi ở một góc xa của sân bay. Mừng vì không bị chậm sang ngày hôm sau, song cũng vẫn lo vì không hiểu tình trạng kỹ thuật an toàn bay của chiếc máy bay mới, kể cả việc chưa rõ nguyên nhân thay máy bay. Hàng không Nga mấy năm gần đây, trở thành điểm nóng của việc trục trặc kỹ thuật và thiếu an toàn bay, kể cả chuyện đe dọa khủng bố...

          Máy bay lên đủ độ cao, đèn tín hiệu thắt dây an toàn đã tắt, bữa cơm đêm muộn được dọn ra. Vì quá bữa và có phần lo lắng, cố ăn một chút cho đỡ đói. Rồi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn...

 

11. Vĩ thanh,

 

          Có một chuyện, cũng là chuyện vặt, tôi định kể ở mục Chuyện nhặt dọc đường Nga, nghĩ lại thôi. Thôi rồi, vẫn thấy băn khoăn, cân nhắc mãi, đặng chẳng đừng, bèn kể ra đây, xem như bài học về sự ứng xử giữa con người, giữa nếp văn hóa, và rộng ra là giữa các quốc gia với nhau...

          Ấy là, khi đến Moskva, đoàn chúng tôi đặt chỗ trước ở khách sạn Salut, một khách sạn thuộc hàng 4 sao, và là thương hiệu khá nổi tiếng trên thế giới. Tiện nghi ở khá tốt, song đến khâu ăn thì có chuyện. Số là. sáng ngày đầu tiên, chúng tôi tìm chỗ ăn điểm tâm, hỏi nhân viên khách sạn, breakfast ở đâu, thì họ chỉ hướng lên tầng trên. Theo chỉ dẫn ấy, chúng tôi gặp cả đoàn khách du lịch người Trung Quốc, rồng rắn cỡ trăm người kéo nhau đi ăn sáng. Phòng ăn rộng, để ý chỉ thấy thuần khách Trung Quốc kín đặc phòng, có lẽ chỉ lẻ loi dăm khách Việt chúng tôi thôi. Khi ăn, chúng tôi thử hỏi han giao lưu với những khách du lịch Trung Quốc, bằng tiếng Anh, song gần như họ không hiểu, dẫu sao cũng vui vẻ. Để ý, thấy họ ăn xong bữa, bảo nhau lấy trứng luộc, bánh mì nhỏ, pho-mát, nước uống có ở đây, bỏ vào túi xách tay hoặc túi áo khoác đang mặc trên người. Có chút buồn cười, nhưng thôi, kệ họ. Sáng hôm sau, chúng tôi lại đến phòng ăn hom trước. Cũng muộn rồi mà cửa còn chưa mở, thực khách người Trung Quốc đã tập trung ở ngoài rất đông. Khi cửa mở, mấy nhân viên người Nga của khách sạn đứng chặn cửa ra vào, kiên quyết yêu cầu tất cả thực khách đều phải cởi bỏ hết áo khoác lạnh bên ngoài treo lên những chiếc mắc để sẵn, rồi từng người một vào phòng ăn, bất biết nhiệt độ ngoài trời khá lạnh (dưới 10 độ C), mặc ai đó giải thích rằng như thế họ sẽ rét. Chúng tôi rất ngạc nhiên, đứng ra xa quan sát, thấy ái ngại và phản cảm làm sao. Hỏi ra, mới biết nhân viên khách sạn nghĩ ra cách này, nhằm chống các thực khách lấy đồ ăn mang đi. Ôi, người xưa bảo, miếng ăn là miếng nhục cũng phải. Chán nản, chúng tôi bỏ về định trở lại phòng lấy mì tôm mang theo từ Việt Nam ra ăn, thì thấy ở tầng dưới, một phòng ăn sáng khác mở cửa. Ở đây, hầu hết là khách người châu Âu, cũng có các khách châu Á như chúng tôi, khách người Nhật Bản, Hàn Quốc, và cả những khách người Trung Quốc đi lẻ. Phòng ăn sang trọng, thực đơn phong phú. Ngồi ăn ở đây, chúng tôi mới nghĩ lại, thì ra, khách sạn họ bố trí phòng ăn sáng riêng cho khách du lịch Trung Quốc đi đoàn đông, số khách còn lại, được bố trí ở phòng ăn này. Lại nghĩ, vậy là có sự phân biệt rồi. Vẫn biết, người Trung Quốc phần đông có thói quen ăn uống ồn ào, nói cười to, ưa náo nhiệt, và ăn cũng rất khỏe. Cùng với đó, người Trung Quốc còn ít nhiều mang nếp sống đầy chất “quê mùa“, chưa biết hoặc chưa thích nghi với nếp ăn châu Âu, đi nhẹ nói khẽ và nếp ăn uống là ăn vào bụng thì bao nhiêu cũng được, nhưng tuyệt đối không được lấy thừa, bó phí, lại càng không được lấy mang đi, bởi vậy là hành thiếu văn hóa ... Chắc hôm trước, nhân viên khách sạn không phân biết được, tưởng chúng tôi là khách đoàn du lịch Trung Quốc, nên chỉ chung vào một chỗ. Nghĩ thêm, lễ tân Trung Hoa là bậc nhất thiên hạ, điều này thì tôi từng nhiều lần chứng kiến và được hưởng thụ sự tận tình chu đáo của họ, chứ đâu có nhếch nhác thế này. Nghĩ về cách ứng xử chưa lấy làm văn hóa của cả khách du lịch Trung Hoa và nhân viên khách sạn mà buồn. Từ miếng ăn, thành chuyện văn hóa ứng xử giữa con người, thậm chí, quốc gia với nhau, nếu không có một sự cảm thông. Song, âu cũng là biểu hiện về sự muôn màu muôn vẻ của cuộc sống.

            Dẫu rằng, đọc nẻo đường Nga, vẫn gặp đây đó những chuyện buồn, chuyện không hay, song cảm quan chung, nước Nga vẫn là một quốc gia hùng cường, có thiên nhiên bao la tuyệt vời, có lịch sử oanh liệt và bề dày văn hóa vô cùng phong phú và phát triển...

          Thiên nhiên đẹp cả bốn mùa, mỗi mùa đẹp riêng một vẻ, tài nguyên khoàng sản giàu có, khỏi phải bàn, song bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa, thiết nghĩ, cũng cần nhấn mạnh đôi chút.

          Nước Nga vô cùng rộng lớn, trải dài từ Đông sang Tây, từ châu Á sang châu Âu, khoảng cách giữa hai cực đến 8 múi giờ, đa sắc tộc, đa tôn giáo, vậy nên sự đa dạng phong phú về văn hóa là đương nhiên. Gạt đi những vấn đề xung đột về sắc tộc và tôn giáo, thì sự đa dạng về văn hóa là một lợi thế rất lớn trong phát triển. Hơn thế, lịch sử đã để lại cho nước Nga ngày nay, kể cả Liên Xô cũ, một nguồn vốn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể khổng lồ. Vấn đề là việc bảo tồn, bảo tàng và phát huy những lợi thế từ nguồn di sản quý giá đó vào sự phát triển-phát triển bền vững, như thế nào? ...

          Về tinh thần, tâm hồn và tính cách Nga, cũng là một đặc sắc, một lợi thế lớn lao!...

 

 

Ơi cái màu hoa gạo

 

1.

