Lưu trữ tư liệu,
@@@
Thời gian không trở lại,
bút
ký - ký sự - tản văn
Bạn học, một thuở,...
Thứ bảy, cuối tuần, đầu tháng mười một. Tiết cuối thu
đầu đông thật đẹp, với nắng vàng, gió nhẹ, se se lạnh... Tiết trời tuyệt vời
như vậy, thật lý tưởng cho các cuộc tụ bạ, hội họp bạn bè hoặc du hý đâu đó.
Anh bạn cùng ngõ lại là bạn học cũ với tôi, vui vẻ thông báo cuộc họp khóa học
sinh cấp ba xưa. Vậy mà tôi không tham gia được, đơn giản bởi cơ quan tôi có
một hội thảo quan trọng, trùng lịch, mà tôi lại giữ một vai trò không thể vắng
mặt. Tiếc hùi hụi song đành chịu...
Ngày ấy, tôi nhớ như in, vào đầu thu
năm 1972, bắt đầu một năm học mới. Vùng quê tôi, Văn Lâm, Hưng Yên, chỉ cách Hà
Nội chừng vài chục cây số, vừa qua trận lụt lịch sử do vỡ đê sông Hồng mùa mưa
bão năm 1971 nên nghèo khó xác xơ. Cùng thời điểm, cuộc chiến tranh chống phá
hoại bằng không quân của Mỹ Ngụy ra miền Bắc đang vào độ quyết liệt. Năm học
mới đầu cấp 3 của chúng tôi, trong bối cảnh ấy, thật khó có gì so sánh bằng. Do
có thành tích học tập tốt, đặc biệt năm học cuối cấp và kết quả kỳ thi tốt
nghiệp cấp 2 ( như THCS bây giờ ),
tôi được tuyển thẳng vào cấp 3 ( THPT hệ
10/10 ) mà không phải qua kỳ thi tuyển như phần lớn bạn bè khác. Trường cấp
3 Văn Lâm, là trường cấp 3 duy nhất của huyện đóng tại thị trấn Như Quỳnh, bên
trục quốc lộ số 5, đường giao thông huyết mạch nối Hà Nội với cảng Hải Phòng,
nên phải sơ tán về làng Đoan Khê, cùng huyện và cách trường cũ chừng dăm cây
số. Nhà trường đành phải dựng vội chục phòng học tạm tranh tre nứa lá nơi
khoảnh đất đầu thôn được địa phương cho mượn. cho dù thế thì vật liệu cũng đâu
có sẵn, nên đành huy động cả thầy và trò đóng góp. Thế là tất cả học sinh của
trường, lứa học sinh đầu cấp chúng tôi, khi làm thủ tục nhập học cũng phải đóng
góp mỗi người một cây tre và một bó rơm rạ để làm trường. Với nguyên liệu như
vậy, ở quê không thiếu, song cái khó là đám học trò còi cọc chúng tôi làm sao
để mang những thứ đó từ nhà đến trường qua quãng đường đi dăm bảy cây số khi
không có một phương tiện nào khả dĩ. Riêng tôi, sinh ra ở phố, do chiến tranh
đến cấp 1 về sống ở quê, không biết việc đồng áng, chưa làm nặng bao giờ, như
cách nói của người xưa là bạch diện thư
sinh, làm sao mang nổi những thứ cồng kềnh ấy đến trường được đây? May mà,
lũ oắt chúng tôi cũng nghĩ ra một cách, ấy là vận chuyển thủy, lợi dụng con
mương cái chảy ngang điểm trường và cắt
qua làng xã quê tôi. Dăm đứa chúng tôi hè nhau buộc những cây tre ấy lại với
nhau làm thành chiếc bè nhỏ, để các bó rơm rạ lên chiếc bè tự tạo ấy, dùng dây
thừng buộc chia hai bên, rồi phân đôi người đi hai bên bờ mương kéo bè đi. Cách
thức thật tuyệt vời, khoa học, đơn giản và dễ dàng. Khốn nỗi, hôm ấy trời mưa
cả ngày, tiết mưa ngâu muộn, không to nhưng tầm tã. Đám oắt chúng tôi quang áo
mưa, sột soạt, hì hục kéo bè, chân đất đạp cỏ ướt bờ mương mà kéo. Vất vả nhất
là khi vận chuyển bộ từng ấy thứ nửa cây số từ bờ mương đến điểm trường. Nhưng
rồi cũng qua, nộp vật liệu xong, đi bộ về nhà, trời đã sang chiều, cả bọn đói
và ngấm lạnh đến lả cả người. Trong mấy dứa chúng tôi hôm ấy, không may có Q.
bị cảm lạnh. Bình thường Q. là đứa nhanh nhẹn và mạnh bạo, tuy không lớn xác
nhưng rắn rỏi, hiếu động, hay nghĩ ra nhiều chiêu trò nghịch ngợm. Những tưởng
cảm lạnh xoàng xoàng vậy thôi, không ngờ hàn nhiễm vào trong, bệnh ngày một nặng,
dây dưa mãi không khỏi, ngày một ngày hai sinh biến chứng, gia đình phải đưa ra
bệnh viên Bạch Mai chữa chạy. Chưa một ngày nào đi học, Q. nằm viện ngoài Hà
Nội và dính đúng vào những ngày Điện Biên Phủ trên không, Mỹ điên cuồng ném bom vào
Hà Nội, bênh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên và nhiều trọng điểm khác của thủ đô
bị dội bom thành đổ nát. Q. không dính gì bom đạn, nhưng khi xuất viện thì
thành phê nhân, người quẳt lại, gần như mất thị lực, phải bỏ học hẳn. Sau đó,
Q. sống lay lắt, đầu óc vẫn minh mẫn, nhưng cơ thể còi cọc, không hề phát
triển, mãi như một cậu học sinh cấp 2, cứ vậy
đến vài chục năm sau. Đấy là một câu chuyện buồn...
Trở
lại chuyện năm học ấy, khai giảng muộn, trường lớp mái rạ, khung tre, vách đất,
nhưng tinh thần học hành của thầy trò thì hăng hái lắm. Nhưng chỉ học được già
tháng thì phải nghỉ học để tránh bom, chiến dịch oanh tạc khốc liệt nhất của
không quân Mỹ vào Hà Nội và miền Bắc trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Sau
này, cụm từ “ Hà Nội 12 ngày đêm “ đã
trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất của quân dân Hà Nội chống trả cuộc
tập kích bằng máy bay chiến lược B-52 của quân đội Mỹ, đồng thời cũng là tên
một bộ phim tài liệu của Đạo diễn điện ảnh-Nghệ sĩ nhân dân Bùi Đình Hạc phản
ánh hiện thực trận chiến oanh liệt này. Chính 12 ngày đêm ác liệt ấy ( từ ngày 18 đến ngày 30 tháng 12 năm 1972
), với những tổn thất nặng nề về mọi phương diện, chính phủ Mỹ đã buộc phải ký
Hiệp định Paris về Việt Nam, chấm dứt chiến tranh ở miền Bắc. Vậy là, những cô cậu học sinh đầu cấp 3 chúng
tôi năm ấy, đã cùng mọi người đi qua cuộc chiến tranh...
Sau
những ngày tháng Chạp năm 1972 lịch sử ấy, học sinh đi học lại. Tuy không còn
phải lo máy bay ném bom, nhưng một nửa đất nước vẫn còn chiến tranh, nên tinh
thần học tập để thành tài, sau này cống hiến cho sự nghiệp giải phóng thống
nhất đất nước và xây dựng tổ quốc luôn ngự trong tâm trí chúng tôi. Trường và
lớp tôi, được đón những bạn học sinh từ Hà Nội sơn tán về học cùng như Tâm,
Tiến, Ngọc... đáy lên tinh thần thi đua học tập tốt. Cùng đó, một số thầy cô
giáo theo chân học sinh sơ tán từ các trường của Hà Nội cũng về đây giảng dạy.
Tôi nhớ lắm những thầy cô dạy giỏi ngày ấy, như cô Hòa dạy Vật lý, thầy Đức dạy
Toán, thầy Lê Thường dạy văn ... Trong số đó, thầy Lê Thường đạy văn đã ảnh hưởng
sâu sắc đến tôi để sau này tôi theo nghiệp báo chí, văn chương...
Năm
học gian khó nhất trong đời học sinh phổ thông của tôi ( niên khóa 1972-1973 )
đã đi qua và để lại những dấu ấn không thể phai mờ. Năm học sau, ngôi trường
tạm ấy không về lại cơ sở cũ mà di dời đến một địa mới và được xây dựng kiên cố
đến tận nay. Tôi chuyển sang học trường cấp 3 Bần Yên Nhân, xa thầy cô và bạn
bè cũ. Một số bạn học cùng lớp và nhiều thày cô giáo về lại Hà Nội...
Sau
này phương trưởng, với đám bạn học cùng quê thì mỗi dịp lễ tết về quê thi
thoảng gặp nhau. Các bạn ở Hà Nội sơ tán về ngày ấy thì hầu như mất dấu. Mươi
năm trở lại đây, thường cứ vào dịp ngày Hiến chương nhà giáo ( 20.11 ), các bạn
cùng lớp, cùng khóa ngày ấy lại tổ chức gặp mặt nhau, tuy không đều nhưng đây
là cơ hội để chúng tôi gặp gỡ nhau, cùng nhớ về một thuở... Chúng tôi hỏi thăm, lần mò tìm được một số thấy giáo
cũ ngày ấy như thầy Đức, thầy Lê Thường, mời các thầy cùng về lại trường cũ
chung vui. Mùa thu này, đã qua 40 năm ngày tốt nghiệp phổ thông, mọi người lại
hẹn hò nhau. Vậy mà mình lỡ mất. Hẳn là còn có nhiều bạn bè học
sinh ngày ấy, vì lý do nào đó, cũng vắng mặt trong dịp vui
trùng phùng sau gần nửa thế kỷ ?...
Tự
lòng mình an ủi, có hề hấn chi đâu, khi chúng mình luôn nhớ và nghĩ tốt về nhau,
phải vậy không, các bạn học của tôi một thuở ?!...
Bâng lâng dạo bước vườn Bùi.
Không hiểu sao, sau hơn ba mươi năm
làm báo chuyên nghiệp, thêm nữa, tự thân học đòi theo nghiệp văn chương thơ
phú, vậy mà cho đến tận bây giờ, tôi mới tìm về thăm Vườn Bùi, một địa chỉ văn chương nổi tiếng xứ Bắc ?...
Đúng ra, phải gọi là Từ đường của Tam
nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Tiếng tăm về Vườn
Bùi, tôi đã nghe từ lâu. Lại cũng đã từng đọc một số bài viết, mà ở đó, có
lý giải việc tại sao lại gọi từ đường này là Vườn Bùi, kể cả việc tranh luận cắt nghĩa bức đại tự đắp nổi trên
cổng vào Vườn Bùi là Môn Tử Môn. Rằng, cụ Nguyễn Khuyến vốn
gốc gác Can Lộc (Hà Tĩnh), di cư ra
Yên Đổ (Bình Lục, Hà Nam) trước đó cả
trăm năm, và người xứ Nghệ -Tĩnh gọi cây vối là Bùi, nên cụ Nguyễn Khuyến lấy
gốc vối già trong vườn nhà mình, gọi tên Vườn
Bùi, nhằm nhắc nhở con cháu sau này không được quên gốc rễ mình từ đâu mà
ra; Nữa là, việc cắt nghĩa bức đại tự trên cổng vào Vườn Bùi, rằng đó là nhằm
ám chỉ và có ý nhắc nhở các học trò, từng học chữ nghĩa của Thày (ở đây là Nguyễn Khuyến), sau này, nếu có
đỗ đạt, làm quan to, làm nên công trạng gì thì cũng không được quên công ơn
Thày dạy dỗ và khi vào viếng thăm từ đường của Thày thì cũng phải xuống ngựa,
bỏ võng lọng, chui cổng mà vào... Đại loại thâm ý là như vậy.
Thực lòng, đích chuyến đi này của tôi
và bạn đồng nghiệp-nhà văn Nguyễn Trọng Huân là miền Tây xứ Thanh. Khi khởi
hành, mấy cậu nhà báo trẻ tháp từng mới cho biết, rằng trên đường vào, sẽ ghé
Bình Lục thăm tử đường nhà cụ Nguyễn Khuyến. Nghe vậy, lòng mừng khấp khởi. Từ
Phủ Lý, một người quen, làm công tác bảo tồn di tích, di sản văn hóa của tỉnh
Hà
Bắt gặp cổng làng Vị Hạ, rồi đình làng
cổ mới được tu bổ, cho thấy công việc bảo tồn bảo tàng di sản văn hóa ở đây khá
bài bản. Đường làng, ngõ gạch quanh co dẫn lối vào, với tấm biển chỉ nhà thờ
dòng họ Nguyễn Tông. Đến cổng vào từ
đường, thấy một tốp thợ đang chuẩn bị gạch, cát, sỏi, hình như đang có việc tu
sửa từ đường thì phải. Theo cổng Môn Tử
Môn mà vào, lại ngẫm nghĩ về thâm ý nhắc nhở học trò của cụ Nguyễn Khuyến
xưa. Vì được hẹn trước, ông Nguyễn Thanh Tùng, người hiện đang trông coi Vườn
Bùi, đón tiếp và hướng dẫn chúng tôi tham quan. Ông tự giới thiệu, rằng mình là
hậu duệ đời thứ 5 của cụ Tam nguyên Yên Đổ. Khi thuyết minh, ông Tùng tỏ ra
thông thạo và nói khá nhanh, nhưng không quên nhắc các nhà báo chúng tôi, rằng
việc này việc kia, chỗ này chỗ nọ bị hiểu nhầm, viết nhầm, nên chúng tôi cần
biết và viết cho đúng, đặng cải chính việc bị hiểu sai, viết sai...
Theo chân ông Tùng, nghe ông nói, mà
người tôi cứ bâng lâng, mỗi ngắm nhìn nơi này, chỗ nọ, lòng tự hỏi và tưởng
tượng ra hình bóng cụ lưu dấu nơi đây từ hơn trăm năm trước...
Truyền thống khoa cử của dòng họ cụ Tam nguyên trên đất Yên Đổ là bắt nguồn
từ cụ Nguyễn Tông Mại. Trong thuyết minh của mình, ông Nguyễn Thanh Tùng hay
nhắc đến cụ tổ khời nghiệp khoa cử của dòng họ mình là Nguyễn Mại. Tôi xin nhấn
mạnh ở đây, người đó tên húy đầy đủ là Nguyễn Tông Mại. Sách Các
nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 của nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ, Nguyễn
Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi (NXB Văn học,
2006) có chép về khoa thi Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736), đại ý là:
Nguyễn Tông Mại, sinh năm 1708, không rõ năm mất, quê Yên Đổ, Bình Lục, Hà
Nam, 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) , đời Lê Ý Tông, làm
quan đến Hàn lâm viện Đãi chế. Sở dĩ phải nói cụ thể như vậy, để phân biệt
Nguyễn Tông Mại (cũng được gọi là Nguyễn
Mại) với một Nguyễn Mại khác có thật trong lịch sử ( Ấy là: Nguyễn Mại, sinh năm 1655, không rõ năm mất,
quê Ninh Xá, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Hoàng giáp năm 1691, văn hay võ giỏi, từng
làm Đốc trấn Cao Bằng, rồi Trấn thủ Sơn Tây, khi mất được phong Lễ Bộ Thượng
thư, tước Quận công... –theo sách Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam do
Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Quýnh chủ biên).
Trong hậu cung Từ đường, có tượng cụ
Nguyễn Khuyến tay cầm gậy trúc và được giải thích rằng, đương thời, Nguyễn
Hoan, con trai cụ Nguyễn Khuyến, khi đi thi cử, dọc đường gặp một ông cụ tặng
cho cây gậy chống và nói rằng, biết Nguyễn Hoan có cha già nên bảo ông nhận về
cho cha mình chống. Chuyện kể là giai thoại và ít nhiều mang yếu tố huyền bí.
Về Nguyễn Hoan, con trai cụ Nguyễn Khuyến cùng là người khoa bảng, sách Các
nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 có ghi chép việc đỗ đạt và làm quan
của Nguyễn Hoan, như sau: “ Nguyễn Hoan,
1858- ?, người xã Yên Đổ, huyện Bình Lục... nay là thôn Vị Hạ, xã Trung Lương,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Con Nguyễn Khuyến, cháu huyền tôn Nguyễn Mại. Sinh
năm Mậu Ngọ, cử nhân khoa Giáp Thân (1884), 32 tuổi đỗ Phó bảng khoa Kỷ Sửu
Thành Thái 1 (1889). Tri phủ Lý Nhân, sau cáo quan về nghỉ “.
Như vậy, truyền thống khoa cử của dòng
họ Nguyễn Tông trên đất Yên Đổ, Bình Lục kéo dài gần một trăm năn mươi năm, bắt
đầu từ Nguyễn Tông Mại (1736) đến Nguyễn Hoan (1889). Nguyễn Khuyến là khúc
giữa, và đỗ đạt cao nhất.
Tha thẩn theo chân ông Nguyễn Thanh
Tùng, biết thêm, hiểu thêm đôi câu đối do nhà khoa bảng yêu nước Nguyễn Thượng
Hiền tặng cụ Nguyến Khuyến, rồi hàm ý sâu xa những đôi câu đối chính tay cụ Tam
Nguyến thủ bút nơi hậu đường; rồi nữa là tấm biển mà vua Tự Đức ban tặng “Ân tứ vinh quy”, “Nhị giáp tiến sĩ”, và chiếc bình hương thờ cúng... Vườn ngoài, ao
thu với kết cấu hai phần, ao dẫn (hình
bút lông), ao chính (hình nghiên mực)
theo thuyết phong thủy trấn trạch cho chủ nhân mệnh Hỏa... Ông Nguyễn Thanh
Tùng cũng rất thông thạo, khi bàn về chữ nghĩa trong ba bài thơ Thu của cụ Tam
Nguyên, theo ông, ví như: tựa gối ôm cần lâu chẳng được, thay vị tựa gối buông cần lâu chẳng được, và nữa, lá vàng trước ngõ sẽ đưa vèo, thay vì lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo... Loanh quanh, nơi này góc nọ, cảm
giác như Ông cụ phảng phất đâu đây ngay bên mình vậy. Trời mưa nhiều, cây cối
hoa lá tốt tươi. Nắng lên, tia sáng lỗ đỗ, lối gạch rêu xanh rờn trơn trượt.
Ngẩn ngơ dừng trước tấm bia đá, nhẩm đọc bài Thu điếu được khắc hai mặt bằng
tiếng Việt và tiếng Anh, càng thêm khâm phục cụ Tam Nguyến tinh tế trong quan
sát và điêu luyện trong dùng từ...
Dùng dằng chẳng muốn rời chân, nhưng
không thể nấn ná, vì lịch trình còn dài. Khi tạm biệt, ông Nguyễn Thanh Tùng
vẫn không quên lưu ý chúng tôi những gì âm tâm đắc.
Lại quanh co đường làng, mà nhớ câu
thơ cụ Tam nguyên “Lối trúc quanh co
khách vắng teo”. Ao đình nước trong veo, mấy khóm hoa súng nở trên đám lá
dập dềnh, như đưa ta về lại cảnh sắc nơi đây hơn trăm năm trước, khi cụ Tam
nguyên dạo gót, ngâm vịnh ...
Và trong tôi, một tứ thơ đã nảy:
"Bâng lâng dạo bước vườn Bùi,/ hơn
trăm năm những buồn vui, một thời...”.
Chỉ hơn 01,...
Vậy là, Seagames 29 đã kết thúc. Đoàn thể thao Việt
Theo quy định chung về cách tính thành
tích để xếp hạng ở Seagames, theo thứ tự là số huy chương Vàng, Bạc, Đồng đạt
được. Và như vậy, cứ lấy số huy chương Vàng ra mà so, đoàn nào cao hơn thì xếp
trên; nếu số Vàng bằng nhau thì so Bạc; nếu Vàng và Bạc bằng nhau thì so Đồng.
Ở Seagames 29 này, Malaysia với lợi
thế chủ nhà, có nhiều bộ môn vốn là thế mạnh của họ được đưa vào thi đấu, nên
đã bỏ xa các đoàn khác bằng số huy chương Vàng cao ngất ngưởng là 145 (tổng số huy chương là 323). Kế sau, xếp
vị trí thứ 2 là Thái Lan với 72 huy chương Vàng (tổng số là 246), bởi họ thực sự mạnh và điều đó đã từng được khẳng
định trong nhiều năm nay. Còn Việt
Rõ ràng, có vẻ như,
Vậy nên, ở đây, vai trò cá nhân hay
mỗi cá nhân trong tập thể khi thi đấu, dù là đối kháng hay biểu diễn, là vô
cùng quan trọng và có tính chất quyết định ! Các nhà quản lý và huấn luyện viên
có tài giỏi bao nhiêu đi chăng nữa, song nếu như không có sự nỗ lực mang tính
cá nhân, thì cũng là vô ích !...
Xin viện dẫn một số trường hợp để
chúng ta cùng suy ngẫm:
Nếu như, Nguyễn Thị Ánh Viên, sau thất
bại đầu tiên, mà sớm suy sụp tinh thần, thì đã không có một Ánh Viên bùng nổ,
để rồi liên tiếp gặt hái được huy chương Vàng; hay như, khi đã đạt được 07 Vàng
rồi, cô không nỗ lực để có thêm 01 Vàng nữa, thì Việt Nam sẽ không có con số 58
huy chương Vàng kia...
Nếu như, không có một Nguyễn Anh Tú
môn bóng bàn bình tĩnh, chắt chiu từng điểm thắng, sau khi Đinh Quang Linh thất
bại nhanh chóng trước Gao Ninh- một tay vợt gạo cội của làng bóng bàn thế giới
và đội tuyển Singapore, thì đội bóng bàn nam Việt Nam làm sao có cuộc lật đổ
ngoạn mục trước đội tuyển bóng bàn nam Singapore, để giành tấm huy chương Vàng
danh giá ?...
Nếu như, mỗi cô gái trong đội tuyển
bóng đá nữ của ta không cố gắng và phối hợp ăn ý, thì làm sao có thể ghi đến 6
bàn và giữ sạch lưới, dư hẳn 01 bàn thắng (trong
khi chỉ cần 05 bàn) để hơn người Thái về hiệu số bàn thắng, đặng giành huy
chương Vàng, góp phần đưa đoàn thể thao Việt Nam đến con số 58 ?...
Nếu như, không có một cú cử ta chứa
đựng sự nỗ lực phi thường và khát khao chiến thắng cháy bỏng của Trịnh Văn
Vinh, thì làm sao anh có thể chiến thắng vận động viên của Indonesia khi quyết
định tăng thêm 10 kg nữa vào tạ và nếu cử đạt thì cũng chỉ nhiều hơn 01 kg,
trong khi vận động viên kia đã hết cơ hội ? Đây thực sự là một quyết định đúng
đắn, táo bạo, nên đã lấy thêm được một viên gạch lát đường đi đến cột đích
58!...
Nếu như, không có một Nguyễn Hữu Kim
Sơn, vận động viên môn bơi, mới chỉ 15 tuổi và lần đầu tham dự Seagames, đã bứt
lên về đích đầu tiên ở cự ly bơi 400 m hỗn hợp, giành huy chương Vàng, đồng
thời phá kỷ lục Seagames tồn tại nhiều năm nay, thì ta đâu có con số 58 kia
?...
Nếu như, không có một Lê Tú Chinh xuất
sắc khẳng định vị thế tuyệt đối trên đường chạy cự ly ngắn (100m và 200m), cự ly danh giá nhất của
bộ môn điền kinh, và đã xứng đáng với sự phong tặng danh hiệu “nữ hoàng tốc độ”, thì không biết chúng
ta dừng lại ở cột mốc nào ?...
Nếu như, không có sự nỗ lực có thể gọi
là cuối cùng của một Nguyễn Thị Như Hoa, vận động viên môn kiếm 3 cạnh, người
mẹ của hai đứa con nhỏ, xem Seagames 29 này là điểm cuối sự nghiệp thi đấu thể
thao của mình, với niềm tin Vàng ?...
Còn nhiều lắm, sự nỗ lực của hết thảy
những người giành được huy chương, dù là màu gì, và cả những người không giành
được huy chương nào, những huấn luyện viên, những người làm công việc quản lý
thể thao v.v... Ngay cả những thất bại, mà điển hình nhất là trưởng hợp của vận
động viên môn bắn súng Hoàng Xuân Vinh-nhà vô địch Olympic, cũng là hữu ích khi cho chúng ta bài học chung về
sức người là vô hạn và hữu hạn, về bản lĩnh và áp lực tâm lý thành tích khi thi
đấu !?
Chỉ hơn 01, mà chứa đựng bao công sức,
mồ hôi và nước mắt, nỗi thất vọng và nụ cười mang niềm vui chiến thắng...
Và hơn nữa, cho mỗi người chúng ta
những bài học, sự chiêm nghiệm, suy ngẫm bên ngoài thể thao !...
Chiều Ghềnh Ráng.
Đấy là một buổi chiều giữa mùa hè miền Trung đầy nắng
gió. Một buổi chiều đầy ăm ắp những hình ảnh về cảnh sắc thiên nhiên nơi Ghềnh
Ráng và hình bóng, thanh điệu từ những câu thơ của Hàn Mặc Tử âm âm từ những
trang sách hiện hình. Không hiểu sao, bước chân trên mảnh đất gần thế kỷ nay
bao dung những con người bị cuộc sống ghẻ lạnh, chối bỏ, song đầu tôi lại cứ
lởn vởn những câu thơ mượt mà êm ái bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Người thơ “ Sao anh không về chơi thôn Vỹ/ Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc ...”. No con mắt
nhìn, đầy hình trong máy ảnh, nhẩm bụng sẽ viết một cái gì đấy. Vậy mà...
Đầu năm 2008, vào công tác dài kỳ ở
Miền Trung, tôi định bụng, chuyến công tác đầu tiên trong địa bàn mình phụ
trách ( 9 tỉnh duyên hải miền Trung, từ
Quảng Bình đến Khánh Hòa ), sẽ “ hành phương Nam “ và tạm dừng chân Bình
Định. Thâm tâm, tôi muốn đến hai địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Bình Định mà
mình chưa hề đặt chân, đó là Quy Hòa-Ghềnh Ráng và Tây Sơn.
Thành phố Quy Nhơn như nhoài ra biển,
mà thế lao ấy là con đường dẫn lên Quy
Hòa, Ghềnh Ráng. Nắng vẫn nắng, nhưng gió biển lồng lộng, làm không khí dễ chịu
hẳn. Đường vào Quy Hòa lượn quanh co giữa đồi núi và biển, đất khô cằn nhưng đó
đây vẫn có những loại cây hoang, mà giờ đây đã dần hiếm, bởi người ta đang săn
tìm đưa về trồng vườn nhà thành cây cảnh. Núi, biển và cây dại nơi đây, đó là
những thứ rất đỗi thân thuộc với những người không may bị mắc chứng bệnh phong
hủi từ nhiều chục năm nay, kể cả Hàn Mặc Tử. Bóng dáng khu trại Quy Hòa hiện ra
sau khúc quanh. Dù đã được nghe kể, được đọc những bài viết, được xem những
hình ảnh về khu trại này từ lâu lắm rồi, song tôi vẫn có cảm giác tò mò.
Nhiều thân phận người bệnh ở khu trại
phong hủi này, nghề làm báo đã cho tôi tiếp cận họ qua nhiều phương thức khác
nhau, nên khi đặt chân đến đây, thứ tôi mong muốn không phải là tìm gặp người
này, kẻ nọ trong số họ để hỏi han những câu hỏi không nên hỏi, mà để cảm nhận
bầu không khi đặc biệt nơi đây. Cũng mặt đất, cây cỏ, núi non, bầu trời và biển
cả như vô vàn nơi khác, song con người thì lại mang thân phận khác. Căn bệnh
quái ác mà họ mang trên mình, dù đã được khoa học chứng mình, giái đáp, song
vẫn không dễ để cộng đồng gần gũi chia sẻ, bởi định kiến bao đời ăn sâu bám rễ
bằng sự kỳ thị, e dè... Tha thẩn ngắm vườn tượng bên ngoài, mà đầu tôi cứ ong
ong những bài thơ điên, những câu thơ kỳ dị của Hàn thi sĩ một thuở...
Quay trở ra, lên Ghềnh Ráng. Một không
gian Hàn Mặc Tử đậm đặc, từ ngôi mộ thi nhân đến nhà lưu niệm, rồi những bức
ảnh Hàn thi sĩ, và ảnh những người đẹp liên quan đến đời thơ của thi nhân...
Tất thảy đều gợi nhớ về người thi sĩ tài hoa bạc mệnh nổi tiếng của làng thi ca
Việt. Thử hỏi, nếu thi nhân không bị mắc chứng phong hủi, mà lại thành đạt sánh
bên các người đẹp đến đầu bạc răng long, thì biết đâu, lại chỉ làm ra những bài
thơ ve vuốt nịnh đầm, chứ chắc gì, Hàn thi sĩ có được những bài thơ hay, những
tứ thơ và hình bóng kinh dị trong mỗi bài thơ để sống mãi với nhân gian ?...
Ôi, thật là một giả thiết không nên có ?!...
Tôi tìm ra bờ biển, tương truyền, nơi
xưa cũ, Hàn thi sĩ hay ngồi một mình nhìn ra biển, ngóng trông chờ điều kỳ diệu
đến với mình. Nhìn ngắm bốn bề không gian. Chỉ cách khu nhà lưu niệm có một
quãng ngắn khúc quanh, mà ở đây yên tĩnh lạ. Chỉ có tiếng sóng và tiếng gió.
Kìa đá cuội. Những hòn cuội to nhỏ đủ cỡ rải rác khắp bờ, hẳn là có từ thời
Hàn. Chiều muộn nghiêng hẳn về phía Tây, hắt những vạt nắng quái đan phía trên
những con thuyền xa mờ tít ngoài vịnh. Giơ ống kính, thu không gian vào tầm
nhìn. Bầu trời nghiêng, biển nghiêng, thành phố nghiêng, và nỗi nhớ cũng
nghiêng chao về cố thi nhân ...
Gần đây, tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa
có chuyến công tác xuyên Việt. Dừng chân ở Quy Nhơn vào chiều đầu hạ. Bữa tiệc
chiêu đãi tối được đặt tại nhà hàng ngay trên Ghềnh Ráng. Trần Đăng Khoa hình
như lần đầu đến Ghềnh Ráng, nên anh có vẻ bỡ ngỡ với cảnh sắc nơi đây. Chúng
tôi lại cùng nhau ngắm hoàng hôn buông trên biển, ngắm những viên sỏi bên bờ
vịnh. Khoa tha thẩn, khẽ đọc mấy câu thơ của Hàn mà anh nhớ.
Hai thi nhân lớn của làng thi ca Việt.
Chẳng có gì để so sánh hay liên tưởng về thi ca, bởi họ thuộc về hai thời đại
khác nhau. Có chăng, cùng tâm hồn Việt. Ngoài kia, biển trời Ghềnh Ráng đã sẫm
một màu đêm ...
Chớm rét
Năm nay rét muộn. Mãi cuối tháng Mười âm lịch mới có
những cơn gió bấc đầu mùa. Ngoài chút mưa lắc cắc, đủ để ướt lá, thấm mặt đường
và chút xao động khi gió về, còn lại chưa đủ để xua đi cái nắng nóng kéo dài từ
hè sang tận cuối thu...
Mấy nhà thơ sốt ruột, thi nhau làm thơ ca ngợi mùa thu
đến, nào những lá thu vàng, những heo may ngọt vào mía, mọng nước vào bưởi, vào
hồng, se lạnh vào đêm khuya, sương mù buổi sớm, thì mùa thu vẫn trốn ở nơi
đâu... Rồi bão, rồi mưa ầm ào đâu đó, ngập lụt, lũ dâng ở đâu đó, xứ Bắc vẫn
nóng nực như hè... Thời tiết thay đổi đến lạ, như chẳng màng gì đến quy luật
muôn thuở... Thiên nhiên là vậy, đầy sự bất thường, xã hội con người cũng dường
như cộng hưởng... Nóng chuyện biển khơi, nóng chuyện người di cư, nóng chuyện
EU tan rã trước sự ly khai của quốc đảo Anh, nóng chuyện tranh cử tổng thống ở
Mỹ... Có lẽ, từ người mà ra cả. Thực ra, thiên nhiên luôn vô sự, việc đúng sai,
được thua, thuận nghịch là ở con người?...
Rồi thì gió mùa đông bắc cũng về. Chỉ những ai thức
khuya dậy sớm mới nhận thấy sự thay đổi của thời tiết. Ngày xưa, Lưu Vũ Tích,
một thi nhân đời Đường, cảm thu mà viết trong bài thơ Thu phong dẫn: "Triêu lai nhập đình thụ/ Cô khách tối tiên
văn" ( có nghĩa là: Gió sớm se
lạnh lùa vào cổ thụ trước sân/ ( Ta ) khách cô đơn là người biết đầu tiên,)
Tinh tế thay và nhậy cảm đến nhường nào.
Sớm gió mùa, chớm rét. Trở dậy, trong nhà chỉ thấy se
se. Lúc ra đường mới thấy gió, thấy lạnh. Mùa đông đã về thật rồi.
Cánh phụ nữ, mới hôm trước còn váy ngắn, tay trần, hôm
sau trang phục đã "kín cổng cao tường". Nhưng rồi, chớm rét thôi, đâu
đến mức lạnh co người. Quen quen một chút, lại muốn váy áo nõn nường, tung tẩy,
dường như định níu thu ...
Ừ, chớm rét thôi mà, ngại chi đâu " Người tay trần áo mỏng/ Vờ như chưa có đông "
!...
Chuyện cũ hâm lại,
hình như, chẳng để làm gì
Cuối xuân năm nay ( Đinh Dậu 2017 ), đầu tháng ba âm lịch, khi hoa gạo đã chớp chới đỏ
nơi thôn dã, trên những triền thung vắng, sườn non miền Tây Bắc, Việt Bắc, báo
hiệu hạ chớm sang, rét nàng Bân đã về đúng hẹn. Không những thế, suốt tháng ba,
cứ dăm bữa, nửa tháng, lại một đợt gió mùa đông bắc tràn về. Lạnh vừa, song
cũng đủ làm lòng người xao xuyến, nhất là sau những đợt nắng nóng xen kẽ. Tưởng
hè đã sang hẳn, thì ngày đầu của tháng tư âm lịch, gió mùa đông bắc lại vê,
chẳng hiểu đã là chót hay chưa? Vẫn biết, năm nay nhuận tháng sáu, tiết có muộn
đôi chút, song quả là, cả mùa đông qua, lạnh lào khào vậy thôi, chứ đâu có
những đợt rét đậm như mọi năm. Có người đùa bảo, nàng Bân giờ khác xưa rồi,
chẳng mấy thương chồng, mà cũng đâu có thèm đan áo, vậy mà cứ trở đi trở lại
nhiều thế, là sao? Câu nói vui thôi, nhưng ngẫm nghĩ, tự thấy, hình như, đã có
những biến đổi gì đó, lệch với quy luật thuần túy hình thành bao ngàn năm rồi,
cả về tính chất thiên nhiên và ý thức xã hội nữa ?...
Trước hết, là những thay đổi, lệch chuẩn, thậm chí cực
đoan về khí hậu thời tiết... Hai mươi bốn tiểu tiết theo âm lịch nay không mấy
đúng, chúng chỉ hiển hiện trong các quyển lịch treo tường mà thôi. Sự phát triển
quá nóng của các quốc gia mới nổi, khó kiểm soát, đã làm ô nhiễm mặt đất, các
dòng sông, cả đại dương bao la và bầu khí quyển bao bọc quanh trái đất. Tất cả
làm tự nhiên bị dồn nén và nổi giận. Mà một khi thiên nhiên nổi giận thì hậu
họa khôn lường... Rét muộn, rét tháng ba, rét nàng Bân theo cách gọi dân gian,
chỉ là một biểu hiện cụ thể của thời tiết tự nhiên mang tính quy luật thôi. Nó
ổn định, tức tự nhiên ổn định, chưa có gì phải lo, nó bất thường là tự nhiên
bất thường...
Còn ngẫm về khía cạnh xã hội, từng ngày, ngấm ngầm,
nhiều giá trị, quy chuẩn, đạo đức xã hội cũ đang dần mai một, trong khi những
giá trị, quy chuẩn mới chưa kịp hình thành, hoặc còn chưa được công nhận, và
mặc nhiên, hàng ngày, chúng tác động vào mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng ...
tạo ra những hệ lụy, ảnh hưởng trực tiếp đến các mối quan hệ gia đình, xã hội,
nhiều khi theo chiều hướng tiêu cực. Câu chuyện Nàng Bân xưa và nay khác nhau
xa, thực ra chỉ là một cách nói, một biểu đạt của quan hệ đôi lứa, gia đình
trong bối cảnh xã hội đa chiều, đang thay đổi nhanh chóng. Nếu trước đây, mối
quan hệ này là sự tương tác trực tiếp, nếu ai đó muốn can thiệp vào, thì nay,
mọi việc trở nên đơn giản, dễ dàng hơn, trước hết và gián tiếp, bởi sự phát
triển chóng mặt của khoa học công nghệ, với sự hình thành của mạng xã hội. Giờ
đây, giữa hai cá nhân ở xa cách cả một đại dương, cả nửa vòng trái đất, lại có
thể tương tác với nhau trong nháy qua một cú
chạm mà thôi,...
Bỗng nhiên, tôi nhớ lại ngày xưa, khi mình còn thơ bé.
Tôi đã từng hỏi mẹ, khi thấy người lẩm bẩm cấu cửa miệng " rét tháng ba, bà già chết cống",
lúc thời tiết tưởng đã sang hè, trời nóng bức là thế, lại đột ngột chuyển mưa
rét. Ngày ấy, tôi nghĩ, rét tháng ba chắc phải rét lắm, rét đậm, rét căm căm
thì bà già mới chết cóng chứ. Nghe mẹ
tôi cắt nghĩa rồi, tôi mới hiểu, thực ra, rét tháng ba âm lịch ( tức Rét Nàng Bân ), cùng với đó là câu
chuyện về nàng Bân thương chồng đan áo rét muộn, khi hạ đã sang, bèn cầu xin
Ngọc Hoàng Thượng đế cho trời làm rét để chồng nàng được mặc áo rét nàng đan
ấy, chỉ là huyền thoại mà con người tưởng tượng ra, để chỉ một tiết đoạn thời
gian, một quy luận của thời tiết. Và thường nó đến đột ngột, khi người ta chủ
quan, hoặc đã cất kỹ quần áo mùa đông, hoặc có đi đâu xa hay quyên mang phòng
quần áo rét...
Nhân đợt rét muộn đầu tháng tư âm lịch này, giữa lúc
cả châu Âu đang tiết cuối xuân ấm áp, bỗng dưng tuyết phủ trắng trời trắng đất,
ngồi buồn, mang chuyện cũ ra hâm lại. Hình như, cũng chẳng để làm gì !...
Đầu năm đi lễ chùa.
1. Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong
tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương
nhiên. Người phương Đông quan niệm, “
tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân,
bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở... Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có
thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới
đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta
mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm
tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra,
với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai,
địch họa, không dịch bệnh...Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin
phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con
người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi. Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh
với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể;
cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ
chút tiền công đức ( gọi là tiền giọt
dầu, thẻ hương ), nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm
ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt
liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã
hội ngày nay. Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa, xa gần có cả.
Năm nay, mấy ngày tết, cũng loanh quanh đôi chùa phủ trong nội thành, thứ bảy
rồi, mới đi xa hơn, thăm vãn chùa Tây Phương ( thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây
cũ .
Đây là một ngôi chùa nổi tiếng xứ Bắc. thuộc đất thôn
Yên, xã Thạch Xá. Tương truyền, bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 6-7, và
trải qua rất nhiều lần trùng tu. Tuy nhiên, dấu ấn được ghi chép về quy mô,
kiến trúc của chùa thì mãi đến vào thế đầu kỷ 17 thời nhà Mạc, với tên chữ là Sùng
Phúc tự . Kế đó, là vào năm 1632, dưới triều vua Lê Thần Tông, chùa được xây
dựng với quy mô 3 gian thượng điện, cùng hậu cung, hành lang tới 20 gian. Tiếp
nữa, là vào các năm 1657-1682, chúa Trịnh Tạc cho phá bỏ chùa cũ, xây chùa mới
cùng tam quan. Và cuối cùng, là dưới triều Tây Sơn, năm 1794, chùa được đại tu,
đổi tên thành Tây Phương cổ tự, và dáng dấp kiến trúc còn giữ đến ngày nay. Thong
thả từng bậc đá ong ướt át trong làn mưa phùn mùa xuân, qua 239 bậc mới tới
được cổng chùa. Cổng chính, tấm biển chữ Hán Tây Phương cổ tự , mở ra bên trong
một không gian chùa, với kiến trúc được đánh giá là tiêu biểu cho kiến trúc tôn
giáo mỹ thuật thời Hậu Lê. Lần lần, tiền điện đến hậu điện, được thấy các pho
tượng Phật cổ bằng chất liệu gỗ mít sơn thếp từ mấy thế kỷ trước, đặc biệt là
các vị La Hán, đã đi vào thơ ca Việt qua bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương
của nhà thơ Huy Cận từ năm 1960: Các vị
La Hán chùa Tây Phương/ Tôi đến thăm về lòng vấn vương/ Há chẳng phải đây là xứ
Phật,/ Mà sao ai nấy mặt đau thương ? ... Cha ông yêu mến thời xưa cũ / Trần
trụi đau thương bỗng hóa gần/ Những bước mất đi trong thớ gỗ/ Về đây tươi vạn
dặm đường xuân .
Xung quanh chùa, những ngôi nhà dân chênh vênh bên
sườn núi, những lối mòn tre trúc quạnh hiu, mùi khói bếp quện mùi hương trầm,
tất cả làm nên một không gian thanh tịnh và ấm cúng. Tách khỏi nhóm người, một
mình theo bậc thang dần xuống, tha thẩn ngắm nhìn, hỏi chuyện các bà cụ bán
hàng rong hai bên. Những đồ lưu niệm mây tre đan, những con châu chấu, chuồn
chuồn tre, lặt vặt...cùng đó là những lời mời chào chân quê . Nhìn các bà, các
cụ đầu bạc khăn vấn đen, môi quết trầu, vừa mời chào bán hàng vừa gẫu chuyện
xóm mạc, như thấy bóng dáng mẹ ta, dáng dì ta ngày nào. Có gì đó thân thương,
chân chất, mộc mạc...
Thì ra, cõi Phật và cõi đời gần gụi nhau biết mấy !...
2.
Đầu năm người đi lễ chùa
Xin phúc xin
lộc cho vừa lòng ham
Còn em duyên
mỏng chẳng cam
Cầu phật
thương với cho làm dâu ai
Ta đến cửa
phật thưởng mai
Tìm chút
thanh tịnh dùi mài chữ Tâm
Vườn chùa lất
phất mưa xuân
Tưởng không
mà chốc ướt đầm lộc non...
Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa. Đây
là bài thơ Lễ chùa tôi viết vào đầu xuân trước Quý Tỵ.
Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong
tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương
nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm
thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh
sôi nảy nở...
Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả
các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn
thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang
năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe
tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên
và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không
dịch bệnh...
Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải
đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người
rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên,
ấy là niềm tin tôn giáo rồi.
Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa
như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có
không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền
công đức, nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa
ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm
văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay...
Đầu xuân Giáp Ngọ này, vào dịp cuối tuần, tôi cũng đã
tranh thủ thời gian dạo chùa gần chùa xa. Càng đi nhiều, càng ngộ ra rằng, cõi
Phật và cõi đời gần nhau lắm...
Mang máng nhớ một câu thơ:
Dốc đá phiến
từ tâm
Đỡ bao bàn
chân tới
Nhặt bóng với
thời gian
Vẫn kiên lòng
đứng đợi...
Dậy
sớm thưởng trà.
Tôi là một người nghiện trà. Và cứ phải là
trà Thái (chè Thái Nguyên.). Cà phê thì bạn bè, nơi công sở có câu chuyện riêng
tư, kéo nhau ra quán cũng gọi một ly cho phải phép, thế thôi, cả tháng không
uống không sao.
Song trà thì sáng nào cũng vậy, vùng trở
dậy, vội đến mấy cũng phải bật bếp đun ấm nước, rồi mới làm dăm động tác thể
dục và vệ sinh cá nhân, chờ nước sôi. Pha ấm trà nhỏ, uống vài chén rồi mới
tính chuyện ăn sáng. Ở cơ quan, những lúc nghỉ tay, cũng phải đôi ba tuần trà
cùng đồng nghiệp. Tối thì thôi, quả là cũng muốn uống nhưng lại lo mất ngủ. Thế
cũng kể là nghiện được rồi . Mà ở đời, nghiện cái gì cũng có cái thú, cái phiền
riêng.
Thói quen uống trà sáng sớm là tôi nhiễm
từ cha tôi. Ông vốn con nhà Nho, thuộc dòng thi thư, ngày nhỏ học chữ Nho với
ông nội tôi, thế hệ khoa cử cuối cùng của triều Nguyễn. Sau ông mới ra Hà Nội,
học quốc ngữ, tiếng Pháp và nghề hội họa thiết kế kiến trúc. Lúc làm ăn có
tiền, ông cũng thuộc diện tiêu xài hoang phí, cao lâu, cô đầu, thuốc phiện đủ
cả. Về sau thôi cả, rượu cũng chỉ đôi chén, riêng hút thuốc lào và uống trà là
ông nghiện. Suốt những năm chiến tranh chống Mỹ, gia đình tôi rời Hà Nội về quê
sinh sống. Thời buổi khó khăn, nghiện cái gì là khổ cái ấy. Tiếng là thuốc lào
và trà là thứ sinh hoạt rẻ tiền, song kiếm cũng đâu có dễ. Thuốc lào Vĩnh Bảo
và trà Thái thuộc loại thượng hảo hạng rồi. Ngày ấy, rẻ nhất là chè bồm, loại
chè lá già sao giòn nhẹ bấc, pha uống chỉ thấy đăng đắng chan chát. Sang hơn tý
chút là chè Thanh Hương, quen được gọi là chè ba hào hai, còn chè Hồng Đào cũng
khó kiếm lắm. Hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán, anh cháu gọi cha tôi là cậu
ruột, làm phó phòng thương nghiệp huyện, quý và biết tính ông cậu lắm nên giáp
tết mới đến nhà chúc tết cậu sớm và biếu quà gồm một hộp mứt thập cẩm và một
gói chè Hồng Đào. Nhiều năm như thế thành nếp, nên cứ gần tết, nhà chỉ lo gạo
nếp, đỗ xanh, lá dong đủ gói nồi bánh chưng và chung được một góc con lợn, cùng
vài ba con gà nhà nuôi được là ổn rồi. Thêm món quà biếu tết quý hiếm ấy là đủ
cả.
Thường ngày, cha tôi có thói quen uống chè sớm tinh
sương. Người già khó ngủ. Cứ tầm bốn rưỡi, năm giờ sáng là cha tôi tỉnh rồi.
Ông cố nằm thêm chút nữa vì sợ mình lục sục sớm quá ảnh hưởng giấc ngủ của vợ
con. Ông trở dậy, nhóm bếp đun ấm nước lên rót đầy phích và xúc ấm pha trà. Dù
thường ngày là chè bồm, chè ba hào hai, biết không mấy ngon nhưng nghiện thì
vậy cũng là quý. Thỉnh thoảng, có tâm sự hoặc cần bàn bạc gì riêng với mẹ tôi
thì cha tôi mới nài mẹ tôi dậy sớm đối ẩm. Có lần, tôi chợt tỉnh ngủ, nhìn qua
màn, thấy cha tôi ngồi độc ẩm im phăng phắc. Bóng ông trong quầng sáng của ngọn
đèn chai dầu hỏa đỏ quạch in hình trên bức tường nhà đắp đất chập chờn theo
ngọn đèn hãm nhỏ bởi gió lùa qua khe đất nứt nẻ. Ngày ấy, tôi còn nhỏ, quá vô
tư nên chẳng mấy hiểu, chứ sau này, tôi mới ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng, hồi ấy,
sáng sáng độc ẩm trà trong im lặng như thế là cha tôi đang dồn nén những nỗi
trăn trở khổ ải về cả tâm thần và thể xác, để mà tịnh tâm, và qua những phút
giây đó, ông cần phải chứng tỏ sự vững vàng về mặt tinh thần, làm trụ chắc cho
cả gia đình tôi vượt qua những khó khăn chung và riêng của một thời tao loạn,
gian khổ...
Trở lại câu chuyện thưởng trà ngày tết.
Sáng mồng một, ngày đầu tiên của năm mới, cha tôi vẫn đậy sớm như thường ngày,
dù đêm trước thức khuya đón giao thừa. Ông đun nước sôi rồi cẩn thận lấy gói
trà Hồng Đào trên bàn thờ xuống, bóc lấy đủ ấm pha xong, đợi trà ngấm giót (
đúng ra là rót ) một chén đặt lên bàn thờ, thắp hương khấn mời gia tiên thưởng
trà trước. Sau đó, ông mới gọi nhẹ đánh thức mẹ tôi và mấy chị em chúng tôi dậy
cho năm mời khỏi rông. Ông giót ( rót ) thêm ba chén trà, một cho ông, một cho
mẹ tôi, còn chén kia dành cho tôi, thằng cu bé còn chưa biết uống trà, thưởng
trà là gì nhưng sẽ phải gánh vác vai trò trưởng gia, trưởng chi họ, sau này đảm
trách phần lễ nghi thờ cúng của gia đình và dòng tộc. Xong tuần trà, mới đến
phần lễ nghi cho khai bút đầu năm. Quả là, tôi uống chỉ thấy những chát đắng
chứ nào biết ngon đâu, song sự thành kính của cha tôi cho tôi hiểu lờ mờ ở đấy
chứa đựng những tầng ý nghĩa cao hơn giá trị ẩm thực đơn thuần, nó thuộc về văn
hóa, tâm linh... Tôi đã thấy được cái thú vị, cái phiền hà, và nữa, còn thấy ở
đó những triết lý về cuộc sống.... Lại ngẫm nghĩ về những ẩn dụ, minh triết về
trà và uống trà mà Phạm Đình Hồ và Cao Bá Quát xưa đã bình mà thấy thèm, thấy
khát. Sự khát thèm về một đời sống tinh thần phong phú mà cao sang, là để có
cái đích mà vươn tới ...
