Én xuân


TRANH VŨ ĐỨC TÂN

 @@@

Đầu xuân, Duy đi công tác lên biên giới phía Bắc. Anh cùng vài ba phóng viên trẻ của các tờ báo bạn được một ngành chức năng tổ chức đi thực địa khảo sát tình hình cai nghiện thuốc phiện ở vùng rừng núi. Đến thị xã Cao Bằng, đoàn dừng lại lâu hơn bởi đây là trọng điểm của chuyến đi. 

Mấy hôm đầu đến các điểm cai nghiện tập trung, tiếp xúc với những con nghiện phần lớn đều ở độ tuổi trên dưới đôi mươi và khi hỏi chuyện, họ đều xem như chuyện hút xách là nhu cầu tự nhiên thì anh không khỏi rùng mình. Đến như anh, chỉ mắc mỗi tật nghiện thuốc lá, anh đã gặp bao nhiêu điều phiền nhiễu, nào vợ con kêu anh là “bếp than tổ ong khói um”, nào ngồi làm việc phòng máy lạnh mỗi khi hút thuốc lại phải ra ngoài hành lang, rồi lúc yếu người vừa hút vừa ho sù sụ… Sau đó, theo sự hướng dẫn của cán bộ chuyên trách sở tại, đoàn của Duy xuống các cụm dân cư ở vùng ngoại ô thị xã xem xét việc cai nghiện tại cộng đồng. Mọi người dừng trước một căn nhà mái bằng nhỏ và xinh xắn. Người cán bộ sở tại giới thiệu rằng chủ nhà là một người vừa cai nghiện đã dứt cơn, hiện đang ở trong thời kỳ phục hồi sức khỏe. Chủ nhà mới ngoài hai mươi chút ít. Anh ta pha trà mời mọi người. Theo thói quen nghề nghiệp, không đợi làm xong các thủ tục xã giao ban đầu, Duy bấm nút chiếc máy ghi âm nhỏ và hỏi chuyện luôn bởi anh hiểu như thế câu chuyện sẽ thoải mái hơn, hiệu quả hơn. Trong lúc anh hỏi chuyện, mấy cậu phóng viên trẻ tản đi quanh nhà. Thì ra, họ đang hỏi chuyện cô vợ chủ nhà ở buồng trong. Lúc anh bước vào thì liền đó, mấy ánh đèn flash nhoáng lên. Anh nhẩm bụng, mấy cậu này ranh mãnh thật. Trong lúc anh chồng mải nói chuyện với anh, các cậu đã tìm được cô vợ, thuyết phục cô để chụp mấy pô ảnh cảnh cô đang cho con bú, tạo ra một xen tuyệt vời về chủ điểm hạnh phúc gia đình. Xong việc, cô vợ trẻ bế đứa con mới sinh được ba bốn tháng bước ra chào tiễn khách. Duy hơi sững người. Người mẹ trẻ này có khuôn mặt khá xinh xắn, đôi mắt to thoảng chút u buồn trước tuổi và mái tóc đen dày, xoăn tự nhiên để dài đến eo lưng, được tết thành chiếc đuôi sam nặng trĩu. Từ gương mặt, ánh nhìn đến dáng vóc cô đều gợi lên trong Duy về một thiếu phụ mà anh đã tình cờ gặp gỡ cũng tại thị xã địa đầu này từ mười lăm năm trước. Cô gái hôm nay và thiếu phụ năm trước giống nhau đến lạ lùng. Chẳng lẽ, hai người là mẹ con của nhau? Có thể lắm chứ. Ngày ấy, người thiếu phụ cũng có một đứa con gái chừng năm, sáu tuổi, và bây giờ cũng bằng chừng này. Duy định hỏi cô gái một vài câu, song anh chợt nhận ra, cho đến lúc này anh cũng không biết tên thiếu phụ năm trước tên là gì…


