Với nhà văn Phan Quang tại phòng làm việc ở 58 Quán Sư (2015 )
@@@
NHỮNG CÂU THƠ CẤT CÁNH.
Chân dung văn học,
(Nhà
văn Nguyễn
TẢN MẠN VỀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
(
Đi tìm thi pháp thơ Trần Đăng Khoa )
Từ
quãng thời gian tôi làm biên tập trang Web của Hội Nhà văn Việt Nam (Vanvn.net) đến sau này làm biên tập viên
ở Tạp chí Nhà văn & cuộc sống, do
nhà thơ Trần Đăng Khoa làm Tổng biên tập, tôi hay lai vãng phòng làm việc riêng
của ông ở trụ sở Hội Nhà văn tại số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Ở đay, tôi thường
chứng kiến các cuộc đàm thoại văn chương của Trần Đăng Khoa với các nhà văn,
nhà thơ, nhà phê bình văn học khác. Song thú vị nhất vẫn là các cuộc chuyện trò
tay đôi giữa ông với nhà thơ Vũ Quần Phương.
Đã nhiều lần, tôi nghe hai ông bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,... và về thơ của chính các ồng. Tôi nhớ, có lẩn, hai
người bàn rất say sưa về thơ Tố Hữu, đặc biệt về nhạc điệu, ngôn ngữ hình ảnh
trong một số bài thơ (Khi con tu hú gọi
bày, Việt Bắc, Nước non ngàn dặm...) Song qua những gì hai
ông bàn, tôi hình dung ra một nhà thơ tài hoa, song đáng tiếc, nhà thơ chua
chắt lọc khi sử dụng thơ ca mình cho những mục đích khác nên sự nghiệp thơ ca
và cả sự đóng góp về nghệ thuật cho tiến trình phát triển thơ ca Việt hiện đại nói chung, chưa đạt tới
đỉnh cao,...
Khi nói về thơ mình,
Trần Đăng Khoa hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương: “Bác thấy thơ em thế nào? Đến giờ còn lại được bao nhiêu bài?...” . Nhà thơ Vũ Quân
Phương ngẫm nghĩ chút rồi kể tên một số bài... Trần Đăng Khoa gật gù tán thành,
rôi ông bảo: “Nhiều bài trong số bác kể, em
có thể viết lại được,... nhưng riêng bài thơ Trăng sáng sân nhà em, thì chịu không thể nào viết được như thế
nữa”. Ngẫm ngợi,
Trần Đăng Khoa bảo: “Cả bài thơ những
tưởng chẳng có gì, mà lại có gì,...vô cùng vô tận, trải ra mênh mông từ những
cái gần gặn...”. Nhà thơ Vũ Quần Phương ra chiều tán thưởng,...Tôi nghe
chuyện các ông, mà ngẫm nghĩ ra nhiều điều. Đặc biệt, khi soi chiếu vào những
bài thơ của Trần Đăng Khoa mà tôi biết từ mấy chục năm qua,...
*
Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý
thức tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về
thơ Trần Đằng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông
thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập
thơ Góc sân và khoảng trời cùng một
số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách
chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB
Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa
sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài
thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi anh sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải
là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa
tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người lớn, về
các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa,
thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, là một sự nhất quán về ý nghĩa tư tưởng
và phương pháp sáng tác...
Tôi cũng đã nghĩ
về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng
thế này, thế nọ,... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại
đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái
bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng
sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông
về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được... thì đánh dấu vào đấy và
cho tôi biết nhé... Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến
bây giờ? “. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng không nói lại
với ông,...
Cho đến một lần,
năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ. Khi ký sách tặng tôi, ông
quen miếng lại dăn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận
lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn
ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo,
tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán
ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa ben lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe
lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển
thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ
khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi
bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ
môn một,... từng chữ từng cầu, từng ý.... Thậm chí, tôi còn hình dung mường
tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ
gì, làm nhứ thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên
lề nhận định của mình sợ sẽ quên đi mất. Và thế là, hết ngày dự hội nghị hôm
ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ
nhiều năm qua...
Ngày hôm sau, đến
cơ quan, tôi tìm đến phòng làm việc của Trần Đăng Khoa, hùng hồn, liền một mạch
cho ông nghe hết thảy những gì tôi vừa mới phát hiện ra về thơ ông, về phương
pháp sáng tác thơ của ồng, hay nói cách khác như các nhà lý luận phê bình văn
học thường dùng, ấy là thi pháp thơ của ông. Trần Đăng Khoa lắng nghe tôi hùng
biện. Ông tỏ ra vui và tán thưởng, công nhận những điều tôi vừa nói về thơ ông
và giục tôi sớm viết những điều ấy,...
*
Tự thân, tôi cũng muốn sớm viết ra những
điều ấy, thậm chí ngay tắp lự. Nhưng oi thôi, nói thì dễ nhưng làm thì không dễ
chút nào. Bận mải công việc, lẫn lữa mãi, việc chưa thành. Khác với sáng tác,
có ý tưởng ngẫu hứng là thành, phê bình văn học là một công việc khoa học, đòi
hỏi sự chặt chẽ về luận cứ, sự tỉ mỉ tin tòi trong chứng minh, lý giải... Vậy
nên, đã đôi ba lần tôi nhắc lại với Trần Đăng Khoa những luận điểm của mình về
thi pháp thơ ông mà vẫn chưa viết ra nổi.
Đã có lần Trần
Đăng Khoa khích tôi rằng “Phát hiện thì
tinh đấy,... hay như phát hiện về thi pháp Đảo
chìm, cũng rất khác người... có điều chẳng chịu dấn tới, nên thành nửa đời
nửa...”. Ồng không nỡ nói hết câu, ngưng nửa chừng, chắc sợ tôi phật ý,
song tôi hiểu ý ông, và cũng hiểu việc mình cần làm lúc này là gì,...
Có thể nói,
phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa như sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo,
sử dụng thủ pháp hoán vị,
lối đồng dao, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian
truyện cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp triết học, hâu
hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đêu theo phương pháp quy nạp, hoặc diễn
dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà dùng cách này, hay cách kia,
hoặc dùng cả hai cách.
Ngay trong bài
thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực –áo rất rõ: “Con bướm
vàng/ Con bướm vầng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó
vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây,
những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhơ mầy
câu kết này bài thơ chuyển thành hư ảo mà đứng được, không là kể lể tầm thường.
Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung
Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng
quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi
bị gió cuốn bay đi mất, đã tức ảnh làm thơ “Một
cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ
xanh/ bay mất tăm,...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một
đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống
như đấm dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đấm quần
thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bức thì vị quan ấy thẽ thọt:
“Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm
sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm để hò sức kéo lưới,... nhưng hai
câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm
thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô
tục, mà còn làm bài thơ thanh hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay
lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay,
song người bình còn tài tình hơn.
Bài thơ Chiếc
ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Hẩu hết bài thơ là sự kể chuyện, tác ghỉa vẽ lên các bức
tranh tĩnh vật, nhưng chỉ bài vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá” và câu
kết “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, vậy
thôi mà các bức tranh tĩnh bông sống dậy, chuyển động, như một con người. Cùng
ơ đây, tác giả dùng phép nhân cách hóa.
Bài thơ Gà
con liếp nhiếp là một bài thơ thực-ảo.
Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn không
ướt cánh, ướt đầu,,, Nếu chỉ vậy thôi thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh
thực, nhưng tài tình thay, hai câu kết “Đôi
mắt tròn trong như haai giọt nước/ hai giọt nước không bao giờ khô được” thì bài thơ như
được phù phép, hồn cốt ảo diệu và rất cgi ám ảnh.
Bài thơ Chọc
ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thự- ảo, chỉ
bởi hai câu “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran cỏa một buổi chiều”
Hay như bài thơ Trăng
sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ
Vũ Quần Phương như tôi đã nói ở phần đầu, là chẳng thể nào viết lại được như
thế. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh,
thự- ảo. Tác giả không tả trăng sáng đẹp như thế nào, mà
chuyển quan sát sang những vật thể trong ánh trăng như cái sân, cai cây, con
chim, con sâu...Câu thơ được lặp đi lăp lại “Ơi ông trăng sáng tỏ/
Soi rõ sân nhà em…” khiến cảnh sắc tĩnh mà động, thực mà ảo. không có gì mà
lại có gì... Tài tình là vậy!
Bài thơ Nửa
đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một
bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ
chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương
đọng mật”, “há miệng đòi uongs sương”,
“loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc
biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn
xao cả đất trời” làm bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh sống động
cảnh nông thôn bình thường mà nâng tâm lên một cái gì đó to lớn hơn, trải ra
mênh mông, khiến người ta phải mường tượng, nghĩ mãi khồng thôi.
Hay nữa, bài thơ Bên
sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài
là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông
câu, cá nhây, sinh đọng đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến
người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm bé
nhỏ/ biết bay về nơi đâu?”...
Bài thơ Đêm
Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thêm rơi cái lá đa/ tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”.
Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song
“Ngang trời kêu một tiếng chuông/ rừng
xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như
hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya,...”.
Thực đấy mà vẫn như ảo. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển
trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm
nữa có câu thơ cất cánh.
Bài thơ Đồng
chiều là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ sương lên mờ mịt
như là khói bay/ đất trời cách một gang mây/ và tôi liền với luống cày tỏa
hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương
vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, chẳng rõ
thực ảo. Sự ảo diệu của thi ca là đây !
Bài thơ Đồng
quê, thực ảo xen lân, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang
cảnh làng quê mộng mị: “Làng quê lúa gặt
xong rồi/ mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/
trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu
đã chạm mặt người/ bạch dàn đôi ngọn đứng soi xanh đàm/ Luống cày còn thở sủi
tăm/ sương buông cho đòng hoang nằm chiêm bao/ Cớ con chau chấu phương nào/
buâng khuâng nhớ lúa đậu vào áo em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sau thực
thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không
thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc
lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế
!...
Còn nhiều lắm bài
tho thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng
chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe,
Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đén, Mưa,
Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con
mắt, Cơn dông, Hoa bưởi
...v.v... Và những bài thơ sau này ở
thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa
và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ
tình người lính biển, Ghi ở đào chìm, Trăng Matxcơva, Qua
Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcowva,
mùa đòng năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa
Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với
bạn, Đỉnh núi Ở nghĩa trang Van Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh, v.v
...). Hay đâu, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn
nghệ số tết Nhâm Dần 2022: “Mẹ
cha thành nỗi nhớ thương/ anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ bây giờ bầu bạn
cùng ta/ chỉ cìn một mảnh trăng tà ngoài hiên” (Về quê) cũng thuộc dạng
thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các mối quan hệ lớn của xã hội, cha mẹ, anh em
bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua,...
Có một điều không
khó nhận thấy, nhất quan và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo
làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn. tiểu thuyết,nói chung,
mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất
giỏi trong nghệ thuật tao dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này
trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật xây dựng không gian
truyện”,- NCN) Thê nên, ngày từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần
Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó.
Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu
sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô
vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc băng âm thây rổn rảng,
leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy thì phẳng lì, dẹt đe đe,
nhạt nhẽo, thì chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống. mà
không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là cái xác chữ, không hồn vía, nhu chết vậy.
Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông
cũng có không gian tồn tại. Hầu như, môi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ
cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa đều kể một câu chuyện, có cốt truyện
vậy, hoặc nói một điều gì đó ý tức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ
nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống
như vậy, người ta thầy được các nhân vật, con vật, đò vật trong thơ Trần Đăng
Khoa đều có thân phận,.. Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất
truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do đẻ các bài
thơ của Trần Đăng Khoa sống dai, sống mãi cùng thời gian; Bởi vậy, không phải
ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mười năm trước đến nay vẫn
được bạn đọc yeu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần
Đăng Khoa liên tục được tái bản và hiện bán rất chạy,..
Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của
truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hái Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng
tháng Năm ,...), và sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ di
nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ,
xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca.
*
Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần
Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ
pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Sôn
Sơn/ hương đồng thơm trong túi/ chiều xay thóc góc nhà/ tóc lại bay gió núi”.
Ở đây, nếu đửng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc goc nhà mà hương
đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường. Phép hoán vị đã tạo nên
sự khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng...
Hay đâu, trong
bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ
pháp hoán vị này, khi viết “Cáng
đông vui reo/ Gió đồng rộng rài”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình
thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ và thú vị làm sao.
Còn như, lối đồng dao, vận
dung ca dao, tục ngữ và phép
nhân cách hóa khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh
vật được tả trong thơ đều được nhân cách
hóa, mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện,
đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người
dường như là nhân vật phụ, song lại như nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con
chim hay hót, Mày cày xinh xịch, Đám
ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh
thức trầu, Tiếng trống làng, Con trâu đen lông mượt, Nói
chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ).
Bài thơ Kể cho bé nghe là bài
điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đàu bắt cuối để quay trở lại, thú
vị, hóm hình, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói
ầm ĩ/ là con vịt bầu/hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là
cậu chích chòe/hay mua xập xòa/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau,
Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ
phong vị cũ...
Bài thơ Em kể chuyện này, lại là
bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ“Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa
đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ“Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ c ác chú dân quân dong nó
đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các
bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ
nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức
nặng nhất trong bài thơ khá dài này.
Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa,
câu thơ “Trăng suống sáng cả đêm rằm/Nhịp
cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vân
dung ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh
máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để
sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đệm trời như thế, người làm đường không
cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể
phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã
làm bài thơ có tính thời sự,lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi
chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ.
*
Những
câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch
Những
câu thơ cất cánh chỉ là
cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng
Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện,
thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc cổ khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho
cả bài sống động hắn, vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ,
cái tài tình của nhà thơ là ở đấy....
Ví như, bài thơ Tiếng
chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết
này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như
lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,...
Hay như, bài thơ Ò ó o,
cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bê/ bát ngát/ tiếng gà/ ò ó o...” thì bài thơ dễ bị chuội
đi, chẳng để lại gì.
Bài thơ Mưa
cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/
đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài
tho.
Bài thơ Tiếng
chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có
tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu
“Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe// xa xa từ một nghọn
tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa
rồi, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi,..
Bài thơ Thôn
xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài ta quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn
thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ nhuộm vàng cả trời cao”.
Hay nữa, bài thơ Thả
diều, ở đấy, tác giả ta quanh cảnh và cả cách thức chơi diều như thế
nào, mà người ta có thể học được cách thức thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị
đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”.
Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay
đi mất,...
Bài thơ Buổi
sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em
xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa
khóa mở ra cả bài.
Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời
bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tâm cánh tay” là linh hồn cho cả bài
bài.
Bài thơ Trận
địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài
tình nay “Em nhìn đáy nước trong veo/ máy
bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà”.
Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì,
câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/ bỏ
ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên, nhưng lại có dụng
ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả
thực, thì câu kết thể hiện sự có mặt của tác giả, làm cho bài thơ như cựa quậy,
sống động hẳn lên, v.v...
Ở bài thơ Gửi
bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường
vẫn nở hoa sen/ bờ tre vân chú dế mèn vuốt râu” giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí
thế Việt
Hay ở bài thơ Mẹ ốm,
câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn
trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao.
Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy
câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu”
bài thơ sẽ mất sức gợi. Tôi nghĩ, mây câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang
theo tiếng võng kêu đến suốt đời,...
Rất nhiều, rất
nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến
trường thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng
bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy
nạp, hoặc diễn dịch theo triết
học. Đây cũng chính điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái
cụ thể được mô tả, trình bày trong bài, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại như thế
này. Cũng có một số bài thơ, câu thơ
-luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải này nọ.
Nếu như trong các
bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong
sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hoi khác, trường ca Khúc hát
người anh hùng, lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo
của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng
chương, từng khúc, sủ dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát
là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm,
lại là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống
nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu
từ giong điệu kể nhanh làm chậm lại, vừa bớt nhàm mà lắng đọng, suy ngẫm,...
Ví như, một số khúc dẫn chứng ở đây
“Đất hát rằng: Từ đây, từ
tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn
ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc
cờ”.
“Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một
nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu
thành gió những ngày bão giông”
“Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoan/
chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một
chấm-thổi thành biển khơi”
“Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở
ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà
chẳng bao giờ lẻ loi”.
“Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm
nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn”
“Sự thật hát rằng:
... Những quân uwschieeps nguwowifif ta/ Thì đời nó cũng chẳng ra cái gì”
“Cái cột trói hát rằng: ... Sóng sông
thì vỗ vào bờ/ Người trung thì đến bao giờ vẫn trung”.
“Cái cánh cửa hát rằng: Ngày mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một
mình đêm nay/ Một mình với mọi vơi
đầy/Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm”
“Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ
thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì còn mọc
lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bên cũng tan”
“Máu hát rằng: Có đi qua những chiến
tranh/ Máu người đổ xuống mới thành núi sông/ Đẹp sao dòng máu anh hùng/ Lại từ
sông núi chảy trong tim người”
“Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió
nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc tười trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao rời/
Lại nghe trong đất máu người ngân vang”
Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết
lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mài gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa
nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vaax thổi
vường ngõ ngoài...”,
Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân
lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, nhũng khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp
cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó.
Ấy cũng là cái tài riêng có của Trần Đăng Khoa.
*
Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi
dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai
thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ lam từ ngày nhỏ, giỡ ông
vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sang cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ
nếu thấy dở, thây ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở
văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,...
Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng
Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong
bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy,
đã dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời”
tinh như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, manh tay thì cũng có thể bỏ đi một số
bài, hoặc lược bớt thì mới đạt tới đọ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính
lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,..
*
Nhà thơ Trần Đăng Khoa rất quan tâm đến
câu chuyện đằng sau mỗi bài thơ của mình. Tình huống, thời điểm, chuyện liên
quan đến sự ra đời của bài thơ và cả dư âm của nó trong đời sống. Tóm lại là
toàn bộ đời sống của mỗi bài thơ. Điều đó cho thấy, ông ý thức về tính toàn vẹn
và vĩnh cửu của thơ mình. Ngoài tập sách Hầu chuyện thường đế thì trong các
tuyển thơ tái bản sau này, Trần Đăng Khoa đều cài vào đó những câu chuyện đằng
sau bài thơ.
Quả thật, nhiều
câu chuyện xung quanh bài thơ khá thú vị. Đôi khi, nó còn thú vị hơn chính bản
thân bài thơ. Bạn đọc, người yêu thơ nói chung thích thế. Riêng tôi, ở mức đọ
nào đó, chấp nhận được, song tôi vẫn thích bài thơ mang sự bí ẩn của mình, như
thế, nó sẽ thu hút hơn. Ở đời, không phải cái gì cũng chẻ hoe ra được. Sự bí ẩn
làm nên lực hấp dẫn cho bài thơ !...
*
Nhân đây, tôi bàn thêm vè nhuận bút thơ.
Giờ đây, chẳng ai
làm thơ để lấy nhuận bút cả. Các nhà thơ, có thơ in báo, nhuận bút rẻ bèo, hoặc
chẳng buồn lấy nhuận bút nữa, thậm chí tốn thêm tiền để khao bạn bè, người thân
vì có thơ đăng báo. Lâu lâu, gom bài in thành tập thì tốn hàng chục triệu đồng,
để rồi tặng không cho người quen, người ta nể mà nhận, nhưng không ít đùa rằng
“gặp nhau tay bắt mặt mừng/ tặng gì thì
tặng xin đứng tặng thơ”.. Thật thế,...
Ây vậy, mấy chục
năm trước, nhuận bút thơ khá cao đấy. Cứ chuyện của tôi mà suy. Năm 1978, khi
đang là sinh viên đại học, tôi có bài thơ đăng báo Văn Nghệ (bài thơ Núi
Đôi buổi sang, số 789 ra ngày
16-12-1978). Nhuận bút gửi tận nơi, 18 đồng, bằng số tiền học bổng đại học
một tháng của tôi., nghia là nhuận bút ấy đủ nuôi nổi tôi 1 tháng đây.
Vậy nên, có lần,
ngồi chuyện phiếm với nhau, tôi đã hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, lấy nhuận bút
thơ mình mà phỏng đoán, rằng ngày ấy chắc nhuận bút của thần đồng thơ khá
nhiều, có thể thêm thoắt đỡ cho bố mẹ đồng ra đồng vào, giảm bớt khó khăn vì
đời sống gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông qua HTX nông nghiệp. Ông
toét miệng cười : “Làm gì có nhuận bút mà
giúp đỡ bố mẹ...”. Sao thế? Trần Đăng Khó bảo, ngày ấy cấp trên chủ trương
đẻ hồn thơ thần đồng thêm bay bổng, không thể định giá trị bằng tiền bạc, với
lại, trả tiền cho trẻ con dễ làm nó hư đi, thế nên hầu như các báo cứ đăng thơ
Khoa mà không càn trả nhuận bút. Có một số tờ báo quan tâm thì trả bằng hiện
vật. Ông kể, có tờ báo nọ đăng nhiều thơ của ông, rồi trả bằng cái chăn bông,
giữa mùa hè nóng bức thì họ cho người đeo xe đạp mang chăn bông đến nhà trả
thay nhuận bút. Nhiều chuyện buồn cười lắm. Tôi đùa Trần Đăng Khoa, bảo: “Có lẽ họ nghĩ thế cũng đúng. Nếu ngày ấy,
bài nào cũng trả nhuận bút bằng tiền cả, có lẽ cậu bé Khoa sẽ ham tiền mà sáng
tác ào ào, mỗi ngày dăm bảy bài thơ, thì không khéo đến giờ thơ ông chất thành
núi, mà toàn bài dở cũng nên,...” . Ông cười ngỏn nghẻn, không hẳn đồng
tình mà cũng chằng phản đối. Nhớ lại những lúc vui, ông đọc nhiều bài thơ làm
từ thiếu thời mà cho là dở, bỏ đi, đủ thấy, dù có thần đồng thì người ta cũng có lúc dở hơi (kiểu như nhà bác học Niu-tơn từng khoét hai cái lỗ to nhỏ, một cho chó
một cho meo chui).
Thực ra, ngày ấy
Trần Đăng Khoa thiệt thòi chút về nhuận bút cũng đáng kể gì. Lộc trời, lộc đời,
lộc người rốt cùng cũng đến với ông, tuy chậm nhưng khá đầy đặn. Nhờ sớm thành
danh cộng thêm văn tai mà vài chục năm nay và cho đến tận giờ, Trần Đăng Khoa
vẫn có nguồn thu khá ổn định từ những sáng tác của mình. Trong khí các nhà thơ
, nhà văn phải bỏ tiền túi ra in sách và tự phát hành (phần lớn là tặng), thì sách của Trần Đăng Khoa hàng năm vẫn được
các Nhà sách, Nhà xuất bản liên tục tái bản, nối bản (Góc sân và khoảng trời, Tuyển
thơ Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối thoại, Đảo
chim Trường Sa, Hầu chuyện thượng đế) và theo đó
tiền bản quyền không thật nhiều nhưng
khá đều đặn. Đó là còn chưa kể, Trần Đăng Khoa tỏ ra có tài và rất đắt
khách những nơi mời ông đến nói chuyện theo chủ đề, bắt nguồn từ chuyện thơ văn
của ông. Xưa thiệt nay bù, cũng công bằng
thôi.
*
Thiết nghĩ, nên đề cập đôi chút về tài
ứng tác thơ của Trần Đăng Khoa. Đây cũng là cái tài của ông, không hẳn riêng
có, song quả thật cũng là hiếm có.
Cứ theo lời kể
của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tài ứng tác sớm phát lộ và từng được rèn luyện từ
khi ông còn nhỏ. Ông cho biết, nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời là
ứng tác. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ,
nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài
làm thơ, nên về tận nhà, mục sở thị
bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé.
Thực tế là có nhiều bài thơ Khoa viết theo đặt hàng của tờ báo này, báo nọ, ông
nọ ba kia mà thành. Ví như, bài thơ Sao không về vàng ơi là một trong
những bài như thế,...
Đầy là chưa kể,
nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ ngắn ứng tác trong những lúc trà dư
tửu hậu, kiểu xuất khẩu thành thi,
khá hóm hỉnh, hài hước,...
Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó,
ông nổi hứng tập hợp thành tập, kể cũng thú vị đây ?! ./.
Tháng 3- 2022.
Nhà văn Nhật Tuấn, con chim biết chọn
hạt,
Con chim biết chọn hạt, ấy là tên một truyện vừa của nhà văn Nhật Tuấn, đã
được chuyển thể thành phim truyện, mà tôi từng đọc và xem. Ngày ấy, Nhật Tuấn
là một cây bút truyện ngắn sung sức, đáng chú ý... Thú thực, cùng Con
chim biết chọn hạt, thì Trang 17 và một số truyện của Nhật
Tuấn đăng tải ở báo chí văn chương tôi đã đọc ngày đó, thì tôi không được đọc
thêm các tác phẩm khác của ông, kể cả tiểu thuyết từng gây tiếng vang là Đi về
nơi hoang dã. Còn ngoài đời, tôi cũng chỉ gặp nhà văn Nhật Tuấn đôi
lần, lúc trà dư tửu hậu, nên có thể nói, là chưa mấy biết về ông, thì thử hỏi,
tôi viết chân dung ông thế nào đây?...
May mắn thay, tôi nghĩ vậy, tôi có duyên với nhà văn
Nhật Tuấn là nhờ mạng xã hội. Dạo ấy, chừng cuối năm 2010, Nhật Tuấn vào mạng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet,net) ghi cảm nhận cho một bài viết của tôi, dạng
khách đọc, dưới cái tên Người qua đường, và ngay lập tức,
ông đã gây ra sự chú ý của cộng đồng mạng. Ngày ấy, xứ ta chưa biết đến
Facebook, mà chỉ có một số mạng xã hội dạng Blog thôi, nên số người trở thành blogger và khách xem ở Blog này hay Blog
khác rất đông. Tôi đến với Blog Tiếng
Việt (BTV) như một sự ngẫu nghiên. Khi ấy, tôi đi luân chuyển công tác, làm
giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại khu vực miền Trung
(VOV-MT) có văn phòng ở Đà Nẵng. Một lần ra Hà Nội họp cơ quan, gặp nhà văn
Nguyễn Trọng Huân, một đồng nghiệp, giới thiệu với tôi về BTV và bảo tôi nên
lập trang cá nhân ở đấy để giao lưu cho vui. Thực lòng, tôi không mấy thích nên
ừ à cho qua. Nhưng rồi, một hôm, Nguyễn Trọng Huân gọi điện bảo là đã nhờ một
người biết IT lập trang cá nhân cho tôi rồi, địa chỉ mạng thế này, thế nọ. Tôi
cảm ơn xã giao nhưng cũng chẳng buồn vào. Rồi ngày đầu thu 2009, khởi đầu mùa
mưa miền Trung, tôi ngồi trong phòng làm việc nhìn mưa rơi tầm tã cả ngày, nhớ
ngoài Bắc, bỗng nảy tứ thơ, lúc ấy mới chợt nhớ ra mình cũng có blog, bèn lần
mò mở xem. Ở đấy, Nguyễn Trọng Huân đã chọn đăng liền mấy truyện ngắn của
tôi rồi. Cái duyên của tôi với blog như
thế đó...
Nhưng còn cái duyên của tôi với nhà văn Nhật Tuấn thì
sao ?
Đấy là nhờ BTV, kỹ thuật tin học hiện đại đã cho phép
tôi lưu giữ dấu tích đầu tiên Nhật Tuấn vào đọc trang blog của tôi và để lại
cảm nhận, ấy là lúc 18h33 ngày 01,3,2011. Đại khái, ông khen trang của tôi vui,
bảo rằng là qua tôi mà biết Trần Đăng Khoa cũng có blog ở đây, rồi ông phán là
trang của tôi, bình luận nghe xôm trò hơn văn chương, và hứa sẽ năng vào đọc.
Điều này cho thấy, ông đã đọc nhiều bài biết của tôi trước đó và các cảm nhận
cho mỗi bàn viết, nên mới đưa ra nhận định như vậy. Đặc biệt là trước đó, ngày
27.2.2011 tôi đăng bài giới thiệu một bài thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa từ hồi
1975, khi chung đội tuyển Học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng (cũ) tham dự kỳ thi học sinh giỏi toàn
miền Bắc, thì Nhật Tuấn mới thấy cần thiết phải xuất hiện (01.3,2911), tuy
nhiên, ông tránh không sa vào việc tranh luận mà ông cho là vô bổ đối với mình.
Số là, bài giới thiệu này của tôi có rất đông người đọc và ghi cảm nhận, tranh
luận, khen chê búa xua. xung quanh việc bài thơ ứng tác này của Trần Đăng Khoa
không tuân thủ luật bằng trắc của thơ Đường luật. Cứ thế, mọi người bàn qua bàn
tới sôi nổi lắm, cho đến khi chính Trần Đăng Khoa cũng phải ngỏ lời này nọ, còn
tôi thì lên tiếng thưa gửi cẩn trọng. Có lẽ vậy, nên Nhật Tuấn né việc tranh
luận chăng? Bởi chỉ ít lâu sau, ông bộc lộ sự chán chường với thi ca hiện tại,
trong những lời cảm nhận trang văn thơ của tôi, cùng như lời khuyên răn thẳng
thắn, chân tình,...
Ở thời điểm này, khi vào cảm nhận ở trang của tôi,
Trần Đăng Khoa và Nguyễn Trọng Huân cùng một số blogger khác, Nhật Tuấn không
xuất đầu lộ diện, ông đều đứng dưới cái nick Người qua đường. Có cảm
nhận ghi ở trang của tôi, ông lại chê sáng tác của người khác, tôi ái ngại việc
này nên để cảm nhận ấy ở chế độ ẩn. Ngay lập tức, Người qua đường phản ứng,
vì tưởng tôi xóa đi, bảo rằng, tôi có xóa thì vẫn cứ nói thẳng, rằng việc chê
văn người này người nọ, cũng được ghi bên trang của họ rồi, nên không việc gì
phải ngại, và nhắn rằng "Tôi không
phải kẻ phá đám đâu. Rất yêu các ông". Thẳng thắn và chân tình như vậy
đấy.
Dịp này, tôi có đăng liền 2 truyện ngắn của mình là Giải thoát và Người nổi tiếng, Trần Đăng Khoa đọc, khen chê này nọ, Người
qua đường vào ghi "Ý kiến
của Trần Đăng Khoa rất xác đáng. Rất tinh. Chỉ có vài chục chữ mà ra cả một vấn
đề. Cậu này làm biên tập rất chuẩn. Thảo nào hắn luôn được mời làm giám khảo
các cuộc thi văn chương từ trung ương đến địa phương....". Đọc cảm
nhận này, tôi cảm thấy ngay vị khách này phải thuộc hàng cao thủ văn chương thì
mới dám dùng lời lẽ vậy để nói về Trần Đăng Khoa. Và suy đoán này của tôi không
sai, khi chỉ sau đó một ngày, vị khách này lại vào ghi cảm nhận, lúc 22h49 ngày
15.3,2911: "Quả thật từ ngày có Lão
Khoa nhập hội, Quán lá Blog sinh động hẳn lên. Tôi cũng vì hay theo dõi lão
này, nên theo chân lão vào đây và không ngờ lại thấy rất nhiều văn nhân tài tử.
Nhiều tay bợm ra trò. Tôi uống rượu với
Quả nhiên, ngay lập tức, kế ngay cảm nhận của vị khách
khó tính, liền mấy cảm nhận khác bày tỏ sự bực bội, khó chịu với nhận xét chung
về thơ và người làm thơ ở xứ ta, theo sự đánh giá của Người qua dường. Không
những thế, họ còn bực lây sang tôi, và có người còn thẳng thắn khuyên tôi, chớ
có nhẹ dạ cả tin nghe theo cái nhận xét coi thường thi ca của vị khách nọ. Tôi
lúng túng chưa biết xử trí ra sao, may thay, Trần Đăng Khoa cứu tôi bằng cách
quăng cho tôi cái phao cứu sinh, ấy là danh tinh thật của vị khách khó tính
này.
Trần Đăng Khoa đến uống trà với tôi, ngỏn ngoẻn cười
duyên: "Đấy là nhà văn Nhật Tuấn,
ông ấy bỏ Hà Nội vào Sài gòn sống rồi".
Chẳng là, Trần Đăng Khoa vốn được xem là con ma xó của văn chương đất này, lại
thêm, lão ta là Trưởng ban Ban công tác hội của Hội Nhà văn Việt
Còn Nhật Tuấn, cũng thấy bùi tai, ông phúc đáp: "Cám ơn chú Chu Nhạc đã rất hiểu tôi. Tôi cảm
nhận vào trang chú với chú Khoa, chú Huân cũng vì quý ba chú. Chứ tôi đọc Blog
nhiều lắm. Những tiếng nói thật bây giờ, phần lớn ở Blog, nhưng vào rồi ra,
không để lại một dấu vết nào, vì cũng không có gì để nói... Văn chương lại là
chốn rất nghiêm túc. Chú có chút tài, nên tôi hy vọng chú thành một tác giả
đích thực. Chỉ tiếc chú chưa thực sự ý thức về điều này, dù đã ra đến cả chục
tập sách. Vì vậy, mà tôi nhắc chú thôi, nếu gặp chú thì tôi nói miệng, chẳng
viết làm gì, Nhưng hiện tôi ở xa, mãi Thủ Đức, mà chú thì ở Hà Nội, thành thử
mới phải nhắn qua bức thư ngỏ, với cái tên rất hiện đại là cảm nhận. Chúc chú
thành công.". (lúc 08h48, ngày 17.3.2011).
Khi đã biết vị khách Người qua đường là nhà
văn Nhật Tuấn, thì mọi sự với tôi đều sáng tỏ. Tôi nhớ lại, từ vài chục năm
trước, khi tôi theo đòi nghiệp văn chương thơ phú, thì Nhật Tuấn đã vang danh
rồi. Ngày ấy, nhờ truyện ngắn Trang 17 của ông mà tôi hiểu tại
sao, tất cả các cuốn sách trong hệ thống thư viện nói chung, để ấn định bất kỳ
một bản sách nào thuộc quyền sở hữu của thư viện nào đó, người ta lại đóng con
dấu của thư viện đó vào chân trang sách số 17, đơn giản bởi trong kỹ thuật in
sách, mỗi tay sách gồm 16 trang, nên trang số 17 là trang đầu của tay sách thứ
2 trong văn bản sách đó. Mặc nhiên, đấy là quy định chung của ngành thư viện
trên khắp thế giới. Cũng chính vì vỡ nhẽ điều này, sau đó, tôi bắt chước, khắc
một con dấu gỗ tên mình để đóng vào trang 17 toàn bộ sách trong thư viện mi-ni
của mình. Ngay truyện vừa Con chim biết chọn hạt của Nhật
Tuấn, ông cũng cho bạn đọc hiểu một việc mà rất ít người biết, ấy là sự ứng
dụng mang tính sáng tạo của ngành thư viện, lưu trữ văn bản nước ta, trong việc
sử dụng phiếu đục lỗ cho việc lưu trữ, tìm kiếm, tra cứu tài liệu văn bản tiện
lợi dễ dàng hơn. Sau này, tin học phát triển, tôi nghĩ, phải chăng, việc sử
dụng phiếu đục lỗ ngày đó, chính là một dạng ứng tin học đơn giản trong thực tế
đời sống?
Và rồi, tôi cũng nhanh chóng biết được, Nhật Tuấn có
người anh ruột là nhà văn hải ngoại Nhật Tiến, và việc này cũng ít nhiều gây
phiền hà cho ông. Bạn bè văn chương cũng gửi cho tôi đọc những bài phê bình văn
học của ông, với bút danh Trần Ngọc Lãng. Ở đó, ông thẳng tưng
đánh giá sự nghiệp sáng tác, cùng mức độ đóng góp của một số tác gia thuộc hàng
đầu làng văn chương xứ Việt thời hiện đại, cho sự phát triển chung của nền văn
học nghệ thuật nước nhà. Đọc rồi, ngẫm nghĩ, so sánh này nọ, mới thấy cái dũng
khí và năng lực phê bình ở ông không nhỏ chút nào,... Vậy nên, việc ông ghi cảm
nhận này nọ trong Blog Tiếng Việt, vẫn
một tâm thế và giọng điệu Trần Ngọc Lãng, thì chỉ như cái khẽ gảy móng tay của
Nhật Tuấn mà thôi. Nghĩ thế, tôi thấy mình may mắn vì được ông đoái hoài, nhận
xét và khuyên răn này nọ.
Và cũng mừng, mình đã đôi lần uống rượu với Nhật Tuấn.
Nhớ lại, khi ấy nơi làm việc của tôi và nhà văn Nguyễn Hiếu, Nguyễn Trọng Huân
ở 41-43-45 Bà Triệu, cũng gần nơi làm việc của Nhật Tuấn là Nhà xuất bản Văn học ở góc phố Hàng
Bài-Trần Hưng Đạo, liền kề với Trụ sở
Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam- 51 Trần Hưng Đạo. Tháng vài
ba lần, ba anh em chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm bụi buổi trưa, và quán cơm bình
dân Anh Đào ở gần góc phố Hàng Bài-Hàm Long là nơi chúng tôi hay chọn ăn. Ở
quán này, chúng tôi thường chạm mặt dân báo chí, văn chương Hà thành. Một lần,
đang ăn ở đây thì Nguyễn Hiếu chợt nhận thấy Nhật Tuấn ngồi ăn cách một bàn,
bèn mang chén rượu sang cụng ly với Nhật Tuấn và thực khách bên ấy, rồi Nguyễn
Hiếu lôi Nhật Tuấn về bàn mình, giới thiệu ông với chúng tôi và ngược lại. Ấy
là lần đầu tiên tôi giáp mặt Nhật Tuấn. Lần sau, cũng tại quán cơm đó, chúng
tôi đến sau, thấy Nhật Tuấn và bạn ông đã ngồi ăn và Nguyễn Hiếu liền ghép vào
chúng tôi vào chung một bàn. Cụng ly dăm bận, rượu vào lời ra, chuyện làng văn
rôm rả. Tôi mạnh dạn thưa với nhà văn đàn anh rằng tôi đã đọc Trang 17 và Con chim biết chọn hạt, cùng một số truyện ngắn của ông trên báo
chí. Ông lúc gật gù, lúc sảng khoái, bảo là có biết tên và cũng đã đọc mấy
truyện ngắn và tản văn của tôi trên báo, này nọ khen chê đôi chút. Ngày ấy, tôi
sung sức và chịu khó cày báo chí văn chương này nọ đặng kiếm nhuận bút thêm
thắt nuôi con nhỏ, nên truyện và tản văn của tôi đăng khá đều trên các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Hà Nội mới cuối
tuần,Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Pháp Luật cuối tháng... Lần gặp ấy, ông để
lại trong tôi thiện cảm về tính bộc trực và sự gần gũi, thân thiện của nhà văn
đàn anh. Vậy mà, bẵng đi dăm bảy năm, trong khi tôi không mấy nhớ, thì Nhật
Tuấn vẫn nhớ và nhắc lại chi tiết. Thực lòng, tôi cảm thấy gì đó như có lỗi với
ông...
Khi tôi đăng bài viết "Đào Chìm & nghệ thuật xây
dựng không gian truyện" trên trang cá nhân, mọi người ào ào vào
ghi cảm nhận, chủ yếu là khen bài viết tốt, trong đó có các cao thủ như PGS.TS
Minh Tâm, một số nhà văn hải ngoại như Vũ Thư Hiên, Vũ Trọng Trường và đặc biệt
Vũ Hoàng Địch (con của nhà thơ Vũ Hoàng
Chương), Đại tá Trần Trọng Trí, vị cựu thuyền trưởng tàu HQ05-nguyên mẫu
của chính trị viên Thuận trong Đảo Chìm,
cùng các thùy thủ thuộc quyền một thời của ông và nhiều bạn đọc khác. Tựu
chung, mọi người khen bài viết gọn gàng, súc tích, có sử dụng thi pháp khá
nhuần nhuyễn, và quan trọng làm sáng tỏ và tôn trọng giá trị đích thực của tác
phẩm này. Trần Đăng Khoa lấy đó làm vui, và đương nhiên, không thể thiếu nhận
xét của Nhật Tuấn, ông viết: "Tôi
cũng đã đọc Đảo chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa
viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể
loại khác. Nhưng đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui
vui, như chơi, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã
nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc
hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người
chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc cũng rất mới, cũng là một phát hiện, mà không
phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không
ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Nhạc. Tiếc
là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay.
Tôi vẫn nói Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài,
dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy".
Thực lòng, tôi vui vì nhận xét của các bậc cao thủ văn
chương, nhưng vui nhất là nhận xét của Nhật Tuấn, bời vượt qua sự nhận xét
thông thường, ông còn chỉ ra những điểm mạnh yếu của tôi và có lời khuyên chân
tình. Riêng về lời khuyên của Nhật Tuấn và các bậc đàn anh văn chương, đẩy bài
viết này lên thành một nghiên cứu về thi pháp tiểu thuyết của Trần Đăng Khoa,
thì tôi nghe làm vui thôi, bởi tự thân, tôi không có ý dấn thân vào lĩnh vực lý
luận phê bình, mà xem đó như một thú rong chơi thôi. Thể loại yêu thích của tôi
vẫn là truyện ngắn và tản văn...
Tôi đăng bài thơ Đón đợi, viết từ gần hai chục năm
trước, Nhật Tuấn cảm nhận: "Chú
Nhạc. Tôi không bàn về bài thơ này của chú đâu, dù trong đó cũng có đoạn được,
thậm chí có thể gọi là hay, như cái đoạn đợi chờ, trời đất vắng hết, ngẩng lên
chỉ còn mỗi vầng trăng thôi. Nhưng đó cũng vẫn là cái hay ở dạng nhàng
nhàng.Tất nhiên thơ in trên báo Văn nghệ, trên tạp chí Nhà Văn, thậm chí trên
cả một tạp chí chuyên biệt giành riêng cho thơ là tạp chí Thơ cũng chẳng hơn
thơ chú đấu, nhiều bài còn thua xa thơ chú. Gần đây, nhà phê bình X, nhà văn Y
cũng nhảy sang làm thơ là thế giới thi ca ngậu xị rồi... Có thể lảy thơ Ông Cụ
: Nhà nhà làm thơ/ Người người làm thơ/
Vè nhất định thắng/ Thơ nhất định thua... Thế thì chú còn xông vào cái sa
tràng bại trận "nhất định thua" đó làm gì. Tôi vẫn thấy chú rất mạnh
ở mảng văn xuôi và phê bình. Bài nào cũng có một cái gì đó lấp lánh. Cái độ lấp
lánh này mật độ không dày và không chuyên nghiệp như thằng Khoa, nhưng rất khá,
và có điểm chú còn chói hơn Khoa. Nhưng
Khoa hơn chú vì nó chuyên tâm và có ý thức vì điều đó, vì thế, nó mới thành nó.
Còn chú thì cho đến giờ phút này vẫn đếch thành cái gì cả. Tôi tiếc cho chú mà
nhắc chú thôi, vì chú có tài. Tôi rất quý những thằng có tài, nên cứ nói. Đấy
cũng có khi là bệnh của người già. (Tôi
đã hơn 70 rồi). Mặc dù nói thế này, có thể những người hâm mộ chú thái quá
có thể lại chửi tôi, nhưng vì quý chú mà tôi cứ nói. Hôm vừa rồi, tôi ra Hà
Nội, có đến thăm chú và thằng Khoa, nhưng cả hai thằng đều đi vắng. Tôi có nhìn
thấy cậu Huân, nhưng tôi không làm phiền cậu ấy. Từ ngày có chú và thằng Khoa
tham gia Blog, nhất là khi có sự xuất hiện của Khoa, giới Blog rất sinh động và
có sinh khí, hay hẳn. Thế mới lạ chứ. Khoa đưa ra trò độc, thiên hạ cũng chiềng
ra toàn của độc, chất văn chương thì họ không bằng Khoa, nhưng tài có chỗ cũng
không kém Khoa đâu. Nhiều chiêu độc ở cái Xóm
lá này, đáng nể lắm. Tôi thực sự bái phục đấy.". (17.04.11@07:26).