Sau khi cha tôi qua đời, dù không đến mức
nghiện trà, song mẹ tôi vẫn giữ cái thói quen dậy sớm uống trà. Có thể, bà
không hề nghĩ, không cần nâng lên thành triết lý như cha tôi, mà chỉ duy trì nó
như một thói quen sinh hoạt, hoặc giả, bà chỉ muốn thắp lên một ngọn đèn vào
lúc sớm hôm như sự báo hiệu ngày mới của một người chủ gia đình với bao lo
toan, cần làm chỗ dựa cho con cái thôi chăng ? Chẳng hiểu do di truyền hay cuộc
đời đã dạy cho tôi thành một người nghiện trà ?! Đời sống thường nhật là vậy.
Bao lo toan bộn bề, bao xô bồ trần tục, bao buồn vui lẫn lộn... Chẳng nhẽ, cứ
cắm cúi mà sống, mà chịu, mà hưởng ? Đâu mấy được ngẩng mặt lên, thanh tâm bên ấm
trà buổi sớm ?
Giờ thì trà ngon đủ loại. Muốn bao nhiêu
cũng có. Nhưng cha tôi thì đã xa khuất quá lâu rồi. Mẹ tôi cũng thế. Mỗi tết,
tôi sẽ lại làm như cha tôi từng làm xưa kia. Thành kính với gia tiên và song
thân, có phần cho riêng mình, và dường như có gì đó cho con cái nữa.
Như một người giữ lửa !...
Đi lễ chùa tháng Giêng,
1. Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong
tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương
nhiên. Người phương Đông quan niệm, “
tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân,
bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở... Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có
thể gặp cả các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới
đến, tiết đoạn thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta
mong muốn, sang năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm
tới có sức khỏe tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra,
với thiên nhiên và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai,
địch họa, không dịch bệnh...Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin
phải đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con
người rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, ấy là niềm tin tôn giáo rồi. Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh
với ý nghĩa như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể;
cũng có không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ
chút tiền công đức ( gọi là tiền giọt
dầu, thẻ hương ), nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm
ngoài ý nghĩa ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt
liên miên, làm văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã
hội ngày nay. Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa, xa gần có cả.
Năm nay, mấy ngày tết, cũng loanh quanh đôi chùa phủ trong nội thành, thứ bảy
rồi, mới đi xa hơn, thăm vãn chùa Tây Phương ( thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây
cũ .
Đây là một ngôi chùa nổi tiếng xứ Bắc. thuộc đất thôn
Yên, xã Thạch Xá. Tương truyền, bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 6-7, và
trải qua rất nhiều lần trùng tu. Tuy nhiên, dấu ấn được ghi chép về quy mô,
kiến trúc của chùa thì mãi đến vào thế đầu kỷ 17 thời nhà Mạc, với tên chữ là
Sùng Phúc tự . Kế đó, là vào năm 1632, dưới triều vua Lê Thần Tông, chùa được
xây dựng với quy mô 3 gian thượng điện, cùng hậu cung, hành lang tới 20 gian.
Tiếp nữa, là vào các năm 1657-1682, chúa Trịnh Tạc cho phá bỏ chùa cũ, xây chùa
mới cùng tam quan. Và cuối cùng, là dưới triều Tây Sơn, năm 1794, chùa được đại
tu, đổi tên thành Tây Phương cổ tự, và dáng dấp kiến trúc còn giữ đến ngày nay.
Thong thả từng bậc đá ong ướt át trong làn mưa phùn mùa xuân, qua 239 bậc mới
tới được cổng chùa. Cổng chính, tấm biển chữ Hán Tây Phương cổ tự , mở ra bên
trong một không gian chùa, với kiến trúc được đánh giá là tiêu biểu cho kiến
trúc tôn giáo mỹ thuật thời Hậu Lê. Lần lần, tiền điện đến hậu điện, được thấy
các pho tượng Phật cổ bằng chất liệu gỗ mít sơn thếp từ mấy thế kỷ trước, đặc
biệt là các vị La Hán, đã đi vào thơ ca Việt qua bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương
của nhà thơ Huy Cận từ năm 1960: Các vị
La Hán chùa Tây Phương/ Tôi đến thăm về lòng vấn vương/ Há chẳng phải đây là xứ
Phật,/ Mà sao ai nấy mặt đau thương ? ... Cha ông yêu mến thời xưa cũ / Trần
trụi đau thương bỗng hóa gần/ Những bước mất đi trong thớ gỗ/ Về đây tươi vạn
dặm đường xuân .
Xung quanh chùa, những ngôi nhà dân chênh vênh bên
sườn núi, những lối mòn tre trúc quạnh hiu, mùi khói bếp quện mùi hương trầm,
tất cả làm nên một không gian thanh tịnh và ấm cúng. Tách khỏi nhóm người, một
mình theo bậc thang dần xuống, tha thẩn ngắm nhìn, hỏi chuyện các bà cụ bán
hàng rong hai bên. Những đồ lưu niệm mây tre đan, những con châu chấu, chuồn
chuồn tre, lặt vặt...cùng đó là những lời mời chào chân quê . Nhìn các bà, các
cụ đầu bạc khăn vấn đen, môi quết trầu, vừa mời chào bán hàng vừa gẫu chuyện xóm
mạc, như thấy bóng dáng mẹ ta, dáng dì ta ngày nào. Có gì đó thân thương, chân
chất, mộc mạc...
Thì ra, cõi Phật và cõi đời gần gụi nhau biết mấy !...
2.
Đầu năm người đi lễ chùa
Xin phúc xin
lộc cho vừa lòng ham
Còn em duyên
mỏng chẳng cam
Cầu Phật thương
với cho làm dâu ai
Ta đến cửa
phật thưởng mai
Tìm chút
thanh tịnh dùi mài chữ Tâm
Vườn chùa lất
phất mưa xuân
Tưởng không
mà chốc ướt đầm lộc non...
Tôi là một người, đầu năm thường đi vãn cảnh chùa. Đây
là bài thơ Lễ chùa tôi viết vào đầu xuân trước Quý Tỵ.
Đầu năm đi lễ chùa, từ xa xưa, đã trở thành một phong
tục của người Việt. Và cả một số nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo. Đã là phong tục, lại phong tục đẹp, thì tồn tại là chuyện đương
nhiên. Người phương Đông quan niệm, “ tứ thời xuân tại thủ “, bốn mùa trong năm
thì mùa xuân là đứng đầu. Mùa xuân, bắt đầu của năm mới, mùa của vạn vật sinh
sôi nảy nở...
Sau một năm làm ăn cật lực, con người ta có thể gặp cả
các chuyện không may, những điều may mắn. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tiết đoạn
thời gian được phân định bởi thời khắc giao thừa, con người ta mong muốn, sang
năm mới, bản thân và những người thân trong gia đình trong năm tới có sức khỏe
tốt, công việc hanh thông, gặp nhiều may mắn...; còn rộng ra, với thiên nhiên
và xã hội, là yên bình, là mưa thuận gió hòa, không thiên tai, địch họa, không
dịch bệnh...
Những mong ước ấy là chính đáng. Nhưng niềm tin phải
đặt vào nơi đâu? Lẽ dĩ nhiên, niềm tin trước hết phải đặt vào chính con người
rồi. Song chưa đủ, con người ta còn đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên,
ấy là niềm tin tôn giáo rồi.
Đầu năm, đi lễ chùa, là văn hóa tâm linh với ý nghĩa
như vậy. Người ta đi lễ chùa với đầy đủ lễ nghi, và cầu xin cụ thể; cũng có
không ít người, đầu năm đi vãn cảnh chùa, có thể không cầu xin gì, bỏ chút tiền
công đức, nói là để yên lòng người cho cả một năm, song không nằm ngoài ý nghĩa
ấy. Ở đây, tôi chưa đề cập hiện tượng sa đà, chùa chiền, lễ lạt liên miên, làm
văn hóa tâm linh méo mó, đang dần trở thành phổ biến trong xã hội ngày nay...
Đầu xuân Đinh Dậu này (2017), sau ba năm liền đi lễ
chùa Hương, tôi cũng đã tranh thủ thời gian dạo chùa gần chùa xa, trong đó có
Tây Phương cổ tự. Lần này, đủ cả ba chùa, thượng-trung-hạ của quần thể Tây
phương xứ Đoài. Lễ Phật mà trong đầu như nhẩm đọc bài thơ “ Các vị La hán chùa Tây Phương “ của nhà
thơ Huy Cận. Càng đi nhiều, càng ngộ ra rằng, cõi Phật và cõi đời gần nhau
lắm...
Mang máng nhớ một câu thơ:
Dốc đá phiến
từ tâm
Đỡ bao bàn
chân tới
Nhặt bóng với
thời gian
Vẫn kiên lòng
đứng đợi...
Đi ra ngoại ô
Lâu rồi tôi mới
đi ra ngoại ô. Hàng ngày, hoặc bận bịu việc công sở, từ 7 giờ sáng đến 7 giờ
tối nhốt mình trong cái tòa tháp mưới mấy tầng, điều hòa ro ro cả ngày song vẫn
toát mồ hôi vì các cuộc họp gối nhau; hoặc lại kéo va li trong phòng chờ máy
bay bởi những chuyến công tác triền miên; hoặc ngủ gà ngủ vịt trong cái xóc lắc
của các chuyến xe đi địa phương... Vậy mà, cuối tuần rồi, tôi đã bứt ra được,
để lang thang ngoại ô. Một vùng bên kia sông Đuống...
Nhà văn Nguyễn Trọng Huân, đồng nghiệp VOV với tôi rủ
rê: " Ông có rảnh, đi với tôi về quê
vợ tôi, ngay ngoại ô, bên kia sông Đuống thôi. Tôi muốn quay ít cảnh, đặng làm
cái clip gia đình.". Vậy là, chúng tôi ra ngoại ô, một ngày nắng oi
nồng...
Xe chạy trên bờ đê sông Đuống, những câu thơ của Hoàng
Cầm cứ âm âm trong đầu. Nói không ngoa, đây là một vùng đất cổ, một miền thơ.
Dù ít nhiều bị đô thị hóa, song cây cối vẫn xanh mướt một màu và phảng phất đâu
đó là nét thân thương của làng quê cũ ... Đê Mai Lâm đây rồi. Ngày nhỏ, tôi
thường nghe cha tôi kể chuyện vỡ đê, và trận lụt do vỡ đê Mai Lâm là một trận
lụt thế kỷ. Đây cũng là vùng quê của nhà văn Ngô Tất Tố, nơi ông đã lấy bối
cảnh để viết tiểu thuyết " Tắt đèn
" và các thiên phóng sự về văn hóa làng nổi tiếng của mình từ đầu thế kỷ
20. Cách đây hơn chục năm, khi dựng một Tạp chí truyền thanh nhân dịp Quốc
khánh, tôi đã về đây, gặp gỡ, hỏi chuyện, phỏng vấn người nhà của nhà văn Ngô
Tất Tố, cùng một số vị cao niên về đời sống nông thôn xưa và nay. Giờ làng mạc
khác trước nhiều. Qua Mai Lâm, đến Đông Hội, rẽ theo triền đê vào làng cổ Lại
Đà. Đây là quê vợ của nhà văn Nguyễn Trọng Huân. Đến lần đầu, mà cảm giác quen
quen. À phải rồi, tôi đã thấy những lều quán chợ làng, những đình, những chùa,
những cổng cổ, nhà thờ họ, ngõ gạch, vườn ao như từng có ở quê tôi và nhiều
làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn phảng phất đâu đó trong thơ Tường Anh,
bà xã của nhà văn Nguyễn Trọng Huân, mà tôi đã đọc trên blog của anh ..." Tráo trở phố phường không rơi lệ/ Mà rưng
rưng trước lối rẽ về làng/ Dốc đê nhỏ, bờ cỏ may rung nhẹ/Lách chách tuổi thơ
châu chấu đạp càng"( Dốc đê ); " Có phải con trâu lá đa của tôi?/ Nghé ọ cả một miền ký ức/ Gốc duối
cuối vườn cất mật/ Vàng ba mươi năm đứng đợi tôi về " ( Về vườn xưa ).
Theo kiến giải của các bậc cao niên, tên làng cổ là
Lai Xà ( có nghĩa là Rắn lại đến, một
truyền thuyết về tên làng này ). Qua năm tháng, bị gọi chệch âm thành Lại
Đà. Nghe nói, mảnh đất này, xưa sản sinh và nuôi dưỡng nhiều người học hành, đỗ
đạt làm quan to trong các triều đại phong kiến, nay cũng có những cán bộ giữ
trọng trách cao...
Tôi và Nguyễn Trọng Huân, nhạc sĩ Doãn Nguyên thơ thẩn
ra chợ làng, thăm viếng chùa Cảnh Phúc, đình làng, đền thờ trạng nguyên Nguyễn
Hiền ( được sắc phòng làm thần hoàng làng
). Đó đây, bắt gặp những loài hoa hàng rào, biết tên và chẳng rõ tên, tất
cả đều gợi cảm xúc về hồn làng, về miền thơ ấu tuổi học trò ở quê...
Ấn tượng mạnh trong tôi, ấy là dàn hoa ti-gôn đỏ thắm
trên vòm mái cổng nhà ông bà nhạc của Trọng Huân. Lâu lắm rồi, tôi mới thấy một
dàn ti-gôn đẹp vậy. Những cánh hoa ti-gôn như những mảnh vỡ trái tim, ứa máu,
khiến ta nhớ đến câu chuyện tình đậm chất văn chương bí ẩn trong thơ " Hai sắc hoa ti-gôn " của T.T.KH
ngày xưa..." Bảo rằng:
"Hoa, dáng như tim vỡ/ Anh sợ tình ta cũng thế thôi!".../ Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/ Trời ơi!
Người ấy có buồn không/ Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ/ Tựa trái tim phai, tựa
máu hồng "... Tôi say mê lựa góc để thu vào ống kính của mình. Mấy anh
chàng camera cũng vậy... Quên cả mâm cơm rượu thịt đã bày ra.
Chiều về, quanh quanh trên đê sông Đuống. Mưa đã
nhiều, nước sông ngầu đục. Hết sông Đuống lại vòng ra đê sông Hồng. Tự nhiên
lại nao nao nhớ tiếng gọi đò...
Gặp Nick Út,...
Nick Út là một người nổi tiếng, ở Việt
Vì là người nổi tiếng, nên chúng ta không
khó để tìm kiếm những thông tin về ông đầy trên mạng. Bởi vậy, khi viết về ông,
tôi không muốn sa đà vào những điều người ta đã nói và viết, mà dành cho những
ấn tượng và cảm quan của cá nhân tôi về ông. Tuy nhiên, thấy cũng cần nhắc lại
một số thông tin cơ bản về nhân thân của Nick Út.
“ Nick Út, tên thật Huỳnh Công Út, ( sinh ngày 29
tháng 3 năm 1951) là người Mỹ gốc Việt. Ông
là phóng viên ảnh cho hãng tin Associated Press ( AP ), người chụp bức ảnh em
bé Phan Thị Kim Phúc, thường được biết là "Vietnam Napalm Girl" - cô gái Việt Nam bị napalm, và những đứa trẻ khác bị bỏng do bom napalm
của Mỹ tại Trảng Bàng- Tây Ninh, bức ảnh đã mang lại cho ông giải Pulitzer và
ông trở nên nổi tiếng. Bức ảnh được xếp thứ 41 trong 100 bức ảnh có tầm ảnh
hưởng nhất thế kỷ 20 do Đại học Columbia bình chọn ... Ông sinh tại Long An, là
phóng viên ảnh cho hãng tin Associated Press (AP) từ năm 16 tuổi. Anh ruột của
ông - Huỳnh Thanh Mỹ cũng là một phóng viên chiến trường làm việc cho AP - đã
chết trong Chiến tranh Việt Nam, bản thân Nick Út cũng bị thương 3 lần trong
Chiến tranh Việt Nam ”...
Đấy là người ta tóm tắt về ông. Thiết
nghĩ, cũng nên biết thêm một số thông tin khác gắn với Nick Út, như ông cũng có
những thành công khác về sự nghiệp nhiếp ảnh sau bức “Em bé Na-pan”; việc ông vẫn thường xuyên liên lạc với Kim Phúc sau
này (nhân vật trong bức ảnh, nay là Việt
kiều định cư tại Canada); việc ông đã từng mở triển lãm ảnh tại Tp. Hồ Chí
Minh cách đây chục năm nhưng không suôn sẻ. v.v...
Giờ thì ông ngồi đây, trước mặt chúng
tôi, các phóng viên, biên tập viên của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), những
người yêu thích nhiếp ảnh, hoặc đơn giản là vì tò mò, muốn nhìn tận mắt cái ông
nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới này xem đầu cua tai nheo ra sao?...
Đúng 9 giờ sáng ngày 05 tháng 5 năm
2017, ông có mặt tại phòng giao lưu, trụ sở 58 Quán Sứ, Hà Nội theo lời mời của
Ban Quan hệ quốc tế nhà đài. Sau phần chào hỏi xã giao thông thường, ông bắt
đầu cuộc giao lưu với việc giới thiệu tóm tắt sự nghiệp nhiếp ảnh báo chí của
mình qua một clip lên màn ảnh lớn... Trong lúc, ông chăm chú theo dõi những
hình ảnh của mình với sự chăm chú và ít nhiều xúc động qua việc lén chấm nước
mắt, thì nhiều người lại nhăm nhăm chụp ảnh ông...
Trong số những người vừa xem hình ảnh,
vừa tìm góc máy để chụp ông, có tôi. Tôi có mặt trước giờ ông đến, với tư cách
của người tổ chức buổi giao lưu, vừa là người yêu thích nhiếp ảnh, và có cả
mong muốn thỏa mãn sự tò mò nữa...
Sau khi những hình ảnh trong clip được
chiếu hết, màn hình phông trở lại bức ảnh nền “Vietnam Napalm Girl",
Nick Út cũng đã trở về với gương mặt kiên nghị và quắc thước vốn có, ông lặng
lẽ chờ đợi những câu hỏi của mọi người. Khán phòng im lặng chốc lát, vì dường
như, tất cả vẫn đắm chìm trong suy nghĩ về những bức ảnh vừa được trình chiếu,
mà chưa sẵn sàng đặt câu hỏi, cho dến khi người dẫn chương trình lên tiếng. Và
rồi, thay nhau, các câu hỏi liên tiếp được đặt ra cho ông, chủ yếu xung quanh
công việc nhiếp ảnh thời sự của ông, gắn với cuộc đời, và hãng thông tấn AP mà
ông làm việc từ ngày đầu vào nghề cho đến khi nghỉ hưu vào năm ngoái... Gì thì
gì, trung tâm của buổi giao lưu, của mọi câu chuyện, vẫn là tác phẩm “ Em bé
Na-pan “, mà ở đó, có mối quan hệ tay ba, đó là Nick Út ( tác giả ) – Tác phẩm ảnh – Nhân vật ảnh ( Kim Phúc ). Và từ đó, là hàng loạt những mối quan hệ ăn theo khác,
như tác giả với Hãng AP và giới nhiếp ảnh quốc tế nói chung; tác phẩm ảnh được
giải Pulitzer hết sức anh giá này đã khiến chính quyền, người Mỹ và cả thế giới
nhìn nhận về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam ra sao; và bản thân Nick Út đã
ứng xử với tác phẩm của mình và đồng nghiệp như thế nào sau sự kiện này ?
v.v...
Trở lại cuộc giao lưu, Nick Út tỏ ra
khá thoải mái khi trả lời các câu hỏi, kể cả những tâm sự về nghề nghiệp, mà
theo tôi, chắc hẳn ông đã tham gia những
cuộc giao lưu, phỏng vấn kiểu này nhiều rôi. Có một điều thú vị, các nhà báo nữ
của VOV rất hào hứng việc đặt câu hỏi, nhiều hơn các nhà báo nam, có lẽ, do sức
hút từ sự từng trải đầy nam tính ở nơi ông? Riêng tôi, tuy không trực tiếp hỏi,
chỉ loanh quanh tìm những góc máy vì muốn khắc họa chân dung Nick Út, nhưng hầu
hết những câu hỏi và trả lời, tôi không bỏ lọt tai. Tôi tin những điều ông nói,
phải chăng, từ cách diễn đạt trực diện, từ ánh mắt nhìn, động thái hình thể,
tất thảy, đều cho thấy sự thẳng thắn, chân thành và cầu thị toát ra từ con
người ông...
Nick Út ngồi đấy, đối diện với mọi
người, và cũng là đối diện với quá khứ của mình, tôi nghĩ thế, say mê mà tỉnh
táo, cứng cỏi mà thân thiện, giữ khoảng cách mà vẫn gần gũi. Trong rất nhiều
câu chuyện, tôi nhận ra ở Nick Út mấy điều cơ bản làm nên con người và sự
nghiệp của ông, từ quá khứ cho đến hiện tại, ấy là, những nguyên tắc cơ bản của
nhiếp ảnh báo chí, tính trung thực của tác phẩm và sự chân thành, cùng với lương tâm của người cầm máy, mà những
điều ấy, thiết nghĩ, là những giá trị chính yếu của đạo nghề...
Có một nữ phóng viên đã hỏi Nick Út
rằng ông đã làm gì ngay sau khi chụp bức ảnh “ Em bé Na-pan “ ? Không ngần
ngại, ông nói về những giây phút ấy, sau khi bấm máy, ông đã chạy đến, tìm cách
cứu giúp cô bé, như tưới nước rửa trôi chất cháy bám trên thân thể cô bé; rằng
khi đó, cô bé và những người khác đều hoảng loạn, kêu cứu thế nào; rồi ông đưa
cô bé đi cấp cứu ra sao ... Nick Út bảo, ông biết và ý thức rõ, rất có thể, vì
việc đưa cô bé đi cứu chữa, ảnh của ông gửi về Hãng sẽ chậm trễ, kể cả việc có
ai đó cũng chụp được cảnh tượng tương tự như ông, cho đăng báo trước ông, song
vì đạo nghề và đạo người, đã không cho phép ông bỏ rơi cô bé mà không cứu
giúp...
Và ông đã đúng, khi nghĩ vậy và làm vậy. Mọi người đã
biết, đánh giá, thậm chí so sánh, câu chuyện giữa Nick Út cùng tác phẩm “Em bé Na-pan“, với Kevin Carter cùng tác
phẩm “Kền kền chờ đợi“ cùng khoảng
cách 20 năm giữa hai sự kiện làm nên hai kiệt tác ảnh này. Chính vì hành xử
đúng, nên Nick Út đã không trở thành nạn nhân bởi chính sự thành công của mình,
như người đồng nghiệp Kevin Carter đã vấp phải, và đã hứng chịu búa rìu của dư
luận, sự rằn vặt lương tâm, sự bế tắc tư tưởng, đến mức phải tim cái chết. Còn
ông, không có gì phải ân hận, để rồi đủ niềm tin và ý chí, đặng vững bước trên
con đường nhiếp ánh báo chí, mà nhờ đó, đã gặt hái thêm những thành quả khi
theo đuổi ảnh báo chí về Hoolywood... Theo tôi, có lẽ còn cao hơn cả thành công của sự nghiệp cá
nhân, sau tác phẩm “Em bé
Na-pan“, cùng dư luận thế giới về tác phẩm này, Nick Út đã thay đổi nhận
thức về chiến tranh, đặc biệt chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ý thức về độc lập
tự do của dân tộc !...
Hơn thế,
cho đến thời điềm hiện tại, ông đã nghỉ hưu của Hàng AP, song vẫn có thể tiếp
tục công việc yêu thích, sự nghiệp nhiếp ảnh báo chí của mình với tư cách cộng
tác viên, tham gia giảng dạy và nói chuyện về nghề ảnh báo chí của mình...
Hôm nay,
ông-Nick Út, trước chúng tôi, những đồng nghiệp báo chí, với vẻ kiên nghị, đầy nhiệt
huyết và sự chân thành, để nhìn thẳng và nói thẳng !...
Gió đầu mùa,...
Đã trung tuần tháng 9 âm lịch rồi mà tiết trời vẫn
nóng. Dù đã thấy chút hanh heo đâu đó trong cái nắng, cái gió, trong màu lá cây
ngọn cỏ nhưng tiết thu vẫn mơ hồ...
Dịp Trung thu thì trời còn nắng nóng như mùa hè. Nhấm
nháp miếng bánh trung thu với trà ướp hương nhài, bụng bảo dạ "tháng tám nắng rám quả bòng" kia
mà. Là mượn lời người xưa để ru ngủ mình mà thôi, chứ thực lòng, thèm cái se se
lạnh lắm rồi. Cái thèm này, không giống cái thèm miếng ăn ngon khi đói, hay cái
thèm rượu bia khi nhạt mồm nhạt miệng, hay nữa, cái thèm hương vị người khác
giới khi con trai trẻ đương xuân;... Mà nó nhè nhẹ, se sẽ, rón rén, thấm dần
vào trong ta, rồi lan tỏa đến từng li ti huyết quản, đến từng tế bào... cho đến
khi nhận ra thì đã ngấm lắm rồi, say lắm rồi...
Một hôm nào đó, không nén được nỗi khát thèm, ta đã
mượn cớ nỗi chờ đợi cà phê nhỏ giọt mà bộc lộ nỗi nhớ gió mùa "Riêng giọt thu ngần ngại/ se sẽ đọng, lặng
thinh/ ghé song thiu thiu lá/ ngái ngủ khúc ru mình...". Ấy vậy, mà
trời đất đâu có chiều lòng mình...
Đêm trước, phải chăng, vài ba ly rượu nhỏ tiếp khách
trong bữa cơm tối mà cảm thấy nóng bức. Ngủ phải bật điều hòa, nói là dễ ngủ,
song cũng là để tìm cái cảm giác hanh heo nhân tạo trong không gian bó buộc.
Rồi như, hình như, ngoài hiên đêm có gì đó động đậy thì phải. Sáng ra, mở cửa, chợt thấy cái se
lạnh ùa vào. Gió mùa về thật rồi ư?...
Đi làm, phóng xe ra ngoài đường, gió lạnh tạt vào mặt.
Lại thêm lất phất mưa. Mọi người dừng xe để mặc áo mưa. Ta thì không, cứ phong
phanh phóng xe đi, để cảm cái se lạnh, cái ướt át đầu mùa. Đến nơi, mới thấy
cái lạnh đầu mùa đã thấm qua áo mỏng vào người.
Phải
đổi ngay áo khô để tránh bị ngấm lạnh. Và thay vì động tác quen thuộc mỗi đầu
giờ làm việc là bật công tắc điều hòa, thì mở bùng cửa kính phòng làm việc...
Bật máy tính, rồi thừ người ra, như kiểm tra cảm xúc
của mình. Bao xáo động đã yên tĩnh lại...
Lại mở cửa bước ra hành lang. Mấy nữ nhân viên trẻ
trung váy áo mùa thu, ríu rít chào. Lơ đãng nhìn và đáp lại cho phải phép.
Ừ, cái xao động của gió đầu mùa bay đâu mất cả ?...
Phải chăng, đã cuối thu rồi, và một mùa đông sắp đến
!...
Ừ, vì ta luống tuổi rồi mà !...
Gương mặt
Simacai,
1. Mùa đông rẻo cao.
Simacai, mùa đông năm 2007.
Với bầu không khí giá rét, sương mù và mưa phùn suốt
những ngày đông tháng giá như thế, sẽ là buồn tẻ nếu không có bầu không khí ấm
cúng và thân thiện đem lại từ nơi những quán ăn nhỏ rải rác trong thị trấn. Quả
là khi bước vào quán ở đây, mọi nỗi ưu tư thường nhật dường như được trút bỏ
trong phút chốc. "Bàn ghế đơn sơ
nhưng tấm lòng rộng mở", phảng phất câu thơ của Hoàng Trung Thông viết
về miền núi những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, gợi về. Bát đũa bày lên
bàn còn nóng hổi vì mới được nhúng vào chảo nước sôi trước khi mang ra cho
khách. Thực khách cóng tay vì rét có thể cầm chiếc bát xoay nhẹ trên lòng tay
mà sưởi ấm. Còn như vẫn thấy lạnh, khách có thể kéo ghế ngồi quanh một chiếc
hỏa lò than tàu rực hồng phía bên trong với những bắp ngô nếp, sắn tươi, khoai
lang đặt nướng sẵn trên rìa miệng lò dần chín mùi thơm lừng. Đặc biệt nữa, một
chiếc đĩa sứ được đổ rượu bày lên bàn ăn, chủ nhường khách châm lửa cho rượu
trong đĩa bùng cháy xanh lét, tỏa hương quyến rũ. Mọi khí lạnh và sương giá bị
xua tan hết, chỉ còn lại bầu không khí của ẩm thực, khiến thực khách phải nén
nuốt nước miếng, trước khi những món ăn được bưng ra. Đấy cũng là cách để chủ
quán chào thực khách, cả ngầm khoe và cảnh báo về nồng độ và hương vị hảo hạng
của loại rượu bản địa mà nhà hàng sẽ hầu khách quý. Rồi đó là món ăn, thường là
măng luộc chấm chẩm chéo, rau rừng tiến vua luộc hoặc xào tỏi thịt bò, thịt thú
rừng xào lăn, cá suối rán ròn ; còn món ăn cơm, có thịt gà ta rang gừng hoặc
thịt lợn, giống lợn Mường Khương hay giống bản địa rang sém cạnh, canh măng
chua hay canh mướp đắng… Tan bữa, sự dễ chịu vẫn còn ở cái giá cả cũng phải
chăng. Cả khách, chủ đều hài lòng.
Hôm chúng tôi xuôi lại Bắc Hà, trùng vào ngày có chợ
phiên Cán Cấu. Giàng A Giả tiễn chúng tôi bằng phiên chợ nổi tiếng của vùng quê
mình. Khi chợ phiên Bắc Hà đang dần bị thương mại hóa bởi kinh tế thị trường
dưới xuôi tràn lên thì chợ phiên Cán Cấu vẫn giữ được vẻ nguyên sơ. Không hiểu
thường ngày thế nào, chứ khi đó, sắp đến tết Mông, mà tết Nguyên đán cũng đã
gần, chợ phiên đông vui náo nức lắm. Đông vui là thế, song cũng có thể chia ra
thành mấy nhóm hàng, chợ gia súc trâu, bò, ngựa, lợn, chó, gà ; chợ nông cụ và
đồ gia dụng; chợ váy áo và hàng xén; và chợ của ẩm thực. Phiên chợ rẻo cao
thường là chợ của sắc màu, của thanh âm và mùi vị. Chợ của sắc màu, bởi váy áo
của cánh đàn bà phụ nữ rực rỡ đủ màu. Chợ của thanh âm, là bởi tiếng của nhiều
dân tộc thiểu số, chen vào đó là tiếng khèn sáo từ sườn núi vọng xuống, tiếng
ba hoa hay lè nhè của đám bợm rượu, tạp lẫn tiếng gia súc gia cầm. Chợ của mùi
vị, trước hết bởi mùi thơm nồng của thắng cố quện với hương vị rượu men lá, mùi
chua ngậy của món phở Mông, mùi thơm của xôi nếp nương, hương tinh khiết của
món bánh pà-cúa-dế, và cả cái mùi nằng nặng của hơi người tỏa ra nơi áo
váy…Trời rét ngọt, chúng tôi quây quần quanh tô thắng cố nghi ngút khói thơm,
cùng tô mèn mén, nâng chén rượu, Giàng A Giả mặt đỏ ửng, nói với chúng tôi,
thực ra là nhắm vào hai cô gái trong đoàn, rằng cậu ta có một tâm nguyện đã hứa
với người cha, một ngày kia sẽ đưa cha về thăm phố phường thủ đô và vào Lăng
viếng Bác Hồ. Trời đứng bóng, chia tay Giàng A Giả bịn rịn. Tưởng sẽ nhẹ nhàng
mà xuôi. Tình cờ lại gặp những cảnh ngộ khác. Cách cái chợ phiên Cán Cấu chỉ
một quãng ngắn thôi, có mấy ngôi nhà tĩnh lặng, như tách biệt khỏi cái chợ ồn
ào và con lộ chạy ngang ngày đêm ầm ào tiếng xe cộ. Ở đấy, có hai cô gái trẻ
khá xinh xắn người dưới xuôi, một là giáo viên tiểu học, một là nhân viên trạm
y tế. Cô nhân viên y tế chưa cùng ai, còn cô giáo viên đã có con, bé gái hơn
một tuổi. Hỏi ra, chồng dân vãng lai, làm đâu đó ở một xí nghiệp liên doanh
dưới xuôi. chấm chẳng năm lên thăm vợ con đôi lần rồi biền biệt, để hai mẹ con
nuôi nhau. Ba người, hai đàn bà và một bé gái ở với nhau thì vui sao nổi. Khi
trò chuyện với cánh báo chí chúng tôi, hai cô tỏ ra vui vẻ, song nhìn kỹ vào
gương mặt, vào sâu con mắt họ, vẫn ẩn chứa nỗi buồn tẻ, nỗi niềm xa vắng… Cứ
như họ nằm đâu đó bên rìa cuộc đời, chẳng quan hệ đến ai, chẳng liên quan gì
đến cái chợ, đến những chiếc xe qua lại ngày đêm ngoài kia … Chỉ có mấy cây
mận, cây đào trước cửa, thì năm lại năm, đông qua xuân đến, hoa trổ cánh trắng
cánh hồng, như an ủi, xẻ chia nỗi lòng của họ, lại như thầm báo hiệu một năm
mới với chút hy vọng nhỏ nhoi !...Men bờ dòng sông Chảy mà xuôi, Simacai và Bắc
Hà với giá rét sương mù đã ở lại phía sau. Nhưng nỗi lòng của mấy cô gái nọ,
tâm nguyện của Giàng A Giả ước một lần đưa cha về thăm thủ đô, tiếng khèn Mông
của già bản ở Nàn Sán, tiếng vó ngựa lóc cốc sớm tinh mơ về chợ Bắc Hà thêm nặng
lòng người về. Rồi đó, hương vị thơm nồng của rượu Bản Phố, ngầy ngầy của món
thằng-cố, hương thảo mộc tinh khiết của món bánh pà-cúa-dế…dìu dịu mà đằm thành
nỗi nhớ lúc nào không hay…Tôi lại nghĩ về làng quê mình, lúc này hẳn mọi người
đã ra đồng tìm hái rau khúc về làm bánh. Lại sắp đổ ải, và quay đi ngoảnh lại,
tết Nguyên đán đã ập đến nơi rồi. Tha hồ mà tất bật, công việc đồng áng không
thể bê trễ mà vẫn phải lo chuẩn bị củi lửa nồi bánh chưng, lại còn sắm sanh bao
nhiêu thứ lặt vặt, mà cái gì cũng đều tiền cả, để cho cái tết tươm tất…
Rẩm riu lòng, tết này, có một cành đào núi nhỉ !...
2. Gương mặt Simacai.
Đã lâu lắm rồi, tôi chưa trở lại Simacai, cái vùng đất
mờ sương khói hư ảo nơi địa đầu đất nước, kể từ mùa đông năm 2007. Vậy là đã
gần mười năm qua...
Lần đi Hà Giang cuối thu rồi, tôi
xuyên từ Bắc Quang, Quang Bình, vượt Cổng trời núi đất phía Tây, băng ngang
Hoàng Su Phì, men dòng sông Chảy đến Cốc-pài, rồi lại từ Cốc pài men núi cao
vực sâu mà đi cắt sang đất Lào Cai. Xe đến ngã ba Lùng Phìn, nhìn cái biển chỉ
đường, rẽ phải - Simacai... km, vậy mà đành rẽ trái về thị trấn Bắc Hà. Chợ
Lùng Phìn chiều muộn hết khách, lều quán chơ vơ trống huếch, lòng hiu hiu buồn.
Nhẩm lòng, Simacai ơi, hẹn trở lại vào một dịp nào đấy gần nhất nhé. Xuôi về hướng
Bắc Hà, ngủ thiếp đi trong tiếng xe lướt quanh co đầu dốc chân đèo...
Mùa đông năm ấy, chỉ cách tết nguyên
đán chưa đầy tháng, mấy phóng viên chuyên mảng văn hóa đời sống chúng tôi lên
đường đi Tây Bắc, Việt Bắc để viết bài tết. Lịch đi hết cả tuần, nên chẳng vội
vàng gì, cứ nhẩn nha, dọc đường gặp gì hay gì lạ thì dừng đấy mà viết. Bờ nam
sông Hồng, qua Sơn Tây, sang đất Phú Thọ, ngược Cẩm Khê mà lên Yên Bái. Mất vài
hôm, có chút thú vị, lấy cảm hứng rồi ngược dòng sông Chảy mà lên. Đây là lần
đầu tôi chạy tuyến đường này nên khá nhiều ngạc nhiên thú vị. Đèo dốc không quá
cao, song quanh co, khúc khuỷu, với nhiều cung bậc sông suối. Đến cửa ngõ Bắc
Hà thì gặp sương mù dày đặc, xe dò dẫm trong sương mà đi, bên vực sâu, bên vách
núi dựng đứng, có chút lo lắng, nhưng rồi cũng vào được thị trấn. Lại mất mấy
ngày ở Bắc Hà, công việc bận rộn và kết thúc mỗi ngày là cuộc rượu đãi đằng
nghiêng trời lệch đất.
Simaicai, khi ấy, mới tách ra từ huyện Bắc Hà cũ. Thị
trấn mới của huyện từ điểm giáp ranh Lùng Phìn ngược lên vài chúc cây số nữa.
Dọc đường thấy mấy cải biển số chỉ đường, nào những Tả Củ Tỷ, Sán Chài, Nàn
Sán,... đọc tên mà mường tượng cũng đã thấy những xa xôi, gian khó thế nào
rồi. Khi anh lái xe bảo đã vào thị trấn, nhưng nào đâu thấy phố, thấy nhà,
bao phủ là một bầu sương mù trắng xám. Ðúng trưa, trời rét nên đói bụng,
trước hết là phải tìm quán ăn... Tình cờ và ấn tượng. Quả thực, đã mười năm
rồi, tôi vẫn nhớ cái cảm giác lạ v à thú vị của bữa ăn ấy, quan ăn ấy. Miếng
ngon nhớ lâu, người xưa bảo vậy, cấm sai...
Mấy ngày công việc ở Simacai, đi lại vất vả, song
nhìn chung được việc, nên mọi người đều vui. Giàng A Giả, chàng nhân viên
Phòng Nông nghiệp huyện, người Mông bản địa đã từng được gửi về học Đại gọc
Kinh tế quốc dân Hà Nội, nói thạo tiếng Kinh, như con thoi đưa chúng tôi đến
mọi hang cùng ngõ hẻm. Có lần vào bản Mông cheo leo, gặp trời mưa, dốc đất mấp
mô đá, mấy chúng tôi phải dùng tay mà bấu víu bò lên, còn anh chàng nay cứ nhảy
thoăn thoắt trên các mỏm đất đá mà chuyền như vượn. Lần ấy, tôi có đến Trạm
biên phòng Sín Chải. Ðây là điểm giáp ranh với Trung Quốc. Trạm nằm kề bên
bờ sông biên giới, phía đất ta địa hình khá bằng phẳng, còn bên kia đất bạn
là vách núi dựng đứng. Quan hệ láng giềng ở khu vực này bấy lâu khá yên
ổn. Bà con hai bên qua lại làm ăn vui vẻ. Các sĩ quan của trạm đều khá thạo
tiếng Trung, tuy nhiên các anh vẫn thiếu một số sách tiếng Trung để phục vụ
cho công việc. Giữ lời hứa với các anh, khi về Hà Nội, tôi đã tìm mua một số
cuốn gửi lên trạm theo đường buu điện.
Đường về, Giàng A Giả tiễn chân
chúng tôi đến hết đất Simacai, và nhờ thế, tôi được hòa mình vào không
khí náo nhiệt và đầy sắc màu của chợ phiên Cán Cấu cuối tuần. Có lẽ, đây
là một chợ phiên khá đặc biệt ở vùng biên giới phía Bắc này. Về sự nổi
tiếng, có thể chợ này không bằng chợ Bắc Hà
( Lào Cai ), chợ Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc ( Hà Giang ), song theo
tôi, chợ phiên Cán Cấu đặc trưng và ấn tượng hơn về sự nguyên bản sắc tộc.
Giờ tôi vẫn nhớ cái cảm giác khi lần đầu ăn thắng cố ngựa tại chợ, hương vị
quen quen là lạ khi nếm thử miếng bánh của người Mông có tên gọi là pà-cúa-dế được chế biến từ bột gạo nếp
trộn với nước vắt giã từ một loại rau thảo dược có ở vùng rừng núi này...
Rồi thêm nữa, là hình ảnh trạm y tế xã và ngôi trường tiểu học liền kề với
mấy nữ nhân viên, giáo viên người dưới xuôi lên đây công tác, hoặc muộn
chồng, hoặc có con nhưng phải nuôi con một mình. Những khuôn mặt chọt mừng
vui vì được tiếp xúc với người dưới xuôi, lại là những người làm báo như
chúng tôi, với hy vọng có thể thấu hiểu, chia sẻ, hơn nữa là nói hộ nỗi
lòng họ, rồi ngay đó là sự thẫn thờ, cam chịu và thậm chí vô vọng vì cảnh
ngộ hiện tại của mình... Với tôi, thật sự ám ảnh... Và đến bây giờ, nghĩ
lại, vẫn còn dư vị cảm giác ấy!...
Giương mặt Simacai, hư ảo và sương khói của lần đầu
gặp gỡ.
Lại chờ đợi cho lần gặp sau...
Hà Giang, những nẻo đời ...
1. Với
mỗi người Việt Nam, ai chẳng muốn được đặt chân tới hai cực nam-bắc của tổ
quốc, ấy là Lũng Cú và mũi Cà Mau. Riêng với tôi, mũi Cà Mau thì tôi đã đến từ
lúc còn rất trẻ, khi là chàng kỹ sư nông học vác ba lô lên vai rời ghế nhà
trường vào đồng bằng sông Cửu Long làm quy hoạch nông nghiệp sau giải phóng niềm
Mùa thu đến muộn, mưa bão liên miên
dầm dề từ hè sang. Đường lên thị xã Hà Giang từ ngoại ô Hà Nội đến Vĩnh Yên lũng
bũng những nước. Rồi đó, dòng Lô Giang cuồn cuồn nước đục ngầu về xuôi. Nhìn
dòng nước, tôi rẩm riu, dòng nước kia chứa đựng trong lòng nó những gì của
thiên nhiên và con người ?
Tôi nhanh chóng quên đi cái náo nhiệt
sắc màu của ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc được tổ chức tại thị xã
Hà Giang để vượt dốc đến mấy địa danh vùng cao nổi tiếng của miền cao nguyên đá
này. Biết không thể tham song tôi ý thức, chí ít cũng phải đến bốn nơi cần phải
đến. Bắt đầu là Cổng Trời Quản Bạ. Ngày xưa đường xá hiểm trở, lên được đến đây
hẳn đã cực nhọc lắm rồi, nên người ta mới mệnh danh cho nó là Cổng Trời. Giờ
thì đây mới chỉ là cửa ngõ để vào cao nguyên đá khô cằn, hiểm trở và không kém
phần bí ẩn. Đường tốt, trên đỉnh cao chót vót là những cột phát sóng, và một
trong số đó là cột phát sóng FM của Đài Tiếng nói Việt Nam với nỗ lực mang
tiếng nói của Đảng và Chính phủ đến mọi ngóc ngách khuất nấp, hẻo lánh nhất.
Chợ Quản Bạ gần đứng trưa mà vẫn đông vui sầm uất lắm, dù mấy chảo thắng cố đã
được thực khách xơi hết từ bao giờ. Len lỏi qua dãy hàng ăn thấy vui lây mà đói
bụng bởi cái sự náo nhiệt và ngon miệng của bà con dân tộc thiểu số. Chợ phiên
Quản Bạ có mấy điểm nhấn nữa, đó là dẫy hàng trang phục rực rỡ sắc màu với đám
đông các cô gái tíu ran nói cười thử váy áo; cùng đó là những hàng bán điếu cày
và khèn gỗ với màn chào hàng trầm buồn điệu khèn xen lẫn từng tràng tiếng rít
nõ điếu cày; và nữa, ấy là từng dãy can nhựa to đầy rượu xếp hàng uốn lượn như
bầy rắn khổng lồ giữa chợ. Chúng tôi vào nhà một người quen ở ngay thị trấn
Quản Bạ, ấy là anh giáo Tự. Phạm Văn Tự quê Thái Thụy, Thái Bình, lên miền
ngược dạy học hơn ba chục năm rồi, lấy vợ người Pù Nhi, hiện là hiệu trưởng
Trường THCS Tam Sơn. Anh là cộng tác viên tích cực của Báo Giáo dục & thời đại, còn là một cây bút thơ địa phương.
Trong hơi men ngà ngà bữa cơm thân mật tại gia, giáo Tự đọc rất nhiều thơ, phần
lớn là nỗi niềm nhà giáo vùng cao, tình yêu trai gái người dân tộc, nỗi nhớ quê
hương đồng bằng. Nghe mà da diết buồn. Tôi nhớ được một câu thơ hay của anh
trong bài thơ Nỗi niềm cô giáo vùng cao :" Bao lần rồi lại bao lần/ Đá tai mèo cứng dưới chân đá mềm/ Thế mà chẳng
mảnh tình riêng/ Có bao cô gái lỡ duyên đất này...".
Rời Quản Bạ, biết là cố thêm chút nữa
là có thể đến được đỉnh Cao Mã Pờ trên
độ cao 1999 m sát biên giới Việt Trung, cách huyện lỵ Maliphô của Vân Nam không
xa, song đành chịu khất lần sau. Ngược dốc băng qua Yên Minh, đến đất Đồng Văn,
đoạn gần Phố Cáo đường dốc cua tay áo lại bị trận lũ năm trước bóc hết mặt trơ
đá lởm chởm. Từ đoạn này trở lên, bắt gặp những trung tâm cụm xã song nhà ở còn
rất lèo tèo, nghe đâu vì kiểu quy hoạch này không hợp với phong tục bà con
người dân tộc nên họ không chịu đến ở. Đường treo leo trên cao thấy thấp thoáng
bóng ngôi nhà cổ trong tán cây um tùm long thung lũng Sà Phìn, đó là nhà Vương.
Bóng chiều chạng vạng, sương khói mờ ảo, rồi quá mù thành mưa. Chốc chốc lại
bặt gặp đôi ba người dân say rượu tan chợ đi vắt sổ dặt dẹo ba bước tiến hai bước lùi trên đường tan chợ về. Kia
nữa, một cô gái Mông còn trẻ say rượu nằm ngủ bên vệ đường, đầu gối lên tảng
đá, váy áo vẫn xếp nếp che chân, che mặt...
Đêm thị trấn Đồng Văn se lạnh và có gì
đó bí ẩn lan tỏa từ phía dãy phố cổ. Sáng hôm sau, chúng tôi đi Mã Pì Lèng trên
chiếc xe rất ngon của Huyện uỷ Đồng Văn. Anh lái xe vừa thạo đường vừa hay
chuyện. Những câu chuyện đường rừng ngồ ngộ nửa hư nửa thực. Hỏi Mã Pì Lèng có
cao không? Chuyện kể rằng, có một đôi vợ chồng người Mông đi nương, chẳng may
người vợ đánh rơi chiếc gàu sắt múc nước xuống sườn núi phía sông Nho Quế.
Chiếc gàu rơi mãi cho đến tận sáng hôm sau mới rơi được nửa chừng. Hơn chục cây
số đèo dốc treo leo với những cua tay áo, chúng tôi đến được đỉnh Mã Pì Lèng
trên đất Mèo Vạc. Tấm bia đá ghi rõ : " Nhân dân vùng núi tiến kịp vùng xuôi, Trung ương Đảng khi về Việt Bắc
quyết định mở đường Hà Giang, Đồng Văn, Mèo Vạc. Khởi công ngày 10-9-1959. Ngày
hoàn thành 10-9-1965. Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc Cao Bắc Lạng, Hà Tuyên
Thái, Nam định,Hải dương. Riêng dốc Mã-pì-lèng công nhân đã treo mình 11 tháng
để mở đường ". Đứng từ đây phóng tầm mắt, sông Nho Quế mảnh như một
sợi chỉ bạc uốn lượn trong sương núi huyền ảo. Tôi biết đến địa danh này qua
thơ của Xuân Diệu và hối ký văn học Cát
bụi chân ai của Tô Hoài. Trong thơ Xuân Diệu, Mã Pì Lèng đầy khí thế, còn
qua hồi ký Tô Hoài lại có gì đó u uẩn. Núi hay người ? Người là núi và núi cũng
là người chăng ?!...
Nhà Vương ở thung lũng Sà Phìn, xã
Lũng Phìn, trên độ cao 1600m. Nhìn gần đồ sộ uy nghi kiểu dinh thự, khác hẳn
với góc nhìn từ trên đường núi cao vì khi ấy có vẻ hơn như một khu chùa cổ. Tuy
đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào
năm 1993, song chưa được khai thác với mục đích du lịch vì bên trong còn những
6 gia đình con cháu ông Vương Chí Sình sinh sống. Nay huyện mới trưng dụng cấp
nhà cho họ ra bên ngoài ở, nhằm bảo vệ di tích theo tinh thần Luật Di sản, và
chuẩn bị khai thác vào mục đích du lịch. Anh cán bộ Phó Văn phòng huyện ủy phải
vào Trường Tiểu học Lũng Phìn xin phép nhà trường cho cháu Vương thị Giàng, học
sinh lớp 4, cháu 4 đời của ông Vương Chí Sình, nghỉ tiết học thể dục mở khóa
cửa khu nhà cho chúng tôi vào tham quan. Theo bản thuyết minh của huyện, thì
khu nhà này được bang tá Vương Chính Đức (
cha ông Vương Chí Sình ), người một thời từng được mệnh danh là Vua Mèo, cho xây dựng và khánh thành vào
năm Khải Định thứ tám ( 1923 ). Khu nhà có cả thảy 64 phòng với chiều sâu 56m,
bề rộng 22m và chiều cao từ 10 đến 12m, theo lối kiến trúc Trung Hoa đời Thanh
kết hợp với phong cách bản địa, do các thợ giỏi từ Vân Nam, Quảng Tây cung hàng
ngàn dân phu kiến tạo , tốn một khoản tiền lớn tới 15 vạn đồng bạc trắng ( 1 đồng bạc trắng tương đương 50 kg ngô thời
đó ). Khu nhà chính tổ hợp hình chữ Mục
( mắt ), kết cấu chiều sâu gồm Tiền dinh-Trung dinh-Hậu dinh, nó vững chắc
như một lâu đài cổ châu Âu bởi tường xây đá xanh, nhất là tường bao kiên cố ( cao 2m, độ dày 0,65m, cứ cách 6m có 1 lỗ
châu mai), cùng 2 lô cốt-pháo đài phòng thủ và hệ thống hầm ngầm. Tha thẩn
trong khu nhà, riêng tôi rất thích thú với những bình phong, câu đối chữ Nho.