     *

     * *

           gày ấy anh còn rất trẻ, tốt nghiệp Tổng hợp văn xong là anh chuyển sang bộ đội. Đơn vị của anh đóng ở Ba Bể. Một lần hành quân dã ngoại và luyện tập tìm địa hình, cả đơn vị từ nơi đóng quân ngược lên thị xã Cao Bằng. Đường đi gieo neo hiểm trở. Gần tới thị xã thì trời đã tối. Đêm mùa đông sập xuống nhanh chóng, sương giăng mờ mịt. Toàn đơn vị được lệnh tản ra và mỗi người tự tìm nơi nghỉ đêm trong dân. Lúc đầu anh hơi lo vì nghĩ rằng không biết mình có tìm được nhà nào xin ngủ nhờ hay không, hay là đành ngủ ngoài phố vậy. Chợt anh nhớ ra, cùng khóa học với anh có một cậu người thị xã này, anh sẽ tìm nhà cậu ta để ngủ nhờ. Nhưng rồi anh tìm mãi không thấy, bởi anh chỉ nhớ mang máng tên phố, vả lại việc tìm nhà lúc đêm hôm ở cái thị xã miền núi sau chiến tranh này thật chẳng khác gì việc tìm kim đáy bể. Anh mệt mỏi quẳng ba lô và bệt ngay xuống đất vừa thở vừa nghĩ. Già nửa thị xã mất điện tối om om. Ánh mắt anh bắt gặp ánh đèn dầu hỏa le lói lọt qua khe cửa của một căn nhà phía trên cao cách nơi anh ngồi không xa. Anh nhẩm bụng, đánh bạo tìm đến ngôi nhà đó xin ngủ nhờ. Quả quyết vậy, anh đeo ba lô lên vai mò đường đi. Rẽ phải rồi rẽ trái mấy lần, anh tìm được tới chân bậc đá. Lại lần sờ tay, leo một hồi theo các bậc đá, anh mới tới sân nhà. Anh đứng thở giây lát, trấn tĩnh và khẽ gõ cửa. Không thấy tiếng người, thưa anh lại gõ. Lần này, anh nghe tiếng phụ nữ hỏi ra: “Còn biết đường mà về nhà à?”. Anh hiểu là người trong nhà nhầm anh với một ai đó, song anh cũng không biết nói thế nào, bèn gõ cửa thêm. Người phụ nữ cất tiếng nửa giận dữ, nửa ấm ức: “Sao anh không đi hẳn đi… Đi khuất mắt cho mẹ con tôi được yên”. Trong nhà, người phụ nữ vỡ tiếng khóc. Anh định lên tiếng cải chính nhưng tự nhiên nghẹn lại. Từ lâu lắm rồi, khi anh còn bé, đã có lần anh thấy mẹ anh khóc như vậy, đó là lần bố anh thua bạc hết cả số tiền mấy mẹ con anh dành dụm để sắm Tết và mua quần áo mới cho anh và lũ em. Anh cay cay nới sống mũi. Người phụ nữ đã bớt khóc, chỉ còn tiếng thổn thức khe khẽ. Anh ghé vào khe cửa nói nhỏ: “Chắc chị nhầm tôi với anh nhà… Tôi là bộ đội, đi hành quân, lỡ độ đường, xin gia đình cho nghỉ nhờ qua đêm”. Người phụ nữ trong nhà hốt hoảng: “Ấy chết… Tôi nhầm, tôi xin lỗi”. Im lặng một chút, chị ta bảo: “Tôi không dám cho anh nghỉ nhờ đâu. Đàn ông vắng nhà… Không được… Ngộ nhỡ!...”. Anh lắp bắp: “Tôi là bộ đội thật mà!... Còn như, chị thấy phiền thì tôi đi vậy… Không sao cả. Tôi sẽ tìm được nhà khác cho ngủ nhờ”. Ngần ngừ một lát, anh chào: “Thôi tôi di nhé”. Anh quay người, lần tìm bậc đá trở xuống. Chợt sau lưng anh, tiếng chị ta gọi: “Anh gì ơi! Đừng đi nữa… Anh vào nhà đi, thế nào tôi cũng thu xếp được mà”. Anh định đi để không làm phiền chị ta nhưng nghe tiếng gọi thân thiết quá chừng, anh đành quay lên. Người phụ nữ đã mở tung cửa, tay chị cầm đèn soi cho anh bước vào. 

