NHỮNG CÂU THƠ CẤT CÁNH ( Bản thảo )


 

Với nhà văn Phan Quang tại phòng làm việc ở 58 Quán Sư (2015 )

@@@

 

NHỮNG CÂU THƠ CẤT CÁNH.

Chân dung văn học,

 

(Nhà văn  Nguyễn Chu Nhạc )

 

 

TẢN MẠN VỀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA

( Đi tìm thi pháp thơ Trần Đăng Khoa )

 

            Từ quãng thời gian tôi làm biên tập trang Web của Hội Nhà văn Việt Nam (Vanvn.net) đến sau này làm biên tập viên ở Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, do nhà thơ Trần Đăng Khoa làm Tổng biên tập, tôi hay lai vãng phòng làm việc riêng của ông ở trụ sở Hội Nhà văn tại số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Ở đay, tôi thường chứng kiến các cuộc đàm thoại văn chương của Trần Đăng Khoa với các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học khác. Song thú vị nhất vẫn là các cuộc chuyện trò tay đôi giữa ông với nhà thơ Vũ Quần Phương.  Đã nhiều lần, tôi nghe hai ông bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,... và về thơ của chính các ồng. Tôi nhớ, có lẩn, hai người bàn rất say sưa về thơ Tố Hữu, đặc biệt về nhạc điệu, ngôn ngữ hình ảnh trong một số bài thơ (Khi con tu hú gọi bày, Việt Bắc, Nước non ngàn dặm...) Song qua những gì hai ông bàn, tôi hình dung ra một nhà thơ tài hoa, song đáng tiếc, nhà thơ chua chắt lọc khi sử dụng thơ ca mình cho những mục đích khác nên sự nghiệp thơ ca và cả sự đóng góp về nghệ thuật cho tiến trình phát triển  thơ ca Việt hiện đại nói chung, chưa đạt tới đỉnh cao,...

          Khi nói về thơ mình, Trần Đăng Khoa hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương: “Bác thấy thơ em thế nào? Đến giờ còn lại được bao nhiêu bài?...” . Nhà thơ Vũ Quân Phương ngẫm nghĩ chút rồi kể tên một số bài... Trần Đăng Khoa gật gù tán thành, rôi ông bảo: “Nhiều bài trong số bác kể, em có thể viết lại được,... nhưng riêng bài thơ Trăng sáng sân nhà em, thì chịu không thể nào viết được như thế nữa”. Ngẫm ngợi, Trần Đăng Khoa bảo: “Cả bài thơ những tưởng chẳng có gì, mà lại có gì,...vô cùng vô tận, trải ra mênh mông từ những cái gần gặn...”. Nhà thơ Vũ Quần Phương ra chiều tán thưởng,...Tôi nghe chuyện các ông, mà ngẫm nghĩ ra nhiều điều. Đặc biệt, khi soi chiếu vào những bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tôi biết từ mấy chục năm qua,...

*

          Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý thức tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đằng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi anh sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người lớn, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, là một sự nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác... 

          Tôi cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ,... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được... thì đánh dấu vào đấy và cho tôi biết nhé... Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ? “. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng không nói lại với ông,...

          Cho đến một lần, năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ. Khi ký sách tặng tôi, ông quen miếng lại dăn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa ben lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ môn một,... từng chữ từng cầu, từng ý.... Thậm chí, tôi còn hình dung mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm nhứ thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình sợ sẽ quên đi mất. Và thế là, hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua...

          Ngày hôm sau, đến cơ quan, tôi tìm đến phòng làm việc của Trần Đăng Khoa, hùng hồn, liền một mạch cho ông nghe hết thảy những gì tôi vừa mới phát hiện ra về thơ ông, về phương pháp sáng tác thơ của ồng, hay nói cách khác như các nhà lý luận phê bình văn học thường dùng, ấy là thi pháp thơ của ông. Trần Đăng Khoa lắng nghe tôi hùng biện. Ông tỏ ra vui và tán thưởng, công nhận những điều tôi vừa nói về thơ ông và giục tôi sớm viết những điều ấy,...

*

          Tự thân, tôi cũng muốn sớm viết ra những điều ấy, thậm chí ngay tắp lự. Nhưng oi thôi, nói thì dễ nhưng làm thì không dễ chút nào. Bận mải công việc, lẫn lữa mãi, việc chưa thành. Khác với sáng tác, có ý tưởng ngẫu hứng là thành, phê bình văn học là một công việc khoa học, đòi hỏi sự chặt chẽ về luận cứ, sự tỉ mỉ tin tòi trong chứng minh, lý giải... Vậy nên, đã đôi ba lần tôi nhắc lại với Trần Đăng Khoa những luận điểm của mình về thi pháp thơ ông mà vẫn chưa viết ra nổi.

          Đã có lần Trần Đăng Khoa khích tôi rằng “Phát hiện thì tinh đấy,... hay như phát hiện về thi pháp Đảo chìm, cũng rất khác người... có điều chẳng chịu dấn tới, nên thành nửa đời nửa...”. Ồng không nỡ nói hết câu, ngưng nửa chừng, chắc sợ tôi phật ý, song tôi hiểu ý ông, và cũng hiểu việc mình cần làm lúc này là gì,...

          Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa như sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, sử dụng thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian truyện cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp triết học, hâu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đêu theo phương pháp quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách.

          Ngay trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực –áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vầng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhơ mầy câu kết này bài thơ chuyển thành hư ảo mà đứng được, không là kể lể tầm thường. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức ảnh làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm,...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đấm dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đấm quần thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bức thì vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm để hò sức kéo lưới,... nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn.

          Bài thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Hẩu hết bài thơ là sự kể chuyện, tác ghỉa vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ bài vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá” và câu kết “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, vậy thôi mà các bức tranh tĩnh bông sống dậy, chuyển động, như một con người. Cùng ơ đây, tác giả dùng phép nhân cách hóa.

          Bài thơ Gà con liếp nhiếp là một bài thơ thực-ảo. Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn không ướt cánh, ướt đầu,,, Nếu chỉ vậy thôi thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực, nhưng tài tình thay, hai câu kết “Đôi mắt tròn trong như haai giọt nước/ hai giọt nước  không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt ảo diệu và rất cgi ám ảnh.

          Bài thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo, chỉ bởi hai câu  “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran cỏa một buổi chiều

          Hay như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương như tôi đã nói ở phần đầu, là chẳng thể nào viết lại được như thế. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo.  Tác giả không tả trăng sáng đẹp như thế nào, mà chuyển quan sát sang những vật thể trong ánh trăng như cái sân, cai cây, con chim, con sâu...Câu thơ được lặp đi lăp lại “Ơi ông trăng sáng tỏ/
Soi rõ sân nhà em…”
khiến cảnh sắc tĩnh mà động, thực mà ảo. không có gì mà lại có gì... Tài tình là vậy!

          Bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi uongs sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời” làm bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh sống động cảnh nông thôn bình thường mà nâng tâm lên một cái gì đó to lớn hơn, trải ra mênh mông, khiến người ta phải mường tượng, nghĩ  mãi khồng thôi.

          Hay nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức  Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu, cá nhây, sinh đọng đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm bé nhỏ/ biết bay về nơi đâu?”...

          Bài thơ Đêm Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thêm rơi cái lá đa/ tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào”  thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya,...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh.

          Bài thơ Đồng chiều là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ sương lên mờ mịt như là khói bay/ đất trời cách một gang mây/ và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, chẳng rõ thực ảo. Sự ảo diệu của thi ca là đây !

          Bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lân, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ trâu ai no cỏ thả rông  bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt người/ bạch dàn đôi ngọn đứng soi xanh đàm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ sương buông cho đòng hoang nằm chiêm bao/ Cớ con chau chấu phương nào/ buâng khuâng nhớ lúa đậu vào áo em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sau thực thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế !...

          Còn nhiều lắm bài tho thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đén, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những  bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đào chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcowva, mùa đòng năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi Ở nghĩa trang Van Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh, v.v ...). Hay đâu, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: “Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ bây giờ bầu bạn cùng ta/ chỉ cìn một mảnh trăng tà ngoài hiên” (Về quê) cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các  mối quan hệ lớn của xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua,...

          Có một điều không khó nhận thấy, nhất quan và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn. tiểu thuyết,nói chung, mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất giỏi trong nghệ thuật tao dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật xây dựng không gian truyện”,- NCN) Thê nên, ngày từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc băng âm thây rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy thì phẳng lì, dẹt đe đe, nhạt nhẽo, thì chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống. mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là cái xác chữ, không hồn vía, nhu chết vậy.

Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, môi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa đều kể một câu chuyện, có cốt truyện vậy, hoặc nói một điều gì đó ý tức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy, người ta thầy được các nhân vật, con vật, đò vật trong thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận,.. Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do đẻ các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống dai, sống mãi cùng thời gian; Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mười năm trước đến nay vẫn được bạn đọc yeu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục được tái bản và hiện bán rất chạy,..

          Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hái Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng Năm ,...), và sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ di nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca.

*

          Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Sôn Sơn/ hương đồng thơm trong túi/ chiều xay thóc góc nhà/ tóc lại bay gió núi”. Ở đây, nếu đửng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc goc nhà mà hương đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường. Phép hoán vị đã tạo nên sự khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng...

          Hay đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cáng đông vui reo/ Gió đồng rộng rài”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ và thú vị làm sao.

Còn như, lối đồng dao, vận dung ca dao, tục ngữphép nhân cách hóa khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại như nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con chim hay hót, Mày cày xinh xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Con trâu đen lông mượt, Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ).

Bài thơ Kể cho bé nghe là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đàu bắt cuối để quay trở lại, thú vị, hóm hình, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/hay mua xập xòa/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ...

Bài thơ Em kể chuyện này, lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ“Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ“Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ c ác chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này.

Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suống sáng cả đêm rằm/Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vân dung ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đệm trời như thế, người làm đường không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự,lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.

*

          Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch

          Những câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc cổ khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hắn, vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy....

          Ví như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...

          Hay như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bê/ bát ngát/ tiếng gà/ ò ó o...” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng để lại gì.

          Bài thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài tho.

          Bài thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao  nhiêu cái mũ lắng nghe// xa xa từ một nghọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa rồi, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi,..

          Bài thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài ta quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ nhuộm vàng cả trời cao”.

          Hay nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả ta quanh cảnh và cả cách thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thức thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.  Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,...

          Bài thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài.

          Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tâm cánh tay” là linh hồn cho cả bài bài.   

          Bài thơ Trận địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình nay “Em nhìn đáy nước trong veo/ máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà”.

Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/ bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên, nhưng lại có dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì câu kết thể hiện sự có mặt của tác giả, làm cho bài thơ như cựa  quậy,  sống động hẳn lên, v.v...

          Ở bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vân chú dế mèn vuốt râu”  giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt Nam, tạo sức nặng cho bài thơ.

          Hay ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.

Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ sẽ mất sức gợi. Tôi nghĩ, mây câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng kêu đến suốt đời,...

          Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến trường thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo triết học. Đây cũng chính điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại như thế này. Cũng có một số bài thơ, câu thơ -luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải này nọ.

          Nếu như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hoi khác, trường ca Khúc hát người anh hùng, lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sủ dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm, lại là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu từ giong điệu kể nhanh làm chậm lại, vừa bớt nhàm mà lắng đọng, suy ngẫm,...

Ví như, một số khúc dẫn chứng ở đây

  “Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”.

Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông”

Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoan/ chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi”

Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”.

Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn”

“Sự thật hát rằng: ... Những quân uwschieeps nguwowifif ta/ Thì đời nó cũng chẳng ra cái gì”

Cái cột trói hát rằng: ... Sóng sông thì vỗ vào bờ/ Người trung thì đến bao giờ vẫn trung”.

Cái cánh cửa hát rằng: Ngày  mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi  vơi đầy/Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”

Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ  thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bên cũng tan”

Máu hát rằng: Có đi qua những chiến tranh/ Máu người đổ xuống mới thành núi sông/ Đẹp sao dòng máu anh hùng/ Lại từ sông núi chảy trong tim người”

Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc tười trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao rời/ Lại nghe trong đất máu người ngân vang”

Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mài gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vaax thổi vường ngõ ngoài...”,

Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, nhũng khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng có của Trần Đăng Khoa.

*

          Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ lam từ ngày nhỏ, giỡ ông vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sang cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ nếu thấy dở, thây ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,...

Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời” tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, manh tay thì cũng có thể bỏ đi một số bài, hoặc lược bớt thì mới đạt tới đọ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,..

*

          Nhà thơ Trần Đăng Khoa rất quan tâm đến câu chuyện đằng sau mỗi bài thơ của mình. Tình huống, thời điểm, chuyện liên quan đến sự ra đời của bài thơ và cả dư âm của nó trong đời sống. Tóm lại là toàn bộ đời sống của mỗi bài thơ. Điều đó cho thấy, ông ý thức về tính toàn vẹn và vĩnh cửu của thơ mình. Ngoài tập sách Hầu chuyện thường đế thì trong các tuyển thơ tái bản sau này, Trần Đăng Khoa đều cài vào đó những câu chuyện đằng sau bài thơ.

          Quả thật, nhiều câu chuyện xung quanh bài thơ khá thú vị. Đôi khi, nó còn thú vị hơn chính bản thân bài thơ. Bạn đọc, người yêu thơ nói chung thích thế. Riêng tôi, ở mức đọ nào đó, chấp nhận được, song tôi vẫn thích bài thơ mang sự bí ẩn của mình, như thế, nó sẽ thu hút hơn. Ở đời, không phải cái gì cũng chẻ hoe ra được. Sự bí ẩn làm nên lực hấp dẫn cho bài thơ !...

*

          Nhân đây, tôi bàn thêm vè nhuận bút thơ.

          Giờ đây, chẳng ai làm thơ để lấy nhuận bút cả. Các nhà thơ, có thơ in báo, nhuận bút rẻ bèo, hoặc chẳng buồn lấy nhuận bút nữa, thậm chí tốn thêm tiền để khao bạn bè, người thân vì có thơ đăng báo. Lâu lâu, gom bài in thành tập thì tốn hàng chục triệu đồng, để rồi tặng không cho người quen, người ta nể mà nhận, nhưng không ít đùa rằng “gặp nhau tay bắt mặt mừng/ tặng gì thì tặng xin đứng tặng thơ”.. Thật thế,...

          Ây vậy, mấy chục năm trước, nhuận bút thơ khá cao đấy. Cứ chuyện của tôi mà suy. Năm 1978, khi đang là sinh viên đại học, tôi có bài thơ đăng báo Văn Nghệ (bài thơ Núi Đôi buổi sang, số 789  ra ngày 16-12-1978). Nhuận bút gửi tận nơi, 18 đồng, bằng số tiền học bổng đại học một tháng của tôi., nghia là nhuận bút ấy đủ nuôi nổi tôi 1 tháng đây.

          Vậy nên, có lần, ngồi chuyện phiếm với nhau, tôi đã hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, lấy nhuận bút thơ mình mà phỏng đoán, rằng ngày ấy chắc nhuận bút của thần đồng thơ khá nhiều, có thể thêm thoắt đỡ cho bố mẹ đồng ra đồng vào, giảm bớt khó khăn vì đời sống gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông qua HTX nông nghiệp. Ông toét miệng cười : “Làm gì có nhuận bút mà giúp đỡ bố mẹ...”. Sao thế? Trần Đăng Khó bảo, ngày ấy cấp trên chủ trương đẻ hồn thơ thần đồng thêm bay bổng, không thể định giá trị bằng tiền bạc, với lại, trả tiền cho trẻ con dễ làm nó hư đi, thế nên hầu như các báo cứ đăng thơ Khoa mà không càn trả nhuận bút. Có một số tờ báo quan tâm thì trả bằng hiện vật. Ông kể, có tờ báo nọ đăng nhiều thơ của ông, rồi trả bằng cái chăn bông, giữa mùa hè nóng bức thì họ cho người đeo xe đạp mang chăn bông đến nhà trả thay nhuận bút. Nhiều chuyện buồn cười lắm. Tôi đùa Trần Đăng Khoa, bảo: “Có lẽ họ nghĩ thế cũng đúng. Nếu ngày ấy, bài nào cũng trả nhuận bút bằng tiền cả, có lẽ cậu bé Khoa sẽ ham tiền mà sáng tác ào ào, mỗi ngày dăm bảy bài thơ, thì không khéo đến giờ thơ ông chất thành núi, mà toàn bài dở cũng nên,...” . Ông cười ngỏn nghẻn, không hẳn đồng tình mà cũng chằng phản đối. Nhớ lại những lúc vui, ông đọc nhiều bài thơ làm từ thiếu thời mà cho là dở, bỏ đi, đủ thấy, dù có thần đồng thì người ta cũng có lúc dở hơi (kiểu như nhà bác học Niu-tơn từng khoét hai cái lỗ to nhỏ, một cho chó một cho meo chui).

          Thực ra, ngày ấy Trần Đăng Khoa thiệt thòi chút về nhuận bút cũng đáng kể gì. Lộc trời, lộc đời, lộc người rốt cùng cũng đến với ông, tuy chậm nhưng khá đầy đặn. Nhờ sớm thành danh cộng thêm văn tai mà vài chục năm nay và cho đến tận giờ, Trần Đăng Khoa vẫn có nguồn thu khá ổn định từ những sáng tác của mình. Trong khí các nhà thơ , nhà văn phải bỏ tiền túi ra in sách và tự phát hành (phần lớn là tặng), thì sách của Trần Đăng Khoa hàng năm vẫn được các Nhà sách, Nhà xuất bản liên tục tái bản, nối bản (Góc sân và khoảng trời, Tuyển thơ Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối thoại, Đảo chim Trường Sa, Hầu chuyện thượng đế) và theo đó tiền bản quyền không thật nhiều nhưng  khá đều đặn. Đó là còn chưa kể, Trần Đăng Khoa tỏ ra có tài và rất đắt khách những nơi mời ông đến nói chuyện theo chủ đề, bắt nguồn từ chuyện thơ văn của ông. Xưa thiệt nay bù, cũng công bằng  thôi.

*

          Thiết nghĩ, nên đề cập đôi chút về tài ứng tác thơ của Trần Đăng Khoa. Đây cũng là cái tài của ông, không hẳn riêng có, song quả thật cũng là hiếm có.

          Cứ theo lời kể của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tài ứng tác sớm phát lộ và từng được rèn luyện từ khi ông còn nhỏ. Ông cho biết, nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời là ứng tác. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ, nên về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Thực tế là có nhiều bài thơ Khoa viết theo đặt hàng của tờ báo này, báo nọ, ông nọ ba kia mà thành. Ví như, bài thơ Sao không về vàng ơi là một trong những bài như thế,...

          Đầy là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ ngắn ứng tác trong những lúc trà dư tửu hậu, kiểu xuất khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước,...

Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng tập hợp thành tập, kể cũng thú vị đây ?!  ./.

          Tháng 3- 2022.

 

 

Nhà văn Nhật Tuấn, con chim biết chọn hạt,

 

Con chim biết chọn hạt, ấy là tên một truyện vừa của nhà văn Nhật Tuấn, đã được chuyển thể thành phim truyện, mà tôi từng đọc và xem. Ngày ấy, Nhật Tuấn là một cây bút truyện ngắn sung sức, đáng chú ý... Thú thực, cùng Con chim biết chọn hạt, thì Trang 17 và một số truyện của Nhật Tuấn đăng tải ở báo chí văn chương tôi đã đọc ngày đó, thì tôi không được đọc thêm các tác phẩm khác của ông, kể cả tiểu thuyết từng gây tiếng vang là Đi về nơi hoang dã. Còn ngoài đời, tôi cũng chỉ gặp nhà văn Nhật Tuấn đôi lần, lúc trà dư tửu hậu, nên có thể nói, là chưa mấy biết về ông, thì thử hỏi, tôi viết chân dung ông thế nào đây?...

May mắn thay, tôi nghĩ vậy, tôi có duyên với nhà văn Nhật Tuấn là nhờ mạng xã hội. Dạo ấy, chừng cuối năm 2010, Nhật Tuấn vào mạng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet,net) ghi cảm nhận cho một bài viết của tôi, dạng khách đọc, dưới cái tên Người qua đường, và ngay lập tức, ông đã gây ra sự chú ý của cộng đồng mạng. Ngày ấy, xứ ta chưa biết đến Facebook, mà chỉ có một số mạng xã hội dạng Blog thôi, nên số người trở thành blogger và khách xem ở Blog này hay Blog khác rất đông. Tôi đến với Blog Tiếng Việt (BTV) như một sự ngẫu nghiên. Khi ấy, tôi đi luân chuyển công tác, làm giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại khu vực miền Trung (VOV-MT) có văn phòng ở Đà Nẵng. Một lần ra Hà Nội họp cơ quan, gặp nhà văn Nguyễn Trọng Huân, một đồng nghiệp, giới thiệu với tôi về BTV và bảo tôi nên lập trang cá nhân ở đấy để giao lưu cho vui. Thực lòng, tôi không mấy thích nên ừ à cho qua. Nhưng rồi, một hôm, Nguyễn Trọng Huân gọi điện bảo là đã nhờ một người biết IT lập trang cá nhân cho tôi rồi, địa chỉ mạng thế này, thế nọ. Tôi cảm ơn xã giao nhưng cũng chẳng buồn vào. Rồi ngày đầu thu 2009, khởi đầu mùa mưa miền Trung, tôi ngồi trong phòng làm việc nhìn mưa rơi tầm tã cả ngày, nhớ ngoài Bắc, bỗng nảy tứ thơ, lúc ấy mới chợt nhớ ra mình cũng có blog, bèn lần mò mở xem. Ở đấy, Nguyễn Trọng Huân đã chọn đăng liền mấy truyện ngắn của tôi  rồi. Cái duyên của tôi với blog như thế đó...

Nhưng còn cái duyên của tôi với nhà văn Nhật Tuấn thì sao ?

Đấy là nhờ BTV, kỹ thuật tin học hiện đại đã cho phép tôi lưu giữ dấu tích đầu tiên Nhật Tuấn vào đọc trang blog của tôi và để lại cảm nhận, ấy là lúc 18h33 ngày 01,3,2011. Đại khái, ông khen trang của tôi vui, bảo rằng là qua tôi mà biết Trần Đăng Khoa cũng có blog ở đây, rồi ông phán là trang của tôi, bình luận nghe xôm trò hơn văn chương, và hứa sẽ năng vào đọc. Điều này cho thấy, ông đã đọc nhiều bài biết của tôi trước đó và các cảm nhận cho mỗi bàn viết, nên mới đưa ra nhận định như vậy. Đặc biệt là trước đó, ngày 27.2.2011 tôi đăng bài giới thiệu một bài thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa từ hồi 1975, khi chung đội tuyển Học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng (cũ) tham dự kỳ thi học sinh giỏi toàn miền Bắc, thì Nhật Tuấn mới thấy cần thiết phải xuất hiện (01.3,2911), tuy nhiên, ông tránh không sa vào việc tranh luận mà ông cho là vô bổ đối với mình. Số là, bài giới thiệu này của tôi có rất đông người đọc và ghi cảm nhận, tranh luận, khen chê búa xua. xung quanh việc bài thơ ứng tác này của Trần Đăng Khoa không tuân thủ luật bằng trắc của thơ Đường luật. Cứ thế, mọi người bàn qua bàn tới sôi nổi lắm, cho đến khi chính Trần Đăng Khoa cũng phải ngỏ lời này nọ, còn tôi thì lên tiếng thưa gửi cẩn trọng. Có lẽ vậy, nên Nhật Tuấn né việc tranh luận chăng? Bởi chỉ ít lâu sau, ông bộc lộ sự chán chường với thi ca hiện tại, trong những lời cảm nhận trang văn thơ của tôi, cùng như lời khuyên răn thẳng thắn, chân tình,...

Ở thời điểm này, khi vào cảm nhận ở trang của tôi, Trần Đăng Khoa và Nguyễn Trọng Huân cùng một số blogger khác, Nhật Tuấn không xuất đầu lộ diện, ông đều đứng dưới cái nick Người qua đường. Có cảm nhận ghi ở trang của tôi, ông lại chê sáng tác của người khác, tôi ái ngại việc này nên để cảm nhận ấy ở chế độ ẩn. Ngay lập tức, Người qua đường phản ứng, vì tưởng tôi xóa đi, bảo rằng, tôi có xóa thì vẫn cứ nói thẳng, rằng việc chê văn người này người nọ, cũng được ghi bên trang của họ rồi, nên không việc gì phải ngại, và nhắn rằng "Tôi không phải kẻ phá đám đâu. Rất yêu các ông". Thẳng thắn và chân tình như vậy đấy.

Dịp này, tôi có đăng liền 2 truyện ngắn của mình là Giải thoátNgười nổi tiếng, Trần Đăng Khoa đọc, khen chê này nọ, Người qua đường vào ghi "Ý kiến của Trần Đăng Khoa rất xác đáng. Rất tinh. Chỉ có vài chục chữ mà ra cả một vấn đề. Cậu này làm biên tập rất chuẩn. Thảo nào hắn luôn được mời làm giám khảo các cuộc thi văn chương từ trung ương đến địa phương....". Đọc cảm nhận này, tôi cảm thấy ngay vị khách này phải thuộc hàng cao thủ văn chương thì mới dám dùng lời lẽ vậy để nói về Trần Đăng Khoa. Và suy đoán này của tôi không sai, khi chỉ sau đó một ngày, vị khách này lại vào ghi cảm nhận, lúc 22h49 ngày 15.3,2911: "Quả thật từ ngày có Lão Khoa nhập hội, Quán lá Blog sinh động hẳn lên. Tôi cũng vì hay theo dõi lão này, nên theo chân lão vào đây và không ngờ lại thấy rất nhiều văn nhân tài tử. Nhiều tay bợm ra trò. Tôi uống rượu với Chu Nhạc hai lần. Một lần ngồi cùng bàn, một lần ngồi cách bàn, nhưng hồi đó tôi không chú ý đến Chu Nhạc lắm, vì trong chú rất thư sinh, và văn chương cũng mang đầy phong thái học trò. Bây giờ thì khác. Chu Nhạc đi được một bước xa đấy. Tôi không quan tâm lắm đến thơ Chu Nhạc đâu, đáy không phải thế mạnh của Chu Nhạc. Mà nhìn chung, thơ bây giờ đã mất vị thế. Trừ một vài người có tài. Số này ít lắm, còn toàn ca dao hò vè nhăng nhít. Đám truyền thống thì cũ mèm, lần thẩn. Đám cách tân thì bệnh hoạn. Đều hỏng cả. Thời chiến tranh, người ta dùng ca dao hò vè để hô hào, cổ động, động viên nên thơ còn có chỗ đứng. Bây giờ không cần hò lơ nữa nên thơ cũng mất độc tôn. Nhạc nên dồn tâm sức cho văn xuôi và phê bình. Thế mạnh của chú ở đó. Đừng phí sức vì thơ, để cho mấy anh vô công rồi nghề nó vầy nghịch. Vầy mãi tự họ sẽ chán, chứ người đọc chẳng quan tâm.". Tôi đọc rồi vừa mừng vừa lo. Mừng bởi vị khách này đã từng uống rượu với tôi đôi lần, vậy là người quen rồi. Còn lo, bởi vị khách này thẳng toẹt chê thơ của thiên hạ. Thế nào cũng sóng to gió lớn đây.

Quả nhiên, ngay lập tức, kế ngay cảm nhận của vị khách khó tính, liền mấy cảm nhận khác bày tỏ sự bực bội, khó chịu với nhận xét chung về thơ và người làm thơ ở xứ ta, theo sự đánh giá của Người qua dường. Không những thế, họ còn bực lây sang tôi, và có người còn thẳng thắn khuyên tôi, chớ có nhẹ dạ cả tin nghe theo cái nhận xét coi thường thi ca của vị khách nọ. Tôi lúng túng chưa biết xử trí ra sao, may thay, Trần Đăng Khoa cứu tôi bằng cách quăng cho tôi cái phao cứu sinh, ấy là danh tinh thật của vị khách khó tính này.

Trần Đăng Khoa đến uống trà với tôi, ngỏn ngoẻn cười duyên: "Đấy là nhà văn Nhật Tuấn, ông ấy bỏ Hà Nội vào Sài gòn sống rồi".

Chẳng là, Trần Đăng Khoa vốn được xem là con ma xó của văn chương đất này, lại thêm, lão ta là Trưởng ban Ban công tác hội của Hội Nhà văn Việt Nam khi ấy, nên cái gì trong làng văn Việt cũng biết cả. Nghe vậy, tôi à lên sung sướng, và liền có ngay lời kính thưa, để lọt tai Nhật Tuấn mà không mất lòng bạn bè, công chúng mạng: "Chủ nhà xin có mấy lời thưa cùng mọi người như thế này, mong tránh những hiểu lầm không cần thiết, vì có thể làm mất bầu không khí vui vẻ của Làng Blog Tiếng Việt,...Thứ nhất, blog là chỗ giao lưu vui vẻ, không phải là diễn đàn chính thức của hội này hội nọ, mà nó như một gia đình lớn vậy. Chính thế, khi trò chuyện giao lưu, tùy tính cách từng người và hoàn cảnh, nên lời nói cũng lúc căng, lúc trùng, lúc mặn lúc nhạt, thế thôi...Thứ hai, riêng về vị khách Người qua đường (NQĐ), gần đây có vào thăm nhà của Lão Khoa và Chu Nhạc tôi, với những lời góp ý thẳng thắn và chân tình về thơ văn của chúng tôi và nhìn chung diễn đàn văn chương hiện nay, về cơ bản không có gì sai ...nên hai chúng tôi rất tôn trọng ý kiến của bác ấy. Thêm nữa, về vị khách NQĐ, cả tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân đều biết. Riêng tôi, đã uống rượu với bác ấy đôi lần rồi cơ mà... Tôi biết rõ bác ấy, vốn nhà một nhà văn chuyên nghiệp, xuất hiện trên văn đàn gần bốn mươi năm nay, có nhiều tác phẩm văn xuôi (tiểu thuyết và truyện ngắn) được giải cao, được dựng thành phim. Từ lâu nay, bác ấy luôn là niềm kính trọng của tôi (và cả với TĐK nữa). Chính vì thế, khi bác ấy vào nhà Khoa hay nhà tôi, đều đưa ra lời nhận xét thẳng tưng của một nhà văn lão làng với góc độ của nhà phê bình nghiêm ngặt, nên về phương diện cá nhân, tôi chấp nhận một cách vui vẻ, và xem như lời khuyên của một bậc huynh trưởng với em út. Còn như, nếu trong lời bàn với tôi (và Khoa nữa) có gì đó khiến mọi người chạnh lòng này nọ, thì cũng xem như là bác ấy chỉ nói với riêng tôi, và phần lỗi, là thuộc về Nguyễn Chu Nhạc tôi cả. Kính mong mọi người hiểu, và mong mọi người vẫn ghé thăm, trò chuyện vui vẻ như cũ. Gọi là có mấy lời trần tình. Kính.". Quả nhiên, lời trần tình của tôi có hiệu lực tức thì, bạn bè và người quên trên mạng vui vẻ bỏ qua, Xóm Lá (tên gọi thân mật của BTV) yên ổn trở lại...

Còn Nhật Tuấn, cũng thấy bùi tai, ông phúc đáp: "Cám ơn chú Chu Nhạc đã rất hiểu tôi. Tôi cảm nhận vào trang chú với chú Khoa, chú Huân cũng vì quý ba chú. Chứ tôi đọc Blog nhiều lắm. Những tiếng nói thật bây giờ, phần lớn ở Blog, nhưng vào rồi ra, không để lại một dấu vết nào, vì cũng không có gì để nói... Văn chương lại là chốn rất nghiêm túc. Chú có chút tài, nên tôi hy vọng chú thành một tác giả đích thực. Chỉ tiếc chú chưa thực sự ý thức về điều này, dù đã ra đến cả chục tập sách. Vì vậy, mà tôi nhắc chú thôi, nếu gặp chú thì tôi nói miệng, chẳng viết làm gì, Nhưng hiện tôi ở xa, mãi Thủ Đức, mà chú thì ở Hà Nội, thành thử mới phải nhắn qua bức thư ngỏ, với cái tên rất hiện đại là cảm nhận. Chúc chú thành công.". (lúc 08h48, ngày 17.3.2011).

Khi đã biết vị khách Người qua đường là nhà văn Nhật Tuấn, thì mọi sự với tôi đều sáng tỏ. Tôi nhớ lại, từ vài chục năm trước, khi tôi theo đòi nghiệp văn chương thơ phú, thì Nhật Tuấn đã vang danh rồi. Ngày ấy, nhờ truyện ngắn Trang 17 của ông mà tôi hiểu tại sao, tất cả các cuốn sách trong hệ thống thư viện nói chung, để ấn định bất kỳ một bản sách nào thuộc quyền sở hữu của thư viện nào đó, người ta lại đóng con dấu của thư viện đó vào chân trang sách số 17, đơn giản bởi trong kỹ thuật in sách, mỗi tay sách gồm 16 trang, nên trang số 17 là trang đầu của tay sách thứ 2 trong văn bản sách đó. Mặc nhiên, đấy là quy định chung của ngành thư viện trên khắp thế giới. Cũng chính vì vỡ nhẽ điều này, sau đó, tôi bắt chước, khắc một con dấu gỗ tên mình để đóng vào trang 17 toàn bộ sách trong thư viện mi-ni của mình. Ngay truyện vừa Con chim biết chọn hạt của Nhật Tuấn, ông cũng cho bạn đọc hiểu một việc mà rất ít người biết, ấy là sự ứng dụng mang tính sáng tạo của ngành thư viện, lưu trữ văn bản nước ta, trong việc sử dụng phiếu đục lỗ cho việc lưu trữ, tìm kiếm, tra cứu tài liệu văn bản tiện lợi dễ dàng hơn. Sau này, tin học phát triển, tôi nghĩ, phải chăng, việc sử dụng phiếu đục lỗ ngày đó, chính là một dạng ứng tin học đơn giản trong thực tế đời sống?

Và rồi, tôi cũng nhanh chóng biết được, Nhật Tuấn có người anh ruột là nhà văn hải ngoại Nhật Tiến, và việc này cũng ít nhiều gây phiền hà cho ông. Bạn bè văn chương cũng gửi cho tôi đọc những bài phê bình văn học của ông, với bút danh Trần Ngọc Lãng. Ở đó, ông thẳng tưng đánh giá sự nghiệp sáng tác, cùng mức độ đóng góp của một số tác gia thuộc hàng đầu làng văn chương xứ Việt thời hiện đại, cho sự phát triển chung của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Đọc rồi, ngẫm nghĩ, so sánh này nọ, mới thấy cái dũng khí và năng lực phê bình ở ông không nhỏ chút nào,... Vậy nên, việc ông ghi cảm nhận này nọ trong Blog Tiếng Việt, vẫn một tâm thế và giọng điệu Trần Ngọc Lãng, thì chỉ như cái khẽ gảy móng tay của Nhật Tuấn mà thôi. Nghĩ thế, tôi thấy mình may mắn vì được ông đoái hoài, nhận xét và khuyên răn này nọ.

Và cũng mừng, mình đã đôi lần uống rượu với Nhật Tuấn. Nhớ lại, khi ấy nơi làm việc của tôi và nhà văn Nguyễn Hiếu, Nguyễn Trọng Huân ở 41-43-45 Bà Triệu, cũng gần nơi làm việc của Nhật Tuấn là Nhà xuất bản Văn học ở góc phố Hàng Bài-Trần Hưng Đạo, liền kề với Trụ sở Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam- 51 Trần Hưng Đạo. Tháng vài ba lần, ba anh em chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm bụi buổi trưa, và quán cơm bình dân Anh Đào ở gần góc phố Hàng Bài-Hàm Long là nơi chúng tôi hay chọn ăn. Ở quán này, chúng tôi thường chạm mặt dân báo chí, văn chương Hà thành. Một lần, đang ăn ở đây thì Nguyễn Hiếu chợt nhận thấy Nhật Tuấn ngồi ăn cách một bàn, bèn mang chén rượu sang cụng ly với Nhật Tuấn và thực khách bên ấy, rồi Nguyễn Hiếu lôi Nhật Tuấn về bàn mình, giới thiệu ông với chúng tôi và ngược lại. Ấy là lần đầu tiên tôi giáp mặt Nhật Tuấn. Lần sau, cũng tại quán cơm đó, chúng tôi đến sau, thấy Nhật Tuấn và bạn ông đã ngồi ăn và Nguyễn Hiếu liền ghép vào chúng tôi vào chung một bàn. Cụng ly dăm bận, rượu vào lời ra, chuyện làng văn rôm rả. Tôi mạnh dạn thưa với nhà văn đàn anh rằng tôi đã đọc Trang 17 và Con chim biết chọn hạt, cùng một số truyện ngắn của ông trên báo chí. Ông lúc gật gù, lúc sảng khoái, bảo là có biết tên và cũng đã đọc mấy truyện ngắn và tản văn của tôi trên báo, này nọ khen chê đôi chút. Ngày ấy, tôi sung sức và chịu khó cày báo chí văn chương này nọ đặng kiếm nhuận bút thêm thắt nuôi con nhỏ, nên truyện và tản văn của tôi đăng khá đều trên các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Hà Nội mới cuối tuần,Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Pháp Luật cuối tháng... Lần gặp ấy, ông để lại trong tôi thiện cảm về tính bộc trực và sự gần gũi, thân thiện của nhà văn đàn anh. Vậy mà, bẵng đi dăm bảy năm, trong khi tôi không mấy nhớ, thì Nhật Tuấn vẫn nhớ và nhắc lại chi tiết. Thực lòng, tôi cảm thấy gì đó như có lỗi với ông...

Khi tôi đăng bài viết "Đào Chìm & nghệ thuật xây dựng không gian truyện" trên trang cá nhân, mọi người ào ào vào ghi cảm nhận, chủ yếu là khen bài viết tốt, trong đó có các cao thủ như PGS.TS Minh Tâm, một số nhà văn hải ngoại như Vũ Thư Hiên, Vũ Trọng Trường và đặc biệt Vũ Hoàng Địch (con của nhà thơ Vũ Hoàng Chương), Đại tá Trần Trọng Trí, vị cựu thuyền trưởng tàu HQ05-nguyên mẫu của chính trị viên Thuận trong Đảo Chìm, cùng các thùy thủ thuộc quyền một thời của ông và nhiều bạn đọc khác. Tựu chung, mọi người khen bài viết gọn gàng, súc tích, có sử dụng thi pháp khá nhuần nhuyễn, và quan trọng làm sáng tỏ và tôn trọng giá trị đích thực của tác phẩm này. Trần Đăng Khoa lấy đó làm vui, và đương nhiên, không thể thiếu nhận xét của Nhật Tuấn, ông viết: "Tôi cũng đã đọc Đảo chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể loại khác. Nhưng đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui vui, như chơi, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc cũng rất mới, cũng là một phát hiện, mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Nhạc. Tiếc là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay. Tôi vẫn nói Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài, dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy".

Thực lòng, tôi vui vì nhận xét của các bậc cao thủ văn chương, nhưng vui nhất là nhận xét của Nhật Tuấn, bời vượt qua sự nhận xét thông thường, ông còn chỉ ra những điểm mạnh yếu của tôi và có lời khuyên chân tình. Riêng về lời khuyên của Nhật Tuấn và các bậc đàn anh văn chương, đẩy bài viết này lên thành một nghiên cứu về thi pháp tiểu thuyết của Trần Đăng Khoa, thì tôi nghe làm vui thôi, bởi tự thân, tôi không có ý dấn thân vào lĩnh vực lý luận phê bình, mà xem đó như một thú rong chơi thôi. Thể loại yêu thích của tôi vẫn là truyện ngắn và tản văn...

Tôi đăng bài thơ Đón đợi, viết từ gần hai chục năm trước, Nhật Tuấn cảm nhận: "Chú Nhạc. Tôi không bàn về bài thơ này của chú đâu, dù trong đó cũng có đoạn được, thậm chí có thể gọi là hay, như cái đoạn đợi chờ, trời đất vắng hết, ngẩng lên chỉ còn mỗi vầng trăng thôi. Nhưng đó cũng vẫn là cái hay ở dạng nhàng nhàng.Tất nhiên thơ in trên báo Văn nghệ, trên tạp chí Nhà Văn, thậm chí trên cả một tạp chí chuyên biệt giành riêng cho thơ là tạp chí Thơ cũng chẳng hơn thơ chú đấu, nhiều bài còn thua xa thơ chú. Gần đây, nhà phê bình X, nhà văn Y cũng nhảy sang làm thơ là thế giới thi ca ngậu xị rồi... Có thể lảy thơ Ông Cụ : Nhà nhà làm thơ/ Người người làm thơ/ Vè nhất định thắng/ Thơ nhất định thua... Thế thì chú còn xông vào cái sa tràng bại trận "nhất định thua" đó làm gì. Tôi vẫn thấy chú rất mạnh ở mảng văn xuôi và phê bình. Bài nào cũng có một cái gì đó lấp lánh. Cái độ lấp lánh này mật độ không dày và không chuyên nghiệp như thằng Khoa, nhưng rất khá, và có điểm chú còn chói hơn  Khoa. Nhưng Khoa hơn chú vì nó chuyên tâm và có ý thức vì điều đó, vì thế, nó mới thành nó. Còn chú thì cho đến giờ phút này vẫn đếch thành cái gì cả. Tôi tiếc cho chú mà nhắc chú thôi, vì chú có tài. Tôi rất quý những thằng có tài, nên cứ nói. Đấy cũng có khi là bệnh của người già. (Tôi đã hơn 70 rồi). Mặc dù nói thế này, có thể những người hâm mộ chú thái quá có thể lại chửi tôi, nhưng vì quý chú mà tôi cứ nói. Hôm vừa rồi, tôi ra Hà Nội, có đến thăm chú và thằng Khoa, nhưng cả hai thằng đều đi vắng. Tôi có nhìn thấy cậu Huân, nhưng tôi không làm phiền cậu ấy. Từ ngày có chú và thằng Khoa tham gia Blog, nhất là khi có sự xuất hiện của Khoa, giới Blog rất sinh động và có sinh khí, hay hẳn. Thế mới lạ chứ. Khoa đưa ra trò độc, thiên hạ cũng chiềng ra toàn của độc, chất văn chương thì họ không bằng Khoa, nhưng tài có chỗ cũng không kém Khoa đâu. Nhiều chiêu độc ở cái Xóm lá này, đáng nể lắm. Tôi thực sự bái phục đấy.". (17.04.11@07:26).

Tôi mừng, vì Nhật Tuấn tuy vẫn tỏ ra khó chịu với thơ ca hiện nay, song ông cũng phải thừa nhận, nhiều người tham gia mạng Blog Tiếng Việt thực tài, khiến ông phải bái phục.

Tâm phục khẩu phục, song cẩn trọng không thừa, tôi phúc đáp: "Kính bác. Em luôn lắng nghe bác. Và có thể nói, tự thâm tâm, luôn mong đợi những lời góp ý của bác. Em thấy bác nói đúng (về em, về Khoa và nói chung văn học hiện nay) . Em cũng nghe Khoa nói về những bài viết của bác về văn học. Điều đó, càng khiến em nể trọng bác. Tuy nhiên, khi tham gia blog, ngoài chuyện văn chương, còn mang nhiều yếu tố giao du vui vẻ, cho nên "món ăn trên mâm cơm blog" cũng cần có nhiều món. Vả lại, với thơ, từ trước đến nay, em (và chắc nhiều người khác) cũng chỉ xem như sự giải tỏa thôi... Với riêng em, thơ chưa bao giờ là một sự nghiệp cả. Thế nên, việc có in tập hay không thì chỉ là chuyện "cả làng cùng vui". Thêm nữa, em tự biết mình, cái mạnh không phải là thơ, có chăng ít nhiều ở văn xuôi và phê bình, chân dung văn học... Hơn nữa, blog chưa phải là phản ánh đầy đủ mình, bởi nhiều cái đưa lên đây không tiện, bác ạ. Tiếc là hôm em và Khoa vào Sài Gòn, biết bác ở Thủ Đức, song không biết cụ thể ở đâu nên khó liên lạc, vả lại, bác cũng lại ra Hà Nội. Nếu có thể, bác cho em (hoặc Khoa) biết số điện thoại liên lạc, để khi có điều kiện thì alô đến thăm bác. Cả em và Khoa đều hay đi Sài gòn. Mong bác vào blog của em thường xuyên, và cứ nhận xét thẳng tưng. Em thích vậy, bác ạ. Xóm Lá này cũng rất đáng nể trọng và đáng yêu lắm đấy. Nhiều người có tài và có tâm, như bác thấy và đã nhận xét...".

Vậy là, tôi và nhà văn Nhật Tuấn đã hiểu nhau hơn, và có thể, mọi người trong Xóm Lá cũng thông cảm, mà không phản ứng thái quá với những nhận xét khó nghe của ông.

Ngày 27.4.2011, tôi đăng bài thơ Chiêm bao, Nhật Tuấn vào cảm nhận: "Chú Nhạc. Tôi vừa đọc một bài viết hay, rất cảm động bên chú Khoa, sang chú lại gặp chú vày thơ. Tôi định không đọc. Nhưng tò mò xem thế nào thì thấy hay. Đây là bài hay nhất của thơ chú mà tôi được đọc. Chú nên chữa một câu kết thì thành một bài thơ hoàn chỉnh. Chú thay chữ "ngỡ" thành chữ "thấy", khẳng định, và thay chữ "đâu" thành chữ "đang". Chiêm bao khi đang tỉnh mới tuyệt. "Tiếng động nào hiên ngoài chênh chao/ Sực tỉnh thấy mình đang chiêm bao...". Tuyệt vời chú Nhạc ạ." . (30.04.11@22:53)

Phải nói, tôi mừng, vì rốt cuộc, ông nhà văn kiêm nhà phê bình khó tính này, cũng phải buột miệng khen thơ. Ngay sau đó, Trần Đăng Khoa vào cuộc: "Đồng ý với đại ca, bài thơ lênh phênh chênh chao này là bài hay nhất của Nhạc. Hay vì nó lạ, giai điệu lạ, thoát khỏi cái thông thường. Bác tinh đấy, không phải chỉ trong văn xuôi mà cả thơ nữa. Mấy góp ý của bác rất chuẩn. Cao thủ. Tất nhiên ý Nhạc cũng như ý bác thôi, vẫn là chiêm bao trong lúc tỉnh, nhưng thay hai chữ, diễn đạt như bác thì câu thơ sáng hơn, cao thủ hơn. Nhưng ý thì vẫn là một. Nhạc viết bài này là ứng tác, nhân đọc một bài thơ của bạn rồi viết ngay một bài theo tư duy khác hẳn. Vì ứng tác, nên câu chữ không thể chuẩn ngay được. Trong bếp núc sáng tạo, nhiều khi rất thú vị như thế đấy. Viết đùa, viết chơi thì lại hay, thậm chí có những câu lóe sáng bất ngờ, còn cứ gò gẫm, có ý thức làm một tác phẩm để đời thì có khi tác phẩm lại hỏng, những con chữ còng queo chết ngay khi vừa nhô ra khỏi ngòi bút hay bàn phím. Thú vị thật!". (01.05.11@11:10).

Nhật Tuấn đang hăng, tiếp đã đàm luận văn chương: "@TĐK. Chú nói đúng. Trong sáng tạo, cần tự do. Tự do lớn nhất vẫn là tự do trước chính mình. Nhiều thi sĩ nổi tiếng, đùa hoặc ký tên nhắng thì rất hay, ký tên mình và cố gò gẫm theo kiểu "thôi - xao" thì dở ẹt. Chứ tự do không phải là chuyện o ép của chính quyền như một số anh cứ lu loa. Chả có thời nào bị bóp nghẹt và mất tự do như thời phong kiến, mà sao vẫn có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương. Bây giờ thì tự do đấy, ai cấm ai đâu, viết xong là tự xuất bản, đưa lên Blog, đi toàn cầu, có cha còn tự dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, in song ngữ, cũng như cái cậu gì ấy tự phong thần đồng, mà sao vẫn không mọc mũi sủi tăm lên được. Tôi nghĩ thời này là thời rất hay. Không đổ lỗi cho ai được. Có tài thì sẽ nổi danh ngay" (01.05.11@21:51)

Cái hay, cái thích ở đây, là hai cao thủ Nhật Tuấn và Trần Đăng Khoa mượn cớ bài thơ Chiêm bao của tôi để bàn về lý luận thi ca nói chung, súc tích mà dể hiểu. Quan trọng nữa, Nhật Tuấn đã khảng khái đưa ra nhận định về tài năng văn chương, điểm chính yếu để làm nên tên tuổi tác phẩm-tác giả, chứ không vìn vào này nọ, hoặc đổ lỗi cho thời cuộc như nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Thấm luận điểm này của Nhật Tuấn trong văn chương xứ ta, tôi lại nhớ đến cái truyện hài hước Giá không có ruồi của nhà văn người Thổ Nhĩ Kỳ là Azit Nê-xin...

Ngay sau đó, tôi chỉnh sửa bài thơ Chiêm bao theo như góp ý của Nhật Tuấn, nghĩ thế thôi, không ngờ ông vào xem và không quên động viên: "@Chú Nhạc. Đọc lại bài chỉnh của chú rồi. Chuẩn. Gửi cho báo Văn nghệ hoặc Tạp chí Thơ Hội Nhà văn nó in cho. Tôi cũng có đọc bài này của chú cho mấy thằng nghe rồi, chúng đều khen cả. Không có gì giống Bích Khê và Xuân Diệu cả, dù họ cũng làm thơ theo kiểu độc vận và dùng toàn âm bằng. Chú là một dạng khác hẳn. Tôi cũng đã vào đọc cái bài khơi nguồn cho chú. Nhưng thấy nó chẳng ra cái lý cố gì cả. Nhạt toẹt. Mừng chú". (01.05.11@21:39). Mặc dù chỉ là động viên cho phải phép, khi đàn em nghe lời mình, nhưng Nhật Tuấn vẫn không quên cài thêm ý kiến phê bình của mình về thơ ca nói chung. Có cảm giác, Nhật Tuấn đang ở vào thời kỳ sung mãn về lý luận, phê bình, nên mọi cảm quan của ông về lĩnh vực này tràn ứ, cứ muốn ứa ra mỗi khi ai đụng đến ông hay ông va quệt vào ai vậy?...

