Đi tìm thi pháp thơ Trần Đăng Khoa (Bản sửa lần 5)

 

Nhà thơ Vũ Quần Phương & nhà thơ Trần Đăng Khoa 

( Photo by Nguyen Chu Nhac )

@@@

         Từ quãng thời gian tôi làm biên tập trang Web của Hội Nhà văn Việt Nam (Vanvn.net) đến sau này làm biên tập viên ở Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, do nhà thơ Trần Đăng Khoa làm Tổng biên tập, tôi hay lai vãng phòng làm việc riêng của ông ở trụ sở Hội Nhà văn tại số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Ở đay, tôi thường chứng kiến các cuộc đàm thoại văn chương của Trần Đăng Khoa với các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học khác. Song thú vị nhất vẫn là các cuộc chuyện trò tay đôi giữa ông với nhà thơ Vũ Quần Phương.  Đã nhiều lần, tôi nghe hai ông bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,... và về thơ của chính các ồng. Tôi nhớ, có lẩn, hai người bàn rất say sưa về thơ Tố Hữu, đặc biệt về nhạc điệu, ngôn ngữ hình ảnh trong một số bài thơ (Khi con tu hú gọi bày, Việt Bắc, Nước non ngàn dặm...) Song qua những gì hai ông bàn, tôi hình dung ra một nhà thơ tài hoa, nhưng đáng tiếc, nhà thơ chưa chắt lọc khi sử dụng thơ ca mình cho những mục đích khác nên sự nghiệp thơ ca và cả sự đóng góp cho tiến trình phát triển  thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, chưa đạt tới đỉnh cao nghệ thuật ,... 
Khi nói về thơ mình, Trần Đăng Khoa hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương: “Bác thấy thơ em thế nào? Đến giờ còn lại được bao nhiêu bài?...” . Nhà thơ Vũ Quân Phương ngẫm nghĩ chút rồi kể tên một số bài... Trần Đăng Khoa gật gù tán đồng, rôi ông bảo: “Nhiều bài trong số bác kể, em có thể viết lại được,... nhưng riêng bài thơ Trăng sáng sân nhà em, thì chịu không thể nào viết được như thế nữa”.

Ngẫm ngợi, Trần Đăng Khoa bảo: “Cả bài thơ những tưởng chẳng có gì, mà lại có gì,...vô cùng vô tận, trải ra mênh mông từ những cái gần gặn...”. Nhà thơ Vũ Quần Phương ra chiều tán thưởng,...Tôi nghe chuyện các ông, mà ngẫm nghĩ ra nhiều điều. Đặc biệt, khi soi chiếu vào những bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tôi biết từ mấy chục năm qua,...

*

          Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý thức tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đằng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi anh sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người lớn, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, là một sự nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác...  

          Tôi cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ,... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được... thì đánh dấu vào đấy và cho tôi biết nhé... Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ? “. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng không nói lại với ông,...

          Cho đến một lần, đàu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ. Khi ký sách tặng tôi, ông quen miếng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa ben lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ môn một,... từng chữ từng cầu, từng ý.... Thậm chí, tôi còn hình dung mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm nhứ thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình sợ sẽ quên đi mất. Và thế là, hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua...

          Ngày hôm sau, đến cơ quan, tôi tìm đến phòng làm việc của Trần Đăng Khoa, hùng hồn, liền một mạch cho ông nghe hết thảy những gì tôi vừa mới phát hiện ra về thơ ông, về phương pháp sáng tác thơ của ông, hay nói cách khác như các nhà lý luận phê bình văn học thường dùng, ấy là thi pháp thơ ông. Trần Đăng Khoa lắng nghe. Ông tỏ ra vui mừng và tán thưởng, công nhận những điều tôi vừa nói về thơ ông và giục tôi sớm viết những điều ấy,...  Tôi hứa.