Sau những câu xã giao, chị lấy nước cho anh rửa mặt, rồi pha nước cho anh uống. Chị hỏi anh đã ăn chưa, anh từ chối nhưng chị vẫn ép anh ăn một bát cơm nếp sắn. Vừa ăn, anh vừa ngầm quan sát, căn nhà tuy nhỏ nhưng gọn ghẽ. Nhìn chiếc bàn con kê góc nhà, trên để mấy quyển sách và tập giáo án, anh hiểu chị là giáo viên. Đứa con gái của chị thấy người lạ cứ nem nép bên mẹ, thỉng thoảng lại khẽ nhõng nhẽo điều gì đó làm mẹ nó gạt đi. Anh hỏi chuyện và đùa với nó nhưng nó chỉ nhìn anh không nói gì. Mọi việc xong xuôi, hai người ngồi bên ngọn đèn và chẳng biết nói chuyện gi cả. Lúc này anh mới có điều kiện ngắm kỹ, chị còn khá trẻ và có lẽ chỉ cỡ tuổi anh hoặc nhỉnh hơn đôi chút. Chị có khuôn mặt vẻ phúc hậu. Nhìn chị, anh nghĩ sao người trông phúc hậu lại sớm vất vả vậy. Anh hiểu người chồng của chị chắc mắc mớ chuyện gì đó và đã bỏ nhà đi đâu một thời gian vì thế mới có chuyện nhầm lẫn ban đầu. Anh nhìn đồng hồ tay, đã gần nửa đêm rồi, chẳng nhẽ cứ ngồi mãi thế này, anh bèn giục chị đi ngủ. Cả nhà chỉ có một chiếc giường to, chị áy náy vì chưa biết để anh ngủ đâu thì anh đã lôi từ ba lô ra chiếc võng và tìm nơi để mắc. Chiếc võng của anh mắc song song với chiếc giường nơi mẹ con chị nằm và chỉ cách nhau một tầm với. Sau khi anh ngả lưng xuống võng, chị mới hãm nhỏ ngọn đèn dầu, đặt lên bàn và vào màn nằm với con. Anh không ngủ được, nghĩ về cảnh ngộ của mình lúc nãy và bật cười khẽ. Chị cũng không ngủ được bèn hỏi sang: “Anh cười gì thế? Chắc cười chuyện tôi nhầm anh với nhà tôi lúc nãy?”. Anh lại cười: “Ồ không, tôi đang nghĩ là nếu như chồng chị về nhà lúc này thì sẽ thế nào nhỉ?”. Chị không trả lời, lát sau khẽ thở dài. Anh biết mình vô duyên nhỡ lời. Song quả nếu như chồng chị ta về nhà đêm nay thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lại nghen tuông, nhầm lẫn chưa biết chừng đánh nhau cũng nên. Nghĩ rồi anh thấy lo lo. Chợt chị lên tiếng: “Anh nói quả có lý… Anh cũng chưa ngủ, hay ta nói chuyện gì đi, tôi không ngủ được”. Anh đồng ý, chị bảo: “Anh nói thế làm tôi làm tôi sinh lo. Ngộ nhỡ nhà tôi về, thật khó mà giải thích. Tình ngay lý gian…”. Anh hỏi: “Vậy anh ấy đi đâu bấy lâu nay?”. Chị lại thở dài: “Nói ra sợ anh chê cười. Xấu chàng thì hổ ai… Nhưng mà tôi cũng không có ý định giấu anh làm gì cả. Có lẽ, lúc này nói ra được với anh, không phải cầu lấy chút cảm thông của anh, mà lòng tôi nhẹ đi được chút nào chăng?”. Và chị kể. 