Đã có lần, tháng ba, tôi lên Cao Bằng. Đi theo đường Lạng Sơn, qua Thất Khê rồi Đông Khê, khi về lại Bắc Kạn, Thái Nguyên. Đã cuối xuân, chớm hè. Những trận mưa rào sớm gột rửa bụi cho lá rừng. Lòng rạo rực rạng lên một màu hoa đỏ. Hoa trạng nguyên rừng, hay gọi theo cách gọi dân dã của bà con miền núi là hoa hàng rào, lấm chấm đỏ suốt dọc đường đi. Nhưng ấn tượng và mạnh mẽ hơn cả là màu đỏ của hoa gạo. Chợt nhớ rằng, người Tây Nguyên gọi loài hoa này là hoa pơ-lang, còn người miền núi đồng rừng phía Bắc gọi là hoa mộc miên. Lại nhớ có một bài hát về hoa mộc miên từ nửa thế kỷ trước vào cái thời quan hệ hữu nghị Việt Trung anh em cực kỳ nồng ấm: ” Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên nở … Mộc miên hoa ơi… “. Ngày nhỏ, tôi đã nghe mấy người chị gái mới lớn tuổi bắt đầu biết yêu, nghêu ngao hát bài hát ấy, nghe chỉ thấy giai điệu thiết tha chứ nào có biết hoa mộc miên là hoa gì đâu…

          Cũng loài hoa đỏ ấy, cây gạo cổ thụ đầu làng tôi lại như một người lính gác ngày đêm đứng đó, đưa tiễn bao lớp trai làng lên đường ra mặt trận, hay ra đi lập nghiệp xứ người cho thỏa chí trai, rồi lại lặng thầm đón họ về dù họ thành công hay thất bại với sự bao dung chở che của xóm mạc. Năm lại năm, cứ mỗi độ tháng ba cây trổ những bông đỏ ối báo hiệu xuân qua hạ tới, khi công việc nhà nông cấy hái đã xong, đợi tháng năm thu hoạch mùa màng. Cây gạo biết bỏ qua những lời đồn đại của dân làng, của đám trẻ con theo kiểu thần cây đa ma cây gạo. Thân cây xù xì theo thời gian, và còn bởi đám trẻ đẽo gọt mắt gạo để làm những con dấu trò chơi. Rồi những hố hốc trên thân mỗi ngày một nhiều một sâu hoắm. Và cho đến một ngày nào đó cây gạo chết khô và người ta cưa thân trốc gốc. Mà chẳng riêng chuyện quê tôi, giờ đây nhiều làng quê không còn bóng gạo, không còn màu hoa đỏ chói mỗi tháng ba nữa. Nhớ lắm màu hoa đỏ ấy. Tôi cũng có dịp được ngắm hoa gạo ở chùa Keo-Thái Bình, hay ngắm cả một dòng kênh hai bên rực rỡ hoa gạo đỏ ở miệt biển Hải Hậu-Nam Định. Và bao giờ cũng vậy, màu hoa gạo đỏ cũng đem lại trong tôi một cảm giác ấm áp,bình yên, no đủ !...

Mấy năm trước là hoa gạo đỏ dốc đèo Pha Đin đường lên Điện Biên. Giờ là hoa gạo đỏ đường đèo Thất Khê, Đông Khê ( Lạng Sơn ). rồi Quảng Uyên, Trùng Khánh ( Cao Bằng ), nơi đồn biên phòng Đàm Thuỷ, chốt thác Bản Giốc…Tôi đã để ý, thấy mấy chiến sĩ biên phòng trẻ người miền xuôi lên biên giới làm nhiệm vụ, nhặt những bông gạo đỏ ném qua hàng rào trêu đùa  mấy cô giáo cắm bản. Có một cái gì đó nhen nhóm rồi cháy lên !...

Cháy lên...

 

2.

Cứ mỗi độ mưa xuân đã bớt bay, tiết nồm ẩm bí bách cuối tháng hai, đầu tháng ba âm lịch cũng đã bớt, ấy là hạ đã ngấp nghé...

Trong bầu không khí ấy, ai mà chẳng nhớ câu thơ của Nguyễn Du “ Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông “. Câu thơ này hay về mọi nhẽ. Nhưng đấy là câu thơ của người vốn quen với “ cửa Khổng sân Trình “, dẫu là người có thấu hiểu nỗi đau nhân quần như Nguyễn Du đi chăng nữa... Và kẻ hậu sinh tầm thường là tôi, cũng từng bám theo cái bóng của cụ Nguyễn xưa, mà viết mấy câu thơ chơi: “Cuối xuân bàng đã lá xanh,/ Sót đôi chiếc đỏ trên cành ngẩn ngơ,/ Thôi đừng, mùa đợi tháng chờ/ Kìa bông hoa lựu thập thò lửa nhen,...

Chứ thực ra, màu lửa lựu vườn nhà, đầu tường cũng không thể ấn tượng bằng màu đỏ rực của hoa gạo.

Vẫn biết là mọi so sánh đều khập khiễng, song chốn đồng quê, nơi thôn trang, rừng dã, màu đỏ giục giã, rạo rực của hoa gạo, mới là sự báo hiệu nóng bỏng của mùa hạ, ngay từ khi nó mới chớm sang ...

Tôi là dân làm báo chuyên nghiệp, bản tính lại thích lang thang nay đây mai đó, không biết bao mùa rồi, mỗi khi bắt gặp màu hoa gạo, lòng lại bừng lên những khát khao chinh phục... Chẳng to tát gì khi nói đến khát khao chinh phục, đơn giản, chỉ là phải viết một chút gì đấy, tìm kiếm một cái gì đó, du nhỏ nhoi thôi, nhưng phải mới, phải khác lạ cho mỗi chuyến đi... Và tôi đã tự nhắc nhở, thúc giục lòng mình gắng vậy !...

Những câu thơ về màu hoa lửa ấy, cô đơn và khắc khoải, bừng cháy mà sẻ chia, tuoi mới v à hoài niềm, cứ thế, cặp đôi, song hành như một hành trong ẩn chứa trong sâu thẳm tâm can trong mỗi chuyến đi, nhất là mỗi mùa gạo trổ bông. Cùng là hoa gạo, trong những bài thơ cuazr mình rải rác theo năm tháng, tôi đã viết những câu: “Ơi cái màu hoa gạo/  Dắt ta về hoa niên/ Cô gái ngày xưa ấy/ Nhặt từng bông muộn phiền”; rồi đó là “Núi rừng nén tiếng thở dài/ Thung xa hoa gạo đợi hoài tháng ba,/ Hè còn ngấp nghé trời xa,...” ; và nữa, “ Riêng vài cây gạo núi,/ Cô đơn đứng lặng thinh/ Nở dăm bông lác đác,/ Chờ bừng đỏ rực mình,” v.v...

Mới đây, dịp cuối xuân Đinh Dậu, tôi và mấy người bạn thân, là nhà thơ, nhà văn, họa sĩ vào xứ Thanh ( Thanh Hóa ) thăm nhà văn Trịnh Tuyên và các bạn viết sống ở Cẩm Thủy, Bá Thước... Chạy xe theo đường Hồ Chí Minh, đoạn giáp ranh giữa Hòa Bình và Thanh Hóa, bắt gặp mấy gốc gạo cội, hoa đỏ rực toàn cây, nổi bật trên nền xanh của lá rừng cùng màu hoa trắng xóa của loài cây rừng nào đó không rõ tên. Ấn tượng vô cùng !...

Hơn nữa, chiều ấy, khi chúng tôi từ Cẩm Thủy, tìm đường xuyên xứ Thanh sang khu di tích Lam Sơn thuộc huyện Thọ Xuân, trên bờ dê sông Chu thuộc đất Yên Định, bắt gặp một cây gạo to, đứng đơn độc bên sườn đê, và ngạc nhiên sao, hoa gạo không màu đỏ thường thấy, lại có màu vàng cam. Đây là lần đầu tiên tôi thấy. Mà không riêng tôi, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, họa sĩ Lã Minh Kính và nhà văn Nguyễn Trọng Huân cũng đầu bảo rằng, họ cũng chưa từng thấy hoa gạo màu này.