*

          Tự thân, tôi cũng muốn sớm viết ra những điều ấy, thậm chí ngay tắp lự. Nhưng oi thôi, nói thì dễ nhưng làm thì không dễ chút nào. Bận mải công việc, ngần ngại này nọ, lẫn lữa mãi, việc chưa thành. Khác với sáng tác, có ý tưởng ngẫu hứng là thành, phê bình văn học là một công việc khoa học, đòi hỏi sự chặt chẽ về luận cứ, sự tỉ mỉ tin tòi trong chứng minh, lý giải... Vậy nên, đã đôi ba lần tôi nhắc lại với Trần Đăng Khoa những luận điểm của mình về thi pháp thơ ông mà vẫn chưa viết ra nổi.

          Đã có lần Trần Đăng Khoa khích tôi rằng “Phát hiện thì tinh đấy,... hay như phát hiện về thi pháp Đảo chìm, cũng rất khác người... có điều chẳng chịu dấn tới, nên thành nửa đời nửa...”. Ồng không nỡ nói hết câu,... chắc sợ tôi phật ý, song tôi hiểu ý ông, và cũng hiểu việc mình cần làm lúc này là gì,...

          Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa như sau:  Mối quan hệ Động-Tĩnh, Thực-Ảo, sử dụng thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh,  phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian truyện cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học, hâu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đêu theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách.

          Ngay trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực –áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vầng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhơ mầy câu kết này bài thơ chuyển thành hư ảo mà đứng được, không là kể lể tầm thường. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức ảnh làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm,...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đấm dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đấm quần thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bức thì vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm để hò sức kéo lưới,... nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn.

          Bài thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Hẩu hết bài thơ là sự kể chuyện, tác ghỉa vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ bài vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá” và câu kết “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, vậy thôi mà các bức tranh tĩnh bông sống dậy, hoạt động, như con người. Cùng ơ đây, tác giả dùng phép nhân cách hóa.

          Bài thơ Gà con liếp nhiếp là một bài thơ thực-ảo. Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn không ướt cánh, ướt đầu,,, Nếu chỉ vậy thôi thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực, nhưng tài tình thay, hai câu kết “Đôi mắt tròn trong như haai giọt nước/ hai giọt nước  không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt ảo diệu và rất chi ám ảnh.

          Bài thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo, chỉ bởi hai câu  Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran cỏa một buổi chiều

          Hay như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương như tôi đã nói ở phần đầu, là chẳng thể nào viết lại được như thế. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo.  Tác giả không tả trăng sáng đẹp như thế nào, mà chuyển quan sát sang những vật thể trong ánh trăng như cái sân, cai cây, con chim, con sâu...Câu thơ được lặp đi lăp lại “Ơi ông trăng sáng tỏ/
Soi rõ sân nhà em…”
khiến cảnh sắc tĩnh mà động, thực mà ảo. không có gì mà lại có gì... Tài tình là vậy!

          Bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi uongs sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời” làm bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh sống động cảnh nông thôn bình thường mà nâng tâm lên một cái gì đó to lớn hơn, trải ra mênh mông, khiến người ta phải mường tượng, liên tưởng, nghĩ  mãi khồng thôi.

          Hay nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức  Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu, cá nhây, sinh đọng đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm bé nhỏ/ biết bay về nơi đâu?”...

          Bài thơ Đêm Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thêm rơi cái lá đa/ tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya,...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh.

          Bài thơ Đồng chiều lcũng à một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ sương lên mờ mịt như là khói bay/ đất trời cách một gang mây/ và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, chẳng rõ thực ảo. Sự ảo diệu của thi ca là đây !

          Nữa, bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lân, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ trâu ai no cỏ thả rông  bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt người/ bạch dàn đôi ngọn đứng soi xanh đàm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ sương buông cho đòng hoang nằm chiêm bao/ Cớ con chau chấu phương nào/ buâng khuâng nhớ lúa đậu vào áo em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sau thực thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế !...

          Còn nhiều lắm bài tho thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đén, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những  bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đào chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcowva, mùa đòng năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi Ở nghĩa trang Van Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh, v.v ...). Hay đâu, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: “Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ bây giờ bầu bạn cùng ta/ chỉ cìn một mảnh trăng tà ngoài hiên” (Về quê) cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các  mối quan hệ lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua,...