Bẵng đi một dạo, không thấy ông xuất hiện nơi Xóm Lá, cho đến khi tôi đăng bài thơ Mưa Ngâu, Trần Đăng Khoa ghi cảm nhận, khen: "Ai hiểu đời tư Chu Nhạc sẽ thấy bài thơ này rất hay. Mình tin một cô giáo mà Nhạc cứ lo em cóng lạnh đôi tay trên bục giảng khi mùa ngâu về ấy, chắc sẽ khóc khi đọc lại những trang kỷ niệm này. Có một vài chữ, mình tin ông vi tính sai, chứ một con cáo già trong văn chương như Chu Nhạc không thể ngớ ngẩn như vậy. Có mấy câu mình thích:"Nước mắt nở những chùm hoa ngâu/ thơm lặng thầm như ai nhớ thương nhau." Hay . "Mưa ngâu ướt lạnh cây vườn/ hoa ngâu thơm cả ngoài hiên trong nhà/ mà người thì vẫn mãi xa," (17.06.11@06:51). Dường như chưa thỏa mãn, Trần Đăng Khoa bồi tiếp: "@CN. Nói thêm một chút nữa. Hai câu này rất hay và rất tinh tế: "Nước mắt nở những chùm hoa ngâu/ thơm lặng thầm như ai nhớ thương nhau". Bốn câu cuối đổ lục bát cũng rất đắc địa. Trong và xót. Có lẽ vì tránh lặp chữ "thì" mà Nhạc dùng chữ "cho", nhưng chữ ấy lại quá quen. Có thể tránh chữ "thì" ở bên trên được không? "Mưa ngâu ướt lạnh cây vườn/ hoa ngâu thơm/ cả ngoài hiên trong nhà/ mà người vẫn mịt mù xa,/ đến khi bạc tóc thì ta gặp mình...". Rất hay Nhạc ạ. À báo cho bạn bè Xóm lá biết, Lão Chu Nhạc động rồ sắp ra một tập thơ khoảng 100 bài hay đến khủng khiếp. Nhiều chị em sẽ khóc như mưa. Lão Khoa đang đọc và viết tựa"- Trần Đăng Khoa tếu táo.

Thấy đừng chẳng đặng, Nhật Tuấn cảm nhận: "@TĐK. Chú Khoa rất tinh nghề. Bài thơ của Nhạc hay. Tôi rút lại ý kiến là Nhạc chỉ nên dồn sức cho văn xuôi. Chờ đọc tập thơ mới của chú ".

Mặc dù, tự thâm tâm, tôi chưa từng nghĩ, thơ là sự nghiệp trong nghề cầm bút của mình, song tôi yêu nó. Từ những ngày tập tọng làm thơ lúc còn đi học, là tôi noi theo, bắt chước Trần Đăng Khoa, nghĩ mình làm thơ cho vui, vì mơ ước của tôi khi ấy là nghề kiến trúc sư, đặng theo nghề của cha tôi. Song cuộc đời có những khúc ngoặt không ngờ tới, ấy là việc tôi thì không đõ và trường Kiến trúc, và sau đó theo học Đại học nông nghiệp. Những năm tháng lang bạt kỳ hồ ở miền Tây Nam bộ, thời gian rảnh rỗi, tôi viết báo nghiệp dư, đặng học nghề báo và gây chút tên tuổi với mong ước trở thành người làm báo chuyên nghiệp. Làm báo, tức là cầm bút, thế là chút mầm mống thi ca văn chương này từ thời đi học, ngỡ thui chột, bất ngờ sống lại, tươi mới và đầy khát vọng lớn thành cây. Lại thơ, lại truyện ngắn, bút ký, tản văn, hầu như tôi không nề hà và đều thử sức mình ở các thể loại. Khi đã trở thành người làm báo chuyên nghiệp, lại được làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thì mầm cây văn chương trong tôi nhanh chóng bật lớn. Song hành với nghề làm báo, nghề chính kiếm cơm. đặng nuôi thân và gia đình, thì văn chương thơ phú là gia vị bổ trợ, cho mình rèn rũa ý tứ, câu chữ, tâm tính, là chỗ dựa tinh thần... Và rồi, văn chương nó ám vào mình lúc nào không biết, để thành nghiệp. Mà một khi đã thành nghiệp, thì có đánh đến chết cũng không từ bỏ được, còn hơn cả kẻ nghiện ma túy vậy!... Kim cổ đông tây, đã từng cho thấy, biết bao kẻ kiệt quệ về thân xác, ngẩn ngơ về tinh thần là vì văn chương thơ phú đó sao?!...

Vậy nên, tôi vui vì Nhật Tuấn đã rút lại lời khuyên tôi bỏ thơ, chỉ tập trung trí lực và văn xuôi và phê bình, không những thế, ông còn chờ mong tôi xuất bản thơ nữa kia. Tôi tin là Nhật Tuấn thật lòng, bởi đơn giản, tôi chỉ là chú em nhỏ của ông thôi, chẳng việc gì ông phải nói lấy lòng, trong khi, bằng khả năng phê bình sắc sảo và trực tính của mình, ông đã từng hạ bệ, nếu không muốn nói mạnh là lật nhào, nhiều tượng đài tên tuổi của làng văn chương đất Việt hiện đại là gì !?... Ngày ấy, khi làm việc tại Văn phòng phía Nam của Nhà xuất bản Văn học, Nhật Tuấn đã bày tỏ thái độ đồng tình với nhà thơ Xuân Sách khi xuất bản tập Chân dung nhà văn, mà ở đó, theo Nhật Tuấn, không chỉ là chân dung đơn thuần một cách hài hước, ấy là chân tướng của các vị...

Sau cảm nhận vào bài thơ Mưa ngâu, Nhật Tuấn mất tăm, không để lại dấu tích gì thêm trên trang cá nhân của tôi, nhưng theo Trần Đăng Khoa, thi thoảng ông vẫn vào ghi cảm nhận đâu đó trên trang Lão Khoa (tên trang cá nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa ở Blog Tiếng Việt). Tôi nghĩ, có thể Nhật Tuấn vẫn vào xem, nhưng thấy không cần thiết ý kiến ý cò gì thêm nữa, hoặc giả, ông chán chường với thứ mà ông cho là khen chê cho phải phép, lấy lòng nhau trên không gian ảo này rồi ?...

Bẵng đi, thảng tôi vẫn nhớ Nhật Tuấn và thèm được đọc những cảm nhận mang chất gây sự của ông, cho đến một hôm, vào đầu giờ làm việc một ngày thu tháng mười, Trần Đăng Khoa gõ của vào phòng làm việc của tôi, vừa bước vào, buồn buồn thông báo: "Nhạc à, Nhật Tuấn vừa mới mất...". Tôi lặng người đi. Tôi và Trần Đăng Khoa, chén trà trên tay mà chẳng biết tiếp câu chuyện thư thế nào. Tự dưng, ký ức về Nhật Tuấn ùa về. Ông mất đột ngột vì chứng viêm cấp hành tá tràng vào ngày mồng 6 tháng 10 năm 2015, và ngẫu nhiên, trùng với sinh nhật lần thứ 58 của tôi. Chuyện về Nhật Tuấn, chúng tôi nói về các sáng tác chính của ông, đặc biệt là loạt bài phê bình đánh giá lại một số tên tuổi văn chương Việt hiện đại,  và không quên nhắc chuyện ông từng quấy động Xóm Lá ngày nào. Trần Đăng Khoa bảo, với trọng trách, tình cảm cá nhân và lòng kính trọng dành cho Nhật Tuấn, sẽ bay vào Nam để cùng gia đình và Hội Nhà văn tổ chức tang lễ cho ông...

Giờ đây, lần giở từng trang mục của mình trên Blog Tiếng Việt, bao chuyện cũ sống lại, và trong đó, hình bóng của hai con người, chỉ là khách vãng lai trên các trang mục blog của tôi, ấy là đại tá Trần Trọng Trí, cựu thuyền trưởng tàu HQ05 Hải quân Trường Sa và nhà văn Nhật Tuấn là đậm nét nhất. Thâm tâm, tôi kính trọng và yêu quý hai con người này, dù người trước người sau, đã cùng vân du về cõi thiên thu...

Tôi đã viết chân dung đại tá Trần Trọng Trí (Người thơ tôi chưa từng gặp mặt-Tập chân dung Trời đất thu hay lòng ta thu-Nxb Dân trí 2016), và với riêng tôi, Trần Trọng Trí mãi là Người thơ của biển. Nay ký họa chân nhà văn Nhật Tuấn, như một sự tri ân với người đàn anh văn chương, với bậc đại ca (như cách gọi vui mà tôi từng thưa gửi với Nhật Tuấn), mặc dù, ông không cần và cũng chẳng biết điều đó. Với tôi, Nhật Tuấn xứng đáng là Con chim biết chọn hạt trong lĩnh vực phê bình văn học, như ý đồ ông đã định ra từ hơn ba mươi năm trước. Nhân đây, tôi có đôi điều thưa với đại ca Nhật Tuấn rằng,...

Thứ nhất, tôi vẫn sáng tác đều, các thể loại mà tôi thấy mình có thể, tuy nhiên, bới bản tính ngại quan hệ tiếp xúc này nọ, nên mặc dù có đến vài chục cuốn sách xuất bản, vẫn xem như chưa thành danh và sự nghiệp gì... Vậy nên chăng, đại ca ơi?

Thứ hai, chuyện xứ ta, nhà nhà làm thơ, người người làm thơ, âu cũng là một sự đặc biệt của xứ sở này, mà chẳng nơi đâu trên trái đất này có được... Chẳng hay lắm sao?! Với lại, người dân Việt mình yêu thơ, thích làm thơ là mang tính truyền thống đất chứ? Người làm thơ nói chung, đa phần, chẳng màng chuyện thành danh hay nên sự nghiệp gì, mà là để giải tỏa nỗi lòng, để giao lưu bạn bè, để dưỡng dục tinh thần mình, đặng trụ vững trên mảnh đất chiến tranh liên miên và đầy rẫy bất trắc... Thêm nữa, trong cái vườn thi ca toàn dân trăm hoa đua nở này, có nhiều loại hoa quý, hương sắc lạ, mà dễ gì giới văn thơ chuyên nghiệp có được, đại ca nhỉ?!...

 

Tủm tỉm Lê Đình Cánh.

          

          1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát

Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt Nam thời nay, mà tôi xin được trải ra, để mời mấy nhà thơ vào ngồi, mỗi người một góc, mà ở đó có nhà thơ Lê Đình Cánh.

          Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.

          Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ, mà cụ thể lại là Thơ lục bát

          Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc, trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất lành do NXB Thanh Niên ấn hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).

          Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“ (bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt Nam hiện đại...

          Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca Việt Nam hiện đại, phải cần nhiều “đinh” hơn thế. Chẳng qua, mấy bài thơ,  câu thơ nọ, là dấu ấn đầu tiên khiến người ta bắt đầu nhận diện ra riêng một Lê Đình Cánh, trong số rất nhiều nhà thơ và người làm thơ ở xứ ta mà thôi.

          Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ lục bát...

          Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc, song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc chở đầy ước mong”.

Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ, lập ý rõ ràng

Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng, têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.

Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu, câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...

          Vậy là, khi mang những nhận định trên mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông Chùy, Cõi xưa,  Bến quê, Trở lại Ba Lòng, Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...

          Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ, dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.

Xin được viện dẫn, như :

         

Mải lo cơm đủ áo lành

Còn đâu lúc rỗi để thành vọng phu

( Gió đất )

Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già

( Em đi )

Tình yêu như thể chơi đề
           Đợi con độc đắc lại về trắng tay...

... Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

( Chợ tình )

Chốn quê vẹo cột vênh kèo

Ốc cam phận ốc lại đèo kiếp rêu.

( Chợ người )

Đố ai hết nợ đàn bà

Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu

Xế tà tháp lặn vào mây

Vầng trăng chính sử hao gày hoàng hôn

( Lời xưa )

Sau già là cõi xa xăm

Nén hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.

( Hỏi đất )

Giếng làng mưa bão vẫn trong

Chợ quê rớt già vẫn đong đếm đầy

( Thú quê )

Đao đình cong nỗi phế hưng

Một thời lá rụng dửng dưng sân chùa

( Phận rùa )

Tuổi già như thể nắng hanh

Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều

( Về hưu )

Ơi người áo mũ cân đai

Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành

( Tiểu sành )

Nắm tay củ ấu vẫn tròn

Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi

( Chợ Mơ )

Giả vờ có ngủ được đâu

Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi

( Ngủ nhờ )

Ngày xưa xe lộn về Bần

Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu

( Về Phố Hiến )

Nẻo đường bồ bịch cong cong

Vừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...

( Nẻo đường cong cong )

Bắt chồng em có chọn anh

Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu

Như là đồng đất chọn trâu

Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày

Chọn anh như cối chọn chày

Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô

( Bắt chồng )

Thân cò trở lại nghề nông

Rời cây súng biết tay không có gì

Mấy đồng hưu trí thấm chi

Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người

( Anh lại đi cày )

Nứa mai thưng hở vách lều

Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy

Mưa bay như thể sương dầy

Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay

( Gặp ở Mường Tè )...

          Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...

Chẳng hạn, như:

Thế cờ nghiêng về đâu

Pháo mã thành vô dụng

Sĩ tượng thành thất sủng

Tốt đen cười sang sông

( Nắng Hàm Tân )

Ai biết được ma nào ăn cỗ

Ai dại gì công bố chuyện đi đêm

( Vợ Ba )

Gặp bạn tình lòng đã thấy no

Rượu chưa nhắp lời đà có lửa

Trưa đứng nắng bồn chồn vó ngựa

Chợ lim rim một nửa sang chiều.

( Chợ Bắc Hà )

Đường một chiều cứ thế tôi đi

Tôi biết dại làm người nhụt chí

Cái đáng vứt lại cất làm của quý

Cái phải chôn đi lại để trưng bày

( Đường Bà Triệu )

Đâu đá lát lên đền Tam Tổng

Lạnh khói hương thông thốc giữa trời

Hai hộ pháp vẫn muôn đời gác cổng

Ông Ác cười! Ông Thiện toát mồ hôi...

... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo

Thời gian như nước ngầm băng hoại

Trái tim tôi càng sống càng nghèo

( Quê ngoại )

Mùa khô Đồng Văn trơ gió

Gió khê lời đá thở dài

Gió như tiền vào nhà khó

Một đời gió thổi trần ai

( Mùa khô Đồng Văn )

 v.v..

Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này. Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên, Phố Làng v.v...:

Ví như :

Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh

Để êm đỡ trẻ. Để anh đỡ già

( Hát Karaoke )

Phố làng xóa sổ nông dân

Quán quê lai ghép công nhân nửa mùa

Lượn lờ chào bán gọi mua

Dật dờ chai cốc được thua với đề

( Phố Làng )

Mảnh bằng bán tận châu Phi

Tiền lương đếm lại nhiều khi mủi lòng

Ước mơ xé lẻ từng đồng

Thương con liệt sĩ lấy chồng thương binh,

Vết thương như kẻ vô tình

Tấy lên những lúc gia đình ăn vay.

( Vàng xám ) v.v...

Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông, thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ lục bát cổ truyền, riêng có của xứ ta !...

Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...

 

         2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.

Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ, đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015, con số đã là 7.

Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật, nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...

Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa, uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...

Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh. Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông  từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến chủ thành khách, còn mình từ khách thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia tăng hàm lượng văn chương cho bài biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút chuyên ký sự khác cùng thời...

Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết dạng này, khá thành công, như: Hoa sen, Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...

Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...

Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông, quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này, tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...

Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể loại bút ký, ký sự văn học !...

 

3.     Tủm tỉm Lê Đình Cánh.    

Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu, nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV), tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở 58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phảI hàng năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng). Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân độiTạp chí Văn học (Viện Văn học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên, thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát sóng, để sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.

          Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên, đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học thiếu nhi nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Và nhờ tham gia Trại viết đó, tôi được gặp gỡ, làm quen với một số cây bút trong lĩnh vực này như Thai Sắc, Thái Vĩnh Linh, Hoài Khánh, Lê Minh Hoài và Phong Điệp khi đó còn rất trẻ... Hơn thế, tôi còn được tiếp xúc, được nghe nói chuyện, và trao đổi với các nhà văn mà tôi vốn kính nể là Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Phạm Hổ, v.v... Tôi đã viết về chuyện này trong chân dung văn học “Phạm Hổ, người thắp lửa”, nên không nhắc lại ở đây. Thành thật, tất cả những gì mà nhà thơ Lê Đình Cánh từng ưu ái dành cho tôi, ngày ấy, bây giờ, tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về hết thẩy!...

          Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông, trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổ, việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ... Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân gian.  Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều, chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người được đồng hóa, gán với  nhân vật Trạng Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt, Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng khư khướu nhưng viết ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...

          Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ) Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa miệng thì vẫn đấy....

          Sau những xã giao thông thường, bập vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa, vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm, được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác từ thời là người của nhà Đài (VOV), cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống chung với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.

Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là, mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với gia đình, với cuộc đời này !...

Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây ?...

 

         

 

 

 

Nguyễn Hiếu, nhà văn người làng Chèm

1, Dấu ấn làng Chèm.

 

       Nhà văn Nguyễn Hiếu luôn tự hào là người làng Chèm.

       Vậy cài làng Chèm ấy là làng nào?

       Làng Chèm có tên chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu ngạn sông Hồng đoạn đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào diện làng cổ Việt, với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di sản văn hóa. Tương truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến năm 866, Cao Biền, quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và tạc tượng Lý Ông Trọng (tên thật là Lý Thân), một vị võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến công hiển hách, và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này, Lý Ông Trọng được người đời tôn  như vị Thánh, thờ phụng ở nhiều nơi cả Việt Nam và Trung Hoa. Đương nhiên, vì quê gốc Lý Ông Trọng ở làng Chèm, nên  được thờ phụng ở đình Chèm (nay gọi Đền Chèm) với tư cách Thần Hoàng làng, và có ý nghĩa hơn bất kỳ nơi thờ phụng ông nào khác. Vùng đất với bề dày trầm tích lịch sử văn hóa như vậy, Nguyễn Hiếu tự hào là người con của làng Chèm cũng phải thôi.
       Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ, nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy, rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu, cười đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "Tay này, văn chương của hắn ngai ngái mùi cỏ và hoai hoai vị phân trâu làng Chèm. Viết lách, hắn vơ víu, nhặt nhạnh, cấm bỏ sót cái gì, từ bãi phân gà phân chó làng Chèm trở đi...". Nghe vậy, Nguyễn Hiếu chỉ cười khì, không giận, bởi ông hiểu, ngoài sự tếu táo, đùa cợt cửa miệng cho vui ấy, là một sự thật, ấy sự thấu hiểu ngọn ngành, chân tơ kẽ tóc, từ lịch sử văn hóa đến phong tục tập quán và đời sống dân sinh của làng Chèm, một làng mang tính điển hình cho làng quê Bắc bộ xưa nay. Và như thế, khác nào việc thấu hiểu văn hóa làng quê Việt cổ truyền vậy ?...
       Trong văn chương của Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng dễ bề bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên làng Chiện. Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì hầu như làng Chiện có cả, song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa hẳn đã có. Vây nên, làng Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của Nguyễn Hiếu mà thôi. 
       Thế là cái làng Chiện ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày biện các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất hiện lẻ tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của ông.   

2. Nguyễn Hiếu, phu chữ,

        Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.

          Trước khi điểm những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ, cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần, Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá lớn tác phẩm đã xuất bản. 

          Năm 1984, Nguyễn Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhó một cách đầy tự hào, rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những người thích đùa, của  nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội, dựng pa-nô quáng bá vẽ bìa cuốn sách này...

          Sau tập sách đầu tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu thuyết “Người đàn bà quỷ ám”.  Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án...  Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi đườngTôi bán mình. Giải thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn  Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết. Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...

          Sàu quãng thời gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách. Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật (Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội nghệ sĩ sân khấu, Hội Điện ảnh VIệt Nam).

Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích dự các Trạo sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia. Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc. 

Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài ?!...

Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như  Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!

         

3. Chất hài, người và văn.

Ở xứ Việt mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ, là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố (trong Việc làng), và nhà văn Nam Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...

Lóp trước là vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây văn chương giàu yếu tố uy-mua như Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...

Thường thì, văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người, trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương  hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa” ( chằng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản xuất chương trình của nhà Đài)...

Đấy là con người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra  tập hài nữa là “Cười dành cho tất cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ hài. Tuy không chuyên tâm viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết các tác phẩm của ông ở mọi thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch phim, tiểu luận, phê bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một thế mạnh của Nguyễn Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dình vô cũng quan trọng giúp các tác phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số tác phẩm về  ý tưởng, hoặc kết cầu, còn non. Hài là yếu tố đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh vốn có này, đã chuyền dần sang địa hạt sâu khẫu và ông khá thành công. Kịch bản của ông không những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng cao trong các hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, nhan nhản chi tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn học, cũng thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hừng hài hước. Đợt dự trại sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc trá dư tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra nhiều nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn xác, ngắn gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...

 

4. Lãng đãng thơ

          Làng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém miềng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia, song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca. Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì  riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả kịch thơ, trường ca. 

          Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài viết dài bàn luận “Tính công dân trong thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn ngữ kịch đã làm nên tính công dân trong thơ ông?

          Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông. Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như vậy, thưởng tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết, Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng, Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận, bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo ra đấy, cần chi phài đọc hết cả bài cho mất công !?...

          Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ,  mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có cái đọng lại để khen.

          Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới, đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt Nam. Xin viện dẫn:

Đầy suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/ Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/ Tình một thủa ai quên?...” (Trở lại căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả bây giờ/ Ai đi qua đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi thoi đụn nhà mái rạ/ Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái lùn đi vì gánh vì gồng/ Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng gày/ Con thuyền cũng mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...”  (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh)...

          Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.

Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi, trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/ Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn, khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); Một thùa làng tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh tư đã rời hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người chập choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng sâu...” “Một thời làng tôi/ Đàn ông vợi đi vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu cứng mồm hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/ Thóc giống cắn chuột trong bồ...” (Đàn ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa ấy thế/ Nước dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không chua vị khế/ Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ hát/ Dây quai thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng ông chuếnh choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);

          Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ Rét ở Mường Khương, nỡm mọi người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữa“Có thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp vào

Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lử/ Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..

          Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn, đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình... /.

 

 

 

PHẠM HỒNG NHẬT,

 từ nhiệt huyết minh họa cuộc sống

đến những nỗi niềm cõi nhân gian...

 

Tôi biết đến nhà thơ Phạm Hồng Nhật, con người và thơ ông trong một lần gặp tình cờ ở văn phòng của nhà thơ Trần Đăng Khoa tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam. Hôm ấy, Phạm Hồng Nhật và Trần Đăng Khoa nói chuyện về các nhà thơ, nhà văn của vùng đất Đông Bắc một thời với những tên tuổi Trần Nhuận Minh, Lý Biên Cương, Tô Ngọc Hiến, Dương Hướng, Sỹ Hồng, Yên Đức (Quàng Ninh), Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh (Hải Phòng) v.v... Qua câu chuyện, tôi biết được Phạm Hồng Nhật làm thơ khá sớm, cùng thời với Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng, Phạm Doanh và khi ấy đã từng được các nhà thơ đàn anh nổi tiềng là Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông khen ngợi. Vậy có thể xem, Phạm Hồng Nhật sớm thành danh. Trong câu chuyện hôm ấy, Trần Đăng Khoa và Phạm Hồng Nhật còn nhắc đến một kỷ niệm, ấy là trận lụt lịch sử ở miền Bắc năm 1971, khi đó, Trần Đăng Khoa mới học lớp 6, kỳ nghỉ hè, ra đất mở chơi thăm người anh trai là nhà thơ Trần Nhuận Minh, rồi mắc kẹt ở đó vì mưa lũ. Trần Nhuận Minh đã gửi Khoa nhờ Phạm Hồng Nhật đưa từ Quảng Ninh về Hải Phòng, tá túc nhà người quen, rồi tiếp chặng nữa từ Hải Phòng về tận quê Nam Sách (Hải Dương). Đường về quê, nhiều đoạn bị lũ ngập nên hai anh em phải dắt xe băng qua những đoạn ngập sâu, Phạm Hồng Nhật dắt xe đạp, còn Trần Đăng Khoa bì bõm tay bám booc-ba-ga lội theo sau. Nhắc lại chuyện cũ, để thấy một thời gian khổ và mối thân tình của các nhà thơ từ ngáy ấy.

          Thực tình, trước khi gặp Phạm Hồng Nhật và đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố (Nxb Hội Nhà văn, 2016), tôi không biết gì về thơ ông, mặc dù ông sáng tác và có thơ đăng báo cùng thời với nhiều nhà thơ khác trưởng thành ở vùng đất ven biển Đông Bắc mà tôi biết đến tên tuổi (Trần Nhuận Minh, Sỹ Hỗng, Yên Đức, Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh...).

          Ấy là, Phạm Hồng Nhật sớm bị bứt khỏi vùng đất mỏ sôi động, môi trường sống, làm việc và sáng tác thân thuộc của mình về thủ đô Hà Nội làm công tác quản lý. Ông lạ lẫm và bận rộn với công việc mới, rồi những lo toan chuyện gia đình, nhà cửa mà xao nhãng thơ phú. Quen môi trường mới rồi, cuộc sống lại biến động, khi Phạm Hồng Nhật được điều sang Liên Xô (cũ) làm công tác quản lý cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc cả một vùng rộng lớn thuộc lãnh thổ Ukraina, Vậy là, cả quãng thời gian dài khoảng hai chục năm trời, ông vắng bóng trên thi đàn nước nhà, trong khi các bạn thơ cùng thời với ông ngày nào thì vẫn đều đặn làm thơ, đăng báo, xuất bản tập thơ, thậm chí gặt hái được các giải thưởng thi ca, nâng cấp từ nhà thơ địa phương lên nhà thơ trung ương, được người yêu thơ quen mặt, biết tên. Ngỡ như mất tăm, tắt hẳn một người làm thơ tên Phạm Hồng Nhật. Thì chính ông cũng từng nghĩ vậy, ngay cả khi quãng năm hai nghìn, ông từ nước ngoài trở về Việt Nam sinh sống, làm việc. Phạm Hồng Nhật bảo rằng, nhờ các bạn thơ và người thân động viên đừng bỏ thơ, nên ông sáng tác trở lại. Ông biết ơn bạn bè vì điều này, bởi đã góp phần hồi sinh một nhà thơ tên Phạm Hồng Nhật. Rõ ràng, sự cách quãng môi trường thi ca nước nhà một thời gian dài, đến đầu thế kỷ 21 này, môi trường văn chương, xã hội đã khác nhiều so với thời ông bắt đầu sáng tác vào những năm 70 của thế ký trước, đã khiến ông phải nghĩ khác và viết khác đi...

          Tôi cho rằng, Phạm Hồng Nhật đã may mắn, khi ông có một khoảng thời gian khá dài bứt khỏi môi trường thi ca nước nhà. Đấy là một khoảng lặng cần thiết, đủ để cho riêng Phạm Hồng Nhật, hay chăng mỗi cây bút, không phải vật vã để thoát ra khỏi chính mình? Nghĩ khác, viết khác đi, ấy là quá trình làm mới bản thân, chí ít đúng với trường hợp Phạm Hồng Nhật.

          Mặc dù, tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố, không ghi rõ là tuyển thơ, nhưng nội dung thơ và thời điểm sáng tác các bài cho thấy tính chất tuyển tập. Ở đây, ta thấy các sáng tác của Phạm Hồng Nhật có dấu ấn rõ từng thời kỳ sống, làm việc và sáng tác của ông.

          Thời kỳ đầu, có thể xem là vùng đất ươm mầm thơ Phạm Hồng Nhật, ấy là vùng mỏ Quảng Ninh và vùng quê Hải Phòng. Vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, cả một vùng đất duyên hải Đông Bắc tổ quốc (Quảng Ninh, Hải Phòng) là vùng đất công nghiệp sôi động bậc nhất của đất nước. Giới văn học nghệ thuật nước nhà đổ xô đi thực tế, sáng tác về vùng đất này, trong đó, người ta không quên việc tìm kiếm, phát hiện, động viên, giúp đỡ các cây bút trẻ, xuất thân công nhân, người lao động địa phương, sáng tác từ thực tế đời sống ở đây. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, Phạm Hồng Nhật và một số cây bút văn thơ cùng trang lứa đã tập hợp thành dàn đồng ca, với bầu nhiệt huyết tràn trề, mặc sức thi ca minh họa cuộc sống....

          Điểm những bài thơ sáng tác trong giai đoạn đầu trong tập thơ này, khi Phạm Hồng Nhật đang làm việc ở vùng mỏ Đông Bắc, tức là khoảng thời gian những năm sáu mươi, bảy mươi, như Than trên băng chuyền, Thời gian, Thị xã nơi tôi yêu, Về với mỏ, Một mai kia, Mối tình cô thợ hàn, Thợ gò, Trực chiến trên đồi, Nhà máy trong rừng v.v... cho thấy bầu nhiệt huyết mình họa cuộc sông của tác giả. Thơ nặng về kể chuyện, có không khí đấy, song dường như, thơ hết câu thì bài thơ cũng tắt luôn ở đấy, chẳng mấy dư ba. Và điều này, không riêng thấy ở thơ Phạm Hồng Nhật, mà khá phổ biến trong thơ của nhiều cây bút khác cùng thời kỳ.

          Như tôi đã nói, cuộc sống biến động, bứt Phạm Hồng Nhật khỏi vùng sáng tác, khiến ông hụt hẫng, đứt mạch thi ca. Những bươn chải cuộc sống ở thủ đô, rồi sau đó, ông được điều sang nước ngoài làm công tác quản lý nhân sự và tư tưởng, bận rộn và phức tạp, đã ít nhiều làm thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời ở nơi ông. Nói đứt mạch thơ, không có nghĩa là Phạm Hồng Nhật bỏ thơ, thi thoảng. túc tắc, ông vẫn sáng tác. Song ở thời điểm này, ông sáng tác không phải là sự thúc ép từ ý thức mình phải làm thơ để trở thành nhà thơ, hay vì chạy theo thực tế phong trào lao động sản xuất của xã hội, hay chính cả sự ganh đua với các bạn thơ cùng thời ... Phạm Hồng Nhật chỉ sáng tác khi chính lòng mình có tâm sự, muốn được giãi bày. Thế nên, thơ ông  sáng tác ờ thời điểm này, ý tứ rõ, hàm súc hơn, câu chữ chắt lọc hơn, và như thế, người ta thấy được sự ẩn chứa những nỗi niềm tâm sự và thân phận con người trong thơ ông.

          Nỗi trăn trở viết khác đi, viết như sự lột xác, làm mới mình được Phạm Hồng Nhật bộc lộ:

          Trước ngọn đèn đêm đang về phía sáng

          gà nhà ai đã gáy mấy lần rồi

          giấy vẫn trắng, bút trên bàn vẫn đợi

          chưa tìm ra một câu chữ thơ tôi...

 

Nhiều lúc nghĩ suy gác bút an bài

          lại tiếc muối ra vào bao tư lự

          viết là biết gánh vào nỗi khổ

          đã buông ra là lại nắm tay vào...

          (Trước ngọn đèn)

         

Nếu vài chục năm trước, thuở ban đầu làm thơ, viết là niềm hân hoan, thì giờ đây, Phạm Hồng Nhật ý thức, viết như đeo đẳng một nỗi khổ ải. Vậy mà vẫn không thể không viết, ấy là sự chia sẻ nỗi niềm cõi nhân gian, trong đó có thân phận chính mình:

          Chén lưng, chén vực cũng là

          nửa thì nắng quái, nửa sa bãi bồi

          vàng chìm, phận nổi, bèo trôi

          dễ đâu thiên hạ một người hiểu ta,

          (Uống rượu một mình)

         

          Quả là, khi cái nhìn đã khác, thì đương nhiên nhận thức cũng khác, ngày cả khi gặp lại cái cũ, cái thân quen:

          Thuyền đã khác xưa, ngày để chỏm

          lá buồm căng như một sự dối lừa

          máy thuyền nổ âm vang là có thật

          con đò ngang mái chèo gác trên bờ,

          (Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu)

 

          Bỗng một ngày, Phạm Hồng Nhật nhận ra sự đổi mới trong mình, ông mừng, ngỡ ngàng, như muốn reo lên:

          Khác nhiều rồi, tất cả đã khác xưa

          và anh nữa khác xa anh thuở trước

          cát cứ một vùng như ông Vua một nước

          nhìn đám thảo dân như muông thú một bầy

          (Đổi mới)

 

Sự đổi mới, trước hết là quá trinh tự nhận thức, rổi ra sự nhìn nhận cuộc sống bên ngoài.

Mọi xa xôi hóa nên gần

mọi lớn rộng chỉ ban chân xỏ vừa...

Cuối chiều như tỉnh nhiw mơ

Vừa buông tay sáng vừa quờ đêm đen.

(Cuối chiều)

 

Khi ngộ ra điều ấy, thì nhìn vào đâu, người ta cũng thấy được bản chất cùng sự khác biệt trong mỗi sự vật, hiện tượng, và qua đó, thấy được thân phận, nỗi niềm của con người, nó đâu mấy khác nỗi niềm trong lòng ta, nên dễ cảm thông, chia sẻ...

Hương thơm giữa thảo nguyên Nga

mà nghe như thể quê nhà gần hơn

lão nông cày máy nổ ròn

mải mê thu hái cả vòm trời sao

Tuyết rơi trắng phủ hôm nào

đất đồng thành đá cây cao trụi cành

mẹ già tóc bạc như tranh

ngồi bên bếp lửa mong manh gió lùa...

(Bây giờ là tháng năm)

 

Thân cò, phận hạc cánh chuồn

ở nơi xa xứ ngỡ mòn ngày qua,

thương cho số phận người ta

quay vào thì lụy, bước ra đời tàn,

Phận nghèo bèo bọt thế gian,

chắc là phúc mỏng, Niết Bàn bỏ quên...

Xứ người vận hội mong manh

bao nhiêu ước vọng cũng thành khói sương,

dẫu chưa đến bước cùng đường

nhìn ai trên tuyết mà thương cả mình.

(Phận ngưỡi xa xứ)

 

Lạnh dưới bao nhiêu

nóng trên bao độ

chị tôi chỉ biết cầm gậy mò sò...

chị mò đáy biển, mò ngã ba sông

mò mặt trời lặn, mò mặt trăng rơi...

Mò sâu rốn biển, mò chìm lòng sông

chỉ bàn tay biết,

bao nhiêu miệng ăn,

đứa con thất nghiệp...

(Chị tôi đi mò sò)

 

Ba năm rượu ủ men nồng

mắt lung kinh cả ở trong then cài

kể già những tháng riêng hai

mầm cây ươm cả ở ngoài nắng nôi

Rét gì cái rét trời ơi

mình em cứ việc đi vơi về đầy

khăn ngang ngực lẳng lơ cài

nửa trong rừng rực nửa ngoài bão giông,...

(Gái góa)

         

Và nếu không dám nghĩ khác, viết khác lối viết tụng ca hoan hỉ ngày nào, thì chắc Phạm Hồng Nhật chẳng thể buông ra những câu thơ khái quát kiểu này:

          Nông thôn mỗi khi qua đò

          chờ cho đông khách giả vở quên xu

          gà què nhốt trong lồng bu

          điềm nhiên ra chợ bán mua đàng hoàng

          Nông thôn ngại việc đồng làng

          dép lê mũ cối bước sang chợ trời

          thiếu tiền đem bán cả người

          ai mua tôi bán lấy vài ba xu...

          (Nông thôn)

 

          Khom lưng quỳ gối chờ thời

          Tù mù lẫn lộn mặt người trắng đen

          mặc cho ai đó đêm đêm

          thân tàn lặn lội kiếm tìm miếng cơm

          mặc bao giọt lệ phơi sương

          cửa tòa đầu gối đi mòn nỗi oan...

          (Thành thị)

         

Đại loại vậy, Phạm Hồng Nhật có nhiều câu thơ khái quát, cảm thông và chia sẻ với những nỗi niềm, thân phận con người...

          Phạm Hồng Nhật đã ý thức “viết là biết gánh vào nỗi khổ” mà vẫn  viết, vẫn làm thơ, vậy có nghĩa là ông chấp nhận thân phận của người cầm bút hay lo chuyện bao đồng của thiên hạ, tự mình giăng mắc trong cuộc kiếm tìm “tôi lại tìm tôi” như ông tâm sự trong bài thơ Kiếm tìm. Hay đâu, trong bài thơ Đàn bò lạc vào thành phố, được lấy lầm tên cho tập thơ này, Phạm Hồng Nhật đã mượn hỉnh mượn ý để nói tâm sự mình:

          Bò vào thành phố bao nhiêu thổ lộ

          thay đổi niềm tin, bớt đi nỗi khổ

          mắt nai mở tròn, bàn tay vỗ vỗ...

          Tôi người xa lạ, lạc vào thành phố,

 

          Giờ ở tuổi bảy mươi nhăm, làm thơ khá sớm, bôn ba cũng nhiều, sướng khổ cũng lắm, hiểu trước nhìn sau, Phạm Hồng Nhật đủ độ từng trải, đủ bản lĩnh con người, bản lĩnh thơ để tiếp tục chia sẻ những nỗi niểm buồn vui, đau khổ của cõi nhân gian. Phạm Hồng Nhật nhắn nhủ và cũng là tự nhủ:

          Đời người như dòng sông trôi ấy

          khúc ngoặt khúc cong tối mặt mày,

          nước xanh đường rộng trời cao thẳm

          thì có bao giờ buồn chán. Tôi...

          (Ngõ nhỏ vòng vèo)

 

Bài thơ Tờ lịch của ông như một tuyên ngôn cho mình:

          Mỏng tang tờ lịch trên tay

          chỉ bao la là lấp đầy khoảng không

          lật sang tờ lịch ngày hồng

          nghe thời gian rồng ở trong gió lùa

 

          Bạc đầu lại nhớ ngày xưa,

          tuổi xanh nghĩ đến tóc vừa hoa râm

 

          Bao nhiêu tờ lịch trong năm

          biết bao tờ lịch nằm trong tro tàn.

 

 

 

Bố bản Đặng Quang Tình

( Chân dung nhà văn Đặng Quang Tình )

 

          Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.

          Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa, còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người đã có  nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam cả lĩnh vực báo chí và văn chương. Bằng chứng, trong quá khứ, khi còn sung sức, Đặng Quang Tình đã từng bốn lần đoạt giải cao trong các cuộc thi văn chương danh giá ở xứ ta với ba lần ở thể loại truyện ngắn và một lần ở thể loại bút ký mà nội dung các sáng tác này của ông đều về đề tài miền núi dân tộc thiểu số...

 

1.     Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,

 

          Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại, Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu tại Đài Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông, đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chẳng hạn. Nghe nói, lâu lắm rồi, Đặng Quang Tình từng có đơn gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam và hiện hồ sơ công tác hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ lý lịch trích ngang của ông. Song hằng năm, mỗi đợt kết nạp, người ta dường như đã quên tên ông thì phải?...

          Đặng Quang Tình không hài lòng về việc này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách cứ. Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi. Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn là Hoa rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh v.v...

          Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động 2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và bút pháp văn phong  một nhà văn đã được khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải, đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có, những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của ông lại khá đậm nét...

          Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vậy mà Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhất với truyện ngắn “Trên vành chảo Điện Biên”. Kế tiếp, cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1978-1979), thời gian đó xảy ra cuộc chiến trang biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, Đặng Quang Tình lại giành giải Nhất với truyện ngắn “Ông Thào”. Như vậy, ông liên tục đoạt giải cao nhất của hai cuộc thi văn học danh giá liền nhau, mà hiếm có, đúng ra, chưa có cây bút nào ở nước ta đạt được. Mảng đề tài cùng là miền núi và dân tộc thiểu số, nhân vật là người Mông, người sống ở vùng rùng núi nước ta. Dù trong thời kỳ nào, làm cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng bản làng phát triển kinh tế, chống giặc là những người đã từng là bạn bè anh em, thì người Mông nói riêng và người các dân tộc thiểu số nói chung đều nhận thức phân định rõ ràng, bản lĩnh vững vàng, hiểu rõ đúng sai và cương quyết đấu tranh bảo vệ làng bản, đất nước. Ở mảng đề tài này, thêm một lần nữa, Đặng Quang Tình khẳng định tài năng và sở trường của mình, ông lại thành công với truyện ngắn “Lính cối”  giành giải Ba cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1983).

          Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi, Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống, sự hiểu biết sâu rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến một thuận lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.

Ông quê Vụ Bản, Nam Định, nhưng gia đình ông sống ở Lào, ông được sinh năm 1934 tại Viên-chăn. Khi về nước, ông tham gia quân đội, nhiều năm sống ở vùng miền núi phía Bắc. Chuyển nghề làm báo, ông có nhiều năm là phóng viên của Đài phát thanh Tây Bắc (khi đó thuộc khu tự trị Thái Mèo) đóng tại Sơn La. Khi đài phát thanh này được sáp nhập vào Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) thì Đặng Quang Tình tiếp tục theo dõi và quản lý màng nội dung về miền núi, dân tộc thiểu. Việc am tường về một mảng nội dung, cộng thêm sự sâu sát địa bàn, chất nhanh nhậy của một người làm báo, không những giúp cho ông làm tốt công tác quản lý, biên tập mà thêm lần nữa, làm nên thành công trong sáng tác văn học. Nhà văn Đặng Quang Tình đã đoạt giải Nhì cuộc thi viết ký do Hội Nhà báo và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức năm 1995 với bút ký Ba lần lên Sa Dung, thêm phần khẳng định sự sát giải (cứ dự thi là đoạt giải) của ông.

          Thời còn công tác, Đặng Quang Tình viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và mãi nhiều năm sau, khi đã về nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001). Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm, ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông (NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt gió (NXB Hội Nhà văn, 2011) và Âm thầm (NXB Lao Động, 2015), và tập truyện Một thời giông bão (NXB Hội Nhà văn, 2010).

          Ào ạt với một sê-ri tiểu thuyết như vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu không muốn nói là lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều này, có vài ba lý do...

          Trước hết, tự thân, sáng tác các tiểu thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một nhu cầu giải tỏa bản thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn có. Sự thôi thúc viết ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà như thể, nếu ngần ngại hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời... Càm giác ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống, đã trải qua, từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư liệu mình có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân, không giới thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra cho mình,...

          Góc độ khách quan, thời kỳ này, đã có sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng tác văn học nước nhà. Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã tác động mạnh đến thị trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu đọc sách của công chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át sách văn học. Và riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được tái bản tràn lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật không dễ, vì ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các chiêu trò PR này nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng Quang Tình bị lút chìm là đương nhiên.

          Còn một lý do nữa, theo tôi, sở trường của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông chặt chẽ, dồn nén trong việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình và ngôn ngữ hội thoại sắc sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được sang tiểu thuyết,...

 

2. Đặng Quang Tình, nhà báo – bố bản,

         Tháng 10 năm 1987, tôi cầm quyết định về làm biên tập  viên của Ban Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không lâu, ban biên tập Thính giả được thành lập vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dânĐài Tiếng nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp nước, qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu, khiếu nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công dân hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự hiểu biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống bức thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy thỏa mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ nổi nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp thính giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích sê là chuyển nội dung đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu không được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều năm làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban luôn nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời ăn tiếng nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một tuần nên thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn định trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên Trưởng ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác. Ấy là trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ thể đưa vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả lời công văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thê, hiệu quá công việc khá cao. Tôi không thể nhớ nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải quyết bằng cách này trong những tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy năm, rồi được xem xét lại. và được  thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau, khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.

          Sau một thời gian ở Ban Thính giả, một ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc nghỉ hưu. Tù ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản, thì người nhà Đài hẩu như ai cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.

         

3. Chuyện vào Hội Nhà văn.

          Nhà văn Đặng Quang Tình có đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam từ thời ông còn làm việc và nổi danh làng văn ta với mấy giải thưởng liên tiếp về truyện ngắn. Nhưng không hiểu sao, danh sách hội viên được kết nạp vào Hội hàng năm không có tên ông. Mỗi khi có ai đó nói với ông về chuyện này, ông đều cười bảo “Nếu không là hội viên mà không viết được văn thì tớ mới buồn... chứ không là hội viên mà tớ vẫn viết đều thì có gì mà buồn...”.  Nói vậy thôi, chứ tôi hiểu, trong lòng, ít nhiều vẫn gợn lên những suy nghĩ .... Là tôi cứ nghĩ thế, bời cái tâm trạng “cuời như thầy khóa hỏng thi” vốn thâm căn trong con người ta, nhất là các quốc gia châu Á có bề dày khoa bảng như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và xứ Việt mình,... Miếng giữa làng kia mà!...

          Khi nhà văn Đặng Quang Tình nghỉ hưu, chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng, mùa kết nạp hội viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem ông có vào Hội hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn kia, rằng cái tay ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt này.... Vậy đấy!...

          Lâu rồi không ai nhắc đến ông nữa, xem như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi chẳng mấy ai nhớ đến ông thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam!...

          Số là, cách đây dăm năm, khi nhà thơ Trần Đăng Khoa còn tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam, đôi ba lần trong câu chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn tên Đặng Quang Tình với nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công tác lâu năm ở Đài này, xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Đăng Khoa gật gù công nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên (2017, 2018), ông có nhắc đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên, trong cuộc họp của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa còn nhắc đến các trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Th, nhà thơ D, đã mất, mà đáng ra họ xứng đáng được kết nạp vào Hội khi còn sống...

          Có lẽ vậy, mùa kết nạp năm 2019, nhà văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công nhận là hội viên của Hội bằng quyết định số...  nhưng nhầm tưởng ông đã mất.

          Cuối năm 2020, Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại hội, có tập NHÀ VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà văn Đăng Quang Tình, khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm tưởng ông đã mất. Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết đâu đấy, nếu biết chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...

 Một hôm ông gọi điện cho tôi với tâm trạng vui vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để làm gì, nhưng thế cũng là sự ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời mình, cậu ạ”. Rồi ông nói về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất khi công nhần ông là hội viên Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến trăm tuổi!...”  ./.

         

         

 

 

Người đi giữa thực và mơ,

 

1.

Có thể, nhiều người sẽ tự nhận mình như vậy. Song người tôi ám chỉ ở đây là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền,

          Mặc dù cho đến nay, Nguyễn Vĩnh Tuyền chưa từng xuất bản một tập thơ nào, nhưng anh đã từng sáng tác hàng nghìn bài thơ, và khi vui đâu đó với anh em, bạn bè, thi hữu, anh xuất bản miệng vài ba bài, hăng lên thì dăm bảy bài là thường.

          Nguyễn Vĩnh Tuyền, tuổi Ất Dậu, sinh năm 1945, hơn tôi vừa đúng một giáp, nhưng chúng tôi chơi với nhau là bạn vong niên. Tôi biết anh và lập túc thân ngay với Nguyễn Vĩnh Tuyền từ thời điểm mùa thu năm 2009, khi đó tôi đang phụ trách Văn phòng VOV miền Trung, đóng tại thành phố Đà Nẵng, và là người mới tò te của Xóm Lá (tên gọi nôm na thân mật của cộng đồng blogger, Blog Tiếng Việt). Lúc ấy, Nguyễn Vĩnh Tuyền đã là người cũ, và thuộc hàng đại ca của Xóm Lá rồi. Rón rén bước chân vào Xóm Lá, tôi thấy anh tung tẩy thơ phú, xướng họa, đùa rỡn khắp Xóm. Có lẽ, với tính cách như vậy, anh nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết với khá nhiều người, trong đó có tôi. Tôi xa nhà, từ Hà Nội luân chuyển công tác vào Đà Nẵng, nên ngoài công việc, tôi dành nhiều thời gian rảnh rỗi đặng giao du với bà con Xóm Lá giải khuây. Nguyễn Vĩnh Tuyền là một trong số ít người ở Xóm Lá, hiểu hoàn cảnh và chia sẻ cùng tôi sự trống vắng đó. Thêm nữa, tôi biết anh là cha đẻ của Nguyễn Vĩnh Tiến, một kiến trúc sư trẻ có tài thơ nhạc, là tác giả của ca khúc Bà tôi, và trước đó là bài thơ Chiếc roi tre được trao giải cao nhất một cuộc thi thơ, nên có phần nể trọng anh. Phải vậy, mà hai chúng tôi nhanh chóng kết thần, rồi coi nhau như anh em ruột thịt từ ngày ấy?

          Đầu năm 2010, tôi ra lại Hà Nội, văn phòng làm việc của tôi ngay tại trụ sở 58 Quán Sứ. Cùng thành viên. Xóm Lá ở đấy còn có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, rồi sau nữa, thêm nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhạc sĩ Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh Kính, nhà thơ Nguyễn Thanh Vân, nhà thơ Chử Thu Hằng nhà văn Nguyễn Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa… nên tháng đôi lần, hễ có điều kiện là à ới tụ họp, chuyện văn chương thơ phú rôm rả. Bầu không khí ấp cúng như thế, Nguyễn Vĩnh Tuyền càng có cớ để ra thơ…

          Công việc của tôi hay phải đi đây đó, bản tính lại yêu thích miền núi, nên nhiều chuyến đi, tôi hay rủ Nguyễn Vính Tuyền đi cùng, và thế là, anh em chúng tôi lại trên từng cây số… Tây Bắc thì Hòa Bình-Sơn La-Điện Biên-Lai Châu-Lào Cai-Yên Bái; Việt Bắc thì Tuyên Quang-Hà Giang-Cao Bằng-Bắc Cạn; Đông Bắc thì Bắc Giang-Lạng Sơn-Quảng Ninh…Mỗi năm mới, chúng tôi thường thu xếp về Phủ Lý thăm nhà văn Lưu Quốc Hòa, hoặc vào xứ Thanh thăm nhà văn Trịnh Tuyên, cùng các blogger miền Thanh-Nghệ… Lang thang đây đó, vui nhiều và viết cũng nhiều…

          Tiếng là có trong tay gia tài hàng ngàn bài thơ, nhưng nói đến việc tập hợp thành tập thì Nguyễn Vĩnh Tuyền lại ngại. Đúng ra, anh lười. Trước hết, Nguyễn Vĩnh Tuyền lười việc tìm lại thơ mình. Mỗi cao hứng, hay mất ngủ, anh đều viết được. Viết như thể, cuộc đời anh chỉ có Thơ là trọng, ấy vậy, viết xong là quăng quật ngay. Thơ anh rải rác đâu đó, anh chẳng nhớ, và cũng không thuộc. Anh thuộc khá nhiều thơ của con trai mình, nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, song với thơ mình, tôi cam đoan, anh thuộc không nổi chục bài. Lười tìm lại thơ, và cả lười biên tập. Viết ra đấy, nhưng có khi chẳng thèm đọc lại, quẳng lên blog hoặc Facebook cá nhân là xong, và hầu như không biên tập lại bao giờ. Cứ như anh chẳng chịu trách nhiệm gì, đúng ra, là anh vô trách nhiệm với những đứa con tình thần của mình. Và coi đó là việc của người khác,,, Ứng xử với thơ mình như vậy, nhưng trong đời sống, anh lại là người rất chăm chỉ việc nhà, chu toàn chăm sóc vợ,con, các cháu nội ngoại mình. Không những thế, anh chu đáo và trách nhiệm với quê hương, họ hàng và bạn bè gần xa…

          Có hai người hay giục anh tập hợp thơ thành tập, ấy là Nguyễn Vĩnh Tiến, và tôi.  Nguyễn Vĩnh Tiến thì giành việc đặt tên tập thơ, còn tôi, biên tập bài và viết chút gì đấy, xem như phác họa chân dung Nguyễn Vĩnh Tuyền.

          Lâu nay, âm âm trong suy nghĩ của tôi, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là người đi giữa thực và mơ,…

 

          2. Nguyễn Vĩnh Tuyền và xứ mơ

 

Tự thân, Nguyễn Vĩnh Tuyền cũng nhận vậy:

 

nửa khuya mưa bóng mây
lâm thâm ngoài ngõ hẻm
mềm mơ cơn thức dậy
ảo-thực ấy? ...sinh vần

lạc lẫn từ ăn vay
thơ tái sinh màu nhớ 
thoại ngữ đêm sang ngày...