Chúng tôi dừng chân, tha hổ, mải miết chụp ảnh cây gạo hoa màu vàng cam với mọi góc độ, và xem như của hiếm của chuyến đi. Khi tôi đăng mấy bức ảnh trên Phây cá nhân thì có đôi ba người nói rằng đã từng thấy, từng biết nơi này, chỗ nọ xưa từng có cây gạo màu hoa đó, nhưng giờ đây chẳng biết có còn không?...

Với riêng tôi, ấn tượng càng thêm ấn tượng !

Và trong ý nghĩ, một tứ thơ đã nảy ...

 

 

 

Quả cuối mùa

 

Hoa quả bây giờ, mùa nào thức ấy, từ siêu thị sang trọng đến hàng rong, cơ man, tha hồ mà lựa chọn. Thậm chí, hoa quả trái vụ cũng có, bởi đã có giống mới cho quả quanh năm, hoặc hàng nhập từ nước ngoài. Vậy mà, để khi cầm miếng quả lên miệng cắn, nhấm nháp thấy ngon, thấy thú vị, thật khó. Còn như thấy thi vị, thì khó lắm thay !...

Lâu lâu, nhà đi chợ về, mua được mớ táo, mớ ổi ta, mang rửa qua rồi bầy ra đĩa, đã thoang thoảng mùi thơm rồi. Nhẩn nha chọn lấy một quả, ngắm nghía no con mắt, đưa lên hà hít một chút, lấy hương thơm đánh thức thính giác, rồi mới lựa chiều cắn nhẹ, nhai chậm và ngẫm nghĩ, để thưởng thức cái hương vị tự nhiên của cây quả, ta sẽ thấy, không có vị thuần nhất như loại quả giống mới, mà cảm nhận được vị ngọt, pha chút chua, hơi chan chát của loại quả tự nhiên...Và khi ấy, quá khứ, tuổi thơ đồng hiện trong ta, lung linh huyền diệu làm sao ...

Hồi nhỏ, khi gia đình tôi còn ở Hà Nội, tôi sống trong khu nhà 50A Trúc Lạc, phố Phó Đức Chính. Khu nhà nằm trong làng Trúc Lạc xưa, ven bờ hồ Trúc Bạch, có vườn rộng quanh năm rợp bóng nhãn, roi, ổi... Rồi đó là những chuyến ngao du lên vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá ven Hồ Tây, xứ sở của hoa trái Hà Thành ngày ấy. Thế nên, tôi đã sớm ý thức về cây trái thiên nhiên. Sau này, sơ tán tránh chiến tranh về quê Văn Lâm, Hưng Yên, mảnh đất vườn quê nhà tôi khá rộng, Vườn tạp kiểu xưa, cây trái tự túc, nên cũng có đủ loại cam, chanh, bưởi, ổi, na, mít, sấu, thị, hồng xiêm...Thôi thì mùa nào thức ấy. Quê ngoại tôi cách đó gần chục cây số, vườn rộng những dăm sào đất, ao chuôm đầy đủ, cây trái không thiếu thứ gì. Tôi quen gọi là khu vườn cổ tích. Năm nào cũng vậy, dăm ba lần theo bố mẹ, chị gái sang quê ngoại vào những dịp giỗ tết và nghỉ hè. Nhất là kỷ nghỉ hè, được ở quê ngoại hàng tuần, hàng nửa tháng. Vui nhất, là được hội quân, đám trẻ chúng tôi hàng chục đứa, con chú con bác, con cô con cậu, đôi con dì với nhau, từ Hà Nội và các nơi kéo về. Chúng tôi câu cá, và tuần hành mọi xó xỉnh trong vườn, leo trèo, bứt quả chín quả ương, nếm thử. Vui thật đấy. Song với riêng tôi, lặng lẽ giấu trong lòng một cái thú, ấy là tầm quả cuối mùa. Quả giữa vụ, đương nhiên không có gì để nói. Với cây trái, có hai thời điểm ấn tượng, ấy là quả đầu mùa và quả cuối mùa. Quả đầu mùa, người ta mong ngóng chờ, sau vòng quay của thiên nhiên trở lại vừa đúng một năm, nên có chút gì đó của sự háo hức, chờ đợi, lạ lẫm ... Song ở thời điểm này, quả thường chưa ngon, chưa đủ hương đủ vị, và có thể châm chước được. Còn quả cuối vụ, là quả chín muộn và còn sót lại. Khi ấy, cây đã gần hết trái, nên bao nhiêu sức của cây, hay nói một cách chữ nghĩa, là bao nhiêu hương sắc, tinh tuý còn  lại trong cây, được dồn hết cho quả chín muộn, đặng cây sắp bước vào mùa rụng lá, hoặc bị đốn bớt cành, chuẩn bị cho guồng sinh sôi mới, đơm hoa kết trái mùa sau. Thế nên, quả cuối mùa viên mãn, thơm ngon, là vậy...Thêm nữa, tâm lý người ta, khi cái gì còn lại ít ỏi, cái gì sắp đi qua, mới thấy quý, thấy tiếc, là vậy...Lại chợt nghĩ đến chuyện nhan sẵc của những người đàn bà ở độ tuổi tứ tuần...

Tôi đã lặng lẽ, tha thẩn vườn nhà, hay nơi vườn quê ngoại, tầm những quả còn sót lại trên cây. Quả muộn thường là khuất tầm nhìn, bị che bởi những tán lá um tùm, nên người tầm quả phải để ý hơn, dụng tâm hơn, ở dưới đất phải nghiêng ngó, quan sát từ nhiều góc nhìn khác nhau, thậm chí, phải leo lên chạc cây cao hơn một chút, may ra mới thấy được. Thường là người thua các loài chim, nên quả muộn hay bị chim mổ lỗ chỗ đôi chút. Cũng có quả còn nguyên vẹn, và khi ấy, sao thấy thật may mắn và sung sướng thay. Giản dị vậy thôi. Song dù quả có bị chim ăn trước, thì phần quả còn lại cũng rất ngon thơm. Đấy là chưa nói đến việc, quả chín nào bị chim ăn, thường là ngon hơn quả bình thường, ấy bởi loài chim tinh tường hơn con người chúng ta về khoản này... Tôi đã từng nâng niu những quả cuối vụ như thế, và thấy tiêng tiếc khi phải ăn đi mất, đặng thỏa cái thú thưởng thức bằng đủ các giác quan. Vâng, quả là, đã có những trái thị nhỏ xinh cuối vụ, để chín thơm trên bàn thờ đến thành nẫu, không ăn...

Sau này trưởng thành, và ngay cả bây giờ cũng vậy, tôi vẫn giữ trong mình thú tầm quả chín cuối mùa. Nhưng cuộc sống phố thị và sự bận bịu của công việc đã dần tước đi của mình những thú vui nho nhỏ và giản dị như vậy. Song, mỗi khi có dịp về quê, hoặc đi đâu đó có cây vườn, tôi lại tha thẩn ra vườn, lặng lẽ dưới gốc cây mà ngước nhìn lên.

May ra thì ...

 

 

Sen thu

 

Tình cờ đọc được một bài viết của nhà thơ Chử Thu Hằng về sen trên trang mạng xã hội, cùng với đó là những bức ảnh sen tàn, đẹp và buồn, lại chứa đựng tấm lòng yêu cuộc sống của những người sáng tạo ra chúng.

Bài viết bộc lộ tâm trạng của tác giả và nhắc đến chi tiết nàng Lâm Đại Ngọc ngắm hồ sen trong đêm trung thu, buồn chuyện nhân tình thế thái mà ngẫu hứng “ Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu ...”. Mình vốn là một tín đồ của “ Hồng Lâu Mộng “, lại cũng rất thích chi tiết ấy. Đọc rồi, lòng những muốn góp thêm với tác giả bài viết một chút gì đó và một vài bức sen thu, như là sự tiếp nối của lòng yêu cuộc sống quanh ta...