Qua cổng vào, chính tiền dinh là đôi câu đối :" Gia tích thiện hiền nhân xuất
nhập/ Môn phong lưu quý khách vãng lai " ( dịch nghĩa là : Nhà tích thiện người hiền ra vào/ Cửa phong
lưu quý khách tới thăm ). Bức đại tự 4 chữ lớn Biên chính khả phong (
nghĩa là: Chính quyền ở biên cương này
mạnh ) v.v... Tất cả những thứ đó thể hiện sự vàng son một thời của dòng họ
này trên cao nguyên Đồng Văn. Vương Chính Đức nguyên chỉ là một người làm công
của Thổ ty Hoàng Tự Bình, song ông là người có chí, lại có uy tín rất cao trong
vùng, nên được người Pháp đưa lên làm Chánh tổng, rồi đến đầu thế kỷ 20 được
cho làm bang tá, cai quản cao nguyên Đồng Văn. Khi con trai ông, Vương Chí Sình
( còn gọi là Vương Chí Thành ) nối
nghiệp cha, đã giác ngộ cách mạng, đi theo Cụ Hồ, góp phần gìn giữ một khu vực
biên cương hiểm trở của tổ quốc. Ông trở
thành đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I, II, từng là chủ
tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất, đồng thời được Hồ Chủ
tịch tặng đôi liễn Bất thụ nô lệ- Tận trung báo quốc ( nghĩa là : Không chịu nô lệ/ Dốc lòng vì nước ).
Rồi đây khách tham quan sẽ ra vào khu
nhà này, và nó sẽ là nhân chứng về những biến động của những con người và cả
vùng đất này của một thời, là bằng chứng
về xu thế tất yếu không gì cản nổi của cách mạng dân tộc, về sự bình yên và
thiêng liêng của toàn vẹn lãnh thổ !...
Đường lên Lũng Cú trùng trùng núi, vẫn
còn những nương ngô cằn cỗi vàng xỉn trên dải đá xanh lởm chởm, nhưng xem ra
đất ở đây có vẻ màu mỡ hơn. Đồn biên phòng Lũng Cú rất nên thơ trong lùm xanh
cây cối hoa lá, điều này chứng tỏ sự chăm chút của anh em chiến sĩ nơi đây
ngoài nhiệm vụ chính canh giữ bình yên vùng biên cương hiểm trở của tổ quốc.
Phó đồn trưởng Mạc Hà Túy đưa chúng tôi đến thăm
Trạm biên phòng Lũng Cú rồi trèo lên đỉnh cao chân cột cờ Lũng Cú. Từ đỉnh này
nhìn xuống, hai bên chân núi là hai hồ nước. Thì ra, đấy là hai mắt rồng, lý
giải cái tên Lũng Cú là cách gọi chệch âm Hán của cụm từ mắt rồng mà thành. Lấm chấm những nóc nhà người dân tộc Lô Lô, một
bản của Việt
Đường về, chúng tôi tạt qua Phố Bảng.
Cái thị trấn biên giới vang bóng một thời từ đầu thế kỷ 20 với tư cách là huyện
lỵ Đồng Văn, không còn sự sầm uất xưa, song ở đó vẫn phảng phất bóng dáng vương giả cũ, lại xen
chút u hoài qua dãy phố cổ người Hoa và nền móng nhà Vương (nhà Vương thứ hai, nơi Vương Chí Sình ở khi
giữ chức chủ tịch UB hành chính Đồng Văn ), nền phố xá ngày trước...
Quanh quanh đường núi chênh vênh, kìa
bên rìa mép đá, hai đứa trẻ người Mông, con chị chừng dăm tuổi, thằng cu em mới
độ chập chững đi, chúng ngồi vắt vẻo, chắc chờ cha mẹ, hút dưới chân là vực
thẳm sâu đến ba bốn chục thước. Mọi người ồ lên ái ngại. Nhưng đâu có phải là
lần đầu thấy, tôi đã nhiều lần thấy đó đây trên các nẻo đường rẻo cao Tây Bắc,
Việt Bắc. Song cảm nhận, có gì mong manh quá. Sự mong manh dễ đổ vỡ còn thấy ở
thân phận con người dày nỗi nhọc nhằn. Đó là thân phận những cô giáo cắm bản,
những cô gái người dân tộc còng lưng vừa gùi vừa xe sợi gai, thân phận những
tráng niên say rượu dặt dẹo cuối buổi chợ phiên như bị đè nặng bởi dãy dãy can
rượu ăm ắp. Nhớ đến câu nói vui của cánh nhà báo, rằng bà con nơi đây rượu
nhiều như nước sông Lô mà lòng se lại. Cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số
trên vùng cao nguyên đá này khá khẩm lên nhiều lắm. Nhưng chao ơi, cũng còn quá
nhiều việc phải lo nghĩ, phải làm !...
2.
Mặc dù làm báo chuyên nghiệp, song bước vào năm đầu
của thế kỷ 21, tôi vẫn chỉ biết đến vùng đất Hà Giang địa đầu này qua bài hát “Hà
Giang quê hương tôi” của nhạc sĩ Thanh Phúc với giọng hát tuyệt vời của
nghệ sĩ gạo cội Kiều Hưng: “Ai về thăm
quê hương tôi,/ nơi biên cương là đây/ có rừng cây thiên nhiên xanh biếc một màu/
Đây Hà Giang, đây Hà Giang quê chúng tôi... “. Ấy là một thiệt thòi lớn.
Vậy nên, sau đó, ngay lần đầu lên với Hà Giang, tôi đã say như điếu đổ mảnh đất
này, và có thể nói, cho đến tận giờ, đây là tỉnh duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã
đi tất cả các huyện, còn hơn cả Hưng Yên quê gốc tôi...
Như bao người, lần đầu đến với Hà
Giang, sau công việc chính ở thành phố, chúng tôi thẳng tiến phía Bắc, lên Cổng
trời Quản Bạ, rồi vượt Yên Minh, qua Phó Cáo, đến thung lũng Sà Phìn thăm nhà
Vương, rồi lên cột cờ Lũng Cú, về thị trấn Đồng Văn, và gắng thêm nữa lên
Mã-pì-lèng, chọn điểm ngắm sông Nho Quế từ trên cao. Khi về thì tạt ngang Phố
Bảng. Vậy cũng là thỏa mãn rồi. Song phàm người ta, biết một lại muốn biết hai, có ba có bốn lại đòi có năm, nên từ lần
sau, lên đến Yên Minh thì tôi tạt ngang sang Mèo Vạc. Chuyến đi này, có nhà thơ
Nguyễn Vĩnh Tuyền, thân sinh kiến trúc sư-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, phóng viên
trẻ Nguyễn Thịnh của VOV Giao thông, hơn nữa, lại có một nữ phóng viên trẻ xinh
của Đài Phát thanh truyền hình tỉnh với vai trò hướng đạo. Dọc đường đi, câu
chuyện trong xe rôm rả, thơ nhạc rổn rảng, nhất là câu chuyện trêu đùa nhau của
đôi phóng viên trẻ, vì thế mọi người quên đi sự e ngại khi xe leo những cung
đường cheo leo, một bên vách đá dựng đứng, còn bên kia là vực sâu thăm thẳm.
Khi xe từ Mậu Duệ, sang Tà Lủng để đến thị trấn Mèo Vạc, trời đổ hoàng hôn,
đường vắng teo, xe lao trong bóng chiều đỏ lựng, chuyển sang chạng vạng, tạo
nên một cảm giác hư ảo như mê ngủ, và phố thị Mèo Vạc cũng hiện ra trong vầng
sáng điện vàng khè chìm đắm giữa núi rừng hùng vĩ...
Mệt nhọc và men rượu khiến giấc ngủ
đến nhanh. Sáng trở dậy, sương mù giăng khắp nẻo. Sau khi lót dạ bằng món bánh
cuốn trứng nóng hổi đặc trưng, chúng tôi thăm bản Lô Lô ngay rìa thị trấn. Đây
cũng là một điểm du lịch của Mèo Vạc, khi người ta không thể đến Khâu Vai. Cũng
chỉ là ngó nghiêng thôi, chủ yếu xem kiểu cách nhà cửa, nếp sinh hoạt của bà
con dân tộc Lô Lô nơi đây. Đích chuyến đi này, ấy là Bắc Mê, vùng đất phía đông
của Hà Giang, ở đấy có di tích Căng Bắc Mê, vốn xưa là Trại lính kiêm nhà giam
của Pháp thời kháng chiến. Hỏi thăm dân bản địa đường từ thị trấn Mèo Vạc đi
Bắc Mê, rồi cứ tọa độ ang áng vậy mà đi. Đường nhỏ cheo leo nhưng khá tốt, vắng
vẻ đến mức xe chạy hàng chục cây số không một bóng người trên đường, đến nỗi
khiến chúng tôi e ngại lo nhầm đường, và có muốn dừng xe để hỏi thăm cũng chẳng
có ai để mà hỏi. Đành cứ thế đi liều, may mà đúng đường, bởi thực ra, đây là
độc đạo. Ở một cung đường, chúng tôi dừng nghỉ vì bắt gặp một ngôi nhà người
Mông tường rào đá, cổng gỗ đặc trưng khá đẹp. Vào nhà, đánh tiếng, vợ chồng chủ
nhà đang nấu rượu. Họ mời chúng tôi nếm rượu, hứng chén vào vòi chảy của nồi
rượu đang lên hơi. Nhấp thử thứ rượu ngô nóng hổi nấu từ mèn mén, nồng nồng
ngai ngái. Hỏi chuyện chủ nhà, huyên thuyên một hồi, rồi chào nhau đi, không
quên mua theo một can rượu ngô 5 lít cho vui lòng nhau. Không ngờ, tuyến đường
này lại xuyên qua đất của Bảo Lạc, Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng, mà nếu ai đó,
đi du ngoạn đến thành phố Cao Bằng, có mong muốn thăm thú mấy, cũng phải ái ngại khi nhắc đến
hai địa danh phía tây này của Cao Bằng.
Chiếc cầu sắt, nghe nói được làm từ
thời Pháp thuộc, bắc qua đôi bờ sông Gâm, nối thông thương thị trấn Bảo Lâm ( Cao Bằng ) với thị trấn Bắc Mê ( Hà Giang ). Ai ngờ ngay trên đỉnh cao
nhìn xuống chiếc cầu sắt này, là Căng Bắc
Mê. Dù được công nhận là Di tích lịch
sử cấp tỉnh, song công tác bảo tồn ở đây khá sơ sài, đơn giản. Khi tha thẩn
thăm thú di tích này, đầu tôi cứ ong ong bởi sự ám ảnh về câu chuyện không rõ
thực hư, rằng một thời gian dài, nơi đây được tận dụng để giam giữ một số văn
nghệ sĩ được cho là có những suy nghĩ lệch lạc về đường lối sáng tác ... Mà
cũng chẳng biết nguồn gốc từ đâu và hỏi ai để rõ thực hư, nên đành bỏ ngỏ... Sự
tiếp đón nồng nhiệt của các bạn đồng nghiệp ở Đài phát thanh huyện cho thấy
người Hà Giang rất quý người, hiếu khách. Những câu chuyện buồn vui nghề nghiệp
được kể ra trong hơi men rượu nồng.
Mùa hè 2016, tôi lên Hà Giang cùng nhà văn Nguyễn
Trọng Huân và người bạn tôi, họa sĩ Lã Minh Kính, nguyên giảng viên Trường Mỹ
thuật công nghiệp. Cũng tuyến đường Yên Minh-Mèo Vạc-Bảo Lạc-Bảo Lâm-thị trấn
Bắc Mê. Lần này, thay vì ngủ đêm ở Mèo Vạc thì chúng tôi lại ngủ đêm ở thị trấn
Bắc Mê. Đường đi, sau 5 năm có khá nhiều thay đổi, trước đây đường tốt vắng vẻ
là thế, thì nay đường xấu bụi, ấy là do có đến mấy nhà máy thủy điện nhỏ đang
được thi công trên sông Gâm-sông Nhiệm. Buồn ngủ, nên cũng chẳng để ý ngôi nhà
người Mông trên chặng đường mấy năm trước có còn không và chủ nhân ngôi nhà ra
sao.
Tự nhiên, lại thấy buồn buồn, đúng là thế gian biến
cải vũng nên đồi thật. Thăm lại Căng Bắc Mê, nhà văn Nguyễn Trọng Huân cứ thắc
mắc này nọ, những câu hỏi cũ như tôi từng nghe nói. Di tích càng xuống cấp và
hoang vắng hơn trong nắng chiều hè lỗ đỗ trên vòm cây rừng cao vút và những bức
tường gạch long lở rêu phong như phế tích...
Đêm ở thị trấn Bắc Mê khó ngủ. Họa sĩ Lã Minh Kính cứ
chong chong với phác thảo đồ họa cho một sáng tác để dự Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc. Còn tôi, lại ong ong trong đầu câu
chuyện năm nào về thân phận văn nghệ sĩ, rồi cả nghĩ về chặng đường đèo ngày
mai...
3.
Trong lúc trà dư tửu hậu nơi công sở với nhau, tình
cờ, tôi được biết, nhà thơ Trần Đăng Khoa chưa từng đặt chân đến đất Hà Giang
bao giờ. Vậy nên, cuối thu đầu đông năm 2011, tôi chủ trì một hội thảo nghiệp
vụ của Đài Tiếng nói Việt Nam với Hội Nhà báo và Đài Phát thanh Truyền hình
tỉnh Hà Giang, trong đoàn công tác lên Hà Giang, có rủ Trần Đăng Khoa, thêm nhà
thơ Trương Hữu Lợi và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền ( thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến ).
Tại hội thảo, sự có mặt và đăng đàn của một người nổi
tiếng như Trần Đăng Khoa, khiến mọi người phấn khích lắm. Hôm ấy, mọi người còn
ấn tượng, bởi nhà thơ Trương Hữu Lợi kể chuyện ông viết về khoán chui trong
nông nghiệp ở Hải Hậu ( Nam Định ) những năm 80 của thế kỷ trước như thế nào,
và việc báo chí lên tiếng góp phần tạo
tiền đề cho Chỉ thị 100 của Trung
ương Đảng về khoán hộ trong nông nghiệp, cứu cả nước thoát khỏi đói nghèo. Tôi
nghĩ, hẳn những người làm báo ở Hà Giang sẽ không quên cuộc hội thảo này.
Xong việc chính, cả đoàn đi dã ngoại để lấy cảm hứng
viết bài. Trần Đăng Khoa bày tỏ muốn lên Đồng Văn, song phần đông lại muốn đi
vùng núi đất phía Tây, gồm mấy huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì và Xín Mần, nơi
giáp ranh với Bắc Hà, Simacai ( Lào Cai ). Vậy là quyết đi vùng núi đất phía
Tây. Không ngờ, con đường đi Hoàng Su Phì tuy không ngược dốc dựng đứng như lên
Quản Bạ, Yên Minh, những độ quanh co với những cua tay áo hẹp và liên miên lại
hơn nhiều. Đến được Cổng trời vùng núi đất phía tây Hà Giang này, chúng tôi
nghỉ ngơi chút ít đặng ngắm cảnh và chụp ảnh. Những thảm ruộng bậc thang ở đây
tuy không tuyệt vời như Mù-cang-chải ( La Pán Tẩn, Chế Cu Nha ), song cũng rất
đẹp, chẳng kém gì ở Sa-pa, và nghe đâu cũng đã được xép hạng di sản quốc gia.
Bò được đến thị trấn Quang Vinh, huyện lỵ của Hoàng Su
Phì, chúng tôi loanh quanh hỏi thăm tìm trường dân tộc nội trú ở đây, có ý gặp
một người quen của tôi và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền. Ấy là anh chàng có cái nick
là Mắt Lạnh, mà tôi và bác Nguyễn
Vĩnh Tuyền đã làm quen với nhau trên Blog
Tiếng Việt từ vài năm trước, và cũng đã điện thoại qua lại lần. Tìm được
trường, hỏi thì không ai biết, liên lạc điện thoại cũng không được, bèn thôi đi
tiếp Xín Mần. Con đường vẫn quanh co như vậy, cho đến khi men theo dòng sông
Chảy, cảnh sắc mới hiên hòa và thêm phần hữu tình. Nào ngờ, nơi sơn thâm cùng
cốc như vậy mà phong cảnh lại nên thơ đến vậy. Chiều muộn, đến rìa thị trấn
Cốc-pài, huyện lỵ của Xín Mần mà chẳng thể sang, bởi chiếc cầu nhỏ bắc qua sông
lại đang sửa chữa, cấm lưu thông. Hỏi thăm dân bản địa mãi rồi cũng sang được
bờ bên thị trấn nhưng phải mua đường và nhiều chỗ men theo sông suối đường xấu
xóc nảy người.
Sau bữa cơm tối thịnh soạn tại bếp Ủy ban nhân dân huyện,
có nữ Phó chủ tịch xinh đẹp, trẻ trung tiếp cơm, đoàn chúng tôi được mời tham
dự đêm văn nghệ giao lưu của khu vực mấy huyện phía Tây Hà Giang tại Nhà văn
hóa. Lẽ dĩ nhiên, nhà thơ Trần Đăng Khoa là nhân vật nổi bật nhất, như món quà
bất ngờ cho cuộc giao lưu văn nghệ. Anh đăng đàn, kể chuyện tếu, đọc thơ trước
sự chầm chồ, ngưỡng mộ của mọi người. Đoàn chúng tôi vì thế được thơm lây và
quan tâm hơn. Đêm ấy, thị trấn nhỏ đông khách, hết phòng, nên đoàn chúng tôi
được gửi ngủ nhờ bên Huyện đội. Cả đoàn ngủ chung trong một phòng lớn, ghép
giường. Đêm lạnh, mái lùa, gió ù ù ngoài trời. Chúng tôi ai nấy khó ngủ, hết
nằm lại ngồi chuyện ngẫu thâu đêm. Ai ngờ, đêm ấy trở thành kỷ niệm không thể
nào quên, bời giờ đây, nhà thơ Trương Hữu Lợi đã mất do căn bệnh ung thư phổi
năm 2015.
Sáng hôm sau, dậy sớm chơi chợ Cốc-pài. Đây là một chợ
phiên rất nổi tiếng ở vùng này, như một số chợ phiên vungc cao nổi tiếng khác:
chợ Cán Cấu ( Simacai ), Bắc Hà, Quản Bạ, Đồng Văn, Méo Vạc v.v... Chợn trên gò
cao, sương mù dày đặc, bà con chơi chợ váy áo dân tộc Mông, Hà Nhì rực rỡ sắc
màu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đầu mũ bê-rê đội lệch, trước ngực là chiếc máy ảnh
kỹ thuật số có ống kính khủng, than thẩn hỏi chuyện và săn ảnh. Còn Trương Hữu
Lợi và Nguyễn Vĩnh Tuyền thì len vào giữa đám đông váy áo sặc sỡ, chuyện trò,
thử áo tìm mua mỗi người một chiếc áo chẽn Mông đen tay dài đặc trưng. Còn tôi
thì săn ảnh các vị. Thật thú vị làm sao. Mặt trời lên cao, sương mù tan dần.
Trong tôi, manh nha ý tứ và những câu đầu tiên của bài thơ “ Đi
chợ Cốc-pài “ mà sau này được nhạc sĩ Doãn Nguyên phổ nhạc thành một
bài hát hay... “ Nào em đi chợ Cốc-pài/
Tìm mua một chút sương mai mang về “...
Đêm ấy, anh chàng Mắt Lạnh gọi lại cho tôi, hẹn khi về
thì chờ đón chúng tôi. Tiếc là, chúng tôi chọn tuyến khác, không qua Hoàng Su
Phì nữa mà về theo đường Quang Bình, nên hẹn anh chàng ở thành phố Hà Giang.
Cuối cùng thì mọi người cũng gặp được nhau. Anh chàng người dân tộc La Chí này
có cái tên rất hay, Vương Bảo Thương, rồi còn mời chúng tôi thưởng thức món
cháo ấu tẩu đặc sản đí phương.
Sau khi Nhà hát VOV thu thanh ca khúc Đi
chợ Cốc-pài và phát sóng. Tôi có gửi tặng Hoàng Thu Hằng, Phó Giám đốc Đài PTTH tỉnh Hà
Giang, và còn nhò cô chuyển cho huyện Xin Mần. Nghe đâu, họ hay sử dụng bài hát
này cho các sự kiện của huyện và có người đã chọn bài hát trong các đợt hội
diễn văn nghệ ở địa phương. Tuy không nổi tiếng như ca khúc "Hà Giang quê tôi" của nhạc sĩ Thanh
Phúc, thì ca khúc này cũng thuộc diện ca khúc hay về Hà Giang.
Hầu như năm nào tôi cũng lên Hà Giang một đôi lần,
song cho đến đầu đông năm 2016, tôi mới trở lại cung đường này với người bạn
đường quen thuộc, nhà văn Nguyễn Trọng Huân. Anh chưa từng đi tuyến đường này
bao giờ nên tỏ ra vô cùng thích thú với quang cảnh vùng núi đất phía Tây này. Lại
gọi điện cho anh chàng Mắt Lạnh, giờ đây đã lấy vợ, thì chàng ta đang đưa thanh
niên tình nguyện xuống một xã vùng xa thị trấn. Đành lỗi hẹn. Dừng chân nghỉ
tạm ở thị trấn Quang Vinh. Thấy một hàng nước mía đá, mọi người vào hàng mà
không thấy chủ quán đâu, chờ một lát cũng không thấy ai, nên mấy cậu trẻ trong
đoàn bèn tự ép mía, làm cho mỗi người một cốc uống giải khát. Dân bên đường
thấy vậy cũng chẳng ai hỏi han gì. Uống gần hết, mới thấy một chàng thanh niên
phóng xe máy về quán. Chàng ta nhìn chúng tôi thản nhiên như không, và sau giây
lát ngờ ngợ, hỏi ra mới biết đấy chính là chủ quán. Nói đùa nhau một hồi, rồi
trả tiền nước mía cho anh chàng, tiếp tục lên đường. Thật rõ chỉ có vùng đất
này mới như vậy. Con người hồn nhiên, thoải mái, không phải đề phòng lẫn nhau.
Chẳng bù cho dưới xuôi...
Lần này trở lại Cốc-pài, sau 5 năm, cảnh sắc không mấy
thay đổi. Đáng nói là, chiếc cầu mói bắc qua sông vào thị trấn vừa được khánh
thành trước đó chưa đầy tháng, tạo nên sự thông thương đáng kể cho vùng núi đất
phía Tây này với Bắc Hà và Simacai của Lào Cai. Thêm nữa, cái chợ Cốc pài bị
cháy trước đây hơn năm, nay đang được xây lại. Ăn bữa cơm trưa ở quán cơm bình
dân thị trấn, thật ngon miệng. Nâng ly rượu lại bùi ngùi nhớ nhà thơ Trương Hữu
Lợi, khi anh đã là người thiên cổ hơn năm rồi. Ngày ấy, anh thật vui và hồn
nhiên như trẻ thơ...
Chúng tôi hỏi đường, thông sang Bắc Hà ( Lào Cai ).
Cung đường này lần đầu tôi đi, cũng gian nan không kém, dọc dường, bắt gặp một
cô gái trẻ ngồi xem bản đồ bên đường. Hỏi ra, cô bé mới tốt nghiệp đại học,
đang làm thuê cho một hãng lữ hành, đi phượt một một mình để tìm hướng cho kinh
doanh du lịch. Ôi, tuổi trẻ giờ thật táo bạo. Lại bắt gặp hai mẹ con người Mông
ngồi trên mỏm đá chênh vênh bên bờ vực giữa trời đất bao la... Tha hồ lựa góc
chụp ảnh. Đường gập ghềnh, sóng 3G chập chờn, ấy vậy, tôi vẫn gõ được bài thơ
mới "Trở lại Cốc-pài" trên chiếc Galaxy Note 3... ” Năm nao đi chợ Cốc pài/ ngẩn ngơ váy áo
sương mai tan dần,/ Kể từ ngày ấy lần
khân/ hẹn người trở lại bao lần lại thôi, ... Hôm xưa chơi chợ sớm mai,/ nay
mình trở lại Cốc pài đã trưa...”.
4.
Tôi trở đi trở lại với vùng đất Hà Giang bao nhiêu lần
rồi tôi chẳng nhớ. Đơn giản, tôi yêu vùng đất cao nguyên địa đầu này, bởi đá,
bởi cảnh sắc, bởi thời tiết thổ ngơi, hay bởi
con người... thì cũng chẳng rõ. Chỉ có thể nói, tôi yêu tất cả không
gian, quang cảnh của vùng đất này mà thôi...
Thực lòng, năm nào tôi cũng mong muốn và đều cố gắng
thu xếp công việc để lên với vùng cao nguyên đá này ít nhất một lần, nhất là
mỗi độ thu sang, đông về, hoặc dịp cuối năm, sắp tết... Năm 2013, rập rình mãi
rồi đành lỡ hẹn với Hà Giang, cho đến hè 2014...
Xong công việc ở huyện lỵ Bắc Quang, tôi và nhà nhà
thơ Trần Đăng Khoa cùng một vài đồng nghiệp VOV lên thành phố Hà Giang để sáng
hôm sau leo tuyến Quản Bạ-Yên Minh-Đồng Văn. Biết tin chúng tôi lên, anh chàng
Vạn Lý đã í ới gọi điện, nhắn tin chờ đón từ mấy hôm trước. Với nhà thơ Trần
Đăng Khoa, đây là lần đầu anh lên Đồng Văn nên ít nhiều háo hức, thắc thỏm. Dọc
chặng đường leo núi, chốc chốc bắt gặp những khúc quanh ngoạn mục, những cảnh
núi đá cheo leo, hùng vĩ bắt mắt, anh lại dừng xe, chọn cảnh, lựa góc để giương
chiếc máy ảnh ống kính xịn lên bấm xì xạch tác nghiệp. Vì thế, khi lên tới thị
trấn Quản Bạ, sương cũng đã tan trên Cổng Trời, cặp núi đôi nắng rọi và chợ
huyện cũng đã dần vãn. Nghỉ chân làm chén nước trà, nhâm nhi vài món bánh trái
sản vật địa phương, hỏi thăm và người quen, ngó nghiêng cái phố huyện này cũng
thấy thu thú. Được biết, thầy giáo Phạm Văn Tình, hiệu trưởng trường THCS Tam
Sơn, nhà thơ địa phương của vùng đất
Quản Bạ và ngành giáo dục Hà Giang, một người quen cũ của tôi từ gần chục năm
trước khi lần đầu tôi lên Hà Giang, cũng đã nghỉ hưu mấy năm rồi. Tự nhiên lại
nhớ mấy câu thơ trong bài thơ "Nỗi niềm cô giáo vùng cao " của Phạm
Văn Tình. Tiếc là chẳng đủ thời gian để ghé thăm anh. Thôi đành hẹn anh dịp
khác vậy... Sốt ruột, chốc chốc Vạn Lý lại gọi điện hỏi xem đoàn đã tới đâu
rồi. Anh chàng luôn luôn nhắc là mình đang đợi mọi người ở Sủng Là, nơi có nhà
Pao nổi tiếng. Với mảnh đất Hà Giang, chỉ có nhà Vương là đáng kể, chứ đâu có
nhà Pao nào nhỉ ? Tôi cứ rẩm riu nghỉ vậy, song chưa tiện hỏi Vạn Lý...
Lên tới Sủng Là thì trời đã đứng bóng. Anh chàng Vạn
Lý đã chấp chới bên lề đường giơ tay làm hiệu vẫy đón chúng tôi. Gặp nhau, tay
bắt mặt mừng. Đã từng biết văn thơ, thấy hình bóng nhau thấp thoáng trên Blog
Tiếng Việt, rồi cũng đã từng í ới với nhau qua điện thoại bấy lâu, nay gặp nhau
là nhận ra ngay chẳng cần phải giới thiệu. Những cái xiết tay thật chặt, những
cái nhìn hồ hởi toát nên sự chân thành. Ôi, cái anh chàng một thời gian dài lấy
cái nick " muahoaomoinomuon" ( mùa
hoa ô môi nở muộn ) rất chi là điệu đà này, không ngờ lại là một người khá
to con và dáng vẻ bên ngoài có gì đó " bụi bặm ", lãng tử. Nay với cái
nick mới là Vạn Lý thì có vẻ hợp đây.
Nhưng còn để xem đã...
Trong căn nhà đơn sơ, vợ chồng Vạn Lý tiếp chúng tôi
bằng những ly nước mía đá ngon ngọt, thanh khiết, sản vật của người dân nơi
đây. Tôi chợt nhận ra, thời tiết nơi đây thật dễ chịu. Trưa đứng bóng, nắng vẫn
hong vàng mà cảm giác lại se se lạnh, khi mà vừa chiều tối qua, nơi huyện lỵ
Bắc Quang và thành phố Hà Giang trời vẫn còn nóng hầm hập. Ôi, có gì đó báo
hiệu sự thú vị cho chuyến trở lại cao nguyên đá lần này...
Để
kiếm kế sinh nhai, anh chàng Vạn Lý mở cửa hàng ngay tại nhà mình chuyên về
điện thoại di động. Nhìn quầy hàng đơn giản, có thể đồ đoán là anh chàng này
kiêm luôn cả mấy việc bán máy, bán sim, sửa chữa điện thoại di động, và có vẻ
như chủ quán cũng không mấy chuyên tâm...
Thời gian lưu lại nhà Vạn Lý chỉ chốc nhát, song tôi
cũng biết được anh có vợ và hai cậu con trai. Vợ anh nguyên là cầu thủ bóng
chuyền nữ của Hà Tây cũ. Những người có chiều cao khiêm tốn như nhà thơ Trần
Đăng Khoa và tôi thì đều phải ngước mắt nhìn lên mà ngưỡng mộ chiều cao của cô.
Nhanh nhẹn, hoạt bát trong tiếp khách của chồng, nhưng cô luôn chủ động né
tránh việc chụp ảnh kỷ niệm với chúng tôi...
Vì cho kịp kế hoạch thăm nhà Vương trước khi dùng bữa
trưa đã đặt sẵn ở một nhà hàng thuộc chân núi cột cờ Lũng Cú, đành tạm biệt gia
đình Vạn Lý. Chúng tôi lên đường đến nhà Vương ở thung lũng Sà Phìn, với sự dẫn
đường của Vạn Lý. Giờ mới biết tên thật của Vạn Lý là Tuấn Nghĩa. Còn cái nichk
trên mạng thì chắc là anh chàng lấy theo cái tên của nhân vật Vạn Lý Độc hành Điền Bá Quang, một nhân
vật lãng tử thái hoa nổi tiếng giang hồ trong tiểu thuyết chưởng " Tiếu
ngạo giang hồ " của Kim Dung đây. Với riêng tôi, đã từng thăm nhà
Vương và Cột cờ Lũng Cú ( cũ ) từ chục năm trước trong lần lên Hà Giang đầu
tiên. Tuy không xa lạ, song mỗi thăm mỗi nhận biết thêm những điều mới mẻ, hoặc
hiểu sâu hơn những ẩn ý bên trong, mà qua đó thấm hiểu lịch sử một thời của
vùng đất gian khó này...
Cái thú của chuyến lên cao nguyên đá lần nảy, là sự
gặp gỡ, quen biết với anh chàng Vạn Lý-Tuấn Nghĩa. Trong cái lắc lư, nghiêng
ngả mỗi khi xe băng qua đoạn đường gập nghềnh, khúc cua quanh co, con người Vạn
Lý lại hiện ra rõ lên một chút, hoặc qua câu chuyện anh chàng tự kể, hoặc qua
những mẩu hội thoại mà nhận ra... Vạn Lý quê Lập Thạch ( Phú Thọ ), từng là
lính thuộc Bộ Tư lệnh binh chủng Tăng Thiết giáp. Xuất ngũ, trải qua một số
công việc, rồi trôi dạt lên vùng cao nguyên đá Đồng Văn nay. Cái mầm cây "
bụi bặm" và chất lãng tử giang hồ khi gieo xuống mặt đất những đá là đá nơi
đây, mọc ngay lên thành cây, loài cây trên đá. Rồi đó, trời xe duyên cho anh
chàng lãng tử với nữ cầu thủ bóng chuyền gốc quê lụa nhỉnh hơn anh chàng một
cái đầu. Hai thằng cu trứng gà trừng vịt theo nhau ra đời. Cái gia đình này,
khi đã có một mái nhà trú ngụ, mua lại của một gia đình người dân tộc, để che
sương che nắng, thì xem như đã là một thực thể đủ tư cách, điều kiện đứng chân
trên bề mặt địa cầu rồi. Cũng chưa rõ, vợ Vạn Lý làm công việc gì, còn riêng
với anh chàng, thì ngoài cái cửa hàng điện thoại tại gia ấy, anh làm đủ thứ
công việc để có thu nhập, đại loại như lái xe thuê, hướng dẫn khách du lịch lữ
hành v.v... Đã sẵn máu lãng tử, lại thêm nghề du lịch lữ hành, Vạn Lý làm thơ,
viết báo, nhiếp ảnh nghiệp dư, và ít nhiều mon men vào lãnh địa chơi ô-tô, mô-tô
cũ...Những lúc thấy Vạn Lý cao hứng về mấy thú chơi này, tôi cảnh tỉnh ngay:
" Làm gì thì làm, chơi gì thì chơi,
song không được phép xao nhãng việc nhà, không thể để cho vợ con thiếu thốn,
thất học...". Vạn Lý vâng dạ và cười thật sảng khoái. Quả là anh chàng
này có cái cười khá đặc biệt, có lẽ tôi chưa từng thấy ở ai, chưa từng nghe ở
đâu thì phải...Tiếng cười, thoạt đầu nhỏ rồi rộ lên thoải mái hết mình và nhỏ
lại thành một chuỗi thanh âm đều và dài dường như không dứt, nhưng khi dứt lại
đột ngột bặt luôn. Kiểu cười lạ ấy, có gì đó ám ảnh tôi...
Đó đây, trong ký sự này, hoặc phảng phất trong những
câu thơ của tôi về miền cao nguyên đá Hà Giang, có bóng dáng của nàng sơn nữ áo
đỏ. Có lẽ, nhiều người yêu thích thơ Tố Hữu khó mà quên được câu thơ ấn tượng "
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi ..."
trong bài thơ Việt Bắc của ông. Quả là, ở chốn rừng xanh, cái màu đỏ, của hoa
chuối hoặc bất kỳ loài hoa màu đỏ nào khác đều nổi bật, và càng nổi bật và cuốn
hút hơn, ấy là màu khăn, màu áo đỏ của thiếu nữ, đàn bà...
Vậy nên, trong chuyến trở lại cao nguyên đá lần này,
đã có một màu đỏ áo áo thiếu phụ phảng phất trong tôi...
Với riêng tôi, mỗi lần lên với Hà Giang, là một phát
hiện về con người của vùng biên ải đặc sắc này. Lần đầu tiên, từ ngót mười năm
trước, tôi quen biết Thu Hằng.-nữ trưởng phóng Phóng viên của Đài Phát thanh
Truyền hình địa phương, đến nay, cô đã trưởng thành với chức vụ Phó Giám đốc
Đài tỉnh, còn tôi thành người thân của cả gia đình cô; Lần lên sau đó, tôi tìm
gặp và quen biết một chàng thanh niên họ Vương người dân tộc La Chí, là giáo
viên một trường Dân tộc nội trú ở Hoàng Su Phì ( ấy là blogger Mắt Lạnh trong Blog Tiếng Việt ); Rồi nữa, tiếp sau
là anh Phúc.- Phó chủ tịch Hội Nhà báo Hà Giang, một nhà báo yêu nghề và đặc
biệt say mê và một tay chơi âm thanh sành điệu...
Lần này thì, lãi to hơn, ngoài anh chàng Vạn Lý giang
hồ lãng tử như tôi vừa kể, còn có nàng sơn nữ áo đỏ, họ Kim, người dân tộc Tày
đột ngột xuất hiện như từ trên trời rơi xuống...
Nhớ là, hôm lên, sau bữa cơm chiều hơi quá chén ở huyện
lỵ Bắc Quang, chúng tôi lên thành phố Hà Giang. Vừa nhận phòng khách sạn, chưa
kịp tắm rửa, ngả lưng lơ mơ tạm bợ cho bớt say, thì nghe tiếng chuông phòng kêu
vang. Choàng tỉnh, ra mở cửa, thì ngay trước mắt tôi là hai thiếu phụ, một sắc
phục công an, một áo phông đỏ lẳn trong quần jean lửng bó. Chắc là họ nhầm
phòng, tôi thoáng nghĩ. Còn chưa kịp hỏi, thì thiếu phụ áo đỏ đã nhau nhẩu : " Hai đứa chúng em là bạn thân học phổ
thông ngày xưa với Th. nhân viên của anh... Chúng em trân trọng mời anh cùng chúng
em đi uống cà phê ngắm phố phường Hà Giang...". Tôi đang muốn được ngủ
một chút bèn từ chối khéo là mình hơi mệt và còn khuyên họ sang mời nhà thơ
Trần Đăng Khoa ở phòng bên....
5.
Sáng hôm sau, tôi mới được Thuận, nữ đồng nghiệp họ
nhà VOV giới thiệu về cô nàng họ Kim này, và ngỏ ý xin phép tôi cho cô cùng
tham gia đoàn chúng tôi lên Đồng Văn. Nàng Kim áo đỏ ngồi cùng xe Trần Đăng
Khoa, và vì vậy, tôi mới có điều kiện tìm hiểu để biết thêm về nhân thân nàng
Kim. Ngày còn đi học, nàng ta yêu sớm, vừa tốt nghiệp phổ thông đã yêu và nhanh
chóng về làm dâu nhà người. Chồng của nàng Kim, một anh chàng người Mông học
cùng trường. Nghe nói, cái mối tình trai Mông-gái Tày này cũng dữ dội và ly kỳ
lắm thay. Nàng sớm có con gái đầu lòng nên đường học hành ít nhiều lỡ dở. Bố
chồng nàng Kim vốn là một trí thức quan chức có tiếng ở địa phương. Hỏi ra, mới
biết, từ lần lên Hà Giang đầu tiên, tôi cùng một vài nhà báo của VOV và Đài báo
tỉnh đã từng đến tận gia đình ông này để
phỏng vấn nhân dịp lễ kỷ niệm thành lập tỉnh. Có bố chồng là một trí thức người
Mông, lại thuộc hàng quan chức tỉnh, nên cô về làm dâu với nhiều thuận lợi về
công việc và điều kiện ăn ở. Nhưng rồi, như một quy luật định sẵn. cái gì đến
nhanh thì cũng đi nhanh... Họ yêu nhau dữ dội và nhanh chóng nên vợ nên chồng,
sinh con đẻ cái, rồi ngay đó, hạnh phúc đôi lứa và sự yên ấm gia đình nhanh
chóng tiêu tan, tất cả chỉ bởi cái tinh cả ghen và tật suốt ngày say xỉn của
anh chồng mà ra. Thêm nữa, mỗi khi ghen quá hóa mất khôn, mỗi khi say xỉn, anh
ta về nhà giở thói vũ phu, hành hạ, đánh đập, đuổi vợ chạy cùng đường phố
chợ... Hạnh phúc gia đình nhau chóng tiêu tan, thì sự hành hạ và cam chịu lại
kéo dài suốt tháng nhiều năm... Cứ thế, như chẳng bao giờ chấm dứt, thử hỏi con
người ta chịu đựng sao đây. Cả hai bên gia đình đều cảm thông, chia sẻ với cô,
song rồi đến một ngày, họ mới xong cái thủ tục pháp lý để ai đi đường người
nấy. Nghe nói, dù gia đình bên chồng khá giả, nhưng người chồng sau đó thân
tàn, dặt dẹo, nghiện ngập, bệnh tật và mới mất cách đây vài năm...
Cái chết ấy của người chồng cũ, mặc dù họ đã ly dị
nhau đến bảy năm rồi, có thể nàng Kim vẫn ít nhiều cảm thấy có lỗi, song nó
thực sự chấm dứt sự khổ ải về cả thể xác lẫn tinh thần, đem lại một cuộc sống
mới cho cô... Để có một nàng Kim trẻ trung, hoạt bát trong trang phục áo phông đỏ, quần jean bó
lửng rất chi là hiện đại của ngày hôm nay...
Rồi
cũng lại như một sự đền bù, đứa con gái của họ xinh xắn, học hành nên người, có
công ăn việc làm, lập gia đình, và vừa mới đây, nàng Kim đã lên chức bà ngoại.
Ôi, mới ngoài bốn mươi, lại như chim vừa xổ lồng, nàng Kim-bà ngoại bốn mươi
này, có gì đó na ná giống bà ngoại trong một bài thơ của Nga có tên " Bà ngoại
vội ra nơi hò hẹn " mà tôi không nhớ tên tác giả, chỉ nhớ mỗi câu kết bài
thơ: " Bà ngoại vội ra nơi hò hẹn/ Bởi vì bà mới có bốn mươi thôi...
Nhớ hôm từ thành phố Hà Giang lên Đồng Văn, dọc đường
dừng đây đó để nhà thơ Trần Đăng Khoa chụp ảnh, rồi ghé chơi chợ phiên Quản Bạ,
khiến anh chàng Vạn Lý sốt ruột, chốc chốc lại điện thoại hỏi mọi người đã đi
đến đâu rồi. Vạn Lý lo mọi người chưa thuộc đường nên cứ dặn đi dặn lại rằng
nhà mình ở Sủng Là, nơi có nhà Pao...
Tôi hơi lấy làm lạ vì mảnh đất Đồng Văn này thì chỉ có
Nhà Vương ( dinh thự cha con vua Mèo, Vương Chính Đức & Vương Chí Sình ),
chứ làm gì có nhà Pao nào nhỉ ? Rẩm riu trong bụng vậy, song tôi cũng không
tiện hỏi lại Vạn Lý xem nhà Pao là cái nhà gì.
Lúc ngồi uống nước mía đá trong nhà Vạn Lý rồi, chợt
nhớ, tôi bèn hỏi Vạn Lý chuyện này. Ôi, thì ra, nhà Pao là một ngôi nhà cổ của
người Mông ở Sủng Là, được các nhà làm phim " Chuyện của Pao
" ( kịch bản chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá
của nhà văn Đỗ Bích Thúy ) mượn làm phim trường chính quay bộ phim này, và sau
đó bộ phim được trao Giải Vàng của Liên hoan phim toàn quốc, rồi được gửi dự
Liên hoan phim quốc tế ...Thế là ngôi nhà ấy bỗng nổi tiếng, trở thành điểm
tham quan du lịch cho khách mỗi khi lên Đồng Văn; và không những thế, còn được
người ta chi tiền để tu bổ, bảo tồn...
Song, ngay trưa đó, chúng tôi không vội rẽ vào thăm
nhà Pao, chỉ cách nhà của Vạn Lý chừng vài trăm mét, vì vội cho kịp độ đường,
vả lại, muốn dành sự tò mò cho lúc về...
Sáng hôm sau, khi đã Nhà Vương, đã Lũng Cú,
Mã-Pì-Lèng, đã cà phê đêm phố cổ Đồng Văn rồi, về tới Sủng Là, chúng tôi mới rẽ
vào nhà Pao. Tôi đã xem phim "Chuyện của Pao" một lần, và
cũng đã cách đây lâu lâu rồi, nên chỉ nhớ mang máng ngôi nhà cổ người Mông
trong phim và một số tình tiết trong phim, song khi vào đến nơi, vẫn có cảm
giác là lạ. Gì nhỉ ? Trước hết là những ruộng hoa hồng phía ngoài ngõ bản,
giống hồng, cách trồng bón, chăm tỉa khá chuyện nghiệp, gợi nhớ xứ sở hoa hồng
Bun-ga-ry mà tôi mới thăm năm ngoái; rồi nữa, là cái cổng gỗ mới được tôn
tạo... Nhưng khi vào trong sân, lại bắt gặp những nét thân thuộc trong kiến
trúc, vật dụng của văn hóa Mông. Người lớn, trẻ con líu ríu cả bầy. Người phụ
nữ, hẳn là chủ nhà, mang can rượu ra cùng bộ ly nhỏ, rót mời khắp lượt chúng
tôi... Đấy là phong tục hiếu khách của người Mông. Vạn Lý nói chuyện với chủ
nhà bằng tiếng Mông, còn nàng Kim thì trẻ trung, nhí nhảnh trong bộ váy áo màu
đen, hết tựa cột gỗ, lại lêo lên lưng chừng cầu thang làm dáng nhờ tôi bấm máy
cho mấy kiểu ảnh... Có gì đó, na ná cuộc đời của các nhân vật trong bộ phim,
tôi bất chợt lấy cuộc đời của nàng Kim mà so sánh... Phong tục xưa cũ, lạc hậu,
cùng sự thiếu thốn về vật chất và tinh thần, sự kém hiểu biết, và sự hẻo lánh
về địa lý... còn trói buộc cuộc sống của bà con người dân tộc thiểu số vùng cao
đến bao giờ nữa đây ?...
Chia tay anh chàng lãng tử Vạn Lý, xe xuôi về thành
phố Hà Giang. Vẫn còn đó những khúc cua kinh người, những vực thẳm hiểm trở,
những đá núi ngổn ngang, cùng mây trời lang thang...
Và vẫn còn đó, nàng Kim, đã bớt nói cười, như có gì đó
tư lự theo nhịp xe chạy ...
Đồng Văn, Sủng Là đã là phía sau rồi...
6.
Kể từ lần gặp nàng Kim ấy, thỉnh thoảng thấy hình bóng
nàng Kim trên Facebook, tùy tâm trạng, cũng cảm nhận vào đôi câu. Đã có gì tươi
tắn trên những bức ảnh, và như vậy, có thể hiểu với nàng Kim, những tháng ngày
u ám đã qua rồi...
Đầu đông năm 2015, tôi lại có chuyến công tác lên Hà
Giang, với những người đồng nghiệp, bạn đường quen thuộc là nhà văn Nguyễn
Trọng Huân và nhà báo Nguyễn Thịnh. Chuyến đi này mang yếu tố điền dã, thêm tư
liệu và lấy cảm hứng để viết bài Tết. Rủ thêm nàng Kim, nhận lời đi cùng. Thẳng
đường thành phố Hà Giang, lên cổng trời Quản Bạ, lang thang phiên chợ chợ cuối
tuần, rồi Yên Minh, Đồng Văn. Lần đi
này, chúng tôi không lên Cột Cờ, Lùng Cú, hay Mã-pì-lèng nữa, mà dừng ở Sủng
Là, thăm gia đình anh chàng Vạn Lý. Trước chuyến đi, tôi báo tin, Vạn Lý vui
lắm, nhắn qua điện thoại là “ Không ăn
hàng quán gì cả. Chú ưu tiên, ăn bữa cơm
gia đình với nhà cháu. Vợ cháu nấu ăn ngon lắm, món miền xuôi, miền ngược đều
ngon cả. Rồi chú sẽ thấy...”. Lời quảng bá tài nấu ăn của vợ Vạn Lý nghe
thật hấp dẫn. Thực ra, thử tài nấu nướng của vợ Vạn Lý là phụ, cái chính là
muốn hưởng cái không khí bữa cơm gia đình trên vùng câo chót vót này.
Đường lên, vẫn quanh co đèo dốc, vượt cổng Trời Quản
Bạ, rồi Yên Minh. Vớt vát chút nương rãy hoa tam giác mạch muộn, nên mọi người
dừng chân chiêm ngưỡng và chụp ảnh, nhất là khi có mấy cháu bé gái người dân
tộc thiểu số trong trang phục dân tộc mình, chụp cùng.
Nghe nói, cái tên hoa tam giác mạch là do dân báo chí
đặt cho, dựa theo hình dáng của loài hoa này mà thành tên. Có nhiều người cho
mình là tác giả của cái tên và cách gọi này. Thật chẳng biết tin ai. Thực ra,
nó chỉ là một loạt cây lương thực có cái tên La-tinh theo phân loại thực vật là Fagopyrum esculentum moench, thuộc họ
rau răm Polygonaceae, có khả năng
sống trên địa hình núi cao, chịu được hạn hán, nên đồng bào dân tộc Mông , dân
tộc Lô Lô gieo trồng theo mua nhằm có thêm nguồn lương thực cứu đói, hoặc làm
bánh mà thôi. Cái chính, nó được dân báo chí văn chương nâng tầm lên thành loài
hoa đặc biệt ở vùng đất này là do hình thái hoa và màu sắc thay đổi từ khi nở
đến lúc tàn. Dẫu sao, loài cây hoa này đã góp phần tô điểm và có sức thu hút
khách du lịch, làm nên sự đặc sắc cho vùng cao nguyên đá này...
Đến Sủng Là, chúng tôi cứ tới lui loanh quanh tìm nhà
của anh chàng Vạn Lý mà không thấy, mặc dù hơn năm trước, tôi và Trần Đăng Khoa
đã ghé thăm. Cho đến khi Vạn Lý bổ ra đường vẫy tay gọi. Thì ra, thay vì cái
cửa hiệu bán và sửa chữa điện thoại cũ kỹ hôm nay, nay biến thành cửa hàng một
nửa bán đồ gỗ, nửa kia bán đồ điện. Ui chao, anh chàng Vạn Lý đã làm ăn lớn rồi
đây, thành ông chủ có cửa hàng to nhất thị tứ Sủng Là rồi.
Ngó nghiêng quanh quất, cái thị tứ này, đã ít nhiều
thay đổi, nhà cửa nhiều thêm và cũng có vẻ sầm uất hơn. Điều đáng nói, khí hậu
ở khu vực này thật tuyệt vời, rất trong lành và luôn se lạnh ngay cả vào mùa
hè. Nó thực sự như một Sapa của vùng cao nguyên đá Hà Giang, ngay cả khi thành
phố Hà Giang, thậm chí thị trấn Đồng Văn có nhiệt độ trên 30 độ C thì ở đây cũng
chỉ hơn 20 độ C. Nhiệt độ thật lý tưởng cho việc hình thành một khu nghỉ dưỡng
mùa hè. Cùng với nhà Pao, bà con ở đây cũng đã biết trồng những loài hoa xứ
lạnh, tạo thêm điểm nhấn và sự phong phú cho Sủng Là. Tỉnh, huyện đã biết tận
dụng biến nơi đây thành một điểm du lịch của huyện, cùng với Nhà Vương, Cột cờ
Lũng Cú, Phó Bảng, phố cổ Đồng Văn, Mã-pì-lèng... khi mà ngày ngày, nhất là vào
dịp cuối tuần, đã có những chiếc xe ca đổ dăm bảy chục đến hàng trăm khách ghé
đây thăm thú.