 


           Trước hết, hãy cũng Nguyễn Vĩnh Tuyền du ngoạn vào cõi mơ của anh. Thực tình, tôi thích cõi mơ ấy:

 

mưa chi xối đất mẻ trời
buồn chi lây khổ cả người không dưng
em ơi, thương nhớ quá chừng
xin đừng buồn nữa ngõ lưng chừng… đời!.

và đây nữa:

 

ai người vấp lối hợp tan
cho tình anh được lấp san cùng tình….

 

đỉnh non thơm mấy nụ thơm 
đã nghe nức nở dỗi hờn hạt mưa
đã nghe luyến nhớ đầy trưa
muốn ôm muôn giọt mau thưa ngợp chiều

 

Sao không phát sáng đổi màu
Để sông trăng lạnh trên đầu trôi trôi
Rượu trời nhàn nhạt nơi môi
Nâng lên đặt xuống chỗ ngồi vắng tanh

 

Buông neo tạm bến nhớ nhung
tránh cơn sóng vỗ chập chùng gió mưa
Giấc vui gói kín mạn trưa
bờ tình che kín gió lùa ngang sông

Phôi phai lạc tận bến mơ
nhổ neo!
 
        ...đi tiếp nước cờ mai sau?.

 

... tất cả đang lũ quét vào máu và da thịt nhau 
thế là anh biến thành khúc thức buồn tẻ mang mang
 
giữa cánh đồng đời lao xao sóng nước
 
tâm thức mơ hồ
 
những đường cong mịn màng mơ hồ
 
những lạch khe dòng mương lượn uốn dồn đổ mọi thứ ra sông
 
(ôi dòng sông bình an đầy hoa mây trắng xám trôi trôi...)
 
nước gỗ mục dều rác giành giật nhau cõng nắng, cõng mây;

 một cuộc đua - một dọc trời mải miết 

 

Anh chờ bên phía lề đau
Em bên lề khổ hai màu lệch chênh
Lề đường lề của bồng bềnh
Nhịp phách thì rõ, tiếng xênh lại chìm

 

          Kể cả khi Nguyễn Vĩnh Tuyền giật mình, sợ rồi cứ mê mải thế sẽ lạc lối xứ mơ, những muốn quay trở về cõi thực, thì cõi mơ vẫn níu kéo:

 

Giật mình!
... một phút chiếu, giường
Tiếng chuông cửa?
 
... Tiếng ngày thường!
 
Tan mơ?...

 

Để rồi một sớm tơ vương
có người sắm chiếu trải giường …tương tư

 

Dưới mưa cuốc bộ cùng mưa 
bước chân vừa gấp vừa thưa với tình…

 

lang thang mãi chốn long đong
chiều nay ánh mắt bỗng long lanh chiều

Cố quên sao được nguồn cơn
ngày dài đêm ngắn chập chờn dòng mơ

 

Tưởng tan tác khúc ca chiều…
bấc khô dầu cạn,

 

          Và cứ chập chờn thế này, thử hỏi làm sao Nguyễn Vĩnh Tuyền có thể bước chân ra khỏi con thuyền mộng cơ chứ ?:

 

ai khêu lửa tình?
Lạ đôi tinh tú rong chơi
vui miền cực lạc quên nơi sinh thành
có nhà bác học chiêm tinh
ngạc nhiên sao mới cố tìm cho ra
lục soi khắp cõi ta bà
trăm năm dư lẻ vậy mà công không…

 

Chiều nay gió thoảng ngang đồng
tự dưng đôi cánh bướm hồng? Rong chơi…

 

Vẫn là cuối đất cùng giời
cơ duyên đốm lửa khuất nơi vô tình

Đây rồi! Một nét lung linh
ồ! Kia một dáng nguyên trinh mong tìm

 

          Vậy thôi, chẳng dám sa đà nữa, bởi sợ rồi mình cũng sẽ bị Nguyễn Vĩnh Tuyền huyễn hoặc, mà ngồi chung con thuyền mộng cùng anh lang bạt kỳ hổ trong xứ mơ do anh viễn tưởng, mê sảng giăng mắc lưới tình, đặng rình bắt cả Nhện đã thành tinh ?...

 

3. Còn đâu là cõi thực?:

 

Đi tìm cõi thực của Nguyễn Vĩnh Tuyền quả không dễ chút nào. Nó chẳng khác gì việc đãi đất sỏi để tìm ra được mươi hạt thóc, hạt gạo, và những gì có thể xơi được. Nói vậy quả không ngoa. Trước khi tìm nhặt những câu thơ thể hiện cõi thật của Nguyễn Vĩnh Tuyền, thiết tưởng phải chuyện phiếm đôi chút về nhà thơ. Vốn tuổi Dậu (Ất Dậu, 1945), cầm tinh con Gà, anh em bạn bè thân tình mà đùa yêu rằng, quanh năm suốt tháng anh như con gà trống, chỉ có vài ba viên sỏi, cứ mổ lên mổ xuống, cục ta cục tác lượn lờ mà dụ lũ gà mái và cả bàn dân thiên hạ “thóc thật, thóc thật”, khi bày gà xúm vào thì đâu phải là thóc thật, chỉ là thóc ảo mà thôi… Thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là vậy, thực ảo lẫn lộn, những câu thơ ảo, thậm chí ảo diệu thì nhiều lắm, song khi thực, anh lại thực quá, đến mức độ trúc trắc ngôn từ, đọc lên thành tiếng cho thuận miệng cũng khó. Đấy là xét về khía cạnh nghệ thuật, và theo cách nói dân gian, ấy là “thật thà hư”…

Còn đây là cõi thực của Nguyễn Vình Tuyền, thực mà vẫn  rất thơ:

 

Tôi ra đời giữa mùa chết chóc

Lại là đứa trẻ cuối cùng sống sót đẻ trong tháng Hai,

Nên no-nê, ấm áp suốt một đời dạc-dài cơm-áo.

 

Tháng ba mùa hoa xoan rắc đầy lối ngõ

          Muỗi như trấu bay chàn chạt lưỡi nia

          Ngồi học trong màn khói đen, muội đỏ

          Bóng tóc đuôi gà ngấp nghé mãi ngoài kia,

          Quên rồi sao,

Ngọn đèn dầu leo lét phía hoang mơ,…

 

Con theo cha học cách giơ cao vồ lem nện xuống

từng gộc tre đực lún theo mỗi nhát vung

chắc nịch,

chính xác, thật tay,

ta-luy cao dần bờ đất thó đen

lung người, lung bờ

mặt đất, mặt người phờ phạc…

Cha từng qua bao vụ mùa thất bát

tháng Tám ngày Ba, ruột dài mơ miếng để, miếng ăn…

 

quốc lộ Một - Chiều ấy, Zil-130 long nhong chốt một đầu rơ-moóc,

quốc lộ Hai – Đêm ấy, Ifa-W50 lẵng nhẵng, ì ạch chốt hai đầu rơ-moóc,

Hụt hơi, tương lai là vô định ra vào,

vào ra nhằm ăn theo tài-xế

ngày mai là hối hả

cuộn guồng theo vòng bánh xe lăn,

Nhọc nhằn…

 

Hơi thở ngọt mềm

và cánh tay em trên ngực mình

yên tĩnh một ban mai

đưa anh về thực tại…

Anh hôn vầng trán em sáng trong

Tạ ơn những ca nước thơm hương vi mật ong

tạ ơn những bình nóng linh chi, con gái mua về từ Hàn Quốc

những cặp lồng cơm.

những bữa tối ngon lành…

 

Em bao dung đến tận cùng nhân cách,

dành dụm cho ta bao năm ngọt, tháng ngào,

gánh thay ta một đời chia xa, buồn nhớ

neo cuộc bơi mệt nhoài bằng bao nhiêu tóc rụng…

          Cho buồn khổ không còn nơi trú ngụ

          Cho ta quay về bổn phận đàn ông…

 

Con người Nguyễn Vĩnh Tuyền là thế đấy. Anh thành thật với quá khứ tuổi thơ vất vả, cơ hàn cùng song thân nơi quê hương bản quán; thành thật với những năm tháng quân ngũ suốt thời chiến tranh khói lửa ác liệt, đầy gian khổ hy sinh; thành thật với gia đình mình, ấy là người vợ tần tảo, đảm đang và đầy bao dung, những đứa con giỏi giang và hiếu thảo… Đó thực sự là những chiếc phao cứu sinh, những cọc neo chắc chắn, đặng níu giữ con thuyền mộng của nhà thơ khỏi dạt trôi về bến mơ không tưởng … Chẳng những vậy, Nguyễn Vĩnh Tuyền còn rất thành thật với những cơn mưa bóng mây chốc nhát, những cơn say nắng tình cờ, những bóng hồng và cuộc tình ngắn ngủi ngang qua đời anh… Có lẽ, vì biết ơn nên thành thật, nhưng anh không hề hối lỗi, đơn giản, bởi Nguyễn Vĩnh Tuyền xem đấy là những chất men say cho cảm xúc thi ca mà trời đất ban tặng cho mình. Hơn nữa, anh chưa bao giờ quá đáng với Nàng Thơ, mà còn biết nâng niu, trân trọng:

 

Mình yêu nhau từ mùa Thơ năm ấy,

Chết trong nhau từ lần gặp đầu tiên,

 

dạn dĩ tháng Tư-ngắn ngủi cuộc tình,

hoa gạo rực trời hai chục ngày

 rồi bỗng đâu lụi tắt

trái ớt chỉ thiên cay sè bốn mắt

cơn cớ gì bẫy đặt hai ta,

 

Muốn nhớ lại mau quên

nên chăng cùng xanh ngắt

đôi mắt nào nắng lửa

buồn đời day dứt mưa,

 

Em ở lại với Bãi Dâu, Gành Hào ngợp nắng

vắng bóng nhau thật rồi,

Sài gòn đường về có còn thuận lối?...

Thôi cứ khép hờ cả Người và Thơ

cơ hội những chuyến đi màu nhân duyên Trời định

cả hương vị thời gian dường như Đất tính

nhung nhớ tháng Mười

một khúc thăng hoa…

 

Mong mỏi ngày mai,

yêu nhớ lắm ngày qua,

như lần đầu yêu, lâng lâng hồi hộp

như lần đầu bay trên trời mây trắng xốp.

Chợt nhớ câu thơ:

“Bàn chân ta lội xuống trời

Hát bông nắng cũ ru lời em xanh”…

 

Có một điều, tôi không thích trong thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, ấy là sự lan man và hay lạm dụng ngôn từ. Phàm người làm thơ, kỵ nhất là nhắc đến từ Thơ hay Tứ thơ trong thơ mình vì sợ nhàm và lộcũng như người đang yêu ngại nhất nhắc đến từ Yêu vì e là thô… Riêng với Nguyễn Vĩnh Tuyền thì ngược lại, trong thơ anh nhan nhản những từ này. Đã hơn một lần, tôi bàn luận với anh điều đó, anh có vẻ nghe ra và bày tỏ sự đồng tình. Nhưng rồi, đâu vẫn đấy, chẳng rõ, theo thói quen, vô tình hay hữu ý?

Và đấy, mới thật đúng là người và thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền !?... 



Nhà văn Trần Nguyên Vấn,

cần mẫn và ân tính

( Chân dung nhà văn Trần Nguyên Vấn )



Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm biết vì chúng tôi cùng lứa học phổ thông và cùng nhau đứng trong đội tuyển giỏi Văn của tỉnh Hải Hưng tham gia kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Băc vào tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn là người tôi biết mặt đầu tiên. Tính từ lần đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm 1982, 1983 gì đó, đến nay đã ngót bốn mươi năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi viết gì về ông, tôi vẫn phân vân về danh xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn đo vậy thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi mặc định cách gọi, nhà văn thì Trần Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà. Đương nhiên, ông viết dều cả hai thì gọi thế nào chẳng được...

Trở lại buổi ban đầu quen biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm đúng công việc của một anh kỹ sư canh nông, ở tít mãi vùng biên giới Tây Nam, Bảy Núi, An Giang. Chẳng là, tốt nghiệp đại học khi thống nhất đất nước mới dăm năm, nên phần đông lứa kỹ sư nông nghiệp trẻ chúng tôi được lùa vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi mệnh danh là vựa lúa khổng lồ. Khi ấy, bà con ở đấy vẫn quen với lối canh tác quảng canh nên khó áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Thời gian rảnh nhiểu, tôi tập tọng viết báo, viết văn, làm thơ. Cứ viết đại, gửi đại đến các tòa soạn báo qua đường bưu điện thế thôi. May thay, người bạn thân phổ thông và cả đại học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh khi ấy là phóng viên Báo Nông nghiệp, chỉ dẫn thêm. Nhở vậy, những bài báo của tôi được dăng rải rác trên báo Nông nghiệpNhân dân, rồi nữa, được phát sóng trong các chương trình phát thanh Đại gia đình các dân tộc Việt NamPhụ nữ của Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN-VOV). Thế nhưng, văn chương thì lại khác, các bút ký và truyện ngắn tôi gửi cho Báo Văn nghệ thì chẳng tăm hơi. Trịnh Bá Ninh mách tôi, anh quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn làm biên tập ở Ban Văn nghệ Đài TNVN, và khuyên tôi hãy gửi bài viết nhờ ông thẩm định, góp ý. Tôi làm theo và sau đó, Trịnh Bá Ninh thông báo lại cho tôi ý kiến nhận xét của nhà văn Trần Nguyên Vấn. Tôi viết lại và may mắn sao, bút ký Mênh mông đồng tràm được phát sóng trong chương trình Văn nghệ của nhà đài. Tôi mứng vui khôn xiết!...

Hàng năm, mỗi lần đi phép ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn tôi cùng đây đó, nhớ thế mà tôi gặp và quen biết nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi từ ông, tôi biết thêm các bạn vân của ông, nhà văn Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Thái Vận, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Ngô Quân Miện,... Cũng qua ông, lần đầu tôi bước chân ngó nghiêng ngôi nhà văn học của Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết mặt những tên tuổi mà bấy lâu tôi từng đọc và nghe những tác phẩm của họ như: Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Mạnh Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...

Cho đến khi, cầm quyết định về nhận công tác tại Đài TNVN vào tháng 10/1987, thì ngoài những người cùng đơn vị với mình ở Ban Thính giả, người tôi hay lui tới chính là nhà văn Trần Nguyên Vấn. Dù hơn tôi hai chục tuổi (ông sinh năm 1937). Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của mình. Tôi cũng hay đến chơi thăm ông tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, và đó rời sang khu tập thể ở phố Tông Đản... Thành đàn em của ông, rỉ rả tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở, ngỡ thuận buồm xuôi gió, nhưng không phải vậy,...

 

1, Hành trình trờ thành nhà văn,

Trần Nguyên Vấn sinh ở quê, làng Trúc Lâm thuộc thành phố Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ trường Trung học Khải Đinh (Quốc học Huê), đậu bằng trung học đệ nhất, tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin ra Bắc tiếp tục đi học, trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây là ngôi trường nổi tiếng mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học sinh và trưởng thành từ đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to tháng 9 năm 1954 do vỡ đê sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt tuyến không có học bổng phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa năm 1956 mới có học bổng. Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961) khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân văn Giai phẩm nên việc vào khoa văn rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh chỉ lấy 24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm Thị Hồng Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm gồm Lê Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần Nguyên Vấn, tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các thành viên trong nhóm tham gia viết truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến chống Pháp của Thành Đội Hà Nội. Trần Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể của một số chiến sĩ. Bài ký này cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia Nùng... được Thành đội Hà Nội tập hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội, do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như vậy, có thể nói, con đường sáng tác văn học của Trần Nguyên Vấn khời đầu thuận lợi, báo hiệu sự hanh thông trong sự nghiệp văn chương...

Nhưng rồi, một sự hanh thông khác lại mở ra, năm 1961, tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai cử nhân văn trẻ là Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực nhận quyết định phân công về Bộ Ngoại giao công tác, Tương lai trở thành một nhà ngoại giao mở ra, song dường như đinh mệnh an bài Trần Nguyên Vấn phải theo nghiệp cầm bút văn chương thơ phú, nên chàng cử nhân văn khoa này lại không hài lòng với nghề ngoại giao mà nhiều người mong chẳng được. Người bạn cùng lớp là Nông Thị Nhuân được phân công về làm biên tập ở mục Đọc truyện dêm khuya thuộc Phòng Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng thơ của Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên Vấn báo cáo Bộ Ngoại giao rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương lai trở thành biên tập thơ...

Trần Nguyên Vấn bước chân vao môi trường làm báo chuyên nghiệp, vào mái nhà chung 58 Quán Sứ, trụ sở Đài TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ đấy, ông gắn bó với địa chỉ này cho đến lúc nghỉ hưu, tuy quãng giữa chặng đường dài này nhiều biến cố, trắc trờ....

Thời gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài công việc biên tập, Trần Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của công việc, đặc biệt là phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển sang Phòng miền Nam làm ở Tổ thời sự để học thêm cách làm tin,,sử dụng tin tham khảo và viết các câu chuyện thời sự, sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi chiến trường. Trần Nguyên Vấn còn hăng hái đến mức, đã tìm gặp một số cán bộ của tình Thừa Thiên mới từ chiến trường ra để bày tỏ nguyện vọng muốn được vào chiến trường. Tuy nhiên, ông vẫn phải chờ đợi đến tháng 4.1967 mới được đáp ứng, sau khi trờ lại làm việc ở mục Tiếng thơ. Trần Nguyên Vấn đi B cùng đợt với nhà báo Nguyễn Thành (sau này, nhà báo Nguyễn Thành làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh truyền hình Việt Nam) và nhà thơ Bùi Minh Quốc. Sau khi huấn luyện, Trần Nguyên Vấn lên đường đi chiến trường Thừa Thiên vào tháng 5.1967. Lúc ấy, vợ ông đang mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Trần Nguyên Vấn làm báo Cờ Giải phóng của Thành ủy Huế, và từ đây, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, ông lấy bút danh là Trần Phương Trà, Thời gian làm phóng viên ở địa bàn Trị Thiên Huế, Trần Nguyên Vấn cùng làm việc với nhà tho Thanh Hải, nhạc sĩ Trần Hoàn, thiếu tường Lê Chưởng... Chiến dịch Mậu Thân 1968, Trần Nguyên Vấn về Huế được mấy ngày. Theo dự tính, nếu chiến dịch thắng lợi, ta chiếm được Đài dịch ở Huế thi ông sẽ là một trong những người tiếp quản, sử dụng, nhung việc không thành, ông trở lại rừng tiếp tục công tác. Lần trở về Huế ấy, Trần Nguyên Vấn được gặp lại má của mình, còn vui mừng báo cho má biết việc vợ ông ở Bắc đã sinh con trai, đặt tên là... mà bằng mật ước nào đó, qua việc nghe chương trình Tiếng thơCa nhạc của Đài TNVN, các bạn bè ở Ban Văn nghệ Đài đã báo tin để ông nhận biết. Việc này, hơn một lần tôi nghe ông vui kể. xem như chuyện “làm ở Đài ăn lộc nhờ đài”...

Năm 1969 chi hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế được thành lập. Trần Nguyên Vấn được bầu vào Ban Chấp hành Chi hội do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chi hội trưởng,, nhà thơ Thanh Hải là Chi hội phó kiêm Tổng Thư ký, còn ông làm Tạp chí Sinh hoạt văn nghệ của Chi hội/ Thôi thi mặc sức mà viết, truyên ngắn, bút ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong trào kháng chiến. Truyện ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra dự thi truyên ngắn báo Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông hăng hái xuống đồng bằng, ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra cho Đài phát thanh Giải phóng. Đài TNVN và Tiểu ban văn nghệ miền Nam do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách. Đến 8.1973, Trần Nguyên Vấn được đưa ra Bắc chữa bệnh viêm gan do nhiều năm bị các trận sốt rét tàn phá.., Thời gian này, ông thuộc quyền quản lý của Ban Thống nhất miền Nam.

Nhân đây, tôi thấy cần nói thêm về Đài Phát thanh Gải phóng, nơi nhà văn Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960, theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuẩn bị mọi việc để thành lập Đài Phát thanh Giải phóng. Và ngày 01/02/1962, tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc Chiến khu Đ, Đài Phát thanh Giải phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức phát sóng buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của báo chí cách mạng trên chiến trường miền Nam. Đài Phát thanh Giải phóng đã phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa và Khmer, với lời xướng kiêu hãnh: “Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.Đài Phát thanh Giải phóng phải thay đổi địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và có điểm phát là cơ quan tuyệt mật ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng Tham mưu, C55 và CP90... Đài Phát thanh Giải phóng chấm dứt hoạt động vào ngày 31.8.1976, hoàn thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước thống nhất Bắc Nam một nhà.

Sau giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn trờ về Đài Phát thanh Giải phóng, làm Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài Phát thanh giải phóng chấm dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan Đài tại phía Nam, và mãi năm 1980 ông mới ra Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với cương vị Chủ nhiệm chương trình phát thanh Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trờ thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1983. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.

Hành trình để trở thành nhà văn của Trần Nguyên Vấn là hành trình dấn thân đầy gian khổ nơi chiến trường bom đạn ác liệt; là hành trình viết tạp mọi thể loại để phục vụ thông tin tuyên truyền thời chiến, để có sự lắng động, chắt lọc mà thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so sánh, nếu như Trần Nguyên Vấn không đổi nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì sao nhỉ? Tất nhiên, là nhà ngoại giao mà có lòng say mê văn chương, hoàn toàn có thể trở thành nhà văn, song ông đã không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã chọn cho mình con đường cầm bút chuyên nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, ông đã tình nguyện dấn thân vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống và lý tưởng văn chương hun đúc, cùng hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng, vào mặt trận, rất có thể một ngày nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng nghiệp Tô Chức, hay như các bạn văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân,... và bao chiến sĩ khâc,

May thay, ông đã bình an đi qua chiến tranh để trờ thành nhà văn. Hơn thế, ông là một nhà báo, một chiến sĩ !

 

2. Thơ văn Trần Nguyên Vấn,

Đến nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản các tập sách:Trở về Hà Nội (truyện ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa trái (thơ, 2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân dung văn nghê, 2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn, 2017), Về giữa lòng quê (Ký, 2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay mai.

Biết ông nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi hiểu, Trần Nguyên Vấn không hẳn là một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát ra ngoài, Trong nhóm văn chương ba người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa, hóm hỉnh; còn Nguyễn Thái Vận. lãng mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn, cẩn trọng, chu toàn. Có lẽ, những đức tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn kết, thân thiết, quý mến nhau. Giờ thì Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo cánh hạc về trời, còn lại mình Trần Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và quảng giao, Trần Nguyên Vấn luôn biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu bạn, Ông đặc biệt say mê việc làm sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn, đến in ấn phát hành... và đương nhiên, vẫn rỉ tả viết. Ông là người ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ mọi sự việc thấy cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư liệu lớn. Tôi đã tứng ngó xem những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá đẹp, chú thích và thư mục đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng nể, Tôi biết, ông có những bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ Việt Nam nói chung, xứng đấng được lưu giữ trong bảo tàng.

Trần Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam. Ông vốn ghi chép cẩn thận, lại thêm trí nhớ tốt. Chỉ vậy thôi, đã là một lợi thế không hè nhỏ để ông viết chân dung văn hay chuyện văn nghệ sĩ. Khi có cảm hứng, ông đã thành thơ, như bài Trong đêm vui cuối cùng với nhà văn Nguyễn Tuân,  và  bài Câu thơ cuối cùng về nhà thơ Thanh Tịnh... Thực lòng, tôi mong nhiều hơn thế ở ông !...

Tôi nhớ, cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho tư liệu phong phú của ông, tôi đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao bác chưa chuyển hóa chúng thành tác phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng được bao nhiêu đâu?...”. Trần Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình cũng đang dùng dần đấy....”. Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này tập nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại không dám hỏi lại. Dường như, có gì đó chưa thông suốt trong ông thì phải? Những năm gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm sách, nhất là sách về trưởng Quốc học HuếTrường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Miễn sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã ở độ tuổi ngoại tám mươi.

Tôi vẫn có ý chở, Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư ;liệu, đặc biệt là tư liệu ghi chép về chiến tranh của ông.

 

3. Cần mẫn và ân tình Trần Nguyên Vấn,

Bút danh Trần Phương Trà thay cho tên thật Trần Nguyên Vấn chỉ có khi ông vào chiến trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng bí mật thời chiến. Như vậy, bút danh này chủ yếu được dùng thời kỳ ông làm việc ở báo Cờ Giải phòngĐài Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà một. Sau này, ông ký tên thật là chính, song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu mến gọi ông bằng bút danh, như một cách để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ đã qua.

Bản tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cời mở và đầy nhiệt tình với mọi người. Gặp nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí nhớ rất tốt, có thể nhắc lại những chuyện cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn và cách sống ân tình, là bản chất của ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội khó khăn, thiếu thốn, căn nhà của ông (ở khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà Nội), là nơi lui tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng nghiệp cùng cơ quan Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ xứ Huế mỗi khi ra Hà Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày, thaamh chí cả tuần thay vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi danh của xứ Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điểm, Hải Bằng, ... Thế nên, Trần Nguyên Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban liên lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có kinh nghiệm tổ chức các hoạt động chung.

Tôi có anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng là đàn em báo chí thân thiết với nhà văn Trần Nguyên Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi, Trần Nguyên Vấn sinh năm 1937, tuổi Đinh Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế thôi, nhưng là người nghịch ngầm, khá bướng bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết liệt, định làm việc gì là gắng bằng được. Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ hanh thông nhẹ nhàng song  thực lại hay trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông chưa tương xứng với sự cống hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.

Trần Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong việc làm sách. Trong số ấy, phần lớn là tập hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư liệu của các tập thể, riêng có 2 cuốn về cá nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008).

Nhà thơ Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính trọng của nhóm “Văn nghệ sĩ Ong” thân nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đính Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm văn nghệ sĩ, thời bao cấp, thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết bài, sáng tác thơ văn về nghề nuôi ong).

Còn Tuân Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là nhà báo, nhà thơ đàn anh, biên tập viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN, nơi Trần Nguyên Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề biên tập thơ. Đây xem như cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng hương xứ Huế, đồng nghiệp cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với nhau. Nhân đây, nói thêm vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên với Trần Nguyên Vấn,

Tuân Nguyễn (tên thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, là nhà báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng làm việc ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân Nguyễn tốt nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời kháng chiến chống Pháp từng tham gia Vệ quốc đoàn, sau hóa bình xuất ngũ, theo học khóa 1 Văn khoa  Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, làm giáo viên dạy ở Trường học sinh miền Nam tại Hà Đông, một thời gian, trước khi về Đài TNVN làm biên tập thơ.  Tuân Nguyễn không may bị quy là “có ý tưởng đi ngược với đường lối chính sách” và bị bắt giam vào tháng 10. 1964, do một số cán bộ cức đoan suy diến, nghi ngờ, Gần 10 năm chịu giam giữ cải tạo, năm 1973, Tuân Nguyễn được trả về cuộc sống bình thường, nhưng không thể trở lại cơ qian cũ, mà lao động tự do. Ông lập gia đình với nhà thơ Phương Thúy, một giáo viên dạy đàn dân tộc ở Nhạc viện Hà Nội, và là con gái của nhà phê bình văn học Hoài Chân (người đòng tác giả với Hoài Thanh viết cuốn Thi nhân Việt Nam). Năm 1976, vợ chồng ông chuyển vào Tp. Hồ Chí Minh sinh sống. Tuân Nguyễn sống bằng việc dạy học và dịch sách. Còn vợ ông bán sách báo qua ngày. Tác phẩm Bim trắng tai đen nổi tiếng của nhà văn người Nga là G.Troyepolsky, Tuân Nguyễn là dịch giả. Năm 1983, ông mất vì một tai nạn giao thông.

Những tưởng câu chuyện về một con người có tài có tâm những không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng sẽ chìm vào dĩ vãng, thì giở đây, những người yêu văn chương và bạn đọc biết đến tên tuổi Tuân Nguyễn. Trước hết, phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng Quán, người đã viết một chân dung Tuân Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba phút sự thật của ông. Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm bản thảo, biên soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét thêm. Ở đó tập hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng nghiệp, người quen của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng Sơn, Thái Vũ, Dương Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân Đài, Vũ Từ Trang v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ của Tuân Nguyễn được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng nghiệp, thậm chí cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc hiểu đúng về con người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã trải qua, cũng xem như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi oan khuất ma ông mắc phải!?...

Để làm được việc này, nhà văn Trần Nguyên Vấn, người em xứ Huế, người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn phải có tâm lâm lắm và bỏ nhiều công sức, cần mẫn, tận tụy mới làm nổi,

Thay lời kết cho bài biết này, tôi kể một câu chuyện, thêm phần minh chứng cho mối lương duyên giữa hai người con của Thừa Thiên Huế, Tuân Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm 2011, nhà thơ Phương Thúy, vợ của Tuân Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không nơi nương tựa ở Tp. Hồ Chí Minh. vì ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải pháp tốt nhất là làm sao đưa bà Phương Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lào. Để làm được việc này không đơn giản, phải lập hồ sơ giấy tờ phiền hà. Nhà văn Trần Nguyên Vấn lại đứng ra lo một phần giấy tờ thủ tục. Khi ấy, tôi đang là Chánh văn phòng Đàu TNVN, nên có điều kiện giúp nhà văn Trần Nguyên Vấn phần giấy tờ liên quan đến Đài với tư cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của nhà thơ Tuân Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương Thúy được an cư ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,... và nghe đâu bà mới mất vài năm gần đây. Với vợ chồng nhà thơ Tuân Nguyễn, lo toan như thế, tôi nghĩ, nhà văn Trần Nguyên Vấn thật trọn tình vẹn nghĩa. ./.

 

 

 

Lãng du giữa cõi tình,...

 

 

Tôi biết đến anh với bút danh Lê Lãng Du không lâu.

Cách đây độ dăm bảy năm, tôi biết đến cái tên này là qua trang blog của anh trên Blogtiengviet.net (Blog TV). Đọc thông tin cá nhân, biết anh cỡ tuổi với tôi, là cán bộ ngành thương  nghiệp, sinh sống ở gần thành phố Buôn-mê-thuột, Tây Nguyên.

Bài đăng trên trang của anh phần lớn là thơ. Anh thay bài mới khi mau khi thưa, song không bỏ cuộc hoặc ngắt quãng như nhiều người khác. Tôi bận bịu, phần bản tính không mấy vồ vập người chưa quen, song vẫn giữ lễ, nên thơ anh, bài đọc, bài không, và thi thoảng tôi ghi chút cảm nhận, mang tính xã giao là chính. Tuy nhiên, cũng cảm thấy, thơ anh, có bài khá, rồi đó đây ở bài này bài nọ có những câu thơ hay…Với người lấy thơ làm khuây, được như vậy là ổn.

          Rồi một lần tôi vào Tây Nguyên, đang mùa mưa, buổi tối ở khách sạn buồn hiu hắt, ngoài trời thì mưa ràn rạt, lúc mau lúc thưa, mùi cà phê quán đèn mờ ngoài phố thoảng vào thơm ảo não. Buồn thì mở Blog TV, đọc lướt qua các trang và tôi đã dừng lại ở trang của Lê Lãng Du. Lúc ấy, cái địa chỉ cá nhân Buôn-mê-thuột của anh đã thu hút tôi. Theo số điện thoại ghi trên đó, tôi bấm máy gọi và đầu kia anh nghe máy, trả lời. Sau màn chào hỏi, giới thiệu, chúng tôi trò chuyện thân tình ngay, vì thực ra, giữa chúng tôi, đã biết nhau qua mạng cũng vài ba năm rồi. Anh nói là ở cách thành phố vài ba chục cây số, và hẹn hôm sau sẽ lên Buôn-mê-thuột gặp tôi, đặng anh em biết mặt nhau.

          Y hẹn, gần trưa hôm sau, anh báo đã đến khách sạn tôi đang ở. Cùng đi với anh có một phụ nữ cũng đã luống tuổi, anh giới thiệu là bạn gái của mình. Chúng tôi có khoảng một tiếng trò chuyện, hàn huyên đủ thứ. Anh mời tôi ra quán dùng bữa trưa với hai người. Tôi đành từ chối vì đã có hẹn rồi. Chia tay nhau với chút lưu luyến, hẹn dịp khác sễ ngồi với nhau, để nâng chén và bàn về thơ phú. Tôi tặng anh vài tập thơ của tôi mang theo…

          Lần đầu gặp gỡ là vậy. Song đấy cũng là cái cớ để sau đó, tôi đọc thơ anh đều, cẩn thận và chăm ghi comment hơn. Cứ thế, mà thành thân thiết, và mỗi lần, tôi vào Tây Nguyên, nếu thu xếp được thời gian, là à ới gọi nhau. Tôi cũng đã vài lần cùng các đồng nghiệp ở Tây nguyên đến thăm tệ xá của Lê Lãng Du. Còn anh, khi ra Hà Nội, cũng đã một lần tìm đến thăm tôi ở trụ sở cơ quan, 58 Quán Sứ, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cùng bù khú, chuyện văn chương thơ phú.

          Có lẽ, nhờ vậy, để giờ đây, khi có ý định in thơ, Lê Lãng Du gửi cho tôi tập bản thảo dày dặn, tôi đọc và nhận diện được ngay khuôn mặt thơ anh.

          Đọc thơ Lê Lãng Du, tôi mạn phép gọi anh là Người lãng du giữa cõi tình. Đành rằng, người làm thơ thường là người nệ tình, song với riêng Lê Lãng Du, anh chìm đắm vào cõi tình, đánh mất cả bản thân. Anh lang thang, la cà đây đó trong mảnh vườn tình ái do mình tạo ra, không biết để tìm ai, tìm cái gì ở đó ?... Theo dấu chân anh, hồi lâu, cảm giác anh sa đà mà thành lạc lối chăng? Nhưng đến khi tưởng như anh mất tăm đâu đó trong cõi tình, thì Lê Lãng Du chợt tỉnh lại, ý thức được rằng, mình đang ở đâu trên cõi thực, mình đã từng và đang có ai, có cái gì, dù là mong manh thôi, song đang ở ngay bên mình, phải biết níu giữ, kèo không, rồi một ngày mất nốt, thì lại hối tiếc! Anh có dành cái tình của mình cho người thân, quê hương bản quán, phong cảnh sông núi, gió trăng, song như vậy, cũng là để dồn tụ về cái tình riêng của mình dành cho người tình đã có, đang có và sẽ có ! ?...

Để hiểu tâm tư, hiểu cõi tình của Lê Lãng Du, thiết nghĩ, nên biết đôi điều về cuộc đời anh. Tên thật, Lê Lãng, quê gốc Quảng Trị, mảnh đất khô cằn đầy nắng gió ấy đã từng sinh ra nhiều thi nhân. Anh phiêu bạt đó đây rồi trụ lại với mảnh đất Tây Nguyên, theo nghề thương nghiệp sinh sống. Anh có gia đình, con cái đề huề, nhưng rồi vợ chồng chia tay nhau. Dường như, để tìm sự thiếu hụt, để cân bằng mình, anh làm thơ, cũng đeo đuổi một vài bóng hồng đâu đó, nhưng không thành, bù lại, anh có chút lưng vốn thơ tình … Rồi một ngày nọ, cách đây chừng dăm năm, anh làm quen qua không gian ảo, một người phụ nữ đã luống tuổi, gốc gác Hà thành, cũng từng có gia đình con cái riêng, nhưng lại bị thiệt thòi đường gia thất. Và rồi, họ bập vào nhau thành đôi, mà nên ngãi vợ chồng. Hiện anh chị sống riêng với nhau trong căn hộ mặt phố tại một thì trấn cách thành phố không xa, có cửa hàng photocopy nhỏ. Đã vài lần thăm nhà và dùng cơm với anh chị, quan sát cách họ chăm sóc nhau, tôi hiểu là họ yêu quý, tôn trọng nhau, và hẳn là hài lòng với cuộc sống này…

          Khi yên bề gia thất, Lê Lãng Du vẫn làm thơ đều đều. Có điều, giờ chủ đề thơ anh đa dạng hơn, thực tế hơn. Ở đấy, có bóng dáng, tình cảm của anh dành cho người phụ nữ của mình:

 

Về đây mở quán để mưu sinh

Phố nhỏ vùng ven thật thanh bình

Sớm mai chồng vợ cùng thức dậy

Mở cửa dọn hàng đón bình minh

 

Vợ quét nhà, chồng ra nấu nước

Người rửa ly, người dọn loanh quanh

Kê vài chiếc ghế màu nho nhỏ

Bày lên bàn ấm chén trà xanh

 

Lòng vui khi thấy vài khách đến

Đon đả mời chào chẳng lạ quen …

 

Song đâu đó, người thơ vẫn nén tiếng thở dài, dường như tiếc nuối chi, từ trong sâu thẳm quá khứ:

 

Đắm say một chút duyên hờ

Mong manh tơ tưởng bến bờ tương tư…

 

Khát khao tình đã cuối chiều

Miên man trăng gió hồn xiêu cuối trời

Giờ bùa yêu đã phai rồi

Em quay về chốn xa xôi thủa nào

Mình ta đêm gió lao xao

Nhớ nhung bóng cũ nghẹn ngào cảm thương ..

 

Lại nữa, mơ tưởng, mộng ảo… hình bóng nào đó còn lởn vờn phía sau và chờn vờn ở phía trước:

 

Tương tư tóc bạc lưng trời

Ngất ngây như vướng bùa người bỏ ta

Cỏ tình cỏ lạ xót xa

Sao ta tìm hái để mà vương mang?

 

Như tôi đã nhận định, Lê Lãng Du là người nệ tình, chính vì vậy, cứ có cảm xúc là viết. Anh không chủ ý lập tứ, hoặc có tứ đi chăng nữa thì khi thể hiện ra thành câu chữ cũng không mấy rõ. Tình cảm và chữ nghĩa theo nhau tràn ra. Cứ như anh viết lấy được. Thơ thường dài dòng, giọng điệu kể chuyện, và nhiều khi thực quá, nên cảm giác bài thơ bề bộn, ngổn ngang câu từ. May mà, trong cái thực có cái tình, vậy nên, bài thơ có chỗ bấu vứu để mà đứng được. Cái quý của thơ Lê Lãng Du là vậy. Nói thế, không có nghĩa là thực, là kể hết, bất chợt, ta thấy anh biến ảo, và chìm đắm vào cõi mộng:

Thả vào em một chiều mong

Hay:

Tương tư tóc bạc lưng trời,

 

Hoặc lòng nặng trĩu những ưu tư:

 

Sớm nào quán vắng buồn man mác

Nhìn ra quan lộ ngóng xe qua

Vội vàng xuôi ngược về đâu đó?

Quạnh nhớ về nơi chốn quê nhà,

 

Còn nhiều lắm những bài thơ được, những câu thơ hay, song tôi chỉ viện dẫn một chút, đặng ký họa chân dung Lê Lãng Du-con người thơ… Bao nhiêu cũng chẳng là đủ, mà thêm một chút sẽ là thừa, tôi nghĩ vậy.

Lê Lãng Du thích uống rượu và uống được rượu, song anh không ham hố men cay, chỉ uống khi có bạn hữu chơi nhà. Khi say, anh thật nhất. Và có lẽ, trong một lần say, anh dốc bầu tâm sự, nỗi niềm ẩn chứa trong lòng mình, bấy lâu nay, về cuộc đời, tình cảm luyến ái, văn chương  thơ phú…

 

Say thì cũng đã say rồi

Liêu xiêu mấy bước lại ngồi xuống đây

Giả vờ một chút thơ ngây

Lả lơi, hờ hững vừa đầy hồn hoa

 

Cho người khờ khạo cùng ta

Se se áo mỏng ngọc ngà trong nhau

Chút thương giấu dưới nỗi đau

Ươm ươm môi chín úa nhàu tâm tư.

 

Cõi tình của anh là đây chăng, ơi người lãng du ?

Và cũng là chân dung tự họa của Lê Làng Du.

Tôi nghĩ vậy !..../.

 

 

Nhàn tản Trương Hữu Lợi

 

 

          1. Độ khoảng mươi năm trước khi về nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi hay được anh em đồng nghiệp ở Đài TNVN nhắc đến nhiều. Song không phải vì công việc chuyên môn, cũng không phải vì chuyện văn chương, lại càng không phải do anh gây ra một xi-cang-đan nào, mà bởi về sự nhàn tản. Hễ cánh viết nhà đài chúng tôi ngồi với nhau, khi tách cà phê nóng buổi sáng, chén hoặc ly bia buổi chiều, loanh quanh thế nào rồi cũng nhắc đến Trương Hữu Lợi, cùng cái sự nhàn tản ở anh.

Khi về công tác ở Đài TNVN, tôi mới biết đến Trương Hữu Lợi. Ở thời điểm đó, tôi hay viết truyện cho thiếu nhi nên thi thoảng đáo qua gửi bài nơi phòng Văn học thiếu nhi ( thuộc Ban Văn học nghệ thuật ) tại tầng 2 ngôi biệt thự cổ trong trụ sở 58 Quán Sứ ( cũ ). Khi ấy, Trương Hữu Lợi là Phó phòng biên tập và nhà thơ Lê Đình Cánh là Trưởng phòng.

Với nhà thơ Lê Đình Cánh, thì tôi đã biết đến tên tuổi anh thông qua bài thơ Mẹ ra Hà Nội được trao giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ, cùng với đó là những bài thơ lục bát nhuần nhuyễn, hóm hỉnh. Ấn tượng của tôi lần đầu gặp, Lê Đình Cánh vồn vã và khéo, còn Trương Hữu Lợi thủ thỉ,  thân thiện. Và không lâu sau lần gặp đầu tiên, tôi và Trương Hữu Lợi thành thân nhau. Anh sinh năm 1946, tuổi Bính Tuất ( lý lịch ghi sinh năm 1948 ), hơn tôi những 11 tuổi, nên tình bạn giữa anh và tôi kiểu tình bạn vong niên. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa đông người hay chỉ riêng hai anh em với nhau, anh đều goi tên và xưng mình với tôi.

Cùng làm việc trong ngôi nhà chung 58 Quán Sứ, nhưng lĩnh vực công việc của chúng tôi khác nhau xa. Trương Hữu Lợi làm biên tập mảng văn học nghệ thuật, sáng tác là nghề chính của anh, trong khi đó, tôi làm ở Ban Thính giả, hằng ngày phải tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư của thính giả, rồi soạn thảo văn bản gửi các bộ ngành, cơ quan hữu quan, trả lời lại cho thính giả, một công việc tỷ mẩn, dễ nảy sinh bực dọc, và chẳng dính gì đến văn chương cả. Song bù lại, tôi có điều kiện tiếp nhận, thấu hiểu thêm đời sống thực tế xã hội của mọi tầng lớp người dân lúc bấy giờ, thời kỳ manh nha chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế quản lý mới, mà khởi đầu là Chỉ thị 100 về khoán sản lượng trong nông nghiệp. Và chính vì thế, tôi đã viết được nhiều truyện ngắn lấy chất liệu từ đời sống xã hội đăng các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh v.v...

Tôi và Trương Hữu Lợi hay ăn trưa cùng nhau nơi quán cơm bình dân trên phố Quán Sứ, hoặc Tràng Thi. Thi thoảng có thêm nhà thơ Lâm Huy Nhuận ( biên tập viên Phòng Văn học, cùng Ban biên tập Văn học nghệ thuật với Trương Hữu Lợi ), thì gọi thêm đôi ba chén rượu. Hễ hôm nào hơi quá chén là Lâm Huy Nhuận cũng cao hứng đọc thơ, đi vài động tác võ cổ truyền Bình Định quê anh, và quá thêm chút nữa thì quậy tưng bừng...

Những lúc đi riêng với nhau như thế, Trương Hữu Lợi hay thủ thỉ chuyện nghề báo ở Đài, rồi cả chuyện tình cảm lâm ly bi đát của anh... đặc biệt là câu chuyện của anh với một nữ họa sĩ hơn anh mấy tuổi. Sau này, chuyện tình cảm của họ đã qua đi, song họ vẫn coi trọng nhau, và đã có lần, tôi theo Trương Hữu Lợi đến thăm nhà người nữ họa sĩ ấy. Sau đó, tôi còn gặp nữ họa sĩ đó vài ba lần, không thấy chị nói gì đến chuyện ấy, song chị luôn giữ vẻ trìu mến mỗi khi nhắc đến tên anh. Câu chuyện giữa họ, tôi chỉ được nghe kể từ một phía. Đã có lần, tôi chơi nhà anh, Trương Hữu Lợi chỉ tay lên mấy bức họa trên tường mà khoe rằng, đấy quà quà tặng của chị cho anh. Hiện tôi vẫn nhớ mang máng hình ảnh mấy bức họa có bút tích của chị trong bộ tranh “ Những tâm trạng...” ấy. Chẳng hiểu, giờ còn được treo ở nhà anh nữa không ?...

Trương Hữu Lợi có lối sống giản dị, cách ăn mặc sạch sẽ song xuềnh xoàng. Nhìn dáng vể bên ngoài, thật khó ai biết được, anh là người có mấy thứ hết sức đặc biệt, mà không mấy ai có được.

Ấy là, khi còn học phổ thông tại quê nhà, Trường Cấp 2 Bắc Lý ( nay là Trường THCS Bắc Lý ), Lý Nhân, Hà Nam, anh là học sinh xuất sắc, từng được đại diện cho lứa học sinh đội viên thiếu niên tiền phong lên Hà Nội báo cáo thành tích với Bác Hồ.

Ấy là, anh đã từng học Đại học Lốt-di ( Lodzi ) Ba Lan, chuyên ngành văn học, và là một người nhẩy đầm ( khiêu vũ ) khá giỏi, năm 1972 tốt nghiệp về nước, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và ở liền một mạch cho đến khi nghỉ hưu.

Ấy là, anh từng làm phóng viên chuyên mảng Nông nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam, nổi tiếng một thời với tư cách là tác giả của loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ trong nông nghiệp miền Bắc thời bao cấp, góp phần vào việc Đảng và nhà nước ta điều chỉnh chính sách, ra đời Chỉ thị 100 và Nghị quyết trung ương 10 về thực hiện khoan hộ, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, khởi đầu thời kỳ đổi mới.

Ấy là, anh từng được đồng chí Trường Chinh, khi ấy đương chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, gọi lên gặp, hỏi chuyện hàng giờ đồng hồ, cho phép nói thật lòng suy nghĩ của mình về nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở ta ( mà bây giờ ta quen gọi là “ tam nông” ) ...

Quả là, mới chỉ liệt kê ngần ấy thôi, đã thấy Trương Hữu Lợi ẩn chứa nhiều điều thú vị trong vẻ ngoài hết sức bình dị ở anh...

Nhưng thôi, tôi chỉ kể những điều về Trương Hữu Lợi trong lĩnh vực nghề nghiệp làm báo, sáng tác văn thơ và mối quan hệ với đồng nghiệp, anh em, mà tôi biết hoặc chính anh nói cho nghe... 

 

2. Trước hết, là con người làm báo Trương Hữu Lợi. Mà nói đến anh với tư cách nhà báo, là gắn chặt với Đài Tiếng nói Việt Nam. Không rõ này đầu trở thành người nhà Đài ( VOV ), anh đã làm việc ở mảng nào, song mọi người ở Đài và giới làm báo ở ta biết đến tên tuổi anh, là khi anh trở thành phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, nhất là từ anh viết loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ trong nông nghiệp. Nói đến “ khoán chui “ ( thực chất là khoán hộ ), thường người ta chỉ biết đến việc ông Kim Ngọc, khi làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú thí điểm thực hiện từ năm 1968, chứ ít người biết, việc này sau đó còn được nhiều địa phương khác bí mật làm theo như Vĩnh Bảo, Hải Phòng và một số xã, huyện thuộc Hà Nam Ninh cũ. Ở vào thời điểm ấy, trước luồng ý kiến chủ đạo là việc khoán hộ là phá vỡ HTX nông nghiệp, phá vỡ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quản lý tập trung ruộng đất dưới hình thức tập thể là HTX và nông trường quốc doanh, nhiều báo chí đã vào cuộc. Năm 1981, khi ấy, Trương Hữu Lợi là phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, được Đài phân công về huyện Xuân Thủy, tỉnh Hà Nam Ninh ( cũ ) tìm hiểu, viết phóng sự điều tra. Sau loạt bài đó, anh được đồng nghiệp nể trọng. Thêm nữa, sau khi anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh gọi lên hỏi chuyện, Trương Hữu Lợi được xem là phóng viên nông nghiệp giỏi. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, (thường gọi tắt là khoán 100); rồi tiếp theo là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI về nông nghiệp ban hành năm 1988 ( khoán 10 ), thực chất là sự thừa nhận và nâng cấp của khoán hộ trước đây, Trương Hữu Lợi thực sự khẳng định vị trí vững chắc của mình với tư cách phóng viên chuyên nông nghiệp. Về đường hướng phát triển, khi ấy, anh là Bí thư Đoàn thanh niên của Ban Đối nội, một đơn vị chủ lực của Đài Tiếng nói Viêt Nam. Những tưởng vào bệ phóng như thế, anh sẽ phát triển nhanh chóng. Không ngờ, Trương Hữu Lợi lại rẽ ngang, chuyển sang làm biên tập viên mảng Văn học nghệ thuật. Sao vậy?

Vâng, tại sao Trương Hữu Lợi lại đột ngột rẽ ngang từ một phóng viên nông nghiệp nổi tiếng sang làm biên tập viên Văn nghệ, vốn không phải là sở trường của anh? Việc này diễn ra trước khi tôi bước chân về Đài Tiếng nói Việt Nam nên tôi không biết. Sau này, khi thân nhau, lúc trà dư tửu hậu, Trương Hữu Lợi rỉ rả kể, tuy đứt khúc, nhưng xâu chuỗi lại, tôi cũng hiểu được nguyên nhân sự việc, và qua đó hiểu thêm về anh, biết được đôi chút chuyện hậu trường nhà đài...

Số là, từng xảy ra mâu thuẫn trong công việc giữa Trương Hữu Lợi và một người đồng nghiệp cấp trên trực tiếp. Lời qua tiếng lại có, hiểu lầm có, mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Và một lần, giữa phòng làm việc, bất bình, nóng giận vì cảm thấy bị xúc phạm, anh đã vác cả chiếc ghế ngồi lao thẳng vào người đồng nghiệp cấp trên kia. May mà mấy đồng nghiệp khác xúm vào can ngăn, chứ không biết hậu quả sẽ khôn lường... Rồi sau đó, qua nhiều lần họp hành kiểm điểm nội bộ, Trương Hữu Lợi không phải là người có lỗi. Song le, bát nước hắt đi thì chẳng thể bù lại cho đầy, người đồng nghiệp cấp trên kia chuyển công tác qua vài cơ quan khác, tiếp tục giữ chức vụ cao hơn nữa. Còn Trương Hữu Lợi như quả bóng xi hơi, anh mất dần tính cách của một phóng viên nông nghiệp xông xáo, đầy chất phản biện. Từ chỗ, chỉ cộng tác với mảng văn học thiếu nhi làm vui vì lòng yêu trẻ, anh chuyển hẳn sang vị trí biên tập viên của Ban Văn nghệ Đài. Đây là bước chuyển quan trọng để biến một Trương Hữu Lợi nhà báo thành một Trương Hữu Lợi nhà thơ.