Tôi mừng, vì Nhật Tuấn tuy vẫn tỏ ra khó chịu với thơ
ca hiện nay, song ông cũng phải thừa nhận, nhiều người tham gia mạng Blog Tiếng Việt thực tài, khiến ông
phải bái phục.
Tâm phục khẩu phục, song cẩn trọng không thừa, tôi
phúc đáp: "Kính bác. Em luôn lắng
nghe bác. Và có thể nói, tự thâm tâm, luôn mong đợi những lời góp ý của bác. Em
thấy bác nói đúng (về em, về Khoa và nói chung văn học hiện nay) . Em cũng nghe
Khoa nói về những bài viết của bác về văn học. Điều đó, càng khiến em nể trọng
bác. Tuy nhiên, khi tham gia blog, ngoài chuyện văn chương, còn mang nhiều yếu
tố giao du vui vẻ, cho nên "món ăn trên mâm cơm blog" cũng cần có
nhiều món. Vả lại, với thơ, từ trước đến nay, em (và chắc nhiều người khác)
cũng chỉ xem như sự giải tỏa thôi... Với riêng em, thơ chưa bao giờ là một sự
nghiệp cả. Thế nên, việc có in tập hay không thì chỉ là chuyện "cả
làng cùng vui". Thêm nữa, em tự biết
mình, cái mạnh không phải là thơ, có chăng ít nhiều ở văn xuôi và phê bình,
chân dung văn học... Hơn nữa, blog chưa phải là phản ánh đầy đủ mình, bởi nhiều
cái đưa lên đây không tiện, bác ạ. Tiếc là hôm em và Khoa vào Sài Gòn, biết bác
ở Thủ Đức, song không biết cụ thể ở đâu nên khó liên lạc, vả lại, bác cũng lại
ra Hà Nội. Nếu có thể, bác cho em (hoặc Khoa) biết số điện thoại liên lạc, để
khi có điều kiện thì alô đến thăm bác. Cả em và Khoa đều hay đi Sài gòn. Mong
bác vào blog của em thường xuyên, và cứ nhận xét thẳng tưng. Em thích vậy, bác
ạ. Xóm Lá này cũng rất đáng nể trọng
và đáng yêu lắm đấy. Nhiều người có tài và có tâm, như bác thấy và đã nhận
xét...".
Vậy là, tôi và nhà văn Nhật Tuấn đã hiểu nhau hơn, và
có thể, mọi người trong Xóm Lá cũng thông cảm, mà không phản ứng thái quá với
những nhận xét khó nghe của ông.
Ngày 27.4.2011, tôi đăng bài thơ Chiêm bao, Nhật Tuấn vào
cảm nhận: "Chú Nhạc. Tôi vừa đọc một bài viết hay, rất cảm
động bên chú Khoa, sang chú lại gặp chú vày thơ. Tôi định không đọc. Nhưng tò
mò xem thế nào thì thấy hay. Đây là bài hay nhất của thơ chú mà tôi được đọc.
Chú nên chữa một câu kết thì thành một bài thơ hoàn chỉnh. Chú thay chữ "ngỡ" thành chữ "thấy", khẳng định, và thay chữ "đâu" thành chữ "đang". Chiêm bao khi đang tỉnh mới tuyệt.
"Tiếng động nào hiên ngoài chênh
chao/ Sực tỉnh thấy mình đang chiêm bao...". Tuyệt vời chú Nhạc ạ."
. (30.04.11@22:53)
Phải nói, tôi mừng, vì rốt cuộc, ông nhà văn kiêm nhà
phê bình khó tính này, cũng phải buột miệng khen thơ. Ngay sau đó, Trần Đăng
Khoa vào cuộc: "Đồng ý với đại ca,
bài thơ lênh phênh chênh chao này là bài hay nhất của Nhạc. Hay vì nó
lạ, giai điệu lạ, thoát khỏi cái thông thường. Bác tinh đấy, không phải chỉ
trong văn xuôi mà cả thơ nữa. Mấy góp ý của bác rất chuẩn. Cao thủ. Tất nhiên ý
Nhạc cũng như ý bác thôi, vẫn là chiêm bao trong lúc tỉnh, nhưng thay hai chữ,
diễn đạt như bác thì câu thơ sáng hơn, cao thủ hơn. Nhưng ý thì vẫn là một.
Nhạc viết bài này là ứng tác, nhân đọc một bài thơ của bạn rồi viết ngay một
bài theo tư duy khác hẳn. Vì ứng tác, nên câu chữ không thể chuẩn ngay được.
Trong bếp núc sáng tạo, nhiều khi rất thú vị như thế đấy. Viết đùa, viết chơi
thì lại hay, thậm chí có những câu lóe sáng bất ngờ, còn cứ gò gẫm, có ý thức
làm một tác phẩm để đời thì có khi tác phẩm lại hỏng, những con chữ còng queo
chết ngay khi vừa nhô ra khỏi ngòi bút hay bàn phím. Thú vị thật!".
(01.05.11@11:10).
Nhật Tuấn đang hăng, tiếp đã đàm luận văn chương: "@TĐK. Chú nói đúng. Trong sáng tạo,
cần tự do. Tự do lớn nhất vẫn là tự do trước chính mình. Nhiều thi sĩ nổi
tiếng, đùa hoặc ký tên nhắng thì rất hay, ký tên mình và cố gò gẫm theo kiểu
"thôi - xao" thì dở ẹt. Chứ tự do không phải là chuyện o ép của chính
quyền như một số anh cứ lu loa. Chả có thời nào bị bóp nghẹt và mất tự do như
thời phong kiến, mà sao vẫn có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương. Bây giờ
thì tự do đấy, ai cấm ai đâu, viết xong là tự xuất bản, đưa lên Blog, đi toàn
cầu, có cha còn tự dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, in song ngữ, cũng như cái
cậu gì ấy tự phong thần đồng, mà sao vẫn không mọc mũi sủi tăm lên được. Tôi nghĩ
thời này là thời rất hay. Không đổ lỗi cho ai được. Có tài thì sẽ nổi danh ngay"
(01.05.11@21:51)
Cái hay, cái thích ở đây, là hai cao thủ Nhật Tuấn và
Trần Đăng Khoa mượn cớ bài thơ Chiêm bao của tôi để bàn về lý luận
thi ca nói chung, súc tích mà dể hiểu. Quan trọng nữa, Nhật Tuấn đã khảng khái
đưa ra nhận định về tài năng văn chương, điểm chính yếu để làm nên tên tuổi tác
phẩm-tác giả, chứ không vìn vào này nọ, hoặc đổ lỗi cho thời cuộc như nhiều nhà
văn, nhà thơ khác. Thấm luận điểm này của Nhật Tuấn trong văn chương xứ ta, tôi
lại nhớ đến cái truyện hài hước Giá không có ruồi của nhà văn
người Thổ Nhĩ Kỳ là Azit Nê-xin...
Ngay sau đó, tôi chỉnh sửa bài thơ Chiêm
bao theo như góp ý của Nhật Tuấn, nghĩ thế thôi, không ngờ ông vào xem
và không quên động viên: "@Chú Nhạc.
Đọc lại bài chỉnh của chú rồi. Chuẩn. Gửi cho báo Văn nghệ hoặc Tạp chí Thơ Hội
Nhà văn nó in cho. Tôi cũng có đọc bài này của chú cho mấy thằng nghe rồi,
chúng đều khen cả. Không có gì giống Bích Khê và Xuân Diệu cả, dù họ cũng làm
thơ theo kiểu độc vận và dùng toàn âm bằng. Chú là một dạng khác hẳn. Tôi cũng
đã vào đọc cái bài khơi nguồn cho chú. Nhưng thấy nó chẳng ra cái lý cố gì cả.
Nhạt toẹt. Mừng chú". (01.05.11@21:39). Mặc dù chỉ là động viên cho
phải phép, khi đàn em nghe lời mình, nhưng Nhật Tuấn vẫn không quên cài thêm ý
kiến phê bình của mình về thơ ca nói chung. Có cảm giác, Nhật Tuấn đang ở vào
thời kỳ sung mãn về lý luận, phê bình, nên mọi cảm quan của ông về lĩnh vực này
tràn ứ, cứ muốn ứa ra mỗi khi ai đụng đến ông hay ông va quệt vào ai vậy?...
Bẵng đi một dạo, không thấy ông xuất hiện nơi Xóm Lá, cho đến khi tôi đăng bài thơ Mưa
Ngâu, Trần Đăng Khoa ghi cảm nhận, khen: "Ai hiểu đời tư
Thấy đừng chẳng đặng, Nhật Tuấn cảm nhận: "@TĐK. Chú Khoa rất tinh nghề. Bài thơ
của Nhạc hay. Tôi rút lại ý kiến là Nhạc chỉ nên dồn sức cho văn xuôi. Chờ đọc
tập thơ mới của chú ".
Mặc dù, tự thâm tâm, tôi chưa từng nghĩ, thơ là sự
nghiệp trong nghề cầm bút của mình, song tôi yêu nó. Từ những ngày tập tọng làm
thơ lúc còn đi học, là tôi noi theo, bắt chước Trần Đăng Khoa, nghĩ mình làm
thơ cho vui, vì mơ ước của tôi khi ấy là nghề kiến trúc sư, đặng theo nghề của
cha tôi. Song cuộc đời có những khúc ngoặt không ngờ tới, ấy là việc tôi thì
không đõ và trường Kiến trúc, và sau đó theo học Đại học nông nghiệp. Những năm
tháng lang bạt kỳ hồ ở miền Tây Nam bộ, thời gian rảnh rỗi, tôi viết báo nghiệp
dư, đặng học nghề báo và gây chút tên tuổi với mong ước trở thành người làm báo
chuyên nghiệp. Làm báo, tức là cầm bút, thế là chút mầm mống thi ca văn chương
này từ thời đi học, ngỡ thui chột, bất ngờ sống lại, tươi mới và đầy khát vọng
lớn thành cây. Lại thơ, lại truyện ngắn, bút ký, tản văn, hầu như tôi không nề
hà và đều thử sức mình ở các thể loại. Khi đã trở thành người làm báo chuyên
nghiệp, lại được làm việc ở Đài Tiếng nói
Việt
Vậy nên, tôi vui vì Nhật Tuấn đã rút lại lời khuyên
tôi bỏ thơ, chỉ tập trung trí lực và văn xuôi và phê bình, không những thế, ông
còn chờ mong tôi xuất bản thơ nữa kia. Tôi tin là Nhật Tuấn thật lòng, bởi đơn
giản, tôi chỉ là chú em nhỏ của ông thôi, chẳng việc gì ông phải nói lấy lòng,
trong khi, bằng khả năng phê bình sắc sảo và trực tính của mình, ông đã từng hạ
bệ, nếu không muốn nói mạnh là lật nhào, nhiều tượng đài tên tuổi của làng văn
chương đất Việt hiện đại là gì !?... Ngày ấy, khi làm việc tại Văn phòng phía
Nam của Nhà xuất bản Văn học, Nhật Tuấn đã bày tỏ thái độ đồng tình với nhà thơ
Xuân Sách khi xuất bản tập Chân dung nhà văn, mà ở đó, theo Nhật Tuấn, không
chỉ là chân dung đơn thuần một cách
hài hước, ấy là chân tướng của các
vị...
Sau cảm nhận vào bài thơ Mưa ngâu, Nhật Tuấn mất
tăm, không để lại dấu tích gì thêm trên trang cá nhân của tôi, nhưng theo Trần
Đăng Khoa, thi thoảng ông vẫn vào ghi cảm nhận đâu đó trên trang Lão
Khoa (tên trang cá nhân của nhà
thơ Trần Đăng Khoa ở Blog Tiếng Việt). Tôi nghĩ, có thể Nhật Tuấn vẫn vào
xem, nhưng thấy không cần thiết ý kiến ý cò gì thêm nữa, hoặc giả, ông chán
chường với thứ mà ông cho là khen chê cho phải phép, lấy lòng nhau trên không
gian ảo này rồi ?...
Bẵng đi, thảng tôi vẫn nhớ Nhật Tuấn và thèm được đọc
những cảm nhận mang chất gây sự của ông, cho đến một hôm, vào đầu giờ làm việc
một ngày thu tháng mười, Trần Đăng Khoa gõ của vào phòng làm việc của tôi, vừa
bước vào, buồn buồn thông báo: "Nhạc
à, Nhật Tuấn vừa mới mất...". Tôi lặng người đi. Tôi và Trần Đăng
Khoa, chén trà trên tay mà chẳng biết tiếp câu chuyện thư thế nào. Tự dưng, ký
ức về Nhật Tuấn ùa về. Ông mất đột ngột vì chứng viêm cấp hành tá tràng vào
ngày mồng 6 tháng 10 năm 2015, và ngẫu nhiên, trùng với sinh nhật lần thứ 58
của tôi. Chuyện về Nhật Tuấn, chúng tôi nói về các sáng tác chính của ông, đặc
biệt là loạt bài phê bình đánh giá lại một số tên tuổi văn chương Việt hiện
đại, và không quên nhắc chuyện ông từng
quấy động Xóm Lá ngày nào. Trần Đăng Khoa bảo, với trọng trách, tình cảm cá
nhân và lòng kính trọng dành cho Nhật Tuấn, sẽ bay vào
Giờ đây, lần giở từng trang mục của mình trên Blog Tiếng Việt, bao chuyện cũ sống
lại, và trong đó, hình bóng của hai con người, chỉ là khách vãng lai trên các
trang mục blog của tôi, ấy là đại tá Trần Trọng Trí, cựu thuyền trưởng tàu HQ05
Hải quân Trường Sa và nhà văn Nhật Tuấn là đậm nét nhất. Thâm tâm, tôi kính
trọng và yêu quý hai con người này, dù người trước người sau, đã cùng vân du về
cõi thiên thu...
Tôi đã viết chân dung đại tá Trần Trọng Trí (Người thơ tôi chưa từng gặp mặt-Tập chân
dung Trời
đất thu hay lòng ta thu-Nxb Dân trí 2016), và với riêng tôi, Trần Trọng
Trí mãi là Người thơ của biển. Nay ký họa chân nhà văn Nhật Tuấn, như một
sự tri ân với người đàn anh văn chương, với bậc đại ca (như cách gọi vui mà tôi từng thưa gửi với
Nhật Tuấn), mặc dù, ông không cần và cũng chẳng biết điều đó. Với tôi, Nhật
Tuấn xứng đáng là Con chim biết chọn hạt trong lĩnh vực phê bình văn học, như ý
đồ ông đã định ra từ hơn ba mươi năm trước. Nhân đây, tôi có đôi điều thưa với
đại ca Nhật Tuấn rằng,...
Thứ nhất, tôi vẫn sáng tác đều, các thể loại mà tôi thấy mình
có thể, tuy nhiên, bới bản tính ngại quan hệ tiếp xúc này nọ, nên mặc dù có đến
vài chục cuốn sách xuất bản, vẫn xem như chưa thành danh và sự nghiệp gì... Vậy
nên chăng, đại ca ơi?
Thứ hai, chuyện xứ ta, nhà nhà làm thơ, người người làm thơ,
âu cũng là một sự đặc biệt của xứ sở này, mà chẳng nơi đâu trên trái đất này có
được... Chẳng hay lắm sao?! Với lại, người dân Việt mình yêu thơ, thích làm thơ
là mang tính truyền thống đất chứ? Người làm thơ nói chung, đa phần, chẳng màng
chuyện thành danh hay nên sự nghiệp gì, mà là để giải tỏa nỗi lòng, để giao lưu
bạn bè, để dưỡng dục tinh thần mình, đặng trụ vững trên mảnh đất chiến tranh
liên miên và đầy rẫy bất trắc... Thêm nữa, trong cái vườn thi ca toàn dân trăm
hoa đua nở này, có nhiều loại hoa quý, hương sắc lạ, mà dễ gì giới văn thơ
chuyên nghiệp có được, đại ca nhỉ?!...
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát
Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt
Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo
muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và
mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn
Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.
Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê
Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ,
mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc,
trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của
Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in
riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất
lành do NXB Thanh Niên ấn
hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà
thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“
(bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương
sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao
nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê
Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư
tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài
thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt
Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình
Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể
lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài
ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca
Việt
Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao
nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều
bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ
trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ
từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông với
thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế kia,
tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ lục
bát...
Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài
nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc,
song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo
cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu
thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai
mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc
chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ,
lập ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng,
têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những
bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu,
câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi mang những nhận định trên
mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông
có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng
được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ
cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ
xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga
Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông
Chùy, Cõi xưa, Bến quê, Trở lại Ba Lòng,
Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...
Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy
rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ,
dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
Mải lo cơm đủ
áo lành
Còn đâu lúc
rỗi để thành vọng phu
( Gió đất )
Ở rừng từng hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già
( Em đi )
Tình yêu như thể chơi đề
Đợi con độc đắc lại về trắng
tay...
... Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt
tóc bỏ nhà đi tu
( Chợ tình )
Chốn quê vẹo cột vênh kèo
Ốc cam phận
ốc lại đèo kiếp rêu.
( Chợ người )
Đố ai hết nợ đàn bà
Để tôi cắt
tóc bỏ nhà đi tu
Xế tà tháp
lặn vào mây
Vầng trăng
chính sử hao gày hoàng hôn
( Lời xưa )
Sau già là
cõi xa xăm
Nén hương đỏ
lửa mỗi năm đôi lần.
( Hỏi đất )
Giếng làng
mưa bão vẫn trong
Chợ quê rớt
già vẫn đong đếm đầy
( Thú quê )
Đao đình cong nỗi phế hưng
Một thời lá
rụng dửng dưng sân chùa
( Phận rùa )
Tuổi già như thể nắng hanh
Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều
( Về hưu )
Ơi người áo mũ cân đai
Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành
( Tiểu sành )
Nắm tay củ ấu
vẫn tròn
Người ơi vẫn
ngọt bồ hòn trên môi
( Chợ Mơ )
Giả vờ có ngủ
được đâu
Nằm chong
chong mắt lâu lâu lại ngồi
( Ngủ nhờ )
Ngày xưa xe lộn về Bần
Mấy phen tuột
xích quãng gần Khoái Châu
( Về Phố Hiến )
Nẻo đường bồ
bịch cong cong
Vừa lo thoát
khỏi. Vừa mong nhảy vào...
( Nẻo đường cong cong )
Bắt chồng em
có chọn anh
Như kim chọn
chỉ vá lành áo nâu
Như là đồng
đất chọn trâu
Nương cao
cũng kéo ruộng sâu cũng cày
Chọn anh như
cối chọn chày
Canh khuya
giã sắn rạng ngày đâm ngô
( Bắt chồng )
Thân cò trở
lại nghề nông
Rời cây súng
biết tay không có gì
Mấy đồng hưu
trí thấm chi
Cảnh nhà vơi
bát lắm khi mụ người
( Anh lại đi cày )
Nứa mai thưng
hở vách lều
Rừng khô xao
xác nai kêu lẻ bầy
Mưa bay như
thể sương dầy
Sàn khuya
thương ngọn nến gày lắt lay
( Gặp ở Mường Tè )...
Vẫn còn
khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ
Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình
như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây
những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh
quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
Thế cờ
nghiêng về đâu
Pháo mã thành
vô dụng
Sĩ tượng
thành thất sủng
Tốt đen cười
sang sông
( Nắng Hàm Tân )
Ai biết được
ma nào ăn cỗ
Ai dại gì
công bố chuyện đi đêm
( Vợ Ba )
Gặp bạn tình
lòng đã thấy no
Rượu chưa
nhắp lời đà có lửa
Trưa đứng
nắng bồn chồn vó ngựa
Chợ lim rim
một nửa sang chiều.
( Chợ Bắc Hà )
Đường một
chiều cứ thế tôi đi
Tôi biết dại
làm người nhụt chí
Cái đáng vứt
lại cất làm của quý
Cái phải chôn
đi lại để trưng bày
( Đường Bà Triệu )
Đâu đá lát
lên đền Tam Tổng
Lạnh khói
hương thông thốc giữa trời
Hai hộ pháp
vẫn muôn đời gác cổng
Ông Ác cười!
Ông Thiện toát mồ hôi...
... Tôi trở
về tuổi trẻ chẳng về theo
Thời gian như
nước ngầm băng hoại
Trái tim tôi
càng sống càng nghèo
( Quê ngoại )
Mùa khô Đồng
Văn trơ gió
Gió khê lời
đá thở dài
Gió như tiền
vào nhà khó
Một đời gió
thổi trần ai
( Mùa khô Đồng Văn )
v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong
tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình
thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện
nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến
ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc
đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này.
Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa
máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như :
Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh
Để êm đỡ trẻ.
Để anh đỡ già
( Hát Karaoke )
Phố làng xóa sổ nông dân
Quán quê lai
ghép công nhân nửa mùa
Lượn lờ chào
bán gọi mua
Dật dờ chai
cốc được thua với đề
( Phố Làng )
Mảnh bằng bán
tận châu Phi
Tiền lương
đếm lại nhiều khi mủi lòng
Ước mơ xé lẻ
từng đồng
Thương con
liệt sĩ lấy chồng thương binh,
Vết thương
như kẻ vô tình
Tấy lên những
lúc gia đình ăn vay.
( Vàng xám ) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể
thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông,
thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít
nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...
2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.
Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ,
đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh
nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học
Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông
lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng
chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến
nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015,
con số đã là 7.
Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như
tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ
vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật,
nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với
tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm
biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông
luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu
cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình
văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn
học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...
Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù
chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi
nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút
ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ
hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài
Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học
khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác
phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông
được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí
chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa,
uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không
riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít
nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...
Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là
bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh.
Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc
theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng
nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý
đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông từng đi
theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía
các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời
sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu
thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì,
khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh
không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến chủ thành khách, còn mình từ khách
thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý
mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo
cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê
Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia
tăng hàm lượng văn chương cho bài
biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm
hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến
thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm
phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút
chuyên ký sự khác cùng thời...
Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến
thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo
cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc
nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết
dạng này, khá thành công, như: Hoa sen,
Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng
gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...
Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm
của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn
đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì
đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi
tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương
ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo
tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...
Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy
là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh
có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông,
quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai
đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều
mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này,
tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn
dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi
gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ
lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối
hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...
Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ
Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể
loại bút ký, ký sự văn học !...
3.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu,
nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV),
tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc
của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở
58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phảI hàng
năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng
Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng).
Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ
thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ
(Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân
đội và Tạp chí Văn học (Viện Văn
học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững
chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ
ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ
phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà
thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng
Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên,
thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi
cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân
biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người
trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu
có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng
xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau
đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát
sóng, để sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.
Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho
tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ
Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được
xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng
tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên,
đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn
dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ-ông trùm của văn học thiếu nhi nước
nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh
giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội
Nhà văn Việt
Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có
thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người
khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông,
trong công việc và đời sồng, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổ,
việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì
phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự
lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh
thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ,
thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản
thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo
tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công
việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người
khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải
quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm
giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả
khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm
thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông
văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc
chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ
tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng
bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ...
Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân
gian. Cùng với đí, chịu đi và đi nhiều,
chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vớ
lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo
nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình
Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người
được đồng hóa, gán với nhân vật Trạng
Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt,
Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách
minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính
thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà
dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và
hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ
song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng khư khướu nhưng viết
ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được
cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...
Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh
Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ
nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà
do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ)
Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại
một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân
tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và
tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa
miệng thì vẫn đấy....
Sau những xã giao thông thường, bập
vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như
khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông
giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực
và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông
vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan
sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa,
vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm,
được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác
từ thời là người của nhà Đài (VOV),
cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Còn hiện tại, ở tuổi 76, ông sống chung
với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính
nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.
Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là,
mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về
sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh
thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi
thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với
gia đình, với cuộc đời này !...
Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây ?...
Nguyễn Hiếu, nhà văn người làng Chèm
1, Dấu ấn làng Chèm.
Nhà văn Nguyễn Hiếu
luôn tự hào là người làng Chèm.
Vậy cài làng Chèm
ấy là làng nào?
Làng Chèm có tên
chữ là Thụy Phương, thuộc Từ Liêm, Hà Nội, kề bên đê hữu ngạn sông Hồng đoạn
đầu cầu Thăng Long. Làng Chèm nổi tiếng bởi được liệt vào diện làng cổ Việt,
với ngôi đình có lịch sử hơn ngàn năm, được công nhận là di sản văn hóa. Tương
truyền, đình Chèm được xây dựng từ năm 715 sau CN và cho đến năm 866, Cao Biền,
quan đô hộ xứ cũng là thầy địa lý giỏi đã cho tu sửa lại và tạc tượng Lý Ông
Trọng (tên thật là Lý Thân), một vị
võ tưởng tài giỏi thời An Dương Vương Thục Phán. có nhiều chiến công hiển hách,
và còn được cử sang giup Nhà Tần chống giặc Hung Nô. Sau này, Lý Ông Trọng được
người đời tôn như vị Thánh, thờ phụng ở
nhiều nơi cả Việt
Tuy nhiên, Nguyễn Hiếu không phải gốc làng Chèm, quê
nội ông là Phùng Khoang, cũng thuộc đất Từ Liêm, và sinh ra ở Vũ Ẻn, Phú Thọ,
nhưng ngay từ thuở lọt lòng, đã về sống ở quê mẹ, làng Chèm và lớn lên từ đấy,
rồi lấy làm quê vậy. Tuổi thơ, trẻ trâu, Nguyễn Hiếu hít thở bầu dưỡng khí, ăn
cơm, uống nước làng Chèm, nên máu thịt ông cũng mang mùi vị làng Chèm vậy. Nhà
văn Nguyễn Quang Huy, một đồng nghiệp cùng đơn vị công tác với Nguyễn Hiếu ở
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), khi còn sống, mỗi lúc cao hứng trà dư tửu hậu,
cười đùa Nguyễn Hiếu mà rằng "
Trong văn chương
của Nguyễn Hiếu, dường như để tránh những phiền toái không cần thiết, mà cũng
dễ bề bịa chuyện trong sáng tạo, ông gán cho làng Chèm của mình cái tên
làng Chiện. Vậy là, cái gì trong thực tế đời sống, làng Chèm có thì
hầu như làng Chiện có cả, song bao nhiêu chuyện làng Chiện có, làng Chèm chưa
hẳn đã có. Vây nên, làng Chèm chỉ là mảnh đất, là không gian cho sáng tạo của
Nguyễn Hiếu mà thôi.
Thế là cái làng Chiện
ấy, khi thì hiện hữu bằng cái tên của mình, để Nguyễn Hiếu dàn trận, bày
biện các sự kiện, con người thành các tuyến nhân vật này nọ, khi lại chỉ xuất
hiện lẻ tẻ đâu đó, hoặc chỉ phảng phất bóng dáng trong các sáng tác của
ông.
2.
Nguyễn Hiếu, phu chữ,
Gọi Nguyễn Hiếu là phu chữ, hắn phải có bằng chứng để chứng minh
cho cách ví này. Hiện tại, Nguyễn Hiếu là số ít trong các nhà văn Việt Nam thời
hiện đại, lại là hội viên của ba cái hội danh giá, ấy là Hội Nhà văn Việt Nam,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam. Để trở thành hội viên của ba hội
này, chắc chắn Nguyễn Hiếu phải có những đóng góp công sức, sáng tạo thể hiện
bằng những tác phẩm cụ thể, đủ để đứng trong hàng ngũ của mỗi hội.
Trước khi điểm
những tác phẩm Nguyễn Hiếu đóng góp cho hoạt động của mỗi hội mà ông là thành
viên, tôi xin kể đôi chút về sức lao động sáng tạo văn chương của ông. Tôi nhớ,
cách đây hơn hai chục năm trước, thời ông còn đang là phóng viên Đài Tiếng nói
Việt Nam (VOV), cũng là thời gian ông sáng tác sung sức nhất, hơn một lần,
Nguyễn Hiếu khoe với tôi và các đồng nghiệp cơ quan, rằng mỗi ngày, ồng “cày” ít nhất là 6 trang đánh máy. Thường
là hằng ngày, ông thức dậy sớm, ngồi vào bàn, gõ máy chữ (sau là máy tính), cho đủ 6 trang rồi mới ăn sáng và đi làm. Nếu
sáng nào không đủ thì tối về ông gắng gõ cho đủ, còn được nhiều hơn thì càng
tốt. Nghe mà lè lưỡi. Sức viết vậy, nên Nguyễn Hiếu mới có một khối lượng khá
lớn tác phẩm đã xuất bản.
Năm 1984, Nguyễn
Hiếu khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tập truyện hài “Chuyện cái vòi nước”. Cho đến giờ, mỗi
khi nhắc đến tập truyện đầu tay này, Nguyễn Hiếu vẫn nhó một cách đầy tự hào,
rằng cuốn sách đó được nhà văn Hà Ân biên tập, danh họa Bùi Xuân Phái vẽ bìa và
nhà văn Vũ Cao, giám đốc NXB Hà Nội khen là “đọc Nguyễn Hiếu thấy thích
hơn vì cái cười của dân mình” ( ý so sánh với Những
người thích đùa, của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ,
Azit Nexin, xuất bản cùng thời điểm ấy) và năm đó, Hội nghị các cây bút trẻ tổ chức ở Nhà hát lớn Hà
Nội, dựng pa-nô quáng bá vẽ bìa cuốn sách này...
Sau tập sách đầu
tay, đến năm 1988, Nguyễn Hiếu xuất bản tập sách thứ hai của mình, ấy là tiểu
thuyết “Người đàn bà quỷ ám”. Kể từ đó, trong vòng 5 năm, đến 1992, Nguyễn
Hiếu ào ạt xuất bản như mưa rào, những 13 tiểu thuyết, mà đến giờ tôi còn nhớ
tên một số cuốn, như: Bụi đường, Vết xoáy
trước ngực làng, Tôi bán mình, Chuyện tình người điên, Vầng trăng hững hờ, Biển
toàn là nước, Con ngố, Quá cảnh, Bốn bước đến chân trời, Trưởng thôn xử án... Tôi nhớ được vậy cũng là nhiều, bởi quyển đọc
quyển không. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng ngần ấy tiểu thuyết, Nguyễn
Hiếu còn viết truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản phim truyền hình, mỗi
thứ đều hai. Đây là thời kỳ sung sức nhất của Nguyễn Hiếu, bời không những viết
và xuất bản nhiều, ông còn thành công gặt hái được nhiều giải thưởng. Giải
thưởng của các bộ ngành cho tiểu thuyết Bụi
đường và Tôi bán mình. Giải
thưởng truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ
Quân đội cho truyện ngắn Nhãn lồng
nhà Cả Đoạt, và Giải truyên ngắn của Báo
Văn nghệ cho truyện ngắn Chuyện quan
trọng của bà Cả Đào. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn Hiễu đã cho ra đời ngót nghét 30 tiểu thuyết.
Kể ra, làm được như vậy, không dễ chút nào !...
Sàu quãng thời
gian sung sức ấy, Nguyễn Hiếu vẫn viết đều tay, hầu như năm nào cũng ra sách.
Các lĩnh vực, thể loại, hầu như ông không bỏ loại nào. Tiểu thuyết, truyện, tản
văn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, tiểu luận, phê bình văn học, thồ
luận.... Chẳng thế, Nguyễn Hiếu là hội viên của nhiều hội về văn học nghệ thuật
(Hội Nhà văn Hà Nội, Hội Nhà văn Việt
Có điều này, Nguyễn Hiếu rất ham thích
dự các Trạo sáng tác do các chuyên ngành văn học nghệ thuật mở. Có năm, ông dự
trại quanh năm, đầu năm với hội này, giữa năm với hội nọ, cuối năm với hội kia.
Mà đã dự trại là rất nghiêm túc, chứ không như ai đó, mượn cớ dự Trại sáng tác
để tụ bạ, nhậu nhẹt hoặc du hí mua sắm. Năm 2020, xen kẽ giữa các đợt dịch
covid19 bùng phát, Hội Nhà văn Việt Nam tranh thủ mở được 2 trại sáng tác ở Đại
Lải và Đa Lạt. Tôi và Nguyễn Hiếu đều tham dự Trại Đà Lat, ở cùng phòng với
nhau. Gần nửa tháng trời, để ý, dù có cà phê hay tranh thủ thăm thú, nhưng ngày
nào, Nguyễn Hiếu cũng đủ sáng chiều gõ máy tính sáng tác. Cùng lúc, ông viết
song hành hai kịch bản sân khấu, đều về đề tải lịch sử dân tộc.
Sức viết của nhà văn Nguyễn Hiếu thật
đáng nể. Có lẽ, ở xứ ta, về sức viết, khỏe và bền bỉ theo năm tháng, và ngay cả
cái sự “vơ bèo vạt tép” (nghĩa là
không bỏ sót, hễ viết được gì là viết), thì Nguyễn Hiếu chỉ đứng sau cụ Tô Hoài
?!...
Người ta bảo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, song tôi nghĩ, sức viết như Nguyễn Hiếu, thật đáng nể!
3. Chất hài, người và văn.
Ở xứ Việt
mình, văn chương có tính hài không nhiều, nếu không muốn nói là hiếm. Nhẩm
tinh, văn học hiện đại Việt Nam, nhà văn Nguyễn Công Hoan thuộc hàng tiên chỉ,
là đỉnh, không có ai so sánh được. Sau ngài tiên chỉ Nguyễn Công Hoan, thì nhà
văn Vũ Trọng Phụng thuôc hàng thứ hai, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn
này, sự hóm hình rất rõ nét Nghĩ tiếp, có nhà thơ Tú Mỡ, nhà văn Ngô Tất Tố
(trong Việc làng), và nhà văn Nam
Cao. Riêng với Nam Cao, chất bi hài xem lẫn nhuần nhuyễn, rõ nhất trong các tác
phẫm Chí Phèo, Sống mòn, Tư cách mõ...
Lóp trước là
vậy, và có lẽ các nhà văn này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ các tác giả phương Tây
văn chương giàu yếu tố uy-mua như
Moliere, Balxac. Cervantes .. Sau này, thời thế khác đi, các nhà văn xứ ta viết
nghiêm túc quá, cứ nhăm nhăm lý tưởng này nọ, mà quên đi chất hài sẵn có trong
cuộc sống hàng ngày, quên rằng sự hài hước là điều cần thiết giúp con người ta
lấy lại cân bằng. Họ ngại viết hài, phần vì lo bị suy diễn là đùa cợt, chế giễu
này nọ, phần vì viết hài không dễ chít nào..., Để ý, chỉ thấy vài ba cái tên
như Tô Hoài, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Đức Tiến và Nguyễn Hiếu ?...
Thường thì,
văn chương và con người thật của nhà văn không hắn giống nhau. Nhiều người,
trong cuộc sống, điệu bộ, nói năng vẻ hài hước đấy, nhưng viết ra thì rất chi
là nghiêm cẩn, hoặc không thì nhạt toẹt, chắng có gì đáng cười cả. Lại có
người, bề ngoài nghiêm chỉnh lắm, song khi viết văn chương hóm hình, giàu chất uy-\mua... Ít người, nói
năng hài hước và văn chương cũng giàu chất hài. Nguyễn Hiếu là trường hợp con
người nhà văn và văn chương khá tương đồng, giàu tính hài. Làm việc cùng cơ
quan mấy chục năm trời, tiếp xúc với Nguyễn Hiếu, từ lúc ông chưa nhiều tuổi
đến tận già, hầu như lúc nào cũng thấy ông vui đùa, bông lơn, từ ánh mắt, hàng
ria, tiếng cười đến ngôn từ hội thoại đều hài hước. Dân nhà Đài (VOV) còn nhớ
khá nhiều câu vè bông đùa mà Nguyễn Hiếu ứng khẩu trêu chọc người này người nọ
ở cơ quan... ( Ví như: Ban ta có một em
Đ,/ cái người thì ngắn cái lông thì dài/ HT bèn giả trăm hai/ Đ rằng không bán
để dài quét Ban” “ hay như “C ơi anh
mượn chiếc thìa/ ăn xong chốc nữa anh chìa sang cho”” hay như “Bút danh thì gọi VT/ nhưng trong lý lịch lại
là thằng N.” v,v... ). Cảm giác như, chẳng bao giờ Nguyễn Hiếu nghiêm túc
cả. Ngay cả khi ông lên chức danh trưởng phòng của một đơn vị biên tập, thì
Nguyễn Hiếu cũng cười đùa rằng: “Làm
trưởng phòng, sướng nhất là từ nay mỗ không phải đi chuyển trích băng nữa”
( chằng là, đây là một khâu kỹ thuật tỉ mỉ và đáng ngại trong quy trình sản
xuất chương trình của nhà Đài)...
Đấy là con
người hài hước Nguyễn Hiếu, còn văn chương thì sao? Tập truyện đầu tay của
Nguyễn Hiếu ‘Chuyện cái vòi nước” là
truyện hài. Bẵng đi nhiều năm, ông mới cho ra
tập hài nữa là “Cười dành cho tất
cả”. Như vậy, không có nghĩa là Nguyễn Hiếu bỏ hài. Tuy không chuyên tâm
viết hài, song chất hài Nguyễn Hiếu ám vào hầu hết các tác phẩm của ông ở mọi
thể loại, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch sân khấu, kịch phim, tiểu luận, phê
bình văn học, thậm chí cả thơ. Theo tôi, chất hài là một thế mạnh của Nguyễn
Hiếu và chính sự hài hước ấy là chất kết dình vô cũng quan trọng giúp các tác
phẩm của ông đứng được, thậm chí đúng vững, khi mà một số tác phẩm về ý tưởng, hoặc kết cầu, còn non. Hài là yếu tố
đắc địa trong nghệ thuật sân khấu, nên Nguyễn Hiếu vì thế mạnh vốn có này, đã
chuyền dần sang địa hạt sâu khẫu và ông khá thành công. Kịch bản của ông không
những được nhiều Đoàn chọn dựng vở mà còn đoạt được giải thưởng cao trong các
hội diễn sân khấu. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, nhan nhản chi
tiết, nhân vật, hội thoại đậm chất hài. Ở tiểu luận, phê bình văn học, cũng
thấy Nguyễn Hiếu tinh quái, tung hừng hài hước. Đợt dự trại sáng tác văn học
của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 10.2020 tại Đà Lạt, trong những lúc trá dư
tửu hậu tay đôi tay ba với nhau, Nguyễn Hiếu bàn luận sắc sảo, đưa ra nhiều
nhận định về thơ ca, văn chương của nhà thơ này nhà văn nọ, khá chuẩn xác, ngắn
gọn và rất chi ấn tượng, hài hước,...
4. Lãng đãng thơ
Làng đãng thơ, không có nghĩa là thơ Nguyễn Hiếu ít và
mỏng, dăm ba chục bài cho vui, hay kiểu “kém
miềng khó chịu” làm thơ cho có. Mặc dù là tác giả văn xuôi và kịch tác gia,
song Nguyễn Hiếu vẫn bị Nàng thơ
quyến rũ. Có thể nói, Nguyễn Hiếu đầy ý thức và khá dụng công trong thi ca.
Trong tổng tập tác phẩm Nguyễn Hiếu được tài trợ xuất bản nhân dịp đại lễ 1000
năm Thăng Long-Hà Nội, năm 2010, gồm 19 tập thì
riêng một tập về thơ, dày gần 500 trang in với khoảng 300 bài thơ và cả
kịch thơ, trường ca.
Về thơ Nguyễn Hiếu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có hẳn một bài
viết dài bàn luận “Tính công dân trong
thoe Nguyễn Hiếu”. Riêng tôi nghĩ, phải chăng, con người làm báo và ngôn ngữ
kịch đã làm nên tính công dân trong
thơ ông?
Tôi đã nhiều lần nghe chính Nguyễn Hiếu nói về thơ của ông.
Quả thực, nghe ông hùng biện về thơ mình, ra chiều hấp dẫn lắm. Những lúc như
vậy, thưởng tôi chỉ lắng nghe, chốc chốc điểm một câu ngang, chọc ngoáy, để ông
hăng tiết vịt mà thôi. Thực lòng, tôi ngại đọc thơ Nguyễn Hiếu, ngại vì dài
dòng, loằng ngoằng, từ cái tít đến câu chữ bên trong. Thì đây, những cái tít: Nếu trái dất này không có các loại bom, Có những con người là con số không, Giữa Matsxcova này anh lại bỗng yêu em, Gửi cho một đoàn viên Công đoàn Đoàn kết,
Tay đã tự do không thể đặt vào xiềng,
Bài thơ có thể dùng làm tư liệu để viết
văn xuôi, Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng Bình-Vĩnh Linh... Đại khái
vậy, nhiều lắm. Đọc thơ ông, một lần, ù tai, toát mồ hôi và chẳng nhớ gì. Nhưng
đọc lại, thấy ông lập tứ rõ ràng đấy chứ. Nguyễn Hiếu khá nhất quán, từ tiểu
thuyết đến thơ, ông đều lập tứ, ý đồ gửi gắm thông điệp này nọ, có điều, diễn
đạt lại dài dòng, đôi khi rối rắm, và khá đại ngôn, khiến người đọc cảm nhận,
bài thơ ấy, chỉ cần đọc mỗi cái tít là xong, là đủ hiếu ý rồi, nó toạc móng heo
ra đấy, cần chi phài đọc hết cả bài cho mất công !?...
Cả bài thơ, cứ ngổn ngang rặm rạp như bày trận, nhưng rồi
bất ngờ, đổ trữ tình, suy tư, ví von so sánh... Đọc kỹ, mới à, thấy rất nhiều thứ để chê song cũng có
cái đọng lại để khen.
Vài năm gần đây, để ý, thấy thơ Nguyễn Hiếu đã ít nhiều
thay đổi, kiệm lời hơn, bớt đại ngôn, ý tứ và suy ngẫm hơn. Dường như, Nguyễn
Hiếu dụng ý, gia tăng vị dân gian trong thơ mình, bằng cách sử dụng ca dao, tục
ngữ, cách ngôn, thậm chí câu nói cửa miệng, làm cho bài thơ mang phong vị mới,
đôi khi bất ngờ, khá thú vị. Và cũng bằng cách này, Nguyễn Hiếu tận dụng được
cái hóm hỉnh, chất hài sở trường của mình, thơ têu tếu, vui vui, chấp nhận
được. Những điều này thể hiện khá rõ nét trong chùm thơ 5 bài gần đây ông lựa
chọn, giới thiệu ở trang Web của Hội nhà văn Việt
Đầy
suy tư: “...Trở lại căn nhà xưa của mẹ/
Nơi giếng đất trong veo nỗi nhớ đầu/ Khuya, nước điểm buồn rơi lặng/ Cành dương
xỉ xanh trời khuôn tròn đáy mắt/ Gầu đu đưa bên má đỏ em/ Giếng xưa nay đã lấp/
Tình một thủa ai quên?...” (Trở lại căn nhà xưa của mẹ); Hàng trăm năm/ Và đến cả bây giờ/ Ai đi qua
đây cũng buông tiếng thở dài/ Mảnh đất này nghèo quá/ Loi thoi đụn nhà mái rạ/
Mái nhà hình lưỡi rìu/ Trọn đời xẻ đất kiếm ăn/ Con gái lùn đi vì gánh vì gồng/
Con trai lêu đêu vì đi kheo lội biển ... Con vịt cũng gày/ Con thuyền cũng
mảnh/ Câu ru em núi chặn, biển ngăn/ Đất cằn không đủ tiếng ngân/ Ruộng cằn nụ
cười cũng héo/ Câu ru ngắn không đủ trẻ ngủ ngon...” (Gửi những mảnh đồng, cồn cát Quảng
Bình-Vĩnh Linh)...