Sen thu, gợi tôi nhớ lại, chuyến hành phương Nam đầu tiên của mình, ấy là vào cuối thu năm 1981. Tôi, chàng kỹ sư trẻ, với mộng ước biến đồng bằng sông Cửu Long thành vựa lúa khổng lồ. Khi ấy, ngồi trên tàu hỏa Thống Nhất, hành trình 72 giờ, từ ga Hàng Cỏ, ngang qua địa phận của Hà-Nam- Ninh, thấy những đầm sen tiếp nối miên man như không bao giờ dứt theo bánh tàu lăn…Cuối thu, sen đã tàn, lá lá khô rũ xuống, lá lá vàng xỉn, thi thoảng sót lại đơn lẻ chiếc lá xanh ngà, như là đang chờ đợi ai, chờ đợi điều gì đấy…Bù lại, cơ man những gương sen đãy hạt, phô bày…

          Chợt nghĩ đến gói cốm dẹp bọc lá sen buộc chéo bằng sợi rơm nếp, mà cô bạn gái dúi vào túi ba lô lúc đưa tiễn mình ở nhà ga... Ra đi lập nghiệp phương xa, để lại sau lưng một mối tình đang độ bén… Rủ lòng, chẳng biết người ấy có chờ đợi mình không ?... Ngày ấy đã làm gì có sẵn máy ảnh như bây giờ để mà chụp. Lòng trĩu nặng một nỗi buồn…Thế là xúc cảm trào dâng. Cứ rẩm riu trong đầu, lẩm nhẩm nơi đầu lưỡi, mà thành thơ…

Rồi đằng đẵng bảy năm lang thang khắp vùng châu thổ Mê-kông, lâu mà chóng, vui buồn nếm trải, mẹ thì già, mà mình chưa thành thân. Thấy mình như có lỗi với tất cả.

          Người bạn gái ngày nào đã chẳng thể chờ đợi mình cứ mãi biền biệt như mất tăm ở nơi cuối đất, đi lập gia đình riêng, giờ thì xa thành quá khứ. Và bài thơ hồi đó cũng  dần phai... Lâu lâu, nhớ lại đôi ba câu…Lại cười nhẹ mà cho qua đi…Cuộc sống bận rộn với biết bao lo toan…

          Nhân, đọc bài viết về sen thu này, thấy hợp với tâm trạng mình. Nhìn ảnh sen tàn mà cảm hoài. Tự nhiên, những câu thơ xưa cũ, hồi, sống dậy…

          Bài thơ ngày ấy, giờ đọc lại, còn chưa ưng. Song đã là xúc cảm thì có kể chi ...

 

Anh đi vào lúc cuối thu

Đồng hoe hoe sắc, gáy gù xa xa

Bão muộn màng mới đi qua

Bình yên choàng xuống mái nhà thôn quê

Anh cay đi vào lúc gió se

Heo may chín rực lá tre ráng chiều

Bên trời ai lảy câu Kiều

Lặng yên mía ngọt tự nhiều đắng cay

Anh đi vào lúc hương bay

Cỏ thơm đến nỗi làm say đất trời

Sen tàn gắng giữ lá tươi

Dành cho hạt cốm một đời sắc hương

Anh đi vào lúc mờ sương

Hàng cây trơ trụi bên đường khẽ run

Hàn đông ngấp nghé đầu nguồn

Về nam bầy én giăng buồn ngang mây

Em ơi, muối mặn gừng

Anh đi thương nặng nhớ đầy hai vai .

Xin cảm ơn người viết !

          Ừ mà, vẻ đẹp cuộc sống thường là đi cùng nỗi buồn. Và đều đáng quý, đáng trân trọng làm sao?!...

Tự thân nó, đã là sự tiếp nối của lòng yêu cuộc sống quanh ta !...

 

 

Tết Nguyên đán cổ truyền,

tinh hoa văn hóa Việt,

 

Dân gian xưa nay bảo " Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết ".

Nói vậy, hẳn người đời có cái lý của mình...

Ngày trước, những năm thiên tai mất mùa đói kém, nhà nào thiếu thốn, ngày giỗ cha mẹ, ông bà, chẳng mâm cao cỗ đầy để mời mọc anh em họ hàng, thì chỉ cần đặt lên bàn thờ bát cơm quả trứng, đĩa hoa hái ở vườn nhà, bát nước lã sạch, dầu đèn, còn chén rượu có hay không cũng chẳng sao. Thắp ba nén nhang, khấn khứa tự hay nôm na đều được. Ở thế giới bên kia ( nếu có ), chẳng tổ tiên, ông bà cha mẹ nào lại nỡ trách cứ con cháu mình vì cái tội nghèo. Con trẻ trong nhà cũng không vì thế oán chê cha mẹ. Hiếu nghĩa với người âm chỉ cần thế, cốt ở yên lòng người dương kia !...

          Nhưng...Tết thì lại khác. Giàu nghèo thế nào thì cũng phải cố lo cho có đủ lệ bộ. Nghĩa là, trên bàn thờ phải có mâm ngũ quả, trong buồng nhà phải có đôi ba chiếc bánh chưng, khoanh giò, vại dưa nén dưa hành và đám trẻ phải có manh áo mới. Khá khẩm hơn chút nữa thì thêm niêu cá kho, nồi thịt đông, vài đĩa chè kho thảo quả...Thực ra, túng bấn quá mà không lo cho có đủ, hẳn tổ tiên ông bà, rồi các bậc Táo quân thần phủ cũng đâu có trách phạt, cái chính là ở người nhà mình kia. Không có ư...thì đâu vui được lòng con trẻ, mà người lớn cũng tủi phận làm cha làm mẹ  không nuôi nổi con!...

          Nếu đem ra mà so sánh, ngày giỗ là việc riêng nhà mình, no đói thế nào chỉ trong nhà biết với nhau thôi, ngoài chẳng ai hay, thế nên cũng không có gì phải ngượng, hoặc sợ mang tiếng. Còn ngày tết, là của chung cả làng cả nước, nhà nào cũng phải theo. Mà xưa nay, phàm việc gì, chuyện gì là của chung thiên hạ, là người ta cứ phải ganh đua để giành phần hơn !... Ý thức, tâm lý xã hội lâu dần thành phong tục, tập quán... Rồi nữa, những phong tục, tập quán ấy lại áp chế ý thức và tâm lý xã hội. Chưa hết, nó tác động vào thực tại xã hội, cụ thể là đời sống hằng ngày của con người, vừa gặm nhấm vừa hối thúc...

          Bởi cái tâm lý " no ba ngày tết... ", thế nên mới có cái chuyện đáng lo nhất trong năm của nhà nhà, ấy là tích cóp cho cái tết, chuẩn bị, rậm rịch sắm tết, thậm chí ngay từ đầu năm mới. Lợn thì nhắm nhe nuôi từ sau ngay sau tết cũ , đợi đến gần tết mới rồi tính toán chung đụng ; gạo nếp và đỗ xanh thì lo từ thu hoạch vụ mười ; mật mía thì  một chạp đã đem thóc gạo đổi chác, rồi bọc kỹ bằng lá chuối khô cho vào vò kín bảo quản ; sau rằm tháng giêng kéo đến tết ông công ông táo  thì rậm rịch chuẩn bị ống giang chẻ lạt, mua sẵn lá dong , lựa củi gộc chuẩn bị cho nồi bánh chưng; rồi rà soát lại cối chày giã giò ; nhà cửa bếp núc thì quét tước mạng nhện bồ hóng, quét lại vôi tường cho sáng sủa, lau chùi bàn thờ và đánh bóng đồ tế ... Cứ thế, mỗi ngày một vài việc, lo xong được thứ nào thì thở phảo nhẹ nhõm thứ ấy, vừa bớt lo vừa âm ỉ vui. Độ từ hăm nhăm hăm bảy tết trờ đi, tết đến gần lắm rồi, vừa phải lo việc đồng áng, vừa lo việc mua sắm tết. Làng xóm rộn ràng đi chợ phiên. Từ tối hôm trước đã phải nhẩm tính xem, có thứ gì mang bán được để lấy tiền tiêu tết, lại xem còn thiếu thứ gì cần  mua, rồi thập thò hàng xóm láng giềng hò hẹn rủ rê, để sớm mai từ gà gáy đã í ới gọi nhau đi chợ tết. Người người gồng gánh, già trẻ dắt diu nhau đi trong màn sương sớm, quên đi cái giá buốt cuối năm, nhất là khi gặp phải tiết mưa phun gió bấc, là vì trong lòng đầy những mừng lo khấp khởi ... Hăm chín, ba mươi thì tết đã cận kề. Chung đụng lợn, chạy di chạy lại, mổ lợn giã giò, gói bánh chưng ...tất bật từ mờ sớm đến tận đêm khuya, thôi thì bao nhiêu là việc...Nhà nào khá giả, nền nếp còn lo dựng cây nêu ngoài sân ngõ...