Trương Hữu Lợi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam khi tuổi cũng đã nhiều. Kể từ tập sách văn học thiếu nhi đầu tay “ Mèo mắt xanh “ xuất bản 1986, đến tập sách cuối là “ Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng “ xuất bản năm 2013, Trương Hữu Lợi có 8 đầu sách. Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam ở mảng văn học thiếu nhi, với 4 tập sách. Không chỉ có vậy, hễ nói đến mảng văn học thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam thì không thể không nhắc tên Trương Hữu Lợi. Anh khá giỏi trong việc dàn dựng chương trình văn học thiếu nhi, và đặc biệt có duyên khi tự dẫn chương trình hay trực tiếp kể chuyện cho các em. Khi nhà đài đổi mới khung chương trình, chuyên mục “ Kể chuyện cổ tích & Hát ru cho bé “ là con đẻ của Trương Hữu Lợi.

Chuyên tâm với mảng văn học thiếu nhi, song Trương Hữu Lợi luôn  tự biết xoa dịu, thỏa mãn nỗi khát khao, nỗi niềm tâm sự của mình. Anh xuất bản 3 tập thơ, “ Hoa lạnh “ ( 1990 ), “ Cõi hoang “ ( 1994 ) và “ Nhịp ngựa hoang “ ( 2009 ). Hơn thế, khi nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi còn kịp cho ra đời tiểu thuyết “ Suối quên “  ( 2009 ).

Tiểu thuyết “ Suối quên “ là tiểu thuyết duy nhất của Trương Hữu Lợi, và ngay lần thử sức đầu tiên này, anh đã đẩy gần như toàn bộ hiện thực cuộc sống xã hội vào cõi ảo. Trong cõi ảo, anh mặc sức quấy đảo câu chuyện, tha hồ khắc họa tính cách nhân vật và đẩy các tình tiết lên đỉnh điểm, bất chấp phi lý, mà không sợ ai đó boăn khoăn, căn vặn thực hư ra sao. Ấy là cái mới, những cũng là điểm yếu của anh ở tiểu thuyết này.

Cùng sự thành công ở mảng văn học thiếu nhi, theo tôi, thơ Trương Hữu Lợi khá ấn tượng. Bản thân anh là người duy tình, sau này sống lặng lẽ, khiêm nhường, nên thơ anh nhìn chúng là âm tính, và khá nhất quán trong cách thể hiện. Khó tìm thấy trong thơ anh những câu thơ ồn ào, sống động, hay nhịp điệu gấp gáp, hào sảng. Trái lại, câu thơ lặng lẽ, ẩn ý, ẩn dụ, ngôn ngữ chắt lọc, kỹ càng, nhất là khi anh viết về bản năng, bản thể. Sự trăn trở trong anh cũng luôn có vỏ bọc. Hình như anh ngại nói trắng ra sự thật. Nhưng đọc chậm, đọc kỹ, lại thấy được sự khát khao nơi anh âm thầm trỗi dậy, sự hóm hỉnh, tinh nghịch cứ ẩn hiện, thấp thoảng đâu đó, khiến ta phải cười tủm...

Thơ Trương Hữu Lợi không phải là loại thơ đọc trên diễn đàn, nơi đông người hội họp, mà là thơ đọc thủ thỉ khi đàm đạo dăm ba người, hay riêng hai người với nhau...

 

3. Về nhà thơ Trương Hữu Lợi, cách chơi với đồng nghiệp, bạn bè văn chương với nhau, rất đáng nể. Thời anh còn trẻ, là phóng viên đầy nhiệt huyết và năng nổ thì tôi không được rõ, nên không lạm bàn. Khi tôi về đầu quân nhà Đài vào năm 1987, và gần như ngay sau đó, tôi làm quen và thân với Trương Hữu Lợi, anh đã thể hiện là một con người bình dị, khiêm nhường rồi. Kể từ đó cho đến lúc ra đi mãi mãi, trong cái nhìn của tôi, Trương Hữu Lợi là một người tử tế.

Vâng, chỉ hai từ “ tử tế “ thôi, thiển nghĩ, không dễ chút nào. Trong công việc, với tư cách là biên tập viên, trong quản lý, tư cách một trưởng phòng, anh luôn mẫn cán, chu đáo, cẩn trọng và nhường nhịn. Trong quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, anh em với nhau, anh hiền lành, cảm thông, chia sẻ và hễ giúp ai được cái gì, kể cả tiền bạc, anh đều sẵn lòng, không hề tính toán thiệt hơn. Đều này, ngần ấy năm, lại gần nhau hàng ngày, tôi thấy, và hẳn nhiều người biết. Nhiều năm làm việc ở Ban Văn nghệ ( sau là Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam ), nơi nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng, và phần đông giàu cá tính, như :  Hoàng Ngọc Anh, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Phương Trà, Trúc Thông, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh, Tuấn Vinh, Lâm Huy Nhuận, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Trần Chung, Vũ Thanh, Hồ Bắc, Thuận Yến, Thế Song, Văn Dung, Lê Việt Hòa, Vũ Kim Dung, v.v... Trương Hữu Lợi vẫn luôn giữ được sự nể trọng của mọi người. Việc này, quả không dễ. Dưới quyền quản lý của anh, các phóng viên, biên tập viên trẻ mảng văn học nghệ thuật của VOV trưởng thành nhanh chóng, bởi anh rất tận tâm, tận tình trong việc hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm, khơi gợi cho họ phát huy sự sáng tạo cá nhân, hơn là áp đặt, ấy là, anh quản lý nhân viên theo kiều “ đức trị “. 

Trước đây, tôi và Trương Hữu Lợi phiên chế ở hai ban khác nhau, Đầu năm 2008, hai đơn vị này nhập làm một, ấy là VOV2 ( Hệ phát thanh Văn hóa-Đời sống- Khoa giáo ), khi ấy, tôi đang là Phó Trưởng ban Ban biên tập Văn hóa xã hội, được điều đi làm Giám đốc Cơ quan thường trú VOV khu vực miền Trung. Nhiều lần, hai anh em ngồi với nhau, Trương Hữu Lợi cười hiền, chép miệng bảo: “ Tiếc nhỉ, mình không được làm quân của Nhạc ngày nào cả ...”. Thực ra, vì quý mến tôi mà nên vậy thôi. Khi tôi  kết thúc nhiệm kỳ luân chuyển, quay về Hà Nội thì anh đã nghỉ hưu rồi. Vậy là hai chúng tôi không được làm việc chung với nhau dù chỉ một ngày...

Sao mọi người lại nhìn nhận anh sống nhàn tản. Công việc nhà đài thì lúc nào cũng bận, cứ chương trình nối tiếp chương trình, hết ngày này tháng khác, năm lại năm. Nhàn là sao đây? Trương Hữu Lợi nhàn là ở cái tâm. Người xưa dạy “ Tri túc tâm thường lạc “ ( nghĩa là, biết đủ thì lòng an vui ), thì anh là người như vậy. Công việc luôn tận tâm, quyền lợi lại chẳng so đo, ganh tị với ai, nên không yên vui sao được. Thời gian rảnh rỗi, anh sáng tác và ngao du đây đó, mạn đàm văn chương với bạn bè. Trương Hữu Lợi có mấy sở thích, ấy là thuốc lá và trà thơm; không uống được rượu, vài ly nhỏ thì mặt đỏ nhừ, say cả chấy, nhưng bạn mời thì không chối từ, nâng lên đặt xuống làm vui, lấy cao hứng mà mạn đàm thôi. Ấy là viếng cảnh chùa chiền, đền miếu gần xa.  Và, ấy là yêu...

Để ý nhiều năm, như thành chu kỳ vài ba năm một, Trương Hữu Lợi, đổi chu kỳ hết yêu lại muốn đi tu, rồi đó lại yêu. Lạ thế đấy. Tình yêu ở nơi anh, đồng nghĩa với cảm hứng sáng tác. Tôi hiểu vậy, song hay đùa anh, vờ chất vấn về cái sự này, anh chỉ cười hiền hiền, tội tội, như người có lỗi vậy. Anh không biết đi xe máy, cứ ngày ngày chiếc xe đạp ngoại cũ kỹ cà tàng. Thi thoảng, kết thúc giờ làm, anh khoe đi café hay đi ăn với bạn gái, rồi túi khoác lên vai, xuống gốc cây hè đường cổng cơ quan đợi bạn gái đi xe máy đến đón, và ngồi sau xe máy phụ nữ ngon ơ.

Trương Hữu Lợi có một giai đoạn ngắn sống khá vui vẻ thoải mái, ấy là sau khi nghỉ hưu, anh vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với con trai là kiến trúc sư công tác tại một đơn vị quân đội. Ở đấy, anh làm quen với Việt An, người bạn thân thuở học trò của tôi, rồi hai người lại làm quen với Trần Hồng Giang, một bloger của Blog Tiếng Việt khi đó cũng đang sống với người chị ở đấy. Bộ ba thường xuyên giao du, chuyện trò, văn chương, thơ phú, chữ nghĩa với nhau. Họ quý mến nhau, tôn trọng nhau lắm. Ở ngoài Hà Nội, tôi vui và thèm lây bầu không khí ấm áp đầy ắp tình người ấy của họ.

Một thời gian, Trần Hồng Giang ra lại quê ngoài Bắc, Nghĩa Hưng, Nam Định. Còn Trương Hữu Lợi thì phát hiện K phổi, ra Hà Nội khám chữa bệnh. Thế là bộ ba mỗi người một nơi. Tuy vẫn liên lạc với nhau qua mạng xã hội, qua điện thoại nhưng chẳng thể như trước nữa.

Trương Hữu Lợi nghiện thuốc là nặng. Khi biết mình K phổi, anh giảm hút nhưng không bỏ. Nhiều người khuyên anh nên bỏ, anh bảo: “ Mình K phổi có lẽ hậu quả của mấy chục năm nghiện thuốc lá. Giờ bỏ thuốc, cũng đâu có khỏi được bệnh. Thôi thì cứ thi thoảng làm vui, gọi là giải tỏa tâm trạng nặng nề, thêm can đảm mà chống chọi bệnh tật. Âu có ích hơn là bỏ. Chừng nào không hút được nữa thì thôi. Mới lại, chữa bệnh chứ đâu chữa được mệnh ...”.

Có một thời gian, anh khỏe hẳn lên. Đợt ấy, tôi rủ anh đi Hà Giang, cùng đi có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền. Chúng tôi tổ chức tọa đàm nghề nghiệp cùng với Hội Nhà báo và Đài phát thanh truyền hình tỉnh Hà Giang. Tại buổi tọa đàm ấy, Trương Hữu Lợi đăng đàn hơn giờ đồng hồ về chuyện anh viết loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ thế nào. Chuyến đi ấy, chúng tôi băng qua vùng núi đất phía tây Hà Giang, qua các huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần...Sáng chơi chợ Cốc-pài thị trấn Xín Mần, Trương Hữu Lợi vui lắm, anh nhăm nhăm tìm mua một chiếc áo cánh chẽn dân tộc Mông làm kỷ niệm.

Sau này, khi bệnh nặng thêm, đầu rụng hết tóc, phải đội tóc giả, thi thoảng anh vẫn ghé qua trụ sở 58 Quán Sứ, ngồi hàng giờ với tôi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện văn chương, vui vẻ ăn hết suất cơm ở căng-tin cơ quan, chuyện trò với nhiều đồng nghiệp cũ...

Vâng, quả là trời đền bù cho Trương Hữu Lợi ít nhiều, mùa thu năm 2013, Nhà xuất bản Kim Đồng lựa chọn xuất bản tập truyện cổ tích và đồng thoại “ Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng “; Thi đàn Việt Nam tổ chức giới thiệu và giao lưu thơ Trương Hữu Lợi; và chuyên mục “ Thơ & cuộc sống “ của VOV2 tọa đàm chủ đề “ Trương Hữu Lợi và Khúc ru mình “.

Khoảng một năm trước khi mất, anh hầu như chỉ chống chọi với bệnh tật, ít viết. Không thấy anh công bố tác phẩm nào mới, lâu lâu vẫn đăng đây đó những bài thơ cũ mà anh tâm đắc.

Tập thơ “ Nhịp ngựa hoang “ ( NXB Hội nhà vănm 2008 ), xem như thơ tuyển chọn Trương Hữu Lợi, thay cho đề từ, anh viết “ Hoa lạnh,Cõi hoang, Vuông cỏ rối/ Đáy Suối quên chới với trăng buồn/ Canh dài vần vụ mưa tuôn/ Cây gày bóng nghe bên cồn chơ vơ...”. Tôi nghĩ, anh muốn tổng kết sự nghiệp văn chương của mình trong mấy câu thơ ấy...

Trương Hữu Lợi cả đời gắn bó với Đài Tiếng nói Việt Nam. Tiếc là anh ra đi không lâu trước lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đài. Hẳn ở nơi xa xôi ấy, Trương Hữu Lợi đâu biết, trong không gian trưng bày truyền thống 70 năm xây dựng và trưởng thành của Đài TNVN tại trụ sở 58 Quán Sứ, trong số muôn vàn kỷ vật, có trưng bày bản thảo vài trang loạt phóng sự anh viết về khoán chui, và bài báo kể chuyện cuộc gặp gỡ, chuyện trò với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh về tam nông...

Giờ đây, anh chẳng còn phải bận lòng nhàn hay không nữa, khi đã là người của muôn năm cũ. Nhưng, với tất cả những gì Trương Hữu Lợi để lại, hẳn đồng nghiệp và bạn bè sẽ luôn nhớ về anh !...

 

 

Người đi bạn với phù vân,

 

Hoan hô Phẫu thuật thần kinh

Mổ não rất giỏi, thơ tình cũng hay.

         

Người ấy là bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, chuyên khoa phẫu thuật thần kinh ở Bệnh viên E, Hà Nội. Còn câu thơ kiểu Bút Tre kia là của Nguyễn Vinh Hùng, em trai ruột của Nguyễn Vinh Dũng, đùa vui mà khen anh mình vậy,...

          Tôi mới gặp bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng đúng một lần, qua vài tiếng trò chuyện thôi, nhưng biết đến anh thì trước đấy vài năm. Số là, tôi có trang cá nhân ở một mạng xã hội, là Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.com) từ năm 2009, và ở đấy, tôi có những người bạn, với tư cách là blogger hay tư cách bạn đọc thường xuyên. Trong số đó, có những người là “người của công chúng”, là cây bút được bạn đọc biết đến, như Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhà văn Trần Tâm, nhà văn Nguyễn Cao Thâm, Lưu Quốc Hòa, Nguyễn Trọng Huân, Trần Hồng Giang  v .v… So với nhiều bạn hữu và người quen của tôi xuất hiện trên blogtiengviet.com (BTV), mà các blogger gọi vui một cách nôm na, là Xóm Lá, thì Nguyễn Vinh Dũng là người đến muộn. Tuy đến muộn, nhưng Nguyễn Vinh Dũng nhanh chóng trở thành một blogger ấn tượng, và vì thế, anh khá thân  với nhiều blogger khác và được đông đảo bạn đọc biết đến…

          Nickname mà Nguyễn Vinh Dũng sử dụng ngay từ ngày đầu tiên xuất hiện trong Xóm Láphauthuattk, lâu ngày, mọi người viết tắt, thành PTtk, rồi tắt nữa, là Phẫu. Và kể từ đây, Nguyễn Vinh Dũng trở thành người nổi tiếng trong Xóm Lá… Anh Phẫu, chàng Phẫu, hoặc chỉ một từ Phẫu là đủ, để ghi nhận sự có mặt của anh trong Xóm Lá xôm trò này. Ở Blog Tiếng Việt nói riêng và mạng xã hội nói chung, một ai đó muốn có một tài khoản, một trang cá nhân, không khó, vì chỉ sau một số thao thác kỹ thuật là được. Song để nuôi dưỡng, để mọi người biết đến, ghi nhận sự có mặt của mình, nể trọng mình, thì khó đấy. Riêng với Phẫu, anh đã làm được cái việc khó ấy, một cách dễ dàng, tự nhiên. Tôi nghĩ, đấy là phẩm chất, cá tính bẩm sinh, là kiến thức và bản lĩnh của người từng trải …

          Với tôi, không nhớ chính xác Phẫu xuất hiện, ghi cảm nhận (comment) trên trang Ngẫm & Viết của tôi khi nào và cụ thể bài viết gì, nhưng Phẫu nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi, bởi qua một vài cảm nhận, anh đã thể hiện rõ sự hiểu biết, tính phản biện cao qua giọng điệu hóm hỉnh pha chút chọc ngoáy gây chuyện. Vậy mà tôi khoái ngay anh chàng Phẫu này từ “thuở ban đầu”… Phẫu nhanh chóng đứng vào hàng ngũ của những blogger, những bạn đọc sắc sảo có tiếng ở đây trước khi anh xuất hiện, mà tôi được biết và thường xuyên giao lưu, như: Người Qua đường, Phạm Huy Việt, Nguyễn Vĩnh Tuyền, Lê Văn, Lu Bim, Sĩ Liêm, Chử Thu Hằng, Ru đêm-Thúy Tím, Mùa Thu vàng, Nhược Mộng, Biển Lặng, Ví giặm, Hoàng Kim, Hoa Mai, Trịnh Tuyên, Việt An v.v…

          Phải nói, tính tương tác cao của mạng xã hội này, cho phép mọi người bộc lộ ý kiến cá nhân về những bài viết của các blogger. Cái cách Phẫu đến với bà con Xóm Lá cũng rất khác người, ấy là không cần sự rào đón, chào hỏi nhẹ nhàng làm quen, như phần đồng mọi ngưới hay làm, thay vào đó, là ý kiến sắc sảo, là nhận định riêng, không a-dua, không bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng đám đông. Ngần ấy, khiến nhiều người để ý và nể trọng Phẫu. Đấy là nét chính phác họa nên một diện mạo Phẫu với tư cách là người đọc và ghi cảm nhận, vậy còn Phẫu với tư cách một cây bút, thì các sáng tác và bài viết của anh ra sao?

          Tựu chung, các bài viết của Phẫu, có thể gom lại thành mấy dạng, nhiều nhất là câu chuyện hoài niệm về tuổi thơ đi học ở quê, chuyện quân ngũ và chuyện về các người thân; dạng thứ hai, là những bài viết ngắn, kiến giải các bức xúc xã hội, dân sinh có tính thời sự, và ở đây, anh không ngại những đụng chạm mang tính chính trị; một dạng nữa, ấy là các câu chuyện nghề nghiệp, cụ thể là chuyện từ tai nghe mắt thấy tay làm trong công việc của một bác sĩ chuyên khoa Phẫu thuật thần kinh của anh. Phẫu khá chịu khó cập nhật trang cá nhân, thay bài viết mới, đôi ba ngày một bài, lâu nhất thì cũng chỉ một tuần. Chính vì vậy, tuy lập trang khá muộn, nhưng bài viết lại nhanh chóng đầy lên. Và đấy cũng là cơ sở để tôi nhìn nhận ra một diện mạo Phẫu với tư cách một cây bút.

          Là một cây bút nghiệp dư, chịu khó viết, nhớ đâu, thấy gì, kể nấy, nên tôi không đánh giá những bài viết của Phẫu về khía cạnh văn chương chữ nghĩa, mà nhìn nhận ở nội dung đề cập, tính chính kiến và chất nhân văn của mỗi bài viết của anh. Văn anh, nhiều chỗ còn ẩu, cũng không thiếu lỗi chính tả, thế nhưng, ẩn giấu dưới những câu chữ ngổn ngang ấy (tôi hình dung chữ viết tay của anh, từ con người và tính cách mà suy, hẳn chữ không đẹp, nhất là “chữ bác sĩ”), luôn thấy sự hóm hỉnh, thông minh lấp lánh đâu đó. Thực lòng, tôi không nhớ hết những bài viết của Phẫu, song tôi ấn tượng nên có thể gom những bài viết thành các dạng cụ thể như vậy…

          Ấn tượng nhất, ấy là chuyện kể dài kỳ, mà Phẫu còn đặt thành chương, hồi kiểu như truyện trinh thám, kiếm hiệp ngày xưa, có tên “Thằng Cường”. Đọc một số chương, đối chiếu với những gì biết về cuộc đời Phẫu, dù tóm lược, cũng thấy ngay, “Thằng Cường” chính là chuyện về bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, là Phẫu cho đến bây giờ. Nghĩa là, truyện mang tính tự thuật, song không phải là hồi ký. Cái hay, cái thích trong truyện này, ấy là suy nghĩ thật, kể cả những điều khó nói, mà thường người ta hay giấu đi, chẳng hạn như nỗi sợ hãi, sự hèn mọn, sự phản kháng… của một người lính có học, chuẩn bị dấn thân vào nơi nguy hiểm, chết chóc… Tính chất tự thú ấy, giờ đây, tôi cũng đã đọc được ở đâu đó của những nhân vật thành danh bước ra từ cuộc chiến.

 

          Chuyện về người thân, viết nhiều nhất, cả văn và thơ, ấy là người mẹ của Phẫu. Người mẹ mà Phẫu từng nhớ: ”Ta ước nơi xưa một nếp nhà/ Có vải, có chuối có cỏ hoa/ Đèn ta trước cửa đêm đêm đợi/ Theo gió suơng về bóng mẹ ta”,... Người mẹ, mà Nguyễn Vinh Hùng, em ruột của Phẫu cũng đã nhớ lại mà viết: “Hôm nay trời rét lắm/ Thôi! chị Thuấn ở nhà/ Đưa cái áo bông hoa/ Để cho Khang nó mặc/ Dũng, Hùng đâu, ra đây/ Sao phong phanh thế này/ Lật áo lên mẹ đếm/ Một...hai...ba…chưa đủ,/ Độn thêm cái này vào/ Ở bên trong ai thấy!/ Thế rồi mẹ đi cấy/ Mặc một áo phong phanh/ Mẹ bảo, cấy cho nhanh/ Hình như…cũng đỡ rét”… Vậy là đủ hiểu, Phẫu và các anh chị em trong gia đình anh yêu thương và kính trọng người mẹ đến mức nào.

          Cũng chuyện người thân, Phẫu dành tình cảm đặc biệt cho cô con gái út của anh. Được biết, Phẫu có ba con, hai trai trước và gái út. Tôi đặc biệt ấn tượng, một câu chuyện anh kể lại, rằng ngày gái út của anh còn nhỏ xíu, cháu bé có một chút khiếm khuyết nhỏ, không ảnh hưởng gì đến sức khỏe cũng như thẩm mỹ, nhưng để giải thích cho gái út khi bé băn khoăn về khiếm khuyết chút xíu ấy, Phẫu đã nghĩ ra hẳn một câu chuyện, như truyện cổ tích pha ngụ ngôn, kể cho cô bé nghe, và sau đó, cô bé không còn băn khoăn gì nữa. Thật là tuyệt vời, tôi nghĩ vậy, phải có lòng thương yêu con gái út vô bờ bến, Phẫu mới nghĩ ra được một câu chuyện “cổ tích” hợp lý và hay đến vậy. Dường như, gái út cũng rất yêu kính cha mình. Bằng chứng là, buổi chiều muộn, Phẫu lái xe đến trụ sở Đài TNVN ở 58 Quán Sứ (Hà Nội) đón tôi, để cùng đến thăm nhà Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, đang đi thì Phẫu có điện thoại. Anh nghe máy, và qua đối thoại trên phone, tôi ít nhiều hiểu được nội dung cuộc đàm thoại. Phẫu giải thích, con gái út anh, cô bé đang là sinh viên đại học, hỏi bố có ăn cơm tối không ở nhà không, và khi anh cho biết là đang đi đâu, ăn cơm khách với ai, thì cô bé nhắc bố mình, nhớ đừng về muộn, không uống rượu bia khi lái xe. Vậy thôi, đủ thấy, cha con anh, không những yêu quý, mà còn thân tình như bạn bè…

          Chuyện về nghề nghiệp, tôi nhớ là có đọc một câu chuyện,vừa là chuyện nghề, vừa là chuyện người thân, ấy là về vợ anh, một bác sĩ, khi ấy còn chưa làm công tác quản lý ở một bệnh viện ngành tại Hà Nội như bây giờ. Chuyện rằng, nếu không nhầm, đại loại, vợ anh một lần bị tai nạn, thương tích khá nặng, chấn thương sọ não hay cột sống gì đó, cần phải phẫu thuật gấp, đặng mới cứu sống, vừa tránh bị di chứng sau này. Thế nhưng, khi cấp cứu tại bệnh viện chị ấy công tác, song không hiểu sao, lại không có bác sĩ phẫu thuật giỏi, đứng chính ca mổ. Phẫu được tin, đến ngay phòng bệnh, nơi vợ anh đang được cấp cứu, chờ mổ. Với đội ngũ bác sĩ, nhân viên y tế ở đây, anh và họ đều quen biết nhau, đơn giản bởi đây là nơi vợ anh công tác, thêm nữa, chắc trong nhiều năm làm nghề, anh cũng thường xuyên tham gia hội chẩn, thậm chí, được mời tham gia phẫu thuật, điều trị bệnh nhân của bệnh viện này. Nhìn cảnh vợ đang hôn mê, chờ phẫu thuật mà chưa có bác sĩ giỏi cầm dao mổ chính, trong khi bác sĩ mới vào nghề có đấy, nhưng chỉ phụ tá được thôi. Phẫu sốt ruột lắm, bởi kinh nghiệm chuyên môn, anh hiểu, mỗi giây phút trôi qua, vợ anh khó có cơ cứu sống. Thế nhưng, quy định chuyên môn không cho phép, dù có giỏi đến mấy, bác sĩ phẫu thuật chính cũng không được phép cầm dao mổ cho người thân ruột thịt của mình, bởi nỗi lo tâm lý và tình cảm không ổn định, dễ gây ảnh hưởng xấu đến việc dao kéo, dễ sai sót khi phẫu thuật dẫn đến ca mổ không thành công. Vậy nên, dù giỏi và giàu kinh nghiệm, Phẫu cũng không được phép cầm dao trong ca mổ vợ mình. Tình thế lúc ấy thật khẩn cấp, và cuối cùng, không thể chờ bác sĩ của bệnh viện kịp đến, ca trực cấp cứu hôm ấy, đành phải chấp nhận đề nghị của Phẫu xin được cầm dao cho ca mổ chính vợ anh, để anh ký vào tờ giấy cam đoan xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về ca phẫu thuật này. Anh đã vào cuộc với một sự bình tĩnh, bản lĩnh cao cường, cho đến khi, bác sĩ chính của bệnh viện đến nơi thì cũng là thời điểm Phẫu hoàn thành ca mổ xuất sắc. Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm, sung sướng vô bờ. Phẫu như kiệt sức. May mắn, vợ anh qua khỏi, hồi phục dần, trở lại công việc bình thường, không bị di chứng gì. Nghe đâu, vợ anh còn phát triển, trờ thành một cán bộ quản lý của bệnh viện này. Qua những gì Phẫu kể lại trong bài viết của mình, có thể thấy được tay nghề chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp của anh cao tới cỡ nào rồi.

          Một câu chuyện nữa của Phẫu kể lại và tôi cũng nhớ vì quá ấn tượng. Ấy là một ca cấp cứu tai nạn giao thông chấn thương sọ não rất nặng. Đêm ấy, không phải ca trực của anh. Phẫu bảo, anh ngồi xem mạng, gần nửa đêm thì định đi ngủ, vừa lúc ấy thì điện thoại réo. Anh nghe máy, đầu kia, bác sĩ trực ca đêm cùng khoa với anh, nhờ anh tư vấn cho một ca cấp cứu chấn thương sọ não vì tai nạn giao thông của một nam thanh niên rất trẻ. Bác sĩ trực ca tỏ ra thiếu tự tin, lo xử lý không thành công ca này, sợ nạn nhân sẽ tử vong trên bàn mổ, và yêu cầu, nếu có thể, Phẫu đến ngay để giúp anh ta xử lý ca này. Không chần chừ, Phẫu lao ngay đén viện vì nhà anh gần đó. Và anh đã chịu trách nhiệm chính ca phẫu thuật sọ não cấp cứu đó. Đến gần 5 giờ sáng, ca mổ hoàn tất với sự thành công vượt quá sự mong đợi của gia đình nạn nhân. Khi Phẫu về phòng mình, thì người nhà bệnh nhân theo đến, đưa anh một phong bì tiền, nói là họ muốn cảm ơn anh và cả ca trực đã vất vả đêm hôm dồn hết sức để cấp cứu con họ qua cơn nguy hiểm chết người. Phẫu lung túng, không nhận, song gia đình bệnh nhân nhất mực thành tâm, họ bảo không nhận thì họ sẽ áy náy như kẻ vô ơn. Cuối cùng, Phẫu đành nhận, vừa để gia đình nạn nhân hài lòng, và anh nghĩ, còn cả ca trực nữa, nếu thêm chút quà cảm ơn này, hẳn họ cũng sẽ vui, niềm vui ở đây, không phải vì thêm được đôi ba trăm ngàn đồng, mà vui vì rốt cục, sự cố gắng của họ đã được đền đáp, một con người trẻ trung được sống lại…Thiết nghĩ, sẽ chẳng một ai chê trách gì Phẫu và các đồng nghiệp của anh khi nhận món quà cảm ơn chân thành này. Tôi nghĩ, đây không phải là sự vòi vĩnh, cầu lợi nghề nghiệp, nó thật sự là một biểu hiện của văn hóa biết ơn, theo truyền thống văn hóa Việt nói riêng và văn hóa Phương Đông nói chung. Trở lại bài viết của Phẫu, anh thành thật thú nhận nỗi băn khoăn của mình khi thay mặt kíp mổ nhận món quà cảm ơn này với sự lung túng kèm chút băn khoăn trong lòng, song anh cũng không quên sự hài hước vốn có của mình, khi mô hình hóa lại vết mổ hình sao trên cái đầu trọc lóc của nạn nhân với lời bình hóm hình rằng “Rồi đây, liệu cậu nhóc có biết quý cái mạng sống mà cha mẹ nó sẵn sàng đánh đổi mọi thứ và các y bác sĩ phải cố gắng hết sức để giành giật lại cho nó, rằng liệu nó có thay đổi này, nọ…”. Đọc, rồi cười thầm về sự dí dỏm, lại thêm phần nể trọng tính trách nhiệm của Phẫu…

                   Tiếng là khá thân và nể trọng nhau, nhưng tôi và Nguyễn Vinh Dũng chỉ gặp nhau đúng một lần, khi anh rủ tôi cũng đến thăm nhà Gs Nguyễn Lân Dũng. Phẫu nhận lời mời và hẹn đến thăm giáo sư, nhưng anh bảo ngại đi một mình. Hôm ấy, Gs Nguyễn Lân Dũng mời chúng tôi ăn bữa cơm tối ở quán cơm giáp ngay nhà ông trên phố Trần Thánh Tông. Cơm đúng kiểu cơm gia đình, lạc rang, thịt rang, đậu rán, canh cua, cà pháo. Tôi và Phẫu nhấp chút bia gọi là có, anh bảo, còn phải lái xe, và cũng hứa với gái út rồi. Chuyện nghề y, chuyện văn chương, xã hội. Tôi nhớ, anh có lý giải sơ qua, việc tại sao, anh đã là thạc sĩ, là bác sĩ chuyên khoa, nhưng lại không tiếp tục nghiên cứu để lấy bằng tiến sĩ. Phẫu có bảo, anh đang biên soạn một cuốn sách về chuyên môn và sẽ cho xuất bản, rồi cả chuyện anh chỉ còn già một năm nữa là nghỉ hưu, sẽ tiếp tục hành nghề y ra sao, khi đã nhận lời làm việc cho một phòng khám tư nhân của bạn bè...

          Gặp nhau chỉ vậy thôi, nhưng cả trước và sau cuộc gặp ấy, tôi và Phẫu giao lưu thường xuyên trên trang cá nhân của mỗi người. Khi cần lắm mới alo cho nhau, bởi do tính chất công việc, tôi thì họp hành liên miên, còn Phẫu thì bận việc chuyên môn, nhất là hay phải tham gia phẫu thuật. Vậy nên, cứ hẹn nhau chung chung, rằng khi nào rảnh thì gặp nhau,... Biết tôi chơi bóng bàn kha khá, Phẫu thích thú lắm, và còn hẹn, khi nào rảnh rang thì qua bên cơ quan tôi giao lưu bóng bàn với tôi và đội bóng bàn VOV, bởi anh chơi khá tốt và cũng ham môn thể thao này...

Tôi thích cách làm quen trực diện, gạt bỏ nếp xã giao thông thường và tính trách nhiệm cao ở con người này, ngay từ ngày đầu, mặc dù các cảm nhận của Phẫu cho những bài viết của tôi, đều gai gai, có gì đó trêu ngươi. Tôi lặng lẽ sang trang cá nhân của Phẫu, đọc một số bài viết của anh, không để lại cảm nhận gi, bởi tôi nghĩ, qua đây, có thể ít nhiều kiểm chứng được kiến văn và tính cách của chủ nhân. Tôi cũng cảm nhận được và chấp nhận cái sự “chọc ngoáy” của anh, và hiểu đó còn là “phép thử” dành cho tôi… Sau này, khi đã thân nhau, qua các cuộc đàm thoại, Phẫu cười sảng khoái, tự thú là đã thử tôi thật. Phẫu hay trêu tôi, rằng “... lão Chu làm thơ cứ như cái Phong vũ biểu… Hễ giời đất hắt hơi xổ mũi là  lão cũng thơ ngay được… Tài thế không biết,…”. Hiểu là bạn trêu mình, song quả là nhận xét ấy của Phẫu không sai, với những bài thơ “chuyển mùa” của tôi, và dường như, ngoài Phẫu, không mấy ai cảm nhận và bộc lộ thẳng như vậy. Phẫu chốt “thơ lão như phong vũ biểu thật … nhưng mà tớ thích, bởi sức gợi của ý tứ, câu chữ… thơ lão khiến tớ phải nghĩ ngợi này nọ…nó làm cho tớ không yên…”. Sự chân thành ấy của Phẫu, làm tôi cũng phải nghĩ ngợi, tự nhìn nhận một cách nghiêm túc các sáng tác của mình. Thực lòng, tôi đồng tình với quan niệm của người xưa, mà tôi từng đọc được ở đâu đó, rằng “thơ cốt ở gợi, rồi mới đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu…”, nên chủ định, thơ không cần quá dụng công, và cũng không gò ép, buộc thơ phải gánh vác sứ mệnh này nọ,… Tôi nghĩ, cứ giản dị, gợi mở, liên tưởng…, chẳng rõ, đấy có phải là thi pháp hay không, nhưng tôi đã kiên trì với phong cách ấy… Và nhận xét của Phẫu làm tôi yên tâm phần nào, chí ít anh cũng hiểu và chia sẻ cùng tôi…

          Tôi biết, bản tính của Phẫu là người thích phiêu du, nhưng điều kiện một bác sĩ phẫu thuật chính ở một bệnh viện lớn khiến anh không dễ bứt ra khỏi công việc để đi đây đó. Vậy nên, khi có điều kiện đi đâu đó xa vì công việc hay việc riêng, Phẫu đều tìm cách tranh thủ tách ra, tìm gặp người quen. Chính vậy, một lần, trong chuyến công tác miền Tây Nam bộ, tôi từ Cần Thơ sang Cao Lãnh (Đồng Tháp) và trên đường lên Sài Gòn, tôi thu xếp ghé thăm Sáu Miệt Vườn, một blogger có tiếng của BTV. Qua cầu Rạch Miễu, rồi men sâu vào miệt vườn ven sông Hàm Luông, sau mấy lần nối máy nhận chỉ dẫn, tôi mới tìm được nơi ở của Sáu Miệt Vườn. Những tưởng, mình là người đầu tiên ở ngoài Bắc lần mò vào tận đây thăm người quen, vậy mà tôi nhầm, trước đó không lâu, Phẫu đã tìm đến đây rồi. Trong câu chuyện của mình, Sáu Miệt Vườn luôn nhắc đến anh Vinh Dũng với sự kinh trọng trìu mến, rằng anh ấy là người hiểu biết, giản dị và đầy sự cảm thông, chia sẻ này nọ... Nghe nói, Phẫu đã nghỉ qua đêm ở đây để nhậu, đàn hát kiểu lính tráng thoải mái, và chuyện trò với Sáu Miệt Vườn cho đã đời… Thực lòng, tôi không bằng Phẫu trong giao lưu với bạn bè…

          Có vài lần, anh tự lái xe của mình đi công việc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi lên điểm cao dừng chân của cung đường đèo Ô Quy Hồ (Lào Cai-Lai Châu) và sau đó là Cổng Trời Quản Bạ (Hà Giang), Phẫu nghỉ chân, nối điện thoại nói chuyện với tôi, rằng anh đang cảm nhận xem, có gì đó giống với sự cảm nhận mà anh đọc được từ những sáng tác thơ văn của tôi trước đó. Điều ấy, tôi thấy vui vì sáng tác của mình đã tác động đến bạn văn chương, thôi thúc được bạn tìm đến các nơi mà mình từng trải qua…

          Nhớ là, có lần, tôi góp ý khá nhiều về lỗi câu chữ và chính tả trong truyện dài “Thằng Cường”, kể cả về nội dung, cách nhìn nhận, sự đánh giá về “cái được-mất” của cuộc chiến đã qua dưới lăng kính của một người lính trận còn sống sót đến thời hậu chiến, Phẫu bảo, cứ nhớ gì và nghĩ thế nào viết ra cái đã, rồi sẽ đọc chậm, đọc kỹ và chỉnh sửa sau. Phẫu lo, nếu cứ cân nhắc này nọ, rồi băn khoăn nên hay không nên, thì sẽ ngại mà  thui chột mất. Điều ấy đúng, nhất là với người viết không chuyên như anh.

          Và rồi, câu chuyện kể về “Thằng Cường”, hiện thân của Nguyễn Vinh Dũng ấy, dừng lại đột ngột,...  Vào một buổi sáng oi nồng cuối tuần, mùa hè năm 2015, Phẫu bị đột quỵ ngay giữa trận đấu bóng bàn khi anh đang thi đấu với các anh em bạn bè thuộc CLB Bóng bàn Cầu Giấy, mà anh là thành viên. Tin anh mất, tôi đọc được vào sáng hôm sau, cũng là qua các trang cá nhân của bạn bè Xóm Lá. Tôi bàng hoàng, khó tin, bởi thể trạng anh khỏe mạnh săn chắc, lại thêm anh vốn là bác sĩ cơ mà?...

          Gia đình, người thân, đồng nghiệp, bạn bè và đặc biệt là nhóm bạn Xóm Lá và các thành viên CLB Bóng bàn Cầu Giấy rất đông đến viếng, tiễn đưa anh ở chính nơi anh làm việc. Trong câu chuyện bên lề, có vị lãnh đạo của Bệnh viện bảo, “ông này chủ quan lắm, chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của bản thân, những lần cơ quan tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên của bệnh viện, ông ấy có khám xét gì đâu...”. Cũng là một lời trách về sự chủ quan. Phẫu ơi, chẳng riêng gì anh đâu, người ta bảo, bác sĩ thường hay chủ quan về trạng thái sức khỏe và bệnh tật của mình. Chẳng rõ, đúng sai, âu cũng xem như một sự an ủi?... Hôm ấy, tôi có chú ý đến cô con gái út của anh, cháu có nét giống bố. Con gái rượu, người mà Phẫu nhất mực quan tâm, đã khiến anh ngày nào nghĩ ra một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cô bé. Giờ đây, tôi vẫn hay nghĩ về cô bé, cháu đã tốt nghiệp đại học và đi làm rồi cũng nên?...

Sự ra đi của Phẫu khiến tôi bâng khuâng mất một dạo. Quả thật, không có anh, BTV như trống vắng hẳn đi, chí ít, đối với tôi, với Sáu Miệt Vườn, và còn những ai nữa đây ? ... Tôi biết, riêng trong BTV, có những người còn quý mến anh lăm lắm... Đấy thực sự là niềm hạnh ngộ với Phẫu, và tôi tin, anh biết điều đó. Tôi hay vào blog của Phẫu, đọc lại những bài viết của anh, đọc sâu về những bài viết ngày đầu anh mới gia nhập BTV, khi đó, tôi còn chưa biết đến anh. Tôi cảm nhận, ẩn sâu với vẻ ngoài thô ráp, góc cạnh, thậm chí có gì bỗ bã, là sự cảm thông sâu sắc, là sự cam chịu pha lẫn sự phản kháng vô vọng trước cái xấu và sự bất công, là những nỗi đau đời... chung quy, chúng đầy ắp chất nhân văn...

          Chừng nửa năm sau, Vinh Hùng, em trai Phẫu, thông báo là đã lần ra được password trang cá nhân của anh, đã xin phép gia đình anh, mở lại trang phauthuattk trên BTV, đặng đăng lại một số bài viết cũ của anh, trong đó, đặc biệt là truyện dài “Thằng Cường”. Bạn hữu lại thấy thấp thoáng bóng dáng Phẫu đâu đó nơi trang viết trong cuộc đời Thằng Cường. Đã có mấy chục số được đăng lại, nhưng rồi, bỗng một ngày nào đó, không còn thấy hiển thị của trang ấy nữa. Không ai biết vì sao, nhưng chắc có lý do của nó. Vinh Hùng và gia đình Phẫu, cùng một số bạn bè là các blogger của BTV, trong đó có tôi, đã bày tỏ sự mong muốn được gom lại tất cả những sáng tác của Phẫu, đặng lựa chọn và biên tập, xuất bản thành sách. Mong muốn ấy cũng đã từng được Vinh Hùng và gia đình Phẫu ủng hộ, song giờ đây, chưa rõ việc ấy tiến triển ra sao rồi? Tôi đã vào trang blog cá nhân của Vinh Hùng, nhắn hỏi, nhưng vẫn chưa có hồi đáp. Đành chờ vậy thôi...

          Khi còn làm việc, những năm trước tuổi nghỉ hưu, Phẫu hay tranh thủ về quê. Có vẻ anh thèm cảnh vườn rau ao cá, thèm cảnh bờ đê với những cánh diều bay lượn chiều hè, thèm dòng sông quê nhỏ bé hiền hòa với những lũy tre mát rượi ngả bóng, thèm ngôi chùa làng thoang thoảng khói hương tình lặng thiền định. Nhớ là, một lần, về quê ra, Phẫu đưa lên trang cá nhân mấy cái ảnh chụp anh trần trùng trục lội ao giăng lưới bắt cá cùng những lời chua hóm hỉnh. Chia sẻ cùng anh, tôi xúc cảm thành thơ tặng Phẫu: “Về quê/ ta tắm ao làng,/ rồi đi câu cá / chẳng màng / được/ không/ lang thang/ với ngọn gió đồng/ chiều về// ra lại bến sông/ thuở nào,/ Đêm/ thao thức / với trăng sao/ chùa bên/ hoa huệ/ ngạt ngào lên hương,/ chợp đi/ một giấc bình thường/ tinh mơ / nghe thoảng/ giọt sương/ mơ hồ ...”. Phẫu đọc được, vẻ khoái lắm.

          Nghề của anh, mỗi ca mổ cấp cứu, là chứng kiến ranh giới giữa sự sống và cái chết, những tưởng anh sẽ chai sạn với chuyện sinh tử, nhưng không, tâm hồn anh nhạy cảm, mong manh lắm. Một lần, ghi cảm nhận cho một bài thơ của tôi về quê cha đất tổ, Phẫu đã suy ngẫm và chiêm nghiệm gì đó, mà anh ghi “... Có lần, đi một mình trong sân bênh viện lúc đêm khuya, nhìn cái bóng của mình trên mặt đất, tôi như thấy bóng ông bà, tổ tiên mình lẩn khuất trong đó...”. Điều ấy, cho thấy, Phẫu cảm nhận chuyện đi ở bình thường như bao quy luật khác của cuộc đời?...

          Lại một mùa hè nữa. Những ngày nắng như chàm lửa, bạn bè lại nhớ đến Phẫu. Đã là mùa hè thứ ba kể từ khi anh đi xa. Phẫu, “người đi bạn với phù vân, cõi không lẫn với những vì sao đêm”, anh thực sự “phiêu du trên cánh nhẹ êm,/ mong manh đậu chiếc lá mềm vườn quê,/ làm mưa ướt cỏ triền đê,/ hòa làn gió thổi tái tê trời chiều,/ làm sương đẫm những thương yêu,/ làm nỗi nhớ của bao nhiêu lòng người”...

          Người thân và những bạn bè vẫn luôn nhớ anh. Mong một ngày gần nhất, được thấy những bài viết của anh, tập hợp trong một cuốn sách, với tên tác giả đầy đủ và trang trọng-Nguyễn Vinh Dũng.

          Còn ở Blog Tiếng Việt, xin anh, hãy cứ để mọi người nhắc đến anh với biệt danh giản dị - Phẫu, ...

 

 

 

 

 

Người thơ, ngơ ngác như thằng mất trâu,...

 

         

Người thơ ấy là Ma Bích,

          Còn thơ Ma Bích thì tôi chỉ nhớ mỗi câu “Đồi xưa bẻ lá em nằm/Nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu,”...

          Ma Bích tên thật là Hà Hồng Vanh, dân tộc Mường, quê xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Thông tin này, tôi lấy theo nguồn của nhà thơ Trương Thị Mầu, hội viên Hội Văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số Việt Nam, Bác sĩ Ưu tú, giám đốc Phòng khám đa khoa Lương Điền, Bá Thước, Thanh Hóa.

          Tôi biết nhà thơ Ma Bích từ ngót chục năm nay, tại cuộc gặp gỡ, giao lưu thơ văn đầu xuân hằng năm tại gia nhà văn Trịnh Tuyên ờ Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Những lần như thế, Ma Bích theo xe của nhà thơ Trương Thị Mầu xuống Cẩm Thủy. Thú thật, trong những cuộc vui như vậy, thơ văn hòa rượu tuôn ào ào, tôi không thuộc nổi câu thơ nào của Ma Bích, ngoài việc thuộc tên nhớ mặt nhau. Ấn tượng của tôi về ông kể từ ngày đầu gặp gõ, ấy là cách nói năng và những bài thơ ngắn ngẫu hứng đọc tại chỗ có giọng điệu đúng chất người dân tộc thiểu số...

          Cho đến mùa hạ năm 2019, nhóm chúng tôi có nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh Kính và một vài bạn hữu vào Bá Thước, rồi cùng Trương Thị Mầu, Ma Bích và vào bạn hữu du ngoạn Pù Luông, ngủ đêm lại đó trong nhà sàn homstay, tôi mới có điều kiện trò chuyện và nghe Ma Bích đọc nhiều thơ của ông.

          Chuyến ấy, theo lời mời từ mấy năm trước còn chưa thực hiện được của nhà thơ Trương Thị Mầu, chúng tôi đến thẳng Phòng khám đa khoa Lương Điền. Đây là phòng khám chữa bệnh Đa khoa do Trương Thị Mầu lập sau khi cô nghỉ hưu với chức danh giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Bá Thước. Khi còn làm việc, nữ nhà thơ này được phong Bác sĩ ưu tú, cô là một người giỏi chuyên môn và quản lý, sớm có y định xây dựng một trung tâm y tế nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân địa phương bới đây là một huyện miền núi biên giới điều kiện giao thông khó khăn. Bữa đó, Mầu làm thịt cả một con lợn cắp nách để đãi bạn văn chương thủ đô. Lên mâm, chỉ thấy có Mầu và mấy nữ nhân viên y tế, tôi nhìn quanh. Mầu hiểu ý cười: “Các anh yên trí, em đã mời anh Ma Bíchm anh ấy nhận lời rồi”. Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vui đùa “Đến Bá Thước mà thiếu bạn thơ Ma Bích thì coi như vắng một nửa”. Dứt lời, đã thấy ngay Ma Bích xuất hiện ngoài cửa tay cầm chai rượu thuốc tự ngâm.

          Theo chương trình xếp trước, chiều ấy tất cả  đi Pù Luông. Xe dừng ngoài ngõ để Ma Bích tranh thủ ghé nhà báo cáo vợ và lấy thêm tư trang vì đoàn ngủ qua đêm ở Pù Luông. Đường lên Pù Luông quanh co những dốc, trong xe chuyện thơ văn rôm rả. Nhiều thửa ruông bậc thang của đồng bào Mường đã bắt đầu gặt Chốc chốc, dừng xe để mọi người chụp ảnh check in, nhất là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vốn say món tự sướng. Ma Bích chỉ cười hiền ngắm bạn thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền txoay chóng cả mặt.  Khi rẽ vào Bản Đôn thuộc xã Thành Lâm chiêm ngưỡng ruộng bậc thang thì trời cơn giông kéo lên đen ngòm, rồi mưa như trút. Mưa sầm sầm, trắng cả đất trời, khiến các đoàn xe của khách du lịch dồn ử cả đống. Cả vùng ruộng bậc thang mờ mịt trong mưa, nên chúng tôi chỉ có thể ngồi yên trong xe chụp ảnh qua cửa kính. Lúc quay ra, mấy cái đập tràn nước đã dâng lên nhanh mấp mé, may mà xe còn qua được. Khi lên đến khu nhà sàn homestay thì trời tạnh hẳn, mây quang quẻ, hửng chút nắng hoàng hôn rất đẹp,... Ma Bích ngắm hoàng hôn, miệng lẩm bẩm gì đó, hinh như nhẩm thơ...

          Tiệc tối, món ăn theo phong cách cơm Mường địa phương, hấp dẫn với món thịt vịt Cổ Lũng béo mềm và ốc đá hấp lá gừng, cá suối rán giòn. Rau thì toàn món rau rừng chúng tôi không rõ tên. Rượu nhắm cũng là thứ rượu ngâm trái rừng rất đặc biệt không đâu có. Rượu vào lời ra, Nguyễn Vĩnh Tuyền và Ma Bích thay nhau đọc thơ. Mâm bên có cặp vợ chồng trẻ người Mỹ cũng bị lôi vào cuộc... Đêm, khách ngủ chiếu sàn gỗ. Tôi thao thức mãi không ngủ được, phần vì lạ cảnh, vì tách cà phê đen lúc chiều và phần vì bên cạnh, Ma Bích ngủ ngáy khá to. Thêm nữa, tiêng nước suối đâu đó tạo thác đổ ầm ào suốt đêm. Tôi thiếp đi mộng mị. Trờ dậy tảng sáng, nhóm của Trương Thị Mầu và Ma Bích chào vội để về thị trấn Bá Thước vì Mầu phải dự một cuộc họp gì đó...