Sau chốc lát tay bắt mặt mừng, tôi mới có dịp hỏi thêm
Vạn Lý về sự thay đổi cửa hàng. Nắm bẳt được nhu cầu của người dân bản địa, Vạn
Lý vay thêm chút vốn, sửa sang lại cửa hàng nhà mình, còn thuê thêm một nhà đối
diện để bày bán đồ gỗ, chủ yếu là giường, tủ, bàn ghế, chất lượng tầm tầm, giá
cả phải chăng, cùng đó, là một số mặt hàng đồ diện dân dụng thiết yếu. Và bước
đầu, có vẻ khấm khá hơn. Vậy là anh chàng đã biết chọn nghề, biết chí thú làm
ăn chứ không lông bông như hồi đầu dừng chân chọn mảnh đất này định cư kiếm kế
sinh nhai. Chẳng hiểu, những lời tâm huyết về nghề báo, nghề văn gian nan và
khó kiếm sống mà tôi nói cùng anh chàng từ những lần gặp trước, với ý tứ khuyên
răn, có thấm không mà chàng ta thay đổi hẳn. Khi tôi gợi lại Vạn Lý về cái máu
giang hồ tứ chiếng cũ, anh chàng cười sảng khoái, kiểu cười lạ lùng chẳng giống
ai, bảo rằng, lâu lâu có bạn cũ dưới xuôi lên rủ rê thì cũng chiều bạn lang
thang chút đỉnh thôi, chứ bây giờ máu mê làm ăn lắm rồi, còn phải nuôi mấy đứa
nhóc trứng gà trứng vịt nữa chứ. Vậy là ổn.
Bữa cơm gia đình thật ấm cúng và ngon miệng. Vạn Lý
mời thêm anh bạn hàng xóm chung vách, chủ cửa hàng sửa chữa xe máy, người dân
tộc Mông, vừa bạn nhậu, bạn láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau. Trời rét, thức
ăn ngon và lạ miệng, nhắm với rượu trắng cao độ, hàn huyên đủ thứ chuyện trên
giời dưới biển, miền ngược miền xuôi, làm gì chả ngon. Vạn Lý lấy làm vui, ăn
ít, chủ yếu giới thiệu món, uống nhiều và nói cũng lắm. Anh chàng tỏ vẻ hãnh
diện với bạn mình khi anh làm bạn với chúng tôi. Còn anh chàng người Mông kia,
cũng khéo ăn nói nên không khí thêm phần phấn khích. Quả là, mấy món ăn thịt bò
nướng, sườn lợn ướp mắc khén ( hạt tiêu rừng ), củ cải muối, củ cải xào lòng gà
thì là, ăn thật ngon. Nàng Kim và Nguyễn Thịnh tranh nhau nói, còn Nguyễn Trọng
Huân chỉ uống, rít thuốc và gật gù, tủm tỉm cười. Nhìn dáng vẻ anh, tôi biết,
anh đã nảy ra trong đầu ý tưởng cho những mẩu chuyện ngăn ngắn vui vui đêu đểu
trên Facebook của mình.
Tiệc tan, ai cũng ngà ngà say. Vì không định ngủ lại
nên chúng tôi đành phải tạm biệt vợ chồng Vạn Lý để về lại thành phố. Vạn Lý
mang mấy bao gai dứa, nhỏ chốc lát đã đày củ cải trắng trồng ngay nương sau
nhà. Củ cải sạch, nghĩa là không phân hóa học và thuốc trừ sâu, to và ngon mắt.
Tuy ngại nặng song không nỡ từ chối tấm lòng của vợ chồng Vạn Lý nên chúng tôi
đành chất cả lên xe...
Đường về, tôi mơ màng trong hơi men. Ý nghĩ chập chờn
về Vạn Lý, về nàng Kim đang ngồi bên cạnh, rồi về anh chàng Mắt Lạnh Vương Bảo
Thương. Ui, thân phận anh chàng Mắt Lạnh cũng lạ lắm. Cha là người dân tộc La
Chí bản địa, mẹ là người Hà Nam, lên Hà Giang dạy học từ lúc còn son trẻ, làm
cô giáo cắm bản; rồi phải lòng hay trúng bùa ngải gì đó của một chàng trai La
Chí. Họ lấy nhau, có hai mặt con, nhưng chàng ta tính khí lang bạt, hay mặc cảm
tự ty, đã bỏ nhà lang thang đây đó, nhất định không chịu về nhà, Vợ nhiều lần
tìm, rồi sau này, anh em Mắt Lạnh khi khôn lớn cũng đã tìm cha, nhưng không
thấy. Chỉ nghe nói ở đây, rồi ở đó, song tìm đến nơi thì chẳng gặp người, sau
thì thôi hẳn. Giờ mẹ con họ ra sống ở gần thị trấn Bắc Quang. Chàng Mắt Lạnh
sau khi tốt nghiệp trung cấp nghề, vào dạy nhạc họa ở Trường dân tộc nội trú
huyện Hoàng Su Phì... Lần này, qua điện thoại, chàng ta báo tin đã có bạn gái
và sắp cưới vợ và muốn ra mắt chúng tôi. Mừng cho cu cậu. Vậy là còn cái hẹn
với cặp vợ chồng chưa cưới Mắt Lạnh tại thành phố Hà Giang nữa. Hai bên đường
những rừng núi, vực sâu trùng điệp, thấp thoáng. Tôi thiếp đi trong hơi men...
7.
Cao nguyên
đá đang xuân,...
Trước tết nguyên đán Đinh Dậu chừng tháng, tôi tranh
thủ lên Hà Giang, theo tuyến Bắc Quang-Quang Bình- Hoàng Su Phì-Xín Mần,
rồi vượt sông Chảy đến thị trấn Cốc-pài, lại băng suối, men núi mà sang đất
Simacai, Bắc Hà của Lào Cai, nghĩa là vùng núi đất phái Tây. Khi ấy, sang
đầu tiết đông, tuy cảnh sắc Việt Bắc màu nào cũng có vẻ đẹp riêng, song thời
tiết đầu đông chưa có mưa xuân, nên cỏ cây ít nhiều trơ trụi...
Còn lần này, tôi theo chân đoàn công tác của Ðài
Tiếng nói Việt Nam lên Hà Giang, đi theo tuyến Bắc Quang-Vị Xuyên-Quản Bạ-Yên
Minh-Đồng Văn-MèoVạc, rồi về. Tiết xuân đang độ, lòng người thêm phần phấn
chấn. Trước đó, cả tuần trời tiết nồm, trưa chiều nóng ẩm, khó chịu. Ðúng
ngày đoàn công tác lên đường, một đợt gió mùa đông bắc mạnh tràn về, Hà
Nội mưa chút ít rồi tạnh, còn Hà Giang mưa nhiều hơn. Có chút lo lắng vì
phải tổ chức sự kiện ngoài trời, nhưng lòng lặng thầm vui, vì trời mưa xuân
thế này, cỏ cây cao nguyên đán sẽ tốt tươi biết mấy!...
Dọc đường lên, ngang qua Lập Thạch ( Vĩnh Phúc ),
vùng đất nổi tiếng khô cằn, mệnh danh “chó
ăn đá, gà ăn sỏi”, trời lâm thâm mưa bụi, cây cối xanh tươi; rồi ngược
lên chút nữa, đất Sơn Dương, cỏ cây hai bên đường xanh rì, bắt gặp dòng Lô
xuôi về, tuy mùa này cạn nước, nhưng cây cỏ đôi bờ xanh mỡ, nhẩm bụng, cao
nguyên đá chắc cũng một màu xanh non cùng tiết đang xuân thôi... Trong đầu
bỗng váng vất mấy câu thơ: Ðã qua mùa
tam giác mạch,/ mưa xuân đá cũng lên xanh,/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ,/
địa tầng bỗng hóa mỏng manh,...
Qua Hàm Yên, rồi sang đất Vĩnh Tuy, dòng sông Lô từ
đây mang tên sông Miện, nhiều khúc quanh, đá chen chúc lổn nhổn lòng sông
cạn nước. Chợt nhớ, cam Hàm Yên dẫu có vị riêng, song không đậm đà bằng cam
sành Hà Giang, tuy vậy, họ đã xây dựng được thương hiệu, và hơn thế nữa,
hàng năm, còn tổ chức được lễ hội cam, nhằm quảng bá thương hiệu, trong khi
đó, cam sành Hà Giang vẫn chưa có gì ngoài giá trị thật của mình. Vậy
là, có chuyện để nói, để bàn với các lãnh đạo của tỉnh Hà Giang rồi,
rằng phải gắng làm sao để đưa giống cam sành vốn có của vùng dất cao nguyên
đá địa đầu này lên xứng tầm với chất hượng tuyệt hảo của nó. Từ Bắc Quang
đến Vị Xuyên, trong bóng chiều xâm xẩm tối khi gió mùa đông bắc đang mạnh
dần, cùng lắc rắc mưa xuân, vẫn nhận ra đâu đó nhưng cây đào núi điểm hoa
hồng phót bên lề đường, nơi thung vắng, đầu núi non... Mùa xuân đang hiển hiện đó đây...
Thành phố Hà Giang lên đèn, tuy lung linh hơn ban
ngày, song lại khó thấy được cảnh sắc núi non trùng điệp bao quanh. Thị xã
Hà Giang cũ, nằm trên đôi bờ sông Miện, nối nhau bằng cây cầu Yên Biên nhỏ
xinh và khá nên thơ. Xưa cũ, thị xã nền trũng nhiều so với núi non bao quanh nên rìa thị
xã mới có con dốc mang tên Dốc Mã Tim,
hiểu nôm na là dốc cao, ngựa leo vượt dốc có thể mệt đến vỡ tim. Cũng là
nghe người dân bản địa nói vậy thì biết thế thôi. Không hiểu mọi người thế
nào, chứ riêng tôi, mỗi lần lên Hà Giang, ngủ lại, dù là ở thành phố, hoặc
Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Bắc Mê hay Hoàng Su Phì, Xin Mần, thì ban đêm
luôn mang trong mình cái cảm giác ít nhiều thấp thỏm, bí hiểm chi đó,..
Bởi gì thì chẳng rõ, song có lẽ, ngày ấy lâu rồi, lần đầu lên với Hà
Giang, thăm nhà Vương, Phó Bảng, ngủ ở thị trấn Đồng Văn mấy đêm, thị trấn
khi đó cổ và cũ, thưa vắng lắm, điện chiếu sáng lờ mờ, lại thêm nhà khách
huyện tồi tàn, khó ngủ, đêm thao thức, trong đầu cứ váng vất, ẩn hiện những
câu chuyện mà nhà văn Tô Hoài kể lại trong thiên hồi ký Cát bụi chân ai của ông và mấy nhà
văn khác về cái thị trấn này cùng bao sự ly kỳ, khác lạ...
Trong bữa cơm tối chiêu đãi đoàn công tác chúng
tôi của lãnh đạo tỉnh, có chút hơi men, tôi đã cao hứng đọc vài chương từ
trường ca Ai lên Mèo Vạc cùng tôi của
mình để mọi người cùng nghe. Bí thư tỉnh ủy Triệu Tài Vinh tỏ vẻ thích
thú bảo rằng, người miền xuôi mà hiểu về mảnh đất, phong tục và con người
Hà Giang như thế thì còn hơn nhiều người Hà Giang đấy...
8.
Hoa đào đá
cao nguyên,
Nói hoa đào mùa xuân, ai cũng nghĩ ngay đến các xứ hoa đào nổi tiếng, ấy là Mẫu Sơn
(Lạng Sơn), Mộc Châu (Sơn La), Sa-pa và Y Tý (Lào Cai), chứ mấy ai nhắc đến Hà
Giang đâu. Vậy mà, chuyến đo lên miền cao nguyên đá cuối xuân này, tôi thực sự
lạc vào một miền hoa đào đẹp không tưởng. Song hãy khoan nói đến vội,...
Hành trình của chuyến đi này, là khánh thành cụm máy
phát sóng FM tại Trạm Phát sóng phát thanh Quản Bạ. Khi đến, đây tiết trời còn
mù sương sớm, tôi thực sự ngỡ ngàng trước hàng đào cổ thụ mới bắt đầu trổ hoa
hé nụ dọc con dốc ngược lên Trạm Phát sóng, trong khi mây xứ hoa đào nổi tiếng
kia mùa hoa đã đi qua. Sau khi làm thủ tục cắt băng khánh thành, có một số tiết
mục văn nghệ do đội văn nghệ địa phương sở tại biểu diễn chào mừng, độc đáo và
ấn tượng nhất là trích đoạn Lễ cấp sắc
của người Dao. Đây chir là dấu hiệu ban đầu về sự thú vị của chuyến đi.
Gần trưa, chúng tôi xuống thung lũng gần đó vào một
bản thăm mô hình di lịch cộng đồng (home stay). Những ngôi nhà trình tường (đất
nện) của người Dao điển hình ở bản được dựng lên để đón khách du lịch, nhất là
khách du lịch người nước ngoài. Họ rất thích được sống thử trong những ngôi nhà
trình tường, vốn truyền thống của người Mông, Dao, Hà Nhì ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Ở đây, hoa đào, hao lê đang nở rộ. Có cây đào, nguyên cả cây đầy mình
hoa, rực rỡ và quyến rũ vô cùng,...
Sai bữa cơm trưa ăn tại bản, tuy vội nhưng vẫn có hơi
men, đoàn công tác do Bí thư Tỉnh ủy Triệu Tài Vinh dẫn đầu, băng vượt dốc lên
Yên Minh. Từ đây nước lên, dọc hai bên đường, chỗ thưa chỗ dày, đào nở hoa
hồng, đỏ rạng rở, còn lê mận cũng trần mình hoa trắng tinh khôi. Đến Sủng Là và
Phố Cáo thuộc đất Đồng Văn thì tuyệt diệu, cứ ngỡ mình đang vào chốn Bồng Lai
tiên cảnh, bởi đào lê chen sắc mờ sương chiều,
thấp thoáng những ngôi nhà trình tường, những bờ rào đá miên man... Đẹp sửng
sốt, nhưng xe theo đoàn, băng băng vượt lên. Nên chẳng thế dừng xe mà chụp ảnh
hay quay phim. Chỉ còn biết ngẩn ngơ chép miệng mà tiếc, đành bấm vội mấy kiểu
ảnh nhạt nhòa qua khung cửa kính xe chạy mà thôi....
Lên đến chân đỉnh cột cờ Lũng Cú, chiều đã muộn. Tiết
cuối xuân mà trời rét căm căm. Dăm cây đào nơi chân bâc thang lên cột cờ cũng
đầy mình hoa, chao rung bần bật trong gió mạnh. Trạm trưởng bộ đội biên phòng
sở tại thực hiện nghi thức tặng cờ cho Đài Tiếng nói Việt Nam, Tông Giám đốc
Đài đón nhận trong không gian thiêng liêng đầy cảm động của mọi người, và trong
bầu không khí ấy, Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Kỷ đọc thơ về Trường Sa, khiến mọi
người lặng đi vì xúc động...
Sớm hôm sau, đoàn công tác lên đỉnh Mã Pì Lèng. Với
tôi, đây là lần thứ năm lên đỉnh dốc này trên cung đường Hạnh phúc. Lần này,
khác những lần trước. Nếu trước đây, dưới đáy vực thăm thắm kia, dòng sông Nho
Quế len lõi giữa hai bên vách đá dựng đứng chất ngất tới trời mây, trông như
sợi chỉ mỏng manh, thì nay, ngang dòng Nho Quế mảnh mai ấy, một con đập dựng
cắt ngang của một nhà máy thủy điện đang dần hinh thành. Được biết, không những
thế, trên những chi lưu là sông Gâm, sông Nhiệm, còn có nhiều thủy điện vừa và
nhỏ đang được xây dựng. Theo cung đường, đoàn công tác thông sang Mèo Vạc, rồi
vòng lại Yên Mình để về thành phố Hà Giang. Vì tiếc hoa đào đẹp, tôi và nhà báo
Kim Trung, hai người đi chung một xe, thầm rủ nhau tách đoàn, trở lại theo lối
cũ. Thế là chúng tôi thoải lòng...
Đi chậm, gặp hoa đào đẹp thì dừng xe, tìm góc máy. Dọc
đường từ thị trấn Đồng Văn xuôi xuống, cơ man những đào, lê, mận nở rộ, hồng
xen trắng miên man. Cung đường vòng vèo, ven đường cỏ dại đương xuân mơn mởn,
những bờ rào đá, cổng ra vào có mái, những nếp nhà Mông... tất thảy hòa quện
vào nhau, làm nên một khung cảnh như cổ tích, hay xa xưa đâu đó từ nhiều thế kỷ
trước hiển hiện... Tôi và nhà báo Kim Trung say sưa, loanh quanh tìm góc máy...
Chụp, rồi chụp, mãi mà không no mắt nhỉn, không chán tay bấm máy. Cậu lái xe
cũng rất mê ảnh, giở máy và ống kín xin ra chụp, thậm chí còn hăng hơn cả hai
chúng tôi...
Cứ thế, hết Phó Cáo, xuôi Sùng Là, vẫn miên man những
đào lê mận. Nhưng vì sợ không theo kịp đoàn về hội quân ở thành phố Hà Giang,
nên chúng tôi đành bỏ qua nhiều cảnh hoa đào đẹp. Lúc ấy, Kim Trung mới tiết lộ
cho biết, rằng dân Hải Phòng quê anh, không thích chơi đào tết Sa-pa, hay Mộc
Châu, Lạng Sơn như dân Hà Nội, mà chỉ chuộng thứ đào đá xứ Hà Giang này. Theo
họ, giống đào đá Hà Giang hoa màu không rực rỡ tươi tắn, mà có màu hồng trầm,
cánh dày hơn và rất bền hoa. Triết lý là, cây gì, hao gì, con vật gì, kể cả con
người, sinh tồn trên cáo nguyên đá này, đều phồn thực và có sức sống mãnh liệt,
có sự dẻo dai, bền bỉ phi thường !?...
Cứ cho là như thế đi.
Xe chúng tôi đi miên man như lạc vào xứ đào lê, cho
đến khi nắt gặp màu ban trắng tía chớp chới nơi bìa thành phố Hà Giang...
9.
Hành trình
Chiêu Lầu Thi,
Theo tiếng Dao, Chiêu Lầu Thi là chín tầng thang, chín bậc thang, chính xác hơn là chín tảng đá bậc thang. Đây là một địa danh, chỉ đỉnh núi cao, có
độ cao hơn 2.500 m so với mực nước biển, thuộc hành trình từ Hồ Thầu vượt sang
Nàng Đôn ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
Hãy khoan nói về hành trình đầy gian nan, mạo hiểm lên
đỉnh Chiêu Lầu Thi của chúng tôi, để nêu lý do, tại sao chúng tôi lại dò dẫm
lên đỉnh cao này làm gì ?...
Số là, sau chuyến công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV) do Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Kỷ dẫn đầu lên lem việc với tỉnh Hà Giang
dioj cuối xuân Đinh Dậu, tại trụ sở lịch sử 58 Quán Sứ, Hà Nội, VOV và tỉnh Hà
Giang thực hiện chương trình phối hợp công tác giữa hai bên. Theo biên bản hợp
tác đôi bên, có một nội dung cụ thể, ấy là việc VOV sẽ xây dựng một trạm phát
sóng phát thanh trên địa bàn huyện Hoàng Su Phi, thuộc vùng núi đất phía Tây
của tỉnh Hà Giang. Theo Bí thư Tỉnh ủy Triệu Tài Vinh, khu vực giáp ranh giữa
hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần, có rất nhiều đỉnh cao, thuận lợi cho việc
chọn độ cao để nâng tầm phủ sóng. Ví như, đỉnh Tây Côn Lĩnh (độ cao 2.427m trên mực nước biển), nhưng
để chinh phục đỉnh cao rất vô cùng gian khó, tuy nhiên, cùng thuộc dãy núi Tây
Côn Lĩnh, còn có đỉnh cao thứ hai, ấy là Chiêu Lầu Thi, có độ cao kém chút,
2.402 m. Vậy là chọn đỉnh Chiêu Lầu Thi, vì ở đây đã có đường lên, từ Hồ Thầu
sang Nàng Đen, về mùa khô hanh, xe ô tô có thể lên được.
Việc tiếp theo, là lập đoàn khảo sát thực địa Chiêu
Lầu Thi. Lịch khảo sát hoãn đi hoãn lại nhiều lần, bởi người này người kia mắc
việc; nữa là, mưa gió liên miên cả tháng trời hoành hành tàn phá các tỉnh miền
núi phía Bắc, Hà Giang tuy không bị nặng như Yên Bái, Sơn La, song đường sá bị
phá hỏng, nguy cơ lũ ống lũ quét, sạt lở đất đá cao... Rồi thì đoàn cũng lên
đường, không thể trì hoãn mãi.
Từ thị trấn Việt Quang của huyện Bắc Quang, đoàn khảo
sát của VOV có thêm sự tham gia dẫn đường của các cán bộ Ủy ban nhân dân tỉnh
do Phó Chủ tịch Trần Đức Quý phụ trách, cùng lãnh đạo và một số phóng viên của
Đài Phát thanh truyền hình Hà Giang. Đến Thông Nguyên, cổng Trời núi đất phía
Tây, đoàn dừng chân, chuyển bị tinh thần cho chuyến “phượt“ chinh phục đỉnh
Chiêu Lầu Thi. Càng vào sâu đường càng vòng vèo và hẹp dần, cho đến điểm tập
kết thuộc xã Hồ Thầu, chân dốc đường lên Chiêu Lầu Thi. Cả đoàn khảo sát tập
kết tại một quán lá sát chân núi. Ở đấy đã có mấy cán bộ của huyện Hoàng Su Phì
và xã Hồ Thầu. Đặc biệt, có gần hai chục nam thanh niên người dân tộc Dao với
ngần ấy chiếc xe máy, đa phần nhãn hiệu Win Tàu. Từ đây, lên đỉnh Chiêu Lầu
Thi, mỗi thành viên đoàn khảo sát sẽ được đèo bằng xe máy, bởi đây là phương
tiện duy nhất có thể lên đỉnh được. Nghe nói, để lên tới đỉnh, phải vượt qua
chặng đường ngược dốc dài hơn chục cây số. THeo thông tin của cán bộ huyện xã,
thì sau 49 ngày mưa liên tục, con đường đất sỏi đá này vốn có thể đi bằng ô tô
vào mùa hanh khô, nay thành bãi chiến trường dằng dặc đất đá ngổn ngang như sau
những trận bom B52. Tôi ngước mắt nhìn lên, chợt nhớ Bí thư tỉnh ủy Triệu Tài
Vinh là người Dao, quê đây, và đã có lần, anh khoe rằng từng chinh phục đỉnh
Tây Côn Lĩnh lên độ cao tuyệt đối là 2.427 m trên mực nước biển (cũng có ý kiến cho là 2.443m), để lấy
lại dũng khí, xốc lại tinh thần, đặng vượt núi chinh phục đỉnh Chiêu Lầu Thi...
Không một ai có mũ bảo hiểm, không một công cụ hỗ trợ
gì, tôi ngồi lên yên sau chiếc Win Tàu của một thanh niên người Dao trẻ măng và
khá nhỏ con. Cứ thế, từng chiếc, hai người một xe, cả đoàn rồ máy bắt đầu vượt
dốc. Càng lên cao, đường càng khó đi.
Mưa lũ xẻ nứt toát con đường, nhiều đoạn bị sạt lở, đất đá bị kéo trôi tuột
xuống vực sâu đến hai phần ba mặt đường. Mưa cũng làm trôi đất cát, làm mặt
đường trồi trơ những đá lổng chổng làm xe nhảy lồm chồm, xóc như bật tung cả
người khỏi yên xe. Tôi ôm chặt lấy bụng cậu thanh niên Dao để khỏi bị bung ra.
Nhiều chỗ đường đất cát lún thành rãnh sâu, bánh xe quay tít không nhính lên nổi.
Tôi xuống xe, leo bộ cho yên tâm. Khi đã quen dần với đường, tôi dần dà hỏi
chuyện cậu tài xế xe ôm. Cậu ta cho biết, tên Triệu Tà Sơn, mới đôi mươi, đã
lấy vợ và có một con trai mới 6 tháng tuổi. Hôm nay, cậu cùng mọi người được xã
huy động tập trung để chở đoàn khảo sát. Bình thường, thi thoảng cũng chở khách
du lịch thuê lên đỉnh Chiêu Lầu Thi, hoặc sang thẳng Nàng Đen ở sườn bên của
dãy núi Tây Côn Lĩnh này; rằng nhà cậu ta cũng có chút nương rãy trồng thảo
quả. Vài ngày một, cậu lại chạy xe lên chăm rãy thảo quả, kết hợp kiếm rau về
chăn nuôi lợn; rằng con đường này được làm dăm năm nay, bình thường ô tô vẫn
chạy được, nhưng năm nay mưa quá nhiều và liên tục nên đường mới bị phá hỏng
nặng nề như thế này... Cậu ta nói tiêng Kinh không thật sõi, song chắp nối những lời kể đứt đoạn, tôi
hiểu, người dân Hồ Thầu đây vẫn còn nghèo lắm, làm lụng vất vả quanh năm mà thu
nhập chẳng được bao nhiêu...và cậu mong ước một ngày nào đó đời sống người dân
khấm khá và đỡ vất vẻ hơn. Có lẽ, đấy cũng là mơ ước của Bí thư Triệu Tài Vinh,
người con của mảnh đất Hồ Thầu này...
Lần lượt, các xe cũng tập kết ở điểm có độ cao 2.235m.
Ở đây, có mấy ngôi nhà, nghe nói của Công ty Bình Minh xây dựng. Tuy nhiên,
nghe nói, công ta này cũng chưa làm ăn gì được, nên huyện và tỉnh có ý đinh thu
hồi để giao cho Công ty TH True Mill. Đoàn khảo sát quyết định lên cao thêm.
Lại ngược dốc mà lên, hồi lâu cũng đến được điểm cao 2.402 m của Chiêu Lầu Thi.
Hầu như cả đoàn, ai cũng ưng chọn mặt bằng của điểm cao này để dựng trạm và cột
phát sóng.
Tôi lặng nhìn lại con đường mình vừa vượt qua, lại
ngắm khúc quanh trườn sang sườn núi bên kia xa nữa là Nàng Đen heo hút trong
sương mùa dày đặc. Mây đen đang ùn ùn dâng ngay đầu núi. Lác đác giọt nước chạm
mơ hồ trên tóc, không rõ mưa hay sương núi. Mọi người nhắc nhau xuống núi gấp
vì chiều đã muộn và đổ mưa thì chặng xuống sẽ vất vả khôn lường...
Lại cắm đầu xuống dốc. Với dân đi núi chuyên nghiệp,
xuống núi khó và nguy hiểm hơn lên núi. Các tay lái tắt máy thả trôi xe và chỉ
nổ máy về số khi cần thiết để ghìm xe lại mà thôi. Biết vậy, song giờ đã phần
nào quen đường nên tôi bớt đi cảm giác lo ngại. Thậm chí, dăm ba chỗ thấy cảnh
đẹp và hùng vĩ, tôi còn bảo cậu tài xế cho xuống để lựa góc lây mấy kiểu ảnh.
Xuống chân dốc, mới hú via hoàn hồn. Mọi người đùa bảo nhau, vừa qua một chuyến
du lịch mạo hiểm...
Tối ấy, đoàn khảo sát chúng tôi nghỉ ở nhà khách của
huyện Hoàng Su Phì tại thị trấn Vinh Quang. Cơm chiêu đãi đặc món dân tộc, dăm
chén rượu bản nồng cay. Đêm nằm nghe mưa. Những trận mưa rừng lúc mau lúc thưa,
ru rín cả đêm. Gần sáng chợt tỉnh, Lắng tiếng mưa mà nghĩ lại, vậy là mình đã
chinh phục được đỉnh Chiêu Lầu Thi, và thiếu chút nữa, lên được đỉnh Tây Côn
Lĩnh.
Ngẫm nghĩ, lại nhớ đến câu thơ của Cụ Hồ ngày xưa, khi
Cụ còn gian nan trên bước đường cứu nước: “Bồi
hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh/ Trông lại trời
Và một c âu chuyện mới được mở ra. Ấy là chuyện bàn về
câu thơ của Cụ Hồ, trong bài thơ “Mới ra
tù tập len núi”, đỉnh Tây Phong Lĩnh
được Cụ nhắc đến trong bài thơ này, là nói tránh đi. Thực sự, ấy chính là đỉnh Tây Côn Lĩnh của đất Hoàng Su Phì thuộc
Hà Giang này!?...
Chuyện còn bỏ ngỏ. Đợi một ngày nào đó trở lại bàn
thêm !...
Lại thèm canh rau tập tàng...
Cuối tuần, ngủ nướng.
Nhưng rồi, không quen, vẫn trở dậy, đun nước, pha trà,
pha cà phê.
Trong tiết thu dìu dịu, ngắm cà phê phin nhỏ giọt, bật
ti vi lơ đãng, ngó nghiêng vài trang mạng. Ấy cũng là cái thú riêng buổi sáng
cuối tuần...
Anh bạn đồng nghiệp, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, đã
thấy cập nhật buổi sáng cuối tuần của mình. Nhìn cái gương mặt ngô ngố của
chàng ta, khoe việc hái rau tập tàng mà đầu óc lại toàn nghĩ đến quốc gia trọng
sự, đến nỗi hái nhầm cả rau dại, mà cười thầm. Cái anh chàng này, làm bộ làm
tịch thế thôi, là lấy cớ để cạnh khóe chuyện xấu ngoài xã hội, là để khoe có
vườn tược ở quê vợ đấy mà.
Vậy là lại nhớ, lại thèm món canh rau tập tàng...
Thực ra, bây giờ, ra chợ, cũng có thể mua được món rau
tập tàng để nấu canh. Nhưng mà, nói đến món canh rau tập tàng, là nói đến cái
thú phải tự kiếm, tự nhặt nhạnh nơi vườn nhà.
Có lẽ, món canh rau tập tàng, là thứ canh rau có một
không hai trên thế gian này, chỉ riêng có ở xứ mình. Ấy là món cánh rau hái ở
vườn nhà, ở hàng rào, dù cây trồng hay cây mọc dại ăn được. Ngày đi học ở quê,
nhà tôi cũng có vườn rộng, nên ràu trồng và rau dại đều nhiều. Dịp xuân hè, mưa
nhiều, rau lên xanh tốt bời bời. Mỗi tuần, dăm bữa ăn rau tập tàng. Mẹ tôi, các
chị tôi, và tôi nữa, chỉ cần mang rổ ra vườn, nhặt nhạnh một nhoáng là đã trên
lưng rổ, nào rền cơm, mồng tơi, rau đay, rau mảnh cộng, lá mướp non, lá ớt non
và nụ hoa thiên lý. Nấu canh cua là ngon nhất. Còn không, nấu với tôm khô, tép
khô, thậm chí nấu suông nêm chút bột ngọt là được nồi canh ngon lành; thêm cà
muối xổi, đĩa đậu rán, lạc rang mặn là nên bữa cơm thanh đạm, ngon miệng lắm
rồi.
Nhớ
canh rau tập tàng, là nhớ về mẹ. Người mẹ vất vả, tần tảo một đời vì con cháu,
nhất là mẹ đã đi qua những tháng năm tao loạn bởi thời thế, những cuộc chiến
tranh đầy hy sinh, chết chóc, những thiếu thôn về vật chất và đầy đọa về tinh
thần...
Mẹ bình dị như món canh rau tập tàng, mẹ vĩnh cửu như
mạch nguồn chẳng bao giờ khô cạn... Nhưng khi biết thấm những nỗi đau đời, biết
thương cha nhớ mẹ thì cũng đã muộn rồi. Song muộn, con hơn không... Lại nghĩ
đến anh bạn Trọng Huân, anh cũng đã già rồi, và mẹ anh cũng đã khuất bóng.
Tháng trước, cùng anh về thăm lại căn nhà trên mảnh vườn xưa cũ ven sông Luộc
nơi phố bờ sông trấn Ninh Giang. Anh đứng nhìn mảnh vườn đã sang tay chủ khác,
mặt nhầu nhĩ, tóc bạc giả nửa mái đầu, lưng gù xuống, mà lòng tôi đầy lên nỗi
thương nhớ mảnh vườn quê. Dẫu sao, tôi còn chút đất với ngôi thờ tự, tuy chẳng
đủ để trồng rau, để lau hoang cỏ dại, đặng hái rau tập tàng... Song, nỗi khát
khao có nhà vườn canh cánh trong lòng anh, không còn đất ở quê mình thì anh
dành dụm mua đất xây nhà làm vườn ở quê vợ, một làng quê ngoại ô, nơi ngã ba
sông Hồng và sông Đuống. Nhưng thôi mà, Trọng Huân ơi, hãy chia sẻ cùng tôi
nhé, những dòng này, liệu có an ủi được chúng mình chăng: "... mình một đau/ mẹ những mười đau /sông oằn lũ mùa thu/ lất
phất trắng ngàn lau/ tôi lại thêm một
lần/ lớn dậy... Bằn bặt/ từ đây/ trên vai gày/ gánh/ tần tảo/ mẹ nặng thêm biết
mấy/ cho tóc tôi thêm xanh/ tóc mẹ bạc/ thêm phần/ bước thẳng bước xiêu/ bước chậm
bước nhanh/ đi về phía chân trời đầy giông gió... ".
Vậy nhé, cho tôi chia sẻ món canh rau tập tàng với
nhé, anh bạn già đồng nghiệp của tôi ơi ?!...
Lên miền hoa ban trắng
Đi Tây Bắc, lần nào cũng vậy, dù nhàn tản thăm thú hay
vội vàng công việc, đều có cái thú riêng của nó. Thường là chuyến đi vào dịp
cuối năm, hay bị vội vàng hơn những chuyến đầu xuân.
Nhớ là, có lần, đã giáp tết, công việc bề bộn, cứ bị
cuốn theo cái sự gấp gáp, náo nức của không khí tết, nên ngoài việc ngó nghiêng
tìm mua lấy một cành đào rừng, thì chẳng còn thời gian đâu mà thăm thú... Lần
vào dầu xuân, đã chủ định, rảnh rang hơn. Chẳng gì thì cũng vừa mới hết tháng
ăn chơi, vả lại mùa xuân hãy đang còn kia mà. Nhớ dạo thu năm ngoái, anh bạn
đồng nghiệp, là chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Điện Biên nhắn nhe bằng lời mời hấp
dẫn : “ Mong được đón anh ở Điện
Biên, nhưng hẹn anh vào mùa ban xuân tới “. Vậy mà mùa ban đến, định theo
lời mới mà lên, thì anh chàng lại bay vào
Đúng hôm lên đường thì một đợt gió mùa mạnh tràn về.
Suốt dọc đường, từ Hòa Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Hát Lót lên Sơn La,
mưa rét tầm tã, rả rích một điệu ru rín buồn buồn của trời đất, trong khi ấy,
thì cập nhật thông tin toàn là tuyết rơi dày gây khó khăn cho công tác cứu hộ
động đất, sóng thần ; chuyện phun nước làm mát lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản
; tin chuẩn bị đánh nhau to ở Libya... Lởn vởn trong đầu, ý nghĩ về một đợt lũ
tiểu mãn có thể giảm nguy cơ cháy rừng, và cung cấp một lượng nước đáng kể cho
cây cối và tích thêm nước cho thủy điện, khiến cho lòng người có cái để mà vui
...Những cung đường Tây Bắc, mấy năm qua đi lại, đã thành quen thuộc, khúc nào
quanh co nguy hiểm, mùa nào hay sương mù dày đặc, chỗ nào có bản Mông, bản
Thái, mùa nào có hoa gì nở ... Ấy vậy, trời mưa rét, cũng mất hết cả phương
hướng. Lúc nghỉ chân tìm chén trà nóng ở gần thị trấn nông trường Mộc Châu,
lạnh run người, thì ra nhiệt độ xuống tới 4 độ C. Xe cứ lầm lụi trong
mưa, chốc chốc một cây gạo hoa trổ đỏ ối cả cây trơ vơ bên sườn dốc hiện ra
trong màn mưa. Xe đông người, vậy mà một cảm giác cô đơn len lén dâng lên.. Mấy
ngày, ngoài sự hứng khởi trong thực thi công việc, chút thăng hoa xen lẫn
cảm giác trống rỗng khi nghiêng ngả trong các cuộc rượu tại bản Thái, vẫn còn
sự chờ đợi về màu hoa ban trắng rừng núi Tây Bắc. Lại Thuận Châu,
rồi vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo. Đã thấy lác đác những cây ban hoa trắng,
nhưng ủ rũ trong mưa rét và sương giá. Cả thành phố Điện Biên chìm trong mưa
rét. Đêm, nằm bẹp trong phòng kín Nhà khách tỉnh, nghe mưa rơi đều đều ngoài
trời, loáng nhoáng màn hình ti vi là những cảnh tuyết dày ở Sa pa cùng các
gương mặt hớn hở của người lần đầu thấy tuyết, cảnh người dân Nhật Bản đang vật
lộn với giá rét tuyết phủ kín trong đống đổ nát khổng lồ của động đất và
sóng thần. Có gì đó hơi bất nhẫn...
Ngủ vùi trong hơi men và những xúc cảm đan xen, chộn
rộn. Lại mơ màng về một màu hoa ban trắng ...
Vâng, đấy là cảm xúc về một miền hoa ban trắng của
những năm trước, nó đã thuộc về ký ức, dù chưa xa. Đến mùa ban này, tôi cầm
trong tay cái giấy mời của Ban tổ chúc Lễ hội hoa ban Điện Biên. Có gì đó háo
hức. Ngay như Sơn La, mặc dù không phải là xứ sở của hoa ban, thì ở thành phố
đó đây, cũng đã bắt gặp những băng-rôn quảng bá về Lễ hội hoa ban, và ngẫu hứng
thay, tôi đã chộp được mấy bức ảnh hoa ban khá ưng ý từ vài ba cây ban cô lẻ
mình đầy hoa trắng tinh trong nắng chiều xuân óng ả. Lại vượt đòe Pha Đin, giờ
đã hạ cốt thấp hơn nhiều so với tuyến đường trên cao xưa kia “ ngàn thước lên
cao ngàn thước xuống” của những chiến binh Tây Tiến. Khi băng ngang quê hương
của người anh hùng thiếu niên Vừ A Dính thời chống Pháp, hoa ban ven đường, và
trên những vạt đồi đã nhiều hơn. Càng gần thành phố Điện Biên, thủ phủ của miền
hoa ban trắng, dọc đường vào, bắt gặp những cây ban mới trồng theo hàng lối quy
củ. Hẳn là địa phương chủ động phát triển loài cây hoa này nhằm củng cố thương
hiệu miền hoa ban cho mình nhằm phục vụ cho mục đích du lịch sau này.
Thành phố Điện Biên, đang xuân mà nóng như mùa hè. Cảm
thấy hơi vị khó chịu đặc trưng của gió lào trong không khí. Tuy không ngập
trong màu trắng hoa ban thì đó đây, trên đường phố, các điểm tham quan như Đồi
A1, Nghĩa trang Điện Biên, khu di tích Hầm Đơ-cát, và bờ sông, khe suối, màu
ban trắng đã dày hơn. Ai đó, lý giải cho việc đúng vào dịp lễ hội hoa ban mà
ban nở lại không nhiều, rằng trước đó mấy ngày, một trận giông lốc mưa lớn khi
gió mùa đông bắc tràn về đã làm phàn lớn số cây ban nở hoa bị rụng hết, rằng
sau trận giông lốc, đường phố ngõ xóm đầy xác hoa và canh cây gãy. Nghĩ mà xót
mà thương cho lễ hội thưa vắng sắc trắng tinh khôi của hoa ban. Song rồi, bù
lại, đêm lễ hội, các tiết mục dân ca, dân vũ được trình diến khá kỳ công và đặc
sắc văn hóa phong tục vùng miền, với kết thúc là vòng xòe lớn kết nối niềm vui
của con người từ mọi vùng miền...
Chẳng hề hấn gì, trong tôi, những câu thơ lấp ló:
... Ban đang mùa mở hội
Ta lại tìm xa xôi,
ước một bàu tĩnh lặng
chỉ còn màu
hoa thôi...
Mùa nước nổi
Vào dịp Quốc Khánh năm 2017, có đến ba
cây cầu được nói đến, ấy là khánh thành cây cầu vượt biển Tân Vũ-Cát Hải (Hải Phòng) dài nhất Việt Nam, và trước
đó, cầu Cao Lãnh và cầu Vàm Cống ở đồng bằng sông Cửu Long cũng vưa hợp long.
Cái tên Vàm Cống gợi lên trong tôi bao kỷ niệm từ gần bốn chục năm trước ùa về...
Ngày ấy, mùa mưa lũ năm 1981,
tôi-chàng kỹ sư nông nghiệp trẻ mới tốt nghiệp, nhận quyết định vào công tác ở
An Giang. Cùng đi với tôi vào thành phố Hồ Chí Minh, có Hoàng Gia Trình, bạn
cùng lớp và hai người nữa, một nam một nữ, học trước tôi một khóa. Ba người vào
vào An Giang, riêng Hoàng Gia Trình vào Minh Hải (khi ấy nhập Bạc Liêu và Cà Mau). Lo ăn đường, mẹ tôi gói ít bánh
chưng cho tôi và Trình mang theo. Dọc đường vào, gặp áp thấp gây mưa, ngập úng
và sạt lở đèo Cù Mông (Nghĩa Bình) và
đèo Cả (Phú Khánh). Hành khách đi tàu
hỏa Thống Nhất phải dặt dẹo ngủ trên tàu, ngủ nhà ga, đi bộ, tăng-bo mấy đoạn,
ngót một tuần mới vào được thành phố Hổ Chí Minh. Ai nấy, quần áo nhàu nát lấm
lem, lại bị đám xe lam Sài Gòn lừa, loanh quanh mãi mới ra được bến xe Miền
Tây.
Xe rời thành phố từ mờ sương, lút vào
miền Tây
Xe đến Bắc Mỹ Thuận, xe nối đuôi rồng
rắn, chờ xuống phà. Sông Hậu mênh mông nước ngầu đục vì đang mùa mưa, đôi bờ
bên này thuộc Tiền Giang, bên kia là Vĩnh Long. Lần đầu thấy sông Hậu, lại biết
thêm người
Xe cứ chầm chậm miên man mãi như chẳng
bao giờ tới đích. Đồng thì mênh mông, chủ những nước là nước, cỏ đồng năn nác
ngập đầu, sen súng lênh bềnh, khiến con đường cảm giác như sợi dây thừng dải
ngoằn ngoèo trên biển nước vô tận. Tôi nhẩm đọc các biển tên địa danh hai bên
đường, thấy nôm na, ngồ ngộ, buồn cười. Tôi nhớ lắm, khi ấy, cái tên Lấp Vò như
ám vào đầu, và tôi rẩm riu nghĩ mãi, tại sao người ta lại gọi tên như vậy? Rồi
cũng chẳng hỏi ai, cứ tự mình xét đoán, cả những khi sau này, mỗi lần nghỉ phép
ra Bắc, xe lên thành phố lại ngang qua Lấp Vò. Lại hình như có một thời gian
người ta đổi tên thành Thanh Bình thì phải? Khi ấy, tôi chỉ nghĩ, cái tên mới
này chữ nghĩa quá, chẳng ấn tượng bằng Lấp Vò được. May mà, đã trở lại với cái
tên gốc.
Trở lại chuyện cũ. Ngày ấy, sau một
thời gian ngắn ở thị xã Long Xuyên, tôi được điều về Ban Nông Lâm nghiệp huyện
Tri Tôn, đóng tại xã An Lạc, giáp ranh thị trấn huyện lỵ. Đây là vùng đất Bảy
Núi cũ, được chia tách làm hai, Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây cũng là vùng đất duy
nhất ở miền Tây
Với người dân miền Tây
Đã có một thời gian, chúng ta thiếu
suy xét, cho xây dựng hàng loạt những nông trường bộ tại vùng đất phèn nặng của
tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, dẫn đến thất bại, rồi tan rã. Kế đó, chúng ta lại
ào ạt với chủ trương “vựa lúa khổng lồ”,
làm thủy nông nội đồng, thoát nước biển Tây, miễn sao có được thật nhiều diện
tích trồng lúa hai vụ, giống ngắn ngày, tăng năng suất. Công bằng mà nói, miền
Tây
Nhưng, khi đã no đủ rồi, lúc ấy mới ngẫm nghĩ, thấy
tiêng tiếc nền tàng vật chất và xã hội xưa cũ, quen thuộc, ấy là sinh thái ngập
nước. Càng ngẫm, càng thấy cái lý, cái cơ sở khoa học và lợi ích to lớn và toàn
diện của hệ sinh thái này. Đó là sự cân bằng và sắp xếp của tự nhiên. Rồi nữa,
lại nghĩ, giá như mình đừng nóng vội, bình tĩnh mà nhìn nhận, đánh giá, so
sánh, để rồi chỉ quy hoạch vùng lúa đến mức nào đó, trên nền tảng của sinh thái
ngập nước... thì có phải bây giờ, ta sẽ thế này, thế kia... lợi ích đôi đường
?...
Mấy năm gần đây, những năm ít mưa, thêm nạn thủy điện
nơi thượng và trung lưu sông Mê-kông, dẫn đến mất mùa nước nổi, rồi nạn xâm
mặn, sâu bọ, chuột phá v.v... lợi bất cập hại. Khi ấy, ta mới thấy tiếc, thấy
thèm, thấy khao khát mùa sa mưa, nước nổi đến chừng nào !?...
Gần đây, trong một chuyến về Đồng Tháp, Bí thư Tỉnh ủy
Lê Minh Hoan, trong lúc làm việc và cả khi tiếp cơm đoàn công tác của Đài Tiếng
nói Việt Nam, ông say sưa nói về chương trình, mỗi thôn ấp, mỗi vùng đất-một
sản phẩm hàng hóa,... Để ý, tôi thấy ông luôn miệng nói về sinh thái ngập nước
với những lợi ích của nó. Có một câu, hình như đã thành câu cửa miệng của ông “mình đã sai, thấy sai, thì mình sửa thôi”.
Lê Minh Hoan cũng nổi tiếng là một người yêu sen. Loài hoa đặc trưng và nổi
tiếng của vùng Đồng Tháp Mười.
Bữa cơm khách, Bí thư Tỉnh ủy Lê Minh Hoan chăm chút
đến từng chi tiết, món ăn, như rượu dừa, các món chế biến từ sen và cá đồng, cá
sông, loại chỉ có ở Đồng Tháp và miền Tây, rồi cả chuột đồng mà ông gọi chệch
là sóc tràm; rồi nữa, tặng phẩm là khăn rằn làm bằng tay, khăn rằn chế thành
ca-vát... Tôi bày tỏ sự đồng cảm với ông về sinh thái ngập nước, và sự cần
thiết hồi phục hệ sinh thái này ở vùng đất Đồng Tháp, và hơn thế là cả vùng Tây
Nam bộ, chỉ cần duy trì một diện tích vừa đủ để trồng lúa mà thôi.
Bằng hiểu biết của mình, có thể ít nhiều hạn hẹp,
nhưng với cả tấm lòng, tôi yêu và tâm đắc hệ sinh thái ngập nước, cũng yêu và
thèm khát mùa nước nổi !... Ở đó, có kỷ niệm về một thời gian khó nhưng giàu mơ
ước; ở đó, có tình yêu, nỗi xa cách, cùng sự thất bại và nỗi thất vọng; ở đấy,
còn có sự tìm tòi và tự nhận thức, để rồi đi đến sự minh triết !...
Mưa phùn giêng hai,
Năm rồi, mùa đông không mấy rét. Những ngày tết nguyên
đán Đinh Dậu tuy không thật rét như mong muốn của nhiều người, song cũng đủ
lạnh khô mỗi khi về đêm và buổi sáng, dù ban trưa ít nhiều có nắng ấm. Đến cuối
tháng giêng, trời đã dày sương lúc chiều chạng vạng và buổi sớm mai, kiểu trời
báo hiệu sắp có mưa phùn. Quả nhiên, sang tháng hai âm lịch, tiết trời âm u, mù
sương, mưa phùn mưa bụi lây phây cả ngày, đến mấy ngày, thậm chí suốt cả tuần.
Ai nấy, cũng kêu trời nồm ẩm khó chịu, nhất là những người mắc chứng hô hấp,
hoặc xương khớp. Người khỏe thì cũng thấy ỉu xìu, ươn ươn, khó ngủ. Ấy vậy, kêu
ca mà làm gì !...
Lâu rồi, tôi mới thấy tiết trời vùng Bắc bộ điển hình
nồm ẩm giêng hai đến vậy. Kiểu tiết trời này, ngày xưa là thường, hầu như năm
nào cũng na ná vậy. Có lẽ, tiết trời bất thường, không còn tuân theo hai mươi
bốn tiểu tiết, trên cơ sở phân đoạn lịch âm điển hình, đã trở thành phố biến,
và là sản phẩm của biến đổi khí hậu chăng? Ngày xưa, cũng có năm thất thường,
có hiện tượng thời tiết cực đoan, quá nóng, quá rét, song cơ bản là hài hòa,
tiết thuận, nghĩa là điển hình mùa nào ra mùa nấy. Chính vì thế, thiên nhiên
theo mùa, vạn vật, cỏ cây hoa lá thuận theo mùa, con người lâu thành quen, nó
ăn sâu bám rễ vào tiềm thức, trạng thái, tình cảm, tâm lý, cảm xúc...; rồi qua
đó mà ảnh hưởng đến phong tục, văn hóa, nghệ thuật, xã hội nữa... Giờ thì thất
thường và bất thường, thật đáng lo ngại đây chứ !...