          Đấy, cái tết nó vui chính là ở bầu không khí, ở cảnh quan, ở trong cái sự lo toan mừng vui chộn rộn nơi lòng người kia. Còn vui ở miếng ăn ngon, đành rằng có, song chỉ là phụ. Tết xưa, với nhà nghèo, quả là mấy ngày ấy mới có miếng giò, miếng bánh chưng mà ăn, thường ra đâu có. Nhưng cái sự ngon nơi răng miệng đầu lưỡi chỉ là nhỏ. Cái sự cay đắng ngọt bùi ẩn giấu trong sâu kín ý nghĩ của người lớn, của các bậc làm cha làm mẹ kia, lúc có miếng ăn ngon vào miệng, lại ngẫm đến bao mồ hôi cực nhọc thường ngày, làm miếng ăn nó cao hơn lên, và thêm phần ý nghĩa  !...

          Thời nay, tết đến, nhà nhà có của ăn của để, chẳng mấy lo tích cóp dành để ăn tết như ngày trước. Từ thành thị đến nông thôn, hàng hóa thượng vàng hạ cám đều có dịch vụ sẵn. Con người lại bận mải làm ăn, đến giáp tết, tiền túi rủng rỉnh, nháo nhào đi tua nửa ngày về là có đủ mọi thứ hàng tết. Cần gì phải lo tích cóp, phải tất bận cho khổ cơ chứ ?!...

          Tôi có ông anh rể, trước đây làm cán bộ huyện, đông con nhưng kinh tế dư dả và chúng đều phương trưởng cả rồi. Mấy năm trước, anh triệt để thực hiện phương châm " thương mại-dich vụ hóa " hàng tết. Ngày áp tết, tôi về quê biếu quà, thấy nhà vắng teo. Hỏi ra, bà chị gái tôi bảo, con cái thì mải làm ăn chưa về đủ, còn ông anh rể tôi thì không có việc gì lo, ra ngẩn vào ngơ chán chê, rồi chạy đâu đó hàng xóm, xem người ta mổ lợn giã giò làm vui ...

Khi đã về hưu, có thời gian rảnh rỗi, ông anh rể tôi mới thấy thèm, thấy quý, và hiểu, ẩn giấu bên trong cái việc sắm sanh tết nhất là bầu không khí ấm êm, yên bình của gia đình và xã gội. Bên ấm trà nóng lúc trời giá rét, chờ bữa cơm tất niên, anh rể vui vẻ, hào hứng bảo : " Yên chí. Ra tết, tớ lại kiếm con lợn bột giống cũ, nuôi đúng kiểu đóng đanh. Giáp tết tới, các cậu  kéo về, tớ thịt, giã giò, cháo lòng tiết canh, đánh chén một bữa cho vui "!... Đây chỉ là chuyện của một người, một nhà, song tôi tin là có vô vàn người nghĩ như vậy !...

Mới lại hay, tết vui là ở bầu không khí lo toan bận rộn, đâu phải chỉ cần đủ miếng ăn và lệ bộ. Chính cái bầu không khí lo toan, tất bật ấy, làm nên sự kết dính và sưởi ấm mỗi tấm lòng, mỗi gia đình và cả cộng đồng  xã hội !... Thế thì có loại dịch vụ nào thay thế nổi cơ chứ ?

Mới biết, sự thỏa mãn về vật chất không quá khó, song sự thỏa mãn về mặt tinh thần quả không dễ chút nào.

Giờ thì kinh tế xã hội phát triển, con người ta bận mải làm ăn quanh năm suốt tháng. Có người cho là phong tục Tết Nguyên đán là lạc hậu, là ảnh hưởng đến việc làm ăn... rồi đòi bỏ Tết ta, hoặc nhập tết Ta vào tết Tây. Nghĩ vậy, nhưng họ có đâu hiểu, nhiều triệu người lao động, quanh năm vất vả, nếu không muốn nói là đầu tắt mặt tối làm lụng kiếm sống, dịp tết nhất là để nghỉ ngơi, quây quần gia đình họ mạc, đâu chỉ là đê ăn miếng ngon, mà để hưởng một bầu không khí ấm áp tình người thân tộc, họ mạc. Tết cũng là dịp để người ta xóa bỏ, quên đi đi chuyện cũ không hay, hy vọng cho một năm mới tốt lành, và như vậy nó hàm chứa yếu tố tâm linh hòa lẫn tâm lý xã hội. Ngày tết, là thời điểm để người ra thư giãn tinh thần, là phong tục tập quán hàng ngàn đời, là văn hóa, mà đã là văn hóa thì không có cao thấp để mà so sánh, và đâu có cơ học như vậy được. Còn như, nếu xét về khía cạnh kinh tế, mỗi dịp tết, cũng là lúc kích thích tiêu dùng, kích cầu, mà qua đó, kích thích sản xuất kinh tế phát triển. Điều này, có thể thấy ở Trung Quốc, họ đã tạo được hiệu ứng tích cực về tết cổ truyền. Nếu biết tận dùng bản sắc văn hóa dân tộc trong Tết cổ truyền, ta còn thu hút được khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thưởng tết.

          Gạt đi sự nhiễu nhương, biến tướng cái tết vì những mục đích thực dụng của một số người, thiết nghĩ, tết nguyên đán cổ truyền vẫn luôn là tinh hoa của văn hóa Việt, không có gì có thể thay thế nổi !...

          Vấn đề là thái độ và cách ứng xử với Tết Nguyên đán cổ truyền từ mỗi người, mỗi nhà !...

 

 

Thiên chức

 

 

Tình cờ, tôi xem một phóng sự về thiên nhiên hoang dã trên truyền hình, nói về loài chim tu hú.  Câu thơ “ Khi con tu hú gọi bầy / Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần...” của Tố Hữu, gợi lên bao cảm giác thân thương về những mùa hè vái chín, mùa thi học trò trong ký ức một thời ...

Vậy mà,  tiếng chim gọi mùa thân thương ấy, lại là tiếng kêu của một loài chim, nếu đem ra mà phân tích từ góc độ khoa học đặc trưng loài trong sự sinh tồn của thiên nhiên hoang dã, lại rất chi là vô duyên...

Tôi dùng từ “ vô duyên “, thực ra chỉ là một cách nói theo kiểu tu từ mà thôi.  Chim tu hú sinh tồn trong thiên nhiên hoang dã như thế nào, thực ra, đã được gói gọn trong câu tục ngữ của người xưa, ấy là “ tu hú đẻ nhờ “...