          Năm 2020, dịch covid bùng phát, lỗi hẹn với xứ Thanh,  đợi qua năm 2021. Lần này, vào Thanh đã chớp chới hè. Chúng tôi tả qua Cẩm Thúy thăm nhà văn Trịnh Tuyên rồi cùng anh ngược Bá Thước. Vẫn một Truong Thị Mầu ân tình và chu đáo, một Ma Bích hiền hòa ấm áp. Mọi người du ngoạn Duồng Cốc, một vùng hồ nước đúng chất sơn thủy hữu tình ẩn sâu trong rừng núi Bá Thước ít người biết. Bữa cơm tối tại đây theo kiểu cơm Mường, cá nướng măng tươi xôi nếp nương. Trần ngập rượu và thơ, ngẫu hứng thì đũa gõ bát làm nhịp mà hát/ Ma Bích đọc thơ, nhưng tồi chỉ nhớ mỗi câu thơ “Đồi xưa bẻ lá em nằm/nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu” vì thấy thú vị. Sự thú vị ở đây là cái cách ví von giữa việc mất người yêu như việc mất trâu. Thoáng qua tưởng ví thế là thô. Nhưng với người dân tộc thiếu số, con trâu to lắm, gần như là thứ của cải lớn nhất trong nhà, nên mất trâu coi như mất cơ nghiệp, tiếc lắm chứ. Vậy mà, mất người yêu từ ngày còn trẻ, đến giờ thăm lại nơi tình tự ngày xưa vẫn “ngơ ngác như thằng mất trâu”, thì thử hỏi. ngày xưa đau đớn đến thế nào?... Cách diễn đạt như vậy, thật thà mà hài hước, đúng nếp nghĩ và lối diễn đạt của người dân tộc thiểu số. Ngẫm kỹ, rồi đem so sánh với trường hợp giả ngô ngọng thật thà mách qué trong một bài thơ về cái sự chửi vừa được trao giải cao, mà thấy buồn cười....

          Không ngờ, cái đêm giao lưu thơ nhạc ấy, là lần cuối cùng tất cả chúng tôi gặp Ma Bích. Non tháng sau, ngày 13.4. 2021, Ma Bích đột ngột ra đi vĩnh viễn sau một cơn đột quỵ khi đang khỏe mạnh bình thường, bời ngay trước đó, ông còn đi xe máy chở vợ đi khám bệnh ở Bênh viện đa khoa huyện và ngủ lại bệnh việc chăm vợ...

          Đọc tin báo và bài viết vội của nhà thơ Trương Thị Mầu về Ma Bích, mới thấy cái tình, người và thơ của ông để lại trong lòng và tâm trí những người thân thiết, không hề nhỏ !...

          ***

          Tôi lần giở lại toàn bộ trang cá nhân của Ma Bích trên Facebook, cả thông tin va bài viết không nhiều. Thơ cũng vậy. Ông cho thấy không phải là người thạo công nghệ, nên gặp khó khăn trong việc đăng bài viết và thơ phú của mình. Thế nhưng. với ngần ấy thôi, thêm hồi tưởng về những lần gặp gỡ Ma Bích, cũng đủ cho tôi phác thảo nên một người thơ Ma Bịch,...

          Có lẽ, Trương Thị Mầu là người cùng dân tộc Mường, lại là bạn thơ lâu năm thân thiết với Ma Bích, nên chị hiểu và thích thơ ông hơn chăng? Ngôn ngữ Mường cổ và cách diễn đạt rất Mường. Còn cảm tính, ấy là hồn vía Mường, không chỉ nằm trong ý tứ, câu chữ bài thơ mà ở cả trong cái cách ứng xử, trong biểu cảm khi Ma Bích đọc thơ và diễn giải nguồn gốc từ ngữ bắt nguồn từ phong tục dân tộc mình,...

          Cũng theo nhà thơ Trương Thị Mầu thì Ma Bích làm thơ muộn, khi đã lớn tuổi. Song cũng không vì thế mà sốt ruột, ào ạt cho nhanh, mà rỉ rả kể chuyện mình, chuyện phong tục dân tộc mình, trước hết cho chính minh, rồi ra có cái để mà chơi với thiên hạ. Với ý thức đó, ông không vội vàng là thế, chỉ lấy thơ nói hộ lòng mình khi cần phải vậy, nên số lượng thơ ông không nhiều, nhưng cũng vì thế mà thơ Ma Bích không đểnh đoàng, khá chắt lọc và quan trọng là có giọng điệu riêng. Cái chất Mường trong thơ Ma Bích cũng không giống chất Mường trong thơ của một vài nhà thơ người dân tộc Mường khác. Nó là của riêng ông. Ví như, bài thơ Lóng la, thì cùng với việc nói cái tình riêng, Ma Bích còn lục kho ngôn ngữ, lôi ra, đặng gột rửa cụm từ Mường cổ lóng la. Theo nhà thơ Trương Thị Mầu, trong tiếng Mường “lóng” là cây chuối rừng, nhưng “la” thì là một từ không cụ thể, song khi kết hợp thành “lóng la” thì người ta hiểu ấy là ngàn rừng, một khái niệm rộng lớn hơn nhưng không rõ ràng. Trở lại bài thơ:

          “Tôi về thăm Lóng La/ Mưa hoàng hôn tất tưởi/ Gió San mười chạm với/ Tìm mường hoa Lóng La/ Tìm vệt trăng bay xa/ Em xòe tay khung cửi/ Trập trùng hoa cỏ núi/ Thắm biếc tình hai ta/ Rồi hẹn không gặp hẹn’ Rồi thương gặp lũ ngàn/ Ta Lóng La trắc trở/ Nhịp cồng chùng lâu san/ Con chim kêu khản tiếng/ Sao bạn tình không lên/ Anh ở miền gió lửa/ Ôm vú cồng thức đêm/ Nhớ nhau Lóng La nhé/ Gọi nhau Lóng La ơi/ Cây chày anh lỡ nhịp/ Cối nương em đầy vơi...”

 

Vậy là, Ma Bích đã biến cụm từ lóng la thành địa danh, một nơi vữa xa vừa gần, nửa thật nửa ảo, mà ở đó, người thơ có cái tình với mộr bóng hình nào đó, trắc trở, không nên ngãi, để bây giờ nên nhớ thương, day dứt.

Hay như, bài thơ Tặc ven em cùng dạng thức như vậy:

 “Lâu rồi không gọi tặc ven/ Nỗi nhớ quên theo ngày tháng/ Dây rừng - chạng vạng/ Xập xoè tặc ven.../ Đừng đau tặc ven ơi/ Nếu như ngàn năm không gặp lại/ Đá lở non mòn, ruộng sâu đồng bãi/ Cha mẹ đi ta vẫy Tặc ven đi”.

Cũng theo ý nhà thơ Trương Thị Mầu, “tặc-ven” là một khái niệm không cụ thể trong tiếng Mường cổ, mà chỉ cho người ta hình dung là đám cỏ bợ, dây rợ lằng nhằng ven bờ, góc ruộng, xó rừng... Đưa “tặc ven” vào thơ, Ma Bích muốn gòi thành tên, đặng nhắc nhở mọi người, nhất là giới trẻ chớ quên từng có một xứ Mường nguyên bản, không pha tạp, và cho dù theo xu thế phát triển chung của thời đại mới. càng cần thiết gìn giữ bản sắc Mường trong đa dạng văn hóa Việt Nam.

Dường như, ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa Muờng thường trực trong con người Ma Bích, nên thơ tình cũng là cái tình Mường của riêng ông: Anh bây giờ không nhớ cả tên anh/ không biết mình năm nay bao nhiêu tuổi/ Mường nọ chòm kia mấy sông mấy suối.../còn mấy vần thơ gác bếp lửa hong phơi/ anh buộc lá Làn Ai gửi cho người tri kỷ/ Đá dựng thành lời, lá bay thành ý/ Ta mây bạc trắng trời lãng đãng phiêu du...” (Phiêu du). Hay như: “Sợ say ta trốn vào nhau/ Sợ câu xường lạc truông vầu không lên/ Xin đừng gọi vía kêu tên/ Mà đau võng bạc tre đền Mường Ai/ Chát nồng ăn lá giêng hai/ Neo trong suối lũ thung dài tìm xưa” (Tìm Xưa”... Ma Bích từng có gần chục năm sống ở Tây Nguyên, ông dần hòa nhập vào đời sống trên vùng đất mới, nhưng nỗi nhớ Mường vẫn canh cánh trong lòng: “Mẹ gùi câu khặp theo cha/ Đi làm người mường khác/ Câu Xường cũ sấm rền rung cuối thác/ Con nhặt về buộc lại vía ngày xa... (Thư gửi con) .

Ma Bích tạo được giọng điệu riêng, nên thơ ông làn về đề tài rừng có nhiều người đã làm, thi ông vẫn có cái của riêng mình, để không lẫn vào người khác:

Chiều nay qua Thành Nhà Hồ

Nhìn tan nát một cơ đồ mà đau!

Sân rồng ngập vết chân trâu

Đâu vườn Thượng Uyển, đâu cầu vua qua

Ngai vàng nắng táp mưa sa

Triều đình còn lại một ta giữa đường...

Liêu xiêu leo dốc ngược mường

Qua truông ra gặp người thương không chào...

(Qua thành Nhà Hồ)

 

Đến rồi đang giữa tháng ba

Sao mà ngồi nhớ người ta thế này

Nhớ mái tóc nhớ bàn tay

Và đôi ánh mắt những ngày còn xưa...

Xa xưa lay lá lay mưa

Người còn lên lại Pha Dùa hay thôi

Miền biên viễn nở hoa rồi

Sáo ai hổn hển đất trời đang yêu

Một mình ôm chiếc khăn piêu

Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?

(Tháng Ba)

 

Theo tôi, đây là những bài tho hay của Ma Bích. Bởi lẽ, nếu là người khác mà không phải là người Mường-Ma Bích, thì dễ gì có những câu kiểu này: “Triều đình còn lại một ta giữa đường.../ Liêu xiêu leo dốc ngược mường/ Qua truông ra gặp người thương không chào...”(Qua thành Nhà Hồ); Hay như: “Xa xưa lay lá lay mưa/ Người còn lên lại Pha Dùa hay thôi/ Miền biên viễn nở hoa rồi/ Sáo ai hổn hển đất trời đang yêu/ Một mình ôm chiếc khăn piêu/ Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?” (Tháng Ba), ...

Như một tiền định, mới gần đây thôi, ngày 20.11.2020, ngày Nhà giáo Việt Nam, Ma Bích làm thơ nhớ thầy giáo cũ, người ngày xưa từng dạy ông lúc còn đi học, ông đã viết: “Thầy giáo đi rồi còn lại mình em/ Lớp học ngày xưa không còn ai nhớ nữa/ Mái lá sàn tre rét run cánh cửa/ Em tìm về cách biệt âm dương.../ Chúng em lớn lên đứa lấy vợ gả chồng / Nay tóc trắng như tóc thầy ngày ấy/ Mỗi lần gặp nhau khi nào cũng vậy/ Hay nhắc về thầy, thầy có nghe không./ Còn riêng em thích luyện bút văn phong/ Ghét kẻ bất lương thương người nghèo khó/ Rồi một ngày kia em sẽ về dưới cỏ/ Lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe”. (Thầy giáo).Ma Bích mong rằng, đến một ngày kia nào đó, ở thế giới bên kia, ông được đọc thơ cho thầy giáo cũ của mình nghe...

Giờ thì Ma Bích đã toại nguyện, ông được “về dưới cỏ” để rồi “lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe” !... ./.

 

 

 

Người rong chơi cùng văn chương,

 

1. Khai mở

Đấy là Nguyễn Xuân Sinh, bút danh trên các mạng xã hội (Blog Tiếng Việt và Facebook) là Việt An, Nguyễn Việt An, và đây cũng là tên doanh nghiệp gia đình của anh. Việt An, quê ở Yên Phụ, Kinh Môn, Hải Dương, là anh cả trong một gia đình đông con, có bố là giáo viên. Hiện gia đình Việt An sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.

Ở xứ ta, người yêu văn chương, thơ phú nhiều vô kể, thậm chí, nói theo một cách của một nhà phê bình văn học "Nhà nhà làm thơ/ người người làm thơ/ vè nhất định thắng...", song với Việt An thì lại khác. Chí ít, từ cái xuất xứ văn chương của anh. 

Ngày học phổ thông, Việt An là người học giỏi toàn diện, vì có bố là giáo viên, nên anh được rèn rũa khá kỹ, học hành nền nếp, nghiêm chình. Song môn Văn học trội hơn, nên được nhà trường chọn đi thi học sinh giỏi môn học này năm lớp 10 (hệ 10/10), và trúng tuyển vào Đội tuyển học sinh giỏi của tỉnh Hải Hưng (cũ) niên khóa 1974-1975, để dự kỳ thi giỏi môn Văn toàn miền Bắc (khi ấy chưa giải phòng niền Nam thống nhất đất nước). Đổi tuyển được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang (thị xã Hải Dương) để bồi dường môn Văn, chừng 2 tháng, trong số đó có nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa, Trịnh Bá Ninh (sau này là Phó tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam), tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Việt An... Ngày ấy, bồi dưỡng chúng tôi, Ty giáo dục Hải Hưng đã lựa chọn một số giáo viên được xem là giáo viên giỏi môn Văn từ các trường cấp 3 trong tỉnh. Cùng với môn Văn, chúng tôi vẫn phải học các môn khác, đặng theo kịp chương trình học, còn thi tốt nghiệp phô thông nữa. Già nửa số thành viên trong đội tuyển (có tôi, Trịnh Bá Ninh, Việt An...) học tốt cả Toán Lý, nên thời gian rảnh rồi, nhóm này hay mang những bài toán khó (sưu tầm được, hoặc lấy từ Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ) thách đố nhau, hoặc chụm đầu cùng giải. Việt An thuộc diện khá thông minh trong cách giải toán...

Thế rồi, kỳ thi giỏi văn toàn miền Bắc năm ấy, Đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả Trần Đăng Khoa, lý do, đề ra mở, khiến mọi người lúng túng không biết chọn thể loại nào để làm bài. Nhưng chưa hết, khi thi vào đại học, không một ai trong chúng tôi chọn chuyên ngành Tổng hợp Văn, hay Sư phạm Văn cả, mà phần lớn là ngành kỹ thuật (Xây dựng, Bách khoa), Sư phạm Toán, Ngoại giao, Ngoại thương... Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An học cơ điện, riêng Trần Đăng Khoa nhập ngũ rồi học Trường sĩ quan lục quân... 

Trần Đăng Khoa vào bộ đội, tham gia huấn luyện và đi học trường sĩ quan lục quân, rồi đi chiến trường Campuchia theo quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Phnompenh, lật đổ chế độ Khmer Đỏ tàn bạo, sau lại về Bộ Tư lệnh Hải Quân ra Trường Sa, trước khi về Hà Nội học ngoại ngữ để sang Liên Xô (cũ) học khoa Sáng tác ở Đại học Gorky. Dù ở đâu, thì Trần Đăng Khoa cũng vẫn là đi thực tế để sáng tác, và như vậy, gắn liền với môi trường văn chương.

Trịnh Bá Ninh theo nghề làm báo chuyên nghiệp ngay sau khi tốt nghiệp đại học, khi được nhận về làm phóng viên Báo Nông nghiệp. Đây là điều kiện, để anh sớm có vài bài bút ký được trao giải thưởng của một số cơ quan báo chí tổ chức thi thể loại bút ký. Cùng với bút ký là sở trường, Trịnh Bá Ninh thi thoảng làm thơ, những không cho đăng ở đâu, chỉ đọc chơi lúc cao hứng trà dư tửu hậu. Thơ anh giàu chất suy tưởng. Quan trọng, Trịnh Bá Ninh nhanh chóng được đề bạt chức danh Phó tổng biên tập, chuyên về nội dung, từ khi còn khá trẻ, và có thể nói, anh là một người làm báo giỏi...

Còn Việt An, học ngành điện, vào bộ đội và làm việc đúng với sở học của mình, ấy là chuyên về điện thuộc đại đội doanh trại sân bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Vậy thì dính dáng gì đến văn chương, khi nói anh là người rong chơi cùng văn chương ?

Hãy nghe anh tự bạch:

 

Việt An không cửa không nhà

Có người vui miệng gọi là “Việt gian”

Tuổi thơ nghèo khó, cơ hàn

Lớn lên đốc chứng dở gàn, dở ương

 

Quê nhà ở tận Hải Dương

Hà Nội đi xuống theo đường số 5

Nghề nghiệp đúng trăm phần trăm

Là nghề “điên nặng” hỏi thăm biết liền

 

Xấu trai, mốc cả mặt tiền

May trời chiếu cố, vợ hiền con ngoan

Tuổi đời Mậu Tuất không oan

Khôn đâu chẳng thấy, thấy toàn…dở hơi

 

Buồn vui một chút với đời

Câu thơ tếu táo nói lời tâm can !

 

2. Trần tình,

Sau khi đọc bài tản văn của tôi Thời gian không trở lại, đăng trên blogtiengviet.net, Việt An đã trần tình:

Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu Nhạc)
          Đúng vậy ! Thời gian không bao giờ trở lại, chỉ có ký ức là mãi tươi nguyên. Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn lên vào thời gian khó. Bây giờ kể lại, lớp trẻ sẽ cảm thấy như nghe như chuyện cổ tích. Hình như một thời gian khó, làm người ta yêu quí nhau, và nhớ nhau nhiều hơn thì phải ? Văn chương là cơ duyên, giúp cho chúng tôi trở thành bạn học của nhau, dù mỗi người ở mỗi huyện, rải rác khắp tỉnh Hải Hưng cũ. Vào đời, tôi chọn cho mình con đường đi không còn bóng dáng văn chương. Đã mấy chục năm, tôi gần như không còn đọc các tác phẩm văn học. Cuối năm 2008, tình cờ khi lướt web, tôi đặt chân đến làng Blogtiengviệt. Nơi tôi ghé thăm đầu tiên là blog của Phạm Tâm An. Văn chương với tôi bây giờ, thực sự chỉ là những thoáng dạo chơi. Tôi viết cảm nhận tếu táo, với vài bài mang tính giao lưu. Việc đó mang lại cho tôi những người bạn mới, và cả những niềm vui nho nhỏ.
           Tình cờ khi giao lưu blog, tôi gặp lại bạn tôi- nhà báo Nguyễn Chu Nhạc. Nhưng, người làm tôi hiện diện trước cộng đồng, lại là nhà báo Nguyễn Trọng Huân (người mà tôi cảm mến qua những bài viết của anh), khi anh đã hơn một lần công khai nhắn tìm tôi trên blog, như “tìm trẻ lạc”. Thế giới ảo xa mà gần. Đó là duyên cớ để tôi xuất hiện ở bài viết này của Nguyễn Chu Nhạc. Những năm tuổi trẻ, có lẽ tôi và Chu Nhạc khá long đong. Một chút sai lầm, đã làm việc học hành của tôi bị chia làm 2 khúc, trước khi có được mảnh bằng đại học. Chu Nhạc có thuận hơn, nhưng ra trường lại đi xa biệt, mãi vùng biên giới của tỉnh An giang. Lúc đó tôi đang trong quân ngũ. Muốn vào khu vực đóng quân phải đi qua ít nhất 2 trạm gác được kiểm soát khắt khe. Thật sự chúng tôi ít có dịp gặp nhau... kỷ niệm về những năm tháng đã qua, vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 2004, tôi ra Hà Nội, đến nhà Trịnh Bá Ninh (hiện là Phó tổng biên tập  Báo Nông nghiệp Việt Nam). Ninh nhấc máy điện thoại thông báo cho các bạn, rồi quay sang nói với tôi: “Bây giờ không còn thiếu thốn gì, nhưng tóm được thằng bạn đến nhà nhậu cũng khó, vì ai cũng bận việc”. Ngoài trời rét đậm. Mưa nặng hạt. Nhìn các bạn khoác áo mưa, đi cả chục km đến, tôi xúc động chẳng biết nói gì. Hôm sau, chúng tôi tụ họp tại nhà hàng Rambo, đường Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội. Đang vui, bỗng nhà thơ Trần Đăng Khoa trầm ngâm: “Kinh thật ! Ba mươi năm rồi đấy!" Vâng, chính xác lúc đó là 29 năm, kể từ khi chúng tôi rời ghế nhà trường phổ thông. Đến giờ (năm 2010) là 35 năm rồi ! 35 năm, mà như mới hôm qua.         Nhớ lúc Nguyễn Chu Nhạc xin được việc ở Đài TNVN, Trịnh Bá Ninh hấp háy bảo tôi : “Thấy anh Nhạc về đài, các bà chưa chồng ngoài 40 mừng lắm ! Bà nào cũng nhủ thầm, khéo lần này đến lượt mình !??” Dù rằng lúc đó Chu Nhạc mới chỉ 30 tuổi. Dân văn chương vốn hóm hỉnh. Có vô vàn câu chuyện chọc ghẹo nhau tương tự.
         Lại nhớ, Trịnh Bá Ninh là người lấy vợ sớm hơn cả. Hai vợ chồng Ninh ở một phòng chỉ rộng 9m2, trên tầng 2, do Báo Nông Nghiệp cho mượn, hay cấp chẳng rõ. Khi tôi đến, Ninh ngồi giữa nhà, với tay lôi ra 1 bao lạc củ, miệng nói: “Quà “hối lộ” của nông trường , của hợp tác xã nông nghiệp đấy, ông ạ”! Chúng tôi ngồi bóc lạc để rang. Lại với tay, Ninh lôi từ gầm giường ra 1 cái bếp dầu, 1 can rượu trắng cùng mấy cái chén nhỏ, rồi nói: “Ở nhà chật, sướng thế đấy. Mình ngồi giữa nhà, mà “điều hành” được mọi việc” !? Căn phòng nhỏ của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh, là kỷ niệm đáng nhớ một thời của không ít bạn bè, trong đó có Nguyễn Chu Nhạc. Nhạc và vài người bạn nữa, từng lưu trú tại căn phòng đó nhiều ngày, trước khi xin được việc làm. Tôi cứ thắc mắc, không biết tay Ninh “sáng tác” vào lúc “quái” nào, trong khi mấy thằng bạn chưa vợ “nằm phục” ngay cạnh giường ? Vậy mà “hắn” vẫn “sáng tác” được mới lạ !? Tác phẩm đầu tay là cậu con trai khôi ngô, tuấn tú, hiện đang làm luận án Tiến sĩ tại Mỹ. Trong hoàn cảnh khó khăn lúc ấy, tôi thật sự cảm phục tấm lòng của Mai (vợ anh Ninh), đối với mấy ông bạn “nửa văn thơ, nửa báo chí” của chồng.
          Lại nhớ thời đi học “miếng cháy to hơn điểm 10”. Nhớ thời đạp xe đạp tìm đến thăm nhau, khi Nguyễn Chu Nhạc và Trịnh Bá Ninh còn học ở trường Đại học Nông Nghiệp I. Mỗi sáng dậy, chen nhau hứng nước đánh răng. Bao nhiêu con người xúm vào cái vòi nước chảy như thằn lắn đái. Câu “Nhất bát, nhì ca, thứ ba cà mèn” xuất phát từ đây.
Lại nhớ bài thơ đầu tay “Núi Đôi buổi sớm” của Nguyễn Chu Nhạc, đăng trên báo Văn nghệ, khi anh còn là sinh viên, được lấy cảm hứng từ chuyến đi cùng Ninh, đến vùng Núi Đôi thăm tôi…Lại nhớ, những lá thư viết bằng giấy học trò của bạn bè, với những bao thư tự chế…
          Có vô vàn điều để nhớ…đã giúp chúng tôi luôn nhớ và biết sống một cách cố gắng. Tôi vui và tự hào về các bạn của mình. Thay cho lời cảm ơn, một lần nữa, tôi xin mượn lời của Nguyễn Chu Nhạc để kết lại cảm nhận này: “Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu Nhạc)"...

 

3. Đối thoại văn chương,
          Ngày ấy, liền dăm năm (2009-2013), Blog Tiếng Việt (BTV) hưng thịnh lắm, bởi xứ ta chưa biết đến facebook, vả lại, BTV với cấu trúc, tính năng của mình rất phù hợp với văn chương thơ phú, tính tương tác lại cao, nên dân văn chương chữ nghĩa biết chút vi tính (IT) đều lập trang riêng ở đây. Việt An mầy mò vào đây đọc bài trước cả tôi. Tuy nhiên, Việt An chủ trương không lập trang riêng mà chỉ vào đọc bài và ghi cảm nhận khi thích với tư cách là bạn đọc. Anh không muốn phụ thuộc, bởi nếu là blogger thì phải thường xuyên đăng bài, rồi trả lời cảm nhận của người khác khi họ vào trang của mình, và cũng phải sang trang nhà họ chào hỏi cho phải phép. Đại khái, khá mất thời giờ và phiền hà, đấy là chưa kể "tai nạn" vì phát ngôn không khéo làm phật lòng người. Thích rong chơi với văn chương mà lại không muốn "chịu trách nhiệm", Việt An khôn ngoan chọn vai làm khách (bạn đọc). Trang cá nhân ở BTV thì ngàn vạn, nhưng Việt An thường chỉ vào đọc một số trang cá nhân của người quen, bạn bè mà anh quan tâm, quý mền như: nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến), nhà thơ Chử Thu Hằng, nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhà văn Nguyễn Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa, nhà thơ Trần Hồng Giang ... và một số cây bút khác như Phạm Tâm An, Phạm Thu Hà, Phạm Huy Việt, Phan Bích Thủy, Nhược Mộng, Vũ Trọng Hoài, Nguyễn Tùng Quân, Văn Lâm An, Hoa Yến Lan, Thoại Lê v.v... Riêng với tôi, bạn học cũ và thân nhau nên Việt An hầu như không bỏ sót bài nào. Và một khi để lại bút tích, Việt An thấu đáo, sắc sảo lắm, chứ không phải khen đại khái cho đẹp lòng nhau như  mọi người hay làm..
          Chỉ bàn riêng trên trang của tôi (Ngẫm & Viết), Việt An đã để lại nhiều cảm nhận, mà thực ra nhiều trong số đó là những bài viết hay, cảm nhận văn chương cho thấy sự am tường, sâu sắc, nhiều khi không hẳn cho bài viết cụ thể nào, mà chỉ mượn cớ để rồi bàn về các vấn đề về văn hóa, văn học, lịch sử, khoa học thường thức, lối sống xã hội, ẩm thực... Có thể, phân biệt những cảm nhận của Việt An thành hai loại...
         Thứ nhất, đối thoại về văn hóa xã hội, và văn chương.
         Chẳng hạn, khi tôi đăng loại ký sự sau chuyến đi Nhật Bản, bàn về hội chứng ngại tiếp xúc xã hội của giới trẻ Nhật hiện nay, Việt An bàn góp: "
Khi xã hội phát triển luôn có những hệ lụy của nó. Con người dường như lại cô đơn hơn trong xã hội hiện đại. Không chỉ ở Nhật, ngay ở Việt Nam thôi, ngày xưa nhận được lá thư là mừng lắm. Tình người như hiện lên qua nét chữ, màu mực. Bây giờ chỉ cần điện thoại, không mấy ai còn viết thư nữa. Có lúc tôi lại thèm nhận một lá thư với cái phong bì tự chế ngày xưa đấy".
         
Hay như, tôi đăng bài luận Quần cư, Việt An bình:"Bây giờ, con người ta vẫn sống quần cư. Chỉ khác, cái quần cư bây giờ mang dáng dấp quần cư kiểu...đàn nhím. Những con nhím sống với nhau luôn giữ khoảng cách. Nó không xa nhau quá, làm mất đi hơi ấm lúc Đông về. Nó cũng không gần nhau quá. Khi quá gần nhau, gai con này có thể làm đau con kia, và đau luôn chính mình. Quần cư kiểu đàn nhím, ngày càng rõ nét hơn trong xã hội hiện đại. Hình như trong hôn nhân cũng có khá nhiều hạnh phúc kiểu...tổ nhím!"...

Về văn chương, khi tôi đăng mấy truyện Hiên mưaNgõ trúc và Chúa tể của núi tuyếtViệt An nhận xét: "Đọc văn mỗi người có cảm xúc rất riêng. "Hiên mưa", "Ngõ trúc" là cách viết tự sự , mang tính hoài niệm. Cảnh vật, con người, không gian, thời gian, quá khứ, hiện tại đan xem. Mọi thứ như rõ nét, lại như chìm đi, lãng đãng, mờ ảo, sương khói. Nhân vật chỉ thấp thoáng, ẩn hiện, lúc có, lúc không. Kết cấu như là lỏng lẻo, mong manh, kết lại với nhau chính bằng sự liên tưởng xuyên suốt. Sự liên tưởng ấy tạo nên cái lo-gic, suy tư, thấm đẫm xúc cảm kỉ niệm của con người, khi tìm lại dấu chân xưa...Chất thơ cũng phảng phất, ẩn giấu trong con chữ, mạch chuyện, tạo nên nét đẹp của thẩm mỹ văn chương, cũng như nét lãng mạn riêng. Nói chung, NCN viết văn giàu cảm xúc và chất thơ. "Hiên Mưa", hay "Chúa tể của núi tuyết", có nhiều đoạn làm người đọc, như bị cuốn theo, thả hồn cùng vẻ đẹp mộng mị của văn chương.... Đây là cách viết khó, thể hiện tác giả (NCN) là người cầm bút chắc tay. Kiểu văn này là văn dành cho "người đọc chậm". Cảm xúc người đọc chín dần cùng với sự ngẫm ngợi và suy tư...".

           Khi tôi đăng bài thơ Nợ quê (30.12.2009), Việt An bình: "Tôi đã nói, văn của tác giả là văn viết cho "người đọc chậm". Quả là thế, ẩn chứa trong những con chữ là sự ngẫm ngợi và suy tư. Chất thơ, sự lãng mạn thấm đẫm trong văn phong. Sự sâu lắng và lãng mạn bây giờ lại hiện diện trong thơ NCN. Với ngôn từ giản dị, không cầu kỳ, không làm dáng, mà sự truyền cảm cứ len vào lòng người đọc. Phạm Tâm An đã khá tinh, khi trích dẫn cặp lục bát rất hay của bài thơ :"Đời người sao lắm bến mê/ Một đi, một đợi, một quê, một tình!" Cuộc đời dù có bao nhiêu bến mê, thì quê hương vẫn là tất cả những bến mê cộng lại." 

           Hay như, tôi đăng bài thơ Cán Cấu chợ phiên (28.02.2010), Việt An bình: "Bài thơ “Cán cấu chợ phiên” của tác giả, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Chợ tết” nổi tiếng của Đoàn Văn Cừ. Phiên “Chợ tết”, dưới ngòi bút của Đoàn Văn Cừ xưa hiện lên sống động, đầy cuốn hút. Sinh hoạt bình thường của “Chợ tết” trở nên thơ… đến bất ngờ :“Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha./ Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyêt./ Con gà sống mào thâm như cục tiết,/ Một người mua cầm cẳng dốc lên xem”(Đoàn Văn Cừ). Thơ “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ, mang nét quen thuộc của một phiên chợ tết vùng xuôi. Bài “Cán cấu chợ phiên” của NCN, mang đến một khám phá mới cho bạn đọc, về sinh hoạt chợ phiên, nguyên bản của vùng cao. Đó là điều mới mẻ và thú vị. Hơn thế, bút pháp thể hiện của tác giả (NCN) cũng khá lạ. Địa danh “Cán cấu” được lặp lại liên tục trong suốt bài thơ, mà không có cảm giác đơn điệu. Cứ sau mỗi từ “Cán cấu”, lại là nét phác họa lạ lẫm, mới mẻ về văn hóa chợ phiên vùng cao. Cách thể hiện này hay, nhưng khó. Nếu sự khắc họa sau mỗi điệp ngữ không rõ nét, không đủ sức lôi cuốn, bài thơ sẽ giảm sức hấp dẫn vì rơi vào cảm giác đơn điệu. Sự vững vàng trong cách thể hiện của tác giả, đã biến cái khó, thành cái hay, thành nét độc đáo riêng của bài thơ... Cán cấu chợ phiên”, là hình ảnh sinh hoạt văn hóa tươi rói, lấp lánh sắc màu, và đầy ắp sự kiện. Tôi thoáng chút bỡ ngỡ, như người đi lạc vào một thế giới đầy mê hoặc:“Cán Cấu leng keng sứ sành đồng sắt/ Cán Cấu gà quác, ngựa hý, chó sủa, lợn kêu/ Cán Cấu ngóc ngách tiếng cười rúc rích/ Cán Cấu Tây- Tàu, Mông- Việt hả hê”... Phảng phất ở đó là nỗi niềm riêng -vui, buồn riêng, tạo nên một khoảng lặng trong cái ồn ã náo nhiệt đời thường “Cán Cấu, ai đó cúi gằm ngậm ngùi tình cũ/ Cô giáo Kinh rơm rớm lén chùi nỗi nhớ xuôi/ Mẹ rồi con và ngựa đôi mỏi chờ mong ngóng chủ/ Cán Cấu chợ phiên còn lại mỗi mình tôi”... Lắng lại trong khổ thơ cuối là sự suy tư , như rõ nét, như mơ hồ…mở ra cho bạn đọc một khoảng mênh mông của sự liên tưởng, về cái còn, cái mất, cái đậm nét, cái nhạt phai, của văn hóa, của tâm hồn, và tình cảm trong mỗi con người."...
          
Hay như, nhân một lần bàn về thơ sinh viên, thơ tình, Việt An viết lại mấy bài thơ của tôi và Trịnh Bá Ninh theo trí nhớ của mình, và sau đó đã xảy ra một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa những người bạn với nhau trong BTV (tên gọi vui là Xóm Lá) Trần Đăng Khoa, Trần Hồng Giang, Chử Thu Hằng, và tôi. Việt An khơi mào: "Thơ Lục bát dễ về vần điệu, nhưng viết được hay rất khó. Xem như cái "rất khó" ấy đã được giải quyết bởi bài thơ "Tôi về lại xứ hoa Đào" của NCN".  Trần Đăng Khoa cũng khen bài thơ này, thì Trần Hồng Giang tếu táo chọc phá, Việt An chen ngang: "Trần Đăng Khoa khen Chu Nhạc là khen thật đấy. Dù Trần Đăng Khoa có là Thần Đồng thơ, thì tới thời điểm Chu Nhạc viết bài thơ trên, TĐK chưa có bài thơ tình nào khả dĩ. Không chỉ làm thơ tình yêu, mà việc biến thơ tình thành hành động "cách mạng" trong tình yêu, CN vẫn hơn TĐK vài bậc. Khoa không khen CN mới là lạ! Nói nhỏ, hồi đó TĐK, và cả Việt An còn rất i tờ trong tình yêu, thì CN đã có "của ăn của để" rồì"...  Trần Hồng Giang tiếp tục khiêu chiến: "Anh Việt An! Em có một anh bạn văn chương, một lần tán chuyện về nhà thơ Trần Đăng Khoa, anh này bảo: "Thằng cha này hầu như chả có bài thơ tình nào, mà có thì đọc cũng chả ra hồn, thế mà lấy được cô vợ xinh thế chứ! Hóa ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ! ".  Việt An hùa vào chọc Trần Đăng Khoa: "Trần Hông Giang! Công bằng mà nói, bài "Thư tình của người lính Biển", rất đáng đồng tiền bát gạo. Bài đó được phổ nhạc và trở thành một  trong những bài tình ca hay nhất về lính biển. Không những thế, tụi "lính nhậu" cũng rất thích, vì nó được "tái chế" rất vui nhộn: "Sau chia tay, anh ngồi trong quán nhậu. Rượu 1 bên và bia 1 bên. Rượu nồng nàn, bia lại dịu êm. Anh như con tầu lắc sóng cả 2 thứ. Rượu và bia...còn em thì quên".  Nếu nói TĐK không có bài thơ tình nào ra hồn, thì cũng chưa hẳn đúng. Với bài "Thơ tình người lính biển", làm bạn đọc nghi ngờ: Có khi lão Khoa có cả kho thơ tình chưa công bố cũng nên.". Và Việt An lại mượn tôi trêu Khoa : "@Chu Nhạc! Tôi đang lấy bài "Thư tình của người lính biển" làm "lá chắn", che cái "gót chân Asin" của Lão Khoa, thì CN lại "tố khổ" giúp Lão Khoa.  Khoa viết rất ít thơ tình, mà vẫn cứ lấy được vợ trẻ, đẹp. Đúng như anh bạn của Trần Hồng Giang nói:"Hóa ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ!".  Đến mức, Trần Đăng Khoa không nhịn nổi phải lên tiếng: "Bà con Xóm Lá! Tôi rất kính trọng bà con (không phải khen khéo hay khen đểu) vì sự thông minh lọc lõi đến kinh hồn. Thế mà toàn những bậc tiên đế quái quỷ trong từng trải lại bị ông đồ nỡm. Bài thơ này ông đồ mới làm, hoặc chỉnh lại từ cái khung cũ mờ nhạt hoặc méo mó. Nếu Nhạc có bài thơ này thì chắc lão đã khoe và Lão Khốt cùng Việt An biết ngay. Nếu Nhạc có bài này thì ngày xưa gái chết như rạ. Nhưng ngày ấy, Lão Chu Nhạc yêu nhiều nhưng chả "tóm" được ai. Gái bay hết, chỉ có lão héo hắt, sống dở chết dở. Thơ Lão ta hồi ấy như thơ ông cụ. Bây giờ lão mới nõn nường đấy.". Việt An đứng hẳn về tôi, bênh: "@Lão Khoa!Ừ nhỉ! Sao hồi đó Lão Chu Nhạc khoe bài thơ nhỉ. Giống như Lão Khoa khoe tiểu thuyết "Bước chân thứ nhất" ấy. May mà lão Khoa khoe từ ngày ấy. Nếu không, sau này mọi người bảo Lão Khoa nói dóc. Lão Nhạc không khoe, có thể vì lão ấy ngượng ngùng. Mới tí tuổi đã viết thơ tình, cũng ngại chứ. (Thời đó, con trai vừa mới lớn, mặt còn măng sữa, được "đứa" con gái nào đó gọi bằng anh, là sướng tê, sướng tái rồi. Sướng thộn cả mặt ra ấy chứ). Vì ngại, nên Lão Nhạc "biển thủ" thơ tình, để...đọc một mình. Bây giờ lão Nhạc dắt "con" ra trình làng, cũng phải cho "con" ăn mặc tươm tất một chút chứ. Miễn đúng là "con" lão Nhạc, sinh ra từ ngày ấy là được."... 
         
Đại khái vậy. Thực ra, bỏ qua các chi tiết đùa vui tếu táo mang tính cá nhân, là những suy nghĩ nghiêm túc về văn thơ và mối tương tác của nó với cuộc sống... 


          
Thứ hai, Việt An làm thơ bông lơn, hoặc tiếp nối thơ của Chủ bút, hoặc đối thoại thơ với một số blogger khác trong phần ghi cảm nhận của mình...
         
Ví như, bài tản văn ngắn của tôi nhân đọc entry của blogger MTV (bài viết của Phạm Thu Hà) về hương vị đầu thu Hà Nội, Việt An đùa: "Cháu lớn lên rồi - xinh quá thôi/ Má hồng, mắt biếc - Thắm đôi môi/ Ước chi, chờ chú trăm năm nữa/ Khi ấy cùng già... sẽ xứng đôi.".
         
Hay như, Việt An bông lơn cái bút danh của Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến) là BẢO THƯ TUỆ NHÃN băng cách lấy từng chữ ra thành thơ: "BẢO ở nhà thiền lại đến đây/ THƯ phòng bỏ ngỏ nhện giăng mây/ TUỆ minh mấy chữ thơ thành phú/ NHÃN mãn nhìn nhau rượu rót đầy...", cũng là ngầm chọc ngoáy cái bệnh la cà thi phú của bậc đàn anh này...
          
Hay như, Việt An đùa Trần Đăng Khoa: "Một trong những giai thoại "lùm xùm" nhất là chuyện TĐK lấy vợ. Chương trình "Gặp nhau cuối tuần" của Truyền hình VN, làm hẳn một buổi phát sóng về sự kiện này, theo cách nhìn hài hước. Khi TĐK có con, báo An Ninh Thế Giới có hẳn một bài viết kín cả trang báo. Kèm bài viết là bức hí họa, với hình ảnh TĐK vừa bế con, vừa quậy bột, Ngón chân cắp cái bàn là (ủi), đang là (ủi) quần áo... dưới nền nhà (!?)Nhìn cảnh huống đó, tôi bật cười, và táy máy ghi vào cạnh bức hí họa mấy câu: "Khoa ơi lấy vợ sướng chưa Khoa?/ Khói bếp cay cay - nước mắt nhòa/ Tay bế con thơ, tay quậy bột/ Hỏi rằng, có tiếc tháng ngày qua ?". Hỏi chơi vậy, tôi tin rằng TĐK luôn hạnh phúc với tổ ấm của mình.",
          
Hay như, dịp xuân năm 2012, tôi đăng mấy bài thơ xuân Giêng haiUống rượu ở Sơn La, vào ghi cảm nhận, Việt An đã đối thơ với một nữ blogger ở Đà Nẵng-Mimosadn-đồng nghiệp với tôi. Lấy khổ kết bài Uống rượu ở Sơn La "... mong thời gian chớ qua mau/ nên câu thủ thỉ nên bầu tâm can/ kẻo đêm tỉnh giấc mơ màng/ em thì chẳng thấy bẽ bàng riêng ta...", Việt An nối vần "Quờ tay chạm phải vợ nhà/ Tiếc hùi hụi - rượu Sơn la nửa chừng...!", Mimosadn đùa: "Rượu Sơn La uống nửa chừng/ Uống vào rồi thấy... lừng khừng mới hay ...". Việt An tiếp: "Rượu nào mà rượu chả cay/ Uống vào mới thấy rất hay,... khi mà...". Mimosadn nối:"  Hăng lên, hào mốt, chẳng thà/ Năm xu, đỡ tốn, lại là... rất hay...". 
         
Hay khi bàn vui với bài thơ Giêng hai của tôi, Mimosadn khiêu khích: "Giêng hai anh thả bùa thơ/ Để cho các chị nằm mơ ...giật mình!?", Việt An nhào vô, nối vần: "Riêng em nhớ chè Cung đình/ Dạo Phố Đà nẵng... thình lình gặp mưa/ Hỏi rằng, mưa ướt hết chưa/ Hay là chỉ ướt chỗ thưa... chỗ dầy?"...

          Nhớ một dạo, BTV bị rớt mạng, lỗi hệ thống, không hiển thị đến mấy tuần, mọi người nhắn tin cho nhau, thở ngắn than dài vì buồn chán, vì mất đường giao lưu,... Việt An trêu mọi người, làm bài thơ Tình Blog

Tưởng đâu “bờ lốc – bờ leo”

Phen này chắc bị phăng teo mất rồi

 

Lão ông nhấp nhổm đứng ngồi

Lão bà thắc thỏm như hồi đang yêu

Mấy ngày mới tạm treo niêu

Xem ra các lão tiêu điều ngẩn ngơ

 

Lão ông mặt mũi bơ phờ

Tay ôm bình rượu, tay sờ…củ khoai

Lão bà chẳng biết nhớ ai ?

Nửa đêm mở máy, bấm hoài mà rên!

 

May mà hết rủi lại hên

Lão ông lại được…ở bên lão bà

Canh khuya lại được qua nhà

Cứ như…đi bắt trộm gà - thích ghê!

 

Dẫu cho chẳng hẹn, chẳng thề

Ai yêu “bờ lốc” thì về với nhau…


         
Đại khái, những cuộc bông lơn thơ phú kiểu như thế của Việt An trên Xóm Lá ngày ấy rất nhiều,... Sau này, Việt An tham gia Facebook, tôi để ý, Việt An vẫn sử dụng lối diễn đạt hài hước này, phần lớn để châm biếm một cách sâu cay và hiệu quả những thói hư tật xấu và các biểu hiện tiêu cực trong xã hội.... Âu cũng là hay!?...

 

4. Chút tình thơ văn.
          Là bạn thân với nhau ngần ấy năm, tôi biết, dù chủ trương không theo nghiệp bút nghiên, không bị bả văn chương quyến rũ, nhưng thâm tâm, văn chương vẫn theo đuổi, ám ảnh Việt An trong tiềm thức. Dù nén lòng, không bộc lộ, nhưng mỗi khi, vô tình hay hữu ý, tiếp xúc với môi trường văn chương, thì cái mầm non văn chương thơ phú thuở học trò, không lớn thành cây nhưng cũng không thui chột, nó lại cựa quậy trong lòng anh, lớn lên một chút. Việc Việt An nhớ và thuộc nhiều bài thơ của tôi và Trịnh Bá Ninh làm từ thời sinh viên, cả những bài thơ Trần Đăng Khoa xuất bản miệng lúc bạn bè vui đùa (mà chúng tôi đã quên, hoặc chỉ nhớ lòm bõm), điều đó, vô hình chung, tố cáo, rằng anh chưa bao giờ nguôi chuyện văn chương, mà chỉ cố tình lờ đi thôi. Chính Việt An là người đã giúp tôi tìm lại được một số bài thơ mà tôi sáng tác từ ngày trẻ trai, đặng nhuận sắc, đưa vào mấy tập thơ xuất bản (Chút Thu-NXB Văn học 2011, Hiên Lan-NXB Văn học 2012).

         Có lần, nhân bàn về thơ sinh viên, thơ tình, Việt An đã không cầm lòng nổi, trình làng một bài thơ của mình. 
          Bài thơ Em có về quê cũ?

          Em có về quê cũ không em ?
          Tối đón trăng lên, nước về - sông Đáy hát
          Lúa con gái đang thì - xanh bát ngát
          Cánh đồng quê hương cỏ dại thơm nồng

         Bờ dâu xưa - ngày ấy mẹ trồng
         Giờ đã biếc muôn ngàn con mắt lá
         Nong tằm chín - sợi tơ vàng óng ả
         Sớm mai hồng chim hót ở trên cao.

        Đêm mùa hè - sông Đáy rụng đầy sao
        Em gánh nước - gánh sao về lấp lánh
        Đi cùng lối, gặp nhau - em khẽ tránh
        Miệng cười giòn, ánh mắt cứ đung đưa

        Không biết bây giờ em lấy chồng chưa ?
        Mà lâu quá không về thăm quê cũ…
        Mái đình cong, cây đa già bóng rủ
        Ngôi chùa Hà cờ ngũ sắc tung bay…

        Mỗi dịp Xuân về trời đất như say
        Người trảy hội nối nhau về bến Đục
        Có em không giữa dòng người nao nức?
        Mà anh tìm - anh chẳng thấy em đâu ...

        …Về đi em - Anh đón ở bên cầu
         Bến xe khách vẫn ngay đầu phố huyện
         Về đi em - để một thời lưu luyến
         Sẽ ấm lòng những lúc phải xa quê…


          Bài thơ nhẹ nhàng, duyên dáng, song có phần dàn trải. Tôi nghĩ, đây không phải là cái tạng của Việt An. Phải chăng, anh cố làm khác đi, như thể muốn nịnh ai đó, nên vờ nói khẽ cười duyên, bởi Việt An là con người của lý trí, của sự súc tích và sâu sắc. Bằng chứng, trước khi lộ diện bài thơ này, anh đã phi lộ bằng mấy câu thơ trong một bài thơ nào đó của mình, như: "Một thời mái tóc em xanh/ Một thời sỏi đá cũng thành ngẩn ngơ..." và "Một thời như lạ như quen/ Một thời sóng sánh như men rượu nồng/ Ngày em cất bước theo chồng/ Nhớ em như thể - mình không phải mình...". 

         
Bản tính này đã từng được Việt An thể hiện trong thẩm và bình luận văn chương, hay như trong dịch thơ Hán Nôm. Sau đây là mấy bản dịch thơ Đường của Việt An:

Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)

Hạc vàng người cưỡi khuất xa rồi,
Hoàng Hạc lầu còn với nắng thôi
Muôn nhớ hạc xưa nay vắng bóng
Ngàn thương mây cũ vẫn còn trôi
Hán Dương mây tạnh cây soi bóng
Anh Vũ hương nồng cỏ tốt tươi
Bóng đổ chiều buông quê chợt nhớ
Sông buồn khói sóng dạ đơn côi.

Hay như bài Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương,
Đi xa từ nhỏ, già quay về
Tóc bạc, vẫn nguyên chất giọng quê
Lũ trẻ đứng nhìn đâu có biết
Chào cười hỏi phải khách sơn khê ?


Hay như bài Đề Đô thành Nam Trang của Thôi Hộ, 
Nhà cũ, cài then, nay vắng không
Nhớ ai gương mặt ánh đào hồng
Ngẩn ngơ tự hỏi người đâu nhỉ ?
Chỉ thấy đào xưa cợt gió Đông.


        
Việt An là người có kiến văn phong phú. Có lần, bàn luận về văn hóa ấm thực (Canh chua cá rô bông súng), tôi kết bài viết: "Mà đã là văn hoá, thì dù có mệnh danh văn hoá ẩm thực, cũng đâu phải chỉ là chuyện ăn uống đơn thuần, ở đó, còn có thổ ngơi, phong tục, hồn cốt, tính cách con người một vùng đất hun đúc mà thành!...".  Việt An khoái quá, bàn thêm: "Kết rất hay. Văn hóa bắt đầu từ những gì giản dị nhất. Đọc bài của bạn, tôi chợt nhớ đến món "mắm cáy" quê tôi. Mời bạn "nếm thử" nhé :  ...Mắm Cáy, được làm từ con cáy, tất nhiên rồi, không được lẫn cua, hay cá trong đó. Cách làm mắm ngon là cả một nghệ thuật dài dòng, nên tôi không nói đến ở đây. Tôi sẽ nói về chuyện thưởng thức mắm cáy. Mắm Cáy ngon, bỏ vào đó một vài trái ớt chỉ thiên, vắt chanh vào, dùng đũa quậy đều lên… Bạn nhớ quậy theo chiều kim đồng hồ nhé, nếu quậy ngược lại, sẽ không ngon đâu !!?. Bạn dùng nước mắm này để chấm rau muống luộc, hoặc ngồng cải luộc thì thật tuyệt vời. Rau muống ngon nhất, là rau hái sau một đêm mưa rào. Còn ngồng cải, là lọai chưa kịp trổ hoa kìa, chứ loại “cải ngồng nhuộm nắng chân đê”, nở hoa vàng rực rồi, không ăn được.
          Mắm Cáy - món ăn dân dã, không đơn thuần là món ăn, mà còn là văn hóa và triết lý sống. Chắc các bạn cũng từng nghe những câu thành ngữ: “Nhát như cáy”, hoặc “Dùi đục chấm mắm cáy”, hay như “Ăn cơm mắm cáy, ngáy o o. Ăn cơm với giò, lo ngay ngáy”. Những câu thành ngữ ấy, đều có nguồn gốc từ…mắm Cáy.
           Trai gái quê tôi, khi yêu nhau, những nụ hôn mà thiếu mùi mắm Cáy, thì cứ như thiếu đi sự mặn nồng, thấy nhàn nhạt làm sao ấy (!?). Bây giờ ở quê có internet rồi. Nghe đâu, dân làng tôi bàn nhau đưa mắm Cáy lên mạng, xây dựng hẳn một trang web hoành tráng, có tên miền là “Mắm Cáy chấm cơm” (Mamcay.com). Mong sao, mắm Cáy được đứng ngang hàng với các loại mắm trên thế giới…mắm...". 

           Chuyện ẩm thực, bàn chơi vậy...

           Bàn về thơ Việt Anngoài những câu thơ đùa vui tếu táo kiểu xướng họa, hẳn sẽ không thấy một Việt An sâu lắng, chắt lọc. Gần đây, vô tình, tôi lượm được vài bài thơ của anh, và nói kiểu vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên "Có thể  chứ, tiên sư anh Tào Tháo".