Hay têu tếu nhưng ý vị: “Đàn bà đi xa, về ngắn/ Một sương hai nắng/ Ruộng muống, vại cà/ Ngực
tròn quả bưởi/ Tháng năm trôi…/ Mặt xạm, tóc xơ/ Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo
mỏng/ Lửa tắt, cơm sôi/ Con nguệch mặt đòi ti,. Chồng ngầy ngà tòm tem!/ Bố ho
sù sụ khêu đèn,/ Lợn kêu eng éc.
Lũ em gõ nồi!/ Quái chiều nắng nhạt đã rơi/ Hai mươi,
trái hồng in gò má/ Ba mươi, bồ hóng xạm da/ Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng/
Sàng gạo, lông mày cám đọng...”và “Làng tôi lũ lĩ đàn bà/ Hay làm, nhường ăn,
khoẻ nói/ Một thời mớ bẩy mớ ba/ Tóc lả đuôi gà/ Dép cong cau sáu/ Cười duyên
nhưng nhức hạt na/ Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà/ Đói no không người tỏ/ Lời ru
nửa câu hát cũ/ Ối à rồi lại ới a...” (Đàn bà làng tôi); “Một
thùa làng tôi/ Đàn ông nhiều vô kể/ Đầy đình, chật điếm, ngập đê./ Gà gáy canh
tư đã rời hơi vợ/ Toòng teng điếu cày, nùn rơm/ Con trâu đi trước/ Thằng người
chập choạng bước sau/ Áo tơi, nón lá./ Mẹ hĩm trên đồng cạn,/ Bố cu dưới đồng
sâu...” và “Một thời làng tôi/ Đàn
ông vợi đi vô kể/ Tùng tùng trống gọi ra đi/ Áo màu đất đổi áo xanh rừng/ Mẹ cu
cứng mồm hô câu “vắt, diệt”/ Yếu trâu hơn chán khoẻ bò/ Vắng bóng bố em. Mộng
giường cọt kẹt/ Rô ron rán ròn không kẻ nhắm./ Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm/
Thóc giống cắn chuột trong bồ...” (Đàn
ông làng tôi); “Đứa nào trèo lên cây dừa
ấy thế/ Nước dừa ngầu bọt cô ca/ Hoa mơ ngoẹo cổ cúm gà/ Tam quan chùa không
chua vị khế/ Cung văn bận đi mát xa/ Đàn cò nằm dài ư ử/ Em hát đấy à? Em cứ
hát/ Dây quai thao vương dải xu chiêng/ Sắp qua cầu hơi nhiều giọng bass/ Riêng
ông chuếnh choáng nghiêng nghiêng...” (Nghe em hát);
Trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai của đoàn Hội nhà văn
dịp xuân Bính Thân, Nguyễn Hiếu viết bài thơ
Rét ở Mường Khương, nỡm mọi
người mà cũng nỡm nhà thơ Pừ Sào Mìn:“Hai chăn dầy phủ lên/ Mắt vẫn hấp háy mở. Vì
thiếu chăn 37 độ/ Tỏa ra từ người đàn bà của riêng mình/ Giấc ngủ ép nghiêng
nghiêng/ Cơ chừng chực đổ” và đây nữa“Có
thứ cũng được gọi là chân/ Không có gì bọc bao/ Không chui vào lỗ nào/ Cả đêm
chênh vênh thức/ Rạng sáng nhờ chút xuân tàn/ Ngóc nghểnh ngảng đôi chút/ Như
đọt măng cằn...”, “Sướng nhất Phờ Sào Mìn?/ Đêm giá lạnh này/ Bụng rượu lão ấp
vào
Mông mẩy vợ/ Tôi mong giữa hai người/ Phọt ra ngọn lử/
Đốt thành tro cái buốt,/ Cái giá Mường khương”..
Mừng là Nguyễn Hiếu đã đổi mới thơ mình, chắt lọc hơn,
đằm hơn, vẫn giữ mà còn phát huy được sự hóm hình vốn có. Giờ đọc thơ Nguyễn
Hiếu, tôi bớt ngại, nhiều bài đọc thấy khoai khoái, bật cười một mình... /.
PHẠM HỒNG NHẬT,
từ nhiệt huyết minh họa cuộc sống
đến những nỗi niềm cõi nhân gian...
Tôi biết đến nhà thơ Phạm Hồng Nhật, con người và thơ
ông trong một lần gặp tình cờ ở văn phòng của nhà thơ Trần Đăng Khoa tại trụ sở
Hội Nhà văn Việt
Thực tình, trước khi gặp Phạm Hồng
Nhật và đọc tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố (Nxb
Hội Nhà văn, 2016), tôi không biết gì về thơ ông, mặc dù ông sáng tác và có
thơ đăng báo cùng thời với nhiều nhà thơ khác trưởng thành ở vùng đất ven biển
Đông Bắc mà tôi biết đến tên tuổi (Trần
Nhuận Minh, Sỹ Hỗng, Yên Đức, Đào Cảng, Thanh Tùng, Nguyễn Tùng Linh...).
Ấy là, Phạm Hồng Nhật sớm bị bứt khỏi
vùng đất mỏ sôi động, môi trường sống, làm việc và sáng tác thân thuộc của mình
về thủ đô Hà Nội làm công tác quản lý. Ông lạ lẫm và bận rộn với công việc mới,
rồi những lo toan chuyện gia đình, nhà cửa mà xao nhãng thơ phú. Quen môi
trường mới rồi, cuộc sống lại biến động, khi Phạm Hồng Nhật được điều sang Liên
Xô (cũ) làm công tác quản lý cộng đồng người Việt Nam sinh sống, học tập và làm
việc cả một vùng rộng lớn thuộc lãnh thổ Ukraina, Vậy là, cả quãng thời gian
dài khoảng hai chục năm trời, ông vắng bóng trên thi đàn nước nhà, trong khi
các bạn thơ cùng thời với ông ngày nào thì vẫn đều đặn làm thơ, đăng báo, xuất
bản tập thơ, thậm chí gặt hái được các giải thưởng thi ca, nâng cấp từ nhà thơ
địa phương lên nhà thơ trung ương, được người yêu thơ quen mặt, biết tên. Ngỡ
như mất tăm, tắt hẳn một người làm thơ tên Phạm Hồng Nhật. Thì chính ông cũng
từng nghĩ vậy, ngay cả khi quãng năm hai nghìn, ông từ nước ngoài trở về Việt
Tôi cho rằng, Phạm Hồng Nhật đã may
mắn, khi ông có một khoảng thời gian khá dài bứt khỏi môi trường thi ca nước
nhà. Đấy là một khoảng lặng cần thiết, đủ để cho riêng Phạm Hồng Nhật, hay
chăng mỗi cây bút, không phải vật vã để thoát ra khỏi chính mình? Nghĩ khác,
viết khác đi, ấy là quá trình làm mới bản thân, chí ít đúng với trường hợp Phạm
Hồng Nhật.
Mặc dù, tập thơ Đàn bò lạc vào thành phố,
không ghi rõ là tuyển thơ, nhưng nội dung thơ và thời điểm sáng tác các bài cho
thấy tính chất tuyển tập. Ở đây, ta thấy các sáng tác của Phạm Hồng Nhật có dấu
ấn rõ từng thời kỳ sống, làm việc và sáng tác của ông.
Thời kỳ đầu, có thể xem là vùng đất
ươm mầm thơ Phạm Hồng Nhật, ấy là vùng mỏ Quảng Ninh và vùng quê Hải Phòng. Vào
những năm 60, 70 của thế kỷ 20, cả một vùng đất duyên hải Đông Bắc tổ quốc (Quảng Ninh, Hải Phòng) là vùng đất công
nghiệp sôi động bậc nhất của đất nước. Giới văn học nghệ thuật nước nhà đổ xô
đi thực tế, sáng tác về vùng đất này, trong đó, người ta không quên việc tìm
kiếm, phát hiện, động viên, giúp đỡ các cây bút trẻ, xuất thân công nhân, người
lao động địa phương, sáng tác từ thực tế đời sống ở đây. Như vậy, ở vào thời
điểm ấy, Phạm Hồng Nhật và một số cây bút văn thơ cùng trang lứa đã tập hợp
thành dàn đồng ca, với bầu nhiệt huyết tràn trề, mặc sức thi ca minh họa cuộc
sống....
Điểm những bài thơ sáng tác trong giai
đoạn đầu trong tập thơ này, khi Phạm Hồng Nhật đang làm việc ở vùng mỏ Đông
Bắc, tức là khoảng thời gian những năm sáu mươi, bảy mươi, như Than trên băng chuyền, Thời gian, Thị xã nơi tôi yêu, Về với mỏ,
Một mai kia, Mối tình cô thợ hàn, Thợ gò,
Trực chiến trên đồi, Nhà máy trong rừng v.v... cho thấy bầu
nhiệt huyết mình họa cuộc sông của tác giả. Thơ nặng về kể chuyện, có không khí
đấy, song dường như, thơ hết câu thì bài thơ cũng tắt luôn ở đấy, chẳng mấy dư
ba. Và điều này, không riêng thấy ở thơ Phạm Hồng Nhật, mà khá phổ biến trong
thơ của nhiều cây bút khác cùng thời kỳ.
Như tôi đã nói, cuộc sống biến động,
bứt Phạm Hồng Nhật khỏi vùng sáng tác, khiến ông hụt hẫng, đứt mạch thi ca.
Những bươn chải cuộc sống ở thủ đô, rồi sau đó, ông được điều sang nước ngoài
làm công tác quản lý nhân sự và tư tưởng, bận rộn và phức tạp, đã ít nhiều làm
thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời ở nơi ông. Nói đứt mạch thơ, không có nghĩa là
Phạm Hồng Nhật bỏ thơ, thi thoảng. túc tắc, ông vẫn sáng tác. Song ở thời điểm
này, ông sáng tác không phải là sự thúc ép từ ý thức mình phải làm thơ để trở
thành nhà thơ, hay vì chạy theo thực tế phong trào lao động sản xuất của xã
hội, hay chính cả sự ganh đua với các bạn thơ cùng thời ... Phạm Hồng Nhật chỉ
sáng tác khi chính lòng mình có tâm sự, muốn được giãi bày. Thế nên, thơ
ông sáng tác ờ thời điểm này, ý tứ rõ,
hàm súc hơn, câu chữ chắt lọc hơn, và như thế, người ta thấy được sự ẩn chứa những
nỗi niềm tâm sự và thân phận con người trong thơ ông.
Nỗi trăn trở viết khác đi, viết như sự
lột xác, làm mới mình được Phạm Hồng Nhật bộc lộ:
Trước
ngọn đèn đêm đang về phía sáng
gà
nhà ai đã gáy mấy lần rồi
giấy
vẫn trắng, bút trên bàn vẫn đợi
chưa
tìm ra một câu chữ thơ tôi...
Nhiều lúc
nghĩ suy gác bút an bài
lại
tiếc muối ra vào bao tư lự
viết
là biết gánh vào nỗi khổ
đã
buông ra là lại nắm tay vào...
(Trước ngọn đèn)
Nếu vài chục năm trước, thuở ban đầu làm thơ, viết là
niềm hân hoan, thì giờ đây, Phạm Hồng Nhật ý thức, viết như đeo đẳng một nỗi
khổ ải. Vậy mà vẫn không thể không viết, ấy là sự chia sẻ nỗi niềm cõi nhân
gian, trong đó có thân phận chính mình:
Chén
lưng, chén vực cũng là
nửa
thì nắng quái, nửa sa bãi bồi
vàng
chìm, phận nổi, bèo trôi
dễ
đâu thiên hạ một người hiểu ta,
(Uống rượu một mình)
Quả là, khi cái nhìn đã khác, thì
đương nhiên nhận thức cũng khác, ngày cả khi gặp lại cái cũ, cái thân quen:
Thuyền
đã khác xưa, ngày để chỏm
lá
buồm căng như một sự dối lừa
máy
thuyền nổ âm vang là có thật
con
đò ngang mái chèo gác trên bờ,
(Tiếng gọi đò trên bến Hà Châu)
Bỗng một ngày, Phạm Hồng Nhật nhận ra
sự đổi mới trong mình, ông mừng, ngỡ ngàng, như muốn reo lên:
Khác
nhiều rồi, tất cả đã khác xưa
và
anh nữa khác xa anh thuở trước
cát
cứ một vùng như ông Vua một nước
nhìn
đám thảo dân như muông thú một bầy
(Đổi mới)
Sự đổi mới, trước hết là quá trinh tự nhận thức, rổi
ra sự nhìn nhận cuộc sống bên ngoài.
Mọi xa xôi
hóa nên gần
mọi lớn rộng
chỉ ban chân xỏ vừa...
Cuối chiều
như tỉnh nhiw mơ
Vừa buông tay
sáng vừa quờ đêm đen.
(Cuối chiều)
Khi ngộ ra điều ấy, thì nhìn vào đâu, người ta cũng
thấy được bản chất cùng sự khác biệt trong mỗi sự vật, hiện tượng, và qua đó,
thấy được thân phận, nỗi niềm của con người, nó đâu mấy khác nỗi niềm trong
lòng ta, nên dễ cảm thông, chia sẻ...
Hương thơm
giữa thảo nguyên Nga
mà nghe như
thể quê nhà gần hơn
lão nông cày
máy nổ ròn
mải mê thu
hái cả vòm trời sao
Tuyết rơi
trắng phủ hôm nào
đất đồng
thành đá cây cao trụi cành
mẹ già tóc
bạc như tranh
ngồi bên bếp
lửa mong manh gió lùa...
(Bây giờ là tháng năm)
Thân cò, phận
hạc cánh chuồn
ở nơi xa xứ
ngỡ mòn ngày qua,
thương cho số
phận người ta
quay vào thì
lụy, bước ra đời tàn,
Phận nghèo
bèo bọt thế gian,
chắc là phúc
mỏng, Niết Bàn bỏ quên...
Xứ người vận
hội mong manh
bao nhiêu ước
vọng cũng thành khói sương,
dẫu chưa đến
bước cùng đường
nhìn ai trên
tuyết mà thương cả mình.
(Phận ngưỡi xa xứ)
Lạnh dưới bao
nhiêu
nóng trên bao
độ
chị tôi chỉ
biết cầm gậy mò sò...
chị mò đáy
biển, mò ngã ba sông
mò mặt trời
lặn, mò mặt trăng rơi...
Mò sâu rốn
biển, mò chìm lòng sông
chỉ bàn tay
biết,
bao nhiêu
miệng ăn,
đứa con thất
nghiệp...
(Chị tôi đi mò sò)
Ba năm rượu ủ
men nồng
mắt lung kinh
cả ở trong then cài
kể già những
tháng riêng hai
mầm cây ươm
cả ở ngoài nắng nôi
Rét gì cái
rét trời ơi
mình em cứ
việc đi vơi về đầy
khăn ngang
ngực lẳng lơ cài
nửa trong
rừng rực nửa ngoài bão giông,...
(Gái góa)
Và nếu không dám nghĩ khác, viết khác lối viết tụng ca
hoan hỉ ngày nào, thì chắc Phạm Hồng Nhật chẳng thể buông ra những câu thơ khái
quát kiểu này:
Nông
thôn mỗi khi qua đò
chờ
cho đông khách giả vở quên xu
gà
què nhốt trong lồng bu
điềm
nhiên ra chợ bán mua đàng hoàng
Nông
thôn ngại việc đồng làng
dép
lê mũ cối bước sang chợ trời
thiếu
tiền đem bán cả người
ai
mua tôi bán lấy vài ba xu...
(Nông thôn)
Khom
lưng quỳ gối chờ thời
Tù
mù lẫn lộn mặt người trắng đen
mặc
cho ai đó đêm đêm
thân
tàn lặn lội kiếm tìm miếng cơm
mặc
bao giọt lệ phơi sương
cửa
tòa đầu gối đi mòn nỗi oan...
(Thành thị)
Đại loại vậy, Phạm Hồng Nhật có nhiều câu thơ khái
quát, cảm thông và chia sẻ với những nỗi niềm, thân phận con người...
Phạm Hồng Nhật đã ý thức “viết là biết gánh vào nỗi khổ” mà
vẫn viết, vẫn làm thơ, vậy có nghĩa là ông
chấp nhận thân phận của người cầm bút hay lo chuyện bao đồng của thiên hạ, tự
mình giăng mắc trong cuộc kiếm tìm “tôi lại tìm tôi” như ông tâm sự trong
bài thơ Kiếm tìm. Hay đâu, trong bài thơ Đàn bò lạc vào thành phố,
được lấy lầm tên cho tập thơ này, Phạm Hồng Nhật đã mượn hỉnh mượn ý để nói tâm
sự mình:
Bò
vào thành phố bao nhiêu thổ lộ
thay
đổi niềm tin, bớt đi nỗi khổ
mắt
nai mở tròn, bàn tay vỗ vỗ...
Tôi
người xa lạ, lạc vào thành phố,
Giờ ở tuổi bảy mươi nhăm, làm thơ khá sớm, bôn ba cũng
nhiều, sướng khổ cũng lắm, hiểu trước nhìn sau, Phạm Hồng Nhật đủ độ từng trải,
đủ bản lĩnh con người, bản lĩnh thơ để tiếp tục chia sẻ những nỗi niểm buồn
vui, đau khổ của cõi nhân gian. Phạm Hồng Nhật nhắn nhủ và cũng là tự nhủ:
Đời
người như dòng sông trôi ấy
khúc
ngoặt khúc cong tối mặt mày,
nước
xanh đường rộng trời cao thẳm
thì
có bao giờ buồn chán. Tôi...
(Ngõ nhỏ vòng vèo)
Bài thơ Tờ lịch của ông như một tuyên ngôn
cho mình:
Mỏng
tang tờ lịch trên tay
chỉ
bao la là lấp đầy khoảng không
lật
sang tờ lịch ngày hồng
nghe
thời gian rồng ở trong gió lùa
Bạc
đầu lại nhớ ngày xưa,
tuổi
xanh nghĩ đến tóc vừa hoa râm
Bao
nhiêu tờ lịch trong năm
biết
bao tờ lịch nằm trong tro tàn.
Bố bản Đặng Quang Tình
( Chân dung nhà văn Đặng Quang Tình )
Dân báo chí ở Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), thế hệ sinh vào những năm tám mươi trở về trước, hễ nhắc đến nhà báo
Đặng Quang Tình đều gọi ông bằng một cái tên dân dã trìu mến là Bố bản.
Sở dĩ vậy, là bởi, nhà báo Đặng Quang
Tình có rất nhiều năm làm công việc Phát thanh Dân tộc và từng là Trưởng ban
Phát thanh Dân tộc đầu tiên từ khi ban biên tập này được thành lập. Hơn nữa,
còn bởi, dáng vẻ bên ngoài giản tiện, phong cách của người đã có nhiều năm sống và làm việc với người dân tộc
thiểu số. Có thể nói, nhà báo Đặng Quang Tình là một trong số ít người ở xứ ta
am hiểu và viết xuất sắc về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt
1.
Tư cách một nhà văn và những giải thưởng văn học,
Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại,
Đặng Quang Tình ở độ tuổi gần chín mươi, ông vẫn chưa là hội viên của bất kỳ
một hội nhà văn nào. Ông sống ở Hà Nội cùng các con, sau khi nghỉ hưu tại Đài
Tiếng nói Việt Nám (VOV) đã hơn hai chục năm nay. Thường người cầm bút như ông,
đều là hội viên của vài ba hội danh giá, ví như hội viên Hội Nhà văn Hà Nội,
hội viên Hội Nhà văn Việt
Đặng Quang Tình không hài lòng về việc
này thì có, song ông không vì thế mà sốt ruột, hay tiếng bấc tiếng chì trách cứ.
Với ông, đơn giản, khi còn cảm hứng và sức lực, viết được gì thì viết thôi.
Chẳng vậy mà, trước lúc nghỉ hưu, ông mới chỉ có duy nhất một tập truyện ngắn
là Hoa
rừng (Nxb Tác phẩm mới, 1986)
và một số truyện ngắn, bút ký in trong các tuyển tập của một số nhà xuất bản
Hội Nhà văn, Giáo dục, Văn hóa, Dân tộc, Lao động và Hà Nội... cùng những sáng
tác đăng tải rái rác ở các báo Văn Nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
v.v...
Sau khi nghỉ hưu, Đặng Quang Tình cho
xuất bản tập sách thứ hai, đó là tập truyện Trăn trở (Nxb Lao động, 2001), và rồi bất ngờ ông
tăng tốc. Chỉ trong vòng mười lăm năm sau, ông cho ra đời các tiểu thuyết Hướng
về Đông (Nxb Lao Đông 2009). Những
cánh chim bạt gió (Nxb Hội Nhà
văn 2011), Âm thầm (Nxb Lao Động
2015) và Tập truyên ngắn Một thời giông bão (Nxb Hội Nhà văn 2010). Như vậy, ông viết
còn sung sức hơn thời kỳ còn công tác. Với ông, dường như khi nghỉ hưu, hàng
ngày không phải bận rộn với công việc quản lý báo chí, những phẩm chất sẵn có
trong mình, ấy là vốn tư liệu sống của một người nhiều năm lăn lộn làm báo và
bút pháp văn phong một nhà văn đã được
khẳng đình, chỉ cần ngồi vào bàn là nên tác phẩm. Quả là, một người từng trải,
đi nhiều, hiểu nhiều, vốn sống ngồn ngộn mà thời gian lại thiếu, thì khi có,
những đứa con tinh thần cứ theo nhau mà ra đời.... Nếu chỉ tính số đầu tác
phẩm, thì quả là Đặng Quang Tính chưa phải nhiều, nhưng dấu ấn văn chương của
ông lại khá đậm nét...
Cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ (1974-1975), là cuộc thi
viết kéo dài cả trước và sau giải phóng miền
Có thể nói, ở thể loại truyện ngắn
trong văn học hiện đại nước nhà, đặc biệt ở mảng đề tài về dân tộc và miền núi,
Đặng Quang Tình đã khẳng định vị trí hàng đầu của mình và là một tên tuổi không
thể không nhắc đến. Sở dĩ, Đặng Quang Tình gặt hái được nhiều thành công ở mảng
văn học miền núi dân tộc như vậy, trước hết là có vốn sống, sự hiểu biết sâu
rộng về mảng đề tài này nhở nhiều năm ông lăn lộn ở miền núi phía Bắc dù ở quân
ngũ hay làm báo. Ông thạo địa lý, lịch sử vùng đất, hiểu tâm lý và phong tục,
tập quán của các dân tộc thiểu số nơi đây. Cái chính, ông phải rất yêu con
người và cuộc sống của họ ở vùng đất này thì mới thể hiện một cách chân thực và
lãng mạn trong những tác phẩm văn học của mình. Ở đây, phải nhắc đến một thuận
lợi riêng có của nhà văn Đặng Quang Tình.
Ông quê Vụ
Thời còn công tác, Đặng Quang Tình
viết ít, khá chắt lọc, ông chỉ xuất bản tập truyện ngắn Hoa rừng (NXB Tác phẩm mới, 1986), và mãi nhiều năm sau, khi đã về
nghỉ hưu, ông mới xuất bản tập truyện thứ hai của mình, Trăn trờ (NXB Lao Động, 2001). Rồi từ đó, có thời gian suy ngẫm,
ông làm một mạch, lần lượt cho xuất bản 4 đàu sách, đó là các tiểu thuyết Hướng ve Đông (NXB Lao Động, 2000). Những cánh chim bạt gió (NXB Hội Nhà
văn, 2011) và Âm thầm (NXB Lao Động,
2015), và tập truyện Một thời giông bão
(NXB Hội Nhà văn, 2010).
Ào ạt với một sê-ri tiểu thuyết như
vậy, tuy nhiên, chúng không để lại dấu vết gì đáng kể, nếu không muốn nói là
lụt đi giữa biển sách xuất bản hàng năm. Tôi nghĩ, lý giải điều này, có vài ba
lý do...
Trước hết, tự thân, sáng tác các tiểu
thuyết này, nhà văn Đặng Quang Tình ý thức viết như một nhu cầu giải tỏa bản
thân, khi có điều kiện về thời gian và sự từng trải vốn có. Sự thôi thúc viết
ra không là phải là nuốn tìm tòi, đổi mới bút pháp, mà như thể, nếu ngần ngại
hay đắn đo thì rất có thể, chúng sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời... Càm giác
ông viết như sự trải lòng, kể lại những chuyện mình từng sống, đã trải qua,
từng biết... Viết như sự tiết kiệm, tận dụng cho hết vốn sống, tư liệu mình
có... Đơn giản vậy, nên khi ra sách, ông tặng bạn bè, người thân, không giới
thiệu, quảng bá này nọ. Xem như mình đã làm xong công việc tự đặt ra cho
mình,...
Góc độ khách quan, thời kỳ này, đã có
sự chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực xuất bản và sáng tác văn học nước nhà.
Trước hết, việc tư nhân tham gia vào lĩnh vực xuất bản đã tác động mạnh đến thị
trường và qua đó ít nhiều làm thay đổi nhu cầu và thị hiếu đọc sách của công
chúng. Hàng năm, các đầu sách về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa
nghệ thuật, tâm linh ra ào ạt, chiếm lĩnh thị trường, lấn át sách văn học. Và
riêng mảng sách văn học, các tác phẩm thuộc diện kinh điển được tái bản tràn
lan, khiến các tác giả trong nước, muốn được bạn đọc chú ý thật không dễ, vì
ngoài nội dung đề cập phải thuộc vấn đề nóng, còn cần thêm các chiêu trò PR này
nọ. Trong bối cảnh như vậy, các tiểu thuyết của nhà văn Đặng Quang Tình bị lút
chìm là đương nhiên.
Còn một lý do nữa, theo tôi, sở trường
của nhà văn Đặng Quang Tình là truyện ngắn. Ở đấy, ông chặt chẽ, dồn nén trong
việc tạo không gian truyện, cài dặt chi tiết tài tình và ngôn ngữ hội thoại sắc
sảo. Tiếc là, nhưng ưu điểm này ông chưa mang được sang tiểu thuyết,...
2. Đặng
Quang Tình, nhà báo – bố bản,
Tháng 10 năm 1987, tôi cầm quyết định
về làm biên tập viên của Ban Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam
(VOV), thì khi đó Đặng Quang Tình làm Trưởng ban. Trước đó không lâu, ban biên tập Thính giả được thành lập
vào ngày 13.8.1987, Đặng Quang Tình được điều từ Ban biên tập Đối nội sang làm trưởng ban mới. Như vậy, ở vào thời
điểm ấy, ông là hạng sừng sỏ ở Đài rồi. Nhớ lại, khi đó, đất nước đang bước vào
thời kỳ đổi mới. Tổng bí thư Đảng là đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn dắt công cuộc
đổi mới với hàng loạt chủ trương và công việc cụ thể, trong đó có một việc nóng, ấy là Nói và Làm ( N & L ), được cập nhật trên báo chí (chủ yếu trên Báo Nhân dân và Đài Tiếng
nói Việt Nam). Ban Thính giả Đài TNVN được thành lập nhằm đáp ứng nhu
cầu này. Phòng tiếp dân của Đài luôn chật khách, họ là các thính giả từ khắp
nước, qua gửi đơn thư, hoặc trực tiếp đến phòng tiếp dân, đưa đơn thư, yêu cầu,
khiếu nại này nọ. Khi ấy, tiếp dân là công việc cực nhọc nhất, bởi lượng công
dân hàng ngày đến rất đông. Người tiếp dân phải có tính kiên nhẫn, ôn hòa, sự
hiểu biết cần thiết và quan trọng phải biết ứng xử nhanh trong các tình huống
bức thiết nếu có, để giải thích và hạ hỏa, sao cho thình giả-công dân cảm thấy
thỏa mái và được tôn trọng. Chỉ cần sơ suất trong nói năng rất có thể làm họ
nổi nóng, to tiếng, thậm chí gây sự ngay tại chỗ. Đã từng xảy ra trường hợp
thính giả mang đơn đến khiếu kiện, khi được nhà Đài giải thích sê là chuyển nội
dung đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền, thị vị thính giả nọ bức xúc, dọa nếu
không được giải quyết ngay sẽ tự sát tại phóng tiếp dân. Là người từng có nhiều
năm làm công tác đảng, nên trưởng ban Đặng Quang Tình trong các buổi giao ban
luôn nhắc nhở các nhân viên thuốc cấp của mình hết sức lưu tâm, cẩn trọng lời
ăn tiếng nói khi tiếp công dân. Ngày đó, tôi cũng phải trực tiếp dân, tháng một
tuần nên thấu hiểu điều này... Thực tế, thời lượng phát sóng dành cho chuyện
mục Tiếp chuyện bạn nghe đài chỉ hạn
định trong khung chương trình hằng ngày, mà số lương đơn thư lại quá nhiều, nên
Trưởng ban Đặng Quang Tình đã tìm ra một giải pháp khả quan và hữu hiệu khác.
Ấy là trên cơ sở nội dung đơn thư của thính giả, lựa chon vấn đề, nội dung cụ
thể đưa vào công văn gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết và trả
lời công văn của nhà Đài, để Đài trả lời thính giả. Như thê, hiệu quá công việc
khá cao. Tôi không thể nhớ nổi hàng trăm, hàng ngàn những đơn thư được giải
quyết bằng cách này trong những tháng năm ấy, song có một trường hợp thì tôi
nhớ. Đó là trường hợp của nhà báo nọ. Anh ta bị xem xét trong một vụ việc cụ
thể, bị quy tội và đã phải ngồi tù mấy năm, rồi được xem xét lại. và được thả tù. Tuy nhiên, khi quay lại cơ quan cũ
thì không được cơ quan này bố trí công việc. Anh ta mang đơn đến Đài, công văn
gửi cơ quan cũ của anh ta do trưởng ban Đặng Quang Tình ký. Một thời gian sau,
khi được cơ quan cũ xem xét, bố trí công việc, anh ta đã quay trở lại Đào báo
tin vui và nói lời cảm ơn. Được biết, sau đó nhà báo này trở thành người làm
báo giỏi. hanh thông trên con đường sự nghiệp tiếp theo của mình. Khi đã nghỉ
hưu, có lần tôi kể lại chuyện này với nhà văn Đặng Quang Tình, ông cười bảo “Ngày ấy, thấy cậu ta ít nhiều bị oan, mình
bênh vực được thì làm thôi...”. Lý lẽ đơn giản vậy.
Sau một thời gian ở Ban Thính giả, một
ban biên tập mới được thành lập, Ban Phát
thanh Dân tộc. Đặng Quang Tình được điều làm trưởng ban nay, bởi ở cơ quan
thời điểm ấy, không ai cớ sự hiểu biết và kinh nghiệm về lĩnh vực dân tộc miền
núi hơn ông. Đặng Quang Tình làm trưởng ban Phát thanh Dân tộc, càng củng cố
thêm biệt danh Bố Bản, cho đến lúc
nghỉ hưu. Tù ấy, mỗi khi nhắc đến Bố Bản,
thì người nhà Đài hẩu như ai cũng hiểu đó là nhà báo, nhà văn Đặng Quang Tình.
3. Chuyện
vào Hội Nhà văn.
Nhà văn Đặng Quang Tình có đơn xin vào
Hội Nhà văn Việt
Khi nhà văn Đặng Quang Tình nghỉ hưu,
chuyện ông vào Hội Nhà văn xem như bị lãng quên. Thi thoảng, mùa kết nạp hội
viên, có người nhắc đến tên ông, không phải là sự quan tâm xem ông có vào Hội
hay không, mà chỉ để mang ra so sánh với nhà văn này nhà văn kia, rằng cái tay
ấy kém thế, có mà xách dép cho ông, thế mà cũng vào Hội đợt này.... Vậy đấy!...
Lâu rồi không ai nhắc đến ông nữa, xem
như ông không tồn tại trong làng văn này. Thế mà, khi chẳng mấy ai nhớ đến ông
thì Đặng Quang Tình lại được công nhận là hội viên Hội Nhà văn Việt
Số là, cách đây dăm năm, khi nhà thơ
Trần Đăng Khoa còn tại vị chức danh Phó Bí thư Đẳng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam,
kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Nam, đôi ba lần trong câu
chuyện văn chương, tôi nhắc ông rằng còn có một nhà văn tên Đặng Quang Tình với
nhiều giải thưởng sáng tác văn học danh giá, từng công tác lâu năm ở Đài này,
xứng đáng được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Đăng Khoa gật gù công
nhận điều đó, và quả thật. trong mấy kỳ kết nạp hội viên (2017, 2018), ông có
nhắc đến trường hợp nhà văn Đậng Quang Tình bị bỏ quên, trong cuộc họp của Ban
thường vụ Hội Nhà văn. Để nhấn mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa còn nhắc đến các
trường hợp đáng tiếc khác như nhà thơ Th, nhà thơ D, đã mất, mà đáng ra họ xứng
đáng được kết nạp vào Hội khi còn sống...
Có lẽ vậy, mùa kết nạp năm 2019, nhà
văn Đặng Quang Tình được Ban thường vụ Hội nhất trí công nhận là hội viên của
Hội bằng quyết định số... nhưng nhầm
tưởng ông đã mất.
Cuối năm 2020, Đại hội Hội Nhà văn
Việt Nam lần thứ 10 diễn ra, tài liệu xuất bản phục vụ đại hội, có tập NHÀ VĂN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cấp cho các hội viên. Xem kỹ. phần về nhà văn Đăng Quang Tình,
khi ra quyết định công nhận hội viên cho ông, người ta lầm tưởng ông đã mất.
Rẩm riu nghĩ. không sao cả, có khi lại là may, thói đời biết đâu đấy, nếu biết
chắc là ông còn sống, thì chưa chắc đã...
Một hôm ông gọi
điện cho tôi với tâm trạng vui vẻ. Dường như ông muốn chia vui cùng tôi, bảo “Rốt cuộc, thế cũng là được. .. Dẫu chẳng để
làm gì, nhưng thế cũng là sự ghi nhận công sức lao động văn chương cả cuộc đời
mình, cậu ạ”. Rồi ông nói về sự nhầm lẫn khi người ta tưởng rằng ông đã mất
khi công nhần ông là hội viên Tôi cười cầu tài, còn ông lại cười rất chi là
sảng khoái: “Tớ gần chín mươi rồi... rủa
tớ chết à... còn lâu nhớ... Tớ sẽ sống đến trăm tuổi!...” ./.
Người đi
giữa thực và mơ,
1.
Có thể, nhiều người sẽ tự nhận mình như vậy. Song người
tôi ám chỉ ở đây là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền,
Mặc dù cho đến nay, Nguyễn Vĩnh Tuyền
chưa từng xuất bản một tập thơ nào, nhưng anh đã từng sáng tác hàng nghìn bài
thơ, và khi vui đâu đó với anh em, bạn bè, thi hữu, anh xuất bản miệng vài ba
bài, hăng lên thì dăm bảy bài là thường.
Nguyễn Vĩnh Tuyền, tuổi Ất Dậu, sinh
năm 1945, hơn tôi vừa đúng một giáp, nhưng chúng tôi chơi với nhau là bạn vong
niên. Tôi biết anh và lập túc thân ngay với Nguyễn Vĩnh Tuyền từ thời điểm mùa
thu năm 2009, khi đó tôi đang phụ trách Văn phòng VOV miền Trung, đóng tại
thành phố Đà Nẵng, và là người mới tò te của Xóm Lá (tên gọi nôm na thân mật
của cộng đồng blogger, Blog Tiếng Việt). Lúc ấy, Nguyễn Vĩnh Tuyền đã là người
cũ, và thuộc hàng đại ca của Xóm Lá rồi. Rón rén bước chân vào Xóm Lá, tôi thấy
anh tung tẩy thơ phú, xướng họa, đùa rỡn khắp Xóm. Có lẽ, với tính cách như
vậy, anh nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết với khá nhiều người,
trong đó có tôi. Tôi xa nhà, từ Hà Nội luân chuyển công tác vào Đà Nẵng, nên ngoài
công việc, tôi dành nhiều thời gian rảnh rỗi đặng giao du với bà con Xóm Lá
giải khuây. Nguyễn Vĩnh Tuyền là một trong số ít người ở Xóm Lá, hiểu hoàn cảnh
và chia sẻ cùng tôi sự trống vắng đó. Thêm nữa, tôi biết anh là cha đẻ của
Nguyễn Vĩnh Tiến, một kiến trúc sư trẻ có tài thơ nhạc, là tác giả của ca khúc Bà tôi, và trước đó là bài thơ Chiếc roi tre được trao giải cao nhất
một cuộc thi thơ, nên có phần nể trọng anh. Phải vậy, mà hai chúng tôi nhanh
chóng kết thần, rồi coi nhau như anh em ruột thịt từ ngày ấy?
Đầu năm 2010, tôi ra lại Hà Nội, văn
phòng làm việc của tôi ngay tại trụ sở 58 Quán Sứ. Cùng thành viên. Xóm Lá ở
đấy còn có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, rồi sau nữa, thêm
nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhạc sĩ Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh Kính, nhà thơ Nguyễn
Thanh Vân, nhà thơ Chử Thu Hằng nhà văn Nguyễn Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa…
nên tháng đôi lần, hễ có điều kiện là à ới tụ họp, chuyện văn chương thơ phú
rôm rả. Bầu không khí ấp cúng như thế, Nguyễn Vĩnh Tuyền càng có cớ để ra thơ…
Công việc của tôi hay phải đi đây đó,
bản tính lại yêu thích miền núi, nên nhiều chuyến đi, tôi hay rủ Nguyễn Vính
Tuyền đi cùng, và thế là, anh em chúng tôi lại trên từng cây số… Tây Bắc thì
Hòa Bình-Sơn La-Điện Biên-Lai Châu-Lào Cai-Yên Bái; Việt Bắc thì Tuyên Quang-Hà
Giang-Cao Bằng-Bắc Cạn; Đông Bắc thì Bắc Giang-Lạng Sơn-Quảng Ninh…Mỗi năm mới,
chúng tôi thường thu xếp về Phủ Lý thăm nhà văn Lưu Quốc Hòa, hoặc vào xứ Thanh
thăm nhà văn Trịnh Tuyên, cùng các blogger miền Thanh-Nghệ… Lang thang đây đó,
vui nhiều và viết cũng nhiều…
Tiếng là có trong tay gia tài hàng
ngàn bài thơ, nhưng nói đến việc tập hợp thành tập thì Nguyễn Vĩnh Tuyền lại
ngại. Đúng ra, anh lười. Trước hết, Nguyễn Vĩnh Tuyền lười việc tìm lại thơ
mình. Mỗi cao hứng, hay mất ngủ, anh đều viết được. Viết như thể, cuộc đời anh
chỉ có Thơ là trọng, ấy vậy, viết xong là quăng quật ngay. Thơ anh rải rác đâu
đó, anh chẳng nhớ, và cũng không thuộc. Anh thuộc khá nhiều thơ của con trai
mình, nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến, song với thơ mình, tôi cam đoan, anh
thuộc không nổi chục bài. Lười tìm lại thơ, và cả lười biên tập. Viết ra đấy,
nhưng có khi chẳng thèm đọc lại, quẳng lên blog hoặc Facebook cá nhân là xong,
và hầu như không biên tập lại bao giờ. Cứ như anh chẳng chịu trách nhiệm gì,
đúng ra, là anh vô trách nhiệm với những đứa con tình thần của mình. Và coi đó
là việc của người khác,,, Ứng xử với thơ mình như vậy, nhưng trong đời sống,
anh lại là người rất chăm chỉ việc nhà, chu toàn chăm sóc vợ,con, các cháu nội
ngoại mình. Không những thế, anh chu đáo và trách nhiệm với quê hương, họ hàng
và bạn bè gần xa…
Có hai người hay giục anh tập hợp thơ
thành tập, ấy là Nguyễn Vĩnh Tiến, và tôi.
Nguyễn Vĩnh Tiến thì giành việc đặt tên tập thơ, còn tôi, biên tập bài
và viết chút gì đấy, xem như phác họa chân dung Nguyễn Vĩnh Tuyền.
Lâu nay, âm âm trong suy nghĩ của tôi,
nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là người đi giữa thực và mơ,…
2.
Nguyễn Vĩnh Tuyền và xứ mơ
Tự thân, Nguyễn Vĩnh Tuyền cũng nhận vậy:
nửa khuya mưa bóng mây
lâm thâm ngoài ngõ hẻm
mềm mơ cơn thức dậy
ảo-thực ấy? ...sinh vần
lạc lẫn từ
ăn vay
thơ tái sinh màu nhớ
thoại ngữ đêm sang ngày...
Trước hết, hãy cũng Nguyễn Vĩnh
Tuyền du ngoạn vào cõi mơ của anh. Thực tình, tôi thích cõi mơ ấy:
mưa chi xối đất mẻ trời
buồn chi lây khổ cả người không dưng
em ơi, thương nhớ quá chừng
xin đừng buồn nữa ngõ lưng chừng… đời!.
và đây nữa:
ai người vấp lối hợp tan
cho tình anh được lấp san cùng tình….
đỉnh non thơm mấy nụ thơm
đã nghe nức nở dỗi hờn hạt mưa
đã nghe luyến nhớ đầy trưa
muốn ôm muôn giọt mau thưa ngợp chiều
Sao không phát sáng đổi màu
Để sông trăng lạnh trên đầu trôi trôi
Rượu trời nhàn nhạt nơi môi
Nâng lên đặt xuống chỗ ngồi vắng tanh
Buông neo tạm bến nhớ nhung
tránh cơn sóng vỗ chập chùng gió mưa
Giấc vui gói kín mạn trưa
bờ tình che kín gió lùa ngang sông
Phôi phai lạc tận bến mơ
nhổ neo!
...đi tiếp nước cờ mai sau?.
... tất cả đang lũ quét vào máu và da thịt nhau
thế là anh biến thành khúc thức buồn tẻ mang mang
giữa cánh đồng đời lao xao sóng nước
tâm thức mơ hồ
những đường cong mịn màng mơ hồ
những lạch khe dòng mương lượn uốn dồn đổ mọi thứ ra sông
(ôi dòng sông bình an đầy hoa mây trắng xám trôi trôi...)
nước gỗ mục dều rác giành giật nhau cõng nắng, cõng mây;
một cuộc đua - một dọc trời mải miết
Anh chờ bên phía lề đau
Em bên lề khổ hai màu lệch chênh
Lề đường lề của bồng bềnh
Nhịp phách thì rõ, tiếng xênh lại chìm
Kể cả khi Nguyễn Vĩnh Tuyền giật mình, sợ rồi cứ mê mải thế
sẽ lạc lối xứ mơ, những muốn quay trở về cõi thực, thì cõi mơ vẫn níu kéo:
Giật mình!
... một phút chiếu, giường
Tiếng chuông cửa?
... Tiếng ngày thường!
Tan mơ?...
Để rồi một sớm tơ vương
có người sắm chiếu trải giường …tương tư
Dưới mưa cuốc bộ cùng mưa
bước chân vừa gấp vừa thưa với tình…
lang thang mãi chốn long đong
chiều nay ánh mắt bỗng long lanh chiều
Cố quên sao được nguồn cơn
ngày dài đêm ngắn chập chờn dòng mơ
Tưởng tan tác khúc ca chiều…
bấc khô dầu cạn,
Và
cứ chập chờn thế này, thử hỏi làm sao Nguyễn Vĩnh Tuyền có thể bước chân ra
khỏi con thuyền mộng cơ chứ ?:
ai khêu lửa tình?