Chị là người Kinh ở dưới xuôi theo gia đình đến đây lập nghiệp từ khi chị còn bé. Chị học trung cấp sư phạm và được điều động về một xã vùng ven thị xã dạy cấp một. Chồng chị bây giờ là người Tày gốc xã đó nhưng ra thị xã làm công nhân. Anh ta to khỏe, đẹp trai và tính tình rất thực thà. Hai người gặp nhau và yêu nhau. Lúc đầu chị còn ngần ngại nhưng anh ta si mê chị và bỏ bê cả việc làm để suốt ngày bám theo chị. Hai người thành hôn rồi thì chị mới biết là anh ta có tật nghiện thuốc phiện. Những ngày đầu, chị khuyên can, anh có bớt hút nhưng không bỏ được. Chị nghĩ, dần dà rồi sẽ giúp anh bỏ hẳn. Và năm tháng cứ thế đi qua. Đứa con ra đời. Chị trút tình thương vào đứa con và thầm hi vọng, vì hạnh phúc gia đình chồng chị sẽ dứt được nghiện ngập. Tiền lương của hai vợ chồng chỉ tùng tiệm đủ để sống, thế nhưng phải chi thêm vào khoản nghiện hút của chồng nên sinh túng thiếu. Anh ta thề sẽ quyết chí làm giàu. Một thời gian sau, anh ta đem về nhà khá nhiều tiền và xây căn nhà này. Chị hỏi thì anh ta chỉ cho biết là có buôn bán thêm. Và một lần, do tình cờ, chị biết chồng chị tham gia vào một nhóm buôn thuốc phiện lậu. Gia đình sinh lục đục, rạn nứt. Anh ta bỏ việc, suốt ngày đi đâu đó, hút xách và lâu lâu lại làm một chuyến thuốc kiếm tiền để hút. Và đến lúc ấy, anh ta đã bỏ nhà đi lâu hơn một tháng rồi…

Chị kể mà rân rấn nưới mắt. Anh cảm thông nhưng không biết khuyên giải thế nào. Vả lại, lúc ấy có khuyên thì cũng chẳng khác nào khía sâu thêm nỗi buồn phiền cay đắng của chị. Chợt trong nhà đèn dầu tù mù, anh nhìn nơi hốc tường góc nhà có một vật gì trắng xám mông mốc, anh bèn hỏi để lảng chuyện khác, để chị quên chuyện buồn. Chị bảo: “Tổ chim én đấy”. Anh ngạc nhiên thực sự: “Chim én. Sao chim én lại làm tổ trong nhà thế nhỉ? Tôi không tin!”. Chị cãi lại: “Thật mà. Có một đôi én làm tổ ở đó đã ba năm nay rồi. Năm nào cũng vậy, cứ đông về là chúng bay đến phương nam, đến độ cuối đông, xuân sắp về là chúng lại quay về đây. Chúng đúng hẹn lắm. Có lẽ chỉ ít ngày nữa là chúng trở về… Đôi chim quyến luyến, ríu rít nhau lắm!”. Anh chẳng biết nói gì, miệng lưỡi của chàng cử nhân văn khoa như cứng lại. Một lúc lâu anh mới thốt lên: “Thiên nhiên thật là kỳ diệu”. Chị đáp theo: “Vâng… Sao mình là người mà không bằng được chim!”. Nghe chị, anh rưng rưng. Chị bảo: “Thôi ta ngủ đi. Ngày mai chắc anh còn phải hành quân… Còn tôi cũng phải lo bao nhiêu là việc”. Nói rồi chị trở mình quay mặt vào trong. Im lặng. Anh lén đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy qua bức màn, mái tóc dày quăn của chị xòa trên gối, đường cong từ bờ vai chạy xuống eo, vòng lên hông và thuôn về phía chân thật mềm mại. Anh lẩm bẩm trong miệng: “Con người thật là kỳ diệu”…

Đã nghe tiếng chị thở đều đều. Anh nằm ngửa trên võng, nhìn mông lung lên trần nhà. Một tình cảm vừa thương xót, cảm thông, vừa rạo rực khát khao dâng lên trong lòng. Anh đặt hai tay lên ngực mình nén xuống, nhè nhẹ, nhè nhẹ,… Và anh ngủ lúc nào không biết. 