           Vậy ta xem Việt An sâu lắng ra sao: 

           Thoáng quê xưa

 

Mỗi lần về lại quê xưa
Thấy người quen cũ - cứ thưa vắng dần
Bông hoa cúc nở tần ngần
Sắc vàng ngơ ngác - tắt dần cuối thu

Đồng xa vẳng tiếng chim gù
Chuồn kim đá nước, ao tù rêu xanh
Hoe vàng một chút nắng hanh
Đàn gà xao xác bên mành giậu thưa

Quê nghèo cháy nắng, bạc mưa
Mới về, lại thấy - như chưa được về
Cải ngồng nhuộm nắng chân đê
Thoảng hương cốm mới bay về trong mơ... 

( Mùa Thu 2007)

 

          Bài thơ gam buồn, thoảng như một tiếng thở dài nhè nhẹ, nhưng đọc lại, thì da diết làm sao. Việt An thầm nhủ lòng mình mà như nói cho tôi, cho bạn, cho biết bao người từng có thời đi học ở quê, lập thân xứ người, đi xa lâu ngày trở lại. thấy làng quê thay đổi không cưỡng nổi, khi mà ký ức tuổi thơ vẫn tươi nguyên...

 

          Và đây nữa. bài “ Gởi nhớ về quê

Cuối tuần em sẽ về quê

Thả hồn, tôi lại muốn về cùng em

Quê nghèo - chốn cũ - lạ quen

Chiều buông - khói tỏa - lửa nhen ấm lòng

 

Gởi về một chút nhớ mong

Ngọn tre treo mảnh trăng cong cuối trời

Ao làng chín mọng sao rơi

Mái gianh nghiêng cả một thời ước mơ.

 

Gửi về một thoáng tuổi thơ

Bạn bè một thuở, bây giờ nơi đâu

Nước sông còn vỗ chân cầu

Lá sen, ai có đội đầu che mưa ?

 

Tiếng gà còn có gáy trưa

Em còn nhớ lối rào thưa sang nhà?

Gửi em chút nhớ làm quà

Cay cay khóe mắt, nhạt nhòa bóng quê.

(08/2008)

 

Hay như, bài thơ Có khi, làm như đùa ai đó, lúc dỗi bõ nhau, nhưng ở đó, ta lại thấy chiều sâu tâm thức:

Có khi em rất dễ thương
Ngon như thể trái ổi ương đầu mùa
Có khi em nắng, em mưa
Đang bão táp, bỗng dạ thưa ngọt ngào

Có khi em, có khi nào,
Hai ta mụ mẫm lạc vào trong nhau?...

 

          Đã có đôi lần, lúc trà dư tửu hậu nhóm bạn thân với nhau, tôi đùa Việt An nhưng thật lòng "Ông nên lục kho, đào bới mọi xó xỉnh, lôi hết của nả của mình ra, lựa chọn, nhuận sắc, in một tập cho vui... Tôi sẽ viết lời Tựa sách". Việt An ngỏn nghẻn, nụ cười khó trên gương mặt vốn khắc khổ, nghiêm túc của anh: "Ờ... thì cũng khó... Tôi cũng đã từng nghĩ đến... nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu?... Bởi thơ tôi, như mọi người bảo, cứ cho là hóm hỉnh đi chăng nữa, song mỗi câu, mỗi bài đều gắn với cảnh huống của nó...". 
         
Tôi thấu hiểu điều này, chia sẻ với Việt An: "Tôi biết bắt đầu từ đâu rồi... Ông hãy cứ bắt đầu bằng ý tưởng về một cuốn sách của mình... để tôi thử làm một phác thảo về ông cái đã ...". 

          Chẳng hay, rồi Việt An có dính bả văn chương, thơ phú? 

          Ta hãy cùng nghe Việt An giãi bày tâm can:

Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng, vốn là một thế giới rộng lớn, mông lung, mà sự sáng tạo ở đó là không giới hạn. Với người ngoại đạo như tôi, thì thế giới ấy càng lạ lẫm. Riêng với thơ ca, đã có đủ cách định nghĩa, từ hàn lâm huyền bí, đến bình dân, và cả những định nghĩa tếu táo về thơ; càng đọc, tôi càng lơ mơ, không biết thực sự “Thơ là gì ?”. Đọc định nghĩa về thơ chưa đủ, tôi đọc thơ. Và thế là tôi rơi vào cái biển chữ, mà chẳng biết đâu là bờ. Đang loay hoay trong thế giới thơ, vừa hấp dẫn, vừa rối rắm ấy, tôi bắt gặp bài thơ “Vảy vàng” của nhà thơ Triệu Nguyễn. (Triệu Nguyễn, tên thật là Nguyễn Triệu, sinh năm 1947, quê Hải Dương, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam).

           Bài thơ giản dị như  lời tâm sự, giãi bày về nghiệp thơ và về thơ. Bây giờ không còn là thời đại của thơ ca, bởi con người hiện nay bận rộn, và có nhiều điều cần quan tâm hơn. Nhưng, ngay cả khi người ta quan tâm tới thơ nhất, cũng không mấy ai sống được bằng thơ. “Thôi, đừng huyễn hoặc nữa/ Làm thơ mà làm gì?/ Thơ bày trong quán sách/ Bạn đọc nhìn … quay đi!”. Đó là thực trạng có thật, khi thơ nay trở thành món ăn  tinh thần khó bán. “Tất cả giá đều tăng/ Chỉ có thơ là rẻ/ Nhà thơ sống bằng chi?/ Nhuận bút ư? - Nghỉ khoẻ!”. Phàm là nhà thơ, không mấy ai có đời sống khá giả. Nếu có khá giả, cũng không phải khá giả từ thơ. Nhà thơ tinh tế trong con chữ, nhạy cảm trong giao tiếp, nhưng lại không mấy ai nhạy bén trong công cuộc mưu sinh. “Có nhà thơ đích thực/ Từng húp cháo cầm hơi/ Lênh đênh trên biển chữ/ Mung lung trong sự đời”. Thực tế đã chứng minh:“Dẫu đốt trăm thiên thạch/ Soi mặt các nhà thơ/ Ai kẻ giàu, hiếm thấy/ Tự ngàn xưa đến giờ?”. Đọc đến đây, hẳn bạn đọc không khỏi suy tư về nhà thơ, và nghiệp thơ của họ. Bài thơ “vảy vàng” thoáng một chút gì đó, như là chua xót, như là hài hước, mang tính trào lộng, cho sự trớ trêu của danh phận nhà thơ.

Nếu coi làm thơ là một nghề, thì đó là nghề mang tính duyên nợ, chứ không hẳn là nghề kiếm sống. Tuy vậy, thơ cũng đã làm vinh danh nhiều người, dù cái danh ấy không làm khá hơn đời sống vật chất của họ.Với một số người khác, thơ trở thành cơ duyên giúp họ hanh thông trên đường đời, với những công việc, khác với việc làm thơ. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, thơ trở thành cứu cánh, nâng đỡ con người, giúp con người “vịn câu thơ mà đứng dậy”. Hiếm có nghề nào khốn khó, và đa đoan như nghề thơ; Cũng hiếm có nghề nào mà sự lao động lại tự nguyện và đam mê đến thế. “Ôi, cái nghiệp lạ lùng/ Đa đoan và khốn khó/ Đã vắt, vắt kiệt mình/ Mà yêu không thể bỏ”. Trong một ý nghĩa nào đó, thì nghề thơ còn là nghề của sự cô đơn. Thơ vốn dĩ không phải là sản phẩm của lao động tập thể. Dù hạnh phúc, hay khổ đau, thì nhà thơ, luôn là người độc hành trên con đường của mình.

Thơ mang trong nó vẻ đẹp quyến rũ đến mê hoặc. Thơ ẩn chứa niềm vui, hạnh phúc, nỗi đau, sự cô đơn của bao kiếp người; hòa vào trong đó là hương thơm của hoa, mùi ngai ngái của cỏ dại, mùi nồng của mồ hôi, vị mặn mòi của nước mắt…Thơ lấp lánh bình minh,  dịu ngọt ánh trăng,  óng ánh bùn đất…Thơ còn đó, màu mực của đêm, tiếng thét gào của bão tố. Thơ ôm trọn cõi nhân sinh và cả sự hỗn mang của vũ trụ…Thơ là tinh túy của nghệ thuật ngôn từ. Có lẽ vì thế, mà nhiều nhà thơ, yêu thơ đến quên mình, yêu đến ma mị – như là cái nghiệp đã vận vào thân vậy.

Với đa số người yêu thơ, thì thơ là người bạn tâm tình, biết lắng nghe, chia sẻ cảm xúc buồn vui…Thơ nâng giấc tâm hồn. Thơ lưu giữ cho nhau bóng hình kỷ niệm.  Có điều gì như là nghịch lý, khi nói bây giờ không phải thời đại của thơ ca, trong khi số người làm thơ, và số tập thơ in ra hàng năm, đạt mức kỷ lục. Theo thông tin báo chí, mỗi năm có cả ngàn tập thơ được in ra. Đó là chưa kể thơ không in thành tập, được đăng tràn ngập trên các trang web và blog cá nhân. Thơ vẫn như mạch nước ngầm,  âm thầm chảy, hiến dâng cho đời.

Gần đây, có nhiều người tìm cách làm mới thơ. Điều đó là cần thiết. Nhưng, không ít người, đã cố gắng “làm mới thơ” đến mức lập dị, thoát ly hoàn toàn khỏi những giá trị truyền thống. Những câu thơ tắc tị, tối mò kiểu bí hiểm, hoặc sáng choang, xoang xoảng như kèn đồng, có gây ra một chút tò mò ban đầu, nhưng chẳng mấy chốc rơi vào quên lãng; Những con chữ vô hồn, chết còng queo trên giấy trắng. Bây giờ người ta không chỉ đọc thơ, ngâm thơ, mà còn trình diễn thơ, phá cách như lên đồng. Có một số người còn muốn thần thánh hóa công việc làm thơ, để rồi tự huyễn hoặc mình. Họ biến thơ thành thần bí và rối rắm, tự tạo cho mình một lối sống lập dị, cao ngạo một cách hoang đường…May mắn thay, những người như thế không nhiều.

Với các nhà thơ,  thơ như là máu thịt, con tim, khối óc; thơ là đứa con tinh thần. Ở góc độ lao động, thì thơ là sản phẩm của lao động thơ, mà người lao động  không  định giá cho sản phẩm của mình, và cũng không định được vòng đời của sản phẩm. Khi bước ra xã hội, thơ có đời sống riêng. Người quyết định giá trị và số phận của tác phẩm thơ, lại  thuộc về công chúng. Với thơ, nhà thơ chẳng có gì để toan tính cho riêng mình. Thơ thanh tao và giản dị, đạm bạc mà cao sang – Cái cao sang của cốt cách con người và giá trị nhân văn ẩn giấu trong thơ. Thơ dường như thoát khỏi những tuyên ngôn mang tính hàn lâm, để cúi xuống thật gần với thân phận con người. Thơ mang ý nghĩa của sự hiến dâng. “Thơ gần với nước mắt hơn là tiếng cười, gần với khổ đau hơn là reo hát, gần với sẻ chia hơn là chiếm đoạt”(Nguyễn Trọng Tạo). Lao động thơ cũng là lao động hiến dâng. Nhà thơ “Như những người đãi quặng/ Chợt vảy vàng hiện ra/ Lại biếu không thiên hạ/ - Ấy là thơ đó mà!”. Ngay cả trong những bài thơ, được coi là viết cho riêng mình, nhà thơ cũng gửi vào đó, bao nỗi niềm trăn trở, riêng - chung.

Với cách lý giải giản dị, qua bài thơ “Vảy vàng”, tác giả đưa ra cách nhìn gần gũi về nghiệp thơ, và về thơ. Trong cuộc sống đời thường, nhà thơ, trước hết là một con người, với bao bề bộn lo toan của món nợ áo cơm. Nhà thơ cũng bình thường như bao người khác; Có khác chăng, chỉ là khác, bởi đặc thù riêng của nghiệp cầm bút. Nhà thơ, cả đời ám ảnh với những câu thơ, như một người mắc nợ. Họ cần mẫn, đa đoan, nhọc nhằn “như những người đãi quặng”, chắt lọc từng con chữ, để rồi dâng tặng cho đời cái tinh hoa của nghệ thuật - những “vảy vàng” lấp lánh và khiêm nhường - ấy chính là thơ. Thơ không chỉ là tinh hoa của nghệ thuật ngôn từ, chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn,  mà hơn thế, thơ còn là tinh hoa của lao động nghệ thuật, đầy hy sinh và dâng hiến.”

Vậy là đã rõ. Còn như, làm một tập sách kiểu này, tôi nghĩ, chẳng qua vẫn chỉ là một thú rong chơi mà thôi !?... 

 

 

Trịnh Tuyên, lão chăn dê xứ Thanh.

(Chân dung nhà văn Trịnh Tuyên)

 

          Sở dĩ tôi đùa vui gọi nhà văn Trịnh Tuyên như thế, bởi truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê là truyện ngắn hay, một trong ba truyện mà tôi chọn để giới thiệu cùng chân dung nhà văn trên Website của Hội Nhà văn Việt Nam (vanvn.net). Sau đó, truyện ngắn này còn được nhà văn Nguyễn Văn Thọ chọn và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tâp, phê duyệt đăng ở số 2 (bộ mới) Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, Hội Nhà văn Việt Nam.

          Nếu không nhầm, đây là một trong mấy truyện ngắn khới đầu nghiệp văn của Trịnh Tuyên. Tuy xuất hiện trên văn đàn muộn nhưng Trịnh Tuyên đã nhanh chóng khẳng định mình ở thể loại truyện ngắn và chỉ trong vòng gần chục năm, ông đều đặn xuất bản 4 tập truyên ngắn, đó là Những mảnh vỡ của số phận (2012), Hang cóc thần (2014), Giấc mơ lạnh (2016),  Nhớ đêm thời xa ấy (2018), và hiện đang xuất bản tập truyện  thứ 5 của mình- Trái tim bé bỏng. Trịnh Tuyên là hội viên  Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.

          Mặc dù. Trịnh Tuyên viết đều cả văn và thơ, nhưng bạn văn chương và bạn bè nói chung chẳng ai gọi ông là nhà thơ cả, Phải chăng, truyện ngắn của Trịnh Tuyên nổi trội hơn thơ ông nên người ta ấn tượng một Trinh Tuyên văn? Song có lẽ, con người góc cạnh, tính cách quyết liệt, phản biện sẵc sảo, đã làm nên một Trịnh Tuyên-nhà văn?

 

1. Trịnh Tuyên văn,

          Trịnh Tuyên chào làng văn, chào bạn đọc bằng truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê, và gần như lập túc, ông ghi dấu ấn, khiến bạn đọc ngoài xứ Thanh biết đến tên ông. Tôi cùng vậy. Biết Trịnh Tuyên từ những ngày đầu tham gia mạng xã hội, trang của ông trên Blog Tiếng VIệt đăng đủ thứ, nhưng phài đến khi ông đưa truyện ngắn này lên (20.3.2012), sau khi mấy tờ báo, tạp chí địa phương cùng đăng, tôi mới nhìn nhận phẩm chất nhà văn ờ Trịnh Tuyên, khiến ông khác với nhiều người cùng tham gia viết ngày ấy. Quả nhiên, truyện ngắn này nâng vị thế của Trịnh Tuyên trong con mắt của các blogger ở Blog Tiếng Việt. Giờ đây, khi duyệt bài lên trang, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tạp Tạp chí Nhà văn % cuộc sống , gật gù bảo: “Truyện này chằng khác gì chuyện Chí Phèo, Thị Nở thời nay”. Lẽ dĩ nhiên, với gần trăm truyện ngắn đã viết. Trịnh Tuyên còn có một số truyện ngắn khác khá chắc tay,

          Hãy xem Trịnh Tuyên viết gì. Có thể thấy, các truyện của Trịnh Tuyên tập trung vào mấy mảng đề tài chính: chuyện chiến tranh và hậu chiến, chuyện về các loài vật, chuyện mang tính trinh thám, vụ án, chuyện màu sắc tâm linh, và chuyện đời sống xã hội, tình ái...

          Nhìn chung, như phần đông các cây bút viết theo bản năng vốn có, khởi thủy thường chọn thủ pháp kể chuyện truyền thống, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian, dù đan xen hồi tưởng, ký ức, với nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (tôi), hoặc ngôi thứ ba (nó, hắn...), Trịnh Tuyrn cũng vậy. Hầu hết, các nhân vật của ông kể chuyện ở ngôi thứ nhất, số ít truyện ở ngôi thứ ba. Với thủ pháp vậy, tâc giả dễ bề điều hành nhân vật theo chủ quan của mình nên dễ nặng cảm tính hơn là theo logic của sự việc, vấn đề. Tuy nhiên, Trịnh Tuyên “bài binh bố trận” khá linh hoạt, đã biết cách thoát ra khỏi sự nhàm chán của lối kể chuyện bắng cách thay đổi kết cầu, khai mở gây sự chú ý, cài đặt chi tiết bất ngờ...

Có lẽ, chuyện chiến tranh và hậu chiến là mảng đề tài Trịnh Tuyên để tâm khai thác. Mặc dù, bản thân không nhập ngũ, không trực tiếp tham gia chuến tranh, mà là chiến sĩ công an, song cũng là lực lượng vũ trang, vả lại, ban bè, người thân của ông tham gia quân ngũ rất nhiều nên ông hiểu chuyện binh nghiệp và những vấn đề xã hội thời hậu chiến... Ở mảng đề tài này, có các truyện Nhớ thời xa ấy, Tên lính ngụy, Hồi ức một cung đường,  Kẻ ném đá,...Nhưng có thể tháy, tác giả chỉ hoàn thành việc kể chuyện, các nhân vật như thiếu hồn vía nên chưa để lại dấu ấn đáng kể,

Trái ngược, màng đề tài về đời sống xã hội và tình ái là thế mạnh thực sự của Trịnh Tuyên. Ông viết như không, như kê chuyện chơi vậy thôi nhưng hầu như truyện nào cũng sống động và khá ấn tượng, mà qia đó, ông gửi gắm ý tưởng, triết lý nhân sinh, hoặc tự thân truyện toát lên giá trị nhân văn và thông diệp về cuộc sống,... Cùng với Chuyện tình lão chăn dê, ở màng đề tài này, có thể nhặt ra một số truyện chắc tay, như: Những mảnh vỡ của số phận, Giọt máu rơi,  Đồng không mông quạnh, Ông kão câu cá, Cây bút máy mạ vàng, Liên, Thiếu nữ bên bãi biển chiều thu, Bà Thanh- kiu, Chuyện tình xóm núi, Nhừng mùa dưa đi qua...

Cùng màng đề tài về đời sống xã hội, Trịnh Tuyên cũng khá thành công với những truyện về tâm linh như: Cây gậy của Lý Tước, Hang cóc thần, Giấc mơ lạnh, Thần cây, Bí mạt hang cá thần, Con rắn hổ lửa trên bàn thờ tổ, Con chuột trong nhà thờ họ, Cối đá quý, Ma học trờ, Anh ơi em chết mất,...Tử những giai thoại, chuyện kể mang màu sắc dân gian tâm linh, Trịnh Tuyên sưu tầm xây dựng nên cốt truyện rồi đắp thêm da thịt phù phép thành truyện, và ở đây, quan hệ nhân-quả được ông sử dụng thành triết lý nhân sinh, Vậy nên, yếu tố tâm linh không phải là chuyện mang ra để hù ma, dọa quả báo, mà như một sự nhắc nhở về đạo lý thiện lương, về nhân nghĩa ờ đới....

Những chuyện vụ án, chuyện mang màu sắc trinh thám cũng là một điềm nhấn trong sáng tác của Trịnh Tuyên. Xuất thân ngành công an, nhiều năm là cảnh sát điều tra, Trịnh Tuyên có vốn kiến thức phong phú, óc suy đoán logic, sự nhanh nhậy của một chuyên viên phá án, nên ông khá chắc tay trong mảng đề tài này. Ở các truyện: Kể tự thú, Đánh ghen, Bóng đè, Ăn miếng trả miếng, Tiếng chó sủa đêm,  ông thỏa sức tung tẩy với kinh nghiệm cảnh sát điều tra của mình. Không chỉ thế, Trịnh Tuyên viết truyện như làm án, nên để dấu ấn nghiệp vụ điều tra trong hầu hết các truyện ngắn của ông về việc cài đặt tình tiết và tiết tấu câu chuyện,...

Còn một mảng đề tài, khiến Trịnh Tuyên khác nhiều cây bút văn xuôi, ấy là về các loài vật. Để ý, các truyện của ông đều thấp thoáng bóng dáng các con vật, (hoăc cây cối, đồ vật), mà ở đó, chúng là các nhân vật phụ, có liên quan, và có tác dụng làm nổi nhân vật chính. Nhiều truyện, con vật trờ thành nhân vật chính, như: Đôi chim cu già, Sữa chó, Chó đẻ, Con mọt, Con khỉ, Con mèo tam thể, Con ngựa già, Con lợn nghĩa tình, Con gà tài nguyên, Con trâu bạc, Đốm ơi,... Ở đây, Trịnh Tuyên tỏ rõ sự hiểu biết tường tận về đặc tính sinh thái của từng loài vật, mối quan hệ đồng loại và mối quan hệ với con người. Dĩ nhiên, nói đây chết cây chỗ khác, ông mượn chuyện con vật là để nói con người, nhắn nhủ con người,..

Vậy nên, đương nhiên, có một Trịnh Tuyên-truyện ngắn,

         

2. Trịnh Tuyên thơ,  

Cho đến thời điểm này, nhà văn Trịnh Tuyên vẫn chưa xuất bản tập thơ nào, song ông là tác giả của hàng trăm bài thơ rải rác nhiều năm qua. Dấn thâm vào nghiệp văn. Trịnh Tuyến có thế mạnh và chủ tâm theo văn xuôi, nhưng cũng như nhiều cây bút văn xuôi khác, thậm chí các lão làng (như Hà Minh Đức, Võ Huy Tâm, Đỗ Chi...), ông bị nang thơ quyên rũ và không thể làm ngơ. Thơ ông chủ yếu đăng trên mạng xã hội để bạn hữu đọc bàn chơi, hay lúc trà dư tửu hậu bình phẩm, thi thoảng gửi đăng báo này nọ,

Là cây truyện ngắn vững, khi viết, chủ đề, ý từ, bố cục, chi tiết rõ, nên sang thơ, Trịnh Tuyên cũng theo đúng cách viết truyện ngắn mà làm. Nghĩa là, lập tứ, có cốt rồi lắp câu chữ cho bài thơ nên da thịt, sao cho diên đạt được ý từ là ổn, nên đôi khi khó tránh khỏi tình trạng ngượng ép, khiên cường, Ví như:“Đừng tìm người đi cấy anh ơi/ Phía trước, phía sau, đều không rõ mặt/ Cuộc mưu sinh gần đất nhất.../ Họ sẽ nhìn anh qua khung hình tam giác/ Mặt ruộng là gương, không cần tráng ni tơ rát bạc// Âm bản đen, ống kính chổng lên trời!!!” (Người đi cấy); hay như: “Người cả tin/ Biên giới hay xê dịch/ Người tâm thần/ Biên giới bỏ ngỏ/ Người tham lam/ Tự thu hẹp biên giới/ Người cuồng tín/ Biên giới thuộc địa hạt tư duy kẻ khác/ Người thông minh/ Biên giới chôn chìm...” (Biên giới). Đây nữa:  “Chúng rút ra rồi, em mới thấm đau/ Sóng cứ dào lên như là nức nở/ Có phải sông đâu mà trút vào bồi lở// Em - Biển kia mà... bạn của đại dương.../ Giấy kết hôn kia vò vứt cuối giường/ Em thuộc về anh sao để người ta cắm?/ Phút chúng khoan vào, em đau, đau lắm/ Anh - kẻ bạc tình biết đứng nhìn thôi!...” )Lời than của Biển Đông); Và đây “Bến lạnh lùng, con tim buốt sang ngang/ nước đã lạnh, lòng người còn lạnh nữa/thôi đừng khoắng thêm dòng sông tình tan vỡ/ Cho mái chèo mươn mướt những niềm đau! (Chằng còn mùa thu nữa đâu em); Rồi đây nữa: “Có anh đây rồi, em cứ vững niềm tin/ Biển là em, em thẳm xanh như biển/ Nếu chúng vắt vòi rồng, anh còn cố nhịn/ Nhưng khoan vào là anh băm xác chúng ra/ Nên chúng cứ thụt vào rồi kéo ra!” (Thơ tình cảnh sát biển)_

Đại loại, những khổ thơ, câu thơ gượng ép, cố gò theo ý tưởng như thế không hiếm trong thơ Trịnh Tuyên, Như đã nói, thơ Trinh Tuyên, hầu như bài nào cũng ý tứ rõ ràng, nhiều khi lộ ý,  vấn đề là diễn đạt ra sao. Trịnh Tuyên luôn ý thức tạo sức nặng chi thơ mình, nên ông ưa triết lý, Một khi triết lý. thì năm ăn năm thua, rất có thể gượng và khô cứng, nhưng thành công thì lại được những câu thơ hay. Có thể tìm nhặt ra trong thơ Trịnh Tuyên những triết lý hay. Chẳng hạn, như: “Quên tên cây/ làm thuyền/ Tận cùng nỗi cô đơn-/ độc mộc!/ Khoét hết ruột/ Chỉ để một lần ngược thác/ bất chấp đời/ ênh đênh...” (Độc mộc); Hay như: “Chưa nở đã mang bầu thai quả/ Phận đau như gái chửa không chồng/ Buồng the nứt toác tình chưa thoả/ Cuối mùa trơ cuống với hư không.(Hoa chuối): Đây nữa: “Đêm tất niên một mình ra ngõ/ Say mèm húc phải đống rơm/ Hai kẻ cô đơn chợt tỉnh:/ Nhận ra xác những linh hồn!/ Ngươi: xác của mùa màng/ Ta: xác của thời gian/ Ngươi: Cháy lên còn chút lửa/ Ta: Một nhúm tro than..../ Ngươi đứng lù lù trước ngõ/ Ta thì lọm khọm trong nhà/ Ta buồn đắng tình thế thái/ Ngươi vui ngọt miệng trâu bò!” (Đêm tất niên): Và đây: “Nơi đây là mộ địa/ Chôn/ những mối tình đã chết từ lâu/ Đã vô duyên kiếp trước/ Mong gì gặp kiếp sau?  (Nghĩa địa tình yêu) v.v...

Nếu chịu khó tòm kiếm, còn không ít những câu thơ triết lý thú vị như thế trong hàng trăm bài thơ của Trịnh Tuyên  Thực lòng, tôi thích thơ Trịnh Tuyên hơn truyện của ông, bời nhìn chung, thơ ông có ý tưởng lạ, khá hàm súc, câu chữ bất ngờ. Ví như bài thơ này: “Ta lại đến điểm đầu từ điểm cuối// đường tình ngắn chẳng tày gang/ Cưới lại đi em/ Ừ! Cưới lại!/ Cơm đã nguội rồi thì đổ ra rang.../ Đêm cưới lại/ tình nồng không trở lại/ chỉ có đôi môi/ lặng ngắt/ ưu sầu!/ Đêm cưới lại/ ái ân/ không trở lại/ chỉ tiếng thì thầm thoảng trong đêm mau/ Đêm cưới lại/ chẳng còn gì trở lại/ chỉ một lần khờ dại mãi trong nhau..” .(Cưới lại); Hay như: “Nghẹn ngào khói thoảng về mây/ Run run một nén tâm đầy con dâng...” (Thăm mộ cha);  “Khi anh yêu em/ Biên giới của người điên” (Biên giới); “Rằng nay đang tiết thanh minh/ Tôi đi viếng cái mộ mình mai sau...” (Tôi đi viếng mộ của tôi):  “Nơi đây là mộ địa/ Dưới đáy mồ không một khúc xương/ Chôn những mối tình đã chết! “ (Nghĩa địa tình yêu) v.v...

Theo tôi, Trịnh Tuyên có một bài thơ hay, thuộc hàng hay nhất của ông, kiểu như Chuyện tình lão chăn dê trong truyện ngắn, ấy là bài Thành nhà Hồ.

“Thành xưa đổ nát, hoang tàn

Hồ vương rời bỏ ngai vàng ngự đâu(?)

Thạch long, tuế nguyệt dãi dầu

Bước chân khanh tướng công hầu vắng tanh

Sông xưa đổ mé đông thành

Mà nay đồng bãi , tươi xanh bốn mùa

Đế vương mà ngỡ trò đùa

Trẻ trâu kể mấy đời vua suy tàn .

Cho hay thành quách, ngai vàng

May ra còn lại mấy trang sách nhầu!

Có gì vĩnh cửu mãi đâu

Bao nhiêu lăng tẩm nhuốm mầu liêu hoang

Bao đời áo mão xênh xang

Mấy ai xây được ngai vàng- Lòng dân”

Hơi thơ cổ, tứ hay, câu chữ chắt lọc, phong vị trầm bi, ý nghĩa sâu sắc và giàu sức gợi, Nghe đâu, bài thơ này có câu được các nhà bình chọn lấy để treo vào bóng thơ thả lên giời một Nguyên tiêu nào đó ở Văn Miếu-Quốc tử goám. Trịnh Tuyên cũng lấy đó mà tự hào.

Đấy là sự ghi nhận về tính triết lý trong thơ Trịnh Tuyên.  Song cùng vì ham triết lý mà nhiều bài thơ của ông giảm sức gợi. Thơ hay, trước tiên cần sức gợi, rồi đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu... Có cả thì dĩ nhiên toàn bích rồi. Thế nên, làm thơ, dụng công quá thường hỏng. Nhiều khi buâng quơ, viết chơi chơi lại được. Trịnh Tuyên có những bài thơ như vậy, Ví như ờ Chiều trên bài ngô, ông tả cảnh đồng bãi, vô tình thấy môt em nào đó đang cắt cỏ trên bãi ngô ven sông Mã, để rồi buông một câu kết lửng lơ: “Xin em đừng gánh cỏ về lối cũ/ Kẻo vương vào phiền muộn của riêng anh...” thì bài thơ sống động hẳn lên, bồng có hồn và rất gợi... Hay đâu, những câu thơ đầy ngẫu hứng thú vị như “Biển oan, sóng mãi gầm gào/ Bao nhiêu trong đục đổ vào một tôi! “ (Em); “Lời thương/ em gửi cuối nguồn/ Lời yêu/ em gửi cánh chuồn chuồn bay” (Nhà em): “Đường chiều mây nhẹ đường mây/ Đường tình tôi nặng những đày đọa tôi” (Chiều quê);  “Thanh minh tôi viếng mộ tôi’Mai sau biết có ai người ghé thăm?”(Tôi viếng mộ tôi); “Một năm lửa đỏ để dành/ Đủ cho anh đốt cơm canh một ngày!” (Thơ ngày 8.3); “Tháng sáu thương phận cá trôi/ Đồng xa, nước ngập, bồng bơi ngả nào?. Con rô lách ngược mưa rào/ Con ếch nồng nỗng cầu ao đợi mồi/ Tháng sáu, em hẹn thăm tôi/ Ao sâu, nước cả, tôi ngồi câu suông!” (Tháng sáu); “Mặt trời thì ngã đằng tây/ Em thì ngã trọn vòng tay gã khờ/ Khi em ngã ngửa vào mơ/ Là tôi ngã sấp bơ phờ tóc sương” (Ngã) ...

Những câu thơ này, dẫu không đến mức “tuyệt diệu hảo từ”, thì cũng không phải là những câu thơ dễ viết dễ có !... Và như thế, tôi nghĩ,, đủ có một Trịnh Tuyên-nhà thơ!...

 

3.  & lão chăn dê xứ Thanh,

          Năm nào cũng vậy, cứ sau tết nguyên đán, độ cuối tháng hai ta, Trịnh Tuyên lại rủ tôi vô Thanh, còn nhắn là nhớ rủ thêm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh Kính và nhạc sĩ Phạm Qiamg Hiển. Chẳng là, từ nhiều năm nay, cứ vào độ này khi tiết xuân còn chưa vãn, cánh chúng tôi thường vô xứ Thanh, dổ bộ vào nhà Trịnh Tuyên ở Cẩm Tân, Cẩm Thủy. Nhóm văn bút xứ Thanh tụ hội ở nhà Trịnh Tuyên thường có Phạm Duy Đức, Ngô Xuân Tiếu, Lê Văn Sự, Trọng Nghĩa, Đào Phan Toàn, Cao Nguyên Quyền, và Trương Thị Mầu, Ma Bích từ Bá Thước xuống, cùng vài ba người khác... Đông vui, thân mật, ấm áp tình bạn bầu văn chương.

          Tôi quen và thành thân với Trịnh Tuyên từ mươi năm nay, qua mang xã hội Blog Tiếng Việt mà cư dân ở đây nôm na gọi là Xóm Lá, Lúc ấy, mạng xã hội chưa phổ biến như giờ, nên những ai tham gia Blog Tiếng Việt chí ít cũng phải biết viết lách đôi chút, nếu không phải là cây bút chuyên nghiệp. Nhóm vài chục blogger ở Hà Nội gặp gỡ, giao lưu với nhau vui ;ắm, còn Trịnh Tuyên mãi vùng xa Cẩm Thủy xứ Thanh. Song Trịnh Tuyên nhanh chóng gây ấn tượng với nhóm chúng tôi, bời nhẽ, thứ nhất, các cảm nhận (comment) gây xốc, tưng tửng hoặc chọc ngoáy khó chịu,  thớ nữa, các bài viết của ông, truyện ngắn hay thơ đều khá chững chạc. Phàm dân viết, ngửi văn nhau thấy được là chơi với nhau ngay. Và rồi, những chuyến Trịnh Tuyên ta Hà Nội mỗi dịp Nguyên tiêu, hay những chuyên đổ bộ của chúng tôi vào xứ Thanh kết nối và gắn bó chúng tôi.

          Gặp rồi nên thân mới thấy chơi được với Trịnh Tuyên không dễ chút nào. Ông tuổi Nhâm Thìn (sinh 1952), cầm tình còn rồng, mệnh Thủy-Trường lưu thủy (nươc chảy dài), lại sống bên bờ sông Mã, nên tính cách mạnh, linh hoạt, lấn lướt,... Thiên can Nhâm cỉa tuổi Nhân Thìn, tương hợp với Đinh, mà tôi tuổi Đinh Dậu (1957) nên Trịnh Tuyên với tôi, anh em hiểu nhau, dễ chia sẻ, bổ trợ thành hòa hợp,...Có mầy yếu tố làm nên tính cách con người Trịnh Tuyên, chất nam nhi xứ Thanh điển hình, cộng cái ngất ngưởng của kẻ có chữ, pha trộn thêm sự nhanh nhậy linh hoạt của nghề cảnh sát điều tra, Thường ra, thấu hiểu và dễ cảm thông, song khi cần, sắc lẻm phân minh, nhất bét tời cùng, không ngại va chạm mất lòng, Tôi nhớ, trong một lần vào xứ Thanh, tôi cảm hứng thành thơ, bài thơ Thăm bạn xứ Thanh, mang đọc lúc tiêc vui, có câu thơ “Xứ Thanh bề bộn nước non/ người một khoảnh, đất vuông tròn một khoanh”, mọi người đều không để ý, riêng Trịnh Tuyên nhận ra ngay ý tứ. Ông khoái, khen câu thơ ấy đã khái quát được cả vùng đất và tính cách con người xứ Thanh,

          Cũng có thể kể thêm vài câu chuyện nữa, đặng khắc họa đậm nét tính cách con người Trịnh Tuyên, Trong quan hệ xã hội, Trịnh Tuyên không ưa những gì ông cho là mập mờ. Thế nên, đã tùng xảy ta chuyện, tờ báo này tạp chí nọ sử dụng bài viết của ông tùy tiện, thiếu minh bạch, khiến ông bực mình, lên tiếng phản ứng. Rồi nữa, chuyện ông mời khach đến chơi nhà cùng tiếp bạn văn chương thủ đô, chuyện phiếm lấn sang lĩnh vực điều tra, ông và cậu đàn em từng là thủ trưởng cơ qian điều tra cấp huyện, nổi hứng nghê nghiệp bàn về chuyện phá án, hăng lên tranh luận, mỗi người một lý, chủ khách thành to tiếng khiến tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa phải can ngăn, hạ hỏa đôi bên...

          Trịnh Tuyên là vậy đấy, trực tính, yêu ghét rõ ràng, Ai chơi được với ông dễ thành chí cốt. Hễ cứ nghe Trịnh Tuyên phán về một au đó “Hắn chơi được lắm”  thì tôi không phải ngại, cứ yên tâm mà giao du. Chẳng thế mà, lão chăn dê xứ Thanh quy tụ được nhiều cây bút,  bạn bè yêu văn chương trong vùng, thưởng xuyên gặp gỡ, đông viên, chia sẻ cùng nhau không chỉ văn chương mà cả những vui buồn  cuộc sống...

Mấy năm nay, bạn văn miền tây xứ Thanh của ông cứ vơi dần. mấy người vân du về cõi hạc (Trọng Nghĩa, Phạm Duy Đức, Ma Bích), riêng ông vẫn thủng thẳng sớm trà, chiều tửu, cần mẫn kể chuyện đời,..,

Lão vẫn còn bầy dê thả chăn trên núi kia mà !...

 

 

 

Nguyễn Tùng Quân-

Niềm riêng và những điều còn lại

 

Tôi biết đến và quen thân Nguyễn Tùng Quân đã hơn chục năm nay. Ngày ấy. mạng xã hội chưa mấy phong phú như bây giờ. Mùa thu năm 2009, tôi lập trang riêng Ngẫm & Viết trên nền tảng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net), và ngay sau đó, tôi biết đến Nguyễn Tùng Quân, khi anh sang ghi cảm nhận (comment) bên trang của tôi. Và để trở thành bạn thân với nhau, tôi cũng thường xuyên sang đọc trang của anh. Blog của Nguyễn Tùng Quân chọn tên một ca khúc nổi tiếng của Trịnh Công Sơn làm đề từ - Để gió cuốn đi, điều này phần nào cho thấy quan niệm và xu hướng sáng tác của anh. Như vậy, cứ đều đếu, tháng đôi ba bài viết mới, chủ yếu là thơ, và cho đến thời điểm tạm dừng trang cá nhân của mình vào đầu năm 2018. Nguyễn Tùng Quân đã đăng ở đây khoảng 120 bài thơ, mà đa phần được anh tập hợp thành tập thơ Niềm riêng và những điều còn lại, mà bạn đọc có trên tay hôm nay.

Song trước khi bàn đôi điều về thơ Nguyễn Tùng Quân, tôi lại muốn bạn yêu thơ làm quen với con người thơ.

Nguyễn Tùng Quân quê xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, tuổi Kỷ Hợi, chuyên ngành đào tạo về khoa học tự nhiên. Mặc dù, Nguyễn Tùng Quân từng công tác trong ngành văn hóa, nhưng có lẽ, thời gian làm việc, phụ trách Nhà chiếu hình Vũ trụ ở Nghệ An lại cho anh cảm xúc sáng tác nhiều nhất. Hình như, hằng đêm, quan sát bầu trời mênh mang hằng ha sa số tinh tú lấp lánh, tâm hồn anh lại rạo rực niềm cảm hứng thi ca, những xúc cảm đó chẳng phải là thứ tình cảm viển vông gửi vào vũ trụ bao la, mà là tình cảm chân thật về tình yêu đôi lứa, tình yêu con người trong đời sống thường nhật quanh mình...

Cùng với những người anh em bạn bè yêu văn chương quê Nghệ An với Nguyễn Tùng Quân, có Văn Lâm An, một kỹ sư xây dựng và cựu đại tá Phạm Huy Việt, một người từng làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự. Tuổi đời cao thấp chênh nhau nhưng họ rất yêu quý, nể trọng nhau. Tôi thân quý cả ba người, chỉ phần nhỏ vì sở thích văn chương thơ phú, mà phần lớn là sự thẳng thắn, chân thật, đặc  biệt là “cái chất gàn đồ Nghệ” của họ. Tôi khá tâm đắc với chút cảm nhận về thơ Nguyễn Tùng Quân của cựu đại tá Phạm Huy Việt, nên ghi nguyên văn ra đây:

 

Tôi đã “cách ly” thơ vài năm nay.

          Họ nói với tôi rằng thơ đang bùng nổ, thơ đang lạm phát.

           Tôi cho rằng thơ đang suy thoái, thậm chí đang bị lãng quên.

           Cái đang bùng nổ, đang lạm phát đâu phải là thơ. Nó là “văn nói ngắt đoạn” hay “văn xuôi xuống dòng” mà thôi. Thơ là tình yêu đã rũ bỏ trần tục. Thơ trong dòng chảy văn học nghệ thuật như mỹ nữ trong dòng cuộc sống, không lẽ lẫn lộn “mỹ nhân” và “xú nhân”.

           Dù muốn “cách ly”, nhưng khi Nguyễn Tùng Quân nhờ đọc bản thảo thì tôi nhận lời; vì tôi biết anh từ lâu, cũng đã đọc một số bài. Cảm nhận ban đầu thì đó là thơ.

           Cũng cần nói ngay, tôi là người yêu thơ, nên chỉ “thẩm” thơ thôi, những mong giúp cho bạn hữu chút gì đó khi đọc thơ Nguyễn Tùng Quân.

Thơ Nguyễn Tùng Quân dù không gò ép hay “đánh võng” vần điệu, nhưng cũng không buông thả hay rẻ rúng từ ngữ; không “lên gân” câu chữ để làm cho câu thơ se sắt. Những cái đó tựa như là tiêu chí bất thành văn hồi đầu của Phong trào Thơ mới (1932 – 1945), khi các nhà thơ giác ngộ muốn phá bỏ niêm luật chặt chẽ của thơ cũ. Điều đó đáng trân trọng.

Thơ Nguyễn Tùng Quân như gồm hai mảng chính, thơ đờithơ tình.

          Thơ đời của anh giản dị mộc mạc có phần “nhà quê”, nhưng trong đó anh đã khéo léo hình tượng hóa và khái quát hóa để dẫn dắt người đọc đến bức tranh sống động hiện thời. Trong khi, đa phần người ta bàng quan lướt nhẹ giữa “mây chiều vần gió”:

“Chiều nghĩa trang tăm tắp những hàng bia

Nén hương thơm lập lòe cháy đỏ

Những hàng bia không tên đứng đó

Đội ngũ những người HAI LẦN HY SINH…”

(Hai lần hy sinh)

Lời trong ký ức: “bạn đừng sợ kẻ thù – cùng lắm nó hại bạn; đừng sợ bạn mình – cùng lắm nó phản bội; hãy sợ sự bàng quan – đó là nguyên cớ của phản bội và giết chóc”. Phải chăng bàng quan chính là cái chết khi còn sống. Với thơ, sự bàng quan cũng là cái chết của thơ vậy...

Thơ tình của Nguyễn Tùng Quân lại thích lối viết ẩn dụ.

Cũng là ẩn dụ, nhưng nếu là thơ thời cuộc thì đa phần không được hoan nghênh, như, bởi đó là sự “né tránh”. Còn như, với thơ tình. lối viết ẩn dụ về cơ bản lại được hoan nghênh, tán thưởng, cho rằng lời thơ có cánh,... Cũng đúng thôi, nói bóng gió là nghệ thuật tỏ tình mà lại như “sở nguyện” của đối tác. Vậy đó. trong tình yêu, những cái cần nói thì không nói được, ẩn dụ là “thay lời muốn nói”, thế nên:

“Thơ tình anh đã viết rồi

Chỉ mong em

Hiểu những lời

… Lặng câm…”

(Thơ chung)

Đọc thơ Nguyễn Tùng Quân, như người lần đầu uổng rượu “xịn”, ngỡ rượu nhẹ vì uống ngon, êm, mềm môi, mà say lúc nào không hay, tỉnh dậy thoáng buồn, vì còn đi thăm “vườn quê” của Hoàng Thi Thơ:

“Em gái vườn quê,

Cuộc đời trong trắng,

Dầm mưa dãi nắng

Mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm…”

 

Tôi xin nhắc lại, ý kiến nêu trên của cựu đại tá Phạm Huy Việt chỉ là một cảm nhận theo dòng cảm xúc của ông, chứ chưa phải là sự đánh giá thơ Nguyễn Tùng Quân với tư cách một bài phê bình văn học. Tôi hiểu, việc đánh giá, nhận đình thơ Nguyễn Tùng Quân thế nào đang thuộc về bạn đọc yêu thơ, bởi mỗi người đọc đều là một nhà phê bình kia mà !...

Tôi và Phạm Huy Việt. Văn Lâm An có ý nhắc Nguyễn Tùng Quân tập hợp thơ đã đăng tải nhiều năm nay để thành tập, xuất bản, thì anh có vẻ lưỡng lự. Nguyễn Tùng Quân tâm sự, ý anh là thơ mình toàn là thơ tình. Tôi nghĩ, thơ tình thì có sao đâu. Tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống và tình yêu đôi lứa,... tình nào mà chẳng là tình, đều đáng quý cả.

Điều đáng sợ, ấy là thói vô tình.

Ở đời, xưa nay, hữu tình vô hạn kia mà !... ./.

 

 

 

Phạm Duy Đức, chút tình thơ gửi lại.

 

Vậy là người thơ đã đi xa.

Nhớ lời người xưa bảo, "sống thì lâu, chết giỗ đầu nay mai...". Vừa mới đọc tin nhà văn Trịnh Tuyên báo, Phạm Duy Đức mất vì ung thư, chớp mắt đã thấy Trịnh Tuyên bảo, sắp 49 ngày Phạm Duy Đức rồi đấy... Cái hẹn với nhà văn Trịnh Tuyên và Phạm Duy Đức, cùng bạn bè văn chương Xứ Thanh từ mùa xuân năm trước, vậy mà sang xuân Kỷ Hợi này, còn chưa kịp vô Thanh thì ông đã xa rồi... 

1. Rủm rỉm người thơ,
           Tôi biết đến người thơ Phạm Duy Đức đã ngót bảy năm nay, thông qua mạng xã hội là Blogtiengviet.net mà mọi người quen gọi bằng cái tên dân dã thân thương là Xóm Lá...
           Thoạt đầu, ông không để lại ấn tượng gì nơi tôi. Đơn giản, bởi Xóm Lá ở thời điểm ấy có đã những tên tuổi lấy lừng như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Lâm Cẩn ... hay những người năng nổ, hoạt bát như Nguyễn Vĩnh Tuyền, Chử Thu Hằng, Nguyễn Cao Thâm, Lê Văn. Lu Bim, Thúy Tím,...  Ngay xứ Thanh, cùng quê với Phạm Duy Đức thì cũng đã có Trịnh Tuyên, Đào Phan Toàn... là những người thơ văn đầy mình.
           Khác với những nhà thơ nhà văn chuyên nghiệp, là hội viên của Hội nọ Hội kia, thì có số đông người vì yêu văn thơ mà lập blog cá nhân, để lấy cớ mà viết, để có chỗ mà giao lưu bè bạn với nhau... Với riêng Phạm Duy Đức, đến với Xóm Lá là một người như vậy.
Đã dăm năm nay, nhóm blogger Hà Nội gồm có tôi (Nguyễn Chu Nhac), nhà thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, Nguyễn Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, nhạc sĩ Phạm Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh Kính, cùng Nhà giáo nhân dân-Gs Nguyễn Lân Dũng, nhà báo Nguyễn Thịnh... hầu như năm nào cũng làm một chuyến du xứ Thanh. Khi đủ bộ sậu, khi thiếu vắng người này người nọ, song năm nào cũng vào dịp mùa xuân, sau tết Nguyên đán, chúng tôi vô Thanh, điểm tụ hội là nhà riêng của nhà văn Trịnh Tuyên, tại Cẩm Thủy. Nhóm blogger xứ Thanh đón khách văn chương Hà thành, ngoài chủ nhà Trịnh Tuyên, thường có khá đông dân văn nghệ, chữ nghĩa quanh vùng là Ngô Xuân Tiếu, Đào Phan Toàn, Trịnh Phú Đa, Nguyễn Trọng Nghĩa (giờ đã là cố nhân), nữ bác sĩ Trương Thị Mầu, Phạm Mai, Phùng Hương Nhu, và Phạm Duy Đức v.v... Hằng năm, cuộc hội ngộ văn chương ở xứ Thanh cũng ít khi đầy đủ, thường thiếu vắng người này kẻ nọ, song Phạm Duy Đức thì không bao giờ vắng mặt. Cứ theo lời nhà văn Trịnh Tuyên, cùng với ông là hạt nhân cho việc tổ chức các cuộc vui, thì luôn có vài người thân thiết trợ giúp mình là Phạm Duy Đức và Trương Thị Mầu...
           Tư gia nhà văn Trịnh Tuyên khá rộng rãi, vườn tược, ao chuôm đủ cả, nên sản vật của nhà như gà vịt, cua cá, rau cỏ thừa sức đãi khách. Tuy nhiên, hầu như năm nào cùng có những món ngon thuộc hàng sản vật địa phương được bác sĩ Trương Thị Mầu mang từ Bá Thước xuống và đặc biệt là món bánh răng bừa ngon nổi tiếng do Phạm Duy Đức thửa từ Cẩm Vân quê ông mang sang góp vui, đãi bạn văn chương Thủ đô ... Đấy là cái ý, cái tình của nhà thơ Phạm Duy Đức...
          Cuộc vui, gặp gỡ năm một lần, đều tưng bừng náo nhiệt. Các vị tên tuổi như Nguyễn Lân Dũng, Trần Đăng Khoa thường là trung tâm của sự chú ý. Náo nhiệt có gia chủ Trịnh Tuyên và nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, thích ảnh ót chụp choẹt của phái nữ, hoặc chốc chốc cao hứng chữ nghĩa của Nguyễn Trọng Nghĩa, Trịnh Phú Đa, thì trái ngược, Phạm Duy Đức lẳng lặng kín tiếng, rủm rỉm thủng thẳng buông ra một câu hài hước khiến mọi người bật cười. Ấy là cái duyên nói chuyện của ông... 
Tiệc vui, đông người, rượu vào lời ra, khi cả hội chung một chuyện, lúc thì từng nhóm vài ba người với nhau, mặc ai huyên náo thơ phú, riêng Phạm Duy Đức vẫn rủm rỉm vậy. Nhiều lần quan sát, tôi thấy ông chăm chút rót rượu cho những người kế bên, gắp món này món nọ, kèm theo lời giới thiệu từng món, từng vị ngon quê Thanh cho bạn xa cùng thưởng thức... Ân cần, chu đáo, tinh tế, ngẫm nghĩ để lâu lâu lại tung ra một câu hài... Phạm Duy Đức rất vui khi ai cũng khen món bánh răng bừa Cẩm Vân quê ông, song ông cũng chỉ mủm mỉm, chứ không bao giờ sảng khoái cười to...
         Quả là, người làm sao, của chiêm bao làm vậy. Ấy là cái duyên rủm rỉm của con người Phạm Duy Đức thấm cả vào thơ ông...