Chim tu hú, có tên khoa học là Endynamis scolopacea, chuyên ăn sâu bọ, kể cả những loài sâu bọ có độc tố cao, và ăn các loại quả chín hoang dại. Nếu chỉ có vậy, hẳn nó sẽ là loài chim vô hại, thậm chí đáng yêu. Song cái đáng bàn là đặc tính “ đẻ nhờ “ của nó. Để thực hiện được việc này, chim trống phải rình mò, rồi đánh lạc hướng và canh cho con mái thực hiện hành vi đẻ nhờ. Thường chúng chọn tổ làm sẵn của các loại chim chích, chim sâu nhỏ bé và hiền lành. Con mái có thể rỉa ăn trứng của chim chích rồi đẻ trứng của nó vào đấy. Về hình thù và kích cỡ bên ngoài, trứng của chúng na ná nhau, nên chim chích bố mẹ không thể phát hiện ra được trứng lạ. Thời gian nở cũng cỡ gần nhau, thậm chí trứng tu hú còn nở trước. Khi chim tu hú non mới nở ra, nó có thể đủ sức gồng mình để hất những quả trứng chim chích chưa kịp nở, hoặc cả chim chích non nếu nở cùng, bắn tung ra khỏi tổ rơi xuống đất. Vậy là tu hú non độc chiếm sự nuôi dưỡng của chim chích bố mẹ để lớn nhanh như thổi. Trong khi đó, đôi chim chích bố mẹ cứ hằng ngày cần mẫn kiếm tìm sâu bọ tha về mớm nuôi những con tu hú non, kẻ đã giết chết những con đẻ của mình...

Câu hỏi đặt ra là, khi còn là trứng, hoặc còn là chim non mới nở, chim chích bố mẹ không phát hiện ra kẻ giả danh, song khi tu hú non lớn hơn, mọc lông cánh, có kích cỡ to lớn chim chích bố mẹ đến mấy lần, chẳng lẽ chúng lại không phát hiện ra chăng, mà lại cứ mù quáng chăm bẵm ?... Câu trả lời nhường về thuộc tính thiên nhiên, ấy là thiên chức là cha làm mẹ của phần sinh vật, giống nòi trên trái đất này...

Con người cùng vậy. Cha mẹ sinh con đẻ cái, là thiên chức, nuôi dạy con cái lớn lên là thiên chức... Và cũng có những đứa trẻ sau này lớn lên sinh hư hỏng, thành kẻ thủ ác, phạm tội bất lương... Có cha mẹ nào lại muốn con như vậy... Đã có những bậc cha mẹ, khi đứa con minh mang nặng đẻ đau, dầy công nuôi dưỡng, vun đắp, sau này trở thành kẻ bất lương, thủ ác.  đã đau đớn mà than rằng “ biết thế này, tao bóp chết mày từ trong trứng, từ lúc còn đỏ hỏn “...

Là than vậy thôi, khi người ta bất lực, không thể làm gì khác, chứ nếu cho làm lại, tin rằng, sẽ chẳng một ai đang tay...

Là bởi thiên chức, hay niềm hy vọng vào sự tốt lành chăng ?...

 

 

 

 

Thời gian không trở lại

 

Không hiểu sao, tôi thường xúc động mỗi khi nghe câu hát từ bài hát nền của bộ phim truyền hình dài kỳ “Phía trước là bầu trời”: “ Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở lại…”.

Bộ phim ấy làm về đề tài sinh viên, được ra mắt công chúng cách đây cũng khá lâu rồi. Tôi đã xem một cách chăm chú và thích thú với các nhân vật và nhiều tình tiết của bộ phim… Tôi yêu thích , không hẳn vì sự thành công của bộ phim đó, hay sự xuất sắc của một vài vai diễn, nhân vật … mà vì ở đó, tác giả đã gửi gắm khát khao được sống, làm việc, yêu thương, được khẳng định mình, được cống hiến tuổi trẻ, sức sáng tạo… và cả được hưởng thụ với ý nghĩa đích thực của cuộc đời.

          Tôi thích bài hát nền với ca từ và giai điệu giản dị, trong sáng, khát khao, da diết và có gì đó tiếc nuối …

          Tôi thích nó, còn đơn giản bởi, tôi đã thực sự cảm nhận được cái mất mát không tài nào lấy lại được của quãng thời gian đã qua trong cuộc đời mình và những người thân mà tôi yêu quý…

          Ước muốn cho thời gian trở lại … Không đâu, các bạn của tôi ơi, thời gian không trở lại…

          Tôi nhớ đến sự mê dụ trong văn chương của nhà văn Marcel Proust, thiên tùy bút "Xứ sở", khúc ngẫu hứng của tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã mất"( Retrouvé le temp ), mà ở đó, tác giả bộc lộ khát vọng sống và sự tiếc nuối về thời gian đã mất …

          Tôi lại nhớ đến một câu thơ của người bạn văn chương Ngô Tự Lập – “ Gió đã mang đi ngày hôm qua “ – bài thơ ấy lấy cảm hứng từ bài hát nổi tiếng Yesterday…

          Tôi có người bạn từ thưở học trò là Việt An, hiện anh sinh sống tại Sài Gòn. Tôi từng chia sẻ và đồng cảm với anh bạn Việt An, khi anh ghi cảm nhận trong bài viết trên blog Ngẫm & Viết của tôi : “ Với tôi, tôi vẫn muốn thời gian trở lại. Trở lại không phải cho tôi, mà cho cha mẹ tôi. Tôi ước gì cha mẹ tôi trở lại tuổi 60, để tôi có thể phá bỏ căn nhà cũ, xây căn nhà mới nhỏ xinh và đầy đủ tiện nghi dành cho cha mẹ”.

          Tôi với Việt An chơi với nhau từ tuổi học trò. Khi là sinh viên, tôi cùng với người bạn đã đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng lên tận Phủ Lỗ-Núi Đôi thăm Việt An vào một ngày chủ nhật. Việt An và bạn bè cùng lớp anh, khi đó, đã báo thêm mấy suất cơm nhà ăn, và còn dành tất cả những thứ gì ăn được để tiếp đãi chúng tôi một bữa cơm đạm bạc thời nghèo khó. Tôi còn nhớ như in bữa cơm quây quần ấy, trong căn phòng chật chội của ký túc xá tranh tre nứa lá trên vùng đất sỏi khô cằn miền trung du, đám sinh viên vừa ăn, vừa trò chuyện thân mật, trêu đùa nhau, bốc phét, kể chuyện yêu đương và đọc thơ  ( thơ người, thơ mình , nói tóm lại là tất cả những gì mà mình thuộc )… Rồi đó, là những năm lập thân, lập nghiệp khổ ải và khao khát. Mấy đứa chúng tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa vào bộ đồi, đi chiến trường Campuchia và Trường Sa, Việt An cũng vào bộ đội và anh công tác ngay trong sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi cầm tấm bằng kỹ sư canh nông và có đến 7 năm trời lang bạt khắp nẻo đồng bằng Tây Nam Bộ; một người bạn nữa thì làm báo, cũng lang thang đây đó… Những lần từ miền Tây Nam Bộ đi phép ra Bắc, tôi hay ghé thăm Việt An. Lại báo cơm nhà bếp đơn vị, nhưng lúc ấy, dù nghèo nhưng Việt An đã có đồng ra đồng vào, đã có thể chạy ù ra quán, mua thêm chút thức ăn tươi và xị đế , nhâm nhi với nhau để có cớ mà ngẫu hứng đọc thơ… Càng nghèo khó, gian khổ truân chuyên thì càng yêu thơ… Cũng là bởi, chỉ có thơ, ngoài thơ ra, không có gì khác, và mình biết lấy gì ra, để xoa dịu, an ủi lòng mình đây, để bộc lộ khao khát, để đau đáu văn chương và để tiếc nuối cơ chứ ? !... Cũng vì thiếu thốn, nên ngày ấy, Việt An đâu có thực hiện được mong muốn xây nhà mới cho cha mẹ anh, phải vậy không Việt An ?