Vâng, lại ngày xưa, tiết giêng hai nồm ẩm, với biểu
hiện đặc trưng là dầy mây, sương mù, mưa bụi mưa phùn lây nhây... Nhưng đấy là
mùa của hoa xoan tím ngát, mùa của hoa chanh, hoa cam thơm dìu dịu tinh khiết,
mùa của hoa bưởi sực nức vườn quê; rồi nữa hoa mơ hoa mận, hoa lê trắng xóa
sườn đồi... Nữa là, cỏ non tơ mơn mởn khắp chốn cùng quê. Lại nhớ câu thơ
Nguyễn Du: "Cỏ non xanh rợn chân
trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa/ Thanh minh trong tiêt tháng ba/ Lễ
là tảo mộ hội là đạp thanh...", rồi câu thơ cổ Việt " Xuân
du phương thảo địa...".
Tiết trời này, rau khúc đồng cũng lên xanh mỡ, tha hồ
mà thu hái để làm món bánh khúc thơm ngon. Mùa thu cũng có rau khúc, nhưng khúc
thu già và cỗi hơn khúc xuân.
Cho đến khi, chợt trời nổi cơn giông, bầu trời thấp
thoáng lóe sáng lằng ngoằng những tia chớp mảnh, rồi thoảng đâu đó từ xa xôi ì
ầm tiếng sấm, ấy là đã qua tiết tháng hai nồm ẩm, báo hiệu mùa hạ sắp đến. Cho
đến khi, chớp chới vài ba bông gạo đỏ đầu làng, cuối xóm, đầu non sườn núi, và vườn nhà ai, hoa lựu lập
lòe đâm bông...
Cuối xuân
bàng đã lá xanh,
Sót đôi chiếc
đỏ trên cành ngẩn ngơ,
Thôi đừng,
mùa đợi tháng chờ
Kìa bông hoa
lựu thập thò lửa nhen,...
Ngày xưa,
tôi yêu bóng đá...
1.
Tôi viết bài này, ngay sau khi Real
Madrid vừa thua Atletico Madrid, câu lạc bộ cùng thành phố, 1-2, song vẫn thắng
chung cuộc với tổng tỷ số 4-2 (lượt đi
3-0) để vào chung kết Champion Legue (CL) với Juventus (Italia) mùa bóng
2016-2017. Và cũng, khi U20 Việt Nam vừa thua U20 Argentina với tỷ số 1-4, một
cuộc tập rượt, thử sức cần thiết, trước khi sang Hàn Quốc tham dự VCK Giải U20
thế giới.
Nói như vậy, để thấy, tuy không còn
yêu bóng đá nhiều như ngày xưa nữa, song tôi vẫn theo dõi, cập nhật khá đầy đủ
những thông tin về bóng đá trong nước và quốc tế ...
Tôi yêu bóng đá từ khi nào thì tôi
không nhớ, song chắc chắn từ khi còn nhỏ, ấy là cái hồi học tiểu học cơ.
Tôi nhớ, gia đình tôi mới chuyển từ Hà
Nội về quê Hưng Yên sinh sống, sau khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ
Ngụy ra miền Bắc bắt đầu nổ ra năm 1964. Ở vào thời điểm ấy, vùng quê Văn Lâm
(Hưng Yên) của tôi cách thủ đô hơn hai chục cây số, nên có nhiều trường Đại học
ở Hà Nội sơ tán về. Đầu năm học lớp 3 (1967), lớp học của tôi đón hai bạn mới
về, ấy là Minh và Dung. Họ là hai anh em ruột, con một gia đình là cán bộ của
Trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội theo nhà trường sơ tán. Minh được bố mua cho quả
bóng đá bằng cao su màu đỏ. Chiều chiều, Minh mang bóng ra sân kho Hợp tác xã
và rủ chúng tôi cùng đá. Lũ trẻ con chúng tôi thích lắm, chia quân làm đôi, xếp
cọc gôn bằng gạch, quần nhau, vừa đá vừa cãi nhau chí chóe. Không đứa nào chịu
làm thủ môn cả, chỉ thích đá ở trên để ghi bàn thắng. Có buổi, cậu rm út của
Minh tên là Tuấn, mới học lớp 1, bé quá nên không được đá, nó đứng ngoài khóc
và dọa Minh mách bố chúng rằng Minh chưa học bài đã mang bóng đi đá. Minh tức
lắm, vừa dỗ vừa dọa cu Tuấn nhưng không ăn thua, đành thu bóng mang về khiến
chúng tôi chưng hửng. Cũng có buổi, chú Mẫn, bố của Minh ra xem, và còn làm
trọng tài cho chúng tôi. Tôi vẫn nhớ, ngày ấy, chú Mẫn đã điều hành trận đấu
của đám trẻ con chúng tôi bằng những thuật ngữ bóng đá nước ngoài, như corner (phạt góc), penalty (phạt đền, phạt 11m),... mà mãi sau này lớn lên, tìm hiểu
tôi mới biết. Bóng cao su, đá sân gạch, nên chỉ sau một tuần, đến mươi ngày là
cùng, bóng bị rách, hoặc thủng châm kim đâu đó, xi hơi, mềm ra, không còn nảy,
đá chán lắm. Bóng hỏng, song chúng tôi không kìm nén được khát thèm đá bóng,
bèn nghĩ cách tự tạo bóng. Chúng tôi lấy rơm khô, hoặc sợi đay quấn tròn lại,
bọc bên ngoài bằng bao sợi gai thành bóng, nhưng đá một hồi, dây tuột, phòi bùi
nhùi, không đá được nữa. Chán chê, lại thay bằng bóng bưởi. Quả bưởi nhỡ, lấy
trộm làm bóng đá, để bưởi không cứng, bớt đau chân, phải mang hơ lửa cho héo
bớt, mềm đi mới đá được. Là thiếu bóng thì mới phải vậy, chứ đâu có hay ho gì.
Nhà chú Mẫn, dù có thương và chiều con lắm, thì ngày ấy tiền bạc khó khăn, mua
một quả bóng cao su cũng phải tỉnh toán, thêm nữa, cũng phải đợi hàng tháng,
chú ra Hà Nội về thì mới có bóng mới. Những lần như thê, thật vui. Đấy, tuổi
thơ yêu bóng đá của tôi là vậy... Đến khi vào cấp 2, gia đình chú Mẫn ra lại Hà
Nội, Minh, Dung, Tuấn cũng theo gia đình. Lũ trẻ chúng tôi không còn bóng cao
su để đá nữa, phong trào chơi bóng sân kho cũng tan dần. Sau này, tôi còn gặp
lại mấy anh chị em trong gia đình chú Mẫn, và có có những chuyện thú vị xảy
ra...
Lớn lên chút nữa, tự tìm hiểu để có
thêm chút kiến thức về bóng đá, tuy nhiên, mọi thứ vẫn khó khăn lắm, nữa là
bóng đá. Ấy vậy mà, khi còn phân miền Bắc- Nam, riêng miền Bắc có rất nhiều các
đội bóng đá (ngày đó chưa dùng cách gọi
chuyên nghiệp là Câu lạc bộ, mà đơn thuần gọi là đội bóng, và cách tổ chức tập luyện, thi đấu vẫn ít nhiều mang tính
phong trào). Nổi tiếng nhất là Thể Công và Công an Hà Nội. Còn có các đội
khác, là Phòng Không không quân, Than Quảng Ninh, Công an Hải Phòng, Xây dựng
Hà Nội, Dệt Nam Định... Sau năm 1975, thống nhất Bắc Nam, có thêm các đội là
Công an Tp. Hồ Chí Minh, Hải Quan, Cảng Sài Gòn; rồi nữa, là các đội Công nhân
Nghĩa Bình, Công nghiệp Hà Nam Ninh... Theo thời gian, các đội bóng, hoặc giữ
nguyên, hoặc giải thể, tách nhập, đổi tên, và tóm lại, hoạt động của tất cả các
đội đều mang tính bao cấp, bởi các ngành, hoặc địa phương xây dựng, quản lý.
Với cách này, phải nói, đã có nhiều đội bóng tên tuổi, có thành tích cao, đóng
góp nhiều cầu thủ giói cho đội tuyển quốc gia và bóng đá nước nhà trong các
giải đấu khu vực và các nước thuộc phe XHCN cũ...
Với riêng tôi, ngày nhỏ đâu được xem
trực tiếp trận đấu tại sân vận động, có chăng, nghe tường thuật qua sóng phát
thanh của Đài Tiếng nói Việt
Tiếp đến Vòng chung kết Giải bóng đá
thế giới năm 1978 do
Cho dù thế nào, được tận mắt xem các đội bóng lớn với
nhiều cầu thủ hàng đầu thế giới tranh tài đã là sung sướng lắm rồi !...
2.
May mắn là năm 1987, từ một kỹ sư nông nghiệp công tác
ở miền Tây Nam bộ, viết báo nghiệp dư, tôi được chuyển về làm báo chuyên nghiệp
tại Đài Tiếng nói Việt Nam, cơ quan báo chí hàng đầu của nước ta. Rồi đó, năm
1994, sau vài vị trí công việc, tôi chuyển về làm biên tập viên của Ban Văn hóa
xã hội nhà Đài. Đây là một ban biên tập lớn, thích thú hơn vì đây là nơi chuyên làm các chương trình
phát thanh về thể thao nói chung và bóng đá nói riêng...
Ngày nhỏ, ham mê bóng đá là vậy, đến lúc học đại học,
nhà trường có sân vận động khá tốt, nên sinh viên chúng tôi hay chơi bóng đá,
song chủ yếu là gôn tôm. Do hạn chế về thể chất, thuộc dạng thấp bé nhẹ cân,
nên sau này đi làm, tôi không chơi bóng đá nữa, song sự hâm mộ thì không hề
giảm, trái lại còn cao hơn. Vậy nên, khi được làm việc trong môi trường có thể
thao, bóng đá, tôi chuyển hết sự hâm mộ của mình vào công việc tổ chức sản
xuất, bình luận bóng đá qua phương tiện báo chí của nhà Đài. Ở thời điểm này,
cặp bình luận và tường thuật bóng đá trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói
Việt
Thấy được khả năng bình luận bóng đá của tôi, lúc ấy,
do thiếu người, phần muốn tăng cường thêm nhân sự tường thuật trực tiếp các
trận đấu, lãnh đạo Ban biên tập đã yêu cầu tôi, tham gia cùng tổ sản xuất
chương trình bình luận bóng đá trực tiếp, với việc xem và nghe nhóm tường thuật
làm việc, đặng học hỏi kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc bổ sung làm bình luận
viên trực tiếp. Theo đó, tôi đã có một số buổi tham gia công việc cùng tổ bình
luận.
Khi ra sân Hàng Đẫy, tôi ngồi bên cạnh các bình luận
viên, học cách họ quan sát các tình huống và diễn biến trên sân rồi chuyển
thành ngôn ngữ tường thuật và bình luận. Được cái, tôi có trí nhớ tốt, khá
thuộc tên cầu thủ, cái khó là cách quan sát số áo mặc để chuyển thành tên cầu
thủ một cách nhanh và chính xác sao cho kịp tình huống bóng lăn,... Song khó
nhất, vẫn là cách đọc trận đấu, ấy là nhìn ra cách các đội bố trí theo sơ đồ
chiến thuận nào, rồi vận hành ra sao, chẳng hạn như: đội hình 4-4-2, hoặc
3-5-2, hoặc nữa, 4-3-3, rồi có thể biến thiên thành 4-3-2-1 .v.v... Để có thể
thành thục hơn, có buổi, tôi không ra sân, ở nhà, xem qua tivi, ngồi trước màn
hình tập tường thuật một mình... Cho đến lúc, tự cảm thấy, mình có thể giúp
việc cho tổ bình luận, hoặc tham gia bình luận một chốc một nhát cho tổ bình
luận, thì có chuyện xảy ra, khiến tôi từ bỏ hẳn ý dịnh trở thành bình luận viên
trực tiếp tường thuật bóng đá...
Số là, trong số các đồng nghiệp, có ai đó, hình như
không muốn tôi tham gia việc này, đã có lời ra tiếng vào, gián tiếp cạnh khóe
này nọ. Vậy là tôi thối chí, vì tự ái, vì bực bội, và vì gì gì nữa cũng chẳng
rõ ...
Tôi đã không trở thành một bình luận viên bóng đá,
tường thuật trực tiếp các trận đấu cũng đơn giản vậy thôi. Cho đến giờ, tôi
cũng chẳng truy xét quyết định ấy là đúng hay sai nữa. Mỗi khi nghĩ đến, bật
cười, rồi thử hình dung, nếu mình thành bình luận viên bóng đá thì sẽ thế nào
nhỉ? Cuộc đời, chẳng ai có thể làm mãi một việc, kể cả công việc mình yêu thích
và việc nó giúp mình thành danh . Đã có vài lứa bình luận viên bóng đá thay
nhau làm công việc này. Riêng mình, tôi chuyển sang công tác quản lý ở cơ quan,
và việc này, đã giúp cho tôi có cái nhìn bao quát hơn, mà cũng cụ thể hơn, để
hiểu được những gì mình đã trải qua trong nghề nghiệp. Hiểu để trải lòng mình,
để bao dung hơn với người khác, để bớt đi sự thiển cận, để tổ chức công việc
tốt hơn, ... Nói vui, tôi không trở thành bình luận viên trực tiếp tường thuật
bóng đá thì trái đất vẫn không ngừng quay!...
Và hơn thế, không tham gia công việc ấy, nhưng quan
trọng là, tình yêu bóng đá vẫn còn trong mình, thì mình thiếu gì cách để tiếp
tục công việc ấy dưới những trạng thái khác cơ chứ ?....
3.
Có một thuận lợi, Ban biên tập của tôi, một phần công
việc là các chuyên mục thể thao. Khi ở cương vị Phó trưởng ban biên tập, tôi
được Trưởng ban giao phụ trách một số mảng, trong đó có thể thao nói chung và
bóng đá nói riêng. Bóng đá được xem là môn thể thao vua, hay nói chữ nghĩa, là Túc cầu giáo, đúng trên phạm vi toàn thế
giới, ngay cả nước Mỹ, vốn ưa chuộng bóng chày, bóng bầu dục, bóng rổ, thì cũng
không thể thờ ơ với bóng đá được.
Hễ nói đến bóng đá, không thể nào tách rời người hâm
mộ bóng đá được. Hay nói một cách khác, thiếu người hâm mộ, bóng đá không còn
là bóng đá nữa. Ở quy mô toàn cầu, Giải
vô địch bóng đá thế giới tổ chức 4 năm/lần, và Giải vô địch bóng đá châu Âu cũng tổ chức 4 năm/lần, xen kẽ nhau,
thế nên, cứ 2 năm, người hâm mộ lại được thỏa mãn tình yêu bóng đá của mình.
Còn về cấp độ hằng năm, đã từng có 3 loại Cúp châu Âu, ấy là, C1 - dành cho các đội vô địch quốc gia, C2 - dành cho các đội đoạt
cúp quốc gia của mình, và C3 - dành cho các đội xếp thứ hạng cao ở mỗi giải
vô địch quốc gia mà không thuộc diện các cúp C1, C2. Sau này, Liên đoàn
bóng đá thế giới ( FIFA ) đã sắp xếp
lại, đổi tên cúp C1 thành Champion League,
và sáp nhập cúp C2, C3 thành Europa
League. Ngoài ra, còn có các cúp Libertadoress của Nam Mỹ, Cúp các đội vô
địch các châu lục (Confederation Cup),
v.v... Dân hâm mộ tha hồ mà xem, trực tiếp trên tivi, khi các đài truyền hình đua nhau mua bản quyền trực tiếp.
Nhiều quá, hóa nhàm. Điều này cũng lại đúng, chí ít
với riêng tôi. Song hãy khoan nói đến cái sự nhàm ấy, để nói về lòng hâm mộ và
tình yêu dành cho bóng đá trước đã.
Ban biên tập của tôi, cứ mỗi mùa bóng đá, ngoài việc
cùng tham tổ chức bình luận trực tiếp, còn phải thông tin kết quả thì đấu và
viết các bình luận ngắn về bóng đá và tất thảy những gì liên quan đến giải đấu.
Vậy nên, cứ mỗi mùa, mỗi giải như thế, Ban biên tập lại thành lập ra một nhớm
các biên tập viên của mình, chủ yếu nam giới, để thực hiện công việc này. Lắm
việc thêm bận rộn, mệt và vui. Và một khi đã là bóng đá, lúc xem trực tiếp hay
khi bình luận, nhất là những trận đấu vào giờ ban đêm, thường bao giờ cũng kèm
theo đồ nhậu lai rai, và cá độ trong nhóm bình luận với nhau,... Cá độ, được
thua không phải là tiền bạc, chỉ là chầu bia hơi, cũng là để tăng cường sự hưng
phấn, hăng hái cho công việc tiếp theo mà thôi... Riêng tôi, dân hâm mộ bóng đá trong ban biên tập suy tôn là sư phụ trong việc dự đoán kết quả các trận đấu
thuộc cúp C1. Tự thân, tôi cũng không thật rõ là tại sao tôi lại dự đoán kết
quả thi đấu ở cup này chính xác đến vậy. Có lẽ, do tìm hiểu kỹ các đội và tương
quan giữa các đội với nhau, mà cũng chưa hẳn vậy, nhiều khi đúng lại là do cảm
tính cũng nên.
Mỗi cá nhân, ai cũng là fan của một đội tuyển quốc gia, một Câu lạc bộ nào đấy, và như vậy, không tranh khỏi chuyện khích bác
lẫn nhau khi xem thi đấu và cả khi bình luận. Thế mới vui, mới cay cú, mới là
bóng đá chứ. Riêng mình, tôi yêu thích đội tuyển Áo thanh thiên-Italia (Azzurri ) với lối đá giàu trí tuệ, thiên về chiến thuật, khi đó
các cầu thủ nổi tiếng đẹp trai và tài hoa còn xỏ giày như P. Mandini, R.
Donadoni, M. Tassotti, F. Baresi, A. Costacurta
v.v...; còn ở cấp độ câu lạc bộ, tôi mê mẩn AC Milan ( Italia ) từ thời có bộ
ba Hà Lan bay gồm: F.
Rijkaard, R. Gullit, M. Van Basten làm mưa làm gió sân cỏ châu Âu... Và đã là
tình yêu, là fan hâm mộ, thì sau này, dù đội tuyển Italia và CLB AC Milan có sa
sút, hoặc phong độ trồi sụt thế nào đi chăng nữa thì tình yêu ấy cũng không
thay đổi là bao...
Với bóng đá trong nước, ngày xưa tôi
yêu mến đội Thể Công, mà một khi tình
cảm đã nghiêng về một đội bóng, thì như một lẽ đương nhiên, đội kình địch với
đội bóng mình yêu thích sẽ bị xem thường, thậm chí ghét bỏ. Với tôi, quy luật
đó không phải là ngoại lệ, tôi không ưa Đội bóng Công an Hà Nội, bởi nó là kình địch, thậm chí là khắc tinh của Thể Công. Các đội bóng phía
Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, đương
nhiên, mọi thời kỳ, tôi luôn đứng về Đội tuyển bóng đá Việt Nam, nhưng rồi
thường thất vọng về phong độ và kết quả thi đấu kém cỏi của nó....
Thêm nữa, nạn cá độ bóng đá và liên kết
bóng đá kiểu “tay đôi, tay ba, tay tư,
tay năm...” hoành hoành ở xứ ta khiến một số đội tụt hạng oan, rồi đó là
một số đội buộc phải giải thể, nhiều cầu thủ bị cấm thi đấu, thậm chí ngồi tù
vì tham gia dàn xếp tỉ số, vì ăn tiền cá độ v.... Chẳng riêng gì xứ ta, bóng đá
Đông Nam Á cũng vậy. Các ông trùm cá độ ở khu vực này đã vươn những chiếc vòi
bạch tuộc luồn lách khắp sân cỏ châu Á, thậm chí châu Âu, châu Mỹ.
Gần đây, cơ quan tôi ( VOV ) có phối
hợp với Liên đoàn bóng đá Việt
Thêm nữa, công việc quá bận rộn, những
trận đấu hấp dẫn mấy nhưng về đêm cũng chẳng thức trắng để xem, nhằm bảo vệ sức
khỏe; rồi đó, mạng xã hội đưa đến cho ta sự tiện lợi, sự quảng giao và bao lý
thú khác, lẽ nhiên, niền say mê bóng đá cũng chị chiếm mất chỗ. Thích thì vẫn
thích đấy, song còn như xưa nữa!...
Tôi kết thúc bài viết này, cũng là lúc
bóng đá xứ ta vừa chấm dứt sự phiêu lưu lãng mạn của mình tại sân chơi tầm thế
giới, ấy là đội tuyển U20 bị loại ở vòng đấu bảng của Giải vô địch bóng đá thế giới U20, sau 3 trận, với kết quả 01 điểm,
01 trận hòa, 02 trận thua, đứng chót bảng, không ghi được bàn thắng nào, mà
thủng lưới những 6 bàn. Kết quả vậy, không vui là đương nhiên, song cũng chẳng
vì thế mà buồn, bởi nó phản ánh đúng sức ta, thực lực ta chỉ đến thế thôi!...
Thôi thì, vẫn cứ dành tình yêu cho bóng
đá dù đã bớt đi niềm đam mê và sự cay cú được thua, xem như một niềm vui riêng
mình, lại như một sự khích lệ chung cho bóng đá nước nhà !...
Nghe lũ về,
Lũ đã về, đài báo loan tin như vậy.
Vậy là, lũ đã về, dù lũ muộn, lũ nhỏ...
Rồi những hình ảnh đầu tiên về lũ miền Tây
Lại nhớ, mới trước đó, các phương tiện thông tin đại
chúng thi nhau làm các phóng sự về nỗi mong ngóng, khát thèm lũ của bà con vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đơn giản, bởi lũ không về là mất mùa đủ mọi thứ. Lịch
sử của vùng đất này đã cho thấy điều đó, và mùa lũ hằng năm cũng đã làm nên thổ
ngơi, làm nên tập tục canh tác, lối sống, ăn sâu vào máu thịt, làm nên tính
cách con người, mà cao hơn, là yếu tố cấu thành văn hóa vùng miền...
Vậy mà, lũ không về, thì còn gì là miền Tây
Cũng lại chạnh lòng về mùa lũ năm ngoái. Miền Tây mất
lũ, nạn xâm mặn hoành hành, thất bát đủ điều. Nguyên nhân thì có nhiều, song
chung quy thì vẫn ở trời và tại người mà ra cả thôi...
Lại nhớ chuyện xưa cũ, gần bảy năm trời mình ở đấy (1981-1987), năm nào cũng theo đúng quy
luận, lũ về đúng vụ, làm nên mùa nước nổi mênh mang cho miền Tây
Rồi nữa, nao lòng, thương nhớ chuyến đò xưa, chuyến đò
của cuộc đời minh thời trai trẻ. Ngày ấy, mình đã có chuyến công du theo đường
kênh rạch, từ thị trấn Tri Tôn (An Giang)
đến thị trấn Hà Tiên (Kiên Giang)
bằng tàu đò, thậm chí ghe thương hồ, luồn lách kênh rạch, sông ngòi, ròng rã
mấy ngày trời, vạch một đường chéo tự nhiên xuyên suốt tứ giác châu thổ Long
Xuyên-Hà Tiên... Những bữa cơm dân dã đạm bạc với khô nướng, dưa chua bông điên
điển, cay xè ớt chỉ thiên; những ly rượu đế khê nồng nâng lên đặt xuống, tiếng
đàn đàn kìm đệm cho những câu vọng cổ buồn thương não nề; rồi nữa, những buổi
hoàng hôn đêm buông trong tiếng muỗi vo ve ngoài mùng giăng trong khoang
thuyền, và mùi mồ hôi khét nồng của đàn ông sông nước, mùi gây gây ngầy ngậy
của đàn bà nạ dòng ... tất thảy, hòa quện, cư ngụ trong khoang thuyền chật chội
làm nên một bầu sống nửa thật, nửa hư ...
Như thế, có thể nào mình lại quên ?...
Chẳng thể nào quên,
vậy nên, càng nhớ lũ,
thèm lũ biết chừng nào !...
Ngược dốc lên Suối Giàng
Cuối thu, sau chuyến lên xứ trà Shan Tuyết Suối Giàng
( Yên Bái ), tôi đã có một phóng sự ảnh về xứ trà này, và nhủ lòng, khi rảnh sẽ
viết một chút gì đấy. Là khi bận rộn quá, nên tự hứa với lòng mình như vậy ...
Có lẽ, sự thèm muốn được ngắm tận mắt những cây chè
Suối Giàng, loại chè cổ thụ đã trở thành huyền thoại, bắt đầu từ bữa cơm trưa
dọc đường lên Mù-cang-chải, tại một quán ăn ở phố thị Văn Chấn. Sau bữa cơm ăn
vội với mấy món ăn đặc trưng miền núi là thịt gà rang gừng, dế và ong đất non
chiên ròn, có chén rượu xứ rừng đưa cay, thêm bát cháy cơm gạo nương thơm phức
do chính tay cô chủ quán duyên mặn mà đưa ra, khiến đám lữ khách chúng tôi dễ
sinh cảm xúc. Ngon miệng, no cơm, ngà ngà mặt mày, dù vội mấy, thì vẫn phải đôi
ba chén nước chè mới dứt ra để lên đường. Chè Suối Giàng thơm ngon, liếc mắt
đọc mấy dòng quảng bá chè Suối Giàng viết nghệch ngoạc trên vách, tôi hỏi thăm
cô chủ quán đường lên Suối Giàng có xa không. Biết là chỉ hơn chục cây, đường
tuy dốc nhưng dễ đi, nhẩm bụng lúc về sẽ lên tận Suối Giàng xem sao.
Một ngày, với xôi nếp thơm và suối
nước nóng Tú Lệ, rồi ngược đường mà lên Mù-cang-chải. Dẫu trời giở quẻ, chợt
nắng chợt mưa, song cũng thỏa lòng mà chạy nhảy, mà ngắm và tha hồ chụp ảnh,
thu hình những thảm ruộng bậc thang lúa đang chín vàng mơ, vàng chanh khắp rẻo
cao La Pán Tẩn. Thỏa mãn ruộng bậc thang rồi, nỗi thèm lữ khách lại trở lại với
huyền thoại về chè cổ thụ Suối Giàng.
Theo lời đồn đại, trà Shan Tuyết được hái từ những cây
chè cổ thụ ở Suối Giàng to cao và đứng chênh vênh nơi mép núi, bên bờ vực, đến
nỗi, muốn hái được chè, chủ nhà phải nuôi khỉ và huấn luyện cho chúng cách hái
chè thay người. Nghĩa là chúng được chủ nhân đeo lên người những chiếc gùi nhỏ,
rồi thoăn thoắt lên cây chè cổ thụ, leo trèo, đánh đu, đánh võng để hái những
búp những lá chè bỏ vào gùi. Thực hư thế nào chẳng biết, song nghe vậy đâm kích
thích trí tò mò. Đường về, lại dừng chân
nơi quán ăn mấy hôm trước, cơm rượu ngà ngà rồi, mấy người chúng tôi không thể
trì hoãn “ nỗi sung sướng “, ngược dốc mà lên Suối Giàng bằng được.
Từ đường 32 rẽ ngang, đường lên Suối Giàng tuy dốc
ngược và khá quanh co nhưng dễ đi. Nếu nhìn trên bản đồ, Suối Giàng khá gần thị
xã Nghĩa Lộ tính theo đường chim bay. Có lẽ, ngày trước đường lên đây khó đi,
nên những cây chè Suối Giàng bị bỏ quên đến thành cổ thụ như ngày hôm nay.
Không cần hỏi, cứ đi, áng chừng cây số đường mà ngược mãi lên, đến khi thấy con
đường dường như chùn lại, có nguy cơ mất hút đâu đó, thấp thoáng những chân
tường rào đá và mái nhà gỗ đặc trưng của người Mông, đồ đoán đã đến nơi. Bỗng
nhiên con đường như biến mất, chỉ thấy cây thấy nhà. Chúng tôi dừng xe, ngơ
ngác, chờ hồi lâu mới gặp một người đàn
bà Mông đi rãy về. Chị không mấy thạo tiếng Kinh, hai bên ú ớ chỉ chỏ một hồi,
chúng tôi hiểu là mình đã đứng trên đất Suối Giàng rồi. Đường nhựa đã hết, đoạn
dốc tiếp theo bò ngoằn ngoèo như rắn trườn được rải cấp phối đất đá lổn nhổn
khó đi, hai bên loáng thoáng những cây chè cổ thụ . Cố đi thêm, xe chúng tôi sa
vào giữa một bản người Mông và dốc càng hẹp, càng xấu, có lẽ chỉ có ngựa và
ngựa sắt ( chỉ xe máy côn tay bà con dân
tộc thiểu số quen dùng ) là đi nổi. Đành lùi xe tìm chỗ quay đầu.
Chúng tôi thả bộ, tản mỗi người một nơi tuỳ ý. Xứ chè
Suối Giàng huyền thoại là đây ư ? Cuối thu, thời tiết nơi đây đã khá lạnh và
dày đặc sương mù. Lần đầu tiên tôi biết
đến trà Shan Tuyết, thứ trà được chế biến từ búp những cây chè cổ thụ gốc to
người ôm, là qua bút ký của nhà văn Bùi Nguyên Ngọc ( cố
nhà văn Bùi Nguyên Ngọc gốc người miền xuôi, lên miền Tây Bắc dạy học, định cư
và viết văn, ông đã hy sinh trong chiến
dịch biên giới năm 1979 ). Nói trà tuyết, người ta quen nghĩ đến xứ lạnh ,
cây chè sinh trưởng trong tuyết giá mùa đông, song cái lạnh ở đây chỉ là một
phần thôi. Chữ tuyết được gắn cho trà, là bởi, búp chè cổ thụ hái về, khi sao
lên, cuộn xăn lại như con sâu, lớp ngoài lên một màu mốc trắng ngà phủ nhẹ tựa như có một lớp tuyết trắng bám vào mỏng
tang, lên hương thơm quyến rũ...
Trà Suối Giàng từ cây chè cổ thụ, là một trong thứ trà
Shan tuyết hiếm hoi của miền Tây Bắc.
Tuy không còn nhiều, song khắp đó đây, trong vườn nhà, nơi đỉnh đồi,
sườn dốc, ven đường, những cây chè cổ thụ gốc xù xì, thân cành uốn lượn như
bôn-sai đứng chơ vơ chịu gió lạnh và sương mù.
Tôi say mê tìm góc độ, ghi vào khuôn hình mỗi khi gặp một cây chè cổ thụ
ưng ý. Lần hồi, chúng tôi dần ra phía rìa bản, ở đấy có một ngôi nhà với vườn
tược bề thế . Vườn rộng với vài chục cây
chè cổ thụ, xen kẽ là những cây sa-mu ngọn vươn cao vút. Chúng tôi vào tận nơi,
cậu thanh niên chủ nhà vồn vã mời khách vào thưởng trà. Tường tận, đây là thôn Giàng
B, xã Suối Giàng ( Văn Chấn ), cậu thanh niên tên Hoàng A Tuân ( thực ra là cải
từ họ Vàng – Vàng A Tuân ), là con rể của ông chủ nhà đích thực. Bố vợ A Tuân,
người Mông, tổ tiên định cư ở đây chừng hai trăm năm nay, trải qua nhiều đời
rồi. Cũng chẳng hiểu, cây chè đứng trên đất này đã bao lâu, số cây còn lại có
cây nào hai trăm tuổi ? A Tuân pha trà mời khách. Chúng tôi mang bánh trung thu
ra mời. Vợ A Tuân, cô gái người Mông đã biết cách ăn mặc tân thời, trong lúc chồng tiếp khách thì cô luôn tay xới đảo
búp chè cần mẫn. Nhấm miếng bánh trung thu rồi chiêu hớp trà shan tuyết, lặng
ngắm những viên đá cảnh muôn hình vạn trạng bày như La hán khắp nhà, thật thú
vị chừng nào. Thì ra, ông bà chủ nhà tên là Đằng và Trà, nên gói trà có dán
giấy
nhãn mác Đằng Trà, với địa chỉ, số điện thoại liên lạc, cùng đôi dòng chỉ dẫn
cách pha hẳn hoi. Vậy là bà con người Mông mình đã biết làm sản phẩm hàng hóa
rồi. Nhưng theo lời A Tuân, chỉ số ít biết cách làm như gia đình bố vợ cậu, còn
lại phần đông bà con dân bản vẫn bán búp chè, hoặc tự chế vài ba chục ký bán
chợ lấy tiên tiêu vặt, chứ chưa sống được, lại càng không thể làm giàu từ đặc
sản quý hiếm này. Ngay như gia đình A
Tuân, cùng với trà Shan Tuyết, còn bán cả đá quý, đá cảnh để có thêm thu nhập.
Trong số mấy chục cây chè cổ thụ trong vườn nhà A Tuân,
có một cây to nhất, cỗi thân cỡ người ôm, được ngành nông nghiệp cho gắn biển
đánh số 01 thuộc chương trình bảo vệ giống chè Shan Tuyết đầu giòng của tỉnh
Yên Bái . Vậy là không lo mất giống chè quý Shan tuyết Suối Giàng. Song việc
bảo tồn và phát triển thế nào lại là một câu chuyện khác.
Rời Suối Giàng về xuôi, chúng tôi không quên mua mỗi
người vài cân chè Shan Tuyết Suối Giàng nhãn hiệu Đằng Trà, và đôi ba hòn đá
cảnh làm kỷ niệm chuyến đi. Vị trà thơm ngon quyến rũ thưởng thức ngay nơi gốc
cây chè quý hiếm đầu giòng còn lưu mãi nơi họng.
Hẹn một ngày gần, trở lại với Suối Giàng !...
Nhớ
bão rằm tháng tám xưa,
Năm nay, đúng dịp Trung Thu, mưa gió nhiều
ở khắp nơi, trẻ em vui thì vẫn vui đấy, song khó mà được ngắm cảnh trăng tròn
và phá cỗ dưới trăng.
Thời tiết thản nhiên, vận hành theo quy
luật của mình, khó mà chiều lòng người được. Thường thì vào dịp này, đã qua hẳn
tiết Ngâu tháng bảy, nên trời dễ quang mây, trong trẻo. Nhưng cũng có năm, thời
tiết bất thường, Ngâu muộn nên tiết mưa dầm kéo cả sang tháng tám âm
lịch.
Cũng không hẳn do biến đổi khí hậu gây nên
sự bất thường, trước đây, thời tiết bất thường từng có nhiều rồi. Tôi nhớ, cách
đây mấy chục năm, khi ấy tôi đang học đại học năm cuối. Năm đó, tết Trung thu
đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, tôi từ trường đạp xe về quê ăn rằm tháng tám với
mẹ. Đài báo bão, lại đổ bộ vào trung tâm đồng bằng Bắc bộ. Thường thì dịp này,
bão ít lên phía Bắc, mà hay vào miền Trung. Vậy mà, năm ấy, đúng chiều muộn rằm
tháng tám thì bão đổ vào. Gió cấp 12 gầm rú, lồng lộn trên không trung, quật
nát bươm những ngọn tre, cây trái trong vườn cũng tơi tả. Bưởi, hồng xiêm, và
sấu, ổi vườn nhà rụng hết, vung vãi khắp vườn...
Gió giật, làm tung một góc mái rạ chái nhà
tôi. Hai mẹ con tôi lúng túng, chẳng biết chống đỡ ra sao. Chỉ biết chốt chặt
những chốt cửa chính, cửa sổ mà thôi. Gió theo chỗ mái bị thổi bay, xộc vào
nhà, xô đổ đồ đạc trong nhà. Rồi mưa. Mưa như trút. Khi mưa to thì gió cũng
giảm đi nhiều. Lúc ấy, không còn lo chốt cửa nữa, hai mẹ con tôi lo tìm thau
chậu, ang nồi, có bao nhiêu mang ra hết để hứng nước mưa. Con chó mực, cũng rấm
rẳng kêu, luẩn quấn bên chân chủ lo chống dột ...
Trời tối, bão tan, mưa ngớt nhiều. Hai mẹ
con tôi mở cửa, ra sân vườn. Chao ơi, tất cả đều tan hoang, ngổn ngang. Lại cắm
cúi lo dọn dẹp, nhặt hoa quả rụng đầy vườn...Mẹ tôi thì cứ ca cẩm, rằng mưa bão
cướp mất tối vui ngắm trăng phá cỗ Trung thu của bọn trẻ. Mà ngày ấy, thời bao
cấp còn nghèo, trẻ quê đâu có quà gì. Cây trái vườn nhà có gì thì bầy nấy, trò
chơi cũng là những chiếc đèn ông sao tự mầy mò dán lấy, rồi đó đốt những hạt
bưởi khô xâu thành chuỗi để tinh dầu bưởi cháy phát những tia sáng kèm mùi thơm
hăng hăng...
Năm nay, trung thu lại mưa nhiều. Nhớ trận
bão rằm tháng tám xưa. Nhớ mẹ. Và nhớ tuổi trẻ đã đi qua ...
Nhớ mùa cá linh
Hôm nay, tôi về quê, về thăm khu vườn cổ tích của tuổi
thơ tôi. Đám giỗ ông ngoại tôi. Họ hàng, con cháu bên ngoại về đông, vừa chục
mâm cỗ. Ông ngoại tôi, mất từ hồi tôi còn chưa được sinh ra, nên chỉ biết qua
tấm ảnh thờ. Bà ngoại tôi thọ đến gần chín chục, nhưng mất cũng mấy chục năm rồi.
Suốt thời nhỏ đi học, đi sơ tán tránh máy bay Mỹ ném bom, rồi sau này học đại
học, tôi thường xuyên về quê ngoại. Hè năm 1981, sau khi tốt nghiêp đại
học, tôi đi miền Nam nhận công tác tại An Giang, đến chào bà ngoại, bà
còn căn dặn tôi đủ thứ... Rồi vài năm sau, năm nào tôi cũng nghỉ phép ra Bắc,
lại kẽo kẹt đèo mẹ tôi trên chiếc xe đạp cọc cách sang quê ngoại thăm bà và các
cậu dì. Tôi nhớ, khi ấy bà đã yếu nhiều, nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn. Bà hỏi
chuyện miền Nam, tôi say sưa kể bà nghe, về mùa khô nóng cháy, về mùa sa mưa
nước nổi nơi tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, kể về xứ sở “ muỗi kêu như sáo thổi,
đỉa nổi như bánh canh “, về miệt viễn biên Thất Sơn với những câu chuyện
ly kỳ , về canh chua cá rô bông súng, về mùa cá linh sông Hậu với những món ăn
dân dã lạ miệng ... Đi dạo trong vườn cổ tích của bà ngoại, lại thấy nhớ mùa cá
linh miệt vườn sông nước Nam bộ...
Chả là, hơn nửa tháng trước, tôi trở lại miệt vườn.
Khách sạn nằm kế bên bến Ninh Kiều ( Cần Thơ ), ngày đêm phành phạch tiếng máy
tàu đò qua lại, xa xa là cây cầu Cần Thơ mảnh như sợi dây giăng ngang chao trên
sông nước mênh mang. Mấy ngày ở Cần Thơ trời nắng nóng, nhưng mùa
sa mưa đã đến. Buổi đi chơi sang cù lao giữa sông Hậu, đang bữa ăn sang trọng
nhà hàng, chợt ai đó nhắc đến mắm cá linh, thế là mọi người nhao nhao nói về
món ăn cá linh. Nào canh chua cá linh nấu bông điên điển, nào cá linh hấp rau
kim thất, cá linh kho khô sả ớt, cá linh kho mía nục, cá linh nướng, cá linh
tẩm bội chiên giòn, lẩu cá linh ...Thôi thì đủ món. Nói ra, đang bữa ăn mà ai
nấy còn phát thèm. Lại một ai đó bảo, cá linh bây giờ hiếm lắm, thành đặc sản
rồi. Đến mùa cá linh, cỡ tháng bảy âm lịch, chỉ còn miệt An Giang, Đồng Tháp
may còn, nhưng cũng thưa thớt lắm. Muốn ăn cá linh, phải đi nhà hàng, mắc thấy
mồ, chứ đâu có rẻ rề, ê hề ngoài chợ như ngày xưa nữa...
Ngày xưa. Cái ngày xưa ấy đâu có xa xôi gì, mới chỉ
ngót ba chục năm qua thôi. Ngày ấy, tôi ở thị trấn Tri Tôn. Huyện Tri Tôn được
tách ra từ huyện Bảy Núi thành hai ( Tri Tôn, Tịnh Biên ). Đây là vùng núi duy
nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Những năm chiến tranh chống Mỹ Ngụy và chiến
tranh biên giới Tây
Ấy là mùa nước nổi, mùa lũ đầu tiên tôi biết. Bao bọc
bốn phía thị trấn Tri Tôn bé nhỏ xơ xác là đồng ruộng ngút mắt. Làng mạc xa xa,
nhô lên trên cánh đồng nước nổi là những tán dừa, tán lá thốt nốt, thi thoảng
là chóp nhọn tháp chùa Khmer. Những con đường liên xã, liên huyện như những sợi
dây thừng mảnh giăng mấp mí mặt nước. Khi ấy, cả đồng bằng mênh mông là xứ sở
của cỏ dại, năn nác, bàng, của tôm cua ốc ếch, của trăn rắn, lượn trạch. Con
kinh Tám Ngàn rạch đôi thị trấn Tri Tôn, một đầu nối với con kinh chạy về phía
Kiên Lương, Hà Tiên, còn một đầu thông vào kinh rạch Thoại Sơn. Mùa nước, đi
đâu, cũng cứ tàu đò, ghe thuyền, bo bo, tắc ráng mà chạy là tiện nhất. Tôi quen
dần với thổ ngơi, và món ăn miền Tây
Thị trấn nơi tôi ở, phổ biến nhất là món cá linh hấp
rau kim thất, cá linh kho khô sả ớt. Lâu lâu, mới ăn món cá linh tẩm bột chiên
giòn, và lẩu cá linh. Đây là hai món ưa thích với cánh nhậu nhẹt, bởi độ khoái
khẩu của nó. Để tiếp khách, hay bạn nhậu, chủ nhà chỉ cần mua mớ cá linh, rẻ
rề, làm hai món ấy, thêm vài ba món rau dưa gia giảm, dăm xị đế, là thỏa mái
tang bồng... Ngà ngà hơi men, ấy là lúc cánh dân địa phương ôm ghi ta lõm, bập
bùng ca sáu câu vọng cổ. Tôi là người yêu chèo và dân ca quan họ, không thích
cải lương, vọng cổ, song trong bầu không khí như vậy, lòng cũng rưng rưng một
nỗi buồn xa xứ, xa quê, xa khu vườn cổ tích của bà ngoại, xa người bạn gái cũng
đang được điều đi dạy học ở một vùng chiêm trũng cách Hà Nội hàng trăm cây
số...
Dạo đó, thấy tôi một mình cơm niêu nước lọ ở nhà tập
thể, chị Tư Chọn, người cùng cơ quan, quê Thạch Thất ( Hà Tây ), lấy chồng tập
kết, sau theo chồng về quê Bảy Núi, bảo tôi góp tiền tháng ăn chung cùng gia
đình chị. Người xứ Bắc, nhưng chị nấu mòn ăn
Tha thẩn trong vườn cổ tích, lòng dạ lại để đâu đâu
nơi đồng bằng nước nổi tít phương
Nhớ những mùa đông xưa,
Ấy là những mùa đông xưa, cách đây hơn
bốn mươi năm trước...
Ngày đó, tôi học phổ thông và sống ở
quê. Cái thằng tôi, sinh ra ở phố, vì chiến tranh mà về quê sinh sống. Không
quen đầm ải, chuyện nhà nông biết đôi ba việc đơn giản. Vậy nên, khi làm lụng
có vất vả hơn, nhưng bù lại, tôi nhìn cảnh quê cũng ra chiều thi vị hơn, chứ
không thấy toàn những vất vả, khổ ải như người ở quê. Những năm tháng ấy, chiến
tranh liên miên, nên đời sống nói chung và ở nông thôn miền Bắc còn thiếu thốn
lắm, và đầy gian khó.
Quê tôi, người dân quanh năm suốt
tháng trông vào hai vụ chính, song mùa
thối chiêm khê, thu nhập từ cây lúa bấp bênh lắm. Thêm vụ đông, thì
cũng quanh quẩn những khoai lang, khoai tây, su hào, rau
cải, ... toàn loại nông sản giá trị kinh tế thấp, gọi là thêm thoắt cứu đói.
Thôi thì, tận dụng được thứ gì quý thứ đó. Từ vụ năm đến vụ mười nhanh lắm,
nhưng từ vụ mười chờ đến vụ năm của năm sau thì lại dài, những sáu, bảy tháng
trời, lấy gì mà ăn cho ấm bụng, màng no đủ, chứ nào ai dám mơ đến chuyện ăn
ngon.
Lẽ là vậy, song đời sống ở quê, nếu
biết tận dụng, liệu cơm gắp mắm, khéo bếp núc thì không những no mà còn có
miếng ngon với những món ăn quê mùa tìm kiếm quanh quất. Sau vụ mười, tiết cuối
thu vào đông, là năm hết tết đến. Đây cũng là dịp việc nông tạm nhàn, để người
nhà quê trổ tài kiếm ăn thêm. Gặt xong, rơm rạ nhanh chóng được phơi khô, đánh
đống để dùng lợp mái, đun bếp và làm thức ăn dần cho trâu bò những ngày đông
giá rét không thể chăn thả ngoài đồng được. Những năm mưa bão, mưa ngâu nhiều,
thì khu vực đồng trũng ngập nước, phải gặt bằng lưỡi hái hớt phần ngọn bông,
gốc rạ còn dài. Khi vào thu đông, nước cạn đi, mặt ruộng sền sệt, để lại những
vũng nước lớn nhỏ, ấy là nơi trú ngụ của tôm cá, cua ếch, lươn trạch,... ngay
những loài chim chóc như rẽ giun, le le, mòng kết, cuốc cuốc, làm nơi kiếm ăn,
rồi chúng quấn gốc rạ, cỏ năn nác thành tổ. Còn những chân ruộng khô, gốc rạ và
cỏ dại lên nhanh, mọc ra những thảm rau khúc tần lấm tấm xanh non... Lúc này,
người dân quê thỏa sức tìm kiến nguồn thực phẩm thiên tạo ấy bằng những dụng cụ
và cách thức truyền thống. Những chân ruộng cao hơn, nơi ruộng dộc thì làm cây
vụ đông, như khoai lang, khoai tây, su hào, cải canh, cải bẹ ... vừa để bán cho
dân phố, vừa làm thực phẩm hàng ngày. Đây cũng là thời điểm những tay thợ săn
chuột đồng chứ danh ở quê hành nghề, họ dẫn theo mấy chú chó nhà được huấn
luyện cách đánh hơi săn chuột, và chỉ một ngày lang thang trên đồng đã được đầy
ắp lồng những chú chuột đồng chuyên ăn thóc, béo nung núc. Còn dưới sông ngòi,
sau mùa mưa lũ, nước sông Cái đổ về ngầu đục phù sa màu mỡ và tom cá, dịp thu
đông cũng cạn bớt dòng, ấy là khi dân chài lưới, ống chúm, giọ rô, vó tôm thi
nhau săn bắt...
Giờ là lúc nói về các món ăn quê. Món
ăn dân dã ở quê thì nhiều lắm, song có mấy món thật ấn tượng với riêng tôi. Kể
ra đây để nhớ về một thuở đã xa lắm rồi.
Món thứ nhất, ấy là món cá kho tai cà. Món này chế biến đơn
giản, nhưng cũng phải chú ý khâu nguyên liệu. Cà bát được nén vại từ mùa hè.
Khi muối nén, người ta chú ý, chọn những cuống cà chưa già, chẻ đôi bỏ đi phần
lõi cứng, cắt gọn phần tai nhọn, rồi cho vào vại nén chung với cà bát. Đến thu
đông, lấy tai cà muối ra, cho vào niêu đất kho chung với mớ cá đồng, nêm đủ
mặn, đun nhỏ lửa, khi nước kho sền sệt, vùi niêu, ủ trấu để qua đêm. Hôm sau
mang ăn, cá kho hơi sém niêu, chín nục, ăn bùi nhai kỹ cả xương, nhất là miếng
tai cà, thấm chất ngọt từ cá, nói không quá, ngon tuyệt vời, đặc biệt, những
ngày giá rét ăn món này với cơm gạo mới, thêm chút dưa chua. No căng bụng mà
miệng vẫn thòm thèm. Với tôi, khó có món ăn nào ngon hơn...
Món thứ hai, ấy là món đọt cải già, cải ngồng xào thì là. Khi cải đã quá lứa, người ta
thu hoạch lá để làm dưa, còn phần thân già cứng; cải đã lên ngồng, trừ phần để
già lấy hạt làm giống mùa sau, còn lại cắt ngồng cải ăn dần. Người ta tước bỏ
phần vỏ bì cứng bên ngoài thân, lõi cải bên trong vẫn mềm, đem cắt vát thành
những thanh mỏng, ngồng cải cũng vậy, đem xào mỡ suông, nếu có chút tóp mỡ mới
rán thì càng ngon, xào khi chín tới, thì bỏ thêm rau thì là, đảo qua cho dậy
mùi. Món này, chấm chút nước mắm, đưa cay với rượu cuốc lủi cũng rất tuyệt.
Cùng với ngồng cải non luộc chấm nước mắm trứng, ngồng cải được người ta mang
ra ví von, rằng “ gái một con, ngồng cải
non “. Tuyệt.
Món thứ ba, ấy là món chế từ chuột
đồng, chứ không phải là chuột cống ở thành phố ( bây giờ, bọn bất lương bắt
chuột cống chế biến giả thành chuột đồng chuyên ăn lúa gạo, hoặc con dúi, tức
là chuột núi, chuyên ăn củ quả và các loại hạt rừng ). Nếu ai đó, sợ hoặc
ngại trước món ăn cực kỳ dân dã này, thì xin bỏ qua cho. Thực tình, đây là món
ăn truyền thống ở nhiều vùng quê xứ Việt mình, trong đó có quê tôi. Chuột đồng
làm sạch, chặt bỏ đầu đuôi, bàn chân và nội tạng, để ráo, đem hấp cách thủy đến
chín, lấy ra, để nguội rồi nẹp que tre tươi bó lạt chặt như bó giò, mùa đông
lạnh thành ra như thịt đông. Chặt miếng, ăn chấm với muối tiêu lá chanh thái
tăm, nhậu khoái khoái khẩu, ăn quen còn ngon hơn thịt gà.