 

          2. Chút tình thơ gửi lại,...
          Hơn một lần, tôi bày tỏ suy nghĩ của mình với Phạm Duy Đức như vậy. Ông nghe, mặt rạng lên, nhưng cái cười nơi ông vẫn chỉ khúc khích mà thôi. Nhưng nhìn kỹ, thấy ánh mắt ông ánh lên sự tinh nghịch, hóm hỉnh. Tôi đùa "Thơ anh mà mang ra tán gái là ăn lắm đó", ông mủm mỉm "Thế à... vậy mà mình không biết đấy... Tiếc nhỉ?...". Miệng nói vậy, song vẻ mặt tinh quái gian gian là. Tôi hiểu, ông ý thức điều này...
Chuyện là thế, cửa miệng đùa vui lúc trà dư tửu hậu rồi thôi, nhưng nay, Phạm Duy Đã đã là cố nhân, vân du về cõi ngàn thu, mới lần giở từng trang blog của ông, đọc chậm và ngẫm nghĩ, càng thấy sự rủm rỉm duyên ngầm, nhất mực đôn hậu đậm nét trong thơ ông...
          Tính từ bài thơ đầu tiên là Qua sông đăng ngày 18.8.2013 đến bài thơ cuối cùng là Đông về đăng ngày 13.12,2018, tổng cộng 270 bài, toàn thơ. Không rõ, Phạm Duy Đức còn bài thơ nào ngoài số này, và nếu không thì trong vòng hơn 5 năm, với ngần ấy cũng là con số không nhỏ. 
Có một điều, giờ đây xem lại thơ Phạm Duy Đức, thì ngay bài thơ đầu tiên, của ngày đầu tham gia Blog Tiếng Việt, ông đã chọn đề tài về sự vĩnh hằng. Xin trích ra đây "
Chiều nay anh qua sông trên một con thuyền/ Soi bóng mình giữa dòng nước biếc/... Xa xa là những cánh đồng/ Mấy nghìn năm phận người như cánh cò cánh vạc/ Dáng mẹ thân cò, dáng cha mình hạc/ Lại hiện về trong những khúc ca dao/ Đất nước mình thân thiết biết bao/ Muôn kiếp người hòa vào lòng đất/ Ta cứ sống với tâm hồn chân chất/ Một đời người mê mãi một dòng sông..." 8/2013...
Rẩm riu, như một dự cảm về sự sớm ra đi, ngay từ lúc trình làng với tư cách là một người làm thơ, Phạm Duy Đức đã luôn bị ám ảnh bởi đề tài này. Trong bài thơ cuối cùng Đông về, mặc dù không u hoài như bài thơ đầu tiên, vẫn có chút lạc quan, hóm hình câu chữ, song dự cảm vĩnh hằng vẫn ám ảnh nỗi lòng ông "
Đông về cái lạnh nó tê tê/ Mỏi mắt trông em chẳng thấy về/ Con Sáo rủ nhau tìm chỗ ẩn/ Bầy cò nhao nhác rúc bờ tre/ Đêm khuya thanh vắng cu gù đợi/ Chạng vạng vừng đông gáy té te/ Tính đến mùa ni đà mấy độ/Dòng còn hay cạn nẻ bờ khe".  Hai câu kết của bài thơ, như một sự tính sổ với cuộc đời. Hay đâu như bài thơ ngay trước đó, Chuyến đò cuối cùng, ông viết câu mở "Người lái đò đưa chuyến cuối cùng" thì câu kết buông xuôi "Mặc con đò trôi xuôi chưa biết đậu bến nào...". Trong thơ của Phạm Duy Đức, dự cảm về sự vĩnh hằng nhiều lắm, hoặc trong tứ thơ hoặc vài ba câu thơ, lại có khi ở ngay tên bài... Ví như: "...Em là dòng sông suốt đời anh mơ ước/ Em lở về đâu anh cũng chẳng cần bồi/ Hãy cho anh nhập dòng sông em nhé/ Đợi đến một ngày anh sẽ bay hơi..." (Đến với dòng sông, 10,2017) . Và đây, ông viết  "...Những người xưa đã chết/ Chỉ vài chục năm đầu/ Nhiều người giờ quên hết/ Nên có gửi gì đâu?/ Thôi thì đành chịu vậy/ Có gì vĩnh cửu đâu/ Dẫu có là vua chúa/ Thời gian cũng xóa nhàu..." (Tháng Bảy, Rằm tháng bảy 2016). Còn nữa, song thôi, để trở về các đề tài khác trong thơ Phạm Duy Đức...
         
Mùa thu và Em, mảng đề tài này chiếm già nửa thơ ông. Cũng đúng thôi, mùa thu là mùa của xúc cảm thi ca, và Em thì cùng vậy, nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn. Trong thơ mình, Phạm Duy Đức thường mượn cớ mùa thu để nói về em, để gửi gắm tình yêu thương vô bờ bến. Mùa thu và Em nhập vào nhau, hòa quện, không thể tách rời. Có thể kể tên hàng loạt bài thơ như thế: Vẫn đợi thu em, Thao thức, Em cứ hẹn, Một nửa, Hằng mong, Thu, Đừng đợi em về, Đi bên mùa thu, Gió ngày xưa, Mùa thu và em, Không chăn, Mấy nhịp cầu phao, Tình em, Ngủ đi em, Thêm một mùa thu.v.v... 
Tôi nhặt nhạnh một số câu thơ hay và gợi trong màng đề tài này, như "Trời thu thì dày/ Lá thu thì mỏng/ Đường thu thì xa/ Chân em bé bỏng/ Thuyền em nhỏ nhoi/ Hồ thu thì rộng/ Anh đi bên em/ Tình thu mơ mộng.../ Em là tiếng lá/ Anh là tiếng gió / Ta cuốn trong nhau/ Bay trong mùa thu..." (Đi bên mùa thu); "Em đi nắng dạt về chiều/ Hoàng hôn rụng xuống lần theo gót người/ Lòng anh gió cuộn, mây vùi/ Con tim nuốt nghẹn nói lời đơn côi/ Thôi đừng đi nữa người ơi/ Để anh mắc cạn một đời sông em!" ( Mắc cạn); "Sét đánh từ lâu/ Không thể chết/ chính là điều bất hạnh/ Em bỏ anh đi / khác gì sét đánh/ Lưỡi tầm sét em nằm/ trong lồng ngực anh đây!" ( Sét đánh)... "; Theo gót ông Nghè Yên Đổ đi câu/ Chỉ thấy lá vàng bay vèo trong gió/ Ô nhiễm môi trường, suối sông ngầu đỏ/ Cá chết hết rồi, ta đi câu mùa thu" (Đi câu mùa thu) ;  "...Sáng sáng mình ta trở dậy/ Sân vườn hoa cỏ xác xơ/ Chăn gối phồng như rơm rạ/ Xác những nỗi buồn đêm qua..." (Thêm một mùa thu); "...Cái rét giêng hai, rét thì con gái/ Nắng thì non non tựa phấn mầu/ Đêm hai đứa, hai phương trời gần lại/ Ta mãi còn rét ngọt ở trong nhau..." (Rét ngọt); "...Cứ ngỡ lòng thành cuội trắng/ Trở về với bến Hoàng Giang/ Tình xưa giờ thành quá vãng/ Người xưa đã chết vội vàng/ Cứ ngỡ lòng thành hoa gạo/ Đỏ trong cái rét Nàng Bân/ Đã qua những ngày ảo nảo'/ Tháng ba ngực núi xanh dần..." (Cứ ngỡ); "...Vần mờ - em gió heo may/ Vần sờ - sương khói mây bay trắng lòng/ Vần bờ - duyên phận đèo bòng/ Vần hờ hững lắm chờ mong chi nhiều..." (Lục bát chấm com); "Ao đời giờ chẳng còn em/ Tôi như con ếch im lìm bóng cây/ Bao giờ cho đến heo may/ Tôi chui vào lỗ đọa đầy qua đông..." (Ao đời)...
Phạm Duy Đức là người có khiếu hài hước, trong đời sống và trong thơ. Để ý, người xứ Thanh, quê hương của Trạng Quỳnh, các văn nghệ sĩ như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Định Ngọc Diệp, Trịnh Tuyên... ít nhiều đều có chất uy-mua trong mình. Đối diện chuyện trò hay đọc thơ Phạm Duy Đức, cảm giác qua gương mặt tỉnh queo, như chẳng có gì quan trọng cả, lại ẩn chứa sự tinh ranh, hóm hỉnh... Cứ rủm rỉm, khúc khích không thành tiếng, ông tửng tưng buông ra. "...Trời mà còn lúc thoáng qua/ Huống chi anh, mới xa nhà đã quên" ( Chợt ). Ông nói về nỗi đau khổ mà thế này đây: "Em biết không, có con diều đang lộn/ Sợi dây mong manh phía cuối trời/ Ở nơi ấy có một người đau khổ/Khóc con diều kỳ diệu đang rơi. Con diều ấy một thời ta khao khát/ Anh cầm giây mắt em hướng lên trời/ Cứ tưởng gió cứ đưa diều lên mãi/ Có ai ngờ diều lộn thế em ơi...(Diều giấy); Và đây nữa, về nỗi buồn: "Bướm vàng say trái mù u/ Người xa nhau cũng gật gù nhớ mong/ Gió buồn thổi những đường cong/ Ta buồn cám cảnh ăn đong xế chiều.../ Tình giờ còn có bao nhiêu/ Mà em đỏng đảnh mỹ miều làm cao/ Một khi bạn với trăng sao/ Là vênh gẫy cả con sào đẩy đưa.../ Về đi em để mây mưa/ Sấm lòng anh lại mới vừa nổi lên." (Hình như). Cũng có khi Phạm Duy Đức cười, cái cười không ra tiếng: "Các cụ thi nhau đánh bóng hơi/ Nắng Thu nhuộm đỏ cả khung trời/ Trộ nơi khe hở …Ôi! ông dúi/ Thấy quả nâu non…Úi! mụ bồi/ Phi mạnh sâu luôn gồng sức đẩy/ Ưỡn thân hất ngược cũng thường thôi/ Bao lần cọ sát mồ hôi đẫm/ Trái bóng chuyền hơi lắm chuyện cười " ( Chiều nay)...
Ngay cả khi ông buồn thật, muốn trải lòng cho nhẹ bớt, như than thở đôi câu, nhưng rồi, chất uy-mua ấy vẫn len vào: "Mùa thu chưa rụng xuống hiên nhà/ Nỗi lòng man mác chốn trời xa/ Thương đôi cánh vạc gầy guộc nhỏ/ Nửa này làm vợ, nửa kia bà.../ Đêm đêm tai mắt luôn thao thức/ Một mình một bóng độc ẩm trà/ Hình như hàng xóm ai vừa dậy/ Quyét ngõ chi mà sớm quá ta?" ( Thao thức); và đây cũng vậy: "Đêm khuya vắng lặng bóng nguyệt mờ/ Tà tà tây trúc dáng lửng lơ/ Chú Cuội ỉu xìu như đuối nước/ Chị Hằng mơn mởn vẫn đương tơ' Trần gian giam hãm thằng cu gáy/ Thượng giới mở tung cái gà lờ " ( Trăng tà ).
Rồi có khi, lại thấy Phạm Duy Đức nhẩn nha dạo quanh ngõ xóm, xem làng nước ra sao, mà bông lơn: "Đa làng/ Đổ bóng giếng làng/ Rễ / bậc thang xuống/ cho nàng rửa rau/ Bãi làng tằm nhấm lá dâu/ Giếng làng tôi nhấm một câu tỏ tình/ Cái duyên/ cái phận/ cái tình / Giếng làng/ ôm cái tỉnh tinh của làng..." (Giếng làng); Và đây : "Em vào vụ cấy chổng mồng mông/ Lận đận cả ngày ai biết không .../ Xoạc cẳng lăm xăm mươi ngày ngấm/ Lăn dài cả vụ ngước mặt trông..." ( Vụ cấy); Thêm nữa: "Họ đi đánh dậm mãi cũng quen/ Bùn đục, nước trong dẫm thành đen/ Khom lưng, gò ruột thì thụp nhún/ Ưốn cật, oằn mình cố nhấc lên / Lươn dài xục sát bờ hang tối/ Trạch ngắn lê xem rọi ánh đèn / Chỉ biết quên thân tìm chỗ níu/ Cảnh đời luồn lách thế mà nên.." (Cũng quen), v.v...
Lại có lúc, Phạm Duy Đức tự nhủ lòng mình, rằng cứ thản nhiên cho qua, cứ xem như một tiếng cười nhẹ, rồi ra việc gì cũng quaa hết: "Hôm qua chân bước qua cầu/ Bỏ rơi mất cả nỗi sầu đang đeo/ Tình giờ ai giữ mà neo/ Đáy sông góc bể thả vèo cho xong/ Tình giờ ai đợi mà mong/ Ôm chi cho nặng cõi lòng ai đây/ Mai sau qua khúc sông này/ Thương con mắt đỏ cá Chày không em? " (Tình rơi); và "Cứ đợi mãi/ Qua đêm/ lại sáng/ Rồi đêm sau/ Chạng vạng/ đêm sau.../ Chờ em/ bạc cả mái đầu/ Bài thơ/ móm mém/ ngàn câu/ sai vần/ Đời anh/ Đã lệch cán cân/ Còn bao trọng lượng/ đổ dần/ cho em! " (Lệch cán cân)...
Cứ thế, bằng cái phép thắng lợi tinh thần kiểu AQ này, Phạm Duy Đức đã chiến thắng. Mới hay rằng, tinh thần là quan trọng hơn cả, một khi đầu óc đã thông, cái lòng cũng sẽ yên và mọi chuyện đều qua tuốt!... Phạm Duy Đức đầu trí với bản thân mình, khác nào khi xưa Trạng Quỳnh đấu trí với Nhà Chúa?!...
Có thể nói, Phạm Duy Đức đã chơi thơ và ông tự chủ được cuộc chơi này, Nhưng, với bệnh tật thì lại khác, ông đã không chiến thắng được nó. Đúng ra, ông không thắng được số mệnh để ở lại trần gian mà rong ruổi cùng cuộc chơi với thơ ca ... 
Song tôi nghĩ, người thân và bạn bè xứ Thanh, cùng bạn văn chương, có thể lựa chọn trong vốn liếng thơ ca của ông, làm thành một tuyển tập thơ Phạm Duy Đức, để những bài thơ ấy, không chỉ tồn tại ở không gian ảo. mà hiện hữu trong đời sống dưới dạng ấn phẩm, đặng lưu giữ chút tình thơ Phạm Duy Đức gửi lại ?!... 

 

 

 

Nữ bác sĩ mê văn chương

( Chân dung văn học bác sĩ Trương Thị Mầu )

 

Vào chiều muộn ngày 30 tháng 4 năm 2020, trên trang Facebook cá nhân, nữ bác sĩ người dân tộc Mường-Trương Thị Mầu, Giám đốc Phòng khám đa khoa Lương Điền, huyện Bá Thước, tinh Thanh Hóa đã viết một tâm sự ngắn như sau:

Lại một ngày như thế.

Lẽ ra hôm nay là ngày vui vẻ (30/4) gia đình cũng tổ chức một bữa tiệc mừng ngày đất nước thống nhất. Kết thúc buổi chiều chuẩn bị tắm gội và nghỉ ngơi thì “Bác ơi có bệnh nhân cấp cứu”- một thanh niên bế một cô gái máu me bê bết đầy quần áo, mặt trắng bệch. Chợt nghĩ hay bệnh nhân chửa ngoài tử cung. Siêu âm kỹ không phải, cô gái cam đoan cháu không thể có bầu đâu bác ạ. Chắc là cháu xuống kinh nhiều nên choáng thôi, Huyết áp tụt. Với trực giác có gì không ổn, “Để bác khám sản cho cháu nhé”. “Cháu không khám đâu, cũng không thể truyền dịch được vì lâu quá, cháu phải về vì chỉ xin phép bố mẹ đi chơi một ngày thôi, cho cháu xin đơn thuốc về điều trị”. Mình cho tiêm trợ lực, cô ta vào nhà vệ sinh bị xỉu luôn, cậu con trai bảo cứ truyền dịch cho cô ấy bác ạ. Đúng như tôi dự đoán, cô bé bị chấn thương đường sinh dục rất phức tạp. Cậu con trai ấp úng “Chúng cháu... lần đầu..  Bác ơi, bây giờ phải chuyển tuyến hay làm sao bây giờ. Chúng cháu sợ quá”/ ”Bác sẽ khâu cho cháu, vì chuyển tuyến chỉ cần chảy thêm chút nữa là kiệt máu chết đấy, bác sẽ tiêm giảm đau, tất nhiên vẫn đau nhưng chịu được. Cháu có thể suýt xoa, khóc nhưng không được giãy giụa nghe chưa”. Vừa hồi sức vừa đánh vật, khẩu trang, mồ hôi, kính mờ, mắt cay, hẹp, ánh sáng nhập nhoè, mình già thật rồi, gần 2h ba bác cháu tôi mới hoàn thành ca phẫu thuật. Truyền gần 3 chai dịch, uống bịch sữa cô ấy dần tỉnh táo trở lại, nhưng rất mệt mỏi, tôi lấy 2 lát sâm ngâm mật ong cho cô ấy nhai rồi hỏi chuyện/ “Bác ơi có ảnh hưởng gì tới chuyện có con sau này không”/ “Không, nhưng về tâm lý thì cậu phải vượt qua một số chuyện”. Thì ra cô ấy, 23 tuổi, tốt nghiệp đại học sư phạm văn, đang chờ việc, đi chơi với người yêu. Mình bảo cô giáo gì mà bé thế, cô ấy bảo tại dạo này cháu bị áp lực lo lắng xin việc, lo thi công chức, cô ấy sút 7kg từ 50kg còn 43kg. Lần đầu tiên đi chơi xa với người yêu, hẹn cuối năm cưới.. Cậu là người có học, lại học khoa văn mà thiếu kiến thức về kỹ năng sống thế sao. Cả việc stress do chưa xin được việc nữa, mới 23 tuổi đầu. Rất nhiều người học đại học đi xuất khẩu lao động, vào làm việc trong các công ty cậu biết không . Trong lúc theo đuổi mục tiêu chính cậu cần phải trải nghiệm trong cuộc sống, Thử làm bất việc gì miễn là kiếm ra tiền, đừng phạm pháp là được, thất bại cũng không sao, cuộc sống sẽ dạy ta phải làm gì để tồn tai. “Bác nói chuyện thật thú vị”, cô ấy cười, cũng xinh. Rồi cô ấy nói: “ước gì cháu mạnh mẽ được như bác. Hôm nay bác không chỉ cứu mạng cháu mà bác còn cho cháu hiểu ra nhiều điều. Cám ơn bác rất nhiều”/”Điện thoại của bác đây, cần gì hỏi sau, truyền xong chai dịch có thể về, không cần cám ơn, đừng làm phiền bác, bác mệt rũ ra rồi”. Nhớ lại cách đây 3 năm cũng dịp 30/4 mình cũng xử lý một trường hợp tương tự, chỉ có điều cô bé mới học lớp 11, còn hôm nay là một cô giáo. Buồn. Những ngày 30/4 không vui nhưng cũng không hề dễ quên chút nào..”.

          Tôi mở đầu câu chuyện về một bác sĩ mê văn chương lại bằng chính câu chuyện của người bác sĩ đó về một chuyện không liên quan gì đến văn chương cả. Song tôi nghĩ, ai đó đọc câu chuyện bác sĩ Trương Thị Mầu vừa kể đây, sẽ hiểu ý nghĩa và giá trị nhân văn của nó, mà theo tôi, lý tưởng nghề nghiệp này đã khởi nguồn và dẫn dắt nữ bác sĩ theo đuổi con đường văn chương như một phép tu thân dưỡng tâm, tích đức, gột rửa tinh thần ?...

          1. Bác sĩ, nhà thơ Trương Thị Mầu.

          Sinh năm 1958, tuổi Mậu Tuất tại xứ Mường, chòm Măng, Lương Ngoại, Bá Thước Thanh Hóa, Trương Thị Mầu những mong ước học hành trở thành bác sĩ, để chữa bệnh cho bà con dân tộc Mường của mình. Theo học Y Khoa Thái Bình, tốt nghiệp, nữ bác sĩ trẻ người Mường giữ đúng lời hứa với lòng mình, trở về xứ Mường quê mình công tác. Năm tháng trôi qua, tận tụy công việc, Trương Thị Mầu trở thành giám đốc Bệnh viên đa khoa Bá Thước và được phong danh hiệu Bác sĩ ưu tú. Không an phận, thấu hiểu việc chăm sóc sức khỏa cho người dân vùng núi xa xôi hẻo lánh là cần thiết, khi nghir hưu, Trương Thị Mầu thành lập Phòng khám đa khoa Lương Điền tại quê, tự mình làm giám đốc và bác sĩ trưởng, tiếp tục sự nghiệp khám chữa bệnh cho người dân quê mình.

          Sinh ra trong chiếc nôi văn hóa Mường, thấm đãm bản sắc văn hóa dân tộc minh, Trương Thị Mầu yêu văn học và sáng tác thơ văn, xem văn chương như thuốc dưỡng tâm, dưỡng đức cho nghề y và cuộc sống của mình. Viết truyện, làm thơ như một cach ghi nhật ký. Cứ vậy, lâu ngày, tích lại nên gia tài nho nhỏ và hơn thế, Trương Thị Mầu trở thành nhà thơ của xứ Mường. Chị là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, hội viên Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy có viết một số truyện ngắn, truyện ký, song Trương Thị Mầu là một nhà thơ đúng nghĩa. Đến nay, chị là tác giả của 5 tập thơ: Nghiêng (2006). Bóng núi (2007), Mùa dậy sấm (2009), Người dưng (2012) và gần đây là Nương bóng nhà sàn,

          Đọc thơ Trương Thị Mầu, thấy sự nhất quán, điều này có nghĩa, xuất thân và nghề nghiệp để dấu ấn đậm nét trong tho ca,

         

2. Dấu ấn nghề y trong thơ văn Trương Thị Mầu,

          Mầu chuyện tôi trích ở phần đầu bài viết này chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện hàng ngày mà Trương Thị Mầu ghi chép lại. Trên cơ sở những câu chuyện có thật rất chi sinh động ấy, chị chỉ cần lựa chọn, đẩy lên, gia công là thành truyện ký, truyện ngắn.  Khi cảm xúc dâng trào, thì thành thơ.

Một, hai, ba...cố lên, tim đã hồi!
Nhanh nữa lên, một hai ba: thở rồi
Thở đi em, sâu vào, mạnh nữa
Cho không khí ùa vào bầu phổi...

Máu cỉa em đang hồng trở lại

Đôi môi em thắm dần thôi tím tái

Và mắt em chớp chớp mở choàng

Bài thơThở đi emnữ bác sĩ kể chuyện, Thấy rõ, niềm vui vỡ òa sau một ca cấp cứu thành công, trào dâng thành câu chữ vần điệu. Mộc mac như câu nói thường tình nhưng đầy cảm xúc. Nhung rồi, đâu có được nghỉ ngơi để tận hưởng niềm vui:

Thày thuôc nắm tay nhau cười... ứa lệ

Bình tĩnh lại đi tiếp tục ca mổ nhé,

Còn một sinh linh đang đợi chào đời...

Ngay đó, người bác sĩ lại lao vào ca mới:

“Hãy đón lấy đây, mooyj bé gái/ Nhanh nhanh lên lại ấn thở, bóp tim/ Thở đi con,/ Kìa,/Thở đi con gái,/ Tiếng oa/ Vỡ òa.../ Thành ánh bình mình !”.

Lúc ấy, người bác sĩ mới cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ khi mình vừa đem sự sống đến cho người khác:

Hạnh phúc nào hơn người thầy thuốc

như những thiên thần được chắp cánh bay lên,

Để có những tâm sự nặng nỗi niềm nghề nghiệp trong thơ văn của mình, Trương Thị Mầu đã gửi gắm ước mơ xanh từ ngày còn là sinh viên trường y cùng thày bạn, trên giảng đường. khi thực tập va cả buổi đầu cuộc đời bác sĩ của mình.

Chẳng thể nào quên ca mổ đầu tiên

Thiếu thuốc mê, thiếu người phụ mổ

Bệnh nhân đau đứt đoạn từng hơi thở

Qua khỏi rồi thầy thuốc khóc rồi...run.

Có một thời dịch dã liên miên

Thầy thuốc bệnh nhân sắt se nghèo đói

Mái nhà tranh ánh đèn dầu le lói

Lửa bập bùng xua lạnh lẽo đêm đông.

Dẫu có thế, đâu ngại khó ngại khổ, một khi đã thề cả cuộc đời theo nghề y nặng lời thể Hypocrat:

Ai nhớ ai quên một thời đã sống

Nước sông đục ngầu đánh phèn, lọc, lặng

Pha dịch truyền bằng muối biển đường ăn.

Mối tình đầu rồi cũng lãng quên

Cuộc sống ngặt nghèo lo âu toan tính,

Với nghề y tôi là người lính

Mỗi chặng qua rồi, tiếp tục hành quân.

(Ước mơ xanh)

Tôi  rất thích những tản văn bắt nguồn từ các chuyện thật trong công việc nghề y hàng ngày của Trương Thị Mầu, chân thực, ưu tư, cảm động và nặng nhân văn... (nhu Niềm vui có thật, Day dứt, Nhìn cái chết....). Trong tản văn Duy dứt, chị tâm sự rằng, hết thày công việc trong quá trình hành nghề y của mình, chị không nề hà gì, song vẫn thấy nản nhất là phải tư vấn hoặc tự tay giải quyết các ca “vỡ kế hoạch” (có thai ngoài ý muốn). Ngại và nản, không đơn thuần công việc chuyên môn, mà vì tính chất công việc, là do ý nghĩ đang làm cái chuyện “giết người có chủ đích” có sự thỏa thuận đôi bên, đối tương và bác sĩ hành nghê. Kết thúc tản văn, chị kể câu chuyện “Tối qua lại có một cô bé mới 22 tuổi chưa chồng, được mẹ đưa đến khám vì đau bụng, hai mẹ con cười nói ồn ào, khi SA mình phát hiện cô bé đã có thai 4 tháng, được thông báo cả 2 mẹ con tròn mắt ngạc nhiên, sau phút sững sờ người mẹ chửi con, người con cãi mẹ chuyện om xòm. Người mẹ hỏi là của thằng nào, người con bảo không nhớ chắc là do con say rượu. Thế đấy. Cô bé nằng nặc đòi bỏ thai, người mẹ nài nỉ. Mình thấy chán chường và mệt mỏi quá không buồn tư vấn hay giải thích gì nữa. Chỉ nói: nếu còn muốn sống thì đưa cô bé đến bệnh viện phụ sản ở đó người ta sẽ nói nên làm gì. Thấy mình quát to 2 mẹ con thôi cãi nhau lẳng lặng lên xe ra về. Một trận mưa rào đổ xuống, lòng mình ướt sũng như mưa!..”.

          Còn hơn sự day dút, ấy là “nhìn cái chết” mà chẳng thể làm gì, ngoài sự bất lực. “Nói đến cái chết thì ai cũng sợ, nhưng thực chất là sợ cái gì thì lại không rạch ròi được. Có lẽ là sự cô đơn, lạnh và không chia sẻ được cùng ai.Rồi thì trách nhiệm, bổn phận chưa hoàn thành, nào là nuối tiếc vân vân và vân vân. Nhưng cũng thật kỳ lạ phải nói là kỳ diệu mới phải, bài điếu văn nào thì người chết cũng tỏa sáng lung linh, những câu chữ tốt đẹp nhất giành ca ngợi người chết. Đặc biệt các nhà văn nhà thơ chỉ thật sự nổi tiếng khi đã chết rồi. Có những bản thảo khi còn sống đã gõ cửa khắp nơi chẳng ai buồn đăng khi chết rồi chợt thành cái rất hay ho. Nên cái chết nhìn về khía cạnh nào đó cũng mang lại điều kỳ diệu. Mọi người cũng nói nhiều đến việc sống hướng thiện chết bình thản. Nhưng có lẽ quan sát nhiều cái chết nhất là các bác sỹ khoa hồi sức cấp cứu còn gọi là khoa điều trị tích cực. Mình cũng không nhớ hết được đã cứu được bao nhiêu người khỏi tay thần chết nhưng cũng không nhớ hết được đã vuốt mắt đưa tiễn bao nhiêu người sang thế giới bên kia...”. Chị đã viết vậy trong tản văn “Nhìn cái chết”.  Có nhiều lần bất lực “nhìn cái chết” nhu vậy, bác sĩ Trương Thị Mầu mới thấy niềm vui khi cứu sống được bệnh nhân nó lớn lao thế nào. “Đã 5 ngày trôi qua kể từ khi cấp cứu thành công ca bệnh nhân TTĐ 50 tuổi bị ngừng tim ngừng thở mình vẫn không tin được là bệnh nhân có thể qua khỏi, sống được và tỉnh táo trở lại, thật kỳ diệu lắm thay. sáng 1/11/2013 phòng khám tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng ngừng thở, da vàng ệch, nghe không thấy nhịp tim, đồng tử giãn căng.... Bọn mình đã khẩn trương cấp cứu, chỉ trong vòng 1 phút tất cả các thao tác vừa bóp bóng trợ thở có o xy, ép tim ngoài lồng ngực, bơm trực tiếp Adrenalin vào buồng tim, các động tác nhịp nhàng chính xác và ăn ý, 2 phút sau tim đập trở lại, 5 phút sau sắc mặt dần hồng lên, đúng 15 phút sau bệnh nhân dã tự thở được, 30 phút sau các chỉ số sống đã tương đối ổn định,...”. Ở tản văn, “Niềm vui có thật”, nữ bác sĩ mở đầu bằng câu chuyện có thật tại bệnh viện mình phụ trách. Và chị kêt tiếp câu chuyện, khi bệnh nhân cần chuyển tiếp lên tuyến trên hỗ trợ sau cấp cứu ban đầu, đúng lúc bệnh viện thiếu phương tiện, chị đã dùng xe riêng của mình, và cũng chỉ dám hy vọng bênh nhân sống sót nhưng có thể sẽ phải sống cuộc đời thực vật phần đời còn lại, không ngở, bệnh nhân đã hồi phục sau mấy ngày điều trị tích cực. Niềm vui lan tỏa, chị tâm sự “Mình thấy vui quá chừng. Từ khi về hưu chỉ có chuyên tâm đọc sách và chữa bệnh mình thấy bàn tay mình như có hồn, trái tim mình hòa đồng với nỗi đau của người bệnh, mình thấy cuộc sống đáng yêu quá. Ai nói về hưu thì không vui. Niềm vui có thật và thật sự là vui!...

         

3. Dấu vấn văn hóa Mường,

Gái bản Mường, mấy từ ấy thật gần với dáng vẻ, cử chỉ và cách nói năng, ứng xử chân thành, mộc mạc của Trương Thị Mầu. Như cái cách người ta hay dẫn câu thơ của Hàn Mặc Tử “người thơ phong vận như thơ ấy”, Trương Thị Mầu là người mang chất Mường bẩm sinh, và chị cũng đã mang được nét văn hõa Mường vài thơ ca mình. 

Khác nhà thơ lớn tuổi cùng quê xứ Mường với mình là Ma Bích, Trương Thị Mầu chưa hẳn nhăm nhăm chủ trương thể hiện và bảo vệ bản sắc Mường một cách quyết liệt, song chất Mường sẵn có ở con người chị, nên biểu hiện trong thơ một cách vô thức và cả ý thức nữa. Là người xuất thân ở xứ Mường, nhưng công việc hàng ngày làm chị thoát ra khỏi xứ Mường của mình, thêm bản tính quàng giao, đã làm nên con người Trương Thị Mầu. Chất Mường không thật sâu đậm, nhưng cứ phảng phất đâu đó trong thơ chị, khiến người ta nhận ra và không thể quên được.

Chất Mường ở đây, chưa thật rạch ròi, song trước hết trong ngôn từ, cách diễn đạt tự thân mà có, rồi sau là ý thức tìm kiếm và chủ định biểu đạt, từ lời ăn tiếng nói đến phong tục tập quán vào thi ca...

          Bài thơ Ảo ảnh, Trương Thị Mầu kể chuyện tình Mường, song có lẽ, chị mượn cớ vậy để đánh thức người con gái Mường trong chính bản thân mình:

Tôi đi tìm em , cô gái Mường ơi

Đôi mắt nâu ẩn hiện sau vòm lá

Tìm về bến xưa nơi con đò già mơ ngủ

Đập nước đã dâng đầy sóng đuổi sóng lao xao.

Một em gái bản Mường chính hiệu “ em gái khéo tay/ đánh cồng, dệt lụa, vá may thêu thùa..” mà từ lúc còn nhỏ, rời bản đi học trường xa, nhưng đã vượt khó :Thương nhau từng bữa cơm nghèo/ Canh môn, rau sắn cheo leo bản Mường...” ước một ngày kia có kiến thức cao, giúp bản ích đời,...

Bài thơ Thượng du là một bài đậm nét Mường:

Nhớ em ngược lại Cành Nàng

Nhớ luồng Thiết Kế nhớ vàng Lũng Cao

Tìm em em ở nơi nao

Có thương chọn hộ cành Đào làng Son

Chọn thêm đôi vịt phố Đòn

Mùa Xuân trẩy hội tung còn Mường Khô

Nhớ hè cùng tắm thác Mơ

Lưng ong váy thắm bây giờ ở đâu.

Lung linh bóng nước soi cầu

Nhớ thuyền độc mộc nhớ câu phiền lòng

"Nhất Suội, nhì Cả, ba Long"

Nhớ người năm cũ gò lưng chống bè

Xưa rồi một bến sông quê

Bức tranh cổ tích theo về mai sau...

Và bài thơ Mường Ống cũng là một bài như vậy:

Ngoảnh mặt lên Mường trên

Thấy bà Da Dần phân năm phân tháng

Bà gánh xường đi bán

Qua Mường Ống đứt quai

Qua Mường Ai đứt gánh

Để gái Mường trên giỏi xường

Trai Mường dưới giỏi mo...

Về Mường Ống một lần đi anh

Cùng em tìm lại vết tích cây Chu đá

Có còn không những lá Chu đồng

Trên đồi Lai Li Lai Láng

Mây trắng ngút ngàn Pù Luông xanh...”

Kể lể vậy, cũng chỉ để nuốn khoe xứ Mường quê mình”

Chỉ muốn anh cảm nhận

Có một xứ Mường trăm mến ngàn thương...”

Còn trong bài thơ “Phố huyện”, Trương Thị Mầu ý thúc trước sư nhạt phai chất Mường trong hiện thực đời sống xã hội khi mà làng bản Mường mình đổi thay trong cơn lốc đô thị hóa, diện mạo thì “nửa làng nửa phố”, còn con người thì “nửa tỉnh nửa quê”: “Cô kia gái bản chưa chồng/ Nay đi trên phố tay bồng nách mang/ Con đường phố rộng thênh thang/ Có còn nhớ bản nhớ làng suối xa?” Liệu có còn không cái tình cái nghĩa, và cách ứng xử chan hòa gần gũi mộc mạc của dân tộc mình, khi mà cố niu giữ: Sau nhà vẫn bụi trầu cay/ Trước hiên vẫn cái điếu cày cây cau/ Mưu sinh còn lắm cơ cầu/Vẫn không quên nếp trước sau của làng”?

Thương nhất, bài thơ Bà ơi, lá rụng về nguôn. là lời tạ lỗi trước mộ bà, vì mình chẳng thể níu giữ Mường lại cho bà,

Trời mênh mang nước mênh mông

Ngổn ngang con với cánh đồng tuổi thơ

Vẫn dòng sông của ngày xưa

Nấm mồ đằng đãi nắng mưa của bà

Tưởng như còn đó chưa xa

Bà đang  đánh chuyện Nàng Nga Nàng Ờm

Lom khom thổi cái nùn rơm

Nướng ngô lùi sắn đồ cơm xứ Mường

Lưng còng vác nước ống bương

Bờ sông dốc đứng con đường tuột trơn.

Khói hương tỏa bóng chập chờn

Con như một kẻ vô ơn với bà...:”

 

Chỉ cần để ý tên các tập thơ của Trương Thị Mầu thôi, trong 5 tập đã xuất bản, thì có đến 3 tập (Bóng núi, Mùa dậy sấm và Níu bóng nhà sàn) biểu hiện ý thức bảo tồn không gian văn hóa dân tộc của chị. Nếu như thời mới làm thơ (Bóng núi, Mùa dậy sấm), dấu ấn văn hóa Mường còn chưa sâu đậm và ít nhiều mang tính vô thức, thì đến Níu bóng nhà sàn, tâm thức hướng về cội nguồn dân tộc và nỗi nềm một ngày kia, bản sắc văn hóa Mường trong cộng đồng dần phai nhạt, đã dồn tụ, biều hiện thành ý tú, câu chữ, thông điệp... Trước tiên là ký ức tuổi thơ ở bàn: “Trải bao nắng sớm chiều tà/ Đất còn in dấu chân ta thuở nào /Khúc này xúc hến mò nga/ oBờ kia nhặt lá ép vào trang thơ...” (Dòng sông tuổi thơ); Rồi đến thứ văn hóa vật thể là cái nhà sàn Mường ở bản từng mấy đời gia đình chung sống nay sắp bị phá bỏ để xay cái nhà lầu kiểu phố: “Trưa vóng Đông cha ngồi đan lưới/ Chiều vóng Ngang mế ngồi dệt cửi,/ Đèn con vịt thơm thơm dầu bưởi/ Tiếng thoi đều đều, tiếng mế nhẹ êm/ Bà Dạ Dần hiện trong giấc ngủ hằng đêm....”(Níu bóng nhà sàn). Rồi trách cứ các em sống ở bản mà không giữ nối căn nhà sàn của cha mẹ để lai “Giận các em sao lại bán nhà sàn/ Xây nhà hai tầng dưới chân núi Khú/ Ngày khánh thành đông hơn ngày họp họ/ Buồn một mình ký ức dở từng trang..: Cố mà không giữ được, níu cũng chẳng thể, thì chỉ còn tự xoa dịu, an ủi lòng mình bằng nỗi nhớ mà thôi ”Tôi lớn lên giữa chiều rộng chiều dài/ Biển Bắc trời Nam, biển người, ngơ ngác/ Như con nai lạc rừng xao xác/ Níu bóng nhà xưa tôi nhớ lối quay về...” (Níu bóng nhà sàn)....

Tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ Trương Thị Mầu, còn khá nhiều câu chữ, ý tứ mang chất Mường, nhưng chị không phải là người nệ cổ, cứ khư khư níu giữ, hay đau đáu nỗi niềm về chất Mường phôi pha trong đời sống xã hội hiện đại. Trương Thị Mầu là người có kiến thức và trải đời, nên đã biết thoát ra, vươn đến những giá trị khác từ sự phát triển mang tính tất yếu.

Có những điều bình thường giản dị, song có khi người ta phải đi gần hết cõi con người mới nhận ra, Trương Thị Mầu cũng vậy.

“Nhưng chắc chắn ta chính là sự sống

Con của mẹ mình cháu của ông ta

Là cha mẹ của con mình sinh ra

Là cụ kỵ của đời đời cháu chắt

Không thể khác chẳng bao giờ kết thúc.

Cội nguồn ơi xin một chốn đi về...” (Điều bất tử)

          Hay như, trong các bài Nghỉ hưuNgười đàn bà sáu mươi tuổi, Trương Thi Mầu ngộ ra rằng:

          Ồ thảnh thơi

Qua chặng đường khó nhọc

Buồn gì đâu

Có ai hát khải hoàn... ...

Từng chặng một

Cứ mải mê leo núi

Chiếu nghỉ dài

Thôi thả sức nghỉ chân.

Sau lưng mình

Khép lại những phù vân. (Nghỉ hưu)

 

“Người đàn bà sáu mươi tuổi tư duy bằng trực giác

Thấy rõ ràng cái điều xưa học mãi  không hiểu,

Trong vô thức có một ước mơ cưa quậy

Một con đường như lộ dần nét vẽ

Một niềm tin dồn nén sáu mươi năm

Một hiện sinh tự nó đã nảy mầm.

Người đàn bà sáu mươi lại quẩy gánh lên vai

bước tiếp..” (Người đàn bà sáu mươi tuổi)

 

Điều ấy, khiến chị khác với nhà thơ Ma Bích, một nhà thơ của bản làng đậm đặc chất Mường. Và cùng với Ma Bích, Trương Thị Mầu đã thêm tiếng nói Mường, góp phần đưa chất Mường trong thi ca vượt ra khỏi vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, làm nên sự phong phú nghệ thuật của các dân tộc thiểu số Việt Nam. ./.

 

Nhả báo Trịnh Bá Ninh &

căn phòng ở P16 Thụy Khuê

 

          1.

         Căn phòng ấy rộng vừa 9 m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày xưa”, nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện của ngày xưa !...

         Căn phòng rộng vừa 9 m2 ấy là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.

Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều lần nhắc đến tên anh, trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên nhắc lại đôi chút, để bạn đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba người, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời phổ thông với nhau, lứa học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ (1972-1975). Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3 Nam Sách (Hải Dương), cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương () để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975), thì có thêm tôi, và Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số người khác nữa. Sau này, thân thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4 người (Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh-Nguyễn Chu Nhạc- Nguyễn Việt An).

      Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của tỉnh Hải Hưng (), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên giới Tây Nam, giải phóng Campuhia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.

         

Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ đô và công việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu dạt phương xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để ba chúng tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.

      Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó, Trịnh Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu, mặc thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các bộ ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc gia đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan. Vẫn không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá Ninh cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2 trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa, ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy rồi.

      Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập thể của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là kiến trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là chuồng nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời Tây, đầu thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên P16 Thụy Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ Nông nghiệp đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu P16 Thụy Khuê làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.

       Cơ ngơi vừa 9 m2, ấy là cơ đồ giang sơn của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh ở với nhau thì đâu có gì đáng nói. Cái chính, đây là nơi đi lại, tá túc của không biết bao nhiêu người thân và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng anh em ruột thịt thì đủ hai bên quê, nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương), nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây); bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông nghiệp … thêm bạn bè của M cũng lắm. Có những ngày cao điểm, căn phòng 9 ấy (9 mét vuông), người ngủ đêm, trên giường dưới nền vừa đúng 9 người, bình quân mặt bằng, 1 người/1 m2, và để bớt ngột ngạt, đủ dưỡng khí cho từng ấy con người hít thở, cửa ra vào mở toang. Mở của như vậy, hoàn toàn yên tâm, không sợ trộm, bời vì, khu P16 an ninh tốt, nếu có trộm vào nhà, kiểu gì cũng đụng chạm vào người, và cuối cùng, trộm có khéo đến mức không đụng chạm vào ai thì trong nhà cũng chẳng có gì mà lấy... Có vê hài hước, nhưng sự thực là vậy...
      Nhân sự thưởng xuyên hay thi thoảng tá túc căn phòng 9 của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh cũng đáng nể lắm. Nổi tiếng và đáng nể nhất là nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cặp đôi bạn bè Nình-Khoa có chút đặc biệt thân tình hơn người khác chút, ở chỗ, cùng quê Nam Sách (Hải Dương); cùng học Trưởng cấp 3 Nam Sách (tuy khác lớp); và cùng Đội tuyển học sinh giỏi Văn tình Hải Hưng () thi Kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975). Trần Đăng Khoa vốn nổi tiếng, anh quan hệ rộng và có khá nhiều người quen ở Hà Nội, và thế, anh có nhiều nơi chốn để lui tới, mỗi khi anh về Hà Nội, tuy nhiên, đến đâu thì anh cũng phải giữ kẽ, thậm chí, phải diễn chút, song khi về căn phòng 9 ấy, anh hoàn toàn tự do, tự nhiên như anh là chủ vậy, ăn uống, ngả ngốn, kềnh cang, buôn chuyện, "hồn nhiên như cô tiên"... Vi thế, mà có cả một quàng thời gian dài, dù là đi chiến trường C, dù vê Hải Quân, hay sau này đi học tại Đại học Gorky (Liên Xô), thì mỗi khi đặt chân về Hà Nội, căn phòng 9 của Trịnh Bá Ninh cũng coi như "giang sơn" của Trần Đăng Khoa vậy. 
       Lui tới đây thường xuyên, cũng phải kể đến, nhà báo Nguyễn Sĩ Bình (nguyên Phó Cơ quan đại diện báo Quân Đội nhân dân tại Tp. Hồ Chí Minh, vốn quen biết với tôi và Trịnh Bá Ninh từ thời cùng học ở Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội). Cùng ở báo Quân Đội nhân dân, hay lui tới căn phòng 9 ấy, có nhà thơ Mai Nam Thắng và Nguyễn Đình Xuân. Với Nguyễn Đình Xuân, khi mới về nhận công tác tại Báo QĐND và tập tọng làm thơ, vốn quê Nam Sách với Trịnh Bá Ninh, vào cuối tuần Nguyễn Đình Xuân thường đến căn phòng 9, chuyện thơ phú, gửi bài cộng tác, rồi lân la làm quen với cô con gái mới lớn xinh xắn của vị hàng xóm chung vách với căn phòng 9, và trở thành con rể của vị hàng xóm này. Nói vui, thật "lãi mẹ đẻ lãi con"...
       Ngày ấy, những chàng trai chưa vợ, nói chung, đều ước muốn có được một tổ ấm bé nhỏ như thế, vậy nên, lui tới đây, để có được một chút cảm giác yên ổn, ấm áp gia đình. Những Trần Đăng Khoa, Mai Nam Thắng, Nguyễn Đình Xuân và tôi là khách thường xuyên của căn phòng này. Và đã là khách, thì cơm nước, rượu chè, thậm chí ngủ lại là chuyện thường. Vợ chống công chức, lương ba cọc ba đồng của thời bao cấp, lo đủ ăn đã vất vả rồi, lại thêm đám khách thường xuyên không mời mà đến như cánh anh em bạn bè độc thân chúng tôi, không lo sao được. Ấy vậy mà, Trịnh Bá Ninh xem như không có gì, còn Mai, vợ anh, thì lúc nào cũng tươi như hoa, có khách đến nhà là quý... Cỡm bữa, ngoài rau dưa, có hai món thường trực, ấy là lạc rang và đậu rán. Lạc rang, nghề nông nghiệp, xem như món "nhà giồng được". Gọi vậy cho vui, chứ thực ra, để có lạc, Mai phải nhận lạc củ về bóc vỏ, trả nhân, phần dôi ra thì để làm thực phẩm chính. Tiện cái, lạc nhân để cả vỏ lụa rang mặn để ăn cơm, còn khi có khách, lạc nhân rang lên, thề là có đồ nhắm, đưa cay đôi ba chén rượu quốc lủi. Thi thoảng, có trứng và cá. Cá mua tem phiếu, toàn cá biển, cá nục ướp là nhất rồi, còn lại toàn cá đồng tiên, thân mỏng toàn xương, nhưng kho nồi áp xuất, nhừ xương, chịu khó nhai kỹ, cũng bùi và ngon đáo để. Đại loại vậy. Gần như bữa cơm tối nào, nhà cũng có khách. Sau này, để thêm thắt thu nhập, Mai nuôi gà công nghiệp, và thế, Ninh lại phải vận dụng mối quan hệ, nhờ cậy, mua được ít cám gà. Đã có lần, thức ăn cho gà hết, Ninh bận đi công tác, nhờ tôi cầm giấy giới thiệu đi nhận cám gà thay anh... 
       Những năm tháng ấy, thiếu thốn và nghèo, nhưng mà vui, thứ giàu có nhất, là tình người. Tôi là người qua lại và tá túc ở đấy nhiều nhất, nên thấu hiểu điều đó. Thời kỳ tôi còn công tác ở Bảy Núi, An Giang, hầu như năm nào cùng đi phép, qua lại đây thường xuyên. Không những tá túc, ăn nhờ ở đậu nơi căn phòng 9 ấy, Trịnh Bá Ninh còn động viên và giúp tôi viết bài cộng tác các báo, anh còn đưa tôi đi gặp gỡ, làm quen với một số nhà báo, nhà văn đã thành danh, đặng đưa tôi vào bầu không khí báo chí, văn chương để tôi lấy đó mà cố gắng, không bỏ cuộc. Kể cả khi tôi đã xin được về Đài Tiếng nói Việt Nam làm báo chuyên nghiệp, thì cảnh nằm bàn cũng ái ngại làm sao. Vậy nên, qua lại đây, vẫn luôn cho tôi cảm giác tin cậy và ấm cúng gia đình. Tôi biết ơn vợ chồng anh vì tất thảy những gì họ làm cho tôi... Trịnh Bá Ninh có bản tinh hài hước, nên ảm giác, chẳng khó khăn nào là quá sức anh, chẳng có gì là không thể vượt qua. Giờ nghĩ lại những bữa cơm đạm bạc, nhớ lại những câu nói hài hước của Trịnh Bá Ninh, mà anh bạn Việt An hay lấy ra đùa, "nhà chật có cái hay, mình cứ ngồi giữa nhà, quờ tay ra là lấy được mọi thứ", mỗi khi nhắc đến thời gian khó ấy, tôi lại rân rấn nước mắt... 
       Cùng hay qua lại căn phòng 9 ấy, còn có Nguyễn Tuấn Phong (hiện là Phó trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương), rồi PSG.Ts Nguyễn Hữu Sơn (Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam), PGS. Ts Trịnh Bá Đĩnh (Viện Văn học VN), anh ruột của Trịnh Bá Ninh. Ngoài ra, tôi còn loàng thoáng gặp những người yêu văn chương, tập tọng viết lách lai vãng ở căn phòng này, mà sau này họ đều trờ thành  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam như Đặng Vương Hưng, Nguyễn Thanh Vân...  Giờ đây, mỗi khi chúng tôi ngồi với nhau, lúc trà dư tửu hậu, khi nhiều người đã thành danh và cao tuổi cả rồi, hay nhắc lại "chuyện ngày xưa" thì hầu như, chuyện về căn phòng 9m2 ở P16 Thụy Khuê ấy luôn là trung tâm của mọi cầu chuyện. Tôi biết, còn có một vài người, ngày ấy, khi họ mới tập tọng báo chí, văn chương, nhưng ở tỉnh lẻ, mỗi khi về thủ đô, cũng ghé thăm và tá túc nơi căn phòng đó, nhưng sau này, đã thành danh, giàu có ở Hà Nội, họ đã quên chuyện về căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, và lẽ dĩ nhiên, cũng "quên" cả chủ nhân của nó. Chuyện đời là vậy, chẳng trách mà làm gì, nhưng chạnh buồn!... Có lần, chỉ hai người với nhau, tôi nhắc đến vài cái tên đó, Trịnh Bá Ninh phảy tay, cười bảo: "Ông vẫn còn nhớ à? Tôi thì quên lâu rồi ông ơi... Nhớ chả để làm gì...". Ừ, cứ quên như vậy mà lại hay!...
       Có một chuyện, anh bạn Việt An định cư ở thành phố Hổ Chí Minh, không biết đã từng ghé căn phòng 9 ấy chưa, hay chỉ nghe kể, cứ đùa rằng: "Căn phòng như vậy, lúc nào cũng đông người tá túc, thế mà không hiểu vợ chồng nhà này, loay hoay thế nào vẫn đẻ được cậu con trai bụ mẫm, khỏe mạnh". Là đùa vui, nghĩ cũng thấy hay hay, cu cậu bụ mẫm ấy, nay đã là tiến sĩ dược học đang làm việc ở Mỹ, và nghe đâu, đề tài nghiên cứu khoa học mà cậu ta tham gia là thuốc chữa HIV.
      Căn phòng 9 m2 ấy, dường như ám ảnh và theo đuổi Trịnh Bá Ninh mãi, bởi sau dăm, bảy năm ở đây, anh đổi nhà, chuyển nhượng lại cho một cặp vợ chồng già hưu trí, mua một căn hộ khác nằm sâu tận cùng một ngõ hẹp tối om ở phố Nguyễn Khuyến, và thật trùng hợp, căn hộ này diện tích mặt bằng cũng chừng 9 m2 thôi, nhưng bù lại, nó được chồng 3 tầng, vị chi tổng diện tích dưới ba chục mét vuông... Lại thêm một lần chuyển đổi nữa, nhà mới rộng. Nhưng khi nhà rộng, lại chỉ có hai vợ chồng hưu với nhau, bởi cả hai đứa con cùng nghiên cứu và du học ở Mỹ. Thêm nữa nhà rộng thì khách lại thưa, bởi vì giờ đây, bạn bè, người thân, ai cũng có nhà cửa và gia đình riêng của mình. Thu xếp mãi, may ra, năm chỉ một đôi lần đến nhà nhau ăn cơm... Ăn uống, tiệc tùng gì thì mời nhau ra quán...
       Căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, cùng với những vị khách không mời mà đến ngày ấy, đã là quá khứ. Dù chưa lâu, song xem như đã thành chuyện cổ tích !?... 