          Có một điều không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn. tiểu thuyết,nói chung, mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất giỏi trong nghệ thuật tao dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luậnĐảo chìm, nghệ thuật xây dựng không gian truyện”,- NCN) Thê nên, ngày từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc băng âm thây rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy, đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt đe đe, nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống. mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là cái xác chữ, không hồn vía, nhu chết vậy.

Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, môi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa đều kể một câu chuyện, có cốt truyện vậy, hoặc nói một điều gì đó ý tức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy, người ta thầy được các nhân vật, con vật, đò vật trong thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận,.. Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do đẻ các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống dai, sống mãi cùng thời gian; Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mười năm trước đến nay vẫn được bạn đọc yeu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục được tái bản và hiện bán rất chạy,..

          Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hái Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), và sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ di nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca.  Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện thưc mà ảo diều . và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện,

*

          Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ hương đồng thơm trong túi/ chiều xay thóc góc nhà/ tóc lại bay gió núi”. Ở đây, nếu đửng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc goc nhà mà hương đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường. Thủ pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng...

          Hay đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đông vui reo/ Gió đồng rộng rài”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị làm sao.

Còn như, lối đồng dao, vận dung ca dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con chim hay hót, Mày cày xinh xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Con trâu đen lông mượt, Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ).

Bài thơ Kể cho bé nghe là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đàu bắt cuối để quay trở lại, thú vị, hóm hình, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/hay mua xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ...

Bài thơ Em kể chuyện này, lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ“Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này.

Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vân dung ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đệm trời như thế, người làm đường không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự,lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.

Ở bài thơ Hạt gạo làng ta, có câu thơ ví von so ánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đá ví von băng đạn pháo súng băn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về hình thể, màu sức, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của chiến tranh chết chóc, một bên là lua gạo biểu hiện của hòa bình ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong ca khúc Hạt gạo làng ta, đều chính xác là “Những năm băng đạn/ vàng nhứ lúa đồng,” nhưng mầy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”. Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ !

*

          Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch

          Những câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc cổ khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hắn, như vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy....

          Ví như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...

          Hay như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bê/ bát ngát/ tiếng gà/ ò ó o...” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng để lại gì.

          Bài thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài tho.

          Bài thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao  nhiêu cái mũ lắng nghe// xa xa từ một ngọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa rồi, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi,..

          Bài thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài ta quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ nhuộm vàng cả trời cao”.

          Hay nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thức thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.  Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,...

          Bài thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài.

          Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tâm cánh tay” là linh hồn cho cả bài bài.     

          Bài thơ Trận địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình này “Em nhìn đáy nước trong veo/ máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà”.

Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/ bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng lại có dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài thơ như cựa  quậy,  sống động hẳn lên, v.v...

          Ở bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vân chú dế mèn vuốt râu  giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt Nam, tạo sức nặng cho bài thơ.

          Hay ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.

Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ sẽ mất sức gợi. Tôi nghĩ, mây câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng kêu đến suốt đời,...

          Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến trường thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo logic khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ rốt cuộc, cô đọng, chốt lại như thế này. Cũng có một số bài thơ, câu thơ -luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải này nọ.

          Nếu như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc hát người anh hùng, lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sủ dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm, lại là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu từ giong điệu kể nhanh làm chậm lại, vừa bớt nhàm mà lắng đọng, suy ngẫm,...

Ví như, một số khúc dẫn chứng ở đây

  Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.

Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông”

Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoang/ chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi”

Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”.

Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn”

“Sự thật hát rằng: ... Những quân uwschieeps nguwowifif ta/ Thì đời nó cũng chẳng ra cái gì”

Cái cột trói hát rằng: ... Sóng sông thì vỗ vào bờ/ Người trung thì đến bao giờ vẫn trung”.

Cái cánh cửa hát rằng: Ngày  mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi  vơi đầy/Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”

Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ  thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bên cũng tan”

Máu hát rằng: Có đi qua những chiến tranh/ Máu người đổ xuống mới thành núi sông/ Đẹp sao dòng máu anh hùng/ Lại từ sông núi chảy trong tim người”

Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc tười trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao rời/ Lại nghe trong đất máu người ngân vang”

Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mài gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn  thổi vường ngõ ngoài...”,

Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, nhũng khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng có của Trần Đăng Khoa.