Thực ra, còn biết bao món ăn dân dã
của người quê, ngon và dẻ. Với riêng tôi, bao năm trời rời quê về định cư lại
nơi đô thị. Nhớ lắm những mùa đông quê, nhớ cảnh sắc, nếp sống chịu thương chịu
khó, nhớ những món ăn, những bánh khúc, bánh tẻ, cá kho tai cà, rau dưa... mà
món gì cũng ngon,... Ở đấy cón hồn cốt quê hương bản quán, có tình làng nghĩa
xóm, có bóng dáng thời cuộc đi qua...
Thêm nữa, bởi nó gắn với những ký ức
về cha mẹ, và cả nhưng mối tình thơ dại thời hoa niên đã mất !...
Những người thầy nghề báo của tôi
Nghề đào tạo chính quy của tôi là kỹ sư canh nông,
chẳng dính dáng gì đến báo chí, văn chương cả. Hồi đi học phổ thông, mặc dù đôi
ba lần được nhà trường chọn đi thi học sinh giỏi môn văn các cấp, song vẫn chỉ
là thứ văn học trò. Năm cuối cấp 3 ( nay
là Trung học phổ thông ), tôi may mắn được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi
môn văn của tỉnh Hài Hưng cũ tham dự kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc ( khi ấy chưa giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước ). Kiến thức thu lượm chẳng được bao nhiêu, song bù lại là bầu
không khí văn chương chữ nghĩa. Đội tuyển có 20 người, đặc biệt, có hai người
mà sau này ảnh hưởng đến thiên hướng và nghề nghiệp báo chi văn chương nơi tôi,
ấy là nhà thơ Trần Đăng Khoa ( khi ấy
được xem là thần đồng thi ca đất Việt ) và
nhà báo Trịnh Bá Ninh.
Tốt nghiệp đại học, năm 1981, cầm
quyết định vào tỉnh An Giang công tác, tôi đinh ninh sẽ gắn cuộc đời mình với
nghề kỹ sư canh nông, chuyên ngành mình được đào tạo chính quy. Khi ấy, đất
nước thống nhất đã 5 năm, các nhà quản lý ngành nông nghiệp đưa mô hình HTX
nông nghiệp và kỹ thuật canh tác của miền Bắc vào áp dụng đại trà ở miền Nam,
nhưng không thành công. Vì vậy, công việc kỹ thuật ở một Ban Nông nghiệp cấp
huyện nơi tôi công tác hầu như chẳng có gì để làm. Thời gian rảnh, tôi tìm hiểu
thực tế tập viết báo. Làm báo nghiệp dư, thôi thì “ vơ bèo vạt tép”, có gì viết nấy. Huyện Tri Tôn ( được tách ra từ Bảy Núi ) là huyện miền
núi biên giới không những của tỉnh An Giang mà cả miền Tây Nam Bộ, địa hình địa
lợi có núi rừng, có vùng ngập nước, kênh rạch chằng chịt, chạy ngút ngàn về
phía huyện Hòn Đất, Hà Tiên ( Kiên Giang ), cặp kênh Vĩnh Tế, bên kia là đồng
đất nước bạn Campuchia. Dân số huyện, hai phần ba là người Khmer sinh sống, còn
lại là Kinh và Hoa. Điều kiện địa lý, kinh tế xã hội phức tạp và khá phong phú
ấy, được coi là có “ đất “ cho người viết báo nghiệp dư như tôi. Tôi viết câu
chuyện truyền thanh, chuyện “ buôn, sóc,
bản, mường “, giới thiệu văn hóa dân
tộc Khmer cho các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt
Rồi mạnh bạo hơn, tôi viết bài gửi
Trịnh Bá Ninh nhờ anh chuyển sang báo Nhân
Dân. Lúc bấy giờ, nhà báo Tô Vương là phóng viên chuyên mảng nông nghiệp,
nông thôn của báo Nhân Dân. Sống ở
địa phương lại viết báo nghiệp dư, nên những bài viết của tôi chỉ mang tính
phản ánh, chẳng có gì to tát, và chắc hẳn còn nhiều khiếm khuyết. Nếu ngại, có
thể quẳng chúng vào sọt rác. Điều đáng nói ở đây, là nhà báo Tô Vương đã biết
trân trọng những bài viết từ cơ sở của những người viết báo nghiệp dư như tôi.
Qua sự biên tập của anh, bài viết nuột hơn và được nâng tầm. Cứ thế, dần dà,
tôi có gần chục bài viết được đăng trên Báo Nhân Dân. Ở vào thời ấy, quả là có
nằm mơ tôi cũng chẳng dám nghĩ mình làm
được như vậy, nếu không có sự nhiệt tình nâng đỡ, chắp cánh của nhà báo Tô
Vương.
Và cơ hội trở thành người làm báo
chuyên nghiệp đã tới. Sau vài năm cộng tác, Báo Nông nghiệp đồng ý tiếp nhận
tôi với điều kiện làm phóng viên thường trú của bản báo tại các tỉnh phía
Sau này, khi trưởng thành, tôi được
đào tạo thêm về nghề báo chí qua những khóa học ngắn hạn trong và ngoài nước,
song những bài học đầu tiên về báo chí do các anh chỉ bảo vẫn ảnh hưởng sâu đậm
trong tôi và chẳng bao giờ cũ. Ngay cả khi,
được phân công đảm nhiệm một số công việc quản lý báo chí nghề nghiệp ở
một cơ quan báo chí lớn, bản thân, đã xuất bản được hơn chục đầu sách văn xuôi,
thơ, phê bình văn học, báo chí, tôi vẫn luôn trân trọng và biết ơn những người
bạn, người anh đồng nghiệp với tư cách là những người thầy dạy nghề cho tôi.
Và hơn thế, họ còn là người thầy trong cuộc sống của tôi...
Non Tản, sông Đà,...
Vậy là tôi đã lên đỉnh non Tản, vào một ngày mưa, cuối
tháng Ba âm lịch Đinh Dậu...
Cái duyên lên đỉnh non Tản cũng thật tình cờ.
Kênh VTC16 ( 3N ) - Kênh truyền hình Nông nghiệp-Nông thôn của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC tổ chức
Lễ kỷ niệm tròn 7 năm thành lập tại Khu Resort Ba Vì, và tôi là khách mời. Lần
đầu tiên tôi lên núi Ba Vì, loanh quanh các đền chùa và khu nghỉ dưỡng dưới
chân núi thì nhiều rồi. Thay vì ở cốt 400 thì lại nhầm địa chỉ, lên đến cốt
800, tận chân Đền Thượng, đền thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Vậy là cơ duyên. Dù biết là giờ khai mạc lễ kỷ niệm
kia đã định sẵn, thì đã lên đến đây, không thể không leo trèo mà lên đỉnh non
Tản, kính viếng Đền Thượng. Trời se lạnh, lắc rắc mưa, hậu quả của đợt rét Nàng
Bân thứ ba trong tiết cuối xuân đầu hạ này. Trong số mấy người, chỉ có tôi và
một đồng nghiệp nữ thì chưa từng lên Đền Thượng. Vậy thì đã lên tới đây rồi,
không thể không lên thăm viếng Đền Thượng. Thế là hai chúng tôi quyết tâm leo,
và khi ấy, cũng chưa hình dung hết sự vất vả khi phải vượt hơn ngàn bậc đá để
lên được đỉnh non Tản...
Khi leo những bước đầu tiên, chợt câu chuyện kể về
hiệp thợ Chàng Thôn ( Thạch Thất )
được Thần Non Tản vời lên đỉnh núi để sửa chữa Đền Thượng trong truyện ngắn “ Trên đỉnh Non Tản “ của cố nhà văn
Nguyễn Tuân, ùa về. Ngày xưa đọc, chỉ hiểu lờ mờ. Sau này, đọc lại, ngẫm nghĩ,
mới hiểu được, ẩn giấu bên trong câu chuyện tâm linh kỳ bí và có chút hoang
đường ấy, là khát vọng về sự chinh phục, về ý thức vươn lên của con người...
Trời vẫn lắc cắc mưa, áp lực về thời gian khi phải
trèo cao, quả là một thử thách sức lực và ý chí của con người không nhỏ. Nữ
đồng nghiệp đi cùng tôi, diện trang phúc đi lễ hội, váy liền guốc cao gót, thử
hỏi leo trèo ngược núi sao đây. Mới chừng phần tư chặng đường, cô đã chững lại,
muốn quay trở xuống. Cung cảnh ấy, tôi chẳng dám động viên cô leo tiếp. May
thay, và lạ kỳ, đúng dịp nảy, Đền Thượng cũng sửa sang, nên có mấy người dân
địa phương, được thuê vác gỗ, chuyển vật liệu lên đỉnh để tu sửa Đền Thượng,..
Thấy vậy, một người trong số họ bỏ dép đi chân đất, nhường đôi dép nhựa cho nữ
đồng nghiệp của tôi mượn. Vậy là chúng tôi có thể song hành, quyết tâm leo
tiếp...
Ngày nhỏ đi học, sách Giảng văn có bài về Truyện núi Tản Viên, truyền thuyết về
Sơn Tinh-Thủy Tinh. Sau này, đọc thêm sách
Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh nhuận chính, rồi nữa là truyện Sự tích một ngày đẹp trời của nhà văn
Hòa Vang, có thêm tài liệu để suy ngẫm, phản biện, đối chứng và cái nhìn đa
chiều về một sự tích, dù sự tich ấy đã hình thành hàng ngàn năm và ăn sâu bám
rễ vào tâm thức người dân...
Đường lên cao, càng trèo càng quanh co dốc ngược. Gặp
những người đi xuống, chào hỏi và động viên nhau vài câu, để có quyết tâm mà
lên tiếp... Trong sự mỏi gốc và mệt nhọc, ý nghĩ trong tôi vẫn lẩn quẩn những
câu chuyện về nguồn gốc Thần Tản Viên-Sơn Tinh... Nhiều người biết đến nguồn
gốc thần tổ của Ngài, rằng Ngài là một trong trăm con của Lạc Long Quân và Âu
Cơ, là một trong số năm mươi người con theo cha xuống biển, rồi từ biển ngài
ngược cửa Thần Phù vào đất liền và lựa chọn núi ngọn Tản Viên Ba Vì mà định vị
thành Sơn Tinh để có câu chuyện Hùng Vương thứ 18 ( Hùng Duệ Vương ) kén rể cho Ngọc Hoa công chúa, dẫn đến chuyện
tranh đấu giữa Ngài và Thủy Tinh... Rồi nữa. từ cuốn Ngọc phả ở đền Lăng Xương ( Thanh
Thủy, Phú Thọ ) khai lập từ năm 1011 đời Lê Thái Tổ ( niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 ) cho thấy nguồn gốc dân nghèo của Ngài
với cái tên Nguyễn Tuấn ( con của ông bà
Nguyễn Cao Hành-Đinh Thị Đen, cùng mẹ nuôi Ma Thị )... Cảm quan khoa học,
hình như, theo thời gian, đã có một sự đồng hóa lẫn nhau trong quá trình hình
thành thần tích giữa nguồn gốc dân nghèo với nguồn gốc thần thánh của Ngài ?...
Có lẽ, đây cũng là lần đầu, khi trèo bậc dốc viếng
thăm các đền chùa, tôi có cảm giác không điều khiển được đôi chân của mình, khi
đầu óc vẫn tỉnh táo với đầy lòng quyết tâm lên bằng được nơi Đền Thượng tọa lạc
ở cốt 1.200 ... Những đoạn nghỉ ngắn dần, hơi thở cũng gấp gáp hơn, mồ hôi đẫm
lưng mặc dù tiết trời khí núi se lạnh. Ấy vậy mà những người dân vác gỗ lên sửa
đền Thượng vẫn trèo thoăn thoắt, thản nhiên trò chuyện với nhau và động viên du
khách, cứ như họ được thần thánh nâng bước vậy. Tôi cứ liên tưởng, rồi đồng hóa
họ với các thành viên hiệp thợ Chàng Thôn được Thánh Non Tản đưa lên núi sửa
đền trong truyện ngắn “ Trên đỉnh Non Tản
“ của Nguyễn Tuân xưa.
Đến khi mệt mỏi không muồn bước nữa, thì cũng là lúc
tai nghe được tiếng nhạc ngũ hành du đương trầm bổng, như nâng bước chân
mình... Và rồi, chũng tôi cũng lên được Đền Thượng...
Hành lễ rồi, vẫn còn đền Mẫu trên cao hơn nữa. Lưỡng
lự, định bái vọng, nhưng rồi như có ai xui khiến, lại tiếp tục ngược dốc trèo
nữa. Lên đến nơi, muốn đứt hơi, song bù vào đó, là cái cảm giác sảng khoái của
kẻ đi chinh phục... Lại thấm thêm cái thông điệp mà cụ Nguyễn Tuân gửi gắm
trong tác phẩm văn học của mình. Một tứ thơ váng vất trong đầu...
Lên cao bao
nhiêu lại phải xuống bấy nhiêu. Giờ không quá mệt nhọc, song lại có cái cảm
giác chênh vênh, bẫng lẫng. Người đời bảo, khi
lên mỏi gối, lúc xuống chồn chân,... Ngẫm cấm có sai !...
Trời đã bớt mưa, nhưng sương mù ngập lối cỏ cây. Cho
dù vậy, cũng chọn góc, bấm máy được mấy khuôn hình non Tản, sông Đà, mây đùn
như khói...
Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chiều về, bên tách cà
phê thư giãn, xả nỗi mệt nhọc, màn hình tivi lại đúng chuyên mục Chuyện văn học
nghệ thuật, có phóng sự về nhà thơ Quang Dũng, chàng thi sĩ đích thực của vùng
đất Sơn Tây, núi Tản sông Đà...
Những câu thơ của Quang Dũng, người con của núi Tản
sông Đà ấy đã ám ảnh tôi một thời ... Và giờ đây, trên đỉnh non Tản, tôi đã
được ngắm sông Đà uốn mềm mại dưới chân núi, và có thể ngắm “ xứ Đoài mây trắng lắm “ khi trời dứt mưa, hé nắng ...
Nước Nga ký sự
1.
Bước đi trên đất nước Nga mênh mông,
Mong ước mãi, thế rồi tôi cũng được
đặt chân và bước đi trên đất nước Nga mênh mông, trong chuyến công tác theo
thỏa thuận giữa Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) với Đài Nước Nga ngày nay (Russia Xergodnhia, hay Rossia Today). Mặc dù, các nước cộng hòa
thuộc Liên Xô cũ đã tách ra, thì diện tích còn lại của nước Nga ngày nay vẫn
rộng hơn 17 triệu cây số vuông, và nếu đem so sánh với nước ta, tính tròn 330
nghìn cây số vuông, tức là 0,33 triệu cây số vuông, sẽ hình dung thấy nước Nga
mênh mông như thế nào...
Song, trước khi nói đến cái cảm giác
bâng lâng không thật chân khi bước chân trên đất nước Nga, trong thâm tâm và sự
việc cụ thể, có vài sự băn khoăn, bực mình. Ấy là khi làm đoàn, bộ phận phụ
trách Quan hệ quốc tế của cơ quan tôi, xếp lịch đi một tuần, khời hành ngày
01.6 và kết thúc ra về vào 07.6. Nhẩm lịch âm, ngày đi trùng mồng 7 và khi về
13 tháng 5. Nghĩ bụng, các cụ xưa dạy rằng “chớ
đi ngày bảy, chở về ngày ba”, phàm đi đâu, làm công việc quan trọng gì thì
chỉ trùng một cũng đã cảm thấy bất an, đằng này lại trùng cả đi lẫn về. Quan hệ
quốc tế, quyết định ra rồi, đổi lại sao đây. Thôi thì kệ, ra sao thì ra. Tuy
vậy, đoàn có bốn người, chỉ mình tôi nghĩ, chằng nói ra với ai, kẻo lại xôn
xao, phiền lòng. Chuyến bay mang ký hiệu SU291 của Hãng Aeroflot, hàng không
Nga cất cánh đúng giờ, sau 10 tiếng bay liền đã hạ cánh êm ru xuống đường băng
sân bay Sheremetyevo-2. Thở phào nhẹ
nhõm. Làm thủ tục nhập cảnh, mấy cửa an ninh dành cho khách Việt mang hộ chiếu
phổ thông dài dằng dặc, mà cửa vẫn mang ký hiệu đỏ, tức là chưa có người làm.
Trong lúc chờ, vài đồng nghiệp của tôi làm dáng chụp ảnh, ngay lập tức nhân
viên an ninh sân bay đã xuất hiện bắt xóa hết các ảnh vừa chụp bởi quy định cấm
quay phim, chụp ảnh tại đây. Ấy là phiền hà đầu tiên.
Mấy người chúng tôi, tiếng Nga bập
bõm, tiếng Anh cũng bồi, hỏi một hồi cũng tìm được sang của Diplomat. Tưởng là
sẽ thuận lợi, không ngờ, dầy dà to. Mặc dù dùng hộ chiếu công vụ, song mấy
người chúng tôi cứ phải thay nhau tiến lên lùi lại nhiều lần, còn nhân viên an
ninh sân bay thì cứ gõ gõ nhập nhập, hết dùng kính soi hộ chiếu lại ngắm mặt
nhận diện đối chiếu, khiến cả dòng người đợi phía sau bị ách tắc. Chán rồi cũng
nhập cảnh xong. Lại thở phào vì được việc, nhưng cũng bực mình phiền toái không
đáng có. Ngoài trời lạnh dưới 10 độ C, mọi người lục tục lôi áo rét ra mặc. Đã
tiết đầu hạ mà vẫn rét vậy, trong khi ở Hà Nội, nóng đỉnh điểm lên đến 42 độ.
Cây cối xanh rờn, bầu trời chiều nằng nặng mây xám, nghe lác đác hạt mưa... Mọi
người, thi nhau tạo dáng chụp ảnh, lấy cái mái vòng chìa ra mang dáng vẻ lưng
con kỳ đà làm phông nền. Tôi miên man với dòng suy nghĩ, ước ao từ thuở thiếu
thời khi biết yêu văn học Nga, mong một ngày nào đó, được đến đất nước vĩ đại
của Lê-nin, quê hương của cách mạng vô sản thế giới, được bước chân trên Quảng
trường Đỏ, chiêm ngưỡng điện Kremli, được nghe bài hát “Chiều Moskva“ ngay tại xứ sở Bạch dương, và còn biết bao nhiêu thứ
“được” nữa. Vậy mà, mãi đến tận nay,
khi mái đầu đã ngả bạc, khi mình bước đến ngưỡng cửa tuổi nghỉ hưu, thì mới
thấy đây. Mới mùa hè năm ngoái, trong chuyến công tác thăm và làm việc tại
Hungary và Rumania, cả đi và về, tôi chỉ được transsit qua sân bay quốc tế Demodedovo của Nga, nghĩa là chưa được
nhập cảnh vào đất Nga, nên chỉ ngó nghiêng, rồi tìm mua mấy món đồ lưu niệm tại
quầy souvernir ở sân bay như búp-bê gỗ Matryoska,
miếng dán tủ lạnh mang hình biểu tượng Nga, và chai rượu ẩn trong vỏ ngoài hình
cuốn Kinh thánh v,v... để lấy cái cảm giác là đã từng được đến Nga rồi...
Dòng suy tưởng bị cắt đứt, khi ai đó
reo lên “Kìa, xe Điệp Anh đến đón đây rồi”.
Và ngay đó, chiếc xe lán vào lề đường cạnh chỗ chúng tôi đứng chờ, và Điệp Anh,
trưởng cơ quan thường trú của Đài tại Nga, tươi cười vẫy tay chào qua cửa kính
xe còn chưa kịp mở. Một hồi hàn huyên, khi xe chuyển bánh, chúng tôi mới mang
chuyện sân bay ra kể. Điệp Anh cười bảo, vậy là còn nhanh chán. Rồi ra, chúng
tôi mới hiểu tại sao phiền toái như vậy, ấy là an ninh sân bay họ còn phải vào
mạng do xem tên tuổi chúng tôi có trùng với ai đó thuộc diện Nga cấm nhập cảnh
hay không. Khi xác định rõ, họ mới cho nhập cảnh. Là bởi, trong những năm qua,
có khá nhiều người Việt mình nhập cảnh trái phép, mượn cớ đi du lịch, thăm thân
rồi trốn ở lại làm ăn, và có cả những người phạm tội này nọ, thế nên mới ra
nông nỗi này. Mà trong số những người thuộc diện bị cấm nhập cảnh vào Nga, có
khá nhiều mang họ Nguyễn, cái họ được
cho là phổ biến nhất ở Việt
Và rồi, một phiền toái nữa lại đến
ngay đó, ấy là nạn ùn xe tắc đường xảy ra như cơm bữa ở Moskva, nhất là trên
những đường vành đai, đường đi sân bay, hoặc đến những trung tâm thương mại
lớn. Như Hà Nội và Sài Gòn vậy, nhưng khác ở chỗ, họ chỉ mỗi ô tô và vẫn quy
củ, còn xứ ta thì hổ lốn về mọi phương diện. Đường rộng, mỗi bên 4 làn xe, ấy
vậy mà cứ phải nhích từng chút. Điểm tập kết của chúng tôi là khách sạn Salut,
khoảng cách còn những gần năm chục cây, vậy thì bao giờ mới đến. Ngoài trời,
mưa bắt đầu nặng hạt, cái rét như tăng thêm...
2.
Đi dạo trên Phố Arbat,
Đây là một trong số mấy địa
điểm mà bất cứ ai, lần đầu đến thủ đô Moskva, không thể không tìm đến.
Phố Arbat là một phố đi bộ nổi tiếng ở
Moskva. Nó nổi tiếng bởi nhiều nhẽ. Trước hết, con phố dài chừng cây số này có
nguồn gốc lâu đời, từ cuối thế kỷ 15, vốn dĩ là nơi tập trung sinh sống của
những thợ thủ công tài hoa từ khắp nước Nga dồn về, họ chuyến làm nghề phục vụ
cho giới quý tộc. Trải qua hơn năm trăm năm hình thành, phố Arbat mang đậm
phong cách kiến trúc và màu sắc văn hóa Nga cổ truyền, cho đến tận nay. Hiện đi
dạo trên con phố này, du khách có thể bắt gặp những hiệu sách, những quầy bán
hàng lưu niệm như đồ sứ Nga, búp-bê gỗ Matrioshka, ấm Samovar, tranh ảnh v.v...
Các nghệ sĩ dân gian đường phố cũng thường xuyên tụ tập trình diễn âm nhạc, dân
ca, dân vũ Nga cổ truyền... Phố Arbat còn nổi tiếng bởi ở đó có ngôi nhà mà đại
thi hào thế giới-mặt trời thi ca Nga-A.X. Pushkin sinh sống một thời gian ngay
sau khi kết hôn với Natalia Goncharova. Ngôi nhà này ngày nay trờ thành nhà lưu
niệm về Pushkin, được sơn màu xanh ngọc, hình như là màu yêu thích ở Nga vì một
số công trình kiến trúc quan trọng ở Nga ( chẳng
hạn, Cung điện Mùa Đông-bảo tàng Ermitage ở
Hôm ấy, tranh thủ thời gian ngắn trước
giờ làm việc với Đài Nước Nga ngày nay,
chúng tôi đổ bộ xuống phố Arbat ngay gần đó. Bầu trời nặng mây, rồi mưa lắc
rắc, khiến cái lạnh tăng thêm. Khách bộ hành thì che ô mà đi, còn chúng tôi thì
cứ đầu trần. Lần đầu đến đây, và biết rằng khó có thể quay lại, nên cứ đi được
đến đâu thì đi. Vì trời mưa, lại đầu buổi sáng, nên con phố còn vắng. Tôi chọn
góc máy chụp ảnh, cảm giác buồn buồn len lỏi trong mình, Ngắm ngôi nhà Pushkin
rồi nhẩm đọc những câu thơ của ông còn trong trí nhớ: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể/ Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;/ Nhưng
không để em bận lòng thêm chút nữa,/ Hay hồn em phải gợn sóng u hoài... Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,/ Cầu cho em được
người tình như tôi đã yêu em.”. Từ
cuộc hôn nhân với tiểu thư quý tộc Natalia Goncharova, đã như một sự báo trước
cho cái chết của nhà thơ ở tuổi 38 sau cuộc đấu súng nhằm bảo vệ danh dự với
viên sĩ quan kỵ binh người Pháp là D’ Anthes, người được cho là dan díu với vợ
ông, trong một âm mưu đã định nào đó?!
Và một điều nữa, ấy là cuốn tiểu
thuyết “Những đứa trẻ phố Arbat” giàu
chất tự chuyện của nhà văn Anatoli Rybakov, một người con của phố Arbat. Tác
phẩm này, cùng với một số tác phẩm khác của ông đã được dịch ra hơn 50 thứ
tiếng trên thế giới, nó đã khiến con phố này vốn đã nổi tiếng lại càng nổi
tiếng hơn. Bản thân tác giả, nhà văn Rybakov, cùng cuốn tiểu thuyết của ông đều
chung số phận long đong, lận đận. Rybakov phải lang thang kiếm sống, rồi bị tù
đày bị tội “tuyên truyền phản cách mạng”,
còn cuốn tiều thuyết thì được viết từ đầu những năm sáu mươi nhưng phải đến
cuối những năm tám mươi mới được xuất bản. Tuy nhiên, số phận cũng đã mỉm cười
với Rybakov, cuốn tiểu thuyết này khi xuất bản, đã được xem như quả bom tấn
trên diễn đàn văn học Nga thời hiện đại, nó đã góp phần vinh danh tên tuổi
Rybakov. Sau này, cuốn tiểu thuyết còn được chuyển thể thành phim truyền hình
nhiều tập, nên phố Arbat lại nối riếng hơn.
Trời mỗi lúc mưa thêm nặng hạt, thời
gian lại không có, đành nhìn con phố hun hút buổi sáng còn thưa thớt người qua
lại, nhìn ngôi nhà màu xanh ngọc xưa của Pushkin lặng buồn trong mưa và thầm
mong, một ngày nào đó được quay trở lại, để khám phá thêm về con phố nổi tiếng
này ...
3.
Một ngày ở Quảng trường Đỏ.
Đây cũng là một địa danh nổi tiếng, mà chỉ cần chụp ảnh mình ở đấy, là
ghi nhận mình đã đến nước Nga, đến Moskva.
Hôm ấy là cuối tuần, trời lại rét dưới 10 độ C, ấy vậy
mà quảng trường đông nghịt người. Chúng tôi phải gửi ô tô khá xa rồi đi bộ vào
khu vực quảng trường. Khách du lịch, người Nga hay người nước ngoài thì hầu như
ai cũng phải làm vài ba kiểu ảnh, lấy phông nền nhà những chóp nhà thờ Chính
thống giáo Nga hình củ hành được dát vàng, và bức tường màu nâu đỏ. Chương
trình của chúng tôi là dành cả một ngày cho địa điểm này với mấy việc cụ thể,
đó là: vào lăng viếng Lê-nin và thăm thú các hoạt động nghệ thuật ngoài trời ở
khu vực Kremli, tiếp đó là đến điểm sổ O của nước Nga, kiểu như point zero ở Paris, và sau cùng là xem
vở ballet Hồ Thiên Nga của
Tchaikovsky tại Cung đại hội ngay trong khu vực
Quảng trường Đỏ,
Những năm gần đây, những biến cố chính
trị ở nước Nga và thế giới, đưa nước Nga vào diện có hoạt động khủng bố nên
chính quyền Nga tăng cường việc kiểm soát an ninh nội địa. Để vào được khu vực
phía trong, tất cả mọi du khách phải qua cửa kiểm soát an ninh, máy soi chiếu
đồ đạc mang theo, thậm chí cảnh sát còn bắt mọi người phải mở túi đồ, để họ
bằng khám tay, mới được vào. Lại tiếp tục rồng rắn xếp hàng để đến khu vực
tường đỏ và nơi có Lăng Lê-nin...
Mất khá nhiều thời gian xếp hàng,
nhích từng bước một. Đây cũng là thời gian để tôi quan sát quang cảnh xung
quanh khu vực và thả bổng ý nghĩ về lịch sử nước Nga. Phần đông du khách nước
ngoài, lần đầu đến đây, nếu không nghiên cứu trước, hoặc được giới thiệu trước,
thì dẽ hình dung và lầm tưởng Quảng
trường Đỏ-Điện Kremli na ná như kiểu Quảng
trường Thiên An môn-Tử Cấm thành Bắc Kinh (Trung Quốc). Thực ra, không phải
vậy. Ở Tử Cấm thành Bắc Kinh, đấy là khu vực được bao bọc kín bởi tường thành
cao, hào nước sâu bên ngoài, với các cửa thành ở bốn mặt, và từ quảng trường
Thiên An môn sau khi qua cửa thành vào bên trong, là quần thể các cung điện và
công trình kiến trúc đồ sộ, tráng lệ, là nơi tổ chức các hoạt động trọng đại
của quốc gia, nơi thiết triều của nhà vua và nơi sinh sống và hoạt động của đại
gia đình hoàng gia. Còn như, Quảng trường Đỏ-Điện Kremli (thuật ngữ kremli là chỉ một dạng thức thành quách
Nga nói chung, vì vậy, ở một số thành phố cổ khác của nước Nga cũng có kremli) lại là một quần thể bao gồm
tường thành, pháo đài, cung điện, nhà thờ (cụ thể, Nhà thờ chính thống giáo Thánh Basil và Nhà thờ Đức Mẹ Kazan), các
đài phun nước, và sau này thêm Lăng Lê-nin, Bách hóa tổng hợp (GUM), tượng đài (nguyên soái Jukov), Mộ chiến sĩ vô danh-Ngọn lửa vĩnh cửu...
Để vào lăng viếng trước thi hài
Lê-nin, lại phải tiếp tục qua thêm cửa soi chiếu an ninh nữa, rồi tiếp tục theo
chân tường thành đến khu vực Lăng. Cho đến khi đứng trước lối vào của lăng,
nhìn những khách thăm viếng tranh thủ chụp ảnh lưu niệm với nhau, với những
người lính gác lăng, tôi mới thực tin là mình đã đến được đây. Lặng lẽ theo
dòng người vào lăng viếng Lê-nin, khi người lính gác nhắc nhở, tôi mới biết
mình đã quên là vẫn còn đội chiếc mũ bê-rê chống lạnh trên đầu, bèn tạ lỗi bỏ
xuống. Về cấu trúc bên trong, giống như lăng Bác Hồ ở ta, hay đúng hơn là
chuyên gia Liên Xô cũ giúp ta xây dựng lăng Bác nên cấu trúc tương đồng. Lê-nin
nằm đó trong quan tài kính, kể từ khi Người mất, đã gần một trăm năm trôi qua,
và lịch sử đã đi những bước dài, mà bản thân nước Nga cũng có những thay đổi
lớn lao... Lắng nghe lòng mình, không có sự xúc động như lần đầu vào lăng viếng
Bác Hồ. Phải chăng, vì quá xa về khoảng cách địa lý, xa về thời gian, sự khác
biệt về văn hóa Đông-Tây, thêm nữa, có lẽ vì xã hội đã biến đổi nhiều, nên với
bậc vĩ nhân như Lê-nin, vẫn đầy lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ, nhưng không có
được sự xúc động rưng rưng kiểu “liền
thịt liền xương, máu đỏ da vàng” như với Bác Hồ. Tự thâm tâm, tôi hiểu, ý
nghĩa và giá trị vô cùng lớn lao của Cách
mạng tháng Mười Nga, cùng với vai
trò là người khởi xướng và thuyền trưởng chèo lái con thuyền cách mạng Nga đến
thành công, kế đó là sự ảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng vô sản thế
giới nói chung, và Cách mạng tháng Tám của Việt Nam nói riêng, đến ngày nay...
Đang mùa du lịch, Quảng trường Đỏ có
nhiều hoạt động mang tính cộng đồng nhữ triển lãm sách và văn hóa đọc, biểu
diễn của dàn nhạc giao hưởng v.v... Ngắm nhìn rồi chụp ảnh lấy phông nền là
tháp chuông đồng hồ điện Kremli, biểu tượng của Liên Xô cũ và nước Nga ngày
nay, có lịch sử lâu đời những hơn sáu trăn năm; rồi trong đầu tôi như tái hiện
những tình tiết vở kịch nói Chuông đồng
hồ điện Kremli, do Nhà hát Kịch Việt Nam dựng (cũ là Đoàn Kịch nói trung ương), khởi đầu do nhà hoạt động sân khấu Thế
Lữ đạo diễn. Đây là một trong số bộ ba vở kịch cách mạng của Pogodin, nhà soạn
kịch nổi tiếng của Liên Xô cũ, mà ở đó lãnh tụ cách mạng tháng Mười Nga- V.I.
Lenin là nhân vật chính. Cho đến nay, vở kịch này vẫn được liệt vào dạng kinh
điển sân khấu kịch nghệ ở Nga, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và nhiều nước
thuộc phe CNXH cũ, trong đó có Việt Nam... Lượt nhanh khu vực quảng trường, tôi
tìm đến Điểm cây số Không ( O ), ở
đây cũng đông nghịt khách. Ai ai cũng muốn một lần đứng vào vòng tâm, kể cả
việc tung đồng xu, mong rơi trúng và nằm lại trong vòng tâm ấy và hy vọng tìm
sự may mắn cho mình, theo lời người ta vẫn đồn vậy,...
Thời gian có hạn, chẳng dám tìm chỗ ăn
uống chút gì vì sắp dến giờ xem ballet Hồ Thiên Nga. Ngang qua khu vực có Ngọn lửa vĩnh cửu cháy lên và tỏa sáng
từ Mộ chiến sĩ vô danh, chúng tôi
dừng chốc lát, chụp vài kiểu anh lưu niệm mình đã đến nơi đây. Thời gian chúng
tôi cúi đầu trước Mộ chiến sĩ vô danh & Ngọn lửa vĩnh cửu thì chỉ giây lát, song câu chuyện về nó lại rất dài.
Xuất phát điểm của biểu tượng Mộ chiến sĩ vô danh bắt đầu từ năm 1920, khi
người Pháp cho lập ở Paris để nhớ công trạng và tưởng niệm những người lính
quân đội Pháp đã hi sinh trong Chiến
tranh thế giới thứ Nhất, sau đó, ở Liên Xô cũ, nhằm tưởng nhớ các binh sĩ
đã chết trong các cuộc cách mạng Nga và thời kỳ nội chiến, mộ chiến sĩ vô danh
được thiết lập ở nhiều nơi. Đến năm 1966, kỷ niệm 25 năm ngày chiến tằng
Phát-xit Đức, Mộ chiến sĩ vô danh bắt
đầu được đặt tại khu vườn Aleksandr dưới chân tường điện Kremli, và một năm sau
đó, ngày 08.5.1967, biểu tượng Ngọn lửa
vĩnh cửu- được lập ngay trên mặt Mộ
chiến sĩ vô danh, từ tâm ngôi sao năm cánh đắp nổi trên mộ, và chính thức
khánh thành cụm kiến trúc công trình biểu tượng này, cùng đó là dòng chữ khắc
trên nền đá hoa cương “Anh là chiến sĩ vô
danh, nhưng chiến công của anh là bất tử”, cho đến ngày nay... Vâng, chỉ
giây lát thôi, nhưng biết bao câu chuyện, bao tình tiết từ những cuốn tiểu
thuyết, những bộ phim Liên Xô mà tôi đã từng đọc, từng xem suốt một thời tuổi
trẻ, đi học, lập thân lập nghiệp xưa cũ, như hiện vể tất cả...
Lại một hồi vất vả, xếp hàng, soi
chiếu an ninh, rồi chúng tôi cũng an vị trong lô ghế của mình của tầng trên
Cung Đại hội trong khu vực Quảng trường Đỏ, chờ đến giờ thưởng thức vở ballet
Hồ Thiên Nga. Đây là một món quà bất ngờ không có trong chương trình định trước
khi đoàn công tác sang Nga, mà Điệp Anh, trưởng cơ quan thường trú VOV tại
Moskva dành cho chúng tôi. Bất ngờ mà đúng mong ước, nên quý lại càng quý. Hơn
nghìn chỗ ngồi của cung chật kín không một chỗ trống. Rồi những âm thanh đầu
tiên của vở diễn bắt đầu vang lên, lập tức mọi người như mê đi và dần chìm đắm
vào những vũ điệu ballet, từng tình tiết của vở diễn và đặc biệt là âm nhạc của
Tchaikovsky. Chỉ biết là tuyệt vời về mọi phương diện, cho đến khi kết thúc,
các vũ công ra chào, tiếng vỗ tay biểu thị niềm vui của khán giả kéo dài mãi
không ngớt, khiến các diễn viên phải chào nhiều lần...
Cuối ngày, đói mệt, nhưng vui, chúng
tôi được cơ quan thường trú tại Nga chiêu đãi bữa tối tại một quán ăn thịt cừu
nổi tiếng ở trung tâm phố cũ Moskva. Một ngày tuyệt vời ở Quảng trường Đỏ là
thế !...
4.
Nghĩa trang Danh nhân ở Moskva & những linh hồn bất tử.
Đấy là cách gọi dễ hiểu của Nghĩa trang Novodevichy. Nghĩa trang này nằm ngay bên cạnh Tu viện Novodevichy - Di sản thế giới
được UNESCO công nhận. Đúng ra, ý tưởng về một nghĩa trang dành cho những người
nổi tiếng bắt đầu từ những ngôi mộ của một số người nổi tiếng được chôn cất
trong khuôn viên của Tu viện Novodevichy. Tu viện này được xem là nổi tiếng
nhất của Moskva, bởi ngay nay vẫn giữ được sự nguyên trạng ban đầu từ thế kỷ
17. Sự nổi tiếng này kéo theo sự nổi tiếng cho nghĩa trang danh nhân.
Khi đến thăm viếng nghĩa trang Danh
nhân, tôi chưa mấy hiểu về nó, hoàn toàn theo sự chỉ dẫn của Điệp Anh, trường
cơ quan VOV tại Nga. Cô vốn là một phóng viên thời sự lâu năm, học đại học
chuyên ngành tiếng Nga, và tính tổng thời gian làm việc tại Nga được 8 năm, nên
có sự hiểu biết kha khá về lịch sử và văn hóa Nga. Khi bước chân qua cổng
chính, Điệp Anh đã lưu ý rằng, ở đây có phần mộ của một số danh nhân là chính
khách, nhà khoa học, các văn nghệ sĩ, và anh hùng Liên xô cũ, mà cô từng biết
và cũng đã từng viếng mộ những lần trước. Với số lượng khoảng 27 nghìn ngôi mộ
ở đây, nên không có sự chỉ dẫn thì chẳng biết đâu mà tìm, vậy chỉ có thể đi
viếng một số ngôi mộ mà cô thông thạo thôi. Trước hết, chúng tôi tìm đến viếng
mộ của cố tổng thống Nga B, Elsin ở ngay trung tâm. Ngôi mộ này được kiến trúc
mang hình quốc kỳ Nga gợn nếp đang bay với ba màu đắp nổi. Tình cờ, ngay cạnh
đó, có một đám đông tụ rập, có âm nhạc, có tiếng loa, và hình ành của nhà
thơ-nhà văn-nhà soạn kich cách mạng lưu vong người Thổ Nhĩ Kỳ là Nazim Hikmete.
Tôi đã từng đọc về thân thế sự nghiệp và thơ ca của ông từ hồi đi học nên biết.
Ông này từng học tại Đại học Phương Đông tại Liên xô, sau đó về quê nhà sáng
tác văn học và họa động xã hội, rồi bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ, sống lưu vong
tại Liên xô cho đến khi mất vào ngày 03.6.1963, mà không bao giờ được trở về
quê hương nữa. Hôm ấy, tình cờ đúng ngày 03.6, vậy tính ra là ngày giỗ lần thứ
54 của Nazim Hikmete, nên Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ tại Nga đã tổ chức lễ tưởng
niệm ông ngay tại phần mộ. Không ngờ, nhà thơ lưu vọng nổi tiếng, mình từng đọc
từ ngày xưa, lại được chôn cất tại đây, và nay do tình cờ lại được chứng kiến
lễ tưởng niệm ông... Sau đó, chúng tôi viếng mộ cố Thủ tướng Nga, ông Y.M.
Primakov. Ông này mới mất năm 2015, và phần mộ cách mộ của B. Elsin mộ quãng
ngắn. Thời kỳ cuối thế kỷ 20, khi Elsin cầm quyền với cương vị Tổng thống, nước
Nga đã xảy ra tình trạng khủng hoảng lãnh đạo, trước khi Elsin tìm ra được một
người đủ bản lình để cầm cương nước Nga mới thay mình là V. Putin, ông đã liên
tục tìm kiếm và thay thế hàng loạt các chính trị gia ở cương vị Thủ tướng,
trong đó có V. Chernomyrdin, Y. Primakov.
Khi được Elsin lựa chọn vào cương vị thủ tướng, vị chính trị gia người gốc
Ucraina này đang là Ngoại trưởng. Ngoài sự nghiệp chính trị, Primakov còn là
một viện sĩ, nhà Đông phương học, nhà kinh tế tài ba.
Theo sự chỉ dẫn của Điệp Anh, chúng
tôi lần lượt đến viếng mộ các nhà khoa học và sáng chế như I.P.Pavlov, nhà tâm
sinh lý học, viện sĩ, đoạt giải Nobel năm 1904; A.N. Tupolev, nhà chế tạo hàng
không của dòng máy bay TU; anh hùng vũ trụ G.S. Titov... Đặc biệt là cụm 3 ngôi
mộ của gia đình cố Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên xô một thời, Nikita Sergeyevich Khrushchyov, cùng vợ và
cháu trai. Đây cũng là câu chuyện, là nỗi niềm một thời của riêng Đảng cộng sản Liên xô cũ và cả phe Xã hội chủ nghĩa nói chung. N.S. Khrushchyov
là người thay thế Stalin làm Tổng Bí thư sau khi ông này mất vào năm 1953. Năm
năm sau, Khrushchyov kiêm thêm chức Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên xô (tức Thủ tướng) và lãnh đạo Liên xô cho
đến năm 1964, thì mất quyền lực bởi bị bỏ phiếu bất tín nhiệm, và thay vào đó, L.
Brezhnev làm Tổng Bí thư và A. Kosygin
làm Thủ tưởng. Ông bị giám sát chặt chẽ bởi cơ quan an ninh tình báo, vì bị quy
kết là người theo chủ nghĩa xét lại, cũng như trước đó, là người chủ trương
chống lại việc Stalin hóa ỏ Liên xô cũ. Cùng được an táng bên cạnh mộ ông là
phần mộ người vợ thứ hai, bà Nina Petrovna Kukharchuk, và người cháu, Nikita Khrushchyov, mới mất năm 2007. Đây cũng là
điều hiếm thấy ở Nghĩa trang Danh nhân này. Khách viếng thăm nghĩa trang, hầu
như ai cũng đến cụm mộ này, có phần vì sự kính trọng, phần vì thỏa lòng tò mò.
Tiếp
theo, chúng tôi tìm sang khu vực mộ của các văn nghệ sĩ. Điệp Anh cho biết,
trước đây, có mộ của nhà văn Nga lỗi lạc, là Nikolai Gogol, nhưng gần đây bị di
dời đến nơi khác. Thật tiếc thay. Tôi vốn kính trọng và yêu văn chương của
Gogol với tác phẩm bất hủ là “Những linh
hồn chết” và tiểu thuyết anh hùng ca “Ta-rat
Bulba“. Ở đây, tôi chợt có một sự liên tưởng thú vị. Ấy là, tác phẩm xuất
sắc làm nên tên tuổi N. Gogol ấy là tiểu thuyết “Những linh hồn chết”, kể chuyện về một thương lái (tên là Chichikov) đi khắp nước Nga chỉ
để buôn những linh hồn chết của nông nô từ các địa chủ, mang tính mộng mị và
hài hước, song nó phản ánh một nước Nga lạc hậu, nghèo đói và mê muội, đòi hỏi
phải có những thay đổi lớn lao về xã hội và quản lý xã hội, vậy nên nó mang
tính dự báo; còn bản thân nhà văn N. Gogol và các danh nhân yên nghỉ nơi đây,
thì linh hồn họ đều là bất tử !...
Chúng tôi tìm viếng mộ của
N.A. Ostovsky, tác giả của tác phẩm “Thép
đã tôi thế đấy” lẫy lững một thời khi được dịch sang tiếng Việt, và được
xem là tấm gương để nhiều thế hệ thanh niên noi theo. Rồi đó là mộ của nhà
văn-đạo diễn V. M. Sucsin. Vô tình, tôi còn phát hiện thấy bia mộ của nhà văn
Alexander Fadeyev, cựu Chủ tịch Hội Nhà văn
Liên xô, tác giả của các tiểu thuyết nối tiếng một thời là “Đội cận vệ thanh
niên” và “Chiến bại”, được cho là đã tự sát bằng súng ngắn vào ngày 13/6/1956
tại căn nhà mình,... Vậy là cũng chỉ mười ngày nữa là đến ngày giỗ của ông...
Rồi nữa, như một linh tính, tự dưng tôi nhớ và nhắc đến nhà văn Nga, nhà viết
kịch và truyện ngắn xuất sắc là A. P. Tsekhov (1860 - 1904) cùng những nỗi khổ
riêng tư với người vợ nghệ sĩ và bệnh tật của ông. Vậy mà, tôi đâu có biết,
chính phần mộ của A. P. Tsekhov cũng nằm trong nghĩa trang này, và hơn nữa, vì
có phần mộ của ông, cùng những người nổi tiếng khác, là cái cớ để nước Nga lấy
nghĩa trang Tu viện Novodevichy làm nghĩa trang Danh nhân như bây giờ. Nếu biết
trước, thế nào tôi cũng hỏi thăm để được kính cẩn cúi đầu trước anh linh nhà
văn xuất sắc này, mà tôi vốn xem là đệ nhất nước Nga cổ kim!...
Sau tìm hiểu thêm, tôi mới biết, ngay
tại đây, còn có bia mộ của những con người không những nổi tiếng của nước Nga
mà cả thế giới, ấy là khoa học Lev Landau
(1908 - 1968)-Giải Nobel Vật lý và Pavel Alekseyevich Cherenkov (1904 - 1990)-Giải Nobel Vật lý; họa sĩ Isaac Levitan (1860 – 1900), tác giả của
tác phẩm “Mùa thu vàng”; các nhà văn Aleksey Tolstoy (1882 - 1945), Ilya Ehrenburg (1891 - 1967), Mikhail Bulgakov (1881 - 1940); nhà thơ Vladimir Maiakovsky (1893 - 1930); nhà
soạn nhạc Dmitri Shostakovich (1906 -
1975); đạo diễn kiêm diễn viên điện ảnh Sergei Bondarchuk (1920 - 1994),
v.v... Ôi, thật đáng trách và đáng tiếc
làm sao, mà chung quy là lỗi từ sự thiếu hiếu biết!...
Lướt nhanh nghĩa trang Danh nhân
Moskva, có cảm quan, đây không phải là một thế giới chết, thế giới của những
linh hồn, trái ngược với cái chết, ấy là sự bất tử. Vâng, bất tử về mọi phương
diện, ấy là giá trị của những con người tên tuổi trong quá khứ, là giá trị lưu
truyền, là tiếng vọng lịch sử, là một bảo tàng sống động về nghệ thuật điêu
khắc, bởi mỗi ngôi mộ đã là một công trình nghệ thuật điêu khắc, hội họa tuyệt
mỹ.
Hơn thế, nó đầy sinh khí !...
5. Điền
trang Yasnaia Poliana, trăm năm & một ngày,
Đi Tula, thăm điền trang của gia đình đại văn hào Lev
Tolstoi là lịch trình đã được vạch sẵn của đoàn công tác trước khi sang Nga.
Sau một ngày bận rộn từ sớm đến khuya trong cái lạnh dưới 10 độ C, nào thăm
viếng Nghĩa trang Danh nhân, thăm Quảng trường Đỏ, viếng Lăng Lenin và xem
ballet Hồ Thiên Nga... hôm sau, chúng tôi ra ngoại ô và thẳng tiến hướng tỉnh
lỵ Tula.
Chẳng mấy chốc, nóc các công trình cao của tỉnh lỵ
Bãi để xe ngoài công điền trang hầu như chật kín,
không phải ngày nghỉ cuối tuần mà khách tham qua khá đông, khách châu Âu và các
đoàn tua du lịch Trung Quốc. Qua cổng vào bên trong, khung cảnh đã tuyệt vời,
với hổ nước, cây xanh những phong và sồi, những mái nhà xanh ngọc ẩn hiện,
những lối mòn nhỏ len hun hút giữa hàng bạch dương, nên thơ và khơi gợi sự bí
ẩn, tò mò cho du khách. Chúng tôi mua vé tham quan có hướng dẫn viên người bản
địa, nên đi theo sự chỉ dẫn. Không ngờ, toàn bộ khu điền trang hiện tại rộng
tới 412 hecta (nghe nói, kể cả ruộng đất,
ngày trước rộng gấp ba lần hiện tại), và ngày ấy từng thuộc 5 chủ đất. Gia
đình Lev Tolstoi đã mua trường để có được diện tích rộng và diện mạo như ngày
nay ta thấy. Hiện những hàng rào ranh giới đất cũ thuộc các chủ khác vẫn được
giữ nhằm tái hiện diện mạo xưa, phục vụ cho du lịch. Điền trang rộng vậy, nên
tùy theo thời gian và nhu cầu của du khách, người ta bố trí 3 điểm chính, ấy là
ngôi nhà khách của người cha Tolstoi, nay được trung bày thành bảo tàng về thân
thế sự nghiệp, đặc biệt sự chuyển biến về tư tưởng của Tolstoi; thứ hai, là ngôi nhà Lev Tolstoi sinh sống và
viết văn; và cuối cùng là ngôi mộ nhà văn ẩn sâu nơi rừng xanh kín đáo của điền
trang. Theo quy định, quang cảnh bên ngoài, du khách được thỏa mái chụp ảnh, quay
phim, nhưng khi vào bên trong mỗi tòa nhà trưng bày thì cấm tuyết đối. Do sơ ý
không quan sát thấy biển cấm bên ngoài, nên khi bước vào trong ngôi nhà mà
Tolstoi sinh sống, tôi đã vô tình bấm máy một kiểu, và ngay lập tức phải sorry. Xem lại, giờ lại thấy vui vì chí
ít có một kiểu ảnh bên trong. Ngôi nhà này, về cơ bản vẫn giữ nguyên kết cấu 2
tầng, cầu thang gỗ, nhiều phòng nhỏ hẹp, thông nhau chạy vòng quanh phía trước
sau ôm lấy trung tâm là phòng khách lớn. Ở phòng này, bày các hiện vật nhằm tái
hiện cuộc sống của nhà văn từ hơn một trăm năm trước ( Tolstoi qua đời ngày 20.11.1910 ) tại quê nhà, sau khi ông bỏ nhà
ra đi, kết thúc chuỗi năm tháng dài bất đồng với vợ về nhiều thứ, trong đó có
quan điểm về việc giải phóng nông nô, và ông bị ốm nặng rồi qua đời ở nhà ga xe
lửa Astapovo (nay là thị xã mang tên
Tolstoi) cách điền trang không xa. Tường phòng treo đầy tranh chân dung nhà
văn, cùng vợ và con gái ông, được vẽ bởi họa sĩ Nga nổi tiếng là Kramxkoi và
các họa sĩ nổi tiếng cùng thời của châu Âu... Đặc biệt là phòng ngủ, phòng đọc
sách và phòng ông ngồi viết văn, mà ở đó có trưng bày những trang tiểu thuyết
của F. Dostoievsky khi vừa mới được xuất bản đã được Tolstoi tìm đọc ngay và tỏ
lời khen ngợi, rồi đó là sách về triết học cổ Trung Hoa là Lão Tử, Khổng Tử.