Lạ đôi tinh tú rong chơi
vui miền cực lạc quên nơi sinh thành
có nhà bác học chiêm tinh
ngạc nhiên sao mới cố tìm cho ra
lục soi khắp cõi ta bà
trăm năm dư lẻ vậy mà công không…
Chiều nay gió thoảng ngang đồng
tự dưng đôi cánh bướm hồng? Rong chơi…
Vẫn là cuối đất cùng giời
cơ duyên đốm lửa khuất nơi vô tình
Đây rồi! Một nét lung linh
ồ! Kia một dáng nguyên trinh mong tìm
Vậy
thôi, chẳng dám sa đà nữa, bởi sợ rồi mình cũng sẽ bị Nguyễn Vĩnh Tuyền huyễn
hoặc, mà ngồi chung con thuyền mộng cùng anh lang bạt kỳ hổ trong xứ mơ do anh
viễn tưởng, mê sảng giăng mắc lưới tình, đặng rình bắt cả Nhện đã thành tinh
?...
3. Còn đâu là cõi
thực?:
Đi tìm cõi thực của
Nguyễn Vĩnh Tuyền quả không dễ chút nào. Nó chẳng khác gì việc đãi đất sỏi để
tìm ra được mươi hạt thóc, hạt gạo, và những gì có thể xơi được. Nói vậy quả
không ngoa. Trước khi tìm nhặt những câu thơ thể hiện cõi thật của Nguyễn Vĩnh
Tuyền, thiết tưởng phải chuyện phiếm đôi chút về nhà thơ. Vốn tuổi Dậu (Ất Dậu,
1945), cầm tinh con Gà, anh em bạn bè thân tình mà đùa yêu rằng, quanh năm
suốt tháng anh như con gà trống, chỉ có vài ba viên sỏi, cứ mổ lên mổ xuống,
cục ta cục tác lượn lờ mà dụ lũ gà mái và cả bàn dân thiên hạ “thóc thật,
thóc thật”, khi bày gà xúm vào thì đâu phải là thóc thật, chỉ là thóc
ảo mà thôi… Thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền là vậy, thực ảo lẫn lộn, những câu
thơ ảo, thậm chí ảo diệu thì nhiều lắm, song khi thực, anh lại thực quá, đến
mức độ trúc trắc ngôn từ, đọc lên thành tiếng cho thuận miệng cũng khó. Đấy là
xét về khía cạnh nghệ thuật, và theo cách nói dân gian, ấy là “thật thà hư”…
Còn đây là cõi thực của
Nguyễn Vình Tuyền, thực mà vẫn rất thơ:
Tôi ra đời giữa mùa
chết chóc
Lại là đứa trẻ cuối
cùng sống sót đẻ trong tháng Hai,
Nên no-nê, ấm áp suốt
một đời dạc-dài cơm-áo.
Tháng ba mùa hoa xoan
rắc đầy lối ngõ
Muỗi như trấu bay chàn chạt lưỡi nia
Ngồi học trong màn khói đen, muội đỏ
Bóng tóc đuôi gà ngấp nghé mãi ngoài kia,
Quên rồi sao,
Ngọn đèn dầu leo lét
phía hoang mơ,…
Con theo cha học cách
giơ cao vồ lem nện xuống
từng gộc tre đực lún
theo mỗi nhát vung
chắc nịch,
chính xác, thật tay,
ta-luy cao dần bờ đất
thó đen
lung người, lung bờ
mặt đất, mặt người phờ
phạc…
Cha từng qua bao vụ
mùa thất bát
tháng Tám ngày Ba,
ruột dài mơ miếng để, miếng ăn…
quốc lộ Một - Chiều
ấy, Zil-130 long nhong chốt một đầu rơ-moóc,
quốc lộ Hai – Đêm ấy,
Ifa-W50 lẵng nhẵng, ì ạch chốt hai đầu rơ-moóc,
Hụt hơi, tương lai là
vô định ra vào,
vào ra nhằm ăn theo
tài-xế
ngày mai là hối hả
cuộn guồng theo vòng
bánh xe lăn,
Nhọc nhằn…
Hơi thở ngọt mềm
và cánh tay em trên
ngực mình
yên tĩnh một ban mai
đưa anh về thực tại…
Anh hôn vầng trán em
sáng trong
Tạ ơn những ca nước
thơm hương vi mật ong
tạ ơn những bình nóng
linh chi, con gái mua về từ Hàn Quốc
những cặp lồng cơm.
những bữa tối ngon
lành…
Em bao dung đến tận
cùng nhân cách,
dành dụm cho ta bao
năm ngọt, tháng ngào,
gánh thay ta một đời
chia xa, buồn nhớ
neo cuộc bơi mệt nhoài
bằng bao nhiêu tóc rụng…
Cho buồn khổ không còn nơi trú ngụ
Cho ta quay về bổn phận đàn ông…
Con người Nguyễn Vĩnh
Tuyền là thế đấy. Anh thành thật với quá khứ tuổi thơ vất vả, cơ hàn cùng song
thân nơi quê hương bản quán; thành thật với những năm tháng quân ngũ suốt thời
chiến tranh khói lửa ác liệt, đầy gian khổ hy sinh; thành thật với gia đình
mình, ấy là người vợ tần tảo, đảm đang và đầy bao dung, những đứa con giỏi
giang và hiếu thảo… Đó thực sự là những chiếc phao cứu sinh, những cọc neo chắc
chắn, đặng níu giữ con thuyền mộng của nhà thơ khỏi dạt trôi về bến mơ không
tưởng … Chẳng những vậy, Nguyễn Vĩnh Tuyền còn rất thành thật với những cơn mưa
bóng mây chốc nhát, những cơn say nắng tình cờ, những bóng hồng và cuộc tình
ngắn ngủi ngang qua đời anh… Có lẽ, vì biết ơn nên thành thật, nhưng anh không
hề hối lỗi, đơn giản, bởi Nguyễn Vĩnh Tuyền xem đấy là những chất men say cho
cảm xúc thi ca mà trời đất ban tặng cho mình. Hơn nữa, anh chưa bao giờ quá
đáng với Nàng Thơ, mà còn biết nâng niu, trân trọng:
Mình yêu nhau từ mùa
Thơ năm ấy,
Chết trong nhau từ lần
gặp đầu tiên,
dạn dĩ tháng Tư-ngắn
ngủi cuộc tình,
hoa gạo rực trời hai
chục ngày
rồi bỗng đâu lụi
tắt
trái ớt chỉ thiên cay
sè bốn mắt
cơn cớ gì bẫy đặt hai
ta,
Muốn nhớ lại mau quên
nên chăng cùng xanh
ngắt
đôi mắt nào nắng lửa
buồn đời day dứt mưa,
Em ở lại với Bãi Dâu,
Gành Hào ngợp nắng
vắng bóng nhau thật
rồi,
Sài gòn đường về có
còn thuận lối?...
Thôi cứ khép hờ cả
Người và Thơ
cơ hội những chuyến đi
màu nhân duyên Trời định
cả hương vị thời gian
dường như Đất tính
nhung nhớ tháng Mười
một khúc thăng hoa…
Mong mỏi ngày mai,
yêu nhớ lắm ngày qua,
như lần đầu yêu, lâng
lâng hồi hộp
như lần đầu bay trên
trời mây trắng xốp.
Chợt nhớ câu thơ:
“Bàn chân ta lội xuống
trời
Hát bông nắng cũ ru
lời em xanh”…
Có một điều, tôi không
thích trong thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, ấy là sự lan man và hay lạm dụng ngôn từ.
Phàm người làm thơ, kỵ nhất là nhắc đến từ Thơ hay Tứ
thơ trong thơ mình vì sợ nhàm và lộ, cũng như người đang
yêu ngại nhất nhắc đến từ Yêu vì e là thô… Riêng với Nguyễn Vĩnh
Tuyền thì ngược lại, trong thơ anh nhan nhản những từ này. Đã hơn một lần, tôi
bàn luận với anh điều đó, anh có vẻ nghe ra và bày tỏ sự đồng tình. Nhưng rồi,
đâu vẫn đấy, chẳng rõ, theo thói quen, vô tình hay hữu ý?
Và đấy, mới thật đúng là
người và thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền !?...
Nhà
văn Trần Nguyên Vấn,
cần
mẫn và ân tính
(
Chân dung nhà văn Trần Nguyên Vấn )
Trong số các nhà văn, nhà
thơ Việt Nam hiện đại, trừ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi sớm biết vì chúng tôi
cùng lứa học phổ thông và cùng nhau đứng trong đội tuyển giỏi Văn của tỉnh Hải
Hưng tham gia kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Băc vào
tháng 4.1075, thì Trần Nguyên Vấn là người tôi biết mặt đầu tiên. Tính từ lần
đầu gặp Trần Nguyên Vấn, quãng năm 1982, 1983 gì đó, đến nay đã ngót bốn mươi
năm quen biết. ấy vậy mà, mỗi khi viết gì về ông, tôi vẫn phân vân về danh
xưng, Trần Nguyên Vấn hay Trần Phương Trà, nhà văn hay nhà thơ? Đắn đo vậy
thôi, song không hiểu sao, tự nhiên tôi mặc định cách gọi, nhà văn thì Trần
Nguyên Vấn, nhà thơ thì Trần Phương Trà. Đương nhiên, ông viết dều cả hai thì
gọi thế nào chẳng được...
Trở lại buổi ban đầu quen
biết ông. Thời điểm ấy, tôi làm đúng công việc của một anh kỹ sư canh nông, ở
tít mãi vùng biên giới Tây
Hàng năm, mỗi lần đi phép
ra Bắc, Trịnh Bá Ninh hay dẫn tôi cùng đây đó, nhớ thế mà tôi gặp và quen biết
nhà văn Trần Nguyên Vấn. Rồi từ ông, tôi biết thêm các bạn vân của ông, nhà văn
Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Thái Vận, nhà thơ Võ Văn Trực, nhà thơ Ngô Quân
Miện,... Cũng qua ông, lần đầu tôi bước chân ngó nghiêng ngôi nhà văn học của
Đài TNVN ở 58 Quán Sứ, để biết mặt những tên tuổi mà bấy lâu tôi từng đọc và
nghe những tác phẩm của họ như: Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Mạnh
Thường, Trúc Thông, Lê Đình Cánh,...
Cho đến khi, cầm quyết định
về nhận công tác tại Đài TNVN vào tháng 10/1987, thì ngoài những người cùng đơn
vị với mình ở Ban Thính giả, người tôi hay lui tới chính là nhà văn Trần Nguyên
Vấn. Dù hơn tôi hai chục tuổi (ông sinh
năm 1937). Trần Nguyên Vấn coi tôi như đứa em út của mình. Tôi cũng hay đến
chơi thăm ông tại nhà riêng, một căn hộ nằm trong khu tập thể số 1 Lê Phụng
Hiểu, Hà Nội, và đó rời sang khu tập thể ở phố Tông Đản... Thành đàn em của
ông, rỉ rả tháng năm, từng trang cuộc đời ông dần mở, ngỡ thuận buồm xuôi gió,
nhưng không phải vậy,...
1, Hành trình trờ thành nhà văn,
Trần Nguyên Vấn sinh ở quê,
làng Trúc Lâm thuộc thành phố Huế. Đi học hết lớp Đệ Tứ trường Trung học Khải
Đinh (Quốc học Huê), đậu bằng trung
học đệ nhất, tháng 7 năm 1954 hiệp định Genève có hiệu lưc, ông xin ra Bắc tiếp
tục đi học, trường Phổ thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đây là ngôi
trường nổi tiếng mà nhiều bậc trí thức hàng đầu của nước ta từng là học sinh và
trưởng thành từ đây. Thời gian này, gặp nhiều khó khăn, trận lụt to tháng 9 năm
1954 do vỡ đê sông Lam, rất khổ vì Trần Nguyên Vấn là học sinh vượt tuyến không
có học bổng phải lo dạy kèm trong hè để dồn tiền ăn đi học, giữa năm 1956 mới
có học bổng. Nhung rồi, may mắn, năm 1958, thi đỗ vào khóa 3 (1958-1961) khoa
Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ở vào thời điểm ấy, sau vụ Nhân văn Giai phẩm nên việc vào khoa văn
rất ngặt nghèo, mấy trăm thí sinh chỉ lấy 24 người. thì 17 cán bộ đi học, chỉ
có 7 học sinh toàn miền Bắc có Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Trần
Nguyên Vấn, Nông Thị Nhuận, Phạm Thị Hồng Thọ, Vũ Nguyên Ngữ. Ngay khi là sinh
viên Tổng hợp Văn, đã có một nhóm gồm Lê Khâm, Hoàng Tiến, Ngô Văn Phú ,Võ Văn
Trực, Nguyễn Gia Nùng và Trần Nguyên Vấn, tổ chức, động viên nhau sáng tác. Các
thành viên trong nhóm tham gia viết truyện ký nhân dịp kỷ niêm kháng chiến
chống Pháp của Thành Đội Hà Nội. Trần Nguyên Vấn viết ký Đánh sân bay Gia Lâm theo lời kể của một số chiến sĩ. Bài ký này
cùng các truyện ký của Lê Khâm, Nguyễn Gia Nùng... được Thành đội Hà Nội tập
hợp vào cuốn sách Trở về Hà Nội, do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 1960. Như
vậy, có thể nói, con đường sáng tác văn học của Trần Nguyên Vấn khời đầu thuận
lợi, báo hiệu sự hanh thông trong sự nghiệp văn chương...
Nhưng rồi, một sự hanh
thông khác lại mở ra, năm 1961, tốt nghiệp Tổng hợp Văn, hai cử nhân văn trẻ là
Trần Nguyên Vấn và Võ Văn Trực nhận quyết định phân công về Bộ Ngoại giao công
tác, Tương lai trở thành một nhà ngoại giao mở ra, song dường như đinh mệnh an
bài Trần Nguyên Vấn phải theo nghiệp cầm bút văn chương thơ phú, nên chàng cử
nhân văn khoa này lại không hài lòng với nghề ngoại giao mà nhiều người mong
chẳng được. Người bạn cùng lớp là Nông Thị Nhuân được phân công về làm biên tập
ở mục Đọc truyện dêm khuya thuộc
Phòng Văn nghệ Đài TNVN, mách Trần Nguyên Vấn là mục Tiếng thơ của Đài đang cần tuyển biên tập viên. Thế là Trần Nguyên
Vấn báo cáo Bộ Ngoại giao rồi tự đi liên hệ, và kết quả. nhà ngoại giao tương
lai trở thành biên tập thơ...
Trần Nguyên Vấn bước chân
vao môi trường làm báo chuyên nghiệp, vào mái nhà chung 58 Quán Sứ, trụ sở Đài
TNVN từ tháng 11.1961 và kể từ đấy, ông gắn bó với địa chỉ này cho đến lúc nghỉ
hưu, tuy quãng giữa chặng đường dài này nhiều biến cố, trắc trờ....
Thời gian làm ở chuyên mục Tiếng thơ, ngoài công việc biên tập,
Trần Nguyên Vấn viết bút ký và làm thơ. Đáp ứng nhu cầu của công việc, đặc biệt
là phóng viên chiến trường, đến năm 1965, ông xin chuyển sang Phòng miền
Năm 1969 chi hội Văn nghệ
giải phóng Trị Thiên Huế được thành lập. Trần Nguyên Vấn được bầu vào Ban Chấp
hành Chi hội do nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chi hội trưởng,, nhà thơ Thanh Hải là Chi
hội phó kiêm Tổng Thư ký, còn ông làm Tạp chí Sinh hoạt văn nghệ của Chi hội/ Thôi thi mặc sức mà viết, truyên
ngắn, bút ký, thơ, vè, đủ loại, miễn sao phục vụ phong trào kháng chiến. Truyện
ngắn Của tin ông viết năm 1970 gửi ra
dự thi truyên ngắn báo Văn nghê (1970-1971) được tặng thưởng. Nói chung, ông
hăng hái xuống đồng bằng, ghi chép, viết truyện ngắn, ký sự, thơ gửi ra cho Đài phát thanh Giải phóng. Đài TNVN và Tiểu ban văn nghệ miền
Nhân đây, tôi thấy cần nói
thêm về Đài Phát thanh Gải phóng, nơi
nhà văn Trần Nguyên Vấn nhiều năm công tác, gắn bó máu thịt. Khi Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào cuối năm 1960, theo sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam đã
chuẩn bị mọi việc để thành lập Đài Phát
thanh Giải phóng. Và ngày 01/02/1962, tại cánh rừng Căn cứ Mã Đà, thuộc
Chiến khu Đ, Đài Phát thanh Giải phóng,
cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức phát sóng
buổi đầu tiên, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của báo chí cách mạng trên
chiến trường miền Nam. Đài Phát thanh Giải
phóng đã phát bản tin đầu tiên bằng năm thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa và
Khmer, với lời xướng kiêu hãnh: “Đây là
Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói
chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.” Đài Phát thanh Giải phóng phải thay đổi
địa điểm phát sóng nhiều lần ở một số tỉnh và có điểm phát là cơ quan tuyệt mật
ở Hà Nội, với các bí danh: Viz 1080 Bộ Tổng Tham mưu, C55 và CP90... Đài Phát thanh Giải phóng chấm dứt hoạt
động vào ngày 31.8.1976, hoàn thành nhiệm vụ của mình sau khi đất nước thống
nhất Bắc
Sau giải phóng miền Nam, Trần Nguyên Vấn
trờ về Đài Phát thanh Giải phóng, làm
Phó trưởng phòng Văn nghệ ở Sài Gòn. Khi Đài
Phát thanh giải phóng chấm dứt hoạt động, ông trở lại mái nhà xưa, Đài TNVN nhưng ở cơ quan Đài tại phía Nam, và mãi năm
1980 ông mới ra Hà Nội, tiếp tục công việc ở Phòng Văn nghệ. Ông nghỉ hưu với
cương vị Chủ nhiệm chương trình phát
thanh Văn học của Đài. Trần Nguyên Vấn trờ thành hội viên Hội Nhà văn Việt
Hành trình để trở thành nhà văn của Trần
Nguyên Vấn là hành trình dấn thân đầy gian khổ nơi chiến trường bom đạn ác
liệt; là hành trình viết tạp mọi thể loại để phục vụ thông tin tuyên truyền thời
chiến, để có sự lắng động, chắt lọc mà thành văn chương. Tôi nghĩ và thầm so
sánh, nếu như Trần Nguyên Vấn không đổi nghề, vẫn làmviệc ở Bộ Ngoại giao thì
sao nhỉ? Tất nhiên, là nhà ngoại giao mà có lòng say mê văn chương, hoàn toàn
có thể trở thành nhà văn, song ông đã không lựa chọn vậy. Trần Nguyên Vấn đã
chọn cho mình con đường cầm bút chuyên nghiệp, và ở thời điểm ác liệt nhất của
cuộc chiến, ông đã tình nguyện dấn thân vào chiến trường thì hẳn, lý tưởng sống
và lý tưởng văn chương hun đúc, cùng hòa quện trong ông. Khi ấy, ông biết rằng,
vào mặt trận, rất có thể một ngày nào đó mình sẽ nằm lại chiến trường, như đồng
nghiệp Tô Chức, hay như các bạn văn Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong. Nguyễn
Mỹ, Lê Anh Xuân,... và bao chiến sĩ khâc,
May thay, ông đã bình an đi qua chiến
tranh để trờ thành nhà văn. Hơn thế, ông là một nhà báo, một chiến sĩ !
2. Thơ văn
Trần Nguyên Vấn,
Đến
nay, nhà văn Trần Nguyên Vấn đã xuất bản các tập sách:Trở về Hà Nội (truyện ký, in chung,1960):; Của tin (truyện ngắn,1981). Niềm
vui thầm lặng (truyện ký, in chung 1987); Bốn mùa hoa trái (thơ,
2000); Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ
Tuân Nguyễn (sưu tầm, biên soạn, 2008), Nặng lòng với Huế (chân
dung văn nghê, 2017), Từ trường Quốc học Huế (thơ văn,
2017), Về giữa lòng quê (Ký,
2017)... Được biết, ông còn mấy tập sách đã xong bản thảo, dự định xuất bản nay
mai.
Biết ông nhiều năm nay, đọc và hầu chuyện ông, tôi
hiểu, Trần Nguyên Vấn không hẳn là một người tài hoa, tinh thần và câu chữ toát
ra ngoài, Trong nhóm văn chương ba người với nhau, Vũ Đình Minh tài hoa, hoa,
hóm hỉnh; còn Nguyễn Thái Vận. lãng mạn mơ mộng, thì Trần Nguyên Vấn cần mẫn,
cẩn trọng, chu toàn. Có lẽ, những đức tính ấy bổ sung cho nhau, khiến họ gắn
kết, thân thiết, quý mến nhau. Giờ thì Nguyễn Thái Vận và Vũ Đình Minh đã theo
cánh hạc về trời, còn lại mình Trần Nguyên Vấn. Vốn người hiền hoa, chu đáo và
quảng giao, Trần Nguyên Vấn luôn biết cách tìm niềm vui trong gia đình và bầu
bạn, Ông đặc biệt say mê việc làm sách, từ khâu tổ chức, tập hợp, biên soạn,
đến in ấn phát hành... và đương nhiên, vẫn rỉ tả viết. Ông là người ghi chép
cẩn thận, tỉ mỉ mọi sự việc thấy cần thiết và lưu trữ rất tốt, nên có cả kho tư
liệu lớn. Tôi đã tứng ngó xem những cuốn sổ ghi chép tư liệu của ông, chữ nhỏ, khá
đẹp, chú thích và thư mục đầy đủ. Ông cũng là người lưu trữ tư liệu ảnh đáng
nể, Tôi biết, ông có những bức ảnh quý hiếm về các nhà văn, nhà thơ và văn nghệ
sĩ Việt
Trần Nguyên Vấn từng giao du, gặp gỡ nhiều thế hệ văn
nghệ sĩ Việt
Tôi nhớ, cũng khá lâu rồi, đã có lần, khi liếc qia kho
tư liệu phong phú của ông, tôi đùa mà hỏi ông: “Bác có nhiều tư liệu quý thế... sao bác chưa chuyển hóa chúng thành tác
phẩm văn học? ... Em thấy, bác đã sử dụng được bao nhiêu đâu?...”. Trần
Nguyên Vấn cười hiền, bảo: “Ừ....mình
cũng đang dùng dần đấy....”. Rồi ông say sưa nói về dự định viết cuốn này
tập nọ, chủ đề tư tưởng và bố cục hẳn hôi. Tôi chờ mà chưa thấy, cũng ngại
không dám hỏi lại. Dường như, có gì đó chưa thông suốt trong ông thì phải?
Những năm gần đây, thỉnh thoảng anh em gặp nhau, chỉ thấy ông nói về việc làm
sách, nhất là sách về trưởng Quốc học Huế
và Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An.
Miễn sao, ông hào hứng và vui khỏe là được, khi đã ở độ tuổi ngoại tám mươi.
Tôi vẫn có ý chở, Thâm tâm, tôi thèm và tiếc kho tư
;liệu, đặc biệt là tư liệu ghi chép về chiến tranh của ông.
3. Cần mẫn
và ân tình Trần Nguyên Vấn,
Bút danh Trần
Phương Trà thay cho tên thật Trần Nguyên Vấn chỉ có khi ông vào chiến
trường Thừa Thiên Huế năm 1967, theo yêu cầu của Tiểu ban Văn nghệ miền Nam, nhằm đáp ứng
bí mật thời chiến. Như vậy, bút danh này chủ yếu được dùng thời kỳ ông làm việc
ở báo Cờ Giải phòng và Đài Phát thanh Giải phóng nên chỉ bạn
bè, đồng nghiệp biết rõ, tuy hai mà một. Sau này, ông ký tên thật là chính,
song một số bạn bè đồng nghiệp vẫn trìu mến gọi ông bằng bút danh, như một cách
để nhắc nhở và cùng nhớ về một thời chiến tranh gian khổ đã qua.
Bản tính Trần Nguyên Vấn hiền hòa, cời
mở và đầy nhiệt tình với mọi người. Gặp nhau, ông hay ân cần thăm hỏi và trí
nhớ rất tốt, có thể nhắc lại những chuyện cũ đến từng chi tiết. Tự thân cần mẫn
và cách sống ân tình, là bản chất của ông. Những năm bao cấp, kinh tế xã hội
khó khăn, thiếu thốn, căn nhà của ông (ở
khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu và sau ở phố Tông Đản, Hà Nội), là nơi lui
tới thường xuyên của các cây bút trẻ chúng tôi, các đồng nghiệp cùng cơ quan
Đài TNVN và các bạn văn chương. Đặc biệt, các văn nghệ sĩ xứ Huế mỗi khi ra Hà
Nội, đều ghé chơi nhà ông, có người ở lại vài ba ngày, thaamh chí cả tuần thay
vì ở nhà khách. Tôi đã gặp ở đây những văn nghệ sĩ nổi danh của xứ Huế như Tô
Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điểm, Hải Bằng, ... Thế nên, Trần Nguyên
Vấn được bạn bè yêu quý tin cậy bầu vào các loại Ban liên lạc, giữ vai trò chủ chốt bởi ông đầy nhiệt huyết và có
kinh nghiệm tổ chức các hoạt động chung.
Tôi có anh bạn giỏi tử vi, tứ trụ, cũng
là đàn em báo chí thân thiết với nhà văn Trần Nguyên Vấn. Nhớ lần anh bảo tôi,
Trần Nguyên Vấn sinh năm 1937, tuổi Đinh Sửu, bên ngoài hiền hòa dễ chịu thế
thôi, nhưng là người nghịch ngầm, khá bướng bỉnh, trọng danh dự, và khá quyết
liệt, định làm việc gì là gắng bằng được. Phải chăng. mọi việc đến với ông ngỡ
hanh thông nhẹ nhàng song thực lại hay
trắc trở. Có lẽ vậy, đường đời và sự nghiệp của ông chưa tương xứng với sự cống
hiến của ông. Song ông không vì thế mà nản chí.
Trần Nguyên Vấn cần mẫn, đặc biệt trong
việc làm sách. Trong số ấy, phần lớn là tập hơp thơ văn, bài viết, hình ảnh, tư
liệu của các tập thể, riêng có 2 cuốn về cá nhân, ấy là Trinh Đường trọn đời vì thơ (sưu tầm biên soạn, 2002); Nhớ Tuân Nguyễn (sưu tầm,
biên soạn, 2008).
Nhà thơ Trinh Đường là bậc huynh trưởng đáng kính
trọng của nhóm “Văn nghệ sĩ Ong” thân
nhau, gồm Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đính
Minh, Trịnh Bá Ninh. vv,,, (Đây nhà nhóm
văn nghệ sĩ, thời bao cấp, thường được Tổng công ty Ong mời đi thực tế để viết
bài, sáng tác thơ văn về nghề nuôi ong).
Còn Tuân Nguyễn, thì không nhiều người biết. Ông là
nhà báo, nhà thơ đàn anh, biên tập viên hàng đầu ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN, nơi Trần Nguyên
Vấn về nhận việc thời chập chững bước chân vào nghề biên tập thơ. Đây xem như
cái duyên cua hai người với nhau, bởi không chỉ đồng hương xứ Huế, đồng nghiệp
cùng bộ phận làm việc, mà nãi sau này còn gắn tên với nhau. Nhân đây, nói thêm
vê nhà thơ Tuân Nguyễn và mối lương duyên
với Trần Nguyên Vấn,
Tuân Nguyễn (tên
thật là Nguyễn Tuân). sinh năm 1933, quê ở Phú Vang, Thừa Thiên Huế, là nhà
báo, nhà thơ, nghệ sĩ ngâm thơ, dịch giả, từng làm việc ở chuyên mục Tiếng thơ của Đài TNVN từ năm 1960. Tuân
Nguyễn tốt nghiệp Tú tài 2 ở Huế, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và Hàn văn. Thời
kháng chiến chống Pháp từng tham gia Vệ
quốc đoàn, sau hóa bình xuất ngũ, theo học khóa 1 Văn khoa Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp, làm giáo
viên dạy ở Trường học sinh miền
Những tưởng câu chuyện
về một con người có tài có tâm những không may, chịu nhiều oan khuất, cay đắng
sẽ chìm vào dĩ vãng, thì giở đây, những người yêu văn chương và bạn đọc biết
đến tên tuổi Tuân Nguyễn. Trước hết, phải nói đến công đầu của nhà văn Phùng
Quán, người đã viết một chân dung Tuân Nguyễn tuyệt hay in trong tập Ba
phút sự thật của ông. Đặc biệt, khi tập Nhớ Tuân Nguyễn được NXB
Hội Nhà văn ấn hành năm 2008 do Trần Nguyên Vấn tổ chức xuất bản, từ sưu tầm
bản thảo, biên soạn, đến việc in ấn,... thì cuộc đời Tuân Nguyễn đầy dủ, rõ nét
thêm. Ở đó tập hợp bài viết của các tác giả mà nhiều người là bạn hữu, đồng
nghiệp, người quen của Tuân Nguyễn như: Ngọc Trai, Hoàng Phủ Ngọc Tường,, Băng
Sơn, Thái Vũ, Dương Tường, Nguyễn Bùi Vợi, Lê Huy Quang. Đoàn Minh Tuấn, Xuân
Đài, Vũ Từ Trang v.v... Đáng quý, trong tập sách này, tập hợp được 86 bài thơ
của Tuân Nguyễn được sưu tầm từ sách báo cũ, qua trí nhớ của người thân, đồng
nghiệp, thậm chí cả bạn tù,... Quan trọng hơn cả, qua tập sách này, bạn đọc
hiểu đúng về con người Tuân Nguyễn và bao nỗi đắng cay gian truân mà ông đã
trải qua, cũng xem như một sự minh bạch về cuộc đời ông, đặng minh oan cho nỗi
oan khuất ma ông mắc phải!?...
Để làm được việc này,
nhà văn Trần Nguyên Vấn, người em xứ Huế, người đồng nghiệp của Tuân Nguyễn
phải có tâm lâm lắm và bỏ nhiều công sức, cần mẫn, tận tụy mới làm nổi,
Thay lời kết cho bài
biết này, tôi kể một câu chuyện, thêm phần minh chứng cho mối lương duyên giữa
hai người con của Thừa Thiên Huế, Tuân Nguyễn và Trần Nguyên Vấn. Áy là vào năm
2011, nhà thơ Phương Thúy, vợ của Tuân Nguyễn lâm vào tình trạng già yếu, không
nơi nương tựa ở Tp. Hồ Chí Minh. vì ông bà lấy nhau nhưng không có con. Giải
pháp tốt nhất là làm sao đưa bà Phương Thúy vào sống ở Nhà Dưỡng lào. Để làm
được việc này không đơn giản, phải lập hồ sơ giấy tờ phiền hà. Nhà văn Trần
Nguyên Vấn lại đứng ra lo một phần giấy tờ thủ tục. Khi ấy, tôi đang là Chánh
văn phòng Đàu TNVN, nên có điều kiện giúp nhà văn Trần Nguyên Vấn phần giấy tờ
liên quan đến Đài với tư cách Đài là cơ quan chủ quản cũ của nhà thơ Tuân
Nguyễn khi ông bị nạn giam giữ cải tạo. Việc suôn sẻ, bà Phương Thúy được an cư
ở Nhà Dưỡng lão từ đấy,... và nghe đâu bà mới mất vài năm gần đây. Với vợ chồng
nhà thơ Tuân Nguyễn, lo toan như thế, tôi nghĩ, nhà văn Trần Nguyên Vấn thật
trọn tình vẹn nghĩa. ./.
Lãng du giữa cõi tình,...
Tôi biết đến anh với bút danh Lê Lãng Du không lâu.
Cách đây độ dăm bảy năm, tôi biết đến cái tên này là
qua trang blog của anh trên Blogtiengviet.net
(Blog TV). Đọc thông tin cá nhân, biết anh cỡ tuổi với tôi, là cán bộ ngành
thương nghiệp, sinh sống ở gần thành phố
Buôn-mê-thuột, Tây Nguyên.
Bài đăng trên trang của anh phần lớn là thơ. Anh thay
bài mới khi mau khi thưa, song không bỏ cuộc hoặc ngắt quãng như nhiều người
khác. Tôi bận bịu, phần bản tính không mấy vồ vập người chưa quen, song vẫn giữ
lễ, nên thơ anh, bài đọc, bài không, và thi thoảng tôi ghi chút cảm nhận, mang
tính xã giao là chính. Tuy nhiên, cũng cảm thấy, thơ anh, có bài khá, rồi đó
đây ở bài này bài nọ có những câu thơ hay…Với người lấy thơ làm khuây, được như
vậy là ổn.
Rồi một lần tôi vào Tây Nguyên, đang
mùa mưa, buổi tối ở khách sạn buồn hiu hắt, ngoài trời thì mưa ràn rạt, lúc mau
lúc thưa, mùi cà phê quán đèn mờ ngoài phố thoảng vào thơm ảo não. Buồn thì mở Blog TV, đọc lướt qua các trang và tôi
đã dừng lại ở trang của Lê Lãng Du. Lúc ấy, cái địa chỉ cá nhân Buôn-mê-thuột
của anh đã thu hút tôi. Theo số điện thoại ghi trên đó, tôi bấm máy gọi và đầu
kia anh nghe máy, trả lời. Sau màn chào hỏi, giới thiệu, chúng tôi trò chuyện
thân tình ngay, vì thực ra, giữa chúng tôi, đã biết nhau qua mạng cũng vài ba
năm rồi. Anh nói là ở cách thành phố vài ba chục cây số, và hẹn hôm sau sẽ lên
Buôn-mê-thuột gặp tôi, đặng anh em biết mặt nhau.
Y hẹn, gần trưa hôm sau, anh báo đã
đến khách sạn tôi đang ở. Cùng đi với anh có một phụ nữ cũng đã luống tuổi, anh
giới thiệu là bạn gái của mình. Chúng tôi có khoảng một tiếng trò chuyện, hàn
huyên đủ thứ. Anh mời tôi ra quán dùng bữa trưa với hai người. Tôi đành từ chối
vì đã có hẹn rồi. Chia tay nhau với chút lưu luyến, hẹn dịp khác sễ ngồi với
nhau, để nâng chén và bàn về thơ phú. Tôi tặng anh vài tập thơ của tôi mang
theo…
Lần đầu gặp gỡ là vậy. Song đấy cũng
là cái cớ để sau đó, tôi đọc thơ anh đều, cẩn thận và chăm ghi comment hơn. Cứ thế, mà thành thân
thiết, và mỗi lần, tôi vào Tây Nguyên, nếu thu xếp được thời gian, là à ới gọi
nhau. Tôi cũng đã vài lần cùng các đồng nghiệp ở Tây nguyên đến thăm tệ xá của
Lê Lãng Du. Còn anh, khi ra Hà Nội, cũng đã một lần tìm đến thăm tôi ở trụ sở
cơ quan, 58 Quán Sứ, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cùng bù khú, chuyện văn
chương thơ phú.
Có lẽ, nhờ vậy, để giờ đây, khi có ý
định in thơ, Lê Lãng Du gửi cho tôi tập bản thảo dày dặn, tôi đọc và nhận diện
được ngay khuôn mặt thơ anh.
Đọc thơ Lê Lãng Du, tôi mạn phép gọi
anh là Người lãng du giữa cõi tình. Đành rằng, người làm thơ thường là người nệ
tình, song với riêng Lê Lãng Du, anh chìm đắm vào cõi tình, đánh mất cả bản
thân. Anh lang thang, la cà đây đó trong mảnh vườn tình ái do mình tạo ra,
không biết để tìm ai, tìm cái gì ở đó ?... Theo dấu chân anh, hồi lâu, cảm giác
anh sa đà mà thành lạc lối chăng? Nhưng đến khi tưởng như anh mất tăm đâu đó
trong cõi tình, thì Lê Lãng Du chợt tỉnh lại, ý thức được rằng, mình đang ở đâu
trên cõi thực, mình đã từng và đang có ai, có cái gì, dù là mong manh thôi,
song đang ở ngay bên mình, phải biết níu giữ, kèo không, rồi một ngày mất nốt,
thì lại hối tiếc! Anh có dành cái tình của mình cho người thân, quê hương bản
quán, phong cảnh sông núi, gió trăng, song như vậy, cũng là để dồn tụ về cái
tình riêng của mình dành cho người tình đã có, đang có và sẽ có ! ?...
Để hiểu tâm tư, hiểu cõi tình của Lê Lãng Du, thiết
nghĩ, nên biết đôi điều về cuộc đời anh. Tên thật, Lê Lãng, quê gốc Quảng Trị,
mảnh đất khô cằn đầy nắng gió ấy đã từng sinh ra nhiều thi nhân. Anh phiêu bạt
đó đây rồi trụ lại với mảnh đất Tây Nguyên, theo nghề thương nghiệp sinh sống.
Anh có gia đình, con cái đề huề, nhưng rồi vợ chồng chia tay nhau. Dường như,
để tìm sự thiếu hụt, để cân bằng mình, anh làm thơ, cũng đeo đuổi một vài bóng
hồng đâu đó, nhưng không thành, bù lại, anh có chút lưng vốn thơ tình … Rồi một
ngày nọ, cách đây chừng dăm năm, anh làm quen qua không gian ảo, một người phụ
nữ đã luống tuổi, gốc gác Hà thành, cũng từng có gia đình con cái riêng, nhưng
lại bị thiệt thòi đường gia thất. Và rồi, họ bập vào nhau thành đôi, mà nên
ngãi vợ chồng. Hiện anh chị sống riêng với nhau trong căn hộ mặt phố tại một
thì trấn cách thành phố không xa, có cửa hàng photocopy nhỏ. Đã vài lần thăm
nhà và dùng cơm với anh chị, quan sát cách họ chăm sóc nhau, tôi hiểu là họ yêu
quý, tôn trọng nhau, và hẳn là hài lòng với cuộc sống này…
Khi yên bề gia thất, Lê Lãng Du vẫn
làm thơ đều đều. Có điều, giờ chủ đề thơ anh đa dạng hơn, thực tế hơn. Ở đấy,
có bóng dáng, tình cảm của anh dành cho người phụ nữ của mình:
Về đây mở
quán để mưu sinh
Phố nhỏ vùng
ven thật thanh bình
Sớm mai chồng
vợ cùng thức dậy
Mở cửa dọn
hàng đón bình minh
Vợ quét nhà,
chồng ra nấu nước
Người rửa ly,
người dọn loanh quanh
Kê vài chiếc
ghế màu nho nhỏ
Bày lên bàn
ấm chén trà xanh
Lòng vui khi
thấy vài khách đến
Đon đả mời
chào chẳng lạ quen …
Song đâu đó, người thơ vẫn nén tiếng thở dài, dường
như tiếc nuối chi, từ trong sâu thẳm quá khứ:
Đắm say một
chút duyên hờ
Mong manh tơ
tưởng bến bờ tương tư…
Khát khao
tình đã cuối chiều
Miên man
trăng gió hồn xiêu cuối trời
Giờ bùa yêu
đã phai rồi
Em quay về
chốn xa xôi thủa nào
Mình ta đêm
gió lao xao
Nhớ nhung
bóng cũ nghẹn ngào cảm thương ..
Lại nữa, mơ tưởng, mộng ảo… hình bóng nào đó còn lởn
vờn phía sau và chờn vờn ở phía trước:
Tương tư tóc
bạc lưng trời
Ngất ngây như
vướng bùa người bỏ ta
Cỏ tình cỏ lạ
xót xa
Sao ta tìm
hái để mà vương mang?
Như tôi đã nhận định, Lê Lãng Du là người nệ tình,
chính vì vậy, cứ có cảm xúc là viết. Anh không chủ ý lập tứ, hoặc có tứ đi
chăng nữa thì khi thể hiện ra thành câu chữ cũng không mấy rõ. Tình cảm và chữ
nghĩa theo nhau tràn ra. Cứ như anh viết lấy được. Thơ thường dài dòng, giọng
điệu kể chuyện, và nhiều khi thực quá, nên cảm giác bài thơ bề bộn, ngổn ngang
câu từ. May mà, trong cái thực có cái tình, vậy nên, bài thơ có chỗ bấu vứu để
mà đứng được. Cái quý của thơ Lê Lãng Du là vậy. Nói thế, không có nghĩa là
thực, là kể hết, bất chợt, ta thấy anh biến ảo, và chìm đắm vào cõi mộng:
Thả vào em
một chiều mong
Hay:
Tương tư tóc
bạc lưng trời,
Hoặc lòng nặng trĩu những ưu tư:
Sớm nào quán
vắng buồn man mác
Nhìn ra quan
lộ ngóng xe qua
Vội vàng xuôi
ngược về đâu đó?
Quạnh nhớ về
nơi chốn quê nhà,
Còn nhiều lắm những bài thơ được, những câu thơ hay,
song tôi chỉ viện dẫn một chút, đặng ký họa chân dung Lê Lãng Du-con người thơ…
Bao nhiêu cũng chẳng là đủ, mà thêm một chút sẽ là thừa, tôi nghĩ vậy.
Lê Lãng Du thích uống rượu và uống được rượu, song anh
không ham hố men cay, chỉ uống khi có bạn hữu chơi nhà. Khi say, anh thật nhất.
Và có lẽ, trong một lần say, anh dốc bầu tâm sự, nỗi niềm ẩn chứa trong lòng
mình, bấy lâu nay, về cuộc đời, tình cảm luyến ái, văn chương thơ phú…
Say thì cũng
đã say rồi
Liêu xiêu mấy
bước lại ngồi xuống đây
Giả vờ một
chút thơ ngây
Lả lơi, hờ
hững vừa đầy hồn hoa
Cho người khờ
khạo cùng ta
Se se áo mỏng
ngọc ngà trong nhau
Chút thương
giấu dưới nỗi đau
Ươm ươm môi
chín úa nhàu tâm tư.
Cõi tình của anh là đây chăng, ơi người lãng du ?
Và cũng là chân dung tự họa của Lê Làng Du.
Tôi nghĩ vậy !..../.
Nhàn tản Trương Hữu Lợi
1. Độ khoảng mươi năm trước khi về
nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi hay được anh em đồng nghiệp ở Đài TNVN nhắc đến nhiều.
Song không phải vì công việc chuyên môn, cũng không phải vì chuyện văn chương,
lại càng không phải do anh gây ra một xi-cang-đan nào, mà bởi về sự nhàn tản.
Hễ cánh viết nhà đài chúng tôi ngồi với nhau, khi tách cà phê nóng buổi sáng,
chén hoặc ly bia buổi chiều, loanh quanh thế nào rồi cũng nhắc đến Trương Hữu
Lợi, cùng cái sự nhàn tản ở anh.
Khi về công tác ở Đài TNVN, tôi mới biết đến Trương
Hữu Lợi. Ở thời điểm đó, tôi hay viết truyện cho thiếu nhi nên thi thoảng đáo
qua gửi bài nơi phòng Văn học thiếu nhi ( thuộc Ban Văn học nghệ thuật ) tại
tầng 2 ngôi biệt thự cổ trong trụ sở 58 Quán Sứ ( cũ ). Khi ấy, Trương Hữu Lợi
là Phó phòng biên tập và nhà thơ Lê Đình Cánh là Trưởng phòng.
Với nhà thơ Lê Đình Cánh, thì tôi đã biết đến tên tuổi
anh thông qua bài thơ Mẹ ra Hà Nội
được trao giải cao cuộc thi thơ của Báo
Văn Nghệ, cùng với đó là những bài thơ lục bát nhuần nhuyễn, hóm hỉnh. Ấn
tượng của tôi lần đầu gặp, Lê Đình Cánh vồn vã và khéo, còn Trương Hữu Lợi thủ
thỉ, thân thiện. Và không lâu sau lần
gặp đầu tiên, tôi và Trương Hữu Lợi thành thân nhau. Anh sinh năm 1946, tuổi
Bính Tuất ( lý lịch ghi sinh năm 1948
), hơn tôi những 11 tuổi, nên tình bạn giữa anh và tôi kiểu tình bạn vong niên.
Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa đông người hay chỉ riêng hai anh em với nhau,
anh đều goi tên và xưng mình với tôi.
Cùng làm việc trong ngôi nhà chung 58 Quán Sứ, nhưng
lĩnh vực công việc của chúng tôi khác nhau xa. Trương Hữu Lợi làm biên tập mảng
văn học nghệ thuật, sáng tác là nghề chính của anh, trong khi đó, tôi làm ở Ban
Thính giả, hằng ngày phải tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư của thính giả, rồi
soạn thảo văn bản gửi các bộ ngành, cơ quan hữu quan, trả lời lại cho thính
giả, một công việc tỷ mẩn, dễ nảy sinh bực dọc, và chẳng dính gì đến văn chương
cả. Song bù lại, tôi có điều kiện tiếp nhận, thấu hiểu thêm đời sống thực tế xã
hội của mọi tầng lớp người dân lúc bấy giờ, thời kỳ manh nha chuyển đổi từ bao
cấp sang cơ chế quản lý mới, mà khởi đầu là Chỉ thị 100 về khoán sản lượng
trong nông nghiệp. Và chính vì thế, tôi đã viết được nhiều truyện ngắn lấy chất
liệu từ đời sống xã hội đăng các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí
Minh v.v...
Tôi và Trương Hữu Lợi hay ăn trưa cùng nhau nơi quán
cơm bình dân trên phố Quán Sứ, hoặc Tràng Thi. Thi thoảng có thêm nhà thơ Lâm
Huy Nhuận ( biên tập viên Phòng Văn học, cùng Ban biên tập Văn học nghệ thuật
với Trương Hữu Lợi ), thì gọi thêm đôi ba chén rượu. Hễ hôm nào hơi quá chén là
Lâm Huy Nhuận cũng cao hứng đọc thơ, đi vài động tác võ cổ truyền Bình Định quê
anh, và quá thêm chút nữa thì quậy tưng bừng...
Những lúc đi riêng với nhau như thế, Trương Hữu Lợi
hay thủ thỉ chuyện nghề báo ở Đài, rồi cả chuyện tình cảm lâm ly bi đát của
anh... đặc biệt là câu chuyện của anh với một nữ họa sĩ hơn anh mấy tuổi. Sau
này, chuyện tình cảm của họ đã qua đi, song họ vẫn coi trọng nhau, và đã có
lần, tôi theo Trương Hữu Lợi đến thăm nhà người nữ họa sĩ ấy. Sau đó, tôi còn
gặp nữ họa sĩ đó vài ba lần, không thấy chị nói gì đến chuyện ấy, song chị luôn
giữ vẻ trìu mến mỗi khi nhắc đến tên anh. Câu chuyện giữa họ, tôi chỉ được nghe
kể từ một phía. Đã có lần, tôi chơi nhà anh, Trương Hữu Lợi chỉ tay lên mấy bức
họa trên tường mà khoe rằng, đấy quà quà tặng của chị cho anh. Hiện tôi vẫn nhớ
mang máng hình ảnh mấy bức họa có bút tích của chị trong bộ tranh “ Những tâm
trạng...” ấy. Chẳng hiểu, giờ còn được treo ở nhà anh nữa không ?...
Trương Hữu Lợi có lối sống giản dị, cách ăn mặc sạch
sẽ song xuềnh xoàng. Nhìn dáng vể bên ngoài, thật khó ai biết được, anh là
người có mấy thứ hết sức đặc biệt, mà không mấy ai có được.
Ấy là, khi còn học phổ thông tại quê nhà, Trường Cấp 2
Bắc Lý ( nay là Trường THCS Bắc Lý ), Lý Nhân, Hà Nam, anh là học sinh xuất
sắc, từng được đại diện cho lứa học sinh đội viên thiếu niên tiền phong lên Hà
Nội báo cáo thành tích với Bác Hồ.
Ấy là, anh đã từng học Đại học Lốt-di ( Lodzi ) Ba
Lan, chuyên ngành văn học, và là một người nhẩy đầm ( khiêu vũ ) khá giỏi, năm
1972 tốt nghiệp về nước, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và ở liền một mạch
cho đến khi nghỉ hưu.
Ấy là, anh từng làm phóng viên chuyên mảng Nông nghiệp
của Đài Tiếng nói Việt Nam, nổi tiếng một thời với tư cách là tác giả của loạt
phóng sự điều tra về “ khoán chui “ trong nông nghiệp miền Bắc thời bao cấp,
góp phần vào việc Đảng và nhà nước ta điều chỉnh chính sách, ra đời Chỉ thị 100
và Nghị quyết trung ương 10 về thực hiện khoan hộ, khoán sản phẩm trong nông
nghiệp, khởi đầu thời kỳ đổi mới.
Ấy là, anh từng được đồng chí Trường Chinh, khi ấy
đương chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, gọi lên gặp, hỏi chuyện hàng giờ đồng
hồ, cho phép nói thật lòng suy nghĩ của mình về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân ở ta ( mà bây giờ ta quen gọi là “ tam nông” ) ...
Quả là, mới chỉ liệt kê ngần ấy thôi, đã thấy Trương
Hữu Lợi ẩn chứa nhiều điều thú vị trong vẻ ngoài hết sức bình dị ở anh...
Nhưng thôi, tôi chỉ kể những điều về Trương Hữu Lợi
trong lĩnh vực nghề nghiệp làm báo, sáng tác văn thơ và mối quan hệ với đồng
nghiệp, anh em, mà tôi biết hoặc chính anh nói cho nghe...
2. Trước hết, là con người làm báo Trương Hữu Lợi. Mà
nói đến anh với tư cách nhà báo, là gắn chặt với Đài Tiếng nói Việt
Vâng, tại sao Trương Hữu Lợi lại đột ngột rẽ ngang từ
một phóng viên nông nghiệp nổi tiếng sang làm biên tập viên Văn nghệ, vốn không
phải là sở trường của anh? Việc này diễn ra trước khi tôi bước chân về Đài
Tiếng nói Việt
Số là, từng xảy ra mâu thuẫn trong công việc giữa
Trương Hữu Lợi và một người đồng nghiệp cấp trên trực tiếp. Lời qua tiếng lại
có, hiểu lầm có, mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Và một lần, giữa phòng làm việc,
bất bình, nóng giận vì cảm thấy bị xúc phạm, anh đã vác cả chiếc ghế ngồi lao
thẳng vào người đồng nghiệp cấp trên kia. May mà mấy đồng nghiệp khác xúm vào
can ngăn, chứ không biết hậu quả sẽ khôn lường... Rồi sau đó, qua nhiều lần họp
hành kiểm điểm nội bộ, Trương Hữu Lợi không phải là người có lỗi. Song le, bát
nước hắt đi thì chẳng thể bù lại cho đầy, người đồng nghiệp cấp trên kia chuyển
công tác qua vài cơ quan khác, tiếp tục giữ chức vụ cao hơn nữa. Còn Trương Hữu
Lợi như quả bóng xi hơi, anh mất dần tính cách của một phóng viên nông nghiệp
xông xáo, đầy chất phản biện. Từ chỗ, chỉ cộng tác với mảng văn học thiếu nhi
làm vui vì lòng yêu trẻ, anh chuyển hẳn sang vị trí biên tập viên của Ban Văn
nghệ Đài. Đây là bước chuyển quan trọng để biến một Trương Hữu Lợi nhà báo
thành một Trương Hữu Lợi nhà thơ.
Trương Hữu Lợi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt
Chuyên tâm với mảng văn học thiếu nhi, song Trương Hữu
Lợi luôn tự biết xoa dịu, thỏa mãn nỗi
khát khao, nỗi niềm tâm sự của mình. Anh xuất bản 3 tập thơ, “ Hoa lạnh “ ( 1990 ), “ Cõi hoang “ ( 1994 ) và “ Nhịp ngựa hoang “ ( 2009 ). Hơn thế,
khi nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi còn kịp cho ra đời tiểu thuyết “ Suối quên “ ( 2009 ).
Tiểu thuyết “ Suối
quên “ là tiểu thuyết duy nhất của Trương Hữu Lợi, và ngay lần thử sức đầu
tiên này, anh đã đẩy gần như toàn bộ hiện thực cuộc sống xã hội vào cõi ảo.
Trong cõi ảo, anh mặc sức quấy đảo câu chuyện, tha hồ khắc họa tính cách nhân
vật và đẩy các tình tiết lên đỉnh điểm, bất chấp phi lý, mà không sợ ai đó boăn
khoăn, căn vặn thực hư ra sao. Ấy là cái mới, những cũng là điểm yếu của anh ở
tiểu thuyết này.
Cùng sự thành công ở mảng văn học thiếu nhi, theo tôi,
thơ Trương Hữu Lợi khá ấn tượng. Bản thân anh là người duy tình, sau này sống
lặng lẽ, khiêm nhường, nên thơ anh nhìn chúng là âm tính, và khá nhất quán
trong cách thể hiện. Khó tìm thấy trong thơ anh những câu thơ ồn ào, sống động,
hay nhịp điệu gấp gáp, hào sảng. Trái lại, câu thơ lặng lẽ, ẩn ý, ẩn dụ, ngôn
ngữ chắt lọc, kỹ càng, nhất là khi anh viết về bản năng, bản thể. Sự trăn trở
trong anh cũng luôn có vỏ bọc. Hình như anh ngại nói trắng ra sự thật. Nhưng
đọc chậm, đọc kỹ, lại thấy được sự khát khao nơi anh âm thầm trỗi dậy, sự hóm
hỉnh, tinh nghịch cứ ẩn hiện, thấp thoảng đâu đó, khiến ta phải cười tủm...
Thơ Trương Hữu Lợi không phải là loại thơ đọc trên
diễn đàn, nơi đông người hội họp, mà là thơ đọc thủ thỉ khi đàm đạo dăm ba
người, hay riêng hai người với nhau...
3. Về nhà thơ Trương Hữu Lợi, cách chơi với đồng
nghiệp, bạn bè văn chương với nhau, rất đáng nể. Thời anh còn trẻ, là phóng
viên đầy nhiệt huyết và năng nổ thì tôi không được rõ, nên không lạm bàn. Khi
tôi về đầu quân nhà Đài vào năm 1987, và gần như ngay sau đó, tôi làm quen và
thân với Trương Hữu Lợi, anh đã thể hiện là một con người bình dị, khiêm nhường
rồi. Kể từ đó cho đến lúc ra đi mãi mãi, trong cái nhìn của tôi, Trương Hữu Lợi
là một người tử tế.
Vâng, chỉ hai từ “ tử tế “ thôi, thiển nghĩ, không dễ
chút nào. Trong công việc, với tư cách là biên tập viên, trong quản lý, tư cách
một trưởng phòng, anh luôn mẫn cán, chu đáo, cẩn trọng và nhường nhịn. Trong
quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, anh em với nhau, anh hiền lành, cảm thông,
chia sẻ và hễ giúp ai được cái gì, kể cả tiền bạc, anh đều sẵn lòng, không hề
tính toán thiệt hơn. Đều này, ngần ấy năm, lại gần nhau hàng ngày, tôi thấy, và
hẳn nhiều người biết. Nhiều năm làm việc ở Ban Văn nghệ ( sau là Ban Văn học
nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam ), nơi nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ
sĩ nổi tiếng, và phần đông giàu cá tính, như :
Hoàng Ngọc Anh, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Phương Trà, Trúc
Thông, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh, Tuấn Vinh, Lâm Huy Nhuận, Nguyễn Thị Đạo
Tĩnh, Trần Chung, Vũ Thanh, Hồ Bắc, Thuận Yến, Thế Song, Văn Dung, Lê Việt Hòa,
Vũ Kim Dung, v.v... Trương Hữu Lợi vẫn luôn giữ được sự nể trọng của mọi người.
Việc này, quả không dễ. Dưới quyền quản lý của anh, các phóng viên, biên tập
viên trẻ mảng văn học nghệ thuật của VOV trưởng thành nhanh chóng, bởi anh rất
tận tâm, tận tình trong việc hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm, khơi gợi cho họ
phát huy sự sáng tạo cá nhân, hơn là áp đặt, ấy là, anh quản lý nhân viên theo
kiều “ đức trị “.
Trước đây, tôi và Trương Hữu Lợi phiên chế ở hai ban
khác nhau, Đầu năm 2008, hai đơn vị này nhập làm một, ấy là VOV2 ( Hệ phát thanh Văn hóa-Đời sống- Khoa giáo ),
khi ấy, tôi đang là Phó Trưởng ban Ban biên tập Văn hóa xã hội, được điều đi
làm Giám đốc Cơ quan thường trú VOV khu vực miền Trung. Nhiều lần, hai anh em
ngồi với nhau, Trương Hữu Lợi cười hiền, chép miệng bảo: “ Tiếc nhỉ, mình không được làm quân của Nhạc ngày nào cả ...”. Thực
ra, vì quý mến tôi mà nên vậy thôi. Khi tôi
kết thúc nhiệm kỳ luân chuyển, quay về Hà Nội thì anh đã nghỉ hưu rồi.
Vậy là hai chúng tôi không được làm việc chung với nhau dù chỉ một ngày...
Sao mọi người lại nhìn nhận anh sống nhàn tản. Công
việc nhà đài thì lúc nào cũng bận, cứ chương trình nối tiếp chương trình, hết
ngày này tháng khác, năm lại năm. Nhàn là sao đây? Trương Hữu Lợi nhàn là ở cái
tâm. Người xưa dạy “ Tri túc tâm thường lạc “ ( nghĩa là, biết đủ thì lòng an vui ), thì anh là người như vậy. Công việc luôn
tận tâm, quyền lợi lại chẳng so đo, ganh tị với ai, nên không yên vui sao được.
Thời gian rảnh rỗi, anh sáng tác và ngao du đây đó, mạn đàm văn chương với bạn
bè. Trương Hữu Lợi có mấy sở thích, ấy là thuốc lá và trà thơm; không uống được
rượu, vài ly nhỏ thì mặt đỏ nhừ, say cả chấy, nhưng bạn mời thì không chối từ,
nâng lên đặt xuống làm vui, lấy cao hứng mà mạn đàm thôi. Ấy là viếng cảnh chùa
chiền, đền miếu gần xa. Và, ấy là yêu...
Để ý nhiều năm, như thành chu kỳ vài ba năm một,
Trương Hữu Lợi, đổi chu kỳ hết yêu lại muốn đi tu, rồi đó lại yêu. Lạ thế đấy.
Tình yêu ở nơi anh, đồng nghĩa với cảm hứng sáng tác. Tôi hiểu vậy, song hay
đùa anh, vờ chất vấn về cái sự này, anh chỉ cười hiền hiền, tội tội, như người
có lỗi vậy. Anh không biết đi xe máy, cứ ngày ngày chiếc xe đạp ngoại cũ kỹ cà
tàng. Thi thoảng, kết thúc giờ làm, anh khoe đi café hay đi ăn với bạn gái, rồi
túi khoác lên vai, xuống gốc cây hè đường cổng cơ quan đợi bạn gái đi xe máy
đến đón, và ngồi sau xe máy phụ nữ ngon ơ.
Trương Hữu Lợi có một giai đoạn ngắn sống khá vui vẻ
thoải mái, ấy là sau khi nghỉ hưu, anh vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với con
trai là kiến trúc sư công tác tại một đơn vị quân đội. Ở đấy, anh làm quen với
Việt An, người bạn thân thuở học trò của tôi, rồi hai người lại làm quen với
Trần Hồng Giang, một bloger của Blog Tiếng Việt khi đó cũng đang sống với người
chị ở đấy. Bộ ba thường xuyên giao du, chuyện trò, văn chương, thơ phú, chữ
nghĩa với nhau. Họ quý mến nhau, tôn trọng nhau lắm. Ở ngoài Hà Nội, tôi vui và
thèm lây bầu không khí ấm áp đầy ắp tình người ấy của họ.
Một thời gian, Trần Hồng Giang ra lại quê ngoài Bắc,
Nghĩa Hưng, Nam Định. Còn Trương Hữu Lợi thì phát hiện K phổi, ra Hà Nội khám
chữa bệnh. Thế là bộ ba mỗi người một nơi. Tuy vẫn liên lạc với nhau qua mạng
xã hội, qua điện thoại nhưng chẳng thể như trước nữa.
Trương Hữu Lợi nghiện thuốc là nặng. Khi biết mình K
phổi, anh giảm hút nhưng không bỏ. Nhiều người khuyên anh nên bỏ, anh bảo: “ Mình K phổi có lẽ hậu quả của mấy chục năm
nghiện thuốc lá. Giờ bỏ thuốc, cũng đâu có khỏi được bệnh. Thôi thì cứ thi
thoảng làm vui, gọi là giải tỏa tâm trạng nặng nề, thêm can đảm mà chống chọi
bệnh tật. Âu có ích hơn là bỏ. Chừng nào không hút được nữa thì thôi. Mới lại,
chữa bệnh chứ đâu chữa được mệnh ...”.
Có một thời gian, anh khỏe hẳn lên. Đợt ấy, tôi rủ anh
đi Hà Giang, cùng đi có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền.
Chúng tôi tổ chức tọa đàm nghề nghiệp cùng với Hội Nhà báo và Đài phát thanh
truyền hình tỉnh Hà Giang. Tại buổi tọa đàm ấy, Trương Hữu Lợi đăng đàn hơn giờ
đồng hồ về chuyện anh viết loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ thế nào.
Chuyến đi ấy, chúng tôi băng qua vùng núi đất phía tây Hà Giang, qua các huyện
Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần...Sáng chơi chợ Cốc-pài thị trấn Xín Mần,
Trương Hữu Lợi vui lắm, anh nhăm nhăm tìm mua một chiếc áo cánh chẽn dân tộc
Mông làm kỷ niệm.
Sau này, khi bệnh nặng thêm, đầu rụng hết tóc, phải
đội tóc giả, thi thoảng anh vẫn ghé qua trụ sở 58 Quán Sứ, ngồi hàng giờ với
tôi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện văn chương, vui vẻ ăn hết suất cơm ở
căng-tin cơ quan, chuyện trò với nhiều đồng nghiệp cũ...
Vâng, quả là trời đền bù cho Trương Hữu Lợi ít nhiều,
mùa thu năm 2013, Nhà xuất bản Kim Đồng lựa chọn xuất bản tập truyện cổ tích và
đồng thoại “ Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng
“; Thi đàn Việt Nam tổ chức giới thiệu và giao lưu thơ Trương Hữu Lợi; và chuyên
mục “ Thơ & cuộc sống “ của VOV2 tọa đàm chủ đề “ Trương Hữu Lợi và Khúc ru mình “.
Khoảng một năm trước khi mất, anh hầu như chỉ chống
chọi với bệnh tật, ít viết. Không thấy anh công bố tác phẩm nào mới, lâu lâu
vẫn đăng đây đó những bài thơ cũ mà anh tâm đắc.
Tập thơ “ Nhịp
ngựa hoang “ ( NXB Hội nhà vănm 2008 ), xem như thơ tuyển chọn Trương Hữu
Lợi, thay cho đề từ, anh viết “ Hoa
lạnh,Cõi hoang, Vuông cỏ rối/ Đáy Suối quên chới với trăng buồn/ Canh dài vần
vụ mưa tuôn/ Cây gày bóng nghe bên cồn chơ vơ...”. Tôi nghĩ, anh muốn tổng
kết sự nghiệp văn chương của mình trong mấy câu thơ ấy...
Trương Hữu Lợi cả đời gắn bó với Đài Tiếng nói Việt
Giờ đây, anh chẳng còn phải bận lòng nhàn hay không
nữa, khi đã là người của muôn năm cũ. Nhưng, với tất cả những gì Trương Hữu Lợi
để lại, hẳn đồng nghiệp và bạn bè sẽ luôn nhớ về anh !...
Người đi bạn với phù vân,
Hoan hô Phẫu thuật thần kinh
Mổ não rất giỏi, thơ tình cũng hay.
Người ấy là bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, chuyên khoa phẫu
thuật thần kinh ở Bệnh viên E, Hà Nội. Còn câu thơ kiểu Bút Tre kia là của
Nguyễn Vinh Hùng, em trai ruột của Nguyễn Vinh Dũng, đùa vui mà khen anh mình
vậy,...
Tôi mới gặp bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng
đúng một lần, qua vài tiếng trò chuyện thôi, nhưng biết đến anh thì trước đấy
vài năm. Số là, tôi có trang cá nhân ở một mạng xã hội, là Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.com) từ năm 2009, và ở
đấy, tôi có những người bạn, với tư cách là blogger
hay tư cách bạn đọc thường xuyên. Trong số đó, có những người là “người của công chúng”, là cây bút được
bạn đọc biết đến, như Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trương
Hữu Lợi, nhà văn Trần Tâm, nhà văn Nguyễn Cao Thâm, Lưu Quốc Hòa, Nguyễn Trọng
Huân, Trần Hồng Giang v .v… So với nhiều
bạn hữu và người quen của tôi xuất hiện trên blogtiengviet.com (BTV), mà các blogger gọi vui một cách
nôm na, là Xóm Lá, thì Nguyễn Vinh
Dũng là người đến muộn. Tuy đến muộn, nhưng Nguyễn Vinh Dũng nhanh chóng trở
thành một blogger ấn tượng, và vì thế, anh khá thân với nhiều blogger khác và được đông đảo bạn
đọc biết đến…
Nickname
mà Nguyễn Vinh Dũng sử dụng ngay từ ngày đầu tiên xuất hiện trong Xóm Lá là phauthuattk, lâu ngày, mọi người viết tắt, thành PTtk, rồi tắt nữa, là Phẫu. Và kể từ đây, Nguyễn Vinh Dũng trở
thành người nổi tiếng trong Xóm Lá…
Anh Phẫu, chàng Phẫu, hoặc chỉ một từ Phẫu là đủ, để ghi nhận sự có mặt của anh
trong Xóm Lá xôm trò này. Ở Blog Tiếng Việt nói riêng và mạng xã hội
nói chung, một ai đó muốn có một tài khoản, một trang cá nhân, không khó, vì
chỉ sau một số thao thác kỹ thuật là được. Song để nuôi dưỡng, để mọi người
biết đến, ghi nhận sự có mặt của mình, nể trọng mình, thì khó đấy. Riêng với
Phẫu, anh đã làm được cái việc khó ấy, một cách dễ dàng, tự nhiên. Tôi nghĩ,
đấy là phẩm chất, cá tính bẩm sinh, là kiến thức và bản lĩnh của người từng
trải …
Với tôi, không nhớ chính xác Phẫu xuất
hiện, ghi cảm nhận (comment) trên
trang Ngẫm & Viết của tôi khi nào và cụ thể bài viết gì, nhưng
Phẫu nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi, bởi qua một vài cảm nhận, anh đã thể
hiện rõ sự hiểu biết, tính phản biện cao qua giọng điệu hóm hỉnh pha chút chọc
ngoáy gây chuyện. Vậy mà tôi khoái ngay anh chàng Phẫu này từ “thuở ban đầu”… Phẫu nhanh chóng đứng vào
hàng ngũ của những blogger, những bạn đọc sắc sảo có tiếng ở đây trước khi anh
xuất hiện, mà tôi được biết và thường xuyên giao lưu, như: Người Qua đường, Phạm Huy Việt, Nguyễn Vĩnh Tuyền, Lê Văn, Lu Bim, Sĩ
Liêm, Chử Thu Hằng, Ru đêm-Thúy Tím, Mùa Thu vàng, Nhược Mộng, Biển Lặng, Ví
giặm, Hoàng Kim, Hoa Mai, Trịnh Tuyên, Việt An v.v…
Phải nói, tính tương tác cao của mạng
xã hội này, cho phép mọi người bộc lộ ý kiến cá nhân về những bài viết của các
blogger. Cái cách Phẫu đến với bà con Xóm Lá cũng rất khác người, ấy là không
cần sự rào đón, chào hỏi nhẹ nhàng làm quen, như phần đồng mọi ngưới hay làm,
thay vào đó, là ý kiến sắc sảo, là nhận định riêng, không a-dua, không bị ảnh
hưởng bởi hiệu ứng đám đông. Ngần ấy, khiến nhiều người để ý và nể trọng Phẫu.
Đấy là nét chính phác họa nên một diện mạo Phẫu với tư cách là người đọc và ghi
cảm nhận, vậy còn Phẫu với tư cách một cây bút, thì các sáng tác và bài viết
của anh ra sao?
Tựu chung, các bài viết của Phẫu, có
thể gom lại thành mấy dạng, nhiều nhất là câu chuyện hoài niệm về tuổi thơ đi
học ở quê, chuyện quân ngũ và chuyện về các người thân; dạng thứ hai, là những
bài viết ngắn, kiến giải các bức xúc xã hội, dân sinh có tính thời sự, và ở
đây, anh không ngại những đụng chạm mang tính chính trị; một dạng nữa, ấy là
các câu chuyện nghề nghiệp, cụ thể là chuyện từ tai nghe mắt thấy tay làm trong
công việc của một bác sĩ chuyên khoa Phẫu thuật thần kinh của anh. Phẫu khá
chịu khó cập nhật trang cá nhân, thay bài viết mới, đôi ba ngày một bài, lâu
nhất thì cũng chỉ một tuần. Chính vì vậy, tuy lập trang khá muộn, nhưng bài
viết lại nhanh chóng đầy lên. Và đấy cũng là cơ sở để tôi nhìn nhận ra một diện
mạo Phẫu với tư cách một cây bút.
Là một cây bút nghiệp dư, chịu khó
viết, nhớ đâu, thấy gì, kể nấy, nên tôi không đánh giá những bài viết của Phẫu
về khía cạnh văn chương chữ nghĩa, mà nhìn nhận ở nội dung đề cập, tính chính
kiến và chất nhân văn của mỗi bài viết của anh. Văn anh, nhiều chỗ còn ẩu, cũng
không thiếu lỗi chính tả, thế nhưng, ẩn giấu dưới những câu chữ ngổn ngang ấy (tôi hình dung chữ viết tay của anh, từ con
người và tính cách mà suy, hẳn chữ không đẹp, nhất là “chữ bác sĩ”), luôn
thấy sự hóm hỉnh, thông minh lấp lánh đâu đó. Thực lòng, tôi không nhớ hết
những bài viết của Phẫu, song tôi ấn tượng nên có thể gom những bài viết thành
các dạng cụ thể như vậy…
Ấn tượng nhất, ấy là chuyện kể dài kỳ,
mà Phẫu còn đặt thành chương, hồi kiểu như truyện trinh thám, kiếm hiệp ngày
xưa, có tên “Thằng Cường”. Đọc một số
chương, đối chiếu với những gì biết về cuộc đời Phẫu, dù tóm lược, cũng thấy
ngay, “Thằng Cường” chính là chuyện
về bác sĩ Nguyễn Vinh Dũng, là Phẫu cho đến bây giờ. Nghĩa là, truyện mang tính
tự thuật, song không phải là hồi ký. Cái hay, cái thích trong truyện này, ấy là
suy nghĩ thật, kể cả những điều khó nói, mà thường người ta hay giấu đi, chẳng
hạn như nỗi sợ hãi, sự hèn mọn, sự phản kháng… của một người lính có học, chuẩn
bị dấn thân vào nơi nguy hiểm, chết chóc… Tính chất tự thú ấy, giờ đây, tôi
cũng đã đọc được ở đâu đó của những nhân vật thành danh bước ra từ cuộc chiến.
Chuyện về người thân, viết nhiều nhất,
cả văn và thơ, ấy là người mẹ của Phẫu. Người mẹ mà Phẫu từng nhớ: ”Ta ước nơi xưa một nếp nhà/ Có vải, có chuối
có cỏ hoa/ Đèn ta trước cửa đêm đêm đợi/ Theo gió suơng về bóng mẹ ta”,...
Người mẹ, mà Nguyễn Vinh Hùng, em ruột của Phẫu cũng đã nhớ lại mà viết: “Hôm nay trời rét lắm/ Thôi! chị Thuấn ở nhà/
Đưa cái áo bông hoa/ Để cho Khang nó mặc/ Dũng, Hùng đâu, ra đây/ Sao phong
phanh thế này/ Lật áo lên mẹ đếm/ Một...hai...ba…chưa đủ,/ Độn thêm cái này
vào/ Ở bên trong ai thấy!/ Thế rồi mẹ đi cấy/ Mặc một áo phong phanh/ Mẹ bảo,
cấy cho nhanh/ Hình như…cũng đỡ rét”… Vậy là đủ hiểu, Phẫu và các anh chị
em trong gia đình anh yêu thương và kính trọng người mẹ đến mức nào.
Cũng chuyện người thân, Phẫu dành tình
cảm đặc biệt cho cô con gái út của anh. Được biết, Phẫu có ba con, hai trai
trước và gái út. Tôi đặc biệt ấn tượng, một câu chuyện anh kể lại, rằng ngày
gái út của anh còn nhỏ xíu, cháu bé có một chút khiếm khuyết nhỏ, không ảnh
hưởng gì đến sức khỏe cũng như thẩm mỹ, nhưng để giải thích cho gái út khi bé
băn khoăn về khiếm khuyết chút xíu ấy, Phẫu đã nghĩ ra hẳn một câu chuyện, như
truyện cổ tích pha ngụ ngôn, kể cho cô bé nghe, và sau đó, cô bé không còn băn
khoăn gì nữa. Thật là tuyệt vời, tôi nghĩ vậy, phải có lòng thương yêu con gái
út vô bờ bến, Phẫu mới nghĩ ra được một câu chuyện “cổ tích” hợp lý và hay đến vậy. Dường như, gái út cũng rất yêu kính
cha mình. Bằng chứng là, buổi chiều muộn, Phẫu lái xe đến trụ sở Đài TNVN ở 58
Quán Sứ (Hà Nội) đón tôi, để cùng đến
thăm nhà Gs.NGND Nguyễn Lân Dũng, đang đi thì Phẫu có điện thoại. Anh nghe máy,
và qua đối thoại trên phone, tôi ít nhiều hiểu được nội dung cuộc đàm thoại.
Phẫu giải thích, con gái út anh, cô bé đang là sinh viên đại học, hỏi bố có ăn
cơm tối không ở nhà không, và khi anh cho biết là đang đi đâu, ăn cơm khách với
ai, thì cô bé nhắc bố mình, nhớ đừng về muộn, không uống rượu bia khi lái xe.
Vậy thôi, đủ thấy, cha con anh, không những yêu quý, mà còn thân tình như bạn
bè…
Chuyện về nghề nghiệp, tôi nhớ là có
đọc một câu chuyện,vừa là chuyện nghề, vừa là chuyện người thân, ấy là về vợ
anh, một bác sĩ, khi ấy còn chưa làm công tác quản lý ở một bệnh viện ngành tại
Hà Nội như bây giờ. Chuyện rằng, nếu không nhầm, đại loại, vợ anh một lần bị
tai nạn, thương tích khá nặng, chấn thương sọ não hay cột sống gì đó, cần phải
phẫu thuật gấp, đặng mới cứu sống, vừa tránh bị di chứng sau này. Thế nhưng,
khi cấp cứu tại bệnh viện chị ấy công tác, song không hiểu sao, lại không có
bác sĩ phẫu thuật giỏi, đứng chính ca mổ. Phẫu được tin, đến ngay phòng bệnh,
nơi vợ anh đang được cấp cứu, chờ mổ. Với đội ngũ bác sĩ, nhân viên y tế ở đây,
anh và họ đều quen biết nhau, đơn giản bởi đây là nơi vợ anh công tác, thêm
nữa, chắc trong nhiều năm làm nghề, anh cũng thường xuyên tham gia hội chẩn,
thậm chí, được mời tham gia phẫu thuật, điều trị bệnh nhân của bệnh viện này.
Nhìn cảnh vợ đang hôn mê, chờ phẫu thuật mà chưa có bác sĩ giỏi cầm dao mổ
chính, trong khi bác sĩ mới vào nghề có đấy, nhưng chỉ phụ tá được thôi. Phẫu
sốt ruột lắm, bởi kinh nghiệm chuyên môn, anh hiểu, mỗi giây phút trôi qua, vợ
anh khó có cơ cứu sống. Thế nhưng, quy định chuyên môn không cho phép, dù có
giỏi đến mấy, bác sĩ phẫu thuật chính cũng không được phép cầm dao mổ cho người
thân ruột thịt của mình, bởi nỗi lo tâm lý và tình cảm không ổn định, dễ gây
ảnh hưởng xấu đến việc dao kéo, dễ sai sót khi phẫu thuật dẫn đến ca mổ không thành
công. Vậy nên, dù giỏi và giàu kinh nghiệm, Phẫu cũng không được phép cầm dao
trong ca mổ vợ mình. Tình thế lúc ấy thật khẩn cấp, và cuối cùng, không thể chờ
bác sĩ của bệnh viện kịp đến, ca trực cấp cứu hôm ấy, đành phải chấp nhận đề
nghị của Phẫu xin được cầm dao cho ca mổ chính vợ anh, để anh ký vào tờ giấy
cam đoan xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về ca phẫu thuật này. Anh đã vào cuộc
với một sự bình tĩnh, bản lĩnh cao cường, cho đến khi, bác sĩ chính của bệnh
viện đến nơi thì cũng là thời điểm Phẫu hoàn thành ca mổ xuất sắc. Tất cả đều
thở phào nhẹ nhõm, sung sướng vô bờ. Phẫu như kiệt sức. May mắn, vợ anh qua
khỏi, hồi phục dần, trở lại công việc bình thường, không bị di chứng gì. Nghe
đâu, vợ anh còn phát triển, trờ thành một cán bộ quản lý của bệnh viện này. Qua
những gì Phẫu kể lại trong bài viết của mình, có thể thấy được tay nghề chuyên
môn và bản lĩnh nghề nghiệp của anh cao tới cỡ nào rồi.
Một câu chuyện nữa của Phẫu kể lại và
tôi cũng nhớ vì quá ấn tượng. Ấy là một ca cấp cứu tai nạn giao thông chấn
thương sọ não rất nặng. Đêm ấy, không phải ca trực của anh. Phẫu bảo, anh ngồi
xem mạng, gần nửa đêm thì định đi ngủ, vừa lúc ấy thì điện thoại réo. Anh nghe
máy, đầu kia, bác sĩ trực ca đêm cùng khoa với anh, nhờ anh tư vấn cho một ca
cấp cứu chấn thương sọ não vì tai nạn giao thông của một nam thanh niên rất
trẻ. Bác sĩ trực ca tỏ ra thiếu tự tin, lo xử lý không thành công ca này, sợ
nạn nhân sẽ tử vong trên bàn mổ, và yêu cầu, nếu có thể, Phẫu đến ngay để giúp
anh ta xử lý ca này. Không chần chừ, Phẫu lao ngay đén viện vì nhà anh gần đó.
Và anh đã chịu trách nhiệm chính ca phẫu thuật sọ não cấp cứu đó. Đến gần 5 giờ
sáng, ca mổ hoàn tất với sự thành công vượt quá sự mong đợi của gia đình nạn
nhân. Khi Phẫu về phòng mình, thì người nhà bệnh nhân theo đến, đưa anh một
phong bì tiền, nói là họ muốn cảm ơn anh và cả ca trực đã vất vả đêm hôm dồn
hết sức để cấp cứu con họ qua cơn nguy hiểm chết người. Phẫu lung túng, không
nhận, song gia đình bệnh nhân nhất mực thành tâm, họ bảo không nhận thì họ sẽ áy
náy như kẻ vô ơn. Cuối cùng, Phẫu đành nhận, vừa để gia đình nạn nhân hài lòng,
và anh nghĩ, còn cả ca trực nữa, nếu thêm chút quà cảm ơn này, hẳn họ cũng sẽ
vui, niềm vui ở đây, không phải vì thêm được đôi ba trăm ngàn đồng, mà vui vì
rốt cục, sự cố gắng của họ đã được đền đáp, một con người trẻ trung được sống
lại…Thiết nghĩ, sẽ chẳng một ai chê trách gì Phẫu và các đồng nghiệp của anh
khi nhận món quà cảm ơn chân thành này. Tôi nghĩ, đây không phải là sự vòi
vĩnh, cầu lợi nghề nghiệp, nó thật sự là một biểu hiện của văn hóa biết ơn,
theo truyền thống văn hóa Việt nói riêng và văn hóa Phương Đông nói chung. Trở
lại bài viết của Phẫu, anh thành thật thú nhận nỗi băn khoăn của mình khi thay
mặt kíp mổ nhận món quà cảm ơn này với sự lung túng kèm chút băn khoăn trong
lòng, song anh cũng không quên sự hài hước vốn có của mình, khi mô hình hóa lại
vết mổ hình sao trên cái đầu trọc lóc của nạn nhân với lời bình hóm hình rằng “Rồi đây, liệu cậu nhóc có biết quý cái
mạng sống mà cha mẹ nó sẵn sàng đánh đổi mọi thứ và các y bác sĩ phải cố gắng
hết sức để giành giật lại cho nó, rằng liệu nó có thay đổi này, nọ…”. Đọc,
rồi cười thầm về sự dí dỏm, lại thêm phần nể trọng tính trách nhiệm của Phẫu…
Tiếng
là khá thân và nể trọng nhau, nhưng tôi và Nguyễn Vinh Dũng chỉ gặp nhau đúng
một lần, khi anh rủ tôi cũng đến thăm nhà Gs Nguyễn Lân Dũng. Phẫu nhận lời mời
và hẹn đến thăm giáo sư, nhưng anh bảo ngại đi một mình. Hôm ấy, Gs Nguyễn Lân
Dũng mời chúng tôi ăn bữa cơm tối ở quán cơm giáp ngay nhà ông trên phố Trần
Thánh Tông. Cơm đúng kiểu cơm gia đình, lạc rang, thịt rang, đậu rán, canh cua,
cà pháo. Tôi và Phẫu nhấp chút bia gọi là có, anh bảo, còn phải lái xe, và cũng
hứa với gái út rồi. Chuyện nghề y, chuyện văn chương, xã hội. Tôi nhớ, anh có
lý giải sơ qua, việc tại sao, anh đã là thạc sĩ, là bác sĩ chuyên khoa, nhưng
lại không tiếp tục nghiên cứu để lấy bằng tiến sĩ. Phẫu có bảo, anh đang biên
soạn một cuốn sách về chuyên môn và sẽ cho xuất bản, rồi cả chuyện anh chỉ còn
già một năm nữa là nghỉ hưu, sẽ tiếp tục hành nghề y ra sao, khi đã nhận lời
làm việc cho một phòng khám tư nhân của bạn bè...
Gặp nhau chỉ vậy thôi, nhưng cả trước
và sau cuộc gặp ấy, tôi và Phẫu giao lưu thường xuyên trên trang cá nhân của
mỗi người. Khi cần lắm mới alo cho nhau, bởi do tính chất công việc, tôi thì
họp hành liên miên, còn Phẫu thì bận việc chuyên môn, nhất là hay phải tham gia
phẫu thuật. Vậy nên, cứ hẹn nhau chung chung, rằng khi nào rảnh thì gặp
nhau,... Biết tôi chơi bóng bàn kha khá, Phẫu thích thú lắm, và còn hẹn, khi
nào rảnh rang thì qua bên cơ quan tôi giao lưu bóng bàn với tôi và đội bóng bàn
VOV, bởi anh chơi khá tốt và cũng ham môn thể thao này...
Tôi thích cách làm quen trực diện, gạt bỏ nếp xã giao
thông thường và tính trách nhiệm cao ở con người này, ngay từ ngày đầu, mặc dù
các cảm nhận của Phẫu cho những bài viết của tôi, đều gai gai, có gì đó trêu
ngươi. Tôi lặng lẽ sang trang cá nhân của Phẫu, đọc một số bài viết của anh,
không để lại cảm nhận gi, bởi tôi nghĩ, qua đây, có thể ít nhiều kiểm chứng
được kiến văn và tính cách của chủ nhân. Tôi cũng cảm nhận được và chấp nhận
cái sự “chọc ngoáy” của anh, và hiểu
đó còn là “phép thử” dành cho tôi…
Sau này, khi đã thân nhau, qua các cuộc đàm thoại, Phẫu cười sảng khoái, tự thú
là đã thử tôi thật. Phẫu hay trêu tôi, rằng “...
lão
Tôi biết, bản tính của Phẫu là người
thích phiêu du, nhưng điều kiện một bác sĩ phẫu thuật chính ở một bệnh viện lớn
khiến anh không dễ bứt ra khỏi công việc để đi đây đó. Vậy nên, khi có điều
kiện đi đâu đó xa vì công việc hay việc riêng, Phẫu đều tìm cách tranh thủ tách
ra, tìm gặp người quen. Chính vậy, một lần, trong chuyến công tác miền Tây Nam
bộ, tôi từ Cần Thơ sang Cao Lãnh (Đồng
Tháp) và trên đường lên Sài Gòn, tôi thu xếp ghé thăm Sáu Miệt Vườn, một blogger có tiếng của BTV. Qua cầu Rạch Miễu, rồi
men sâu vào miệt vườn ven sông Hàm Luông, sau mấy lần nối máy nhận chỉ dẫn, tôi
mới tìm được nơi ở của Sáu Miệt Vườn.
Những tưởng, mình là người đầu tiên ở ngoài Bắc lần mò vào tận đây thăm người
quen, vậy mà tôi nhầm, trước đó không lâu, Phẫu đã tìm đến đây rồi. Trong câu
chuyện của mình, Sáu Miệt Vườn luôn
nhắc đến anh Vinh Dũng với sự kinh trọng trìu mến, rằng anh ấy là người hiểu
biết, giản dị và đầy sự cảm thông, chia sẻ này nọ... Nghe nói, Phẫu đã nghỉ qua
đêm ở đây để nhậu, đàn hát kiểu lính tráng thoải mái, và chuyện trò với Sáu Miệt Vườn cho đã đời… Thực lòng, tôi
không bằng Phẫu trong giao lưu với bạn bè…
Có vài lần, anh tự lái xe của mình đi
công việc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, khi lên điểm cao dừng chân của cung
đường đèo Ô Quy Hồ (Lào Cai-Lai Châu)
và sau đó là Cổng Trời Quản Bạ (Hà Giang),
Phẫu nghỉ chân, nối điện thoại nói chuyện với tôi, rằng anh đang cảm nhận xem,
có gì đó giống với sự cảm nhận mà anh đọc được từ những sáng tác thơ văn của
tôi trước đó. Điều ấy, tôi thấy vui vì sáng tác của mình đã tác động đến bạn
văn chương, thôi thúc được bạn tìm đến các nơi mà mình từng trải qua…
Nhớ là, có lần, tôi góp ý khá nhiều về
lỗi câu chữ và chính tả trong truyện dài “Thằng
Cường”, kể cả về nội dung, cách nhìn nhận, sự đánh giá về “cái được-mất” của cuộc chiến đã qua dưới
lăng kính của một người lính trận còn sống sót đến thời hậu chiến, Phẫu bảo, cứ
nhớ gì và nghĩ thế nào viết ra cái đã, rồi sẽ đọc chậm, đọc kỹ và chỉnh sửa
sau. Phẫu lo, nếu cứ cân nhắc này nọ, rồi băn khoăn nên hay không nên, thì sẽ
ngại mà thui chột mất. Điều ấy đúng,
nhất là với người viết không chuyên như anh.
Và rồi, câu chuyện kể về “Thằng Cường”, hiện thân của Nguyễn Vinh
Dũng ấy, dừng lại đột ngột,... Vào một
buổi sáng oi nồng cuối tuần, mùa hè năm 2015, Phẫu bị đột quỵ ngay giữa trận
đấu bóng bàn khi anh đang thi đấu với các anh em bạn bè thuộc CLB Bóng bàn Cầu
Giấy, mà anh là thành viên. Tin anh mất, tôi đọc được vào sáng hôm sau, cũng là
qua các trang cá nhân của bạn bè Xóm Lá.