*

          Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ lam từ ngày nhỏ, giỡ ông vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sang cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ nếu thấy dở, thây ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,...

Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời” tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, manh tay thì cũng có thể bỏ đi một số bài, hoặc lược bớt thì mới đạt tới đọ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,..

*

          Nhà thơ Trần Đăng Khoa rất quan tâm đến câu chuyện đằng sau mỗi bài thơ của mình. Tình huống, thời điểm, chuyện liên quan đến sự ra đời của bài thơ và cả dư âm của nó trong đời sống. Tóm lại là toàn bộ đời sống của mỗi bài thơ. Điều đó cho thấy, ông ý thức về tính toàn vẹn và vĩnh cửu của thơ mình. Ngoài tập sách Hầu chuyện thường đế thì trong các tuyển thơ tái bản sau này, Trần Đăng Khoa đều cài vào đó những câu chuyện đằng sau bài thơ.

          Quả thật, nhiều câu chuyện xung quanh bài thơ khá thú vị. Đôi khi, nó còn thú vị hơn chính bản thân bài thơ. Bạn đọc, người yêu thơ nói chung thích thế. Riêng tôi, ở mức đọ nào đó, chấp nhận được, song tôi vẫn thích bài thơ mang sự bí ẩn của mình, như thế, nó sẽ thu hút hơn. Ở đời, không phải cái gì cũng chẻ hoe ra được. Sự bí ẩn làm nên lực hấp dẫn cho bài thơ !...

*

          Nhân đây, tôi bàn thêm vè nhuận bút thơ.

          Giờ đây, chẳng ai làm thơ để lấy nhuận bút cả. Các nhà thơ, có thơ in báo, nhuận bút rẻ bèo, hoặc chẳng buồn lấy nhuận bút nữa, thậm chí tốn thêm tiền để khao bạn bè, người thân vì có thơ đăng báo. Lâu lâu, gom bài in thành tập thì tốn hàng chục triệu đồng, để rồi tặng không cho người quen, người ta nể mà nhận, nhưng không ít người đùa rằng “gặp nhau tay bắt mặt mừng/ tặng gì thì tặng xin đứng tặng thơ”.. Thật thế,...

          Ây vậy, mấy chục năm trước, nhuận bút thơ khá cao đấy. Cứ chuyện của tôi mà suy. Năm 1978, khi đang là sinh viên đại học, tôi có bài thơ đăng báo Văn Nghệ (bài thơ Núi Đôi buổi sang, số 789  ra ngày 16-12-1978). Nhuận bút gửi tận nơi, 18 đồng, bằng số tiền học bổng đại học một tháng của tôi., nghia là nhuận bút ấy đủ nuôi nổi tôi 1 tháng đây.

          Vậy nên, có lần, ngồi chuyện phiếm với nhau, tôi đã hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, lấy nhuận bút thơ mình mà phỏng đoán, rằng ngày ấy chắc nhuận bút của thần đồng thơ khá nhiều, có thể thêm thoắt đỡ cho bố mẹ đồng ra đồng vào, giảm bớt khó khăn vì đời sống gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông qua HTX nông nghiệp. Ông toét miệng cười : “Làm gì có nhuận bút mà giúp đỡ bố mẹ...”. Sao thế? Trần Đăng Khó bảo, ngày ấy cấp trên chủ trương đẻ hồn thơ thần đồng thêm bay bổng, không thể định giá trị bằng tiền bạc, với lại, trả tiền cho trẻ con dễ làm nó hư đi, thế nên hầu như các báo cứ đăng thơ Khoa đều đều mà không càn trả nhuận bút. Có một số tờ báo quan tâm thì trả bằng hiện vật. Ông kể, có tờ báo nọ đăng nhiều thơ của ông, rồi trả bằng cái chăn bông, giữa mùa hè nóng bức thì họ cho người đeo xe đạp mang chăn bông đến nhà trả thay nhuận bút. Nữa, người ta hay lựa chọn cách trả nhuận bút thơ Khoa bằng cặp sách. Chẳng thế mà Khoa có tới hàng trăm chiếc cặp sách. Bản thân và anh em trong nhà dùng chỉ vài ba chiếc là đủ. Chứ thừa ra cả đống như thế, bán thì chẳng được, cho cũng khổ. Cực chẳng đã, câu bé thần đồng mang dần cho, tặng người làng, bạn be ở trương, nhờ người ta dùng hộ kẻo phí. Đại khái. nhiều chuyện buồn cười lắm. Tôi đùa Trần Đăng Khoa, bảo: “Có lẽ họ nghĩ thế cũng đúng. Nếu ngày ấy, bài nào cũng trả nhuận bút bằng tiền cả, có lẽ cậu bé Khoa sẽ ham tiền mà sáng tác ào ào, mỗi ngày dăm bảy bài thơ, thì không khéo đến giờ thơ ông chất thành núi, mà toàn bài dở cũng nên,...” . Ông cười ngỏn nghẻn, không hẳn đồng tình mà cũng chằng phản đối. Nhớ lại những lúc vui, ông đọc nhiều bài thơ làm từ thiếu thời mà cho là dở, bỏ đi, đủ thấy, dù có thần đồng thì người ta cũng có lúc dở hơi (kiểu như nhà bác học Niu-tơn từng khoét hai cái lỗ to nhỏ, một cho chó một cho meo chui).