Sinh thời, Lev Tolstoi cũng là con mọt sách. Ở đây, còn có căn phòng, nơi nhà
văn ngôi viết những chương đầu tiên của bộ tiểu thuyết bất hủ “Chiến tranh và hòa bình”. Ngày ấy, đây
chỉ là một cái kho chứa đồ, để tranh bị quấy rầy, Tolstoi đã trốn biệt vào đây,
khời thảo cuốn tiểu thuyết này... Và cũng căn nhà này, còn có chiếc đồng hồ cổ
vẫn chạy từ gần hai trăm năm nay, có chiếc ghế sô-fa, nơi mấy đời nhà Tolstoi
ra đời trên đó, rồi góc riêng dành cho người anh trai yểu mệnh, Nikolai, mà
ngày nhỏ rất gắn bó và được Tolstoi vô cùng yêu quý, người đã phát hiện ra một
bí mật gia đình-ấy là mảnh đất đầy yếu tố hoang đường là Hang Đặt Cũ và khe
Xói, que Xanh, cùng quan niệm về hạnh phúc toàn gia “anh em nhà kiến“, người
hướng dẫn đã giới thiệu vậy.
Ở ngôi nhà, ngày xưa, cha thân sinh ra nhà văn chuyên
sử dụng làm nhà khách, nay là bảo tàng trừng bày hiện vật, tranh ảnh liên quan
đến một thời gian dài, bắt đầu từ thời kỳ Tolstoi nhập ngũ. Có một khoảnh đất
trống khá rộng, nối giữa hai ngôi nhà này bằng một lối đi, còn chút dấu tích,
nghe nói, cha của nhà văn đã định cho xây thêm một dinh thự nữa để ở thì khi
mới chuẩn bị, ông mang bệnh rồi mất, khi ấy Tolstoi mới lên 9 tuổi. Trở lại với
ngôi nhà khách xưa, trong đó có tranh ảnh Tolstoi trong trang phục lính ở
Kavkaz và Sevastopol, nhà văn với các người bạn văn chương như I. Turgeniev,
nhà văn với đám trẻ con nghèo rách rưới-con của những nông nô trong vùng ở
trường học-ngôi trường mà chính nhà văn cho mở; rồi nữa, là nhà văn cùng người
vợ của mình, cả bút tích bức thư nhà văn tỏ tình với tiểu thư Sofia Andreyevna
Behrs, khi nàng mới 18 tuổi (còn Lev
Tolstoi, 34)... Và rồi, nàng tiểu thư ve như vô lo vô nghĩ, kém chồng 16
tuổi ấy, đã sinh liền một mạch cho nhà văn những 13 người con (chỉ 9 người sống đến trường thành), trở
thành thiếu phụ giỏi giang trong quản lý điền trang, phục vụ chồng, nuôi con
khôn lớn, đem lại những hạnh phúc gia đình cho nhà văn, khiến ông an tâm đọc
sách và viết truyện. Theo năm tháng, sự bất hòa giữa hai vợ chồng nhà văn nảy
sinh, Tolstoi là người nhân văn, chủ trưởng giải phóng nông nô, còn vợ ông, chỉ
quan tâm quyền lợi tài sản của gia đình và chống đối việc giải phóng nông nô...
Cứ vậy, cho đến một ngày, khi đó đã ở tuổi 82, cùng với người bác sĩ của gia
đình, Tolstoi bỏ nhà, vô định, lên tàu từ nhà ga gần điền trang nhà mình giữa
thời tiết tuyết rơi lạnh giá, rồi thọ bệnh mà mất tại nhà viên trưởng ga nhà ga
xe lửa Astapovo...
Theo lối đi, chúng tôi như lút vào rừng sâu, hai bên
là những căn nhà gỗ, những chuồng nuôi gia súc tái hiện thời nhà văn còn sống,
những hàng sồi cổ thụ, những cây phong, bạch dương và ngân hạnh. Nghe nói, có
những cây sồi đã mấy trăm năm tuổi, nghĩa là từ thời ấy, nhà văn đã từng miêu
tác trong các tác phẩm văn học của mình. Vườn xa xa toàn những táo và lê. Năm
nay, tiết muộn, một số cây táo còn lác đác trổ hoa trắng. Được biết, năm nay có
thể mất mùa táo, bởi trước đó, thời tiết nước Nga, khu vực thủ đô Moskva và
vùng lân cận, trong đó có Tula, trời đổ bão tuyết bất thường, rồi sau đó còn có
giông lốc rất mạnh, gây sập nhà, gẫy đổ cây cối, và đương nhiên, làm hoa táo
rụng gần hết.
Ngôi mộ của nhà văn hiện ra thật bất ngờ. Thực lòng,
khi tìm viếng mộ Lev Tolstoi, tôi vẫn mường tượng, nó sẽ như một ngôi mộ nào đó
của các nhà văn mà tôi từng thấy ở nghĩa trang Danh nhân Moskva. Vậy mà, chỉ là
“một nấm cỏ khâu xanh rì” như câu thơ
Nguyễn Gia Thiều đã viết. Đại văn hào năm đó, đã già một thế kỷ trôi qua, nấm
đất dài, dày cỏ xanh, không bia mộ, và khuôn viên ngôi mộ cũng cỏ xanh mướt.
Nghe nói, đây chính là nơi xưa kia, người anh Nokolai đã phát hiện ra, và câu
chuyện “que xanh”-khe Xói-Hang Đặt cũ,
mãi ám ảnh nhà văn cho đến cuối đời. Và hình như, khu vực ấy, ngày xưa là khu
nghĩa địa của các nông nô. Yên ngủ ngàn thu nơi đây, hẳn nhà văn toại nguyện,
như những gì ông từng mong ước...
Khi mọi người đã quay trở ra, riêng tôi vẫn nán lại,
một mình, lặng ngắm quang cảnh xung quanh, chỉ thuần rừng xanh, cây cỏ. Chợt
một chàng tiếng chim của loài chim nào đó mà tôi không rõ vang lên trong vòm
cây cao xanh, quanh quất nhìn chẳng rõ tiếng hót từ đâu. Và, mấy câu thơ của
bài thơ “Thăm điền trang Yasnaia Poliana”
đã manh nha nảy sinh trong tôi “... Hương hoa gì xa đưa/ Giấc ngàn thu Người
mộng/ Vòm cây nào khẽ động/Tiếng chim hót ru Người,..”,
Trên đường trở ra, tôi còn bắt gặp một lễ hội dân gian
của người dân quanh vùng, ở một thung lũng đầy những sồi và cây lê, táo. Họ múa
hát, ai cũng đội trên đầu hoặc quàng cổ một vòng hoa như nguyệt quế...
Đã ngả chiều, chúng tôi ăn tạm ở một quán ăn ngay cổng
chính của điền trang. Quán ăn thiết kế toàn bằng gỗ sồi, nhỏ xinh và sạch sẽ,
món ăn cũng đơn giản. Cùng với món súp cá và bánh mì, Thành Phương gọi một món
ăn truyền thống, ấy là món bánh làm từ bột mì trộn sữa bò, mật ong, có chút
nhân nho khô trên mặt. Nghe nói, người dân vùng này, trong lễ Tiễn mùa đông,
bao giờ cũng phải có món bánh đó.
Về đến Moskva, chiều cũng đã muộn, thời điểm này, đến
9 giờ đêm trời vẫn sáng, thậm chí còn thấy mặt trời. Tối nay, chúng tôi còn
phải ra ga tàu hỏa, đi Saint Petersburg...
Với tôi, điền trang Yasnaia Poliana của nhà văn Lev
Tolstoi, đã trăm năm và chỉ một ngày !...
6. Saint
Petersburg, cách mạng & tình yêu,
Khi chuyến tàu loại hai tầng có giường nằm bắt đầu
chuyển bánh rời Moskva đi Saint Petersburg, mọi người vui vẻ hàn huyên đủ các
thứ chuyện, song trong tôi, ý nghĩ và sự ám ảnh về vụ nổ bom xảy ra lúc 14g40
giờ địa phương ngày 03.4.2017 đoạn giữa hai ga tàu điện ngầm Sennaya Ploshchad và Tekhnologichesky Institut, thuộc St.
Petersburg làm 14 người chết và 49
người bị thương. Và sau đó, giới
chức Nga xác nhận kẻ đánh bom là Akbarzhon
Dzhalilov, một công dân Nga, 22 tuổi đến từ nước cộng hòa Trung Á-Kyrgyzstan, người
này còn được coi là thủ phạm đặt quả bom thứ hai tại ga tàu Ploshchad Vosstaniya trong thành phố
nhưng đã bị vô hiệu hóa, chưa đủ để người ta yên lòng về một sự bình yên. Nghĩ
ngợi sinh khó ngủ, nhưng rồi sự mệt mỏi sau hành trinh liên miên cũng làm cho
tôi thiếp đi...
Tỉnh ngủ, mặc dù mới 6 giờ sáng, nhưng trời đã sáng
bạch từ bao giờ. Mùa này, gần sát tháng đêm
trắng ở
Xuống ga, chúng tôi nhập vào dòng du khách đông đúc và
ai cũng đầy ý thức cảnh giác về nạn móc túi, trộm cắp vặt ở thành phố này mà
Điệp Anh đã cảnh báo. Chiếc xe chúng tôi thuê đã đợi sẵn. Xe chuyển bánh, Điệp
Anh chỉ ngay vào một ngôi nhà có kiến trúc hình tháp tròn, bảo đấy là nhà ga Ploshchad
Vosstaniya, nơi đã tìm thấy vật liệu nổ và được vô hiệu hóa, chung với vụ đánh
bom khủng bố ngày 03.4 nọ. Tự nhiên cảm thấy rờn rợn, song thôi, kệ.
Sau khi ăn sáng và cafe nhanh ở một quán quen, chúng
tôi ra bờ sông
Ngay gần đấy, là Chiến hạm Rạng Đông. Trong số chúng tôi,
hồi đi học, môn lịch sử thế giới, nhất là về cuộc cách mạng tháng Mười Nga, hầu
như ai cùng biết, chiến hạm Rạng Đông đã nổ phát súng đầu tiên, vào ngày
07.11.1917, báo hiệu cho cuộc tấn công cuối cùng vào Cung điện Mùa Đông, dinh
lũy cuối cùng của Chính phủ cách mạng tư sản Nga tại thành phố Saint Petersburg
(khi đó mang tên là Petrograd), khi chính vị thuyền trưởng lúc ấy là Aleksandr
Belyshev, và hầu hết thủy thủ đoàn đã
tham gia đảng Bolshevik. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử thế
giới cận và hiện đại, gây ảnh hưởng và hiệu ứng lớn như thế nào với phong trào
cách mạng vô sản và đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên phạm vi
toàn thế giới, thì người ta đều biết cả. Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của
Việt
Giờ đây, chiến hạm Rạng Đông hiền lành neo đậu sát bờ,
ngày đêm nghe sóng nước Neva ru ngủ, với tư cách là một bảo tàng sống động, và
hơn nữa, nó vẫn được trei cờ hiệu của Hải Quân Nga, bởi vẫn được phiên chế một
đơn vị hải quân quản lý, sử dụng... Tuy hình dáng bên ngoài không mấy khác,
song nhiều bộ phận để cả phần thân tàu chìm dưới nước đã được đại tu, thay thế.
Bên kia bờ sông Neva, là Cung điện Mùa
Đông xưa, được sơn màu xanh ngọc-trắng, nay là Bảo tàng Ermitage (Hermitage) nổi tiếng thế giới. Ngắm sông nước
Neva dạt dào, lại nhớ cuộc đối thoại thơ đã trở thành huyền thoại giữa Olga
Berggoltz và Berssonov, mà thời sinh viên mới biết yêu, ai cùng từng biết, từng
đọc những câu thơ tình da diết của Bài thơ cuộc đời : “ Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ/ Khúc hát say
mê một thời thiếu nữ/ Ngôi sao sáng bừng trên sông Neva/ Và tiếng chim kêu mỗi
buổi chiều tà/ Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọ ngào/ Em mới hiểu bấy giờ
anh có lý/ Chuyện cũ qua rồi, anh cũng xa cách thế/ Em hát khác xưa rồi, khóc
cũng khác xưa/ Lũ trẻ lớn lên tiếp bước theo ta/ Lại nhấp vị ngọt ngào thuở
trước/ Vẫn sông Neva những chiều sóng nước/ Nghĩ cho cùng, họ có lỗi đâu
anh...”. Mấy chúng tôi cùng đọc, thay nhau đọc, người câu trước, người câu
sau, hết cả bài thơ.
Dù sau này, có người tìm hiểu, khảo cứu, cho rằng cuộc
tình và đối thoại thơ này không có thật trong đời, và Bài thơ cuộc đời là Olga Berggoltz viết tặng chồng mình, một nhà
thơ Nga- Boris Kornilov
(1907-1938) nguyên có tên Chuyện mười năm
trước, thì cũng chẳng ai buồn tin mà làm gì. Đơn giản, bởi huyền thoại kia
đã quá đẹp, đã hằn sâu vào trái tim và ký ức thời tuổi trẻ đầy yêu đương và
thất vọng trong tình yêu đôi lứa, của mỗi người rồi.
Với riêng tôi, cũng là vậy đó!
Chẳng hơi đâu truy tìm, để mà tin
hay không.
Bởi điều đó có ý nghĩa gì đâu.
Và hơn thế, giờ đây, tôi đang đi bên
sóng nước
7.
Cung điện, thú ăn chơi của Sa hoàng xưa,
Lịch sử nước Nga cho thấy, nửa cuối
thế ký 18 và cả thế kỷ 19, nước Nga bị châu Âu xem thường và bỏ lại phía sau,
bởi sự lạc hậu, trị trệ và nghèo đói xác
xơ. Ấy là nhìn về khía cạnh xã hội và đời sống dân chúng. Tuy nhiên, trong lòng
một nước Nga nghèo đói và lạc hậu ấy, nước Nga lại có mấy thứ mà châu Âu không
thể xem thường được, thậm chí còn phải ngưỡng mộ, ấy là sự ăn chơi xa hoa bậc
nhất của các Sa hoàng (Hoàng đế Nga)
và sự nảy sinh ra các văn nghệ sĩ tài hoa cũng vào cỡ bậc nhất thế giới. Điều
này ta có thể thấy rõ trong những tác phẩm văn học của các nhà văn Nga nổi
tiếng như N. Gogol, I. Turgeniev, A.Tsekhov, V. Korolenko, L Tolstoi... Hãy
khoan nói về các tài danh nghệ sĩ Nga, để nói về sự ăn chơi tột đỉnh của các Sa
hoàng...
Ấy là các công trình kiến trúc, cung
điện, vườn hoa, đài phun nước... do các Sa hoàng cho xây dựng ở nhiều nơi, nhất
là Siant Petersburg và Moskva. Trước chuyến sang Nga chừng mươi ngày, tình cờ
tôi được xem một phim tài liệu giới thiệu về các cung điện, công trình kiến
trúc cổ ở
Trên đường từ trung tâm
Đây là cách gọi thông dụng theo mục
đích sử dụng của cung điện này. Tên của nó là Peterhof, và nghe nói là một trong những điểm du lịch
nổi tiếng nhất nước Nga. Vậy thi Peterhof phải có những giá trị gì chứ? Được
biết, cung điện này được khởi công xây dựng từ năm 1714 dưới thời cai trị của
Sa hoàng Tzar Peter Romanov (1672-1725), sau khi vị vua này thăm nước Pháp,
muốn nước Nga cũng có một Cung Versailles
của Nga, vậy nên đã vời đến các kiến trúc sư và điêu khắc gia từ khắp châu
Âu đến thiết kế và thi công. Địa thế cung điện rất đẹp, rộng hơn nghìn hecta,
nằm bên dòng
Ôi thôi, thỏa mãn cái này thì mất cái khác. Mải nhâm
nhi ly cafe nóng, chúng tôi quên mất cái hẹn lúc 11g vào khu bên trong để được
thưởng thức màn nhạc-nước. Ấy là, cứ đúng 11 giờ trưa, bản nhạc thủy xướng
thánh ca của Reinhold Glieres vang lên thì cũng là lúc hàng trăm tháp
nước cùng phun trào trắng xóa. Khi Điệp Anh, phóng viên VOV Nga lôi được mấy gã
chúng tôi vào thì bản nhạc đã hết, giờ thì chỉ còn được thưởng thức các tháp
nước phun trào mà thôi. Quả là đáng tiếc. Theo lối đi, chúng tôi lần dần ra
vịnh Phần Lan, tha thẩn tìm mua cho mình mấy món đồ souvenir, như khăn quàng cổ hand-made
địa phương màu sắc, hoa văn phong phú đẹp mắt, rồi búp-bê Nga matryoshka và biểu tượng Saint
Petersburg...
Thú vị nhất là theo các lối đi men theo mép vịnh Phần
Lan, rồi len lỏi giữa những khoảnh rừng thưa toàn bạch dương, sồi và ngân hạnh
trên nền cỏ xanh như mơ điểm xuyết màu vàng hoa bồ công anh, những ngòi nước
nhỏ chảy ngoằn ngoèo với những chú vịt cỏ bơi lội, còn trên bở là những chú
chim tha thẩn kiếm mồi, những chú sóc nhỏ tung tăng. Thật mà như trong cổ
tích...
Rời cung điện Mùa Hè, chúng tôi tiếp đến Cung điện Mùa Thu, cách đó không mấy xa.
Đây cũng là cách gọi thông dụng của Cung
điện Ekaterina. Tên gọi này được đặt là để ghi nhận công lao của người cho
xây dựng cung điện, ấy là Hoàng hậu Ekaterina của Sa hoàng Pyoth Đại Đế, và sau
này là Nữ hoàng Ekaterina ( Catherine
)-nữ hoàng đầu tiên của nước Nga hùng cường.
Có lẽ, phải nói thêm đôi chút. Trước hết, tên tuổi của
Pyoth Đại Đế thì nhiều người biết, ấy là vị Sa hoàng đã có công lao đưa một
nước Nga lạc hậu ở vào thời điểm cuối thế kỷ 17 thành một nước Nga vĩ đại và
hùng cường, sau khi vị vua này tìm hiểu học hỏi từ các nước Tây Âu để thực hiện
một loạt cải cách và chiến tranh mở mang bờ cõi. Đây cũng là vị vua cho xây
dựng
Kế theo, là chuyện về Nữ hoàng Ekaterina (nguyên là Hoàng hậu của Sa hoàng Pyoth Đại
Đế). Bà xuất thân là một nông nô gốc
Lang thang đây đó trong
khuôn viên cung điện mênh mông, những cung điện, phòng ốc, tượng đài, cây cối,
hồ nước trong màn mưa bụi mờ kiểu như mưa phùn xứ ta cũng đã thỏa mãn rồi. Đặc
biệt, với tôi, vẫn là thảm cỏ xanh rờn thảm chân rừng thưa với những bức tượng
đơn lẻ và màu hoa vàng điểm xuyết, cùng những chiếc ghế dài sơn màu trắng toát.
Vẫn một cảm giác nửa thực nửa mơ...
Nơi đây, ngày xưa, từng có
tên là Hoàng thôn (Tsarskoe selo), nơi nhà thơ A. Pushkin từng sống những năm tuổi
thơ đi học và bắt đầu biết yêu, bắt đầu làm thơ, bắt đầu lập chí, ...
Vậy là có chuyện để nói rồi
!...
8. Chuyện Hoàng thôn & nhà thơ A. Pushkin.
Quả thật, hầu như các thế
hệ tuổi trẻ ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, suốt nửa thế kỷ qua, ai đã từng đi
học, học đại học, đến tuổi ngấp nghé yêu đương, không biết đến tên tuổi
Pushkin. Đơn giản, bởi không riêng nước Nga, nhiều nước trên thế giới, trong đó
có Việt
Không những biết đến tên tuổi, còn thuộc thơ, nhiều
dăm ba bài, chí ít, một vài câu thơ say đắm tình yêu của ông. Với cánh nhà báo
nói chung, và riêng tôi, cũng vậy. Cùng với sự nghiệp thi ca, văn chương, cái
chết vì đấu súng nhằm bảo vệ danh dự tình yêu, đã khiến thiên hạ nâng tầm
Pushkin lên đỉnh cao huyền thoại của văn chương nước Nga và nhân loại. Vậy nên,
khi được biết, cung điện Mùa Thu (cung
Ekaterina)-điểm tham quan thuộc thị trấn Pushkin, tôi càng thêm háo hức.
Dọc đường đi, trời mây sầm sì, lắc cắc mưa, xe chạy đều trong hơi men ly rượu
vang của bữa ăn trưa, những câu thơ của Pushkin tái hiện trong giấc ngủ chập
chờn “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu/ Trước mắt anh em bỗng hiện
lên,/ Như hư ảnh mong manh vụt biến,/ Như thiên thần sắc đẹp
trắng trong./Trong day dứt sầu đau tuyệt vọng,/ Giữa ồn ào
xáo động buồn lo/ Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng,/Bóng
dáng em anh gặp lại trong mơ ... Quả tim lại rộn ràng náo nức,/ Vì
trái tim sống dậy đủ điều:/ Cả thiên thần, cả nguồn cảm xúc,/ Cả
đời, cả lệ, cả tình yêu.”.( “Gửi K”, Thúy Toàn dịch )...
Hòa vào
dòng du khách, chúng tôi tiến sâu vào thị trấn Pushkin, qua hàng loạt những
quầy lưu niệm, tôi chọn cho riêng mình một bức tượng đồng chân dung bán thân A.
Pushkin. Điểm tập kết của hầu hết các toán du khách, trước khi vào Cung điện
Ekaterina, là vườn hoa nơi có chân dung nhà thơ. Khác với nhiều chân dung khác
của ông, bức tượng này tạc toàn thân Pushkin trong tư thế ngồi nghiêng với vẻ
mặt đầy tư lự. Ngắm và tự hỏi, không biết nhà thơ suy tư điều gì ? Ngay đấy, có
một nghệ nhân dân gian chuyên vẽ chân dung và chép lại thơ Pushkin siêu nhỏ
trên cuốn sách mi-ni. Tôi cũng chọn mua cho mình một cuốn sách min-ni cùng lời
đề tặng của nghệ nhân với giá trăm rúp. Cách đấy một chút là trường Lyceé, nơi
ngày xưa Pushkin cùng nhiều con em hoàng gia, quý tộc Nga theo học. Nghe nói,
chính tại nơi đây, tư tưởng cách mạng đã này sinh trong nhà thơ và những bài
thơ đầu tiên đã được Pushkin sáng tác.
Tsarskoe selo (Hoàng
Thôn), nguyên được Hoàng hậu Ekaterina (sau lên ngôi Nữ hoàng-Ekaterina) tìm chọn để xây cung điện Mùa Thu, mà ngày ấy,
bà gọi là “ngôi nhà thôn dã” dành
tặng đấng quân vương của mình-Pyoth Đại Đế. Về sau, được Nữ hoàng Elizabeth, và
nhất là Nữ hoàng Ekaterina II cho mở mang, xây dựng nguy nga tráng lệ, trên
diện tích ba trăm hecta, đặc biệt là phòng
Hổ phách do hoàng đế nước Phổ tặng thuộc diện có một không hai trên trái
đất này. Trong thế chiến thứ 2, quân đội Phát-xit Đức của Hitler tàn phá cung
điện, cây cối nơi đây, và khi rút đi chúng đã gỡ bỏ mang đi mất tích phòng Hổ
phách. Sau này, nước Nga đã bỏ công và bao nhiêu tiền của tái tạo căn phòng
theo nguyên trạng, để mang diện mạo ngày nay. Tsarskoe selo cũng mang tên mới, thị trấn Pushkin, thì dấu ấn về Mặt trời thi ca Nga-A. Pushkin, đã góp
phần làm cho Quần thể cung điện Mùa Thu vốn đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng
hơn. Và như vậy, cùng với những tên tuổi lỗi lạc là Pyoth Đại Đế, Nữ hoàng
Ekaterina I, Nữ hoàng Elizabet, Nữ hoàng Ekaterina II và nữa, thi hào A.Pushkin
được khắc ghi vào lòng người dân Nga mãi mãi...
Buổi chiều đến thị trấn Pushkin, nhằm ngày mồng 5
tháng 6. Vô tư thăm thú phong cảnh tuyệt sắc, kể cả việc chụp ảnh trước tượng
nhà thơ Pushkin, mà đâu có nhớ, chỉ ngày hôm sau thôi, mồng 6 tháng 6, đúng vào
ngày kỷ niệm 318 năm ngày sinh của A. Pushkin (ông sinh 06.6.1799). Sở dĩ chúng tôi nhớ ngày này, là vi khi chúng
tôi đi thăm thú Cung điện Mùa Đông, tuyến đường metro lại qua nhà ga mang tên
Pushkin. Vừa lúc chúng tôi đến đây thì bắt gặp nhóm phóng viên của một Đài
Truyền hình Nga đang ghi hình, phỏng vấn, tường thuật từ nhà ga này nhân kỷ
niệm ngày sinh của A. Pushkin. Mặt trời
thi ca Nga đã lặn từ năm 1737, nghĩa là đã 280 năm trôi qua, những vần thơ,
những sáng tác thi ca, văn chương của Người vẫn được người đời lưu giữ nguyên
vẹn, không những thế, thời gian càng trôi qua, giá trị văn học ấy lại càng gia
tăng và trở thành di sản vô giá của nước Nga và nhân loại !...
9. Thăm bảo tàng Ermitage,
Đây chính là Cung điện
Mùa Đông xưa của bao đời Sa hoàng Nga.
Về sự đồ sộ và tráng lệ của
Bảo tàng Ermitage vào loại bậc nhất thế giới, không ai nghi ngờ. Chính
vì thế, trong ký sự này, tôi phải dành riêng cho nó một mục, mặc dù, tôi chỉ có
2 giờ đồng hồ để thăm thú theo cách nói cửa miệng, ấy là “cưỡi ngựa xem hoa”.
Trên thế giới có hàng ngàn,
hàng vạn bảo tàng, song khi nói đến tầm cỡ hàng đầu, thì có hai cái tên được
nhắc đến ngay, đó là Bảo tàng Louvre ở Paris (Pháp) và Bảo tàng
Etmitage ở
Và may mắn cho tôi, đã hai
lần thăm bảo tàng Louvre, và giờ đây, thêm bảo tàng Ermitage. Nhân đây, trước
khi bày tỏ cảm xúc của mình khi thăm thú bảo tàng Ermitage, tôi lan man một
chút chuyện về bảo tàng Louvre.
Ấy là, năm 1996, lần đầu
tiên tôi sang Pháp, cũng là chuyến đi châu Âu đầu tiên trong đời, theo học một
khóa nghiệp vụ báo chí chừng tháng rưỡi. Cứ cuối tuần là mấy đứa trong nhóm ba
lô trên vai, chui rúc, luồn lách khắp
Và giờ đây, dạo chân trong
bảo tàng trứ danh Ermitage mênh mông này, dù đã có ít nhiều kinh nghiệm, song
vẫn chỉ như “kẻ mù” vì thiếu thông tin chi tiết về nó. Có thể bám theo một đoàn
nào đó có thuyết minh, song tiếng Nga của mình lại bập bõm không đủ hiểu, còn
như, dựa vào phóng viên Điệp Anh thuyết minh cho thì kiến thức của cô nàng về
bảo tàng này cũng không mấy tốt. Thôi thì, đành “mục sở thị” trước đã rồi tìm
hiểu sau. Tuy nhiên, lang thang đây đó, tôi cũng đã được nhìn ngắm các kiệt tác
của các danh họa lừng danh thế giới như: Rafael, Giorgio, Tiziano, Rembrandt, Monet,
Renoir, Degas, Picasso... Và đặc biệt, có một phòng danh riêng trưng bày các
họa phẩm của Leonardo
da Vinci. Về hội họa, có thể nói là phong phú nhất. Người Nga đã dành riêng một
khu vực để trưng bày tranh nhằm vinh danh những người anh hùng dân tộc của mình
đã từng đánh bại đội quân bánh chiến bách thắng của Napoléon vào năm 1812 dưới
sự chỉ huy của nguyên soái Kutuzov, với hơn hơn ba trăm bức cả thảy, còn riêng
Kutuzov thì chân dung lớn của ông đước trưng bày ngay phòng phía cửa chính vào.
Nói trộm vía, ông này, nghe nói bị hiếng một mắt và tầm vóc thường thôi, chứ
không mấy oai phong lẫm liệt như chân dung được trưng bày ở đây. Sau phòng tiền
sảnh có chân dung nguyên soái Kutuzov, là mấy căn phòng chính điện, nơi có ngai
vàng của các Sa hoàng, ấy là cặp vợ chồng Sa hoàng-Hoàng hậu Pyoth Đại Đế và
Ekaterina rồi Nữ hoàng
Thăm bảo tàng Ermitage,
không thể bỏ qua chiếc đồng hổ Chim Công. Đây là chiếc đồng hồ được đặt
làm từ Anh quốc mà Nữ hoàng Ekaterina II tặng cho một trong những sủng thần của
mình là Quận vương Potemkin-Tavrichesky (
ông này còn được xem là một trong những người tình của Nữ hoàng ). Trải qua
hơn ba trăm năm, mặc dù ngay từ ngày đầu đã phải sửa chữa hỏng hóc do quá trình
vận chuyển, đến giờ nó vẫn chạy tốt, và nghe nói hàng tuần được lên giây cót
một lần vào chính Ngọ ngày thứ Tư.
Quả thật, với khoảng 60
ngàn hiện vật được mang trưng bày ở ngót một nghìn căn phòng lớn nhỏ, trong
tổng số 3 triệu hiện vật, mới thấy bảo tàng Emitage đồ sộ thế nào. Nếu có thời
gian, dành cả tuần để thăm thú, chiêm ngưỡng cũng chẳng xuể, huống chi chỉ vài
giờ đồng hồ như chúng tôi đây. Cũng cấn phải nói thêm về quảng trường Cung điện
Mùa Đông bao la với Cây cột lớn Aleksandry. Cây cột này được dựng vào năm 1834
nhằm tôn vinh chiến thắng của quân đội Nga trước đội quân viễn chinh của
Napoléon, ở chính giữa quảng trường. Nghe nói, nó cao gần năm chục mét, bằng đá
nguyên khối, tự trọng khoảng 600 tấn, và được dựng với sức người rất lớn, cùng
kỹ thuật tinh vi, chuẩn xác khi người ta không cần bất cứ thứ ốc vít, dây chằng
nào. Những tòa nhà, công trình phụ cận xung quanh quảng trường cân xứng, hài
hòa góp phần làm cho Cung điện Mùa
Đông-Bảo tàng Ermitage càng thêm
tuyệt mỹ...
Và nữa, dòng Neva từ
bao đời nay vẫn ngày đêm dạt dào sóng nước vỗ về, ru ngủ Emitage và những trầm
tích, di sản văn hóa vậy chất, tinh thần, và tính cách Nga sống mãi,... Bên ô
cửa sổ Phòng Leonardo da Vinci của bảo tàng Emitage, nhìn ra dòng Neva,
khi một con tàu thủy du lịch trắng muốt chạy ngang, bờ kia sừng sững Pháo
đài Petropavlovsk và Chiến hạm Rạng Đông, tôi đã nghĩ như thế !...
10. Chuyện nhặt dọc đường Nga,
Với thiên nhiên mênh mông,
tuyệt vời như vậy, với những di sản lịch sử-văn hóa vật thể và phi vật thể như
vậy, nước Nga thật tuyệt vời, khó có gì chê trách. Tuy nhiên, dù chỉ một tuần
trên đất nước Nga bao la rộng lớn ấy, vẫn có những chuyện buồn, chuyện đáng lo
ngại... và cả chuyện đáng học hỏi. Tạm
nhặt ra đây vài chuyện...
Thứ nhất: Ấy là nạn trộm cắp vặt.
Trước khi rời Moskva đi
Saint Petersburg, phóng viên Điệp Anh của Văn phòng VOV-Moskva, người chịu
trách nhiệm dẫn đoàn kiêm phiên dịch cho đoàn công tác của chúng tôi, cảnh báo
về nạn trộm cắp vặt ở Saint Petersburg. Cô nhắc mọi người nên để tiền bạc, đồ
vật quý, các loại giấy tờ quan trọng tại nhà cô ở Moskva. Chỉ nên mang hộ chiếu
tùy thân và tiền bạc đủ tiêu, nhất thiết cũng phải giữ rất cẩn thận.
Từ lúc đặt chân xuống ga xe
lửa
Chúng tôi xuống một ga meto
gấn nhất di chuyển đến quán ăn Pagoda (quán Chùa Một Cột) của người
Việt. Khi đổi tuyến, lúc lên tàu, đang giờ cao điểm đông khách, chợt có mọt xô
đảy chen chúc. Vừa yên vị, T. thất thần sờ quanh người và bảo tôi “Anh à, em
mất ví tiền rồi”. Lúc ấy, tôi mới hình dung lại vụ chen lấn xô đẩy khi lên
tàu vừa rồi, và hiểu rằng, tình huống đó là kẻ gian tạo ra để nhân sự rối loạn
móc túi, lấy đồ của khách. Biết là, kẻ gian không chỉ một mà là một nhóm, có
thể vẫn đang ở ngay toa tàu đó, hoặc chúng chuyển tay nhau cất giấu đồ ăn cắp,
hoặc đã di chuyển sang toa tàu khác, không bắt quả tang, lại bất đồng ngôn ngữ,
nên mất cắp ngay trước mắt mà đanh cam chịu mất. Xuống tàu rồi, không riêng T.
mà cả đoàn đều ngơ ngác, hỏi han nhau, đồ đoán này nọ, âu cũng là sự chia sẻ,
an ủi nhau mà thôi. Lỗi ở T. là chủ quan, lại thêm quá sơ hở khi anh để ví ở
túi quần sau, cộm hẳn lên, lại quên cài khuy an toàn. Bình tĩnh kiểm lại, tiền
mất không nhiều nhưng cũng không ít. May mà giấy tờ quan trọng và hộ chiếu
không sao, thêm nữa mấy cái thẻ visa cũng cất cả ở Moskva, nên không có gì
phiền toái. Chỉ đơn thuần mất tiền. Lúc ấy, mới giá này giá nọ, rằng khi ở siêu
thị đã định mua thứ này đồ kia nhưng lại thôi, nếu mua thì đâu còn tiền mà mất.
Ôi thôi, thì lắm chuyện... Giờ mới bảo nhau, chẳng kém gì
Riêng chuyện trộm cắp vặt ở
Trở lại nạn trộm cắp vặt ở
Nga. Có thể nói, đây là một biểu hiện xấu của xã hội Nga phải chấp nhận. Nếu là
xã hội Liên Xô trước đây, người dân chỉ ở mức sung túc, khó có chuyện ai đó làm
giàu được, song nền tàng xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa, những chuyện
trộm cắp vặt hoành hành và nhiều biểu hiện xã hội tiêu cực khác ít có đất để mà
tồn tại. Xã hội chuyển đổi, năng động hơn lên, cái tốt nhiều, nhưng cái xấu
cũng không ít. Gì thì gì, nước Nga cũng phải chấp nhận cả mặt tốt và mặt xấu,
đặng tự tìm cách giải quyết thôi !...
Chuyện thứ hai: Ấy là cách giải quyết những va chạm và xung đột
giao thông.
Theo những phóng viên VOV,
nước Nga giàu có lên, ngoài hệ thống phương tiện giao thông công cộng vốn sớm
phát triển và tiện lợi như xe buýt, tàu điện ngầm, tàu hỏa, tàu thủy, song
phương tiện ô tô cá nhân cũng tăng rất nhanh. Ở các thành phố lớn như Moskva,
Chuyện thứ ba: Ấy là chuyện thay máy bay trước giờ cất cánh,
Hôm về, lo tắc đường chậm
giờ nên đoàn chúng tôi xuất phát trước giờ bay những 4 tiếng. Mọi việc đều suôn
sẻ, hàng họ không vấn đề gì, check-in cũng nhanh chóng. Thời gian còn, chúng
tôi lang thang trong khu vực xuất cảnh, tìm mua thêm chút hàng lưu niệm. Đúng
giờ, lên máy bay, an tọa. Cũng đúng giờ, máy bay lăn bánh ra đường băng chờ cất
cánh. Nhẩm bụng, vậy là chỉ khoảng 9 giờ bay là xuống Nội Bài...
Vậy mà, chiếc Airbus
330-300 không cất cánh, lại chầm chậm chạy vào khu vực đỗ. Mọi người ngơ ngác
hỏi nhau xem có chuyện gì? Tôi nhẩm trong đầu, tự tìm nguyên nhân: trục trặc kỹ
thuật, đón thêm khách vip, có vấn đề về nhân thân hay hàng hóa, thậm chí, đe
dọa khủng bố? Rồi cửa bên hông máy nay mở ra, thang áp vào, và một tốp nhân
viên dăm người lên, họ trao đổi với phi công. Một hành khách người Việt nói
chuyện với nhau trong nhóm, nhưng to đủ để nhiều người xung quanh nghe rõ, rằng
sẽ thay máy bay khác. Quả nhiên, sau chừng 20 phút chi đó, tiếp viên trưởng
thông báo, mời tất cả hành cảnh xuống ô tô về khu vực phòng đợi chờ thay máy
bay. Mọi người tỏ ta chán nản, hoặc lo lắng, phàn nàn này nọ. Lại một nữ hành
khách Việt ngao ngán: “ Đã bảo là đừng có đi vào ngày mười ba “ ( hôm ấy
nhằm ngày 13 tháng 5 âm lịch, ứng vào câu cửa miệng “chớ đi ngày bảy chớ về
ngày ba” ). Lại vạ vật gần 2 giờ đồng hồ ở phòng chờ trong trạng thái, đói mệt
và có phần lo lắng. Nhiều người gọi điện, nhắn tin, chát với người thân về tinh
trạng chậm chuyến thay máy bay nay.
Sau cùng, xe lại đưa hành
khách ra một chiếc máy bay cùng chủng loại đỗ lẻ loi ở một góc xa của sân bay.
Mừng vì không bị chậm sang ngày hôm sau, song cũng vẫn lo vì không hiểu tình
trạng kỹ thuật an toàn bay của chiếc máy bay mới, kể cả việc chưa rõ nguyên
nhân thay máy bay. Hàng không Nga mấy năm gần đây, trở thành điểm nóng của việc
trục trặc kỹ thuật và thiếu an toàn bay, kể cả chuyện đe dọa khủng bố...
Máy
bay lên đủ độ cao, đèn tín hiệu thắt dây an toàn đã tắt, bữa cơm đêm muộn được
dọn ra. Vì quá bữa và có phần lo lắng, cố ăn một chút cho đỡ đói. Rồi thiếp đi
trong giấc ngủ chập chờn...
11. Vĩ thanh,
Có một chuyện, cũng là chuyện vặt, tôi định kể ở mục Chuyện nhặt dọc đường Nga, nghĩ lại
thôi. Thôi rồi, vẫn thấy băn khoăn, cân nhắc mãi, đặng chẳng đừng, bèn kể ra
đây, xem như bài học về sự ứng xử giữa con người, giữa nếp văn hóa, và rộng ra
là giữa các quốc gia với nhau...
Ấy
là, khi đến Moskva, đoàn chúng tôi đặt chỗ trước ở khách sạn Salut, một khách
sạn thuộc hàng 4 sao, và là thương hiệu khá nổi tiếng trên thế giới. Tiện nghi
ở khá tốt, song đến khâu ăn thì có chuyện. Số là. sáng ngày đầu tiên, chúng tôi
tìm chỗ ăn điểm tâm, hỏi nhân viên khách sạn, breakfast ở đâu, thì họ chỉ hướng lên tầng trên. Theo chỉ dẫn ấy,
chúng tôi gặp cả đoàn khách du lịch người Trung Quốc, rồng rắn cỡ trăm người
kéo nhau đi ăn sáng. Phòng ăn rộng, để ý chỉ thấy thuần khách Trung Quốc kín
đặc phòng, có lẽ chỉ lẻ loi dăm khách Việt chúng tôi thôi. Khi ăn, chúng tôi
thử hỏi han giao lưu với những khách du lịch Trung Quốc, bằng tiếng Anh, song
gần như họ không hiểu, dẫu sao cũng vui vẻ. Để ý, thấy họ ăn xong bữa, bảo nhau
lấy trứng luộc, bánh mì nhỏ, pho-mát, nước uống có ở đây, bỏ vào túi xách tay
hoặc túi áo khoác đang mặc trên người. Có chút buồn cười, nhưng thôi, kệ họ.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại đến phòng ăn hom trước. Cũng muộn rồi mà cửa còn
chưa mở, thực khách người Trung Quốc đã tập trung ở ngoài rất đông. Khi cửa mở,
mấy nhân viên người Nga của khách sạn đứng chặn cửa ra vào, kiên quyết yêu cầu
tất cả thực khách đều phải cởi bỏ hết áo khoác lạnh bên ngoài treo lên những
chiếc mắc để sẵn, rồi từng người một vào phòng ăn, bất biết nhiệt độ ngoài trời
khá lạnh (dưới 10 độ C), mặc ai đó
giải thích rằng như thế họ sẽ rét. Chúng tôi rất ngạc nhiên, đứng ra xa quan
sát, thấy ái ngại và phản cảm làm sao. Hỏi ra, mới biết nhân viên khách sạn
nghĩ ra cách này, nhằm chống các thực khách lấy đồ ăn mang đi. Ôi, người xưa
bảo, miếng ăn là miếng nhục cũng phải. Chán nản, chúng tôi bỏ về định trở lại
phòng lấy mì tôm mang theo từ Việt Nam ra ăn, thì thấy ở tầng dưới,
một phòng ăn sáng khác mở cửa. Ở đây, hầu hết là khách người châu Âu, cũng có
các khách châu Á như chúng tôi, khách người Nhật Bản, Hàn Quốc, và cả những
khách người Trung Quốc đi lẻ. Phòng ăn sang trọng, thực đơn phong phú. Ngồi ăn
ở đây, chúng tôi mới nghĩ lại, thì ra, khách sạn họ bố trí phòng ăn sáng riêng
cho khách du lịch Trung Quốc đi đoàn đông, số khách còn lại, được bố trí ở
phòng ăn này. Lại nghĩ, vậy là có sự phân biệt rồi. Vẫn biết, người Trung Quốc
phần đông có thói quen ăn uống ồn ào, nói cười to, ưa náo nhiệt, và ăn cũng rất
khỏe. Cùng với đó, người Trung Quốc còn ít nhiều mang nếp sống đầy chất “quê mùa“, chưa biết hoặc chưa thích nghi
với nếp ăn châu Âu, đi nhẹ nói khẽ và nếp ăn uống là ăn vào bụng thì bao nhiêu
cũng được, nhưng tuyệt đối không được lấy thừa, bó phí, lại càng không được lấy
mang đi, bởi vậy là hành thiếu văn hóa ... Chắc hôm trước, nhân viên khách sạn
không phân biết được, tưởng chúng tôi là khách đoàn du lịch Trung Quốc, nên chỉ
chung vào một chỗ. Nghĩ thêm, lễ tân Trung Hoa là bậc nhất thiên hạ, điều này
thì tôi từng nhiều lần chứng kiến và được hưởng thụ sự tận tình chu đáo của họ,
chứ đâu có nhếch nhác thế này. Nghĩ về cách ứng xử chưa lấy làm văn hóa của cả
khách du lịch Trung Hoa và nhân viên khách sạn mà buồn. Từ miếng ăn, thành
chuyện văn hóa ứng xử giữa con người, thậm chí, quốc gia với nhau, nếu không có
một sự cảm thông. Song, âu cũng là biểu hiện về sự muôn màu muôn vẻ của cuộc
sống.
Dẫu rằng, đọc nẻo đường Nga, vẫn gặp đây đó những
chuyện buồn, chuyện không hay, song cảm quan chung, nước Nga vẫn là một quốc
gia hùng cường, có thiên nhiên bao la tuyệt vời, có lịch sử oanh liệt và bề dày
văn hóa vô cùng phong phú và phát triển...
Thiên nhiên đẹp cả bốn mùa, mỗi mùa
đẹp riêng một vẻ, tài nguyên khoàng sản giàu có, khỏi phải bàn, song bề dày lịch
sử và sự đa dạng văn hóa, thiết nghĩ, cũng cần nhấn mạnh đôi chút.
Nước Nga vô cùng rộng lớn, trải dài từ
Đông sang Tây, từ châu Á sang châu Âu, khoảng cách giữa hai cực đến 8 múi giờ,
đa sắc tộc, đa tôn giáo, vậy nên sự đa dạng phong phú về văn hóa là đương
nhiên. Gạt đi những vấn đề xung đột về sắc tộc và tôn giáo, thì sự đa dạng về
văn hóa là một lợi thế rất lớn trong phát triển. Hơn thế, lịch sử đã để lại cho
nước Nga ngày nay, kể cả Liên Xô cũ, một nguồn vốn di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể khổng lồ. Vấn đề là việc bảo tồn, bảo tàng và phát huy những lợi
thế từ nguồn di sản quý giá đó vào sự phát triển-phát triển bền vững, như thế
nào? ...
Về tinh thần, tâm hồn và tính cách
Nga, cũng là một đặc sắc, một lợi thế lớn lao!...
Ơi cái màu hoa
gạo
1.
Đã có lần, tháng ba, tôi lên Cao Bằng. Đi theo đường
Lạng Sơn, qua Thất Khê rồi Đông Khê, khi về lại Bắc Kạn, Thái Nguyên. Đã cuối
xuân, chớm hè. Những trận mưa rào sớm gột rửa bụi cho lá rừng. Lòng rạo rực
rạng lên một màu hoa đỏ. Hoa trạng nguyên rừng, hay gọi theo cách gọi dân dã
của bà con miền núi là hoa hàng rào, lấm chấm đỏ suốt dọc đường đi. Nhưng ấn
tượng và mạnh mẽ hơn cả là màu đỏ của hoa gạo. Chợt nhớ rằng, người Tây Nguyên
gọi loài hoa này là hoa pơ-lang, còn người miền núi đồng rừng phía Bắc gọi là
hoa mộc miên. Lại nhớ có một bài hát về hoa mộc miên từ nửa thế kỷ trước vào
cái thời quan hệ hữu nghị Việt Trung anh em cực kỳ nồng ấm: ” Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc
miên nở … Mộc miên hoa ơi… “. Ngày nhỏ, tôi đã nghe mấy người chị gái mới
lớn tuổi bắt đầu biết yêu, nghêu ngao hát bài hát ấy, nghe chỉ thấy giai điệu
thiết tha chứ nào có biết hoa mộc miên là hoa gì đâu…
Cũng loài hoa đỏ ấy, cây gạo cổ thụ
đầu làng tôi lại như một người lính gác ngày đêm đứng đó, đưa tiễn bao lớp trai
làng lên đường ra mặt trận, hay ra đi lập nghiệp xứ người cho thỏa chí trai,
rồi lại lặng thầm đón họ về dù họ thành công hay thất bại với sự bao dung chở
che của xóm mạc. Năm lại năm, cứ mỗi độ tháng ba cây trổ những bông đỏ ối báo
hiệu xuân qua hạ tới, khi công việc nhà nông cấy hái đã xong, đợi tháng năm thu
hoạch mùa màng. Cây gạo biết bỏ qua những lời đồn đại của dân làng, của đám trẻ
con theo kiểu thần cây đa ma cây gạo. Thân cây xù xì theo thời gian, và còn bởi
đám trẻ đẽo gọt mắt gạo để làm những con dấu trò chơi. Rồi những hố hốc trên
thân mỗi ngày một nhiều một sâu hoắm. Và cho đến một ngày nào đó cây gạo chết
khô và người ta cưa thân trốc gốc. Mà chẳng riêng chuyện quê tôi, giờ đây nhiều
làng quê không còn bóng gạo, không còn màu hoa đỏ chói mỗi tháng ba nữa. Nhớ
lắm màu hoa đỏ ấy. Tôi cũng có dịp được ngắm hoa gạo ở chùa Keo-Thái Bình, hay
ngắm cả một dòng kênh hai bên rực rỡ hoa gạo đỏ ở miệt biển Hải Hậu-Nam Định.
Và bao giờ cũng vậy, màu hoa gạo đỏ cũng đem lại trong tôi một cảm giác ấm áp,bình
yên, no đủ !...
Mấy năm trước là hoa gạo đỏ dốc đèo Pha Đin đường lên
Điện Biên. Giờ là hoa gạo đỏ đường đèo Thất Khê, Đông Khê ( Lạng Sơn ). rồi Quảng Uyên, Trùng Khánh
( Cao Bằng ), nơi đồn biên phòng Đàm
Thuỷ, chốt thác Bản Giốc…Tôi đã để ý, thấy mấy chiến sĩ biên phòng trẻ người
miền xuôi lên biên giới làm nhiệm vụ, nhặt những bông gạo đỏ ném qua hàng rào
trêu đùa mấy cô giáo cắm bản. Có một cái
gì đó nhen nhóm rồi cháy lên !...
Cháy lên...
2.
Cứ mỗi độ mưa xuân đã bớt bay, tiết nồm ẩm bí bách
cuối tháng hai, đầu tháng ba âm lịch cũng đã bớt, ấy là hạ đã ngấp nghé...