Tôi bàng hoàng, khó tin, bởi thể trạng anh khỏe mạnh săn chắc, lại thêm anh vốn
là bác sĩ cơ mà?...
Gia đình, người thân, đồng nghiệp, bạn
bè và đặc biệt là nhóm bạn Xóm Lá và các thành viên CLB Bóng bàn Cầu Giấy rất
đông đến viếng, tiễn đưa anh ở chính nơi anh làm việc. Trong câu chuyện bên lề,
có vị lãnh đạo của Bệnh viện bảo, “ông
này chủ quan lắm, chẳng quan tâm gì đến sức khỏe của bản thân, những lần cơ
quan tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên của bệnh viện, ông
ấy có khám xét gì đâu...”. Cũng là một lời trách về sự chủ quan. Phẫu ơi,
chẳng riêng gì anh đâu, người ta bảo, bác sĩ thường hay chủ quan về trạng thái
sức khỏe và bệnh tật của mình. Chẳng rõ, đúng sai, âu cũng xem như một sự an
ủi?... Hôm ấy, tôi có chú ý đến cô con gái út của anh, cháu có nét giống bố.
Con gái rượu, người mà Phẫu nhất mực quan tâm, đã khiến anh ngày nào nghĩ ra
một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cô bé. Giờ đây, tôi vẫn hay nghĩ về cô
bé, cháu đã tốt nghiệp đại học và đi làm rồi cũng nên?...
Sự ra đi của Phẫu khiến tôi bâng khuâng mất một dạo.
Quả thật, không có anh, BTV như trống vắng hẳn đi, chí ít, đối với tôi, với Sáu Miệt Vườn, và còn những ai nữa
đây ? ... Tôi biết, riêng trong BTV, có những người còn quý mến anh lăm lắm...
Đấy thực sự là niềm hạnh ngộ với Phẫu, và tôi tin, anh biết điều đó. Tôi hay
vào blog của Phẫu, đọc lại những bài viết của anh, đọc sâu về những bài viết
ngày đầu anh mới gia nhập BTV, khi đó, tôi còn chưa biết đến anh. Tôi cảm nhận,
ẩn sâu với vẻ ngoài thô ráp, góc cạnh, thậm chí có gì bỗ bã, là sự cảm thông
sâu sắc, là sự cam chịu pha lẫn sự phản kháng vô vọng trước cái xấu và sự bất
công, là những nỗi đau đời... chung quy, chúng đầy ắp chất nhân văn...
Chừng nửa năm sau, Vinh Hùng, em trai
Phẫu, thông báo là đã lần ra được password trang cá nhân của anh, đã xin phép
gia đình anh, mở lại trang phauthuattk trên BTV, đặng đăng lại một số bài viết
cũ của anh, trong đó, đặc biệt là truyện dài “Thằng Cường”. Bạn hữu lại thấy thấp thoáng bóng dáng Phẫu đâu đó
nơi trang viết trong cuộc đời Thằng Cường.
Đã có mấy chục số được đăng lại, nhưng rồi, bỗng một ngày nào đó, không còn
thấy hiển thị của trang ấy nữa. Không ai biết vì sao, nhưng chắc có lý do của
nó. Vinh Hùng và gia đình Phẫu, cùng một số bạn bè là các blogger của BTV,
trong đó có tôi, đã bày tỏ sự mong muốn được gom lại tất cả những sáng tác của
Phẫu, đặng lựa chọn và biên tập, xuất bản thành sách. Mong muốn ấy cũng đã từng
được Vinh Hùng và gia đình Phẫu ủng hộ, song giờ đây, chưa rõ việc ấy tiến
triển ra sao rồi? Tôi đã vào trang blog cá nhân của Vinh Hùng, nhắn hỏi, nhưng
vẫn chưa có hồi đáp. Đành chờ vậy thôi...
Khi còn làm việc, những năm trước tuổi
nghỉ hưu, Phẫu hay tranh thủ về quê. Có vẻ anh thèm cảnh vườn rau ao cá, thèm
cảnh bờ đê với những cánh diều bay lượn chiều hè, thèm dòng sông quê nhỏ bé
hiền hòa với những lũy tre mát rượi ngả bóng, thèm ngôi chùa làng thoang thoảng
khói hương tình lặng thiền định. Nhớ là, một lần, về quê ra, Phẫu đưa lên trang
cá nhân mấy cái ảnh chụp anh trần trùng trục lội ao giăng lưới bắt cá cùng những
lời chua hóm hỉnh. Chia sẻ cùng anh, tôi xúc cảm thành thơ tặng Phẫu: “Về quê/ ta tắm ao làng,/ rồi đi câu cá /
chẳng màng / được/ không/ lang thang/ với ngọn gió đồng/ chiều về// ra lại bến
sông/ thuở nào,/ Đêm/ thao thức / với trăng sao/ chùa bên/ hoa huệ/ ngạt ngào
lên hương,/ chợp đi/ một giấc bình thường/ tinh mơ / nghe thoảng/ giọt sương/
mơ hồ ...”. Phẫu đọc được, vẻ khoái lắm.
Nghề của anh, mỗi ca mổ cấp cứu, là
chứng kiến ranh giới giữa sự sống và cái chết, những tưởng anh sẽ chai sạn với
chuyện sinh tử, nhưng không, tâm hồn anh nhạy cảm, mong manh lắm. Một lần, ghi
cảm nhận cho một bài thơ của tôi về quê cha đất tổ, Phẫu đã suy ngẫm và chiêm
nghiệm gì đó, mà anh ghi “... Có lần, đi
một mình trong sân bênh viện lúc đêm khuya, nhìn cái bóng của mình trên mặt
đất, tôi như thấy bóng ông bà, tổ tiên mình lẩn khuất trong đó...”. Điều
ấy, cho thấy, Phẫu cảm nhận chuyện đi ở bình thường như bao quy luật khác của
cuộc đời?...
Lại một mùa hè nữa. Những ngày nắng
như chàm lửa, bạn bè lại nhớ đến Phẫu. Đã là mùa hè thứ ba kể từ khi anh đi xa.
Phẫu, “người đi bạn với phù vân, cõi
không lẫn với những vì sao đêm”, anh thực sự “phiêu du trên cánh nhẹ êm,/ mong manh đậu chiếc lá mềm vườn quê,/ làm
mưa ướt cỏ triền đê,/ hòa làn gió thổi tái tê trời chiều,/ làm sương đẫm những
thương yêu,/ làm nỗi nhớ của bao nhiêu lòng người”...
Người thân và những bạn bè vẫn luôn
nhớ anh. Mong một ngày gần nhất, được thấy những bài viết của anh, tập hợp
trong một cuốn sách, với tên tác giả đầy đủ và trang trọng-Nguyễn Vinh Dũng.
Còn ở Blog Tiếng Việt, xin anh, hãy cứ
để mọi người nhắc đến anh với biệt danh giản dị - Phẫu, ...
Người thơ, ngơ ngác như thằng mất trâu,...
Người thơ ấy là Ma Bích,
Còn thơ Ma Bích thì tôi chỉ nhớ mỗi
câu “Đồi xưa
bẻ lá em nằm/Nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu,”...
Ma Bích tên thật là Hà Hồng Vanh, dân
tộc Mường, quê xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Thông tin này,
tôi lấy theo nguồn của nhà thơ Trương Thị Mầu, hội viên Hội Văn học nghệ thuật
dân tộc thiểu số Việt Nam, Bác sĩ Ưu tú, giám đốc Phòng khám đa khoa Lương
Điền, Bá Thước, Thanh Hóa.
Tôi biết nhà thơ Ma Bích từ ngót chục
năm nay, tại cuộc gặp gỡ, giao lưu thơ văn đầu xuân hằng năm tại gia nhà văn
Trịnh Tuyên ờ Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Những lần như thế, Ma Bích theo xe của nhà
thơ Trương Thị Mầu xuống Cẩm Thủy. Thú thật, trong những cuộc vui như vậy, thơ
văn hòa rượu tuôn ào ào, tôi không thuộc nổi câu thơ nào của Ma Bích, ngoài
việc thuộc tên nhớ mặt nhau. Ấn tượng của tôi về ông kể từ ngày đầu gặp gõ, ấy
là cách nói năng và những bài thơ ngắn ngẫu hứng đọc tại chỗ có giọng điệu đúng
chất người dân tộc thiểu số...
Cho đến mùa hạ năm 2019, nhóm chúng
tôi có nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, họa sĩ Lã Minh
Kính và một vài bạn hữu vào Bá Thước, rồi cùng Trương Thị Mầu, Ma Bích và vào
bạn hữu du ngoạn Pù Luông, ngủ đêm lại đó trong nhà sàn homstay, tôi mới có
điều kiện trò chuyện và nghe Ma Bích đọc nhiều thơ của ông.
Chuyến ấy, theo lời mời từ mấy năm
trước còn chưa thực hiện được của nhà thơ Trương Thị Mầu, chúng tôi đến thẳng
Phòng khám đa khoa Lương Điền. Đây là phòng khám chữa bệnh Đa khoa do Trương
Thị Mầu lập sau khi cô nghỉ hưu với chức danh giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện
Bá Thước. Khi còn làm việc, nữ nhà thơ này được phong Bác sĩ ưu tú, cô là một người giỏi chuyên môn và quản lý, sớm có y
định xây dựng một trung tâm y tế nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho người
dân địa phương bới đây là một huyện miền núi biên giới điều kiện giao thông khó
khăn. Bữa đó, Mầu làm thịt cả một con lợn cắp nách để đãi bạn văn chương thủ
đô. Lên mâm, chỉ thấy có Mầu và mấy nữ nhân viên y tế, tôi nhìn quanh. Mầu hiểu
ý cười: “Các anh yên trí, em đã mời anh
Ma Bíchm anh ấy nhận lời rồi”. Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vui đùa “Đến Bá Thước mà thiếu bạn thơ Ma Bích thì
coi như vắng một nửa”. Dứt lời, đã thấy ngay Ma Bích xuất hiện ngoài cửa
tay cầm chai rượu thuốc tự ngâm.
Theo chương trình xếp trước, chiều ấy
tất cả đi Pù Luông. Xe dừng ngoài ngõ để
Ma Bích tranh thủ ghé nhà báo cáo vợ và lấy thêm tư trang vì đoàn ngủ qua đêm ở
Pù Luông. Đường lên Pù Luông quanh co những dốc, trong xe chuyện thơ văn rôm
rả. Nhiều thửa ruông bậc thang của đồng bào Mường đã bắt đầu gặt Chốc chốc,
dừng xe để mọi người chụp ảnh check in,
nhất là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền vốn say món tự sướng. Ma Bích chỉ cười hiền ngắm bạn thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền
txoay chóng cả mặt. Khi rẽ vào Bản Đôn
thuộc xã Thành Lâm chiêm ngưỡng ruộng bậc thang thì trời cơn giông kéo lên đen
ngòm, rồi mưa như trút. Mưa sầm sầm, trắng cả đất trời, khiến các đoàn xe của
khách du lịch dồn ử cả đống. Cả vùng ruộng bậc thang mờ mịt trong mưa, nên
chúng tôi chỉ có thể ngồi yên trong xe chụp ảnh qua cửa kính. Lúc quay ra, mấy
cái đập tràn nước đã dâng lên nhanh mấp mé, may mà xe còn qua được. Khi lên đến
khu nhà sàn homestay thì trời tạnh hẳn, mây quang quẻ, hửng chút nắng hoàng hôn
rất đẹp,... Ma Bích ngắm hoàng hôn, miệng lẩm bẩm gì đó, hinh như nhẩm thơ...
Tiệc tối, món ăn theo phong cách cơm
Mường địa phương, hấp dẫn với món thịt vịt Cổ Lũng béo mềm và ốc đá hấp lá
gừng, cá suối rán giòn. Rau thì toàn món rau rừng chúng tôi không rõ tên. Rượu
nhắm cũng là thứ rượu ngâm trái rừng rất đặc biệt không đâu có. Rượu vào lời
ra, Nguyễn Vĩnh Tuyền và Ma Bích thay nhau đọc thơ. Mâm bên có cặp vợ chồng trẻ
người Mỹ cũng bị lôi vào cuộc... Đêm, khách ngủ chiếu sàn gỗ. Tôi thao thức mãi
không ngủ được, phần vì lạ cảnh, vì tách cà phê đen lúc chiều và phần vì bên
cạnh, Ma Bích ngủ ngáy khá to. Thêm nữa, tiêng nước suối đâu đó tạo thác đổ ầm
ào suốt đêm. Tôi thiếp đi mộng mị. Trờ dậy tảng sáng, nhóm của Trương Thị Mầu
và Ma Bích chào vội để về thị trấn Bá Thước vì Mầu phải dự một cuộc họp gì
đó...
Năm 2020, dịch covid bùng phát, lỗi
hẹn với xứ Thanh, đợi qua năm 2021. Lần
này, vào Thanh đã chớp chới hè. Chúng tôi tả qua Cẩm Thúy thăm nhà văn Trịnh
Tuyên rồi cùng anh ngược Bá Thước. Vẫn một Truong Thị Mầu ân tình và chu đáo,
một Ma Bích hiền hòa ấm áp. Mọi người du ngoạn Duồng Cốc, một vùng hồ nước đúng
chất sơn thủy hữu tình ẩn sâu trong rừng núi Bá Thước ít người biết. Bữa cơm
tối tại đây theo kiểu cơm Mường, cá nướng măng tươi xôi nếp nương. Trần ngập
rượu và thơ, ngẫu hứng thì đũa gõ bát làm nhịp mà hát/ Ma Bích đọc thơ, nhưng
tồi chỉ nhớ mỗi câu thơ “Đồi xưa bẻ lá em nằm/nay qua ngơ ngác như thằng mất trâu”
vì thấy thú vị. Sự thú vị ở đây là cái
cách ví von giữa việc mất người yêu như việc mất trâu. Thoáng qua tưởng ví thế
là thô. Nhưng với người dân tộc thiếu số, con trâu to lắm, gần như là thứ của
cải lớn nhất trong nhà, nên mất trâu coi như mất cơ nghiệp, tiếc lắm chứ. Vậy
mà, mất người yêu từ ngày còn trẻ, đến giờ thăm lại nơi tình tự ngày xưa vẫn “ngơ ngác như thằng mất trâu”, thì thử
hỏi. ngày xưa đau đớn đến thế nào?... Cách diễn đạt như vậy, thật thà mà hài
hước, đúng nếp nghĩ và lối diễn đạt của người dân tộc thiểu số. Ngẫm kỹ, rồi
đem so sánh với trường hợp giả ngô ngọng
thật thà mách qué trong một bài thơ về cái sự chửi vừa được trao giải cao,
mà thấy buồn cười....
Không ngờ, cái
đêm giao lưu thơ nhạc ấy, là lần cuối cùng tất cả chúng tôi gặp Ma Bích. Non
tháng sau, ngày 13.4. 2021, Ma Bích đột ngột ra đi vĩnh viễn sau một cơn đột
quỵ khi đang khỏe mạnh bình thường, bời ngay trước đó, ông còn đi xe máy chở vợ
đi khám bệnh ở Bênh viện đa khoa huyện và ngủ lại bệnh việc chăm vợ...
Đọc tin báo và
bài viết vội của nhà thơ Trương Thị Mầu về Ma Bích, mới thấy cái tình, người và
thơ của ông để lại trong lòng và tâm trí những người thân thiết, không hề nhỏ
!...
***
Tôi lần giở lại
toàn bộ trang cá nhân của Ma Bích trên Facebook, cả thông tin va bài viết không
nhiều. Thơ cũng vậy. Ông cho thấy không phải là người thạo công nghệ, nên gặp
khó khăn trong việc đăng bài viết và thơ phú của mình. Thế nhưng. với ngần ấy
thôi, thêm hồi tưởng về những lần gặp gỡ Ma Bích, cũng đủ cho tôi phác thảo nên
một người thơ Ma Bịch,...
Có lẽ, Trương Thị
Mầu là người cùng dân tộc Mường, lại là bạn thơ lâu năm thân thiết với Ma Bích,
nên chị hiểu và thích thơ ông hơn chăng? Ngôn ngữ Mường cổ và cách diễn đạt rất
Mường. Còn cảm tính, ấy là hồn vía Mường, không chỉ nằm trong ý tứ, câu chữ bài
thơ mà ở cả trong cái cách ứng xử, trong biểu cảm khi Ma Bích đọc thơ và diễn
giải nguồn gốc từ ngữ bắt nguồn từ phong tục dân tộc mình,...
Cũng theo nhà thơ
Trương Thị Mầu thì Ma Bích làm thơ muộn, khi đã lớn tuổi. Song cũng không vì
thế mà sốt ruột, ào ạt cho nhanh, mà rỉ rả kể chuyện mình, chuyện phong tục dân
tộc mình, trước hết cho chính minh, rồi ra có cái để mà chơi với thiên hạ. Với
ý thức đó, ông không vội vàng là thế, chỉ lấy thơ nói hộ lòng mình khi cần phải
vậy, nên số lượng thơ ông không nhiều, nhưng cũng vì thế mà thơ Ma Bích không
đểnh đoàng, khá chắt lọc và quan trọng là có giọng điệu riêng. Cái chất Mường
trong thơ Ma Bích cũng không giống chất Mường trong thơ của một vài nhà thơ
người dân tộc Mường khác. Nó là của riêng ông. Ví như, bài thơ Lóng
la, thì cùng với việc nói cái tình riêng, Ma Bích còn lục kho ngôn ngữ,
lôi ra, đặng gột rửa cụm từ Mường cổ lóng
la. Theo nhà thơ Trương Thị Mầu, trong tiếng Mường “lóng” là cây chuối rừng, nhưng “la”
thì là một từ không cụ thể, song khi kết hợp thành “lóng la” thì người ta hiểu ấy là ngàn rừng, một khái niệm rộng lớn
hơn nhưng không rõ ràng. Trở lại bài thơ:
“Tôi về thăm Lóng La/ Mưa hoàng hôn tất
tưởi/ Gió San mười chạm với/ Tìm mường hoa Lóng La/ Tìm vệt trăng bay xa/ Em
xòe tay khung cửi/ Trập trùng hoa cỏ núi/ Thắm biếc tình hai ta/ Rồi hẹn không
gặp hẹn’ Rồi thương gặp lũ ngàn/ Ta Lóng La trắc trở/ Nhịp cồng chùng lâu san/
Con chim kêu khản tiếng/ Sao bạn tình không lên/ Anh ở miền gió lửa/ Ôm vú cồng
thức đêm/ Nhớ nhau Lóng La nhé/ Gọi nhau Lóng La ơi/ Cây chày anh lỡ nhịp/ Cối
nương em đầy vơi...”
Vậy là, Ma Bích đã biến cụm từ lóng la thành địa danh, một nơi vữa xa vừa gần, nửa thật nửa ảo, mà
ở đó, người thơ có cái tình với mộr bóng hình nào đó, trắc trở, không nên ngãi,
để bây giờ nên nhớ thương, day dứt.
Hay như, bài thơ Tặc ven em cùng dạng thức như vậy:
“Lâu rồi không
gọi tặc ven/ Nỗi nhớ quên theo ngày tháng/ Dây rừng - chạng vạng/ Xập xoè tặc
ven.../ Đừng đau tặc ven ơi/ Nếu như ngàn năm không gặp lại/ Đá lở non mòn,
ruộng sâu đồng bãi/ Cha mẹ đi ta vẫy Tặc ven đi”.
Cũng theo ý nhà thơ Trương Thị Mầu, “tặc-ven” là một khái niệm không cụ thể
trong tiếng Mường cổ, mà chỉ cho người ta hình dung là đám cỏ bợ, dây rợ lằng
nhằng ven bờ, góc ruộng, xó rừng... Đưa “tặc
ven” vào thơ, Ma Bích muốn gòi thành tên, đặng nhắc nhở mọi người, nhất là
giới trẻ chớ quên từng có một xứ Mường nguyên bản, không pha tạp, và cho dù
theo xu thế phát triển chung của thời đại mới. càng cần thiết gìn giữ bản sắc
Mường trong đa dạng văn hóa Việt
Dường như, ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa
Muờng thường trực trong con người Ma Bích, nên thơ tình cũng là cái tình Mường
của riêng ông: “Anh
bây giờ không nhớ cả tên anh/ không biết mình năm nay bao nhiêu tuổi/ Mường nọ
chòm kia mấy sông mấy suối.../còn mấy vần thơ gác bếp lửa hong phơi/ anh buộc
lá Làn Ai gửi cho người tri kỷ/ Đá dựng thành lời, lá bay thành ý/ Ta mây bạc
trắng trời lãng đãng phiêu du...” (Phiêu
du). Hay như: “Sợ say ta trốn vào
nhau/ Sợ câu xường lạc truông vầu không lên/ Xin đừng gọi vía kêu tên/ Mà đau võng
bạc tre đền Mường Ai/ Chát nồng ăn lá giêng hai/ Neo trong suối lũ thung dài
tìm xưa” (Tìm Xưa”... Ma Bích
từng có gần chục năm sống ở Tây Nguyên, ông dần hòa nhập vào đời sống trên vùng
đất mới, nhưng nỗi nhớ Mường vẫn canh cánh trong lòng: “Mẹ gùi câu khặp theo cha/ Đi làm người mường khác/ Câu Xường cũ sấm rền
rung cuối thác/ Con nhặt về buộc lại vía ngày xa... (Thư gửi con) .
Ma Bích tạo được giọng điệu
riêng, nên thơ ông làn về đề tài rừng có nhiều người đã làm, thi ông vẫn có cái
của riêng mình, để không lẫn vào người khác:
Chiều nay qua Thành Nhà Hồ
Nhìn tan nát một cơ đồ mà đau!
Sân rồng ngập vết chân trâu
Đâu vườn Thượng Uyển, đâu cầu vua qua
Ngai vàng nắng táp mưa sa
Triều đình còn lại một ta giữa đường...
Liêu xiêu leo dốc ngược mường
Qua truông ra gặp người thương không chào...
(Qua thành Nhà Hồ)
Đến
rồi đang giữa tháng ba
Sao
mà ngồi nhớ người ta thế này
Nhớ
mái tóc nhớ bàn tay
Và
đôi ánh mắt những ngày còn xưa...
Xa
xưa lay lá lay mưa
Người
còn lên lại Pha Dùa hay thôi
Miền
biên viễn nở hoa rồi
Sáo
ai hổn hển đất trời đang yêu
Một
mình ôm chiếc khăn piêu
Đùm
cơm cháy lá dong chiều... Đêm buông?
(Tháng Ba)
Theo tôi, đây là những bài
tho hay của Ma Bích. Bởi lẽ, nếu là
người khác mà không phải là người Mường-Ma Bích, thì dễ gì có những câu kiểu
này: “Triều đình còn lại một ta giữa
đường.../ Liêu xiêu leo dốc ngược mường/ Qua truông ra gặp người thương không
chào...”(Qua thành Nhà Hồ); Hay
như: “Xa xưa lay lá lay mưa/ Người còn
lên lại Pha Dùa hay thôi/ Miền biên viễn nở hoa rồi/ Sáo ai hổn hển đất trời
đang yêu/ Một mình ôm chiếc khăn piêu/ Đùm cơm cháy lá dong chiều... Đêm
buông?” (Tháng Ba), ...
Như một tiền định, mới gần
đây thôi, ngày 20.11.2020, ngày Nhà giáo Việt Nam, Ma Bích làm thơ nhớ thầy
giáo cũ, người ngày xưa từng dạy ông lúc còn đi học, ông đã viết: “Thầy giáo đi rồi còn lại mình em/ Lớp học
ngày xưa không còn ai nhớ nữa/ Mái lá
sàn tre rét run cánh cửa/ Em tìm về
cách biệt âm dương.../ Chúng em lớn lên đứa lấy vợ gả chồng / Nay tóc trắng như tóc thầy ngày ấy/ Mỗi lần gặp nhau khi nào cũng vậy/ Hay nhắc về thầy, thầy có nghe không./ Còn riêng em thích luyện bút văn phong/ Ghét kẻ bất lương thương người nghèo khó/
Rồi một ngày kia em sẽ về dưới cỏ/ Lại
đến tìm thầy xin đọc để Người nghe”. (Thầy
giáo).Ma Bích mong rằng, đến một ngày kia nào đó, ở thế giới bên kia,
ông được đọc thơ cho thầy giáo cũ của mình nghe...
Giờ thì Ma Bích đã toại
nguyện, ông được “về dưới cỏ” để rồi “lại đến tìm thầy xin đọc để Người nghe” !...
./.
Người rong chơi cùng văn chương,
1. Khai mở
Đấy là Nguyễn Xuân Sinh, bút danh trên
các mạng xã hội (Blog Tiếng Việt và Facebook) là Việt An, Nguyễn Việt
An, và đây cũng là tên doanh nghiệp gia đình của anh. Việt An, quê ở Yên
Phụ, Kinh Môn, Hải Dương, là anh cả trong một gia đình đông con, có bố là giáo
viên. Hiện gia đình Việt An sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ở xứ ta, người yêu văn chương, thơ phú
nhiều vô kể, thậm chí, nói theo một cách của một nhà phê bình văn học "Nhà
nhà làm thơ/ người người làm thơ/ vè nhất định thắng...", song với
Việt An thì lại khác. Chí ít, từ cái xuất xứ văn chương của anh.
Ngày học phổ thông, Việt An là người học
giỏi toàn diện, vì có bố là giáo viên, nên anh được rèn rũa khá kỹ, học hành
nền nếp, nghiêm chình. Song môn Văn học trội hơn, nên được nhà
trường chọn đi thi học sinh giỏi môn học này năm lớp 10 (hệ 10/10), và trúng
tuyển vào Đội tuyển học sinh giỏi của tỉnh Hải Hưng (cũ) niên khóa 1974-1975,
để dự kỳ thi giỏi môn Văn toàn miền Bắc (khi ấy chưa giải phòng niền Nam
thống nhất đất nước). Đổi tuyển được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang
(thị xã Hải Dương) để bồi dường môn Văn, chừng 2 tháng, trong số đó có nhà thơ
thần đồng Trần Đăng Khoa, Trịnh Bá Ninh (sau này là Phó tổng biên tập Báo
Nông nghiệp Việt Nam), tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Việt An... Ngày
ấy, bồi dưỡng chúng tôi, Ty giáo dục Hải Hưng đã lựa chọn một số giáo viên được
xem là giáo viên giỏi môn Văn từ các trường cấp 3 trong tỉnh. Cùng với môn Văn,
chúng tôi vẫn phải học các môn khác, đặng theo kịp chương trình học, còn thi
tốt nghiệp phô thông nữa. Già nửa số thành viên trong đội tuyển (có tôi,
Trịnh Bá Ninh, Việt An...) học tốt cả Toán Lý, nên thời gian rảnh rồi, nhóm
này hay mang những bài toán khó (sưu tầm được, hoặc lấy từ Tạp chí Toán học
và Tuổi trẻ) thách đố nhau, hoặc chụm đầu cùng giải. Việt An thuộc diện khá
thông minh trong cách giải toán...
Thế rồi, kỳ thi giỏi văn toàn miền Bắc
năm ấy, Đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả Trần Đăng Khoa, lý do, đề
ra mở, khiến mọi người lúng túng không biết chọn thể loại nào để làm bài. Nhưng
chưa hết, khi thi vào đại học, không một ai trong chúng tôi chọn chuyên ngành
Tổng hợp Văn, hay Sư phạm Văn cả, mà phần lớn là ngành kỹ thuật (Xây dựng, Bách khoa), Sư phạm Toán,
Ngoại giao, Ngoại thương... Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt
An học cơ điện, riêng Trần Đăng Khoa nhập ngũ rồi học Trường sĩ quan lục
quân...
Trần Đăng Khoa vào bộ đội, tham gia huấn
luyện và đi học trường sĩ quan lục quân, rồi đi chiến trường Campuchia theo
quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Phnompenh, lật đổ chế độ Khmer Đỏ tàn bạo,
sau lại về Bộ Tư lệnh Hải Quân ra Trường Sa, trước khi về Hà Nội học ngoại ngữ
để sang Liên Xô (cũ) học khoa Sáng tác ở Đại học Gorky. Dù ở đâu, thì Trần Đăng
Khoa cũng vẫn là đi thực tế để sáng tác, và như vậy, gắn liền với môi trường
văn chương.
Trịnh Bá Ninh theo nghề làm báo chuyên
nghiệp ngay sau khi tốt nghiệp đại học, khi được nhận về làm phóng viên Báo
Nông nghiệp. Đây là điều kiện, để anh sớm có vài bài bút ký được trao
giải thưởng của một số cơ quan báo chí tổ chức thi thể loại bút ký. Cùng với
bút ký là sở trường, Trịnh Bá Ninh thi thoảng làm thơ, những không cho đăng ở
đâu, chỉ đọc chơi lúc cao hứng trà dư tửu hậu. Thơ anh giàu chất suy tưởng.
Quan trọng, Trịnh Bá Ninh nhanh chóng được đề bạt chức danh Phó tổng biên tập,
chuyên về nội dung, từ khi còn khá trẻ, và có thể nói, anh là một người làm báo
giỏi...
Còn Việt An, học ngành điện, vào bộ đội
và làm việc đúng với sở học của mình, ấy là chuyên về điện thuộc đại đội doanh
trại sân bay quân sự ở Tân Sơn Nhất. Vậy thì dính dáng gì đến văn chương, khi
nói anh là người rong chơi cùng văn chương ?
Hãy nghe anh tự bạch:
Việt An không cửa không nhà
Có người vui miệng gọi là “Việt gian”
Tuổi thơ nghèo khó, cơ hàn
Lớn lên đốc chứng dở gàn, dở ương
Quê nhà ở tận Hải Dương
Hà Nội đi xuống theo đường số 5
Nghề nghiệp đúng trăm phần trăm
Là nghề “điên nặng” hỏi thăm biết liền
Xấu trai, mốc cả mặt tiền
May trời chiếu cố, vợ hiền con ngoan
Tuổi đời Mậu Tuất không oan
Khôn đâu chẳng thấy, thấy toàn…dở hơi
Buồn vui một chút với đời
Câu thơ tếu táo nói lời tâm can !
2. Trần tình,
Sau khi đọc bài tản văn của tôi Thời
gian không trở lại, đăng trên blogtiengviet.net, Việt An đã trần tình:
“Các bạn của tôi ơi ,
thời gian không bao giờ trở lại . Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy
thì, sự tiếc nuối hẳn không vô ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn
Chu Nhạc)
Đúng vậy ! Thời gian không bao
giờ trở lại, chỉ có ký ức là mãi tươi nguyên. Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn
lên vào thời gian khó. Bây giờ kể lại, lớp trẻ sẽ cảm thấy như nghe như chuyện
cổ tích. Hình như một thời gian khó, làm người ta yêu quí nhau, và nhớ nhau
nhiều hơn thì phải ? Văn chương là cơ duyên, giúp cho chúng tôi trở thành bạn
học của nhau, dù mỗi người ở mỗi huyện, rải rác khắp tỉnh Hải Hưng cũ. Vào đời,
tôi chọn cho mình con đường đi không còn bóng dáng văn chương. Đã mấy chục năm,
tôi gần như không còn đọc các tác phẩm văn học. Cuối năm 2008, tình cờ khi lướt
web, tôi đặt chân đến làng Blogtiengviệt. Nơi tôi ghé thăm đầu tiên là blog của
Phạm Tâm An. Văn chương với tôi bây giờ, thực sự chỉ là những thoáng dạo chơi.
Tôi viết cảm nhận tếu táo, với vài bài mang tính giao lưu. Việc đó mang lại cho
tôi những người bạn mới, và cả những niềm vui nho nhỏ.
Tình cờ khi giao lưu blog, tôi
gặp lại bạn tôi- nhà báo Nguyễn Chu Nhạc. Nhưng, người làm tôi hiện diện trước
cộng đồng, lại là nhà báo Nguyễn Trọng Huân (người mà tôi cảm mến qua những bài
viết của anh), khi anh đã hơn một lần công khai nhắn tìm tôi trên blog, như
“tìm trẻ lạc”. Thế giới ảo xa mà gần. Đó là duyên cớ để tôi xuất hiện ở bài
viết này của Nguyễn Chu Nhạc. Những năm tuổi trẻ, có lẽ tôi và Chu Nhạc khá
long đong. Một chút sai lầm, đã làm việc học hành của tôi bị chia làm 2 khúc,
trước khi có được mảnh bằng đại học. Chu Nhạc có thuận hơn, nhưng ra trường lại
đi xa biệt, mãi vùng biên giới của tỉnh An giang. Lúc đó tôi đang trong quân
ngũ. Muốn vào khu vực đóng quân phải đi qua ít nhất 2 trạm gác được kiểm soát
khắt khe. Thật sự chúng tôi ít có dịp gặp nhau... kỷ niệm về những năm tháng đã
qua, vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 2004, tôi ra Hà Nội, đến nhà Trịnh Bá Ninh (hiện là Phó tổng biên tập
Báo Nông nghiệp Việt Nam). Ninh nhấc máy điện thoại thông báo cho các bạn, rồi
quay sang nói với tôi: “Bây giờ không còn thiếu thốn gì, nhưng tóm được
thằng bạn đến nhà nhậu cũng khó, vì ai cũng bận việc”. Ngoài trời rét đậm.
Mưa nặng hạt. Nhìn các bạn khoác áo mưa, đi cả chục km đến, tôi xúc động chẳng
biết nói gì. Hôm sau, chúng tôi tụ họp tại nhà hàng Rambo, đường Nguyễn Chí
Thanh, Hà Nội. Đang vui, bỗng nhà thơ Trần Đăng Khoa trầm ngâm: “Kinh thật !
Ba mươi năm rồi đấy!" Vâng, chính xác lúc đó là 29 năm, kể từ khi
chúng tôi rời ghế nhà trường phổ thông. Đến giờ (năm 2010) là 35 năm rồi ! 35
năm, mà như mới hôm qua. Nhớ lúc
Nguyễn Chu Nhạc xin được việc ở Đài TNVN, Trịnh Bá Ninh hấp háy bảo tôi : “Thấy
anh Nhạc về đài, các bà chưa chồng ngoài 40 mừng lắm ! Bà nào cũng nhủ thầm,
khéo lần này đến lượt mình !??” Dù rằng lúc đó Chu Nhạc mới chỉ 30 tuổi. Dân
văn chương vốn hóm hỉnh. Có vô vàn câu chuyện chọc ghẹo nhau tương tự.
Lại nhớ, Trịnh Bá Ninh là người
lấy vợ sớm hơn cả. Hai vợ chồng Ninh ở một phòng chỉ rộng 9m2, trên tầng 2, do
Báo Nông Nghiệp cho mượn, hay cấp chẳng rõ. Khi tôi đến, Ninh ngồi giữa nhà,
với tay lôi ra 1 bao lạc củ, miệng nói: “Quà “hối lộ” của nông trường , của hợp
tác xã nông nghiệp đấy, ông ạ”! Chúng tôi ngồi bóc lạc để rang. Lại với tay,
Ninh lôi từ gầm giường ra 1 cái bếp dầu, 1 can rượu trắng cùng mấy cái chén
nhỏ, rồi nói: “Ở nhà chật, sướng thế đấy. Mình ngồi giữa nhà, mà “điều hành”
được mọi việc” !? Căn phòng nhỏ của vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh, là kỷ
niệm đáng nhớ một thời của không ít bạn bè, trong đó có Nguyễn Chu Nhạc. Nhạc
và vài người bạn nữa, từng lưu trú tại căn phòng đó nhiều ngày, trước khi xin
được việc làm. Tôi cứ thắc mắc, không biết tay Ninh “sáng tác” vào lúc “quái”
nào, trong khi mấy thằng bạn chưa vợ “nằm phục” ngay cạnh giường ? Vậy mà “hắn”
vẫn “sáng tác” được mới lạ !? Tác phẩm đầu tay là cậu con trai khôi ngô, tuấn
tú, hiện đang làm luận án Tiến sĩ tại Mỹ. Trong hoàn cảnh khó khăn lúc ấy, tôi
thật sự cảm phục tấm lòng của Mai (vợ anh Ninh), đối với mấy ông bạn “nửa văn
thơ, nửa báo chí” của chồng.
Lại nhớ thời đi học “miếng
cháy to hơn điểm 10”. Nhớ thời đạp xe đạp tìm đến thăm nhau, khi Nguyễn Chu
Nhạc và Trịnh Bá Ninh còn học ở trường Đại học Nông Nghiệp I. Mỗi sáng dậy,
chen nhau hứng nước đánh răng. Bao nhiêu con người xúm vào cái vòi nước chảy
như thằn lắn đái. Câu “Nhất bát, nhì ca, thứ ba cà mèn” xuất phát từ đây.
Lại nhớ bài thơ đầu tay “Núi Đôi buổi sớm” của Nguyễn Chu Nhạc, đăng
trên báo Văn nghệ, khi anh còn là sinh viên, được lấy cảm hứng từ chuyến đi
cùng Ninh, đến vùng Núi Đôi thăm tôi…Lại nhớ, những lá thư viết bằng giấy học
trò của bạn bè, với những bao thư tự chế…
Có vô vàn điều để nhớ…đã giúp chúng tôi luôn
nhớ và biết sống một cách cố gắng. Tôi vui và tự hào về các bạn của mình. Thay
cho lời cảm ơn, một lần nữa, tôi xin mượn lời của Nguyễn Chu Nhạc để kết lại
cảm nhận này: “Các bạn của tôi ơi , thời gian không bao giờ trở lại .
Chỉ có ký ức là ở lại và mãi tươi nguyên. Vậy thì, sự tiếc nuối hẳn không vô
ích, khi mà, Gió đã mang đi ngày hôm qua ?!...”(Nguyễn Chu Nhạc)"...
3. Đối thoại văn
chương,
Ngày ấy, liền dăm năm
(2009-2013), Blog Tiếng Việt (BTV) hưng thịnh lắm, bởi xứ ta chưa biết đến
facebook, vả lại, BTV với cấu trúc, tính năng của mình rất phù hợp với văn
chương thơ phú, tính tương tác lại cao, nên dân văn chương chữ nghĩa biết chút
vi tính (IT) đều lập trang riêng ở đây. Việt An mầy mò vào đây đọc bài trước cả
tôi. Tuy nhiên, Việt An chủ trương không lập trang riêng mà chỉ vào đọc bài và
ghi cảm nhận khi thích với tư cách là bạn đọc. Anh không muốn phụ thuộc, bởi
nếu là blogger thì phải thường xuyên đăng bài, rồi trả lời cảm nhận của người khác
khi họ vào trang của mình, và cũng phải sang trang nhà họ chào hỏi cho phải
phép. Đại khái, khá mất thời giờ và phiền hà, đấy là chưa kể "tai
nạn" vì phát ngôn không khéo làm phật lòng người. Thích rong chơi với văn
chương mà lại không muốn "chịu trách
nhiệm", Việt An khôn ngoan chọn vai làm khách (bạn đọc). Trang cá nhân
ở BTV thì ngàn vạn, nhưng Việt An thường chỉ vào đọc một số trang cá nhân của
người quen, bạn bè mà anh quan tâm, quý mền như: nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà
văn Nguyễn Trọng Huân, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn
Vĩnh Tiến), nhà thơ Chử Thu Hằng, nhà thơ Trương Hữu Lợi, nhà văn Nguyễn
Cao Thâm, nhà văn Lưu Quốc Hòa, nhà thơ Trần Hồng Giang ... và một số cây bút
khác như Phạm Tâm An, Phạm Thu Hà, Phạm Huy Việt, Phan Bích Thủy, Nhược Mộng,
Vũ Trọng Hoài, Nguyễn Tùng Quân, Văn Lâm An, Hoa Yến Lan, Thoại Lê v.v... Riêng
với tôi, bạn học cũ và thân nhau nên Việt An hầu như không bỏ sót bài nào. Và
một khi để lại bút tích, Việt An thấu đáo, sắc sảo lắm, chứ không phải khen đại
khái cho đẹp lòng nhau như mọi người hay
làm..
Chỉ bàn riêng trên trang của
tôi (Ngẫm & Viết), Việt An đã để lại nhiều cảm nhận, mà
thực ra nhiều trong số đó là những bài viết hay, cảm nhận văn chương cho thấy
sự am tường, sâu sắc, nhiều khi không hẳn cho bài viết cụ thể nào, mà chỉ mượn
cớ để rồi bàn về các vấn đề về văn hóa, văn học, lịch sử, khoa học thường thức,
lối sống xã hội, ẩm thực... Có thể, phân biệt những cảm nhận của Việt An thành
hai loại...
Thứ nhất, đối thoại về văn
hóa xã hội, và văn chương.
Chẳng hạn, khi tôi đăng loại ký
sự sau chuyến đi Nhật Bản, bàn về hội chứng ngại tiếp xúc xã hội của giới trẻ
Nhật hiện nay, Việt An bàn góp: "Khi xã hội phát triển luôn có những hệ lụy của nó. Con người
dường như lại cô đơn hơn trong xã hội hiện đại. Không chỉ ở Nhật, ngay ở Việt
Nam thôi, ngày xưa nhận được lá thư là mừng lắm. Tình người như hiện lên qua
nét chữ, màu mực. Bây giờ chỉ cần điện thoại, không mấy ai còn viết thư nữa. Có lúc
tôi lại thèm nhận một lá thư với cái phong bì tự chế ngày xưa đấy".
Hay như, tôi đăng bài luận Quần cư, Việt An
bình:"Bây giờ, con người ta vẫn sống quần cư. Chỉ khác, cái quần cư bây
giờ mang dáng dấp quần cư kiểu...đàn nhím. Những con nhím sống với nhau
luôn giữ khoảng cách. Nó không xa nhau quá, làm mất đi hơi ấm lúc Đông về. Nó
cũng không gần nhau quá. Khi quá gần nhau, gai con này có thể làm đau con kia,
và đau luôn chính mình. Quần cư kiểu đàn nhím, ngày càng rõ nét hơn trong
xã hội hiện đại. Hình như trong hôn nhân cũng có khá nhiều hạnh phúc kiểu...tổ
nhím!"...
Về văn chương, khi tôi đăng mấy truyện Hiên mưa, Ngõ trúc và Chúa
tể của núi tuyết, Việt
An nhận xét: "Đọc văn mỗi người có cảm xúc rất riêng. "Hiên mưa",
"Ngõ trúc" là cách viết tự sự , mang tính hoài niệm. Cảnh vật,
con người, không gian, thời gian, quá khứ, hiện tại đan xem. Mọi thứ như rõ
nét, lại như chìm đi, lãng đãng, mờ ảo, sương khói. Nhân vật chỉ thấp thoáng,
ẩn hiện, lúc có, lúc không. Kết cấu như là lỏng lẻo, mong manh, kết lại với
nhau chính bằng sự liên tưởng xuyên suốt. Sự liên tưởng ấy tạo nên cái lo-gic,
suy tư, thấm đẫm xúc cảm kỉ niệm của con người, khi tìm lại dấu chân xưa...Chất
thơ cũng phảng phất, ẩn giấu trong con chữ, mạch chuyện, tạo nên nét đẹp của
thẩm mỹ văn chương, cũng như nét lãng mạn riêng. Nói chung, NCN viết văn
giàu cảm xúc và chất thơ. "Hiên Mưa", hay "Chúa tể của
núi tuyết", có nhiều đoạn làm người đọc, như bị cuốn theo, thả hồn
cùng vẻ đẹp mộng mị của văn chương.... Đây là cách viết khó, thể
hiện tác giả (NCN) là người cầm bút chắc tay. Kiểu văn này là văn dành cho
"người đọc chậm". Cảm xúc người đọc chín dần cùng với sự ngẫm
ngợi và suy tư...".