          Thực ra, ngày ấy Trần Đăng Khoa thiệt thòi chút về nhuận bút cũng đáng kể gì. Lộc trời, lộc đời, lộc người rốt cùng cũng đền đáp ông, tuy chậm nhưng khá đầy đặn. Nhờ sớm thành danh cộng thêm văn tai thực lực mà vài chục năm qua, Trần Đăng Khoa không bị chìm đi hoăc mất tăm như mấy nhà thơ thiếu nhi khác cũng từng được xem như thần đồng trong tao đàn cùng thơi với ông ngày ấy,...  Và cho đến tận giờ, Trần Đăng Khoa vẫn có nguồn thu khá ổn định từ những sáng tác của mình. Trong khí các nhà thơ, nhà văn đương thời, phần đông phải bỏ tiền túi ra in sách và tự phát hành (phần lớn là tặng), thì sách của Trần Đăng Khoa hàng năm vẫn được các Nhà sách, Nhà xuất bản liên tục tái bản, nối bản (Góc sân và khoảng trời, Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối thoại, Đảo chim Trường Sa, Hầu chuyện thượng đế) và theo đó tiền bản quyền hàng năm không thật nhiều nhưng  khá đều đặn. Đó là còn chưa kể, Trần Đăng Khoa tỏ ra có tài và rất đắt khách những nơi mời ông đến nói chuyện theo chủ đề, bắt nguồn từ chuyện thơ văn của ông. Xưa thiệt nay bù, cũng công bằng  thôi.

*

          Thiết nghĩ, nên đề cập đôi chút về tài ứng tác thơ của Trần Đăng Khoa. Đây cũng là cái tài của ông, không hẳn riêng có, song quả thật cũng là hiếm có.

          Cứ theo lời kể của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tài ứng tác sớm phát lộ và từng được rèn luyện từ khi ông còn nhỏ. Ông cho biết, nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời là ứng tác. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ thật, nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tai thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú, từ cây cối, đồ vật, con vật, tình huồng này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra làm đề tài. Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt hàng của tờ báo này, báo nọ, ông nọ ba kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn  em, Sao không về Vàng ơi, Cái sân, Cây dừa,... là những bài như thế,...

          Đầy là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ ngắn ứng tác trong những lúc trà dư tửu hậu, kiểu xuất khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước,... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau ở Lớp bỗi dường học  sinh gỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giot môn Văn toàn miền Bắc (trước giải phóng miền Nam),, tôi lần đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa. khi nhóm học sinh chúng tôi trêu đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay một bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu đúng y với yêu cầu đề ra, thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi còn thuộc bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu đùa, bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dưa tửu hậu, phiếm đàm nơi công sở,...

Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng tập hợp thành tập, kể cũng thú vị đây ?!  ./.

          Tháng 3- 2022.


Nhận xét