          Tôi lại nhớ, những ngày sống lầm lụi giữa đồng bằng bạt ngàn và cô quạnh nơi vùng đất biên giới Bảy Núi, An Giang, đêm đêm nghe tiếng muỗi bay và đâu đó tiếng vọng cổ não nề của khách thương hồ trên dòng kinh Tám Ngàn về miệt Hà Tiên … Lại cũng làm thơ. Thơ cho mình và thơ cho người yêu trong tâm tưởng, vô vọng mãi xứ Bắc, Hà thành …

          Tôi lại nhớ, những ngày chạy đôn đáo xin việc, chuyển công tác, đêm về ăn đậu ngủ nhờ nơi gia đình người bạn, trong căn phòng có 9 mét vuông, như chuồng chim trên nóc chung cư  P16 Thuỵ Khuê, Hà Nội …

          Tôi nhớ lắm và thấm thía ánh mắt buồn phiền của mẹ tôi, khi tôi vẫn cứ lang bạt đây đó, mãi chưa ổn định công việc và lập gia đình để mẹ yên lòng với tuổi già !...

          Vâng, và lẽ dĩ nhiên, tôi nhớ… những bóng hồng, những người phụ nữ đi ngang qua, lướt nhanh qua tuổi trẻ của mình…

          Và nữa … Nữa …Tất cả còn trong tôi, chỉ có thời gian là mất đi vĩnh viễn mà thôi…

          Ơi Việt An và những người bạn thuở sinh viên của tôi, “ nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở lại, bên nhau cháy bỏng …”. Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại .

           Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, " Gió đã mang đi ngày hôm qua "?!...

 

 

 

Về miền hoa ban trắng

 

Đi Tây Bắc, lần nào cũng vậy, dù nhàn tản thăm thú hay vội vàng công việc, đều có cái thú riêng của nó. Thường là chuyến đi vào dịp cuối năm, hay bị vội vàng hơn những chuyến đầu xuân.

Nhớ là, có lần, đã giáp tết, công việc bề bộn, cứ bị cuốn theo cái sự gấp gáp, náo nức của không khí tết, nên ngoài việc ngó nghiêng tìm mua lấy một cành đào rừng, thì chẳng còn thời gian đâu mà thăm thú... Lần vào dầu xuân, đã chủ định, rảnh rang hơn. Chẳng gì thì cũng vừa mới hết tháng ăn chơi, vả lại mùa xuân hãy đang còn kia mà. Nhớ dạo thu năm ngoái, anh bạn đồng nghiệp, là chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Điện Biên nhắn nhe bằng lời mời hấp dẫn  : “ Mong được đón anh ở Điện Biên, nhưng hẹn anh vào mùa ban xuân tới “. Vậy mà mùa ban đến, định theo lời mới mà lên, thì anh chàng lại bay vào Nam, chờ theo tàu Hải quân ra thăm Trường Sa. Thôi kệ, mùa ban đâu có đợi người . Thích thì cứ đi thôi.

Đúng hôm lên đường thì một đợt gió mùa mạnh tràn về. Suốt dọc đường, từ Hòa Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Hát Lót lên Sơn La, mưa rét tầm tã, rả rích một điệu ru rín buồn buồn của trời đất, trong khi ấy, thì cập nhật thông tin toàn là tuyết rơi dày gây khó khăn cho công tác cứu hộ động đất, sóng thần ; chuyện phun nước làm mát lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản ; tin chuẩn bị đánh nhau to ở Libya... Lởn vởn trong đầu, ý nghĩ về một đợt lũ tiểu mãn có thể giảm nguy cơ cháy rừng, và cung cấp một lượng nước đáng kể cho cây cối và tích thêm nước cho thủy điện, khiến cho lòng người có cái để mà vui ...Những cung đường Tây Bắc, mấy năm qua đi lại, đã thành quen thuộc, khúc nào quanh co nguy hiểm, mùa nào hay sương mù dày đặc, chỗ nào có bản Mông, bản Thái, mùa nào có hoa gì nở ... Ấy vậy, trời mưa rét, cũng mất hết cả phương hướng. Lúc nghỉ chân tìm chén trà nóng ở gần thị trấn nông trường Mộc Châu, lạnh run người, thì ra nhiệt độ xuống tới 4 độ C.  Xe cứ lầm lụi trong mưa, chốc chốc một cây gạo hoa trổ đỏ ối cả cây trơ vơ bên sườn dốc hiện ra trong màn mưa. Xe đông người, vậy mà một cảm giác cô đơn len lén dâng lên.. Mấy ngày, ngoài sự hứng khởi trong  thực thi công việc, chút thăng hoa xen lẫn cảm giác trống rỗng khi nghiêng ngả trong các cuộc rượu tại bản Thái, vẫn còn sự chờ đợi về màu hoa ban trắng rừng núi Tây Bắc. Lại  Thuận Châu,  rồi vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo. Đã thấy lác đác những cây ban hoa trắng, nhưng ủ rũ trong mưa rét và sương giá. Cả thành phố Điện Biên chìm trong mưa rét. Đêm, nằm bẹp trong phòng kín Nhà khách tỉnh, nghe mưa rơi đều đều ngoài trời, loáng nhoáng màn hình ti vi là những cảnh tuyết dày ở Sa pa cùng các gương mặt hớn hở của người lần đầu thấy tuyết, cảnh người dân Nhật Bản đang vật lộn với giá rét tuyết phủ kín trong đống đổ nát khổng lồ của động đất  và sóng thần. Có gì đó hơi bất nhẫn...

Ngủ vùi trong hơi men và những xúc cảm đan xen, chộn rộn. Lại mơ màng về một màu hoa ban trắng ...

Vâng, đấy là cảm xúc về một miền hoa ban trắng của những năm trước, nó đã thuộc về ký ức, dù chưa xa. Đến mùa ban này, tôi cầm trong tay cái giấy mời của Ban tổ chúc Lễ hội hoa ban Điện Biên. Có gì đó háo hức. Ngay như Sơn La, mặc dù không phải là xứ sở của hoa ban, thì ở thành phố đó đây, cũng đã bắt gặp những băng-rôn quảng bá về Lễ hội hoa ban, và ngẫu hứng thay, tôi đã chộp được mấy bức ảnh hoa ban khá ưng ý từ vài ba cây ban cô lẻ mình đầy hoa trắng tinh trong nắng chiều xuân óng ả. Lại vượt đòe Pha Đin, giờ đã hạ cốt thấp hơn nhiều so với tuyến đường trên cao xưa kia “ ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” của những chiến binh Tây Tiến. Khi băng ngang quê hương của người anh hùng thiếu niên Vừ A Dính thời chống Pháp, hoa ban ven đường, và trên những vạt đồi đã nhiều hơn. Càng gần thành phố Điện Biên, thủ phủ của miền hoa ban trắng, dọc đường vào, bắt gặp những cây ban mới trồng theo hàng lối quy củ. Hẳn là địa phương chủ động phát triển loài cây hoa này nhằm củng cố thương hiệu miền hoa ban cho mình nhằm phục vụ cho mục đích du lịch sau này.

Thành phố Điện Biên, đang xuân mà nóng như mùa hè. Cảm thấy hơi vị khó chịu đặc trưng của gió lào trong không khí. Tuy không ngập trong màu trắng hoa ban thì đó đây, trên đường phố, các điểm tham quan như Đồi A1, Nghĩa trang Điện Biên, khu di tích Hầm Đơ-cát, và bờ sông, khe suối, màu ban trắng đã dày hơn. Ai đó, lý giải cho việc đúng vào dịp lễ hội hoa ban mà ban nở lại không nhiều, rằng trước đó mấy ngày, một trận giông lốc mưa lớn khi gió mùa đông bắc tràn về đã làm phàn lớn số cây ban nở hoa bị rụng hết, rằng sau trận giông lốc, đường phố ngõ xóm đầy xác hoa và canh cây gãy. Nghĩ mà xót mà thương cho lễ hội thưa vắng sắc trắng tinh khôi của hoa ban. Song rồi, bù lại, đêm lễ hội, các tiết mục dân ca, dân vũ được trình diến khá kỳ công và đặc sắc văn hóa phong tục vùng miền, với kết thúc là vòng xòe lớn kết nối niềm vui của con người từ mọi vùng miền...