Khi tôi đăng
bài thơ Nợ quê (30.12.2009), Việt An bình: "Tôi đã
nói, văn của tác giả là văn viết cho "người đọc chậm". Quả là thế, ẩn
chứa trong những con chữ là sự ngẫm ngợi và suy tư. Chất thơ, sự lãng mạn thấm
đẫm trong văn phong. Sự sâu lắng và lãng mạn bây giờ lại hiện diện trong thơ
NCN. Với ngôn từ giản dị, không cầu kỳ, không làm dáng, mà sự truyền cảm cứ len
vào lòng người đọc. Phạm Tâm An đã khá tinh, khi trích dẫn cặp lục bát rất
hay của bài thơ :"Đời người sao lắm bến mê/ Một đi, một đợi, một
quê, một tình!" Cuộc đời dù có bao nhiêu bến mê, thì quê hương
vẫn là tất cả những bến mê cộng lại."
Hay như, tôi
đăng bài thơ Cán Cấu chợ phiên (28.02.2010), Việt An bình:
"Bài thơ “Cán cấu chợ phiên”
của tác giả, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Chợ tết” nổi tiếng của Đoàn Văn
Cừ. Phiên “Chợ tết”, dưới ngòi bút của Đoàn Văn Cừ xưa hiện lên sống
động, đầy cuốn hút. Sinh hoạt bình thường của “Chợ tết” trở nên thơ… đến bất
ngờ :“Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha./ Thúng gạo nếp đong đầy như núi
tuyêt./ Con gà sống mào thâm như cục tiết,/ Một người mua cầm cẳng
dốc lên xem”(Đoàn Văn Cừ). Thơ “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ, mang nét
quen thuộc của một phiên chợ tết vùng xuôi. Bài “Cán cấu chợ phiên”
của NCN, mang đến một khám phá mới cho bạn đọc, về sinh hoạt chợ phiên, nguyên
bản của vùng cao. Đó là điều mới mẻ và thú vị. Hơn thế, bút pháp thể hiện của
tác giả (NCN) cũng khá lạ. Địa danh “Cán cấu” được lặp lại liên tục
trong suốt bài thơ, mà không có cảm giác đơn điệu. Cứ sau mỗi từ “Cán cấu”, lại là nét phác họa lạ lẫm,
mới mẻ về văn hóa chợ phiên vùng cao. Cách thể hiện này hay, nhưng khó. Nếu sự
khắc họa sau mỗi điệp ngữ không rõ nét, không đủ sức lôi cuốn, bài thơ sẽ giảm
sức hấp dẫn vì rơi vào cảm giác đơn điệu. Sự vững vàng trong cách thể hiện của
tác giả, đã biến cái khó, thành cái hay, thành nét độc đáo riêng của bài thơ... “Cán
cấu chợ phiên”, là hình ảnh sinh hoạt văn hóa tươi rói, lấp lánh sắc
màu, và đầy ắp sự kiện. Tôi thoáng chút bỡ ngỡ, như người đi lạc vào một thế
giới đầy mê hoặc:“Cán Cấu leng keng sứ sành đồng sắt/ Cán Cấu gà quác,
ngựa hý, chó sủa, lợn kêu/ Cán Cấu ngóc ngách tiếng cười rúc
rích/ Cán Cấu Tây- Tàu, Mông- Việt hả hê”... Phảng phất ở đó là nỗi
niềm riêng -vui, buồn riêng, tạo nên một khoảng lặng trong cái ồn ã náo nhiệt
đời thường “Cán Cấu, ai đó cúi gằm ngậm ngùi tình cũ/ Cô giáo Kinh
rơm rớm lén chùi nỗi nhớ xuôi/ Mẹ rồi con và ngựa đôi mỏi chờ mong ngóng
chủ/ Cán Cấu chợ phiên còn lại mỗi mình tôi”... Lắng lại trong khổ
thơ cuối là sự suy tư , như rõ nét, như mơ hồ…mở ra cho bạn đọc một khoảng mênh
mông của sự liên tưởng, về cái còn, cái mất, cái đậm nét, cái nhạt phai, của
văn hóa, của tâm hồn, và tình cảm trong mỗi con người."...
Hay như, nhân một lần bàn về thơ sinh viên, thơ tình,
Việt An viết lại mấy bài thơ của tôi và Trịnh Bá Ninh theo trí nhớ của mình, và
sau đó đã xảy ra một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa những người bạn với
nhau trong BTV (tên gọi vui là Xóm Lá) Trần Đăng Khoa,
Trần Hồng Giang, Chử Thu Hằng, và tôi. Việt An khơi mào: "Thơ Lục
bát dễ về vần điệu, nhưng viết được hay rất khó. Xem như cái "rất
khó" ấy đã được giải quyết bởi bài thơ "Tôi về lại xứ hoa Đào"
của NCN". Trần Đăng Khoa cũng khen bài thơ này,
thì Trần Hồng Giang tếu táo chọc phá, Việt An chen ngang: "Trần Đăng
Khoa khen Chu Nhạc là khen thật đấy. Dù Trần Đăng Khoa có là Thần Đồng thơ, thì
tới thời điểm Chu Nhạc viết bài thơ trên, TĐK chưa có bài thơ tình nào khả dĩ. Không
chỉ làm thơ tình yêu, mà việc biến thơ tình thành hành động "cách
mạng" trong tình yêu, CN vẫn hơn TĐK vài bậc. Khoa không khen CN mới là
lạ! Nói nhỏ, hồi đó TĐK, và cả Việt An còn rất i tờ trong tình yêu, thì CN đã
có "của ăn của để" rồì"... Trần Hồng Giang tiếp tục khiêu chiến: "Anh Việt An! Em có một anh bạn văn
chương, một lần tán chuyện về nhà thơ Trần Đăng Khoa, anh này bảo: "Thằng
cha này hầu như chả có bài thơ tình nào, mà có thì đọc cũng chả ra hồn, thế mà
lấy được cô vợ xinh thế chứ! Hóa ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ! ". Việt An hùa vào
chọc Trần Đăng Khoa: "Trần
Hông Giang! Công bằng mà nói, bài "Thư tình của người lính Biển",
rất đáng đồng tiền bát gạo. Bài đó được phổ nhạc và trở thành một trong những bài tình ca hay nhất về lính
biển. Không những thế, tụi "lính nhậu" cũng rất thích, vì nó được
"tái chế" rất vui nhộn: "Sau chia tay, anh ngồi trong quán
nhậu. Rượu 1 bên và bia 1 bên. Rượu nồng nàn, bia lại dịu êm. Anh như con tầu
lắc sóng cả 2 thứ. Rượu và bia...còn em thì quên". Nếu nói TĐK không
có bài thơ tình nào ra hồn, thì cũng chưa hẳn đúng. Với bài "Thơ tình
người lính biển", làm bạn đọc nghi ngờ: Có khi lão Khoa có cả kho thơ
tình chưa công bố cũng nên.".
Và Việt An lại mượn tôi trêu Khoa : "@Chu Nhạc! Tôi đang lấy bài
"Thư tình của người lính biển"
làm "lá chắn", che cái "gót chân Asin" của Lão Khoa, thì CN
lại "tố khổ" giúp Lão Khoa. Khoa viết rất ít thơ tình, mà
vẫn cứ lấy được vợ trẻ, đẹp. Đúng như anh bạn của Trần Hồng Giang nói:"Hóa
ra tán gái bằng thơ không ăn thua chúng mày ạ!". Đến mức, Trần Đăng Khoa không nhịn nổi phải lên tiếng: "Bà
con Xóm Lá! Tôi rất
kính trọng bà con (không phải khen khéo hay khen đểu) vì sự thông minh lọc lõi
đến kinh hồn. Thế mà toàn những bậc tiên đế quái quỷ trong từng trải lại bị ông
đồ nỡm. Bài thơ này ông đồ mới làm, hoặc chỉnh lại từ cái khung cũ mờ nhạt hoặc
méo mó. Nếu Nhạc có bài thơ này thì chắc lão đã khoe và Lão Khốt cùng Việt An
biết ngay. Nếu Nhạc có bài này thì ngày xưa gái chết như rạ. Nhưng ngày ấy, Lão
Chu Nhạc yêu nhiều nhưng chả "tóm" được ai. Gái bay hết, chỉ có lão
héo hắt, sống dở chết dở. Thơ Lão ta hồi ấy như thơ ông cụ. Bây giờ lão mới nõn
nường đấy.". Việt
An đứng hẳn về tôi, bênh: "@Lão Khoa!Ừ nhỉ! Sao hồi đó Lão Chu Nhạc khoe bài thơ
nhỉ. Giống như Lão Khoa khoe tiểu thuyết "Bước chân thứ nhất" ấy. May mà lão Khoa khoe từ ngày ấy. Nếu
không, sau này mọi người bảo Lão Khoa nói dóc. Lão Nhạc không khoe, có thể
vì lão ấy ngượng ngùng. Mới tí tuổi đã viết thơ tình, cũng ngại chứ. (Thời đó,
con trai vừa mới lớn, mặt còn măng sữa, được "đứa" con gái nào đó gọi
bằng anh, là sướng tê, sướng tái rồi. Sướng thộn cả mặt ra ấy chứ). Vì ngại,
nên Lão Nhạc "biển thủ" thơ tình, để...đọc một mình. Bây giờ lão Nhạc
dắt "con" ra trình làng, cũng phải cho "con" ăn mặc tươm tất
một chút chứ. Miễn đúng là "con" lão Nhạc, sinh ra từ ngày ấy là
được."...
Đại khái vậy. Thực ra, bỏ qua các chi tiết đùa vui
tếu táo mang tính cá nhân, là những suy nghĩ nghiêm túc về văn thơ và mối tương
tác của nó với cuộc sống...
Thứ hai, Việt An làm thơ bông lơn, hoặc tiếp nối thơ của Chủ bút, hoặc
đối thoại thơ với một số blogger khác trong phần ghi cảm nhận của mình...
Ví như, bài tản văn ngắn của tôi nhân đọc entry của
blogger MTV (bài viết của Phạm Thu Hà)
về hương vị đầu thu Hà Nội, Việt An đùa: "Cháu lớn lên rồi - xinh quá
thôi/ Má hồng, mắt biếc - Thắm đôi môi/ Ước chi, chờ chú trăm năm
nữa/ Khi ấy cùng già... sẽ xứng đôi.".
Hay như, Việt An bông lơn cái bút danh của Nguyễn Vĩnh
Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến) là BẢO THƯ TUỆ NHÃN băng
cách lấy từng chữ ra thành thơ: "BẢO ở nhà thiền lại đến đây/ THƯ
phòng bỏ ngỏ nhện giăng mây/ TUỆ minh mấy chữ thơ thành phú/ NHÃN mãn
nhìn nhau rượu rót đầy...", cũng là ngầm chọc ngoáy cái bệnh la cà thi
phú của bậc đàn anh này...
Hay như, Việt An đùa Trần Đăng Khoa: "Một trong
những giai thoại "lùm xùm" nhất là chuyện TĐK lấy vợ. Chương
trình "Gặp nhau cuối tuần" của Truyền hình VN, làm hẳn
một buổi phát sóng về sự kiện này, theo cách nhìn hài hước. Khi TĐK có
con, báo An Ninh Thế Giới có hẳn một bài viết kín cả trang
báo. Kèm bài viết là bức hí họa, với hình ảnh TĐK vừa bế con, vừa quậy bột,
Ngón chân cắp cái bàn là (ủi), đang là (ủi) quần áo... dưới nền nhà (!?)Nhìn
cảnh huống đó, tôi bật cười, và táy máy ghi vào cạnh bức hí họa mấy câu: "Khoa
ơi lấy vợ sướng chưa Khoa?/ Khói bếp cay cay - nước mắt nhòa/ Tay bế con thơ, tay quậy bột/ Hỏi
rằng, có tiếc tháng ngày qua ?". Hỏi chơi vậy, tôi tin rằng TĐK luôn hạnh phúc với
tổ ấm của mình.",
Hay như, dịp xuân năm 2012, tôi đăng mấy bài thơ xuân Giêng
hai, Uống rượu ở Sơn La, vào ghi cảm nhận, Việt An
đã đối thơ với một nữ blogger ở Đà Nẵng-Mimosadn-đồng
nghiệp với tôi. Lấy khổ kết bài Uống rượu ở Sơn La "... mong
thời gian chớ qua mau/ nên câu thủ thỉ nên bầu tâm can/ kẻo đêm tỉnh
giấc mơ màng/ em thì chẳng thấy bẽ bàng riêng ta...", Việt
An nối vần "Quờ tay chạm phải vợ nhà/ Tiếc hùi hụi - rượu Sơn
la nửa chừng...!", Mimosadn đùa: "Rượu Sơn La uống nửa
chừng/ Uống vào rồi thấy... lừng khừng mới hay ...". Việt An
tiếp: "Rượu nào mà rượu chả cay/ Uống vào mới thấy rất hay,... khi
mà...". Mimosadn nối:" Hăng lên, hào mốt, chẳng
thà/ Năm xu, đỡ tốn, lại là... rất hay...".
Hay khi bàn vui với bài thơ Giêng hai của
tôi, Mimosadn khiêu khích: "Giêng hai anh thả bùa thơ/ Để cho các
chị nằm mơ ...giật mình!?", Việt An nhào vô, nối vần: "Riêng
em nhớ chè Cung đình/ Dạo Phố Đà nẵng... thình lình gặp mưa/ Hỏi
rằng, mưa ướt hết chưa/ Hay là chỉ ướt chỗ thưa... chỗ dầy?"...
Nhớ một dạo, BTV bị rớt mạng, lỗi hệ
thống, không hiển thị đến mấy tuần, mọi người nhắn tin cho nhau, thở ngắn than
dài vì buồn chán, vì mất đường giao lưu,... Việt An trêu mọi người, làm bài thơ
Tình
Blog
Tưởng đâu “bờ lốc – bờ leo”
Phen này chắc bị phăng teo mất rồi
Lão ông nhấp nhổm đứng ngồi
Lão bà thắc thỏm như hồi đang yêu
Mấy ngày mới tạm treo niêu
Xem ra các lão tiêu điều ngẩn ngơ
Lão ông mặt mũi bơ phờ
Tay ôm bình rượu, tay sờ…củ khoai
Lão bà chẳng biết nhớ ai ?
Nửa đêm mở máy, bấm hoài mà rên!
May mà hết rủi lại hên
Lão ông lại được…ở bên lão bà
Canh khuya lại được qua nhà
Cứ như…đi bắt trộm gà - thích ghê!
Dẫu cho chẳng hẹn, chẳng thề
Ai yêu “bờ lốc” thì về với nhau…
Đại khái, những cuộc bông lơn thơ phú kiểu như thế của
Việt An trên Xóm Lá ngày ấy rất nhiều,... Sau này, Việt An
tham gia Facebook, tôi để ý, Việt An vẫn sử dụng lối diễn đạt hài hước này,
phần lớn để châm biếm một cách sâu cay và hiệu quả những thói hư tật xấu và các
biểu hiện tiêu cực trong xã hội.... Âu cũng là hay!?...
4. Chút tình thơ văn.
Là bạn thân với nhau ngần ấy
năm, tôi biết, dù chủ trương không theo nghiệp bút nghiên, không bị bả văn
chương quyến rũ, nhưng thâm tâm, văn chương vẫn theo đuổi, ám ảnh Việt An trong
tiềm thức. Dù nén lòng, không bộc lộ, nhưng mỗi khi, vô tình hay hữu ý,
tiếp xúc với môi trường văn chương, thì cái mầm non văn chương thơ phú thuở học
trò, không lớn thành cây nhưng cũng không thui chột, nó lại cựa quậy trong lòng
anh, lớn lên một chút. Việc Việt An nhớ và thuộc nhiều bài thơ của tôi và Trịnh
Bá Ninh làm từ thời sinh viên, cả những bài thơ Trần Đăng Khoa xuất bản miệng
lúc bạn bè vui đùa (mà chúng tôi đã quên, hoặc chỉ nhớ lòm bõm), điều
đó, vô hình chung, tố cáo, rằng anh chưa bao giờ nguôi chuyện văn chương, mà
chỉ cố tình lờ đi thôi. Chính Việt An là người đã giúp tôi tìm lại được một số
bài thơ mà tôi sáng tác từ ngày trẻ trai, đặng nhuận sắc, đưa vào mấy tập thơ
xuất bản (Chút Thu-NXB Văn học 2011, Hiên Lan-NXB Văn học 2012).
Có lần, nhân bàn về thơ sinh viên, thơ tình, Việt An đã không cầm lòng
nổi, trình làng một bài thơ của mình.
Bài thơ Em có về quê
cũ?
Em có về quê cũ
không em ?
Tối đón trăng lên, nước về -
sông Đáy hát
Lúa con gái đang thì - xanh bát
ngát
Cánh đồng quê hương cỏ dại thơm
nồng
Bờ dâu xưa - ngày ấy mẹ trồng
Giờ đã biếc muôn ngàn con mắt lá
Nong tằm chín - sợi tơ vàng óng
ả
Sớm mai hồng chim hót ở trên
cao.
Đêm mùa hè - sông Đáy rụng đầy
sao
Em gánh nước - gánh sao về lấp
lánh
Đi cùng lối, gặp nhau - em khẽ
tránh
Miệng cười giòn, ánh mắt cứ đung
đưa
Không biết bây giờ em lấy chồng
chưa ?
Mà lâu quá không về thăm quê cũ…
Mái đình cong, cây đa già bóng rủ
Ngôi chùa Hà cờ ngũ sắc tung bay…
Mỗi dịp Xuân về trời đất như say
Người trảy hội nối nhau về bến
Đục
Có em không giữa dòng người nao
nức?
Mà anh tìm - anh chẳng thấy em
đâu ...
…Về đi em - Anh đón ở bên cầu
Bến xe khách vẫn ngay đầu phố huyện
Về đi em - để một thời lưu luyến
Sẽ ấm lòng những lúc phải xa
quê…
Bài thơ nhẹ nhàng, duyên dáng,
song có phần dàn trải. Tôi nghĩ, đây không phải là cái tạng của Việt An. Phải
chăng, anh cố làm khác đi, như thể muốn nịnh ai đó, nên vờ nói khẽ cười duyên,
bởi Việt An là con người của lý trí, của sự súc tích và sâu sắc. Bằng chứng,
trước khi lộ diện bài thơ này, anh đã phi lộ bằng mấy câu thơ trong một bài thơ
nào đó của mình, như: "Một thời mái tóc em xanh/ Một thời sỏi đá
cũng thành ngẩn ngơ..." và "Một thời như lạ như quen/ Một
thời sóng sánh như men rượu nồng/ Ngày em cất bước theo chồng/ Nhớ em
như thể - mình không phải mình...".
Bản tính này đã từng được Việt An thể hiện trong thẩm và
bình luận văn chương, hay như trong dịch thơ Hán Nôm. Sau đây là mấy bản dịch
thơ Đường của Việt An:
Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
Hạc vàng người cưỡi
khuất xa rồi,
Hoàng Hạc lầu còn với
nắng thôi
Muôn nhớ hạc xưa nay
vắng bóng
Ngàn thương mây cũ vẫn còn
trôi
Hán Dương mây tạnh cây
soi bóng
Anh Vũ hương nồng cỏ tốt
tươi
Bóng đổ chiều buông quê
chợt nhớ
Sông buồn khói sóng dạ
đơn côi.
Hay như bài Hồi
hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương,
Đi xa từ nhỏ, già quay
về
Tóc bạc, vẫn nguyên chất giọng quê
Lũ trẻ đứng nhìn đâu có biết
Chào cười hỏi phải khách sơn khê ?
Hay như bài Đề
Đô thành Nam Trang của Thôi Hộ,
Nhà cũ, cài then, nay
vắng không
Nhớ ai gương mặt ánh đào
hồng
Ngẩn ngơ tự hỏi người đâu nhỉ ?
Chỉ thấy đào xưa cợt gió Đông.
Việt An là người có kiến văn phong phú.
Có lần, bàn luận về văn hóa ấm thực (Canh chua cá rô bông súng),
tôi kết bài viết: "Mà đã là văn hoá, thì dù có mệnh danh văn hoá
ẩm thực, cũng đâu phải chỉ là chuyện ăn uống đơn thuần, ở đó, còn có thổ ngơi,
phong tục, hồn cốt, tính cách con người một vùng đất hun đúc mà thành!...". Việt
An khoái quá, bàn thêm: "Kết rất hay. Văn hóa bắt đầu từ những gì giản
dị nhất. Đọc bài của bạn, tôi chợt nhớ đến món "mắm cáy" quê tôi. Mời
bạn "nếm thử" nhé : ...Mắm Cáy, được làm từ con cáy, tất nhiên
rồi, không được lẫn cua, hay cá trong đó. Cách làm mắm ngon là cả một nghệ
thuật dài dòng, nên tôi không nói đến ở đây. Tôi sẽ nói về chuyện thưởng thức
mắm cáy. Mắm Cáy ngon, bỏ vào đó một vài trái ớt chỉ thiên, vắt chanh vào,
dùng đũa quậy đều lên… Bạn nhớ quậy theo chiều kim đồng hồ nhé, nếu quậy ngược
lại, sẽ không ngon đâu !!?. Bạn dùng nước mắm này để chấm rau muống luộc, hoặc
ngồng cải luộc thì thật tuyệt vời. Rau muống ngon nhất, là rau hái sau một đêm
mưa rào. Còn ngồng cải, là lọai chưa kịp trổ hoa kìa, chứ loại “cải ngồng nhuộm
nắng chân đê”, nở hoa vàng rực rồi, không ăn được.
Mắm Cáy - món ăn dân dã,
không đơn thuần là món ăn, mà còn là văn hóa và triết lý sống. Chắc các bạn
cũng từng nghe những câu thành ngữ: “Nhát như cáy”, hoặc “Dùi đục
chấm mắm cáy”, hay như “Ăn cơm mắm cáy, ngáy o o. Ăn cơm với giò, lo
ngay ngáy”. Những câu thành ngữ ấy, đều có nguồn gốc từ…mắm Cáy.
Trai gái quê tôi, khi yêu
nhau, những nụ hôn mà thiếu mùi mắm Cáy, thì cứ như thiếu đi sự mặn nồng, thấy
nhàn nhạt làm sao ấy (!?). Bây giờ ở quê có internet rồi. Nghe đâu, dân làng
tôi bàn nhau đưa mắm Cáy lên mạng, xây dựng hẳn một trang web hoành tráng, có
tên miền là “Mắm Cáy chấm cơm” (Mamcay.com). Mong sao, mắm Cáy được đứng ngang
hàng với các loại mắm trên thế giới…mắm...".
Chuyện ẩm thực, bàn chơi vậy...
Bàn về thơ Việt
An, ngoài những câu thơ đùa vui tếu táo kiểu xướng họa, hẳn sẽ
không thấy một Việt An sâu lắng, chắt lọc. Gần đây, vô tình, tôi lượm được vài
bài thơ của anh, và nói kiểu vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên "Có thể
chứ, tiên sư anh Tào Tháo".
Vậy ta xem Việt
An sâu lắng ra sao:
Thoáng quê xưa
Mỗi lần về lại quê xưa
Thấy người quen cũ - cứ thưa vắng dần
Bông hoa cúc nở tần ngần
Sắc vàng ngơ ngác - tắt dần cuối thu
Đồng xa vẳng tiếng chim gù
Chuồn kim đá nước, ao tù rêu xanh
Hoe vàng một chút nắng hanh
Đàn gà xao xác bên mành giậu thưa
Quê nghèo cháy nắng, bạc mưa
Mới về, lại thấy - như chưa được về
Cải ngồng nhuộm nắng chân đê
Thoảng hương cốm mới bay về trong mơ...
( Mùa Thu 2007)
Bài thơ gam
buồn, thoảng như một tiếng thở dài nhè nhẹ, nhưng đọc lại, thì da diết làm sao.
Việt An thầm nhủ lòng mình mà như nói cho tôi, cho bạn, cho biết bao người từng
có thời đi học ở quê, lập thân xứ người, đi xa lâu ngày trở lại. thấy làng quê
thay đổi không cưỡng nổi, khi mà ký ức tuổi thơ vẫn tươi nguyên...
Và đây nữa. bài “
Gởi
nhớ về quê”
Cuối tuần em sẽ về quê
Thả hồn, tôi lại muốn về cùng em
Quê nghèo - chốn cũ - lạ quen
Chiều buông - khói tỏa - lửa nhen ấm
lòng
Gởi về một chút nhớ mong
Ngọn tre treo mảnh trăng cong cuối trời
Ao làng chín mọng sao rơi
Mái gianh nghiêng cả một thời ước mơ.
Gửi về một thoáng tuổi thơ
Bạn bè một thuở, bây giờ nơi đâu
Nước sông còn vỗ chân cầu
Lá sen, ai có đội đầu che mưa ?
Tiếng gà còn có gáy trưa
Em còn nhớ lối rào thưa sang nhà?
Gửi em chút nhớ làm quà
Cay cay khóe mắt, nhạt nhòa bóng quê.
(08/2008)
Hay như, bài thơ Có khi,
làm như đùa ai đó, lúc dỗi bõ nhau, nhưng ở đó, ta lại thấy chiều sâu tâm thức:
Có khi em rất dễ thương
Ngon như thể trái ổi ương đầu mùa
Có khi em nắng, em mưa
Đang bão táp, bỗng dạ thưa ngọt ngào
Có khi em, có khi nào,
Hai ta mụ mẫm lạc vào trong nhau?...
Đã có đôi lần,
lúc trà dư tửu hậu nhóm bạn thân với nhau, tôi đùa Việt An nhưng thật lòng
"Ông nên lục kho, đào bới mọi xó xỉnh, lôi hết của nả của mình ra, lựa
chọn, nhuận sắc, in một tập cho vui... Tôi sẽ viết lời Tựa sách". Việt An ngỏn nghẻn, nụ cười khó trên gương mặt
vốn khắc khổ, nghiêm túc của anh: "Ờ... thì cũng khó... Tôi cũng đã
từng nghĩ đến... nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu?... Bởi thơ tôi, như mọi người
bảo, cứ cho là hóm hỉnh đi chăng nữa, song mỗi câu, mỗi bài đều gắn với cảnh
huống của nó...".
Tôi thấu hiểu điều này, chia sẻ với Việt An: "Tôi
biết bắt đầu từ đâu rồi... Ông hãy cứ bắt đầu bằng ý tưởng về một cuốn sách của
mình... để tôi thử làm một phác thảo về ông cái đã ...".
Chẳng hay, rồi
Việt An có dính bả văn chương, thơ phú?
Ta hãy cùng nghe
Việt An giãi bày tâm can:
“Văn
chương nói chung và thơ ca nói riêng, vốn là một thế giới rộng lớn, mông lung,
mà sự sáng tạo ở đó là không giới hạn. Với người ngoại đạo như tôi, thì thế
giới ấy càng lạ lẫm. Riêng với thơ ca, đã có đủ cách định nghĩa, từ hàn lâm
huyền bí, đến bình dân, và cả những định nghĩa tếu táo về thơ; càng đọc, tôi
càng lơ mơ, không biết thực sự “Thơ là gì ?”. Đọc định nghĩa về thơ chưa đủ,
tôi đọc thơ. Và thế là tôi rơi vào cái biển chữ, mà chẳng biết đâu là bờ. Đang
loay hoay trong thế giới thơ, vừa hấp dẫn, vừa rối rắm ấy, tôi bắt gặp bài thơ
“Vảy vàng” của nhà thơ Triệu Nguyễn. (Triệu
Nguyễn, tên thật là Nguyễn Triệu,
sinh năm 1947, quê Hải Dương, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam).
Bài thơ giản dị như lời tâm sự, giãi bày về nghiệp thơ và về thơ.
Bây giờ không còn là thời đại của thơ ca, bởi con người hiện nay bận rộn, và có
nhiều điều cần quan tâm hơn. Nhưng, ngay cả khi người ta quan tâm tới thơ nhất,
cũng không mấy ai sống được bằng thơ. “Thôi, đừng huyễn hoặc nữa/ Làm thơ mà
làm gì?/ Thơ bày trong quán sách/ Bạn đọc nhìn … quay đi!”. Đó là thực trạng có
thật, khi thơ nay trở thành món ăn tinh
thần khó bán. “Tất cả giá đều tăng/ Chỉ có thơ là rẻ/ Nhà thơ sống bằng chi?/
Nhuận bút ư? - Nghỉ khoẻ!”. Phàm là nhà thơ, không mấy ai có đời sống khá giả.
Nếu có khá giả, cũng không phải khá giả từ thơ. Nhà thơ tinh tế trong con chữ,
nhạy cảm trong giao tiếp, nhưng lại không mấy ai nhạy bén trong công cuộc mưu
sinh. “Có nhà thơ đích thực/ Từng húp cháo cầm hơi/ Lênh đênh trên biển chữ/
Mung lung trong sự đời”. Thực tế đã chứng minh:“Dẫu đốt trăm thiên thạch/ Soi
mặt các nhà thơ/ Ai kẻ giàu, hiếm thấy/ Tự ngàn xưa đến giờ?”. Đọc đến đây, hẳn
bạn đọc không khỏi suy tư về nhà thơ, và nghiệp thơ của họ. Bài thơ “vảy vàng”
thoáng một chút gì đó, như là chua xót, như là hài hước, mang tính trào lộng,
cho sự trớ trêu của danh phận nhà thơ.
Nếu coi làm thơ là một nghề, thì đó là nghề mang tính duyên nợ, chứ không
hẳn là nghề kiếm sống. Tuy vậy, thơ cũng đã làm vinh danh nhiều người, dù cái
danh ấy không làm khá hơn đời sống vật chất của họ.Với một số người khác, thơ
trở thành cơ duyên giúp họ hanh thông trên đường đời, với những công việc, khác
với việc làm thơ. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, thơ trở thành cứu cánh, nâng
đỡ con người, giúp con người “vịn câu thơ mà đứng dậy”. Hiếm có nghề nào khốn
khó, và đa đoan như nghề thơ; Cũng hiếm có nghề nào mà sự lao động lại tự
nguyện và đam mê đến thế. “Ôi, cái nghiệp lạ lùng/ Đa đoan và khốn khó/ Đã vắt,
vắt kiệt mình/ Mà yêu không thể bỏ”. Trong một ý nghĩa nào đó, thì nghề thơ còn
là nghề của sự cô đơn. Thơ vốn dĩ không phải là sản phẩm của lao động tập thể.
Dù hạnh phúc, hay khổ đau, thì nhà thơ, luôn là người độc hành trên con đường
của mình.
Thơ mang trong nó vẻ đẹp quyến rũ đến mê hoặc. Thơ ẩn chứa niềm vui, hạnh
phúc, nỗi đau, sự cô đơn của bao kiếp người; hòa vào trong đó là hương thơm của
hoa, mùi ngai ngái của cỏ dại, mùi nồng của mồ hôi, vị mặn mòi của nước mắt…Thơ
lấp lánh bình minh, dịu ngọt ánh
trăng, óng ánh bùn đất…Thơ còn đó, màu
mực của đêm, tiếng thét gào của bão tố. Thơ ôm trọn cõi nhân sinh và cả sự hỗn
mang của vũ trụ…Thơ là tinh túy của nghệ thuật ngôn từ. Có lẽ vì thế, mà nhiều
nhà thơ, yêu thơ đến quên mình, yêu đến ma mị – như là cái nghiệp đã vận vào
thân vậy.
Với đa số người yêu thơ, thì thơ là người bạn tâm tình, biết lắng nghe,
chia sẻ cảm xúc buồn vui…Thơ nâng giấc tâm hồn. Thơ lưu giữ cho nhau bóng hình
kỷ niệm. Có điều gì như là nghịch lý,
khi nói bây giờ không phải thời đại của thơ ca, trong khi số người làm thơ, và
số tập thơ in ra hàng năm, đạt mức kỷ lục. Theo thông tin báo chí, mỗi năm có
cả ngàn tập thơ được in ra. Đó là chưa kể thơ không in thành tập, được đăng
tràn ngập trên các trang web và blog cá nhân. Thơ vẫn như mạch nước ngầm, âm thầm chảy, hiến dâng cho đời.
Gần đây, có nhiều người tìm cách làm mới thơ. Điều đó là cần thiết.
Nhưng, không ít người, đã cố gắng “làm mới thơ” đến mức lập dị, thoát ly hoàn
toàn khỏi những giá trị truyền thống. Những câu thơ tắc tị, tối mò kiểu bí
hiểm, hoặc sáng choang, xoang xoảng như kèn đồng, có gây ra một chút tò mò ban
đầu, nhưng chẳng mấy chốc rơi vào quên lãng; Những con chữ vô hồn, chết còng
queo trên giấy trắng. Bây giờ người ta không chỉ đọc thơ, ngâm thơ, mà còn
trình diễn thơ, phá cách như lên đồng. Có một số người còn muốn thần thánh hóa
công việc làm thơ, để rồi tự huyễn hoặc mình. Họ biến thơ thành thần bí và rối
rắm, tự tạo cho mình một lối sống lập dị, cao ngạo một cách hoang đường…May mắn
thay, những người như thế không nhiều.
Với các nhà thơ, thơ như là máu
thịt, con tim, khối óc; thơ là đứa con tinh thần. Ở góc độ lao động, thì thơ là
sản phẩm của lao động thơ, mà người lao động
không định giá cho sản phẩm của
mình, và cũng không định được vòng đời của sản phẩm. Khi bước ra xã hội, thơ có
đời sống riêng. Người quyết định giá trị và số phận của tác phẩm thơ, lại thuộc về công chúng. Với thơ, nhà thơ chẳng
có gì để toan tính cho riêng mình. Thơ thanh tao và giản dị, đạm bạc mà cao
sang – Cái cao sang của cốt cách con người và giá trị nhân văn ẩn giấu trong
thơ. Thơ dường như thoát khỏi những tuyên ngôn mang tính hàn lâm, để cúi xuống
thật gần với thân phận con người. Thơ mang ý nghĩa của sự hiến dâng. “Thơ gần
với nước mắt hơn là tiếng cười, gần với khổ đau hơn là reo hát, gần với sẻ chia
hơn là chiếm đoạt”(Nguyễn Trọng Tạo). Lao động thơ cũng là lao động hiến dâng.
Nhà thơ “Như những người đãi quặng/ Chợt vảy vàng hiện ra/ Lại biếu không thiên
hạ/ - Ấy là thơ đó mà!”. Ngay cả trong những bài thơ, được coi là viết cho
riêng mình, nhà thơ cũng gửi vào đó, bao nỗi niềm trăn trở, riêng - chung.
Với cách lý giải giản dị, qua bài thơ “Vảy vàng”, tác giả đưa ra cách
nhìn gần gũi về nghiệp thơ, và về thơ. Trong cuộc sống đời thường, nhà thơ,
trước hết là một con người, với bao bề bộn lo toan của món nợ áo cơm. Nhà thơ
cũng bình thường như bao người khác; Có khác chăng, chỉ là khác, bởi đặc thù
riêng của nghiệp cầm bút. Nhà thơ, cả đời ám ảnh với những câu thơ, như một
người mắc nợ. Họ cần mẫn, đa đoan, nhọc nhằn “như những người đãi quặng”, chắt
lọc từng con chữ, để rồi dâng tặng cho đời cái tinh hoa của nghệ thuật - những
“vảy vàng” lấp lánh và khiêm nhường - ấy chính là thơ. Thơ không chỉ là tinh
hoa của nghệ thuật ngôn từ, chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn, mà hơn thế, thơ còn là tinh hoa của lao động
nghệ thuật, đầy hy sinh và dâng hiến.”
Vậy là đã rõ. Còn như, làm một tập sách
kiểu này, tôi nghĩ, chẳng qua vẫn chỉ là một thú rong chơi mà thôi !?...
Trịnh Tuyên, lão chăn dê xứ Thanh.
(Chân dung nhà văn Trịnh Tuyên)
Sở dĩ tôi đùa vui gọi nhà văn Trịnh
Tuyên như thế, bởi truyện ngắn Chuyện
tình lão chăn dê là truyện ngắn hay, một trong ba truyện mà tôi chọn để
giới thiệu cùng chân dung nhà văn trên Website của Hội Nhà văn Việt Nam (vanvn.net). Sau đó, truyện ngắn này còn
được nhà văn Nguyễn Văn Thọ chọn và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tâp, phê
duyệt đăng ở số 2 (bộ mới) Tạp
chí Nhà văn & cuộc sống, Hội Nhà văn Việt Nam.
Nếu không nhầm, đây là một trong mấy
truyện ngắn khới đầu nghiệp văn của Trịnh Tuyên. Tuy xuất hiện trên văn đàn
muộn nhưng Trịnh Tuyên đã nhanh chóng khẳng định mình ở thể loại truyện ngắn và
chỉ trong vòng gần chục năm, ông đều đặn xuất bản 4 tập truyên ngắn, đó là Những mảnh vỡ
của số phận (2012), Hang cóc thần (2014), Giấc mơ lạnh (2016), Nhớ đêm thời xa ấy (2018),
và hiện đang xuất bản tập truyện thứ 5
của mình- Trái tim bé bỏng. Trịnh Tuyên là hội viên Hội văn
học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa.
Mặc
dù. Trịnh Tuyên viết đều cả văn và thơ, nhưng bạn văn chương và bạn bè nói
chung chẳng ai gọi ông là nhà thơ cả,
Phải chăng, truyện ngắn của Trịnh Tuyên nổi trội hơn thơ ông nên người ta ấn
tượng một Trinh Tuyên văn? Song có lẽ, con người góc cạnh, tính cách quyết
liệt, phản biện sẵc sảo, đã làm nên một Trịnh Tuyên-nhà văn?
1. Trịnh Tuyên văn,
Trịnh Tuyên chào làng văn, chào bạn đọc
bằng truyện ngắn Chuyện tình lão chăn dê,
và gần như lập túc, ông ghi dấu ấn, khiến bạn đọc ngoài xứ Thanh biết đến tên
ông. Tôi cùng vậy. Biết Trịnh Tuyên từ những ngày đầu tham gia mạng xã hội,
trang của ông trên Blog Tiếng VIệt đăng
đủ thứ, nhưng phài đến khi ông đưa truyện ngắn này lên (20.3.2012), sau khi mấy tờ báo, tạp chí địa phương cùng đăng, tôi
mới nhìn nhận phẩm chất nhà văn ờ Trịnh Tuyên, khiến ông khác với nhiều người
cùng tham gia viết ngày ấy. Quả nhiên, truyện ngắn này nâng vị thế của Trịnh
Tuyên trong con mắt của các blogger ở Blog Tiếng Việt. Giờ đây, khi duyệt bài
lên trang, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tạp Tạp chí Nhà văn % cuộc sống , gật gù bảo: “Truyện này chằng khác gì chuyện Chí Phèo, Thị Nở thời nay”. Lẽ dĩ
nhiên, với gần trăm truyện ngắn đã viết. Trịnh Tuyên còn có một số truyện ngắn
khác khá chắc tay,
Hãy
xem Trịnh Tuyên viết gì. Có thể thấy, các truyện của Trịnh Tuyên tập trung vào
mấy mảng đề tài chính: chuyện chiến tranh và hậu chiến, chuyện về các loài vật,
chuyện mang tính trinh thám, vụ án, chuyện màu sắc tâm linh, và chuyện đời sống
xã hội, tình ái...
Nhìn
chung, như phần đông các cây bút viết theo bản năng vốn có, khởi thủy thường
chọn thủ pháp kể chuyện truyền thống, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời
gian, dù đan xen hồi tưởng, ký ức, với nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (tôi), hoặc ngôi thứ ba (nó, hắn...), Trịnh Tuyrn cũng vậy. Hầu
hết, các nhân vật của ông kể chuyện ở ngôi thứ nhất, số ít truyện ở ngôi thứ
ba. Với thủ pháp vậy, tâc giả dễ bề điều hành nhân vật theo chủ quan của mình
nên dễ nặng cảm tính hơn là theo logic của sự việc, vấn đề. Tuy nhiên, Trịnh
Tuyên “bài binh bố trận” khá linh
hoạt, đã biết cách thoát ra khỏi sự nhàm chán của lối kể chuyện bắng cách thay
đổi kết cầu, khai mở gây sự chú ý, cài đặt chi tiết bất ngờ...
Có lẽ, chuyện chiến tranh
và hậu chiến là mảng đề tài Trịnh Tuyên để tâm khai thác. Mặc dù, bản thân
không nhập ngũ, không trực tiếp tham gia chuến tranh, mà là chiến sĩ công an,
song cũng là lực lượng vũ trang, vả lại, ban bè, người thân của ông tham gia
quân ngũ rất nhiều nên ông hiểu chuyện binh nghiệp và những vấn đề xã hội thời
hậu chiến... Ở mảng đề tài này, có các truyện Nhớ thời xa ấy, Tên lính ngụy, Hồi ức một cung đường, Kẻ ném đá,...Nhưng có thể tháy, tác giả
chỉ hoàn thành việc kể chuyện, các nhân vật như thiếu hồn vía nên chưa để lại
dấu ấn đáng kể,
Trái ngược, màng đề tài
về đời sống xã hội và tình ái là thế mạnh thực sự của Trịnh Tuyên. Ông viết như
không, như kê chuyện chơi vậy thôi nhưng hầu như truyện nào cũng sống động và
khá ấn tượng, mà qia đó, ông gửi gắm ý tưởng, triết lý nhân sinh, hoặc tự thân
truyện toát lên giá trị nhân văn và thông diệp về cuộc sống,... Cùng với Chuyện tình lão chăn dê, ở màng đề tài
này, có thể nhặt ra một số truyện chắc tay, như: Những mảnh vỡ của số phận, Giọt máu rơi, Đồng không mông quạnh, Ông kão câu cá, Cây
bút máy mạ vàng, Liên, Thiếu nữ bên bãi biển chiều thu, Bà Thanh- kiu, Chuyện
tình xóm núi, Nhừng mùa dưa đi qua...
Cùng màng đề tài về đời
sống xã hội, Trịnh Tuyên cũng khá thành công với những truyện về tâm linh như: Cây gậy của Lý Tước, Hang cóc thần, Giấc mơ
lạnh, Thần cây, Bí mạt hang cá thần, Con rắn hổ lửa trên bàn thờ tổ, Con chuột
trong nhà thờ họ, Cối đá quý, Ma học trờ, Anh ơi em chết mất,...Tử những
giai thoại, chuyện kể mang màu sắc dân gian tâm linh, Trịnh Tuyên sưu tầm xây
dựng nên cốt truyện rồi đắp thêm da thịt phù phép thành truyện, và ở đây, quan
hệ nhân-quả được ông sử dụng thành triết lý nhân sinh, Vậy nên, yếu tố tâm linh
không phải là chuyện mang ra để hù ma,
dọa quả báo, mà như một sự nhắc nhở về đạo lý thiện lương, về nhân nghĩa ờ
đới....
Những chuyện vụ án,
chuyện mang màu sắc trinh thám cũng là một điềm nhấn trong sáng tác của Trịnh
Tuyên. Xuất thân ngành công an, nhiều năm là cảnh sát điều tra, Trịnh Tuyên có
vốn kiến thức phong phú, óc suy đoán logic, sự nhanh nhậy của một chuyên viên
phá án, nên ông khá chắc tay trong mảng đề tài này. Ở các truyện: Kể tự thú, Đánh ghen, Bóng đè, Ăn miếng trả
miếng, Tiếng chó sủa đêm, ông thỏa
sức tung tẩy với kinh nghiệm cảnh sát điều tra của mình. Không chỉ thế, Trịnh
Tuyên viết truyện như làm án, nên để dấu ấn nghiệp vụ điều tra trong hầu hết
các truyện ngắn của ông về việc cài đặt tình tiết và tiết tấu câu chuyện,...