Trong bầu không khí ấy, ai mà chẳng nhớ câu thơ của
Nguyễn Du “ Dưới trăng quyên đã gọi hè/
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông “. Câu thơ này hay về mọi nhẽ. Nhưng đấy
là câu thơ của người vốn quen với “ cửa Khổng sân Trình “, dẫu là người có thấu
hiểu nỗi đau nhân quần như Nguyễn Du đi chăng nữa... Và kẻ hậu sinh tầm thường
là tôi, cũng từng bám theo cái bóng của cụ Nguyễn xưa, mà viết mấy câu thơ
chơi: “Cuối xuân bàng đã lá xanh,/ Sót
đôi chiếc đỏ trên cành ngẩn ngơ,/ Thôi đừng, mùa đợi tháng chờ/ Kìa bông hoa
lựu thập thò lửa nhen,...”
Chứ thực ra, màu lửa lựu vườn nhà, đầu tường cũng
không thể ấn tượng bằng màu đỏ rực của hoa gạo.
Vẫn biết là mọi so sánh đều khập khiễng, song chốn
đồng quê, nơi thôn trang, rừng dã, màu đỏ giục giã, rạo rực của hoa gạo, mới là
sự báo hiệu nóng bỏng của mùa hạ, ngay từ khi nó mới chớm sang ...
Tôi là dân làm báo chuyên nghiệp, bản tính lại thích
lang thang nay đây mai đó, không biết bao mùa rồi, mỗi khi bắt gặp màu hoa gạo,
lòng lại bừng lên những khát khao chinh phục... Chẳng to tát gì khi nói đến
khát khao chinh phục, đơn giản, chỉ là phải viết một chút gì đấy, tìm kiếm một
cái gì đó, du nhỏ nhoi thôi, nhưng phải mới, phải khác lạ cho mỗi chuyến đi...
Và tôi đã tự nhắc nhở, thúc giục lòng mình gắng vậy !...
Những câu thơ về màu hoa lửa ấy, cô đơn và khắc khoải,
bừng cháy mà sẻ chia, tuoi mới v à hoài niềm, cứ thế, cặp đôi, song hành như
một hành trong ẩn chứa trong sâu thẳm tâm can trong mỗi chuyến đi, nhất là mỗi
mùa gạo trổ bông. Cùng là hoa gạo, trong những bài thơ cuazr mình rải rác theo
năm tháng, tôi đã viết những câu: “Ơi cái
màu hoa gạo/ Dắt ta về hoa niên/ Cô gái
ngày xưa ấy/ Nhặt từng bông muộn phiền”; rồi đó là “Núi rừng nén tiếng thở dài/ Thung xa hoa gạo đợi hoài tháng ba,/ Hè còn
ngấp nghé trời xa,...” ; và nữa, “ Riêng
vài cây gạo núi,/ Cô đơn đứng lặng thinh/ Nở dăm bông lác đác,/ Chờ bừng đỏ
rực mình,” v.v...
Mới đây, dịp cuối xuân Đinh Dậu, tôi và mấy người bạn
thân, là nhà thơ, nhà văn, họa sĩ vào xứ Thanh ( Thanh Hóa ) thăm nhà văn Trịnh
Tuyên và các bạn viết sống ở Cẩm Thủy, Bá Thước... Chạy xe theo đường Hồ Chí
Minh, đoạn giáp ranh giữa Hòa Bình và Thanh Hóa, bắt gặp mấy gốc gạo cội, hoa
đỏ rực toàn cây, nổi bật trên nền xanh của lá rừng cùng màu hoa trắng xóa của
loài cây rừng nào đó không rõ tên. Ấn tượng vô cùng !...
Hơn nữa, chiều ấy, khi chúng tôi từ Cẩm Thủy, tìm
đường xuyên xứ Thanh sang khu di tích Lam Sơn thuộc huyện Thọ Xuân, trên bờ dê
sông Chu thuộc đất Yên Định, bắt gặp một cây gạo to, đứng đơn độc bên sườn đê,
và ngạc nhiên sao, hoa gạo không màu đỏ thường thấy, lại có màu vàng cam. Đây
là lần đầu tiên tôi thấy. Mà không riêng tôi, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, họa sĩ
Lã Minh Kính và nhà văn Nguyễn Trọng Huân cũng đầu bảo rằng, họ cũng chưa từng
thấy hoa gạo màu này.
Chúng tôi dừng chân, tha hổ, mải miết chụp ảnh cây gạo
hoa màu vàng cam với mọi góc độ, và xem như của hiếm của chuyến đi. Khi tôi
đăng mấy bức ảnh trên Phây cá nhân thì có đôi ba người nói rằng đã từng thấy,
từng biết nơi này, chỗ nọ xưa từng có cây gạo màu hoa đó, nhưng giờ đây chẳng
biết có còn không?...
Với riêng tôi, ấn tượng càng thêm ấn tượng !
Và trong ý nghĩ, một tứ thơ đã nảy ...
Quả cuối mùa
Hoa quả bây giờ, mùa nào thức ấy, từ siêu thị sang
trọng đến hàng rong, cơ man, tha hồ mà lựa chọn. Thậm chí, hoa quả trái vụ cũng
có, bởi đã có giống mới cho quả quanh năm, hoặc hàng nhập từ nước ngoài. Vậy
mà, để khi cầm miếng quả lên miệng cắn, nhấm nháp thấy ngon, thấy thú vị, thật
khó. Còn như thấy thi vị, thì khó lắm thay !...
Lâu lâu, nhà đi chợ về, mua được mớ táo, mớ ổi ta,
mang rửa qua rồi bầy ra đĩa, đã thoang thoảng mùi thơm rồi. Nhẩn nha chọn lấy
một quả, ngắm nghía no con mắt, đưa lên hà hít một chút, lấy hương thơm đánh
thức thính giác, rồi mới lựa chiều cắn nhẹ, nhai chậm và ngẫm nghĩ, để thưởng
thức cái hương vị tự nhiên của cây quả, ta sẽ thấy, không có vị thuần nhất như
loại quả giống mới, mà cảm nhận được vị ngọt, pha chút chua, hơi chan chát của
loại quả tự nhiên...Và khi ấy, quá khứ, tuổi thơ đồng hiện trong ta, lung linh
huyền diệu làm sao ...
Hồi nhỏ, khi gia đình tôi còn ở Hà Nội, tôi sống trong
khu nhà 50A Trúc Lạc, phố Phó Đức Chính. Khu nhà nằm trong làng Trúc Lạc xưa,
ven bờ hồ Trúc Bạch, có vườn rộng quanh năm rợp bóng nhãn, roi, ổi... Rồi đó là
những chuyến ngao du lên vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá ven Hồ Tây, xứ sở của
hoa trái Hà Thành ngày ấy. Thế nên, tôi đã sớm ý thức về cây trái thiên nhiên.
Sau này, sơ tán tránh chiến tranh về quê Văn Lâm, Hưng Yên, mảnh đất vườn quê
nhà tôi khá rộng, Vườn tạp kiểu xưa, cây trái tự túc, nên cũng có đủ loại cam,
chanh, bưởi, ổi, na, mít, sấu, thị, hồng xiêm...Thôi thì mùa nào thức ấy. Quê
ngoại tôi cách đó gần chục cây số, vườn rộng những dăm sào đất, ao chuôm đầy
đủ, cây trái không thiếu thứ gì. Tôi quen gọi là khu vườn cổ tích. Năm nào cũng
vậy, dăm ba lần theo bố mẹ, chị gái sang quê ngoại vào những dịp giỗ tết và
nghỉ hè. Nhất là kỷ nghỉ hè, được ở quê ngoại hàng tuần, hàng nửa tháng. Vui
nhất, là được hội quân, đám trẻ chúng tôi hàng chục đứa, con chú con bác, con
cô con cậu, đôi con dì với nhau, từ Hà Nội và các nơi kéo về. Chúng tôi câu cá,
và tuần hành mọi xó xỉnh trong vườn, leo trèo, bứt quả chín quả ương, nếm thử.
Vui thật đấy. Song với riêng tôi, lặng lẽ giấu trong lòng một cái thú, ấy là
tầm quả cuối mùa. Quả giữa vụ, đương nhiên không có gì để nói. Với cây trái, có
hai thời điểm ấn tượng, ấy là quả đầu mùa và quả cuối mùa. Quả đầu mùa, người
ta mong ngóng chờ, sau vòng quay của thiên nhiên trở lại vừa đúng một năm, nên
có chút gì đó của sự háo hức, chờ đợi, lạ lẫm ... Song ở thời điểm này, quả
thường chưa ngon, chưa đủ hương đủ vị, và có thể châm chước được. Còn quả cuối
vụ, là quả chín muộn và còn sót lại. Khi ấy, cây đã gần hết trái, nên bao nhiêu
sức của cây, hay nói một cách chữ nghĩa, là bao nhiêu hương sắc, tinh tuý
còn lại trong cây, được dồn hết cho quả chín muộn, đặng cây sắp bước vào
mùa rụng lá, hoặc bị đốn bớt cành, chuẩn bị cho guồng sinh sôi mới, đơm hoa kết
trái mùa sau. Thế nên, quả cuối mùa viên mãn, thơm ngon, là vậy...Thêm nữa, tâm
lý người ta, khi cái gì còn lại ít ỏi, cái gì sắp đi qua, mới thấy quý, thấy
tiếc, là vậy...Lại chợt nghĩ đến chuyện nhan sẵc của những người đàn bà ở độ
tuổi tứ tuần...
Tôi đã lặng lẽ, tha thẩn vườn nhà, hay nơi vườn quê ngoại,
tầm những quả còn sót lại trên cây. Quả muộn thường là khuất tầm nhìn, bị che
bởi những tán lá um tùm, nên người tầm quả phải để ý hơn, dụng tâm hơn, ở dưới
đất phải nghiêng ngó, quan sát từ nhiều góc nhìn khác nhau, thậm chí, phải leo
lên chạc cây cao hơn một chút, may ra mới thấy được. Thường là người thua các
loài chim, nên quả muộn hay bị chim mổ lỗ chỗ đôi chút. Cũng có quả còn nguyên
vẹn, và khi ấy, sao thấy thật may mắn và sung sướng thay. Giản dị vậy thôi.
Song dù quả có bị chim ăn trước, thì phần quả còn lại cũng rất ngon thơm. Đấy
là chưa nói đến việc, quả chín nào bị chim ăn, thường là ngon hơn quả bình
thường, ấy bởi loài chim tinh tường hơn con người chúng ta về khoản này... Tôi
đã từng nâng niu những quả cuối vụ như thế, và thấy tiêng tiếc khi phải ăn đi
mất, đặng thỏa cái thú thưởng thức bằng đủ các giác quan. Vâng, quả là, đã có
những trái thị nhỏ xinh cuối vụ, để chín thơm trên bàn thờ đến thành nẫu, không
ăn...
Sau
này trưởng thành, và ngay cả bây giờ cũng vậy, tôi vẫn giữ trong mình thú tầm
quả chín cuối mùa. Nhưng cuộc sống phố thị và sự bận bịu của công việc đã dần
tước đi của mình những thú vui nho nhỏ và giản dị như vậy. Song, mỗi khi có dịp
về quê, hoặc đi đâu đó có cây vườn, tôi lại tha thẩn ra vườn, lặng lẽ dưới gốc
cây mà ngước nhìn lên.
May ra thì ...
Sen thu
Tình cờ đọc được một bài viết của nhà thơ Chử Thu Hằng
về sen trên trang mạng xã hội, cùng với đó là những bức ảnh sen tàn, đẹp và
buồn, lại chứa đựng tấm lòng yêu cuộc sống của những người sáng tạo ra chúng.
Bài viết bộc lộ tâm trạng của tác giả và nhắc đến chi
tiết nàng Lâm Đại Ngọc ngắm hồ sen trong đêm trung thu, buồn chuyện nhân tình
thế thái mà ngẫu hứng “ Sen tàn nghe rốn
tiếng mưa thu ...”. Mình vốn là một tín đồ của “ Hồng Lâu Mộng “, lại cũng rất thích chi tiết ấy. Đọc rồi, lòng những
muốn góp thêm với tác giả bài viết một chút gì đó và một vài bức sen thu, như
là sự tiếp nối của lòng yêu cuộc sống quanh ta...
Sen thu, gợi tôi nhớ lại, chuyến hành phương
Chợt nghĩ đến gói cốm dẹp bọc lá sen
buộc chéo bằng sợi rơm nếp, mà cô bạn gái dúi vào túi ba lô lúc đưa tiễn mình ở
nhà ga... Ra đi lập nghiệp phương xa, để lại sau lưng một mối tình đang độ bén…
Rủ lòng, chẳng biết người ấy có chờ đợi mình không ?... Ngày ấy đã làm gì có
sẵn máy ảnh như bây giờ để mà chụp. Lòng trĩu nặng một nỗi buồn…Thế là xúc cảm
trào dâng. Cứ rẩm riu trong đầu, lẩm nhẩm nơi đầu lưỡi, mà thành thơ…
Rồi đằng đẵng bảy năm lang thang khắp vùng châu thổ
Mê-kông, lâu mà chóng, vui buồn nếm trải, mẹ thì già, mà mình chưa thành thân.
Thấy mình như có lỗi với tất cả.
Người bạn gái ngày nào đã chẳng thể chờ
đợi mình cứ mãi biền biệt như mất tăm ở nơi cuối đất, đi lập gia đình riêng, giờ
thì xa thành quá khứ. Và bài thơ hồi đó cũng
dần phai... Lâu lâu, nhớ lại đôi ba câu…Lại cười nhẹ mà cho qua đi…Cuộc
sống bận rộn với biết bao lo toan…
Nhân, đọc bài viết về sen thu này, thấy
hợp với tâm trạng mình. Nhìn ảnh sen tàn mà cảm hoài. Tự nhiên, những câu thơ
xưa cũ, hồi, sống dậy…
Bài thơ ngày ấy, giờ đọc lại, còn chưa
ưng. Song đã là xúc cảm thì có kể chi ...
Anh đi vào lúc cuối thu
Đồng hoe hoe sắc, gáy gù xa xa
Bão muộn màng mới đi qua
Bình yên choàng xuống mái nhà thôn quê
Anh cay đi vào lúc gió se
Heo may chín rực lá tre ráng chiều
Bên trời ai lảy câu Kiều
Lặng yên mía ngọt tự nhiều đắng cay
Anh đi vào lúc hương bay
Cỏ thơm đến nỗi làm say đất trời
Sen tàn gắng giữ lá tươi
Dành cho hạt cốm một đời sắc hương
Anh đi vào lúc mờ sương
Hàng cây trơ trụi bên đường khẽ run
Hàn đông ngấp nghé đầu nguồn
Về nam bầy én giăng buồn ngang mây
Em ơi, muối mặn gừng
Anh đi thương nặng nhớ đầy hai vai .
Xin cảm ơn người viết !
Ừ mà, vẻ đẹp cuộc sống thường là đi
cùng nỗi buồn. Và đều đáng quý, đáng trân trọng làm sao?!...
Tự thân nó, đã là sự tiếp nối của lòng yêu cuộc sống quanh ta !...
Tết Nguyên đán cổ truyền,
tinh hoa văn hóa Việt,
Dân gian xưa nay bảo " Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết ".
Nói
vậy, hẳn người đời có cái lý của mình...
Ngày trước, những năm thiên tai mất mùa đói kém, nhà
nào thiếu thốn, ngày giỗ cha mẹ, ông bà, chẳng mâm cao cỗ đầy để mời mọc anh em
họ hàng, thì chỉ cần đặt lên bàn thờ bát cơm quả trứng, đĩa hoa hái ở vườn nhà,
bát nước lã sạch, dầu đèn, còn chén rượu có hay không cũng chẳng sao. Thắp ba
nén nhang, khấn khứa tự hay nôm na đều được. Ở thế giới bên kia ( nếu có ), chẳng tổ tiên, ông bà cha mẹ
nào lại nỡ trách cứ con cháu mình vì cái tội nghèo. Con trẻ trong nhà cũng
không vì thế oán chê cha mẹ. Hiếu nghĩa với người âm chỉ cần thế, cốt ở yên
lòng người dương kia !...
Nhưng...Tết thì lại khác. Giàu nghèo
thế nào thì cũng phải cố lo cho có đủ lệ bộ. Nghĩa là, trên bàn thờ phải có mâm
ngũ quả, trong buồng nhà phải có đôi ba chiếc bánh chưng, khoanh giò, vại dưa
nén dưa hành và đám trẻ phải có manh áo mới. Khá khẩm hơn chút nữa thì thêm
niêu cá kho, nồi thịt đông, vài đĩa chè kho thảo quả...Thực ra, túng bấn quá mà
không lo cho có đủ, hẳn tổ tiên ông bà, rồi các bậc Táo quân thần phủ cũng đâu
có trách phạt, cái chính là ở người nhà mình kia. Không có ư...thì đâu vui được
lòng con trẻ, mà người lớn cũng tủi phận làm cha làm mẹ không nuôi nổi con!...
Nếu đem ra mà so sánh, ngày giỗ là
việc riêng nhà mình, no đói thế nào chỉ trong nhà biết với nhau thôi, ngoài
chẳng ai hay, thế nên cũng không có gì phải ngượng, hoặc sợ mang tiếng. Còn
ngày tết, là của chung cả làng cả nước, nhà nào cũng phải theo. Mà xưa nay,
phàm việc gì, chuyện gì là của chung thiên hạ, là người ta cứ phải ganh đua để
giành phần hơn !... Ý thức, tâm lý xã hội lâu dần thành phong tục, tập quán...
Rồi nữa, những phong tục, tập quán ấy lại áp chế ý thức và tâm lý xã hội. Chưa
hết, nó tác động vào thực tại xã hội, cụ thể là đời sống hằng ngày của con
người, vừa gặm nhấm vừa hối thúc...
Bởi cái tâm lý " no ba ngày tết... ", thế nên mới có cái chuyện đáng lo
nhất trong năm của nhà nhà, ấy là tích cóp cho cái tết, chuẩn bị, rậm rịch sắm
tết, thậm chí ngay từ đầu năm mới. Lợn thì nhắm nhe nuôi từ sau ngay sau tết cũ
, đợi đến gần tết mới rồi tính toán chung đụng ; gạo nếp và đỗ xanh thì lo từ
thu hoạch vụ mười ; mật mía thì một chạp
đã đem thóc gạo đổi chác, rồi bọc kỹ bằng lá chuối khô cho vào vò kín bảo quản
; sau rằm tháng giêng kéo đến tết ông công ông táo thì rậm rịch chuẩn bị ống giang chẻ lạt, mua
sẵn lá dong , lựa củi gộc chuẩn bị cho nồi bánh chưng; rồi rà soát lại cối chày
giã giò ; nhà cửa bếp núc thì quét tước mạng nhện bồ hóng, quét lại vôi tường
cho sáng sủa, lau chùi bàn thờ và đánh bóng đồ tế ... Cứ thế, mỗi ngày một vài
việc, lo xong được thứ nào thì thở phảo nhẹ nhõm thứ ấy, vừa bớt lo vừa âm ỉ
vui. Độ từ hăm nhăm hăm bảy tết trờ đi, tết đến gần lắm rồi, vừa phải lo việc
đồng áng, vừa lo việc mua sắm tết. Làng xóm rộn ràng đi chợ phiên. Từ tối hôm
trước đã phải nhẩm tính xem, có thứ gì mang bán được để lấy tiền tiêu tết, lại
xem còn thiếu thứ gì cần mua, rồi thập
thò hàng xóm láng giềng hò hẹn rủ rê, để sớm mai từ gà gáy đã í ới gọi nhau đi
chợ tết. Người người gồng gánh, già trẻ dắt diu nhau đi trong màn sương sớm,
quên đi cái giá buốt cuối năm, nhất là khi gặp phải tiết mưa phun gió bấc, là
vì trong lòng đầy những mừng lo khấp khởi ... Hăm chín, ba mươi thì tết đã cận
kề. Chung đụng lợn, chạy di chạy lại, mổ lợn giã giò, gói bánh chưng ...tất bật
từ mờ sớm đến tận đêm khuya, thôi thì bao nhiêu là việc...Nhà nào khá giả, nền
nếp còn lo dựng cây nêu ngoài sân ngõ...
Đấy, cái tết nó vui chính là ở bầu không
khí, ở cảnh quan, ở trong cái sự lo toan mừng vui chộn rộn nơi lòng người kia.
Còn vui ở miếng ăn ngon, đành rằng có, song chỉ là phụ. Tết xưa, với nhà nghèo,
quả là mấy ngày ấy mới có miếng giò, miếng bánh chưng mà ăn, thường ra đâu có.
Nhưng cái sự ngon nơi răng miệng đầu lưỡi chỉ là nhỏ. Cái sự cay đắng ngọt bùi
ẩn giấu trong sâu kín ý nghĩ của người lớn, của các bậc làm cha làm mẹ kia, lúc
có miếng ăn ngon vào miệng, lại ngẫm đến bao mồ hôi cực nhọc thường ngày, làm
miếng ăn nó cao hơn lên, và thêm phần ý nghĩa
!...
Thời nay, tết đến, nhà nhà có của ăn
của để, chẳng mấy lo tích cóp dành để ăn tết như ngày trước. Từ thành thị đến
nông thôn, hàng hóa thượng vàng hạ cám đều có dịch vụ sẵn. Con người lại bận
mải làm ăn, đến giáp tết, tiền túi rủng rỉnh, nháo nhào đi tua nửa ngày về là
có đủ mọi thứ hàng tết. Cần gì phải lo tích cóp, phải tất bận cho khổ cơ chứ
?!...
Tôi có ông anh rể, trước đây làm cán
bộ huyện, đông con nhưng kinh tế dư dả và chúng đều phương trưởng cả rồi. Mấy
năm trước, anh triệt để thực hiện phương châm " thương mại-dich vụ hóa " hàng tết. Ngày áp tết, tôi về quê
biếu quà, thấy nhà vắng teo. Hỏi ra, bà chị gái tôi bảo, con cái thì mải làm ăn
chưa về đủ, còn ông anh rể tôi thì không có việc gì lo, ra ngẩn vào ngơ chán
chê, rồi chạy đâu đó hàng xóm, xem người ta mổ lợn giã giò làm vui ...
Khi đã về hưu, có thời gian rảnh rỗi, ông anh rể tôi
mới thấy thèm, thấy quý, và hiểu, ẩn giấu bên trong cái việc sắm sanh tết nhất
là bầu không khí ấm êm, yên bình của gia đình và xã gội. Bên ấm trà nóng lúc
trời giá rét, chờ bữa cơm tất niên, anh rể vui vẻ, hào hứng bảo : " Yên chí. Ra tết, tớ lại kiếm con lợn
bột giống cũ, nuôi đúng kiểu đóng đanh. Giáp tết tới, các cậu kéo về, tớ thịt, giã giò, cháo lòng tiết
canh, đánh chén một bữa cho vui "!... Đây chỉ là chuyện của một người,
một nhà, song tôi tin là có vô vàn người nghĩ như vậy !...
Mới lại hay, tết vui là ở bầu không khí lo toan bận
rộn, đâu phải chỉ cần đủ miếng ăn và lệ bộ. Chính cái bầu không khí lo toan,
tất bật ấy, làm nên sự kết dính và sưởi ấm mỗi tấm lòng, mỗi gia đình và cả
cộng đồng xã hội !... Thế thì có loại
dịch vụ nào thay thế nổi cơ chứ ?
Mới
biết, sự thỏa mãn về vật chất không quá khó, song sự thỏa mãn về mặt tinh thần
quả không dễ chút nào.
Giờ thì kinh tế xã hội phát triển, con người ta bận
mải làm ăn quanh năm suốt tháng. Có người cho là phong tục Tết Nguyên đán là
lạc hậu, là ảnh hưởng đến việc làm ăn... rồi đòi bỏ Tết ta, hoặc nhập tết Ta
vào tết Tây. Nghĩ vậy, nhưng họ có đâu hiểu, nhiều triệu người lao động, quanh năm
vất vả, nếu không muốn nói là đầu tắt mặt tối làm lụng kiếm sống, dịp tết nhất
là để nghỉ ngơi, quây quần gia đình họ mạc, đâu chỉ là đê ăn miếng ngon, mà để
hưởng một bầu không khí ấm áp tình người thân tộc, họ mạc. Tết cũng là dịp để
người ta xóa bỏ, quên đi đi chuyện cũ không hay, hy vọng cho một năm mới tốt
lành, và như vậy nó hàm chứa yếu tố tâm linh hòa lẫn tâm lý xã hội. Ngày tết,
là thời điểm để người ra thư giãn tinh thần, là phong tục tập quán hàng ngàn
đời, là văn hóa, mà đã là văn hóa thì không có cao thấp để mà so sánh, và đâu
có cơ học như vậy được. Còn như, nếu xét về khía cạnh kinh tế, mỗi dịp tết,
cũng là lúc kích thích tiêu dùng, kích cầu, mà qua đó, kích thích sản xuất kinh
tế phát triển. Điều này, có thể thấy ở Trung Quốc, họ đã tạo được hiệu ứng tích
cực về tết cổ truyền. Nếu biết tận dùng bản sắc văn hóa dân tộc trong Tết cổ
truyền, ta còn thu hút được khách du lịch quốc tế đến Việt
Gạt đi sự nhiễu nhương, biến tướng cái
tết vì những mục đích thực dụng của một số người, thiết nghĩ, tết nguyên đán cổ
truyền vẫn luôn là tinh hoa của văn hóa Việt, không có gì có thể thay thế nổi
!...
Vấn đề là thái độ và cách ứng xử với
Tết Nguyên đán cổ truyền từ mỗi người, mỗi nhà !...
Thiên chức
Tình cờ, tôi xem một phóng sự về thiên nhiên hoang dã
trên truyền hình, nói về loài chim tu hú.
Câu thơ “ Khi con tu hú gọi bầy /
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần...” của Tố Hữu, gợi lên bao cảm giác
thân thương về những mùa hè vái chín, mùa thi học trò trong ký ức một thời ...
Vậy mà, tiếng
chim gọi mùa thân thương ấy, lại là tiếng kêu của một loài chim, nếu đem ra mà phân
tích từ góc độ khoa học đặc trưng loài trong sự sinh tồn của thiên nhiên hoang
dã, lại rất chi là vô duyên...
Tôi dùng từ “ vô
duyên “, thực ra chỉ là một cách nói theo kiểu tu từ mà thôi. Chim tu hú sinh tồn trong thiên nhiên hoang
dã như thế nào, thực ra, đã được gói gọn trong câu tục ngữ của người xưa, ấy là
“ tu hú đẻ nhờ “...
Chim tu hú, có tên khoa học là Endynamis
scolopacea, chuyên ăn sâu bọ, kể cả những loài sâu bọ có độc tố cao, và ăn các
loại quả chín hoang dại. Nếu chỉ có vậy, hẳn nó sẽ là loài chim vô hại, thậm
chí đáng yêu. Song cái đáng bàn là đặc tính “ đẻ nhờ “ của nó. Để thực hiện được việc này, chim trống phải rình
mò, rồi đánh lạc hướng và canh cho con mái thực hiện hành vi đẻ nhờ. Thường
chúng chọn tổ làm sẵn của các loại chim chích, chim sâu nhỏ bé và hiền lành.
Con mái có thể rỉa ăn trứng của chim chích rồi đẻ trứng của nó vào đấy. Về hình
thù và kích cỡ bên ngoài, trứng của chúng na ná nhau, nên chim chích bố mẹ
không thể phát hiện ra được trứng lạ. Thời gian nở cũng cỡ gần nhau, thậm chí
trứng tu hú còn nở trước. Khi chim tu hú non mới nở ra, nó có thể đủ sức gồng
mình để hất những quả trứng chim chích chưa kịp nở, hoặc cả chim chích non nếu
nở cùng, bắn tung ra khỏi tổ rơi xuống đất. Vậy là tu hú non độc chiếm sự nuôi
dưỡng của chim chích bố mẹ để lớn nhanh như thổi. Trong khi đó, đôi chim chích
bố mẹ cứ hằng ngày cần mẫn kiếm tìm sâu bọ tha về mớm nuôi những con tu hú non,
kẻ đã giết chết những con đẻ của mình...
Câu hỏi đặt ra là, khi còn là trứng, hoặc còn là chim
non mới nở, chim chích bố mẹ không phát hiện ra kẻ giả danh, song khi tu hú non
lớn hơn, mọc lông cánh, có kích cỡ to lớn chim chích bố mẹ đến mấy lần, chẳng
lẽ chúng lại không phát hiện ra chăng, mà lại cứ mù quáng chăm bẵm ?... Câu trả
lời nhường về thuộc tính thiên nhiên, ấy là thiên chức là cha làm mẹ của phần
sinh vật, giống nòi trên trái đất này...
Con người cùng vậy. Cha mẹ sinh con đẻ cái, là thiên
chức, nuôi dạy con cái lớn lên là thiên chức... Và cũng có những đứa trẻ sau này
lớn lên sinh hư hỏng, thành kẻ thủ ác, phạm tội bất lương... Có cha mẹ nào lại
muốn con như vậy... Đã có những bậc cha mẹ, khi đứa con minh mang nặng đẻ đau,
dầy công nuôi dưỡng, vun đắp, sau này trở thành kẻ bất lương, thủ ác. đã đau đớn mà than rằng “ biết thế này, tao bóp chết mày từ trong
trứng, từ lúc còn đỏ hỏn “...
Là than vậy thôi, khi người ta bất lực, không thể làm
gì khác, chứ nếu cho làm lại, tin rằng, sẽ chẳng một ai đang tay...
Là bởi thiên chức, hay niềm hy vọng vào sự tốt lành chăng
?...
Thời gian không trở lại
Không hiểu sao, tôi thường xúc động mỗi khi nghe câu
hát từ bài hát nền của bộ phim truyền hình dài kỳ “Phía trước là bầu trời”: “ Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy nhớ
ước muốn cho thời gian trở lại…”.
Bộ phim ấy làm về đề tài sinh viên, được ra mắt công
chúng cách đây cũng khá lâu rồi. Tôi đã xem một cách chăm chú và thích thú với
các nhân vật và nhiều tình tiết của bộ phim… Tôi yêu thích , không hẳn vì sự
thành công của bộ phim đó, hay sự xuất sắc của một vài vai diễn, nhân vật … mà
vì ở đó, tác giả đã gửi gắm khát khao được sống, làm việc, yêu thương, được
khẳng định mình, được cống hiến tuổi trẻ, sức sáng tạo… và cả được hưởng thụ
với ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Tôi thích bài hát nền với ca từ và
giai điệu giản dị, trong sáng, khát khao, da diết và có gì đó tiếc nuối …
Tôi thích nó, còn đơn giản bởi, tôi đã
thực sự cảm nhận được cái mất mát không tài nào lấy lại được của quãng thời
gian đã qua trong cuộc đời mình và những người thân mà tôi yêu quý…
Ước muốn cho thời gian trở lại … Không
đâu, các bạn của tôi ơi, thời gian không trở lại…
Tôi nhớ đến sự mê dụ trong văn chương
của nhà văn Marcel Proust, thiên tùy bút "Xứ sở", khúc ngẫu hứng của
tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã
mất"( Retrouvé le temp ), mà
ở đó, tác giả bộc lộ khát vọng sống và sự tiếc nuối về thời gian đã mất …
Tôi lại nhớ đến một câu thơ của người
bạn văn chương Ngô Tự Lập – “ Gió đã mang
đi ngày hôm qua “ – bài thơ ấy lấy cảm hứng từ bài hát nổi tiếng Yesterday…
Tôi có người bạn từ thưở học trò là
Việt An, hiện anh sinh sống tại Sài Gòn. Tôi từng chia sẻ và đồng cảm với anh bạn
Việt An, khi anh ghi cảm nhận trong bài viết trên blog Ngẫm & Viết của tôi : “ Với
tôi, tôi vẫn muốn thời gian trở lại. Trở lại không phải cho tôi, mà cho cha mẹ
tôi. Tôi ước gì cha mẹ tôi trở lại tuổi 60, để tôi có thể phá bỏ căn nhà cũ,
xây căn nhà mới nhỏ xinh và đầy đủ tiện nghi dành cho cha mẹ”.
Tôi
với Việt An chơi với nhau từ tuổi học trò. Khi là sinh viên, tôi cùng với người
bạn đã đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng lên tận Phủ Lỗ-Núi Đôi thăm Việt An
vào một ngày chủ nhật. Việt An và bạn bè cùng lớp anh, khi đó, đã báo thêm mấy
suất cơm nhà ăn, và còn dành tất cả những thứ gì ăn được để tiếp đãi chúng tôi
một bữa cơm đạm bạc thời nghèo khó. Tôi còn nhớ như in bữa cơm quây quần ấy,
trong căn phòng chật chội của ký túc xá tranh tre nứa lá trên vùng đất sỏi khô
cằn miền trung du, đám sinh viên vừa ăn, vừa trò chuyện thân mật, trêu đùa
nhau, bốc phét, kể chuyện yêu đương và đọc thơ
( thơ người, thơ mình , nói tóm
lại là tất cả những gì mà mình thuộc )… Rồi đó, là những năm lập thân, lập
nghiệp khổ ải và khao khát. Mấy đứa chúng tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa vào bộ
đồi, đi chiến trường Campuchia và Trường Sa, Việt An cũng vào bộ đội và anh
công tác ngay trong sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi cầm tấm bằng kỹ sư canh nông và
có đến 7 năm trời lang bạt khắp nẻo đồng bằng Tây Nam Bộ; một người bạn nữa thì
làm báo, cũng lang thang đây đó… Những lần từ miền Tây Nam Bộ đi phép ra Bắc,
tôi hay ghé thăm Việt An. Lại báo cơm nhà bếp đơn vị, nhưng lúc ấy, dù nghèo
nhưng Việt An đã có đồng ra đồng vào, đã có thể chạy ù ra quán, mua thêm chút
thức ăn tươi và xị đế , nhâm nhi với nhau để có cớ mà ngẫu hứng đọc thơ… Càng
nghèo khó, gian khổ truân chuyên thì càng yêu thơ… Cũng là bởi, chỉ có thơ,
ngoài thơ ra, không có gì khác, và mình biết lấy gì ra, để xoa dịu, an ủi lòng
mình đây, để bộc lộ khao khát, để đau đáu văn chương và để tiếc nuối cơ chứ ?
!... Cũng vì thiếu thốn, nên ngày ấy, Việt An đâu có thực hiện được mong muốn
xây nhà mới cho cha mẹ anh, phải vậy không Việt An ?
Tôi lại nhớ, những ngày sống lầm lụi
giữa đồng bằng bạt ngàn và cô quạnh nơi vùng đất biên giới Bảy Núi, An Giang,
đêm đêm nghe tiếng muỗi bay và đâu đó tiếng vọng cổ não nề của khách thương hồ trên
dòng kinh Tám Ngàn về miệt Hà Tiên … Lại cũng làm thơ. Thơ cho mình và thơ cho
người yêu trong tâm tưởng, vô vọng mãi xứ Bắc, Hà thành …
Tôi lại nhớ, những ngày chạy đôn đáo
xin việc, chuyển công tác, đêm về ăn đậu ngủ nhờ nơi gia đình người bạn, trong
căn phòng có 9 mét vuông, như chuồng chim trên nóc chung cư P16 Thuỵ Khuê, Hà Nội …
Tôi nhớ lắm và thấm thía ánh mắt buồn
phiền của mẹ tôi, khi tôi vẫn cứ lang bạt đây đó, mãi chưa ổn định công việc và
lập gia đình để mẹ yên lòng với tuổi già !...
Vâng, và lẽ dĩ nhiên, tôi nhớ… những
bóng hồng, những người phụ nữ đi ngang qua, lướt nhanh qua tuổi trẻ của mình…
Và nữa … Nữa …Tất cả còn trong tôi,
chỉ có thời gian là mất đi vĩnh viễn mà thôi…
Ơi Việt An và những người bạn thuở
sinh viên của tôi, “ nếu có ước muốn
trong cuộc đời này, hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở lại, bên nhau cháy bỏng
…”. Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại .
Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy
thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, " Gió đã mang đi ngày hôm qua "?!...
Về miền hoa ban trắng
Đi Tây Bắc, lần nào cũng vậy, dù nhàn tản thăm thú hay
vội vàng công việc, đều có cái thú riêng của nó. Thường là chuyến đi vào dịp
cuối năm, hay bị vội vàng hơn những chuyến đầu xuân.
Nhớ là, có lần, đã giáp tết, công việc bề bộn, cứ bị
cuốn theo cái sự gấp gáp, náo nức của không khí tết, nên ngoài việc ngó nghiêng
tìm mua lấy một cành đào rừng, thì chẳng còn thời gian đâu mà thăm thú... Lần
vào dầu xuân, đã chủ định, rảnh rang hơn. Chẳng gì thì cũng vừa mới hết tháng
ăn chơi, vả lại mùa xuân hãy đang còn kia mà. Nhớ dạo thu năm ngoái, anh bạn
đồng nghiệp, là chủ tịch Hội nhà báo tỉnh Điện Biên nhắn nhe bằng lời mời hấp
dẫn : “ Mong được đón anh ở Điện
Biên, nhưng hẹn anh vào mùa ban xuân tới “. Vậy mà mùa ban đến, định theo
lời mới mà lên, thì anh chàng lại bay vào
Đúng hôm lên đường thì một đợt gió mùa mạnh tràn về.
Suốt dọc đường, từ Hòa Bình, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Hát Lót lên Sơn La,
mưa rét tầm tã, rả rích một điệu ru rín buồn buồn của trời đất, trong khi ấy,
thì cập nhật thông tin toàn là tuyết rơi dày gây khó khăn cho công tác cứu hộ
động đất, sóng thần ; chuyện phun nước làm mát lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản
; tin chuẩn bị đánh nhau to ở Libya... Lởn vởn trong đầu, ý nghĩ về một đợt lũ
tiểu mãn có thể giảm nguy cơ cháy rừng, và cung cấp một lượng nước đáng kể cho
cây cối và tích thêm nước cho thủy điện, khiến cho lòng người có cái để mà vui
...Những cung đường Tây Bắc, mấy năm qua đi lại, đã thành quen thuộc, khúc nào
quanh co nguy hiểm, mùa nào hay sương mù dày đặc, chỗ nào có bản Mông, bản
Thái, mùa nào có hoa gì nở ... Ấy vậy, trời mưa rét, cũng mất hết cả phương
hướng. Lúc nghỉ chân tìm chén trà nóng ở gần thị trấn nông trường Mộc Châu,
lạnh run người, thì ra nhiệt độ xuống tới 4 độ C. Xe cứ lầm lụi trong
mưa, chốc chốc một cây gạo hoa trổ đỏ ối cả cây trơ vơ bên sườn dốc hiện ra
trong màn mưa. Xe đông người, vậy mà một cảm giác cô đơn len lén dâng lên.. Mấy
ngày, ngoài sự hứng khởi trong thực thi công việc, chút thăng hoa xen lẫn
cảm giác trống rỗng khi nghiêng ngả trong các cuộc rượu tại bản Thái, vẫn còn
sự chờ đợi về màu hoa ban trắng rừng núi Tây Bắc. Lại Thuận Châu,
rồi vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo. Đã thấy lác đác những cây ban hoa trắng,
nhưng ủ rũ trong mưa rét và sương giá. Cả thành phố Điện Biên chìm trong mưa
rét. Đêm, nằm bẹp trong phòng kín Nhà khách tỉnh, nghe mưa rơi đều đều ngoài
trời, loáng nhoáng màn hình ti vi là những cảnh tuyết dày ở Sa pa cùng các
gương mặt hớn hở của người lần đầu thấy tuyết, cảnh người dân Nhật Bản đang vật
lộn với giá rét tuyết phủ kín trong đống đổ nát khổng lồ của động đất và
sóng thần. Có gì đó hơi bất nhẫn...
Ngủ vùi trong hơi men và những xúc cảm đan xen, chộn
rộn. Lại mơ màng về một màu hoa ban trắng ...
Vâng, đấy là cảm xúc về một miền hoa ban trắng của
những năm trước, nó đã thuộc về ký ức, dù chưa xa. Đến mùa ban này, tôi cầm
trong tay cái giấy mời của Ban tổ chúc Lễ hội hoa ban Điện Biên. Có gì đó háo
hức. Ngay như Sơn La, mặc dù không phải là xứ sở của hoa ban, thì ở thành phố
đó đây, cũng đã bắt gặp những băng-rôn quảng bá về Lễ hội hoa ban, và ngẫu hứng
thay, tôi đã chộp được mấy bức ảnh hoa ban khá ưng ý từ vài ba cây ban cô lẻ
mình đầy hoa trắng tinh trong nắng chiều xuân óng ả. Lại vượt đòe Pha Đin, giờ
đã hạ cốt thấp hơn nhiều so với tuyến đường trên cao xưa kia “ ngàn thước lên
cao ngàn thước xuống” của những chiến binh Tây Tiến. Khi băng ngang quê hương
của người anh hùng thiếu niên Vừ A Dính thời chống Pháp, hoa ban ven đường, và
trên những vạt đồi đã nhiều hơn. Càng gần thành phố Điện Biên, thủ phủ của miền
hoa ban trắng, dọc đường vào, bắt gặp những cây ban mới trồng theo hàng lối quy
củ. Hẳn là địa phương chủ động phát triển loài cây hoa này nhằm củng cố thương
hiệu miền hoa ban cho mình nhằm phục vụ cho mục đích du lịch sau này.
Thành phố Điện Biên, đang xuân mà nóng như mùa hè. Cảm
thấy hơi vị khó chịu đặc trưng của gió lào trong không khí. Tuy không ngập
trong màu trắng hoa ban thì đó đây, trên đường phố, các điểm tham quan như Đồi
A1, Nghĩa trang Điện Biên, khu di tích Hầm Đơ-cát, và bờ sông, khe suối, màu
ban trắng đã dày hơn. Ai đó, lý giải cho việc đúng vào dịp lễ hội hoa ban mà
ban nở lại không nhiều, rằng trước đó mấy ngày, một trận giông lốc mưa lớn khi
gió mùa đông bắc tràn về đã làm phàn lớn số cây ban nở hoa bị rụng hết, rằng
sau trận giông lốc, đường phố ngõ xóm đầy xác hoa và canh cây gãy. Nghĩ mà xót
mà thương cho lễ hội thưa vắng sắc trắng tinh khôi của hoa ban. Song rồi, bù
lại, đêm lễ hội, các tiết mục dân ca, dân vũ được trình diến khá kỳ công và đặc
sắc văn hóa phong tục vùng miền, với kết thúc là vòng xòe lớn kết nối niềm vui
của con người từ mọi vùng miền...
Chẳng hề hấn gì, trong tôi, những câu thơ lấp ló:
... Ban đang mùa mở hội
Ta lại tìm xa xôi,
ước một bàu tĩnh lặng
chỉ còn màu
hoa thôi...
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
1.
Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát.
Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt
Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo
muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và
mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn
Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.
Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê
Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ,
mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc,
trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của
Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in
riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất
lành do NXB Thanh Niên ấn
hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà
thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“
(bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương
sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao
nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê
Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư
tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài
thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt
Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình
Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể
lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài
ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca
Việt
Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao
nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều
bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ
trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ
từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông
với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế
kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ
lục bát...
Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài
nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc,
song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo
cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu
thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai
mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc
chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ,
lập ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng,
têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những
bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu,
câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi mang những nhận định trên
mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông
có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng
được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ
cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ
xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga
Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông
Chùy, Cõi xưa, Bến quê, Trở lại Ba Lòng,
Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...
Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy
rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ,
dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
Mải lo cơm đủ
áo lành
Còn đâu lúc
rỗi để thành vọng phu
( Gió đất )
Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già
( Em đi )
Tình yêu như thể chơi đề
Đợi con độc đắc lại về trắng
tay...
... Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt
tóc bỏ nhà đi tu
( Chợ tình )
Chốn quê vẹo cột vênh kèo
Ốc cam phận
ốc lại đèo kiếp rêu.
( Chợ người )
Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt
tóc bỏ nhà đi tu
Xế tà tháp lặn
vào mây
Vầng trăng
chính sử hao gày hoàng hôn
( Lời xưa )
Sau già là
cõi xa xăm
Nén hương đỏ
lửa mỗi năm đôi lần.
( Hỏi đất )
Giếng làng
mưa bão vẫn trong
Chợ quê rớt
già vẫn đong đếm đầy
( Thú quê )
Đao đình cong nỗi phế hưng
Một thời lá
rụng dửng dưng sân chùa
( Phận rùa )
Tuổi già như thể nắng hanh
Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều
( Về hưu )
Ơi người áo mũ cân đai
Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành
( Tiểu sành )
Nắm tay củ ấu
vẫn tròn
Người ơi vẫn
ngọt bồ hòn trên môi
( Chợ Mơ )
Giả vờ có ngủ
được đâu
Nằm chong
chong mắt lâu lâu lại ngồi
( Ngủ nhờ )
Ngày xưa xe lộn về Bần
Mấy phen tuột
xích quãng gần Khoái Châu
( Về Phố Hiến )
Nẻo đường bồ
bịch cong cong
Vừa lo thoát
khỏi. Vừa mong nhảy vào...
( Nẻo đường cong cong )
Bắt chồng em
có chọn anh
Như kim chọn
chỉ vá lành áo nâu
Như là đồng
đất chọn trâu
Nương cao
cũng kéo ruộng sâu cũng cày
Chọn anh như
cối chọn chày
Canh khuya
giã sắn rạng ngày đâm ngô
( Bắt chồng )
Thân cò trở
lại nghề nông
Rời cây súng
biết tay không có gì
Mấy đồng hưu
trí thấm chi
Cảnh nhà vơi
bát lắm khi mụ người
( Anh lại đi cày )
Nứa mai thưng
hở vách lều
Rừng khô xao
xác nai kêu lẻ bầy
Mưa bay như
thể sương dầy
Sàn khuya
thương ngọn nến gày lắt lay
( Gặp ở Mường Tè )...
Vẫn còn
khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ
Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình
như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây
những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh
quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
Thế cờ
nghiêng về đâu
Pháo mã thành
vô dụng
Sĩ tượng
thành thất sủng
Tốt đen cười
sang sông
( Nắng Hàm Tân )
Ai biết được
ma nào ăn cỗ
Ai dại gì
công bố chuyện đi đêm
( Vợ Ba )
Gặp bạn tình
lòng đã thấy no
Rượu chưa
nhắp lời đà có lửa
Trưa đứng
nắng bồn chồn vó ngựa
Chợ lim rim
một nửa sang chiều.
( Chợ Bắc Hà )
Đường một
chiều cứ thế tôi đi
Tôi biết dại
làm người nhụt chí
Cái đáng vứt
lại cất làm của quý
Cái phải chôn
đi lại để trưng bày
( Đường Bà Triệu )
Đâu đá lát
lên đền Tam Tổng
Lạnh khói
hương thông thốc giữa trời
Hai hộ pháp
vẫn muôn đời gác cổng
Ông Ác cười! Ông
Thiện toát mồ hôi...
... Tôi trở
về tuổi trẻ chẳng về theo
Thời gian như
nước ngầm băng hoại
Trái tim tôi
càng sống càng nghèo
( Quê ngoại )
Mùa khô Đồng
Văn trơ gió
Gió khê lời
đá thở dài
Gió như tiền
vào nhà khó
Một đời gió
thổi trần ai
( Mùa khô Đồng Văn )
v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong
tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình
thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện
nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến
ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc
đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này.
Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa
máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như :
Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh
Để êm đỡ trẻ.
Để anh đỡ già
( Hát Karaoke )
Phố làng xóa sổ nông dân
Quán quê lai
ghép công nhân nửa mùa
Lượn lờ chào
bán gọi mua
Dật dờ chai
cốc được thua với đề
( Phố Làng )
Mảnh bằng bán
tận châu Phi
Tiền lương
đếm lại nhiều khi mủi lòng
Ước mơ xé lẻ
từng đồng
Thương con
liệt sĩ lấy chồng thương binh,
Vết thương
như kẻ vô tình
Tấy lên những
lúc gia đình ăn vay.
( Vàng xám ) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể
thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông,
thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít
nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...
2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.
Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ,
đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh
nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học
Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông
lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng
chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến
nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015,
con số đã là 7.
Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như
tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ
vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật,
nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với
tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm
biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông
luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu
cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình
văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn
học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...
Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù
chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi
nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút
ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ
hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài
Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học
khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác
phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông
được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí
chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa,
uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không
riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít
nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...
Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là
bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh.
Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc
theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp
từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý
thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông
từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân
trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là
phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là
phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy,
gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách.
Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối
nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là
biến chủ thành khách, còn mình từ khách
thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý
mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo
cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê
Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia
tăng hàm lượng văn chương cho bài
biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm
hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến
thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm
phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút
chuyên ký sự khác cùng thời...
Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến
thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo
cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc
nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết
dạng này, khá thành công, như: Hoa sen,
Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng
gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...
Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm
của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn
đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì
đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi
tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương
ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo
tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...
Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy
là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh
có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông,
quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai
đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều
mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này,
tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn
dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi
gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ
lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối
hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...
Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ
Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể
loại bút ký, ký sự văn học !...
3.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu,
nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV),
tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc
của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở
58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phảI hàng
năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng
Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng).
Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ
thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ
(Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân
đội và Tạp chí Văn học (Viện Văn
học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững
chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ
ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ
phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà
thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng
Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên,
thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi
cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân
biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người
trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu
có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng
xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau
đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát
sóng, để sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.
Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho
tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ
Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được
xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng
tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên,
đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn
dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học thiếu nhi nước
nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh
giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội
Nhà văn Việt
Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có
thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người
khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông,
trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi,
việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì
phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự
lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh
thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ,
thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản
thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo
tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công
việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người
khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải
quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm
giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả
khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm
thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông
văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc
chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ
tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng
bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ...
Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân
gian. Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều,
chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ
lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo
nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình
Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người
được đồng hóa, gán với nhân vật Trạng
Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt,
Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách
minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính
thuyết phục cao. Vì vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà
dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và
hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ
song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng khư khướu nhưng viết
ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được
cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...
Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh
Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ
nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà
do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ)
Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại
một thời gắn với Đường Trường Sơn của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân
tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và
tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa
miệng thì vẫn đấy....
Sau những xã giao thông thường, bập
vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như
khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông
giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực
và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông
vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan
sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa,
vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm,
được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác
từ thời là người của nhà Đài (VOV), cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ.
Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống chung với các con. Thêm nữa, những phương
tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế
giới hàng ngày.
Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là,
mấy năm gần đây, dần tuổi cao bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về
sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh
thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi
thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với
gia đình, với cuộc đời này !...
Ra về, tôi tự hỏi, mình sẽ viết về ông sao đây ?...
Nhận xét
Đăng nhận xét