Chẳng hề hấn gì, trong tôi, những câu thơ lấp ló:

... Ban đang mùa mở hội

Ta lại tìm xa xôi,

ước một bàu tĩnh lặng

chỉ còn màu hoa thôi...

 

 

 

Tủm tỉm Lê Đình Cánh.

 

1.    Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát.

Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt Nam thời nay, mà tôi xin được trải ra, để mời mấy nhà thơ vào ngồi, mỗi người một góc, mà ở đó có nhà thơ Lê Đình Cánh.

          Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.

          Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ, mà cụ thể lại là Thơ lục bát. 

          Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc, trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất lành do NXB Thanh Niên ấn hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).

          Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“ (bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt Nam hiện đại...

          Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca Việt Nam hiện đại, phải cần nhiều “đinh” hơn thế. Chẳng qua, mấy bài thơ,  câu thơ nọ, là dấu ấn đầu tiên khiến người ta bắt đầu nhận diện ra riêng một Lê Đình Cánh, trong số rất nhiều nhà thơ và người làm thơ ở xứ ta mà thôi.

          Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ lục bát...

          Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc, song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc chở đầy ước mong”.

Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ, lập ý rõ ràng

Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng, têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.

Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu, câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...

          Vậy là, khi mang những nhận định trên mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông Chùy, Cõi xưa,  Bến quê, Trở lại Ba Lòng, Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...

          Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ, dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.

Xin được viện dẫn, như :

         

Mải lo cơm đủ áo lành

Còn đâu lúc rỗi để thành vọng phu

( Gió đất )

Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già

( Em đi )

Tình yêu như thể chơi đề
           Đợi con độc đắc lại về trắng tay...

... Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

( Chợ tình )

Chốn quê vẹo cột vênh kèo

Ốc cam phận ốc lại đèo kiếp rêu.

( Chợ người )

Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

Xế tà tháp lặn vào mây

Vầng trăng chính sử hao gày hoàng hôn

( Lời xưa )

Sau già là cõi xa xăm

Nén hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.

( Hỏi đất )

Giếng làng mưa bão vẫn trong

Chợ quê rớt già vẫn đong đếm đầy

( Thú quê )

Đao đình cong nỗi phế hưng

Một thời lá rụng dửng dưng sân chùa

( Phận rùa )

Tuổi già như thể nắng hanh

Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều

( Về hưu )

Ơi người áo mũ cân đai

Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành

( Tiểu sành )

Nắm tay củ ấu vẫn tròn

Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi

( Chợ Mơ )

Giả vờ có ngủ được đâu

Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi

( Ngủ nhờ )

Ngày xưa xe lộn về Bần

Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu

( Về Phố Hiến )

Nẻo đường bồ bịch cong cong

Vừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...

( Nẻo đường cong cong )

Bắt chồng em có chọn anh

Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu

Như là đồng đất chọn trâu

Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày

Chọn anh như cối chọn chày

Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô

( Bắt chồng )

Thân cò trở lại nghề nông

Rời cây súng biết tay không có gì

Mấy đồng hưu trí thấm chi

Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người

( Anh lại đi cày )

Nứa mai thưng hở vách lều

Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy

Mưa bay như thể sương dầy

Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay

( Gặp ở Mường Tè )...

          Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...

Chẳng hạn, như:

Thế cờ nghiêng về đâu

Pháo mã thành vô dụng

Sĩ tượng thành thất sủng

Tốt đen cười sang sông

( Nắng Hàm Tân )

Ai biết được ma nào ăn cỗ

Ai dại gì công bố chuyện đi đêm

( Vợ Ba )

Gặp bạn tình lòng đã thấy no

Rượu chưa nhắp lời đà có lửa

Trưa đứng nắng bồn chồn vó ngựa

Chợ lim rim một nửa sang chiều.

( Chợ Bắc Hà )

Đường một chiều cứ thế tôi đi

Tôi biết dại làm người nhụt chí

Cái đáng vứt lại cất làm của quý

Cái phải chôn đi lại để trưng bày

( Đường Bà Triệu )

Đâu đá lát lên đền Tam Tổng

Lạnh khói hương thông thốc giữa trời

Hai hộ pháp vẫn muôn đời gác cổng

Ông Ác cười! Ông Thiện toát mồ hôi...

... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo

Thời gian như nước ngầm băng hoại

Trái tim tôi càng sống càng nghèo

( Quê ngoại )

Mùa khô Đồng Văn trơ gió

Gió khê lời đá thở dài

Gió như tiền vào nhà khó

Một đời gió thổi trần ai

( Mùa khô Đồng Văn )

 v.v..

Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này. Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên, Phố Làng v.v...:

Ví như :

Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh

Để êm đỡ trẻ. Để anh đỡ già

( Hát Karaoke )

Phố làng xóa sổ nông dân

Quán quê lai ghép công nhân nửa mùa

Lượn lờ chào bán gọi mua

Dật dờ chai cốc được thua với đề

( Phố Làng )

Mảnh bằng bán tận châu Phi

Tiền lương đếm lại nhiều khi mủi lòng

Ước mơ xé lẻ từng đồng

Thương con liệt sĩ lấy chồng thương binh,

Vết thương như kẻ vô tình

Tấy lên những lúc gia đình ăn vay.

( Vàng xám ) v.v...

Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông, thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ lục bát cổ truyền, riêng có của xứ ta !...

Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...

 

         2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.

Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ, đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015, con số đã là 7.

Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật, nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...

Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa, uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...

Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh. Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông  từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến chủ thành khách, còn mình từ khách thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia tăng hàm lượng văn chương cho bài biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút chuyên ký sự khác cùng thời...

Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết dạng này, khá thành công, như: Hoa sen, Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...

Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...

Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông, quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này, tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...

Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể loại bút ký, ký sự văn học !...

 

3.    Tủm tỉm Lê Đình Cánh.    

Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu, nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV), tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở 58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phảI hàng năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng). Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân độiTạp chí Văn học (Viện Văn học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên, thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát sóng, để sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.

          Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên, đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học thiếu nhi nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Và nhờ tham gia Trại viết đó, tôi được gặp gỡ, làm quen với một số cây bút trong lĩnh vực này như Thai Sắc, Thái Vĩnh Linh, Hoài Khánh, Lê Minh Hoài và Phong Điệp khi đó còn rất trẻ... Hơn thế, tôi còn được tiếp xúc, được nghe nói chuyện, và trao đổi với các nhà văn mà tôi vốn kính nể là Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Phạm Hổ, v.v... Tôi đã viết về chuyện này trong chân dung văn học “Phạm Hổ, người thắp lửa”, nên không nhắc lại ở đây. Thành thật, tất cả những gì mà nhà thơ Lê Đình Cánh từng ưu ái dành cho tôi, ngày ấy, bây giờ, tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về hết thẩy!...

          Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông, trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi, việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ... Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân gian.  Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều, chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người được đồng hóa, gán với  nhân vật Trạng Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt, Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính thuyết phục cao. Vì vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng khư khướu nhưng viết ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...

          Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ) Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại một thời gắn với Đường Trường Sơn của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa miệng thì vẫn đấy....

          Sau những xã giao thông thường, bập vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa, vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm, được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác từ thời là người của nhà Đài (VOV), cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống chung với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.

Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là, mấy năm gần đây, dần tuổi cao bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với gia đình, với cuộc đời này !...

Ra về, tôi tự hỏi, mình sẽ viết về ông sao đây ?...

 

 

Nhận xét