          2.

          Tự thân yêu văn chương, lại là người làm báo, thậm chí có hơn hai chục năm làm quản lý báo chí, và bạn bè lui tới, vây quanh toàn là dân văn chương cả, chẳng lẽ, Trịnh Bá Ninh không viết lách gì, là nói riêng về khía cạnh văn chương mà thôi ?

          Nói như vậy, là vì mọi người chưa từng thấy Trịnh Bá Ninh công bố tác phẩm văn học nào của mình, hay như, bạn bè bàn luận gì về một tác phẩm văn chương nào của anh...

          Ngay từ năm 1975, khi mấy đứa chúng tôi ở Lớp Bồi dưỡng học sinh giỏi văn của tỉnh Hải Hưng (Trần Đăng Khoa, Nguyễn Chu Nhạc, Nguyễn Việt An và Trịnh Bá Ninh) hay chuyện trò về văn chương với nhau, đọc cho nhau nghe những sáng tác mới của mình, Trịnh Bá Ninh, ngoài việc thuộc khá nhiều thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh ... thì anh còn đọc thơ của mình. Giờ tôi còn nhớ, ngày ấy, anh có bài thơ Viên gạch ra lò mà Trần Đăng Khoa rất khen bởi ý tứ hay. Được biết, sau đó bài thơ này của Trịnh Bá Ninh được lựa chọn vào Tuyển tập thơ của tỉnh Hài Hưng (cũ). Hồi đó, như thế là vinh dự lắm rồi. Sau này, trừ Trần Đăng Khoa đã thành danh, nổi tiếng thế giới, vào bộ đội và theo duổi sự nghiệp sáng tác văn học, thì mấy đứa chúng tôi chẳng ai theo học chuyên ngành về văn học cả, mà toàn học chuyên ngành kỹ thuật, Nguyễn Việt An học Cơ điện, tôi và Trịnh Bá Ninh học Nông nghiệp, nên có yêu văn chương đi chăng nữa thì cũng chỉ sáng tác nhì nhằng cho vui thôi.

          Ngay từ thời học sinh, sinh viên, Trịnh Bá Ninh đã thích thơ mang tính triết lý, đấy cũng là lý do để thấy, anh yêu thích thơ Chế Lan Viên hơn thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên dài, có tính triết luận, khó đọc, khó nhớ, vậy mà Trịnh Bá Ninh thuộc lòng, đọc vanh vách. Ngày ấy, các nhà thơ trẻ mới nổi như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Hoàng Nhuận Cầm ... thì Trịnh Bá Nình cũng thích và thuộc khá nhiều bài, nhiều câu thơ hay của nhứng nhà thơ này. Có cảm giác, Trịnh Bá Ninh thích tính triết lý trong thơ, song không phải sự triết lý khô cứng hay trúc trắc, mà phải ẩn giấu trong những câu thơ giàu hình ảnh, sự liên tưởng và nhạc điệu...

          Yêu thơ, nhưng sớm bước vào nghề báo, ngay từ khi tốt nhiệp đại học, năm 1981, Trịnh Bá Ninh đã về đầu quân cho tờ báo của Bộ Nông nghiệp, nên anh phải làm công việc của một phóng viên, nghĩa chuyên viết về tài nông nghiệp, nông dân và nông thôn (Tam nông). Có lẽ, một tâm hồn nhạy cảm, yêu thơ và công việc làm báo đã pha trộn, kết hợp lại trong anh, để Trịnh Bá Ninh chọn một thể loại nửa văn nửa báo, ấy là bút ký và ghi chép. Anh tỏ ra rất mạnh về thể loại này. Chính vì thế, Trịnh Bá Ninh đã vài lần đoạt giải cao cuộc thi bút ký do Báo Văn nghệ, bào Tiền phong và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức. Tiếc là, Trịnh Bá Ninh sớm làm công tác quản lý, nên bận bịu với việc tổ chức tòa soạn và biên tập bài vở nên ít dành thời gian cho viết lách. Anh trở thành vị Phó Tổng biên tập của tờ báo ở vào thời điểm được bổ nhiệm là trẻ nhất làng báo Việt, và giữ chúc vụ ấy suốt 24 năm, cho đến lúc nghỉ hưu. Người như anh, cũng là hiếm có, 36 năm làm báo trong đó có 24 năm là Phó Tổng biên tập và chỉ ở một tờ báo, từ lúc bước chân vào nghề, cho đến khi nghỉ hưu. Thực ra, Trịnh Bá Ninh đã từng có thời điểm, muốn rời bỏ tờ báo Nông nghiệp, không phải anh không yêu tờ báo này, mà cũng chẳng phải anh chán mảng đề tài Tam nông, để chuyển công tác sang Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN), bởi anh muốn thử sức mình trong lĩnh vực văn chương, mà anh yêu thích và thực sự có năng khiếu. Thế nhưng. nghiệp đời không cho anh cơ hội ấy, nghĩa công việc văn chương và báo chí chuyên về văn học nghệ thuật. Tôi nhớ, ngày ấy, Ban lãnh đạo Ban biên tập Văn học nghệ thuật Đài TNVN (Ban VHNT) là các nhà thơ Trần Nhật Lam. Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh và nhà văn Trần Nguyên Vấn đã rất khoái Trịnh Bá Ninh và nhất quyết nhận anh về đầu quân.  Nghĩ  rằng, Trịnh Bá Ninh sẽ có một bước ngoặt trong cuộc đời, ai dè, đúng vào thời điểm ấy, một tình huống mới nảy sinh. Ây là, một nữ giáo viên, người chuyên sáng tác thơ thiếu nhi, từng có nhiều năm là cộng tác viên của chương trình phát thanh Văn học thiếu nhi, sau khi bỏ nghề giáo để theo học Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp trường này, bày tỏ ý muốn được về công tác tại Ban VHNT Đài TNVN. Một tình thế khó xử. Biết chuyện, Trịnh Bá Ninh chủ động đặt vấn đề nhường chỗ, tức là nhường suất biên chế duy nhất được phân bổ của Ban VHNT, về phần mình chờ dịp sau... Và thế là, câu chuyện bị chuyển sang một hướng khác. Trong lúc chờ suất biên chế tiếp theo của Ban VHNT nhà Đài thì Trịnh Bá Ninh được tín nhiệm bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam và trở thành vị lãnh đạo trẻ nhất làng báo Việt ở vào thời điểm ấy. Và rồi, ở cương vị mới, Trịnh Bá Ninh lại phải tập trung trí tuệ, sức lực khẳng định mình. Và hơn thế, anh muốn cống hiến cho sự nghiệp phát triển Tam nông, mà anh hằng mong muốn. Chằng thế mà, người ta đồn là, anh đã từng thẳng thừng trả lời câu hỏi của một vị lãnh đạo Bộ chủ quản “Báo của Bộ lại cứ toàn đăng bài viết đánh Bộ mình là sao?”, khi anh chỉ đạo điều tra và đăng nhiều loạt bài chỉ rõ sự yếu kém trong công tác quản lý một số lĩnh vực thuộc Bộ-“Thưa đồng chí, báo nêu ra cái sai là để sửa... Tôi nghĩ, cần phải đặt quyền lợi của người nông dân lên cao hơn ạ...”. Đại khái thế. Có người bảo, phải chăng tính cương trực và sự quyết liệt chống lại cái sai trong lĩnh vực quản lý ngành chủ quan, mà anh không được vài ba vị lãnh đạo ưa, nên không thể lên đến cương vị lãnh đạo cao nhất của tờ báo? Đây chỉ là suy đoán, nhưng theo tôi, Trịnh Bá Ninh đã ứng xử đúng và anh đáng nhận được sự nể trọng của đồng nghiệp và hơn cả là bà con nông dân...

          Quan trọng hơn, cho đến thời điểm này, tờ báo mà Trịnh Bá Ninh từng có 23 năm làm Phó Tổng biên tập phụ trách nội dung, và ông cũng đã về nghỉ hưu dăm năm nay, đã có một ê-kóp lãnh đạo mới thay thế, trẻ hơn, tràn đầy nhiệt huyết, thì họ đều là những phóng viên thuộc cấp của Trịnh Bá Ninh, được ông dìu dắt một thời.... Sự ảnh hưởng của ông là rất hớn, có lẽ vậy, mà hiện nay, tờ báo này vẫn mang dáng dấp phong cách làm báo của ông,...

Nghỉ quản lý, Trịnh Bá Ninh không làm báo viết nữa. Ông chuyển sang làm báo hình, tham gia hội đồng tư vấn, thẩm định chương trình cho vài công ty truyền thông, và lên sóng giữ mực cho một kênh truyền hình. Lâu lâu, nhân nha đăng bài thơ trân trang cá nhân Facebook của mình...

3.

Tôi biết, nhiều năm nay, Trịnh Bá Ninh vẫn làm thơ, song ông không công bó trên báo chí hay xuất bản thành tập. Những bài thơ đó, vẫn năm đâu đó trong sổ tay, liwi trữ của bàn bè. Hoặc tháng, khi vui buồn lúc trà dư tửu hậu cùng mọi người, ông đọc ra như một sự trải lòng,...

          Một số bài thơ của Trịnh Bá Ninh mà tôi và bàn văn chương thích:

Tuổi hai mươi hãy yêu đi đừng đợi,

Trái cây rơi gõ xuống mặt thềm

Gõ vào tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi

Bạn đã yêu ở tuổi hai mươi. Khát khao, sôi nổi.

Ở tuổi hai mươi, nhìn vào mắt người con gái

Ngọn lửa cháy lên thành tiếng gọi

Tuổi hai mươi. Hãy yêu đi. Đừng đợi.

Và bạn đã yêu với cả cuộc đời mình.

Tuổi hai mươi trong lành như tia nắng ban mai

Mỏng mềm như chiếc lá mùa xuân

Và tình yêu như cơn gió thổi dọc cánh đồng.

Tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi

Lần đầu bạn yêu và thất vọng

Người con gái quay lưng với tình yêu tuổi hai mươi của bạn

Bạn chưa biết lo toan và gánh vác cuộc đời

Chỉ biết khát khao yêu đến vụng về ở cái tuổi hai mươi.

(1977)

Lời dặn bạn lúc chia xa

Tất cả sẽ lùi xa, bạn ơi
Những câu hỏi chẳng bao giờ mình hỏi
Để day dứt người đi,
và cả người ở lại,
Vẫn những cơn gió vô tình ấm áp suốt đời ta.

Sẽ chẳng có gì níu lại nữa, bạn ơi
Lá cây rụng trả màu vàng cho đất
Ngôi sao lặn cho bình minh tỉnh giấc
( Nhưng có cái mất đi chẳng để lại chút gì ).

Bạn chẳng giữ trong lòng những sắc màu lóng lánh lúc ra đi,
Hạt giống vỏ dày nhiều năm mới mọc
Chùm quả trái mùa dẫu nhiều vị chát
Mình vẫn nếm say sưa như chưa có bao giờ.

Đấy là những điều,
mình nói lúc chia xa.
(1981)

Dặn con,

Còn mình con trong ngôi nhà vắng

Nhớ khóc to lên cho nỗi sợ bốc hơi

Sẽ thấy bà tiên của muôn đời

Với đôi cánh diệu kỳ bà che chở con,

bay qua những vương triều vàng son và tàn lụi

Nơi những chiếc bánh ngọt là của phù thủy

Và bình nước lã sẽ biến một ông già ăn xin trên đường

thành người xoa dịu nỗi đau

Nhưng không thấy bóng hình mẹ cha đâu

Sáng: dậy sớm mang theo " cặp lồng "

Chiều: tính nhẩm tháng thừa hay thiếu.

 

Bạn bè cha đi qua chiến tranh

Đã bội thực vì món ăn cổ tích

( Sắc đẹp là yêu tinh

Rách rưới là thiên thần )

Cứ tin thế, những người không về nữa

Nhoi nhói cỏ sắc dưới chân

Những trái tim vùi trong đất đen

Không gõ nhịp vào tương lai

Để làm thành cổ tích.

(2. 1989)

 

 

Mẹ ( Tâm sự Thị Màu )

Cha con là ai ?

Cha con làm gì ?

Câu hỏi ấy mẹ mang vào ruột đất

Một mình con ngơ ngác

Trước bụi tre ngà đang nghiến răng.

Mẹ ơi !

Con không muốn sinh ra dưới dấu chân thiên thần

Để một ngày kia ôm ngựa sắt

Bay lên trời

Xa mẹ.

(6.1990)

 

Đò trăng

Ta trở về đông đã cuối mùa đi
Xuân mới chớm bến chiều quê hoang vắng
Gió vẫn thổi , hàng tre gà gật ngủ
Hoàng hôn đời buông xuống một đò trăng.

(07.2.2020)

 

Côn Sơn cảm tác,

Gió mơ hồ vuốt năm tháng xa xăm
Vườn cổ tích chúng mình 16 tuổi
Xin gửi lại ngây ngô cho lầm đường lạc lối
Côn Sơn chiều chớp mắt 45 năm
Bàn cờ Tiên tượng đá vẫn trầm ngâm
Ai dám bước những nước cờ uyên ảo
Ai biết được cờ tàn trong giông bão
Những phận người ngụp lặn Lục Đầu Giang

(01/3/2020)

 

 

Thu

I

Ăm ắp hương mùa Thu

Tím tràn qua ô cửa

Em của thời rất xa

Không về ngày xưa nữa

Dù anh còn ngọn lửa

Cháy vụn trời heo may

II

Ta đuổi bắt trong vườn Thu miên ảo

Quả chín căng nứt áo lá giao mùa

Sương khói dệt mắt mùa Thu trong mắt

Quãng nắng trầm âm mãi phím đàn xưa

III

Không còn nữa đoàn thuyền bẹ chuối

Cánh buồm xanh khát gió trước ao nhà

Ta từng nhốt mùa Thu trong tre trúc

Nhưng sáo diều vẫn giăng mắc đồng xa.

 

 

Gửi mùa hạ,

Thôi cứ mặc cho mùa hè xõa nắng

Cỏ vẫn xanh ngây dại trước hiên nhà

Không son phấn, mặt thời gian bạc phếch

Ký ức ngập ngừng , ký ức xót xa

 

Mùa hè ấy, mùa hè kỳ lạ quá

Trái cây rơi lõm mái rạ quê nghèo

Cá quẫy ao vỡ trăng non mùa hạ

Những mảnh vàng âu yếm với rong rêu

 

Sao nhanh thế. Mùa hè đi. Nhanh thế

Phượng còn kia rắc đỏ ngã ba đường

Đừng có hỏi vì sao ta níu giữ

Dòng sông nào giờ cũng hóa sông Tương

 

Vii đề,

 

Gió mơ hồ vuốt năm tháng xa xăm
Vườn cổ tích chúng mình 16 tuổi
Xin gửi lại ngây ngô cho lầm đường lạc lối
Côn Sơn chiều chớp mắt 45 năm
Bàn cờ Tiên tượng đá vẫn trầm ngâm
Ai dám bước những nước cờ uyên ảo
Ai biết được cờ tàn trong giông bão
Những phận người ngụp lặn Lục Đầu Giang

 

 

Cây trái – Đời người,

(Tuần đầu cha đi xa )

 

Khăn tang trắng, cây xôn xao mùa nắng

Mảnh nhỏ vườn hoang chim chẳng bay về

Mùi mít chín theo chân người khuất bóng

Người xa thật rồi khuyết một mảnh hồn quê

 

Đêm không ngủ nghe xoài rụng trái

Thậm thịch vu vơ như bước chân người

Tiếng tắc lưỡi của thạch sùng đêm vắng

Nhịp nhịp thời gian quay bánh luân hồi

 

Đêm không ngủ, hương đèn không ngủ

Cành phan đu đưa ảo ảnh mơ hồ

Trăng đỏ thẫm đúng một mùa Trăng máu

Tưới cây vườn đẫm một sắc tiễn đưa

 

Rằm tháng Tư, Tân sửu.

 

 

Có một ngày,

(Viết cho một nhà báo quên 21/6)

 

Có một ngày đã gợi nhớ một ngày

Mây trắng quá, trời sâu thăm thẳm quá

Mây lãng đãng hồn thơ Lưu Quang Vũ

Thơ tôi là mây trắng của đời tôi

 

Thơ của đời anh, mây của một thời

Trang giấy trắng, bút vạch đường " Nhân danh Công lý"

Trên cơm áo là nỗi niềm kẻ sĩ

Là thân phận dân oan vẫn đắm đuối kiếp người

 

Thời ấy anh ba mươi bốn mươi

Đã dám sống như những gì mình có

Không tạm ứng niềm tin, không mượn vay quá khứ

Trằn trọc bao đêm nghe sấm động chân trời...

 

*.**

Đừng rắc phấn vàng lên trang giấy em tôi

Mật đừng ngọt ngâm trong lời chim cú

Gian dối đã ngấm vào từng nhịp thở

Thì trái tim không đập nhịp Con Người

 

21/6/2021. Ngày Hạ chí

Thẩm thơ Trịnh Bá Ninh thế nào, xin được dành bạn đọc,...

 

SỰ THÚ VỊ Ở MỘT TRẠI SÁNG TÁC VĂN HỌC

 

          Đây là lần đầu tiên tôi dự một trại sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Có chút háo hức, tò mò của cái sự gọi là đầu tiên. Hơn nữa, Trại lại được tổ chức ở một địa danh, mà chỉ gọi tên thôi, đã gợi lên niềm cảm hứng sáng tạo rồi, Đà Lạt,...

          Ngoài vài ba khuôn mặt, cái tên quen biết ở Hà Nội, tôi có chút chờ đợi xem mình sẽ được gặp những ai trong số hơn nghìn hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, tham dự trại sáng tác văn học này.

          Tiết trời mùa thu Đà Lạt khá lạnh, trời chợt mưa chợt nắng, trước sau, đủ 25 thành viên, các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học lục tục có mặt. Được biết, trại sáng tác đợt này được Hội và Bộ chủ quản Nhà sáng tác ưu ái triệu tập đông hơn mọi lần (thường mỗi trại trước đây chỉ khoảng 15-20 thành viên). Hình như, năm nay, sau hai đợt cao điểm dịch Covid19, các nhà quản lý văn hóa có nới tay mà ưu ái hơn chút thì phải...

Nhà văn Võ Thị Xuân Hà được Hội cử đại diện cho Ban Sáng tác phu trách trại viết. Nhà phê bình Nguyên An được cử làm Trại trưởng, với sự trợ giúp của hai nữ Trại phó xinh tươi là nhà phê bình văn học Tôn Phương Lan và nhà văn Lê Hồng Nguyên.

Ngày ba bữa, việc của các nhà là đóng kín cửa phòng văn, và viết. Tuy nhiên, với cảnh sắc trời thu Đà Lạt quyến rũ làm vậy, dù đợt này có mưa nhiều do ảnh hưởng từ bão và áp thấp nhiêt đới trên Biển Đông, thì có nén đến mấy, cũng khó cầm lòng, không tránh khỏi phải bung cửa phòng văn mà rông ra phố, cà phê cà pháo, dạo quanh và la cà chợ đêm đôi chút. Tham quan thực địa cũng là một cách sáng tác mà.

Đợt này có mặt mấy vị cao tuổi là nhà văn Tô Hoàng, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, nhà văn Vương Tâm, nhà thơ Phạm Đình Ân, dịch giả Lê Đăng Hoan, nhà văn Nguyễn Hiếu... trẻ nhất là nhà văn Lê Hồng Nguyên thì nghe đâu cũng đã lên vai bà ngoại rồi.

Ngần ấy con người, nếp sống, thói quen sáng tác và phong cách văn chương mỗi người mỗi vẻ, sinh hoạt tập thể gần nửa tháng trời, dưới sự khéo léo và chân thành của người phụ trách là nhà văn Võ Thị Xuân Hà và Trại trưởng Nguyên An, mọi người quây quần chan hòa, ấm áp, thân tình như người một nhà...

Với các nhà thơ, quang cảnh thơ mộng của Đà Lạt và bầu không khí văn chương gợi mở, dễ lên men cảm hứng sáng tác tại chỗ, trong khi các nhà văn thì phần đông tập trung hoàn thiện hoặc chỉnh sửa, nhuân sắc các tác phẩm dài hơi của mình... Dự trại sáng tác, đương nhiên viết là trọng, song tôi nghĩ, việc giao lưu, đàm thoại về cuộc sống, về văn chương, nghệ thuật nói chung, kể cả việc tìm hiểu, để rồi cảm thông và chia sẻ cùng nhau những buồn vui trong cuộc đời mỗi nhà văn cũng quan trọng không kém, bởi ý nghĩa và giá trị nhân văn trong các tác phẩm văn chương của mồi người đều từ lòng mình mà ra ?!...

Nhà văn Tô Hoàng, người cao tuổi nhất (79) lại là người sôi nổi, nhiệt huyết bậc nhất. Ông đặc biệt thú vị và rất cuốn hút với những câu chuyện đầy bi hài từ thời chiến tranh chống Mỹ mà chính ông là nhân chứng, và nữa, các mẩu chuyện thuộc dạng “thâm cung bí sử” của nhiều nhà văn Việt Nam khi theo học ở Liên Xô cũ. Xem ra, ông còn nặng lòng với các chân dung văn học đang viết hoặc sẽ viết..,

Nhà văn Nguyễn Hiếu thuộc diện chăm chỉ bậc nhất, ngày hai buổi cặm cụi gõ phím chữ, song hành với một tiểu thuyết và một kịch bản sân khấu đang viết dở cùng về đề tài lịch sử là Khúc Thừa Dụ và Phạm Ngũ Lão. Riêng mỗi tối thì ông dành trọn cho thể thao, ăn uống qua quýt cho xong rồi nhanh nhanh chóng chóng về phòng đắp chăn dán mắt vào ti vi xem bóng đá Ta và quần vợt Tây, ai rủ đi đâu cũng từ chối.

Nhà văn-địch giả Lê Đăng Hoan luôn xởi lời và sắn lòng chia sẻ sự hiểu biết và những kiến thức của mình về ngôn ngữ và văn học Hàn Quốc. Triều Tiên, những điều mà không phải các nhà văn nhà thơ nào cũng biết.

Nhà thơ Phạm Đình Ân vẫn giữ được sự cần mẫn vốn có. Ông cẩn trọng, mực thước, rành rẽ trong mọi chuyện. Ông chu đáo tặng cho mọi người tác phẩm mới của mình-“Trong người có lá”, tập thơ dành cho tuổi thơ. Ở thời này, vẫn viết cho tuổi thơ là điều hiếm. Ông vẫn giữ thói quen viết tay mà không sử dụng vi tính.

Nhà thơ Phạm Xuân Trường, nghiện thuốc là khó ai bằng. Khi cao hứng, ông đọc các bài thơ đầy sự chiêm nghiệm của mình, cảm hứng sáng tác nhanh không kém việc ông xài hết vài bao thuốc lá mỗi ngày. Nhà thơ đất cảng Hải Phòng này tài hoa riêng có, ấy là sáng tạo tác phẩm gò đồng chân dung hàng trăm văn nghệ sĩ đất Việt mà ông quý trọng, yêu mến. Vào Đà Lạt, ông kỳ công mang mấy bức chân dung gò đồng là tác phẩm của ông để tặng cho người được ông khắc họa hiện đang sống ở đây.

Nhà văn Vương Tâm thì luôn bận bịu. Dường như lúc nào ông cũng đang mắc nợ trả bài cho ai đó, tờ báo nào đó một bài tản văn, bút ký, hay chân dung văn học. Những khi tỏ ra thư thái, ông có niềm vui uống trá Thái Nguyên đặc cắm tăm và rủ mọi người cùng thưởng bằng bộ ấm chén trà nhỏ xíu trong hành lý mang theo của mình. Nghe nói, ông có thú vui chơi và có bộ sưu tập ấm chén trà rất đáng nể.

Nhà văn Phạm Thanh Khương thì rất chi cuốn hút khi kể những câu chuyện liên quan đến lĩnh vực biên phòng mà ông từng nhiều năm công tác. Con người ông toát lên sự tháo vát, nhanh nhẹn và quyêt đoán trong công việc và cuộc sống. Ông rất am hiểu và chia sẻ cùng mọi người những kinh nghiệm, sự hiểu biết về văn hóa và tập tục của nhiều dân tộc  thiểu số miền núi. Ông dành tâm huyết cho một tiểu thuyết lịch sử đang viết dở, ấy vậy, trên trang của mình ở mạng xã hội. ông hay đăng các bài thơ ngắn, ý tứ hàm súc và ngôn từ mới lạ,... Phạm Thanh Khương rỉ tai vài người báo tin rằng sắp tới ông được tặng thưởng giải Nhì cuộc thi viết về đề tài Vì an ninh tổ quốc và sự bình yên của cuộc sống do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức.

Nhà văn Y Ban thành danh với các tác phẩm văn học của mình thì ai cũng biết, song có lẽ đây là lần đầu, nhiều nhà văn tham dự Trại sáng tác được biết thêm một cái tài nữa của Y Ban, ấy là hát chầu văn. Màn biểu diễn Cô đôi thượng ngàn của Y Ban hôm khai mạc Trại khiến mọi người ngạc nhiên thích thú,

Nhà thơ Đỗ Thị Tấc của vùng đất Lai Châu, Tây Bắc thì nhiều người biết đến với một phong cách thơ của người vùng cao dân tộc thiểu số, song ít ai rõ, nữ sĩ này người Kinh, quê gốc đất nhãn lồng Hưng Yên, chọn Lai Châu làm quê, yêu văn hóa Thái và hăng hái với công việc bảo tồn văn hóa Thái còn máu hơn cả người Thái xịn. Đến với Trại sáng tác này, Đỗ Thị Tấc luôn gây ra những trận cười sáng khoái, bởi chất tự nhiên hoang dã, hệt như một “gã đàn ông dân tộc thiểu số”. “Anh chàng” này còn tranh thủ kêu gọi quyên góp sách truyện, đặng tha lôi về quê, lập thư viện cho trẻ em vùng cao.

Các nữ sĩ của miệt vườn Tây Nam bộ là nhà thơ Song Hảo và Thu Trang khá thùy mị, kín đáo. Dường như ít bộc lộ quan điểm cá nhân, ngoài việc tự giới thiệu ngắn gọn về mình và đọc thơ trong buổi khai mạc Trại, thì các nàng có vẻ thu mình. Riêng nhà thơ Trần Thái Hồng mạnh dạn hơn, chịu khó giao tiếp, đọc thơ, tặng sách cho mọi người. Nghe đâu, Thái Hồng còn là một doanh nhân khá thành đạt. Việc tự cầm lái ô tô riêng từ quê nhà miệt Đồng bằng sông Cửu Long lên tới Đà Lạt, vượt chặng đường hơn 500 km thì cánh đàn ông cũng phải nể.

Các nhà văn Trần Thị Trường, Nguyễn Thị Anh Thư, nhà thơ Phạm Hồ Thu và nhà phê bình văn học Tôn Phương Lan vốn thân nhau đã lâu thì hay quây quần cùng người chị cả là nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn theo cái cách rất chi thân tình “chị em ta bánh đa bánh đúc” .

Riêng nhà văn Nguyễn Thị Phước vẻ ngoài hơi lạnh, khá kín đáo, ít nói, kiểu người hay suy tư. Nghe đâu, nữ nhà văn này từng một thời cầm trịch giới văn học nghệ thuật vùng đất Núi Hồng Sông Lam với chức danh Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An, Tổng biên tập Tạp chí Sông Lam và đã gặt hái được kha khá giải thưởng văn học. Vẻ ngoài vậy, nhưng khi trò chuyện lại ân cần. Khi hào hứng, sẵn lòng mời mọi người cà phê sáng hoặc thưởng vang Đà Lạt trong bữa ăn.

Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu và Trần Quang Đạo bám nhau như sam. Một ông, lâu lâu buông vài câu chủng chẳng, còn ông kia, một khi lên tiếng là như lên đồng. Một sự bổ trợ cho nhau. Hai vị này hay bỏ cơm Trại vì không hợp khẩu vị, ra ăn bên ngoài, thỉnh thoảng còn lôi kéo thêm lão gia Tô Hoàng đi cùng. Về thơ ca, cả hai đều có sự khẳng định mình, và có thể xem là hai giọng điệu thơ khác lạ... Trần Quang Đạo khá kín đáo, chẳng rõ đang nghĩ gì viết gì, còn Nguyễn Linh Khiếu thì đang nhuận sắc và đe sẽ sớm cho ra lò tập mới, về độ ngồn ngộn chữ nghĩa chắc cỡ ngang Phồn sinh...

Hồ Khải Hoàn (con trai của nhà thơ Hồ Khải Đại), một bác sĩ chuyên khoa nội tiết, toàn tài thơ và nhạc, và nhà văn Lê Hồng Nguyên (con gái nhà thơ Lê Hồng Thiện và phu nhân của nhà thơ Phạm Khải) là trẻ nhất trại, song về tuổi đời cũng trên dưới ngũ tuần cả rồi. Hai người đã đem đến Trại sáng tác ít nhiều sự sôi động trẻ trung.

Sự giao lưu của các văn nghệ sĩ ở Đà Lạt và các nhà văn Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hiện sinh sống ở đây, như nhà nhiếp ảnh Hà Hữu Nết, họa sĩ-nhà thơ Vi Quốc Hiệp, nhà thơ Vương Tùng Cương và một số văn nghệ sĩ khác đã đem đến Trại sáng tác luồng sinh khí vui vẻ, chan hòa. Hơn nữa, việc tổ chức tọa đàm về xu hướng sáng tác văn học hiện nay đã tạo cơ hội để các nhà văn bộc lộ mình, thể hiện cái nhìn khi đánh giá xu hướng chung và quan điểm riêng có về sáng tác văn học...

Vẫn còn nữa, những chuyện nhặt nhạnh từ Trại sáng tác văn học Đà Lạt 2020 có thể ra đây, nhưng xin dành cho dịp khác. Ngót nửa tháng tập trung ở Nhà sáng tác, mọi người đều gắng hoàn thành dự định của  mình. Trong lễ bế mạc, Trại trưởng Nguyên An đã tổng kết, đặng đưa ra nhận xét, đánh giá tóm tắt, báo cáo kết quả lên Hội Nhà văn. Song có một điều, nằm ngoài mọi báo cáo, ấy là các nhà văn đã có một quãng thời gian đủ để hiểu thêm về nhau, để trở nên thân tình hơn trong cuộc sống, và đặc biệt, sự giao tiếp và đàm thoại văn chương ở Trại sáng tác, vô hình chung đã kích hoạt sự sáng tạo tiềm ẩn, sự gợi mở mới lạ trong mỗi người lên nhiều lần. Để rồi, sau đó, sẽ có những tác phẩm văn học hay được khởi nguồn từ các Trại sáng tác như thế...

Những điều này, nhà thơ Trần Nhương, Trưởng trại sáng tác văn học 2020 của Hội Nhà văn Việt Nam ở Đại Lải dịp hè vừa qua, cũng bày tỏ sự đồng tình.

 

 

 

 

VÕ QUẢNG, NIỀM CẢM HỨNG VĂN CHƯƠNG

 

 

Sáng nay, một sáng đầu đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...

Chương trình văn nghệ sáng cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....

Ngày đi học ở quê, tôi đã say mê đọc truyện "Quê nội" của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài, "Đội du kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão...

Với riêng tôi, nhà văn Võ Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về điều đó...

Hơn chục năm trước, tôi có vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt Nam đóng chân ở Đà Nẵng, nên có điều kiện qua lại nhiều lần vùng Đại Lộc, Quảng Nam. Đây là quê hương của nhà văn Võ Quảng, vùng đất mà ông nhớ thương suốt mấy mươi năm "ngày Bắc đêm Nam". Vùng đất này thật tươi đẹp, trù phú bình yên bên con sông Thu Bồn nên thơ. Thảo nào, những năm xa quê đằng đẵng ấy, ký ức tuổi thơ đi học đã cho nhà văn Võ Quảng cảm xúc thương nhớ dạt dạt và sự thôi thúc để ông bảy tỏ ra mặt giấy..;

Vậy mà với ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến,...

Vô tình, chuyện về ông lại thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên lề, nhưng ồn ào, xôn xao, ì xèo này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi !...

 

 

Mấy dòng tiễn đưa Nguyễn Huy Thiệp

theo cánh hạc về trời

 

 

  Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất một bức ảnh, không rõ ai chụp. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường ngày, nét hiếm thấy ở ông !?...


          Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019, rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu đáo,

Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....

Tôi và mấy bạn văn chương tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & cuộc sống vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn, khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội viết và đọc trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm tôn vinh cho cả người chết và người sống...

Có một điều, tôi để ý, nơi sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...

Trở về sau đám tang nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phàm cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?

Phê bình văn học của Nguyễn Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chim. Trò chuyện với hoa thủy tiên. Còn tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ những ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...

Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự: "Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo trình tự thời gian xuất hiện của hai nhà văn tài danh này nà thôi. Tôi không coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...

Rồi tôi và anh bạn Gia Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa...

Tạm dừng ở đấy chờ kể tiếp !...

 

Hà Nội, 25.3.2021

 

 

Đọc lại Xem đêm

đậm nét diện mạo Phùng Cung,

 

 

          Những ngày xuân tháng giêng Tân Sửu, đúng thời điểm dịch Covid 19 bùng phát lại, cầm chân không du xuân lễ hội đâu được. Ở nhà, viết và đọc sách giải khuây. Tôi đọc lại tập Xem đêm của Phùng Cung.

          Số là, từ hơn chục năm trước, tôi đã tình cở mua được tập thơ Xem đêm lần xuất bản đầu và đọc thấy thích. Rất thích là đàng khác. Tôi đã viết tiểu luận  “Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung”, gửi đăng báo. Sau đó, tôi phát triển thành chân dung văn học “Phùng Cung, người tôi chỉ biết qua thơ” (in trong tập Trời đất thu hay lòng ta thu, Nxb Dân trí 2016). Trong những lần đàm đạo văn thơ cùng bạn bè, nhiều lần tôi khen tập thơ Xem đêm, khiến mọi người tò mò mượn đọc, vì thế mà thất lạc. Tôi tiếc lắm. Trước tết Tân Sửu, tôi nhờ người quen mua được tập Xem đêm, bản mới do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Sách in đẹp và phần nội dung có thêm Phụ Lục với các bài viết của Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm về thơ văn của ông, còn có cả truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trình, mà vì nó Phung Cung đã dính án văn chương ngày nào...

          Đọc lại, vẫn nguyên cảm giác thú vị, nhưng đằng sau câu chữ, vấn điệu, còn thấy được ý tứ sâu xa về thân phận con người nói chung và thân phận với nỗi cay đắng riêng ông.

          Trong bài viết này, tôi không nhắc lại những gì đã nói, đã bàn ở các bài viết trước, như việc khắc họa một nông thôn Bắc bộ điển hình một thời xưa cũ khốn khó còn chưa xa; hay đâu như sự ngộ ra, để rồi tự an ủi, răn mình mang tính thiền định, kinh kệ nhà Phật,,,

          Ở đây, tôi muốn đi sâu tìm hiểu sự ám ảnh, hàm ý về một thân phận bị dập vùi mà vẫn gắng gỏi ngoi lên, loe lói sáng như muốn chứng ninh cho sự trong sạch của bản thân...; và không thể không nói đến một điểm mạnh, ấy là nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian thơ của Phùng Cung,

          1. Có lẽ, trong tập tho này, khó có bài thơ nào hàm súc, ám ảnh, ấn tượng hơn bài Trà: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Nó thể hiện nỗi niềm về thân phận, sự kiên định, ý chí, bản lĩnh và cả khao khát khẳng định sự thanh sạch của bản thân tác giả.

          Có thế thấy, hàm ý về nỗi niềm thân phận bị vùi dập, ý chí, bản lĩnh muốn khẳng định sự thanh sạch và khao khát vượt lên số phận ẩn giấu trong nhiều câu thơ, bài thơ...

Ví như: “Thánh thần ơi/ Phải đâu nhật thực triền miên/ Ngày tối hơn đêm/ Đêm-vó-ngựa/ Quỳ gối chống tay/ Vẫn còn sợ ngã/ Mặt đất quá cheo leo” (Đêm vó ngựa); “Thương cây đào ốm/ Xuân về chẳng nở hoa/ Lá gày run gió lạnh/ Cây cũng có thời vận ư?” (Cây đào); “Trời đất uy nghi/ Xanh vĩnh cửu/ Chim bay hình thánh giá muôn phương/ Cung tên tạo hình thánh giá/ Bắn con chim hình thánh giá tử thương” (Vĩnh cửu); “Phận lấm/ Tối ngày đào khoáy/ Lưng nắng-vẽ/ Hoa văn tiền sử/ Chài chãi đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi” (Cua đồng); “Tổ tan/ Trứng mất/ Có trời biết vì sao/ Bỏ hót/ Chỉ kêu/ Mỏ run run rớm máu” (Con chích chòe); “Dông bão trẩy qua xóm nhỏ/ Giập gãy hết rồi/ Ngô độn chuối xanh/ Xì xằng qua bữa/ Kẻng thúc ngũ liên/ Săn lùng đào ngũ/ Chẫu mắt mù/ Nhìn-đóng-cọc vào đêm” (Giập gãy); “Trở giấc xem đêm/ Thiên hà ngọc vụn/ Gió thổi một mình/ Mặt đất tròng trành/ Ma hoa nhày múa” (Xem đêm); “Hệ lụy với tôi/ Là ăn là uống/ Miếng ăn miếng uống/ Hành hạ suốt đởi/ Mấy ai dám cả gan/ Đùa dai với đói khát” (Miếng sống); “Trái đất lênh đênh/ Chênh chênh mùa nắng/ Gió trĩu cành/ Tải bốn mùa cười khóc/ Sóng biển xanh/ Nát bóng hải âu” (Tâm tư);

Thậm chí, Phùng Cung còn cân nhắc. sắp đặt số phận mình, và cho cả cái chết của mình, nếu ông không được sống: “Vạn thuở hồn cỏ xanh/ Mặt đất thơ gắn bó/ Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người” (Ăn năn); “Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi phải sống/ Hẳn rôi còn được chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn sinh” (Trò chơi); “Mô hình tôi/ Một trẻ thơ/ Ngoạm củ ráy/ Đứng thẳng người trong xóm/ Quỹ đạo tôi/ Thư thái-loằng ngoằng/ Xó bếp-bở ao/... Khi tôi chết/ Tôi thèm cái lặng lẽ/ ... Nếu tái sinh/ Tôi chẳng ước ao gì khác/ Chỉ mong được như kiếp trước/ Xó bếp đói. No/ Bờ ao tắm mát/ Phận cánh cò/ Mưa-nắng-phong dao” (Thanh thản); “Nhập nhoạng đóm đèn/ Đêm chó mực/ Trạt mùi hạ nhục/ Già trẻ sụt sùi/ Ôm đầu số phận/ Cúi mặt nhìn ngang/ Nghe lanh chân nhang” (Đoàn viên)...

          Dẫu là “phận lấm”, dẫu có “xó bếp, bờ ao” hay “lênh đênh”, “ngày tối hơn đêm” di chăng nữa, thì với Phùng Cung, vẫn quặn thắt một nỗi đau đời-một khao khát vươn lên trên số phận: “Trăng qua song sắt/ Trăng thăm ngục/ Bỗng ta chợt tỉnh-sững sờ/ Trên vai áo tù/ Trăng và lụa/ Ngày xưa ơi!/ Xa mãi đến bao giờ...” (Trăng ngục); “Ai giùm tôi thủ tục làm vô tận/ Thỏa thích trải trời xanh cõi không cùng/ Tôi khao khát huy động/ Những chùm sao đẹp/ Đêm về lung linh chòm xóm nghèo sao” (Khát vọng): “Hỡi bầu trời/ Hãy rộng thêm nhiều nữa/ Để phi đoàn cất cánh/ Xếp đội hình thánh giá uy nghi/ Rộn rã chuông chiều/ Cất giọt mưa sa/ .../ Giải phóng những nếp nhăn/ Trên từng vầng trán hoài nghi” (Giải phóng); “Đêm khuya trằn trọc/ Tôi bắt gặp/ Mùa thiêng hoa chết/ Ngoại giới mưa bay/ Trong hồn tơi tả/ Trăng úa-đầy trời-lá rụng/ Không gian khát vọng khúc giải oan(Khát vong)...

          Chịu khó tìm nhặt, trong Xem đêm, vẫn đây đó những câu thơ hàm ý dạng này, nhưng tôi không sa đà, để khám phá nghệ thuật thi ca tài tình của Phùng Cung...

          2. Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem đêm thật tài tính.

          Có thể nhận định một cách ngắn gọn nhất, ấy là sự chắt lọc câu chữ, ý tứ hàm súc, ám ảnh, ấn tượng, không gian sống động, đầy thanh âm, hình ảnh, sắc màu, hương vị và trạng thái cảm xúc...

          Chắc chắn, ngày ấy, Phung Cung và cả chúng ta, không một ai biết đến khái niệm 3D, song tài tình thay, mỗi bài thơ trong tập thơ này đều như một cuốn phim ngắn 3D. Tôi chọn một số bài thơ để minh chứng cho điều này: “Mặt trời hạ-thổ/ Núi-giội-chàm/ Đò chuyến cuối/ Nhìn nhau nhọ mặt/Sữa con so ướt yếm/ Thơm-mùi-khoai-luộc/ Dốc bến tối gà/ Đom đóm rối guồng-tơ-lửa/ Nghe đêm trung giang thả-gió-gọi diều” (Chiều soi bãi); “Sương chiểu nghe-lạnh bước chân/ Khách áo cũ/ Tìm về bạn cũ/ Ai đốt rác lá tre bên ngõ/ Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm” (Khói cuối năm); “Chó sủa dông dài/ Giò chuyển canh/ Trái thị cuối thu/ Thơm mùi trăng-úa/ Ao khuya nước thở thì thầm” (Đêm cuối thu); “Thoảng mùi ruộng ải/ Thóc giống cựa mình/ Nắng vắt ngọn-tre-đuôi-én/ Đủng đỉnh điệu cu cườm/ Lạc nhịp-gió may” (Mùa gieo mạ); “Gió quẩn lùm ngỉa cứu/ Mùi ngộ cảm đầy vườn/ Chếch bóng chĩnh tương/ Con vằn say bả/ Hoa chuối tiêu lầm lũi/ tím Tam-giang” (Nôn nao); “Chó sủa làng xa/ Sủa gơn xóc ốc/ Sao diều ai hóc-gió/ ven sông” (Đêm ven sông); “Mảng rêu chiều nắng ghé/ mênh mông/ Con dế loanh quanh/ Tìm lại tiếng mình đêm trước/ Vườn hàng xóm ngổn ngang/ mùi khế rụng” (Chiều nắng ghé); “Oèng oẹc trời khuya/ Chim lợn xổ giọng hãi hùng/ Tôi nhìn sông/ Đầy ắp sao xanh/ Ngoằn ngoèo phun tím/ Lửa-hoa-đăng/ Rần rật rím-luân-hồi” (Sông đếm); “Mành rách gió lay/ Chim chích đu mình săn nhện/ Góc sân nắng hanh/ Lá mít rụng trờ mình-nghé bếp/ Chó hàng xóm/ Sủa cầm chừng vài tiếng/ Lỗi bước lên hè/ Guốc nằm chiếc ngửa chiếc nghiêng” (Nhà vắng);  vv ... vv...

Nhiều lắm, khó mà trích dẫn ra hết được. Bài thơ nào cũng kiệm lời, gạn đến mức cảm giác không có từ nào thừa cả. mỗi từ đều phải gánh một phần ý tứ. Về tư duy, hình thức thơ, có thể thấy, ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính hàm súc, tinh tế, ý tại ngôn ngoại của Đường thi, phong vị thiền và sự chắt lọc của thơ Haiku Nhật Bản, lại gần gũi thân thuộc của tục ngữ, ca dao Việt Nam,

Phần lớn, các bài thơ trong tập này của Phùng Cung là thơ tự do, câu ngắn, ngắt dòng liên tục. và nhiều câu được ngắt nối bằng dấu ngang ( - ), giàu nhạc điệu. Có bài là lục bát, hoặc thơ dạng bốn câu, nhưng được ngắt dòng, nên mới mẻ và ấn tượng. Ở vào thời ký ấy, có thể thấy, Phùng Cung đã rất ý thức trong việc cách tân thơ. 

Ví như: “Trăng lên/ hàm tiếu/ thẫn thờ/ Nửa chững trăng xế/ Chịu giờ mãn khai” (Hoa quỳnh); “Này em!/ Cây khế gãy rồi/ Nỗi chua vẫn hỏi thăm/ Người trồng cây” (Cây khế); “Chút lòng dây gấm khăn điều/ Cảm thương cái nhện/ Chiều chiều giăng tơ/ Không gian đứt nối sững sờ/ Khăn điều dây gấm/ Ngẩn ngơ mấy chiều” (Giăng tơ); “Dáng gày-đầy đặn-trữ tình/ Thuyền au đậu bến Lan Đình/ Trăng xa/ Tử sinh lỡ một lần ba/ Ruột tằm đau/ Mối tơ thừa gió bay” (Trăng xa); “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Dạt vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh” (Bèo); “Sen vàng từ thuở lên ngôi/ Bâng khuâng du khách/ Ngậm ngùi vần thơ/ Cồng chùa nhện mải giăng tơ/ Chuông thiêng ngân mãi/ Tiếng thừa trong không” (Chùa Kim Liên); “Lá súng lát mặt ao/ đếm ngọc/ Con sộp phàm vồ bão/ bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch/ Tiếng cuốc bèo da diết/ gọi ngày mai” (Ao con); “Bờ ao trưa gió lay lá cỏ/ Vang khẽ lời ru nhỏ xanh xanh***/ Cách cách giòn tan/ Con cào cào dội phách/ Khoe cánh điều/ Bay ngập nắng-bổ-cau” (Nắng bổ cau); “Cành xoan cu gáy đứng/ chào mùa/ Ung dung đổ lèo ba/ dõng dạc/ Mùi cơm mới/ Xoắn mùi cá kho nhạt/ Hoa cải thơm quấn quýt/ quanh làng. Một lũy thơm” (Lũy thơm),...

Đổi mới hình thức thơ trên nền tảng các thể thơ cũ bằng cách ngắt nhịp song vẫn giữ mạch thơ khiến người ta xem bằng mắt hay đọc bằng âm đều không thấy nhàm và vẫn dễ nhớ dễ thuộc.

Tuy còn chưa đi sâu phân tích nghệ thuật ngôn ngữ thơ, nhưng với bấy nhiêu thôi, tôi nghĩ, Phùng Cung đã có những đóng góp nhất định trong tiến trình đổi mới thi ca Việt Nam hiện đại !...

 

 

 

Thế nào là Thơ,...

 

Quả thực, tôi đã định làm ngơ, không bàn luận gì,...

Hôm nay, đã là ngày thứ ba kể từ khi Báo Văn Nghệ tổ chức lễ trao giải cuộc thi Thơ của mình,.. Mấy ngày qua, và vẫn tiếp diễn, người ta chê cười, nhạo báng, thậm chí xả vả ... cái Ban Giám khảo đã trao Giải Nhì (giải cao nhất) cuộc thi thơ kéo dài hơn 2 năm của tờ Báo danh giá bậc nhất của làng văn chương Việt. Nguyên do, vì đã quyết định trao giải cho chùm thơ 3 bài của tác giả Tòng Văn Hân (Mẹ tôi chửi kẻ trộm,Làm rể, Nhà trên nhà dưới). Chàng tác giả được giải này không có lỗi gì khi làm thơ dở. Lỗi là ở Ban Giám khảo kia, 

Đọc thơ được giải, rồi đọc các bài bình luận, những comment của Làng Phây, tôi tự hỏi: Thế nào là Thơ? Thế nào là thơ hay?...  Chịu, chẳng biết nói sao....

Những lời chê trách, nhạo báng có thể hơi quá, nhưng không sai. Tôi nghĩ là thế,

Công bằng mà nói, về ý tưởng, chúng có chất nhân văn... Nhưng thơ nào mà chẳng có chất nhân văn? ... Cười khuẩy,...

Xét về nghệ thuật thơ,... thì giả bộ ngô ngọng, nghi ngơ, không vần điệu... chẳng thật thà dân tộc như vị giám khảo nào đó nhận định (thực chất, láu cá, dân tộc giả cày),... Và dĩ nhiên, nó chằng có giá trị gì về nghệ thuật, đơn giản, đó không phải là Thơ!...

Chỉ buồn một điều, một Ban Giám khảo gồm toàn các nhà thơ nhà văn có tiếng là Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Bình Phương, Khuất Quang Thụy, mà lại quyết định như vậy, thì thử hỏi, thi ca xứ Việt mình lấy chuẩn mực ở đâu?...

Trớ trêu, buổi sáng tổ chức lễ trao giải tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, tôi tình cờ đến đấy, thấy người ta đang xướng tên các tác giả được giải, tôi không vào hội trường mà sà vào đám trà dư tửu hậu với nhà nhà văn nhà thơ Hà Phạm Phú, Minh Chuyên, Quang Hoài, Nguyễn Đức Dũng, và Phạm Công Trứ... Chuyện huyên thuyên nhưng lạ là không một ai trong số đó nhắc đến việc trao giải cả. Vậy là các nhà chằng quan tâm, hoặc vờ không quan tâm?

Ngắm nhà thơ Phạm Công Trứ già nua bệnh tật, thấy thương nhớ về một thuở sung sức đầy tài hoa của ông đã qua. Rồi lẩn thẩn thương nhớ một thời thi ca, văn chương được xem như ngôi đền thiêng của xứ sở này, cũng đã qua!...

Giờ thì thi ca, văn chương dễ dãi, nôm na, mách qué, nhộm nhoạm quá, ai ai vào ra cũng được,...

Vậy thì thế nào là Thơ,

Thế nào là Thơ hay?... 

Và tại sao Thơ lại làm con người ta khổ sở vậy ?...  

 

 

HẾT.

 

 


Nhận xét