Anh và chị nắm tay nhau chạy trên bờ sông. Bạt ngàn những dâu. Dâu lúc lỉu quả. Những quả dâu to và chín mọng. Anh vít một cây dâu to, hái lấy mấy quả dâu chín. Anh xòe lòng bàn tay nhón từng quả đưa vào miệng chị. Chị vừa nhai vừa trêu đùa anh. Nước dâu ứa ra bên khóe miệng chị tím xịm. Anh ghé môi khẽ liếm chút nước dâu trên khóe miệng chị và thấy ngọt ở đầu lưỡi. Chị vùng ra, chạy ào xuống mép nước, anh vùng đuổi theo. Chị lội xuống nước và khi anh ào tới nơi thì chị chụm hai tay té nước vào mặt anh. Anh nhao xuống, chị quay người lội ra giữa dòng nhưng nước sâu không lội được. Chị chới với và anh nhoài người ra ôm chặt lấy chị. Anh xốc chị lên. Tóc chị ướt đẫm, quần áo dán vào người. Khuôn ngực nở hô cao của chị chạm vào ngực anh. Và anh ôm ghì lấy chị… Anh thấy mình bồng bềnh, khoan khoái…

Và anh mở mắt. Vật anh nhìn thấy đầu tiên là tổ chim én nơi góc nhà. Anh bần thần giây lát nghĩ xem mình đang ở đâu. Anh hiểu ra. Anh khẽ cười. Chợt anh nhớ là chị đang ngủ ở chiếc giường bên cạnh võng của anh, bèn nhìn sang. Chị đã không còn nằm ở đó, chỉ còn đứa bé gái con chị. Anh nhìn qua khe cửa ra sân, trời đã rạng. Anh ngồi dậy và ra khỏi võng. Nhìn quanh quất, cửa trước vẫn chốt trong. Thì ra căn nhà còn có cửa hậu. Anh khẽ đẩy, cánh cửa hậu mở ra và anh bước xuống mảnh sân sau con con. Trước tầm mắt của anh là dòng sông. Đúng là sông Bằng rồi. Dòng sông mùa cạn nước thu lại thành một dải manh mảnh. Hai bên bờ cũng toàn là dâu. Những cây dâu thân cao gày khẳng khiu, loáng thoáng búp lá nõn. Anh nhìn kỹ nhưng chẳng thấy có trái dâu nào như giấc mơ đêm qua. Anh ngơ ngần chẳng hiểu chị chủ nhà đi đâu. Và anh ngửi thấy mùi khói bếp, rồi mùi ngô nướng thơm thơm. Anh nghĩ, chị ấy đây rồi. Và anh đi về phía căn bếp nhỏ, ở góc sân sau. Đến bên cửa bếp, anh dừng lại nhìn vào. Chị đang ghé đầu thổi lửa. Những bắp ngô hồng lên trên than. Không quay lại, chị hỏi nhỏ: “Anh đã dậy rồi đấy à?”. Anh thấy vui vui trong lòng và bông lơn: “Ồ, tôi ngủ say quá. Sợ không biết có ngáy làm chị mất ngủ không?”. Chị cũng tươi tỉnh: “Không đâu… Chắc anh mơ thấy điều gì hay lắm… Buổi sớm tôi dậy nhóm lửa, đi ngang qua võng thấy anh khẽ cười trong giấc ngủ… Anh thật hạnh phúc!”. Chị cười. Anh cảm thấy thế. Anh nói: “Tôi mơ thấy…”. Chỉ chút nữa là anh bật ra câu nói: “Mơ thấy chị”, nhưng anh kịp dừng lại, và anh vội chữa: “Mơ thấy đôi chim én trở về”. Và thật kỳ lạ thay, tai anh nghe vẳng đâu đó tiếng chim chíp chiu… 

Chị tiễn anh. Trong ba lô của anh có mấy bắp ngô nướng. Anh đi chậm rãi từng bậc đá. Xuống tới chân dốc vườn. Anh quay nhìn lên. Chị vẫn đứng ở nơi đầu dốc. Và cách chị chút ít là cây đào lổ trổ đôi ba nụ phớt hồng. Anh nhìn chị trân trân. Chị đưa bàn tay lên ngang bờ vai khẽ vẫy. Anh thấy mình phấn khích, bắc tay làm loa với lên: “Đôi chim én sẽ trở về…!”. Anh nhìn chị lần cuối và quay lưng bước đi, miệng lẩm bẩm: “Đôi én xuân sẽ trở về. Trở về…!”.

Đã từng ấy năm rồi. Anh không biết đôi chim én có trở về đúng hẹn hay không? Ừ mà không biết có phải đúng đó là tổ chim én thật không, hay chị chỉ bịa ra thế để lúc ấy có chuyện mà nói, để chị tạm quên đi cảnh ngộ hiện tại của mình, tự xoa dịu lòng mình, và để anh hiểu là chị vẫn sống rất lạc quan?

Với anh, cái đêm ấy thật đặc biệt mà cũng lại bình dị. Thực ra, chỉ là chuyện của một chàng lính thư sinh lỡ độ đường ngủ nhờ nhà một thiếu phụ có cảnh ngộ éo le. Cái đêm ấy sẽ chẳng là gì nếu như không có câu chuyện về đôi chim én đi trú đông cứ đến độ xuân sang lại ríu rít trở về chốn cũ; nếu như không có giấc mơ về bãi dâu ven sông, và cảm giác va chạm da thịt; nếu như không có những bắp ngô nướng thơm lừng mà chị nướng vội để nhét vào ba lô của anh; và nếu như không có cây đào lác đác trổ hoa nơi đầu dốc ngõ vườn… Anh ra đi mang theo trong lòng niềm hứng khởi về cuộc sống. Còn chị, chị sẽ lập tức phải trở về với đời sống thực tại gia đình có người chồng nghiện ngập… Gía như anh không tới, không xóc vào cái đời sống bế tắc của gia đình chị thì có phải chị cứ cam tâm sống như vậy, chịu đựng như vậy một cách bình thản không! Liệu sự xuất hiện của anh có đem đến cho chị một liều thuốc phiện hay không? Hút một lần rồi để không bao giờ có nữa. Đấy là anh cứ tự huyễn hoặc vậy, chứ có thể với chị, câu chuyện đêm ấy chỉ là một cơn giớ từ sông Bằng thoảng qua. Thậm chí, có khi chị còn buồn cười vì đã làm cho anh tin một cái tổ tò vò vớ vẩn nào đó là tổ chim én, tin rằng đôi én xuân là một sự kỳ diệu của trời đất!...

Duy cứ tự lục vấn mình như vậy. Suốt dọc đường từ Cao Bằng trở về Hà Nội, anh luôn bị ám ảnh rằng người mẹ trẻ anh vừa gặp là cô bé con thiếu phụ năm nào. Nếu đúng, thì trời đất thật trớ trêu. Nhưng dẫu sao, anh chồng trẻ của ngày hôm nay đã biết nhấn phanh đúng lúc trên cái dốc trượt thăm thẳm của sự đam mê bệnh hoạn. 

Một cú xóc nảy người. Xe đang phóng nhanh vượt qua chiếc ổ trâu giữa đường không kịp giảm tốc độ. Mấy cậu phóng viên trẻ đang ngủ gà ngủ vịt bừng tỉnh hét lên, rồi sau đó câu chuyện giữa họ lại râm ran. Anh nhìn ra bên ngoài, một cây đào phai chơ vơ bên mỏm đá rìa đường, hoa nở bung, cánh phớt hồng rắc tơi bời trong tiết muộn…




Nhận xét