Còn một mảng đề tài,
khiến Trịnh Tuyên khác nhiều cây bút văn xuôi, ấy là về các loài vật. Để ý, các
truyện của ông đều thấp thoáng bóng dáng các con vật, (hoăc cây cối, đồ vật), mà ở đó, chúng là các nhân vật phụ, có liên
quan, và có tác dụng làm nổi nhân vật chính. Nhiều truyện, con vật trờ thành
nhân vật chính, như: Đôi chim cu già, Sữa
chó, Chó đẻ, Con mọt, Con khỉ, Con mèo tam thể, Con ngựa già, Con lợn nghĩa
tình, Con gà tài nguyên, Con trâu bạc, Đốm ơi,... Ở đây, Trịnh Tuyên tỏ rõ
sự hiểu biết tường tận về đặc tính sinh thái của từng loài vật, mối quan hệ
đồng loại và mối quan hệ với con người. Dĩ nhiên, nói đây chết cây chỗ khác,
ông mượn chuyện con vật là để nói con người, nhắn nhủ con người,..
Vậy nên, đương nhiên, có
một Trịnh Tuyên-truyện ngắn,
2. Trịnh Tuyên thơ,
Cho đến thời điểm này,
nhà văn Trịnh Tuyên vẫn chưa xuất bản tập thơ nào, song ông là tác giả của hàng
trăm bài thơ rải rác nhiều năm qua. Dấn thâm vào nghiệp văn. Trịnh Tuyến có thế
mạnh và chủ tâm theo văn xuôi, nhưng cũng như nhiều cây bút văn xuôi khác, thậm
chí các lão làng (như Hà Minh Đức, Võ Huy
Tâm, Đỗ Chi...), ông bị nang thơ quyên rũ và không thể làm ngơ. Thơ ông chủ
yếu đăng trên mạng xã hội để bạn hữu đọc bàn chơi, hay lúc trà dư tửu hậu bình
phẩm, thi thoảng gửi đăng báo này nọ,
Là cây
truyện ngắn vững, khi viết, chủ đề, ý từ, bố cục, chi tiết rõ, nên sang thơ,
Trịnh Tuyên cũng theo đúng cách viết truyện ngắn mà làm. Nghĩa là, lập tứ, có
cốt rồi lắp câu chữ cho bài thơ nên da thịt, sao cho diên đạt được ý từ là ổn,
nên đôi khi khó tránh khỏi tình trạng ngượng ép, khiên cường, Ví như:“Đừng
tìm người đi cấy anh ơi/ Phía trước, phía sau, đều không rõ mặt/ Cuộc mưu sinh
gần đất nhất.../ Họ sẽ nhìn anh qua khung hình tam giác/ Mặt ruộng là gương,
không cần tráng ni tơ rát bạc// Âm bản đen, ống kính chổng lên trời!!!” (Người đi cấy); hay như: “Người cả tin/ Biên giới hay xê dịch/ Người
tâm thần/ Biên giới bỏ ngỏ/ Người tham lam/ Tự thu hẹp biên giới/ Người cuồng
tín/ Biên giới thuộc địa hạt tư duy kẻ khác/ Người thông minh/ Biên giới chôn
chìm...” (Biên giới). Đây nữa: “Chúng rút ra rồi, em mới thấm đau/ Sóng cứ
dào lên như là nức nở/ Có phải sông đâu mà trút vào bồi lở// Em - Biển kia
mà... bạn của đại dương.../ Giấy kết hôn kia vò vứt cuối giường/ Em thuộc về
anh sao để người ta cắm?/ Phút chúng khoan vào, em đau, đau lắm/ Anh - kẻ bạc
tình biết đứng nhìn thôi!...” )Lời than của Biển Đông); Và đây “Bến lạnh lùng, con tim buốt sang ngang/ nước
đã lạnh, lòng người còn lạnh nữa/thôi đừng khoắng thêm dòng sông tình tan vỡ/
Cho mái chèo mươn mướt những niềm đau! (Chằng còn mùa thu nữa đâu em); Rồi
đây nữa: “Có anh đây rồi, em cứ vững niềm
tin/ Biển là em, em thẳm xanh như biển/ Nếu chúng vắt vòi rồng, anh còn cố
nhịn/ Nhưng khoan vào là anh băm xác chúng ra/ Nên chúng cứ thụt vào rồi kéo
ra!” (Thơ tình cảnh sát biển)_
Đại loại, những khổ thơ,
câu thơ gượng ép, cố gò theo ý tưởng như thế không hiếm trong thơ Trịnh Tuyên,
Như đã nói, thơ Trinh Tuyên, hầu như bài nào cũng ý tứ rõ ràng, nhiều khi lộ
ý, vấn đề là diễn đạt ra sao. Trịnh
Tuyên luôn ý thức tạo sức nặng chi thơ mình, nên ông ưa triết lý, Một khi triết
lý. thì năm ăn năm thua, rất có thể gượng và khô cứng, nhưng thành công thì lại
được những câu thơ hay. Có thể tìm nhặt ra trong thơ Trịnh Tuyên những triết lý
hay. Chẳng hạn, như: “Quên tên cây/ làm
thuyền/ Tận cùng nỗi cô đơn-/ độc mộc!/ Khoét hết ruột/ Chỉ để một lần ngược
thác/ bất chấp đời/ ênh đênh...” (Độc mộc); Hay như: “Chưa nở đã mang bầu thai quả/ Phận đau như gái chửa không chồng/ Buồng
the nứt toác tình chưa thoả/ Cuối mùa trơ cuống với hư không.(Hoa chuối):
Đây nữa: “Đêm tất niên một mình ra ngõ/
Say mèm húc phải đống rơm/ Hai kẻ cô đơn chợt tỉnh:/ Nhận ra xác những linh
hồn!/ Ngươi: xác của mùa màng/ Ta: xác của thời gian/ Ngươi: Cháy lên còn chút
lửa/ Ta: Một nhúm tro than..../ Ngươi đứng lù lù trước ngõ/ Ta thì lọm khọm
trong nhà/ Ta buồn đắng tình thế thái/ Ngươi vui ngọt miệng trâu bò!” (Đêm
tất niên): Và đây: “Nơi đây là mộ địa/
Chôn/ những mối tình đã chết từ lâu/ Đã vô duyên kiếp trước/ Mong gì gặp kiếp
sau? (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
Nếu chịu khó tòm kiếm, còn
không ít những câu thơ triết lý thú vị như thế trong hàng trăm bài thơ của
Trịnh Tuyên Thực lòng, tôi thích thơ
Trịnh Tuyên hơn truyện của ông, bời nhìn chung, thơ ông có ý tưởng lạ, khá hàm
súc, câu chữ bất ngờ. Ví như bài thơ này: “Ta
lại đến điểm đầu từ điểm cuối// đường tình ngắn chẳng tày gang/ Cưới lại đi em/
Ừ! Cưới lại!/ Cơm đã nguội rồi thì đổ ra rang.../ Đêm cưới lại/ tình nồng không
trở lại/ chỉ có đôi môi/ lặng ngắt/ ưu sầu!/ Đêm cưới lại/ ái ân/ không trở
lại/ chỉ tiếng thì thầm thoảng trong đêm mau/ Đêm cưới lại/ chẳng còn gì trở
lại/ chỉ một lần khờ dại mãi trong nhau..” .(Cưới lại); Hay như: “Nghẹn ngào khói thoảng về mây/ Run run một
nén tâm đầy con dâng...” (Thăm mộ cha);
“Khi anh yêu em/ Biên giới của
người điên” (Biên giới); “Rằng nay
đang tiết thanh minh/ Tôi đi viếng cái mộ mình mai sau...” (Tôi đi viếng mộ
của tôi): “Nơi đây là mộ địa/ Dưới đáy mồ không một khúc xương/ Chôn những mối
tình đã chết! “ (Nghĩa địa tình yêu) v.v...
Theo tôi, Trịnh Tuyên có
một bài thơ hay, thuộc hàng hay nhất của ông, kiểu như Chuyện tình lão chăn dê
trong truyện ngắn, ấy là bài Thành nhà Hồ.
“Thành
xưa đổ nát, hoang tàn
Hồ
vương rời bỏ ngai vàng ngự đâu(?)
Thạch
long, tuế nguyệt dãi dầu
Bước
chân khanh tướng công hầu vắng tanh
Sông
xưa đổ mé đông thành
Mà
nay đồng bãi , tươi xanh bốn mùa
Đế
vương mà ngỡ trò đùa
Trẻ
trâu kể mấy đời vua suy tàn .
Cho
hay thành quách, ngai vàng
May
ra còn lại mấy trang sách nhầu!
Có
gì vĩnh cửu mãi đâu
Bao
nhiêu lăng tẩm nhuốm mầu liêu hoang
Bao
đời áo mão xênh xang
Mấy
ai xây được ngai vàng- Lòng dân”
Hơi thơ cổ, tứ hay, câu chữ
chắt lọc, phong vị trầm bi, ý nghĩa sâu sắc và giàu sức gợi, Nghe đâu, bài thơ
này có câu được các nhà bình chọn lấy để treo vào bóng thơ thả lên giời một
Nguyên tiêu nào đó ở Văn Miếu-Quốc tử goám. Trịnh Tuyên cũng lấy đó mà tự hào.
Đấy là sự ghi nhận về tính
triết lý trong thơ Trịnh Tuyên. Song
cùng vì ham triết lý mà nhiều bài thơ của ông giảm sức gợi. Thơ hay, trước tiên
cần sức gợi, rồi đến ý tứ, câu chữ, nhạc điệu... Có cả thì dĩ nhiên toàn bích
rồi. Thế nên, làm thơ, dụng công quá thường hỏng. Nhiều khi buâng quơ, viết
chơi chơi lại được. Trịnh Tuyên có những bài thơ như vậy, Ví như ờ Chiều
trên bài ngô, ông tả cảnh đồng bãi, vô tình thấy môt em nào đó đang cắt
cỏ trên bãi ngô ven sông Mã, để rồi buông một câu kết lửng lơ: “Xin em đừng gánh cỏ về lối cũ/ Kẻo vương vào
phiền muộn của riêng anh...” thì bài thơ sống động hẳn lên, bồng có hồn và
rất gợi... Hay đâu, những câu thơ đầy ngẫu hứng thú vị như “Biển oan, sóng mãi gầm gào/ Bao nhiêu trong
đục đổ vào một tôi! “ (Em); “Lời
thương/ em gửi cuối nguồn/ Lời yêu/ em gửi cánh chuồn chuồn bay” (Nhà em):
“Đường chiều mây nhẹ đường mây/ Đường
tình tôi nặng những đày đọa tôi” (Chiều quê); “Thanh
minh tôi viếng mộ tôi’Mai sau biết có ai người ghé thăm?”(Tôi viếng mộ
tôi); “Một năm lửa đỏ để dành/ Đủ cho anh
đốt cơm canh một ngày!” (Thơ ngày 8.3); “Tháng sáu thương phận cá trôi/ Đồng xa, nước ngập, bồng bơi ngả nào?.
Con rô lách ngược mưa rào/ Con ếch nồng nỗng cầu ao đợi mồi/ Tháng sáu, em hẹn
thăm tôi/ Ao sâu, nước cả, tôi ngồi câu suông!” (Tháng sáu); “Mặt trời thì ngã đằng tây/ Em thì ngã trọn
vòng tay gã khờ/ Khi em ngã ngửa vào mơ/ Là tôi ngã sấp bơ phờ tóc sương” (Ngã)
...
Những câu thơ này, dẫu
không đến mức “tuyệt diệu hảo từ”,
thì cũng không phải là những câu thơ dễ viết dễ có !... Và như thế, tôi nghĩ,,
đủ có một Trịnh Tuyên-nhà thơ!...
3. & lão chăn dê
xứ Thanh,
Năm nào cũng vậy, cứ sau tết nguyên đán,
độ cuối tháng hai ta, Trịnh Tuyên lại rủ tôi vô Thanh, còn nhắn là nhớ rủ thêm
nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, nhà văn Nguyễn Trọng Huân,
họa sĩ Lã Minh Kính và nhạc sĩ Phạm Qiamg Hiển. Chẳng là, từ nhiều năm nay, cứ
vào độ này khi tiết xuân còn chưa vãn, cánh chúng tôi thường vô xứ Thanh, dổ bộ
vào nhà Trịnh Tuyên ở Cẩm Tân, Cẩm Thủy. Nhóm văn bút xứ Thanh tụ hội ở nhà
Trịnh Tuyên thường có Phạm Duy Đức, Ngô Xuân Tiếu, Lê Văn Sự, Trọng Nghĩa, Đào
Phan Toàn, Cao Nguyên Quyền, và Trương Thị Mầu, Ma Bích từ Bá Thước xuống, cùng
vài ba người khác... Đông vui, thân mật, ấm áp tình bạn bầu văn chương.
Tôi
quen và thành thân với Trịnh Tuyên từ mươi năm nay, qua mang xã hội Blog Tiếng Việt mà cư dân ở đây nôm na
gọi là Xóm Lá, Lúc ấy, mạng xã hội
chưa phổ biến như giờ, nên những ai tham gia Blog Tiếng Việt chí ít cũng phải biết viết lách đôi chút, nếu không
phải là cây bút chuyên nghiệp. Nhóm vài chục blogger ở Hà Nội gặp gỡ, giao lưu
với nhau vui ;ắm, còn Trịnh Tuyên mãi vùng xa Cẩm Thủy xứ Thanh. Song Trịnh
Tuyên nhanh chóng gây ấn tượng với nhóm chúng tôi, bời nhẽ, thứ nhất, các cảm
nhận (comment) gây xốc, tưng tửng
hoặc chọc ngoáy khó chịu, thớ nữa, các
bài viết của ông, truyện ngắn hay thơ đều khá chững chạc. Phàm dân viết, ngửi
văn nhau thấy được là chơi với nhau ngay. Và rồi, những chuyến Trịnh Tuyên ta
Hà Nội mỗi dịp Nguyên tiêu, hay những chuyên đổ bộ của chúng tôi vào xứ Thanh
kết nối và gắn bó chúng tôi.
Gặp
rồi nên thân mới thấy chơi được với Trịnh Tuyên không dễ chút nào. Ông tuổi
Nhâm Thìn (sinh 1952), cầm tình còn
rồng, mệnh Thủy-Trường lưu thủy (nươc
chảy dài), lại sống bên bờ sông Mã, nên tính cách mạnh, linh hoạt, lấn lướt,...
Thiên can Nhâm cỉa tuổi Nhân Thìn, tương hợp với Đinh, mà tôi tuổi Đinh Dậu (1957) nên
Trịnh Tuyên với tôi, anh em hiểu nhau, dễ chia sẻ, bổ trợ thành hòa hợp,...Có
mầy yếu tố làm nên tính cách con người Trịnh Tuyên, chất nam nhi xứ Thanh điển
hình, cộng cái ngất ngưởng của kẻ có chữ, pha trộn thêm sự nhanh nhậy linh hoạt
của nghề cảnh sát điều tra, Thường ra, thấu hiểu và dễ cảm thông, song khi cần,
sắc lẻm phân minh, nhất bét tời cùng, không ngại va chạm mất lòng, Tôi nhớ,
trong một lần vào xứ Thanh, tôi cảm hứng thành thơ, bài thơ Thăm bạn xứ Thanh, mang đọc lúc tiêc
vui, có câu thơ “Xứ Thanh bề bộn nước non/ người một khoảnh, đất vuông tròn một khoanh”, mọi người đều không để ý, riêng Trịnh Tuyên nhận ra
ngay ý tứ. Ông khoái, khen câu thơ ấy đã
khái quát được cả vùng đất và tính cách con người xứ Thanh,
Cũng có thể kể thêm vài câu chuyện
nữa, đặng khắc họa đậm nét tính cách con người Trịnh Tuyên, Trong quan hệ xã
hội, Trịnh Tuyên không ưa những gì ông cho là mập mờ. Thế nên, đã tùng xảy ta
chuyện, tờ báo này tạp chí nọ sử dụng bài viết của ông tùy tiện, thiếu minh
bạch, khiến ông bực mình, lên tiếng phản ứng. Rồi nữa, chuyện ông mời khach đến
chơi nhà cùng tiếp bạn văn chương thủ đô, chuyện phiếm lấn sang lĩnh vực điều
tra, ông và cậu đàn em từng là thủ trưởng cơ qian điều tra cấp huyện, nổi hứng
nghê nghiệp bàn về chuyện phá án, hăng lên tranh luận, mỗi người một lý, chủ
khách thành to tiếng khiến tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa phải can ngăn, hạ hỏa
đôi bên...
Trịnh Tuyên là vậy đấy, trực tính, yêu
ghét rõ ràng, Ai chơi được với ông dễ thành chí cốt. Hễ cứ nghe Trịnh Tuyên
phán về một au đó “Hắn chơi được lắm” thì tôi không phải ngại, cứ yên tâm mà giao
du. Chẳng thế mà, lão chăn dê xứ Thanh
quy tụ được nhiều cây bút, bạn bè yêu
văn chương trong vùng, thưởng xuyên gặp gỡ, đông viên, chia sẻ cùng nhau không
chỉ văn chương mà cả những vui buồn cuộc
sống...
Mấy năm nay, bạn văn miền tây xứ Thanh của ông cứ vơi
dần. mấy người vân du về cõi hạc (Trọng
Nghĩa, Phạm Duy Đức, Ma Bích), riêng ông vẫn thủng thẳng sớm trà, chiều
tửu, cần mẫn kể chuyện đời,..,
Lão vẫn còn bầy dê thả chăn trên núi kia mà !...
Nguyễn Tùng Quân-
Niềm
riêng và những điều
còn lại
Tôi biết đến và quen thân Nguyễn Tùng Quân đã hơn chục
năm nay. Ngày ấy. mạng xã hội chưa mấy phong phú như bây giờ. Mùa thu năm 2009,
tôi lập trang riêng Ngẫm & Viết trên nền tảng Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net), và ngay sau đó, tôi
biết đến Nguyễn Tùng Quân, khi anh sang ghi cảm nhận (comment) bên trang của tôi. Và để trở thành bạn thân với nhau, tôi
cũng thường xuyên sang đọc trang của anh. Blog của Nguyễn Tùng Quân chọn tên
một ca khúc nổi tiếng của Trịnh Công Sơn làm đề từ - Để gió cuốn đi, điều này phần nào cho thấy quan niệm và xu hướng
sáng tác của anh. Như vậy, cứ đều đếu, tháng đôi ba bài viết mới, chủ yếu là
thơ, và cho đến thời điểm tạm dừng trang cá nhân của mình vào đầu năm 2018.
Nguyễn Tùng Quân đã đăng ở đây khoảng 120 bài thơ, mà đa phần được anh tập hợp
thành tập thơ Niềm riêng và những điều còn lại, mà bạn đọc có trên tay hôm
nay.
Song trước khi bàn đôi điều về thơ Nguyễn Tùng Quân,
tôi lại muốn bạn yêu thơ làm quen với con người thơ.
Nguyễn Tùng Quân quê xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, tuổi Kỷ Hợi, chuyên ngành đào tạo về khoa học tự nhiên. Mặc dù, Nguyễn
Tùng Quân từng công tác trong ngành văn hóa, nhưng có lẽ, thời gian làm việc,
phụ trách Nhà chiếu hình Vũ trụ ở
Nghệ An lại cho anh cảm xúc sáng tác nhiều nhất. Hình như, hằng đêm, quan sát
bầu trời mênh mang hằng ha sa số tinh tú lấp lánh, tâm hồn anh lại rạo rực niềm
cảm hứng thi ca, những xúc cảm đó chẳng phải là thứ tình cảm viển vông gửi vào
vũ trụ bao la, mà là tình cảm chân thật về tình yêu đôi lứa, tình yêu con người
trong đời sống thường nhật quanh mình...
Cùng với những người anh em bạn bè yêu văn chương quê
Nghệ An với Nguyễn Tùng Quân, có Văn Lâm An, một kỹ sư xây dựng và cựu đại tá
Phạm Huy Việt, một người từng làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân
sự. Tuổi đời cao thấp chênh nhau nhưng họ rất yêu quý, nể trọng nhau. Tôi thân
quý cả ba người, chỉ phần nhỏ vì sở thích văn chương thơ phú, mà phần lớn là sự
thẳng thắn, chân thật, đặc biệt là “cái chất gàn đồ Nghệ” của họ. Tôi khá
tâm đắc với chút cảm nhận về thơ Nguyễn Tùng Quân của cựu đại tá Phạm Huy Việt,
nên ghi nguyên văn ra đây:
Tôi đã “cách ly”
thơ vài năm nay.
Họ nói với tôi rằng thơ đang bùng nổ,
thơ đang lạm phát.
Tôi cho rằng thơ đang suy thoái,
thậm chí đang bị lãng quên.
Cái đang bùng nổ, đang lạm phát đâu
phải là thơ. Nó là “văn nói ngắt đoạn”
hay “văn xuôi xuống dòng” mà thôi.
Thơ là tình yêu đã rũ bỏ trần tục. Thơ trong dòng chảy văn học nghệ thuật như
mỹ nữ trong dòng cuộc sống, không lẽ lẫn lộn “mỹ nhân” và “xú nhân”.
Dù muốn “cách ly”, nhưng khi Nguyễn Tùng Quân nhờ đọc bản thảo thì tôi nhận
lời; vì tôi biết anh từ lâu, cũng đã đọc một số bài. Cảm nhận ban đầu thì đó là
thơ.
Cũng cần nói ngay, tôi là người yêu
thơ, nên chỉ “thẩm” thơ thôi, những
mong giúp cho bạn hữu chút gì đó khi đọc thơ Nguyễn Tùng Quân.
Thơ Nguyễn Tùng Quân dù không gò ép hay “đánh võng” vần điệu, nhưng cũng không
buông thả hay rẻ rúng từ ngữ; không “lên
gân” câu chữ để làm cho câu thơ se sắt. Những cái đó tựa như là tiêu chí
bất thành văn hồi đầu của Phong trào Thơ mới (1932 – 1945),
khi các nhà thơ giác ngộ muốn phá bỏ niêm luật chặt chẽ của thơ cũ. Điều đó
đáng trân trọng.
Thơ Nguyễn Tùng Quân như gồm hai mảng chính, thơ đời và thơ tình.
Thơ đời của anh giản dị mộc mạc có
phần “nhà quê”, nhưng trong đó anh đã
khéo léo hình tượng hóa và khái quát hóa để dẫn dắt người đọc đến bức tranh
sống động hiện thời. Trong khi, đa phần người ta bàng quan lướt nhẹ giữa “mây chiều vần gió”:
“Chiều nghĩa
trang tăm tắp những hàng bia
Nén hương
thơm lập lòe cháy đỏ
Những hàng
bia không tên đứng đó
Đội ngũ những
người HAI LẦN HY SINH…”
(Hai lần hy sinh)
Lời trong ký ức: “bạn
đừng sợ kẻ thù – cùng lắm nó hại bạn; đừng sợ bạn mình – cùng lắm nó phản bội;
hãy sợ sự bàng quan – đó là nguyên cớ của phản bội và giết chóc”. Phải
chăng bàng quan chính là cái chết khi
còn sống. Với thơ, sự bàng quan cũng là cái
chết của thơ vậy...
Thơ tình của Nguyễn Tùng Quân lại thích lối viết ẩn
dụ.
Cũng là ẩn dụ, nhưng nếu là thơ thời cuộc thì đa phần
không được hoan nghênh, như, bởi đó là sự “né
tránh”. Còn như, với thơ tình. lối viết ẩn dụ về cơ bản lại được hoan
nghênh, tán thưởng, cho rằng lời thơ có cánh,... Cũng đúng thôi, nói bóng gió
là nghệ thuật tỏ tình mà lại như “sở
nguyện” của đối tác. Vậy đó. trong tình yêu, những cái cần nói thì không
nói được, ẩn dụ là “thay lời muốn nói”,
thế nên:
“Thơ tình anh
đã viết rồi
Chỉ mong em
Hiểu những
lời
… Lặng câm…”
(Thơ chung)
Đọc thơ Nguyễn Tùng Quân, như người lần đầu uổng rượu
“xịn”, ngỡ rượu nhẹ vì uống ngon, êm,
mềm môi, mà say lúc nào không hay, tỉnh dậy thoáng buồn, vì còn đi thăm “vườn quê” của Hoàng Thi Thơ:
“Em gái vườn
quê,
Cuộc đời
trong trắng,
Dầm mưa dãi
nắng
Mà em biết
yêu trăng đẹp ngày rằm…”
Tôi xin nhắc lại, ý kiến nêu trên của cựu đại tá Phạm
Huy Việt chỉ là một cảm nhận theo dòng cảm xúc của ông, chứ chưa phải là sự
đánh giá thơ Nguyễn Tùng Quân với tư cách một bài phê bình văn học. Tôi hiểu,
việc đánh giá, nhận đình thơ Nguyễn Tùng Quân thế nào đang thuộc về bạn đọc yêu
thơ, bởi mỗi người đọc đều là một nhà phê bình kia mà !...
Tôi và Phạm Huy Việt. Văn Lâm An có ý nhắc Nguyễn Tùng
Quân tập hợp thơ đã đăng tải nhiều năm nay để thành tập, xuất bản, thì anh có
vẻ lưỡng lự. Nguyễn Tùng Quân tâm sự, ý anh là thơ mình toàn là thơ tình. Tôi
nghĩ, thơ tình thì có sao đâu. Tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước,
tình yêu cuộc sống và tình yêu đôi lứa,... tình nào mà chẳng là tình, đều đáng
quý cả.
Điều đáng sợ, ấy là thói vô tình.
Ở đời, xưa nay, hữu tình vô hạn kia mà !... ./.
Phạm Duy Đức, chút tình thơ gửi lại.
Vậy là người thơ đã đi
xa.
Nhớ
lời người xưa bảo, "sống thì lâu, chết giỗ đầu nay mai...". Vừa mới
đọc tin nhà văn Trịnh Tuyên báo, Phạm Duy Đức mất vì ung thư, chớp mắt đã thấy
Trịnh Tuyên bảo, sắp 49 ngày Phạm Duy Đức rồi đấy... Cái hẹn với nhà văn Trịnh
Tuyên và Phạm Duy Đức, cùng bạn bè văn chương Xứ Thanh từ mùa xuân năm trước,
vậy mà sang xuân Kỷ Hợi này, còn chưa kịp vô Thanh thì ông đã xa rồi...
1. Rủm rỉm người thơ,
Tôi biết đến người thơ Phạm
Duy Đức đã ngót bảy năm nay, thông qua mạng xã hội là Blogtiengviet.net mà mọi
người quen gọi bằng cái tên dân dã thân thương là Xóm Lá...
Thoạt đầu, ông không để lại ấn
tượng gì nơi tôi. Đơn giản, bởi Xóm Lá ở thời điểm ấy có đã những tên tuổi lấy
lừng như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Lâm Cẩn ... hay những người
năng nổ, hoạt bát như Nguyễn Vĩnh Tuyền, Chử Thu Hằng, Nguyễn Cao Thâm, Lê Văn.
Lu Bim, Thúy Tím,... Ngay xứ Thanh, cùng quê với Phạm Duy Đức thì cũng đã
có Trịnh Tuyên, Đào Phan Toàn... là những người thơ văn đầy mình.
Khác với những nhà thơ nhà văn
chuyên nghiệp, là hội viên của Hội nọ Hội kia, thì có số đông người vì yêu văn
thơ mà lập blog cá nhân, để lấy cớ mà viết, để có chỗ mà giao lưu bè bạn với
nhau... Với riêng Phạm Duy Đức, đến với Xóm Lá là một người như vậy.
Đã dăm năm nay, nhóm blogger Hà Nội gồm có tôi (Nguyễn
Chu Nhac), nhà thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, Nguyễn
Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân, nhạc sĩ Phạm Quang Hiển, họa sĩ Lã Minh
Kính, cùng Nhà giáo nhân dân-Gs Nguyễn Lân Dũng, nhà báo Nguyễn Thịnh... hầu
như năm nào cũng làm một chuyến du xứ Thanh. Khi đủ bộ sậu, khi thiếu vắng
người này người nọ, song năm nào cũng vào dịp mùa xuân, sau tết Nguyên đán,
chúng tôi vô Thanh, điểm tụ hội là nhà riêng của nhà văn Trịnh Tuyên, tại Cẩm
Thủy. Nhóm blogger xứ Thanh đón khách văn chương Hà thành, ngoài chủ nhà Trịnh
Tuyên, thường có khá đông dân văn nghệ, chữ nghĩa quanh vùng là Ngô Xuân Tiếu,
Đào Phan Toàn, Trịnh Phú Đa, Nguyễn Trọng Nghĩa (giờ đã là cố nhân), nữ bác sĩ
Trương Thị Mầu, Phạm Mai, Phùng Hương Nhu, và Phạm Duy Đức v.v... Hằng năm,
cuộc hội ngộ văn chương ở xứ Thanh cũng ít khi đầy đủ, thường thiếu vắng người
này kẻ nọ, song Phạm Duy Đức thì không bao giờ vắng mặt. Cứ theo lời nhà văn
Trịnh Tuyên, cùng với ông là hạt nhân cho việc tổ chức các cuộc vui, thì luôn
có vài người thân thiết trợ giúp mình là Phạm Duy Đức và Trương Thị Mầu...
Tư gia nhà văn Trịnh Tuyên khá
rộng rãi, vườn tược, ao chuôm đủ cả, nên sản vật của nhà như gà vịt, cua cá,
rau cỏ thừa sức đãi khách. Tuy nhiên, hầu như năm nào cùng có những món ngon
thuộc hàng sản vật địa phương được bác sĩ Trương Thị Mầu mang từ Bá Thước xuống
và đặc biệt là món bánh răng bừa ngon nổi tiếng do Phạm Duy Đức thửa từ Cẩm Vân
quê ông mang sang góp vui, đãi bạn văn chương Thủ đô ... Đấy là cái ý, cái tình
của nhà thơ Phạm Duy Đức...
Cuộc vui, gặp gỡ năm một lần,
đều tưng bừng náo nhiệt. Các vị tên tuổi như Nguyễn Lân Dũng, Trần Đăng Khoa
thường là trung tâm của sự chú ý. Náo nhiệt có gia chủ Trịnh Tuyên và nhà thơ
Nguyễn Vĩnh Tuyền, thích ảnh ót chụp choẹt của phái nữ, hoặc chốc chốc cao hứng
chữ nghĩa của Nguyễn Trọng Nghĩa, Trịnh Phú Đa, thì trái ngược, Phạm Duy Đức
lẳng lặng kín tiếng, rủm rỉm thủng thẳng buông ra một câu hài hước khiến mọi
người bật cười. Ấy là cái duyên nói chuyện của ông...
Tiệc vui, đông người, rượu vào lời ra, khi cả hội chung một chuyện, lúc thì
từng nhóm vài ba người với nhau, mặc ai huyên náo thơ phú, riêng Phạm Duy Đức
vẫn rủm rỉm vậy. Nhiều lần quan sát, tôi thấy ông chăm chút rót rượu cho những
người kế bên, gắp món này món nọ, kèm theo lời giới thiệu từng món, từng vị
ngon quê Thanh cho bạn xa cùng thưởng thức... Ân cần, chu đáo, tinh tế, ngẫm
nghĩ để lâu lâu lại tung ra một câu hài... Phạm Duy Đức rất vui khi ai cũng
khen món bánh răng bừa Cẩm Vân quê ông, song ông cũng chỉ mủm mỉm, chứ không
bao giờ sảng khoái cười to...
Quả là, người làm sao, của chiêm
bao làm vậy. Ấy là cái duyên rủm rỉm của con người Phạm Duy Đức thấm cả
vào thơ ông...
2. Chút tình thơ
gửi lại,...
Hơn một lần, tôi bày tỏ suy nghĩ của
mình với Phạm Duy Đức như vậy. Ông nghe, mặt rạng lên, nhưng cái cười nơi ông
vẫn chỉ khúc khích mà thôi. Nhưng nhìn kỹ, thấy ánh mắt ông ánh lên sự tinh
nghịch, hóm hỉnh. Tôi đùa "Thơ anh mà mang ra tán gái là ăn lắm đó",
ông mủm mỉm "Thế à... vậy mà mình không biết đấy... Tiếc nhỉ?...".
Miệng nói vậy, song vẻ mặt tinh quái gian gian là. Tôi hiểu, ông ý thức điều
này...
Chuyện là thế, cửa miệng đùa vui lúc trà dư tửu hậu rồi thôi, nhưng nay, Phạm
Duy Đã đã là cố nhân, vân du về cõi ngàn thu, mới lần giở từng
trang blog của ông, đọc chậm và ngẫm nghĩ, càng thấy sự rủm rỉm duyên ngầm,
nhất mực đôn hậu đậm nét trong thơ ông...
Tính từ bài thơ đầu tiên
là Qua sông đăng ngày 18.8.2013 đến bài thơ cuối cùng là Đông
về đăng ngày 13.12,2018, tổng cộng 270 bài, toàn thơ. Không rõ, Phạm
Duy Đức còn bài thơ nào ngoài số này, và nếu không thì trong vòng hơn 5 năm,
với ngần ấy cũng là con số không nhỏ.
Có một điều, giờ đây xem lại thơ Phạm Duy Đức, thì ngay bài thơ đầu tiên, của
ngày đầu tham gia Blog Tiếng Việt, ông đã chọn đề tài về sự vĩnh hằng. Xin
trích ra đây "Chiều
nay anh qua sông trên một con thuyền/ Soi bóng mình giữa dòng nước
biếc/... Xa xa là những cánh đồng/ Mấy nghìn năm phận người như cánh
cò cánh vạc/ Dáng mẹ thân cò, dáng cha mình hạc/ Lại hiện về trong
những khúc ca dao/ Đất nước mình thân thiết biết bao/ Muôn kiếp người
hòa vào lòng đất/ Ta cứ sống với tâm hồn chân chất/ Một đời người mê
mãi một dòng sông..." 8/2013...
Rẩm riu, như một dự cảm về sự sớm ra đi, ngay từ lúc trình làng với tư cách là
một người làm thơ, Phạm Duy Đức đã luôn bị ám ảnh bởi đề tài này. Trong bài thơ
cuối cùng Đông về, mặc dù không u hoài như bài thơ đầu tiên, vẫn có
chút lạc quan, hóm hình câu chữ, song dự cảm vĩnh hằng vẫn ám ảnh nỗi lòng ông
"Đông
về cái lạnh nó tê tê/ Mỏi mắt trông em chẳng thấy về/ Con Sáo rủ nhau
tìm chỗ ẩn/ Bầy cò nhao nhác rúc bờ tre/ Đêm khuya thanh vắng cu gù
đợi/ Chạng vạng vừng đông gáy té te/ Tính đến mùa ni đà mấy
độ/Dòng còn hay cạn nẻ bờ khe". Hai câu kết của bài
thơ, như một sự tính sổ với cuộc đời. Hay đâu như bài thơ ngay trước đó, Chuyến
đò cuối cùng, ông viết câu mở "Người lái đò đưa chuyến cuối
cùng" thì câu kết buông xuôi "Mặc con đò trôi xuôi chưa
biết đậu bến nào...". Trong thơ của Phạm Duy Đức, dự cảm về sự
vĩnh hằng nhiều lắm, hoặc trong tứ thơ hoặc vài ba câu thơ, lại có khi ở ngay
tên bài... Ví như: "...Em là dòng sông suốt đời anh mơ ước/ Em lở
về đâu anh cũng chẳng cần bồi/ Hãy cho anh nhập dòng sông em nhé/ Đợi
đến một ngày anh sẽ bay hơi..." (Đến với dòng sông, 10,2017) . Và đây,
ông viết "...Những người xưa đã chết/ Chỉ vài chục năm
đầu/ Nhiều người giờ quên hết/ Nên có gửi gì đâu?/ Thôi thì đành
chịu vậy/ Có gì vĩnh cửu đâu/ Dẫu có là vua chúa/ Thời gian cũng
xóa nhàu..." (Tháng Bảy, Rằm tháng bảy 2016). Còn nữa, song thôi,
để trở về các đề tài khác trong thơ Phạm Duy Đức...
Mùa thu và Em, mảng đề tài này chiếm già
nửa thơ ông. Cũng đúng thôi, mùa thu là mùa của xúc cảm thi ca, và Em thì cùng
vậy, nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn. Trong thơ mình, Phạm Duy Đức thường
mượn cớ mùa thu để nói về em, để gửi gắm tình yêu thương vô bờ bến. Mùa thu và
Em nhập vào nhau, hòa quện, không thể tách rời. Có thể kể tên hàng loạt bài thơ
như thế: Vẫn đợi thu em, Thao thức, Em cứ hẹn, Một nửa, Hằng mong, Thu,
Đừng đợi em về, Đi bên mùa thu, Gió ngày xưa, Mùa thu và em, Không chăn, Mấy
nhịp cầu phao, Tình em, Ngủ đi em, Thêm một mùa thu.v.v...
Tôi nhặt
nhạnh một số câu thơ hay và gợi trong màng đề tài này, như "Trời thu thì dày/ Lá thu thì
mỏng/ Đường thu thì xa/ Chân em bé bỏng/ Thuyền em nhỏ
nhoi/ Hồ thu thì rộng/ Anh đi bên em/ Tình thu mơ
mộng.../ Em là tiếng lá/ Anh là tiếng gió / Ta cuốn trong
nhau/ Bay trong mùa thu..." (Đi bên mùa thu); "Em đi nắng dạt về
chiều/ Hoàng hôn rụng xuống lần theo gót người/ Lòng anh gió cuộn,
mây vùi/ Con tim nuốt nghẹn nói lời đơn côi/ Thôi đừng đi nữa người
ơi/ Để anh mắc cạn một đời sông em!" ( Mắc cạn); "Sét đánh từ lâu/ Không thể chết/ chính là
điều bất hạnh/ Em bỏ anh đi / khác gì sét đánh/ Lưỡi tầm sét em
nằm/ trong lồng ngực anh đây!" ( Sét đánh)... "; Theo gót ông Nghè Yên
Đổ đi câu/ Chỉ thấy lá vàng bay vèo trong gió/ Ô nhiễm môi trường,
suối sông ngầu đỏ/ Cá chết hết rồi, ta đi câu mùa thu" (Đi câu
mùa thu) ; "...Sáng sáng mình ta trở dậy/ Sân vườn hoa cỏ
xác xơ/ Chăn gối phồng như rơm rạ/ Xác những nỗi buồn đêm qua..."
(Thêm một mùa thu); "...Cái rét giêng hai, rét thì con
gái/ Nắng thì non non tựa phấn mầu/ Đêm hai đứa, hai phương trời gần
lại/ Ta mãi còn rét ngọt ở trong nhau..." (Rét ngọt); "...Cứ ngỡ lòng thành cuội trắng/ Trở về với bến
Hoàng Giang/ Tình xưa giờ thành quá vãng/ Người xưa đã chết vội
vàng/ Cứ ngỡ lòng thành hoa gạo/ Đỏ trong cái rét Nàng Bân/ Đã
qua những ngày ảo nảo'/ Tháng ba ngực núi xanh dần..." (Cứ ngỡ); "...Vần mờ - em gió heo may/ Vần sờ - sương khói mây
bay trắng lòng/ Vần bờ - duyên phận đèo bòng/ Vần hờ hững lắm chờ
mong chi nhiều..." (Lục bát chấm
com); "Ao đời giờ chẳng còn em/ Tôi như con ếch im lìm bóng
cây/ Bao giờ cho đến heo may/ Tôi chui vào lỗ đọa đầy qua đông..."
(Ao đời)...
Phạm Duy
Đức là người có khiếu hài hước, trong đời sống và trong thơ. Để ý, người xứ
Thanh, quê hương của Trạng Quỳnh, các văn nghệ sĩ như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh,
Định Ngọc Diệp, Trịnh Tuyên... ít nhiều đều có chất uy-mua trong mình. Đối diện
chuyện trò hay đọc thơ Phạm Duy Đức, cảm giác qua gương mặt tỉnh queo, như
chẳng có gì quan trọng cả, lại ẩn chứa sự tinh ranh, hóm hỉnh... Cứ rủm rỉm,
khúc khích không thành tiếng, ông tửng tưng buông ra. "...Trời mà còn
lúc thoáng qua/ Huống chi anh, mới xa nhà đã quên" ( Chợt ). Ông
nói về nỗi đau khổ mà thế này đây: "Em biết không, có con diều đang lộn/ Sợi
dây mong manh phía cuối trời/ Ở nơi ấy có một người đau khổ/Khóc con diều
kỳ diệu đang rơi. Con diều ấy một thời ta khao khát/ Anh cầm giây mắt
em hướng lên trời/ Cứ tưởng gió cứ đưa diều lên mãi/ Có ai ngờ diều
lộn thế em ơi..." (Diều giấy); Và đây nữa, về nỗi buồn: "Bướm
vàng say trái mù u/ Người xa nhau cũng gật gù nhớ mong/ Gió buồn thổi
những đường cong/ Ta buồn cám cảnh ăn đong xế chiều.../ Tình giờ còn
có bao nhiêu/ Mà em đỏng đảnh mỹ miều làm cao/ Một khi bạn với trăng
sao/ Là vênh gẫy cả con sào đẩy đưa.../ Về đi em để mây mưa/ Sấm
lòng anh lại mới vừa nổi lên." (Hình như). Cũng có khi Phạm Duy Đức
cười, cái cười không ra tiếng: "Các cụ thi nhau đánh bóng
hơi/ Nắng Thu nhuộm đỏ cả khung trời/ Trộ nơi khe hở …Ôi! ông
dúi/ Thấy quả nâu non…Úi! mụ bồi/ Phi mạnh sâu luôn gồng sức
đẩy/ Ưỡn thân hất ngược cũng thường thôi/ Bao lần cọ sát mồ hôi
đẫm/ Trái bóng chuyền hơi lắm chuyện cười " ( Chiều nay)...
Ngay cả
khi ông buồn thật, muốn trải lòng cho nhẹ bớt, như than thở đôi câu, nhưng rồi,
chất uy-mua ấy vẫn len vào: "Mùa thu chưa rụng xuống hiên nhà/ Nỗi
lòng man mác chốn trời xa/ Thương đôi cánh vạc gầy guộc nhỏ/ Nửa này
làm vợ, nửa kia bà.../ Đêm đêm tai mắt luôn thao thức/ Một mình một
bóng độc ẩm trà/ Hình như hàng xóm ai vừa dậy/ Quyét ngõ chi mà sớm
quá ta?" ( Thao thức); và đây cũng vậy: "Đêm khuya vắng lặng bóng
nguyệt mờ/ Tà tà tây trúc dáng lửng lơ/ Chú Cuội ỉu xìu như đuối nước/ Chị
Hằng mơn mởn vẫn đương tơ' Trần gian giam hãm thằng cu gáy/ Thượng
giới mở tung cái gà lờ " ( Trăng tà ).
Rồi có
khi, lại thấy Phạm Duy Đức nhẩn nha dạo quanh ngõ xóm, xem làng nước ra sao, mà
bông lơn: "Đa làng/ Đổ bóng giếng làng/ Rễ / bậc
thang xuống/ cho nàng rửa rau/ Bãi làng tằm nhấm lá dâu/ Giếng
làng tôi nhấm một câu tỏ tình/ Cái duyên/ cái phận/ cái tình
/ Giếng làng/ ôm cái tỉnh tinh của làng..." (Giếng làng); Và
đây : "Em vào vụ cấy chổng mồng mông/ Lận đận cả ngày ai biết
không .../ Xoạc cẳng lăm xăm mươi ngày ngấm/ Lăn dài cả vụ ngước
mặt trông..." ( Vụ cấy); Thêm nữa: "Họ đi đánh dậm mãi cũng
quen/ Bùn đục, nước trong dẫm thành đen/ Khom lưng, gò ruột thì thụp
nhún/ Ưốn cật, oằn mình cố nhấc lên / Lươn dài xục sát bờ hang
tối/ Trạch ngắn lê xem rọi ánh đèn / Chỉ biết quên thân tìm chỗ
níu/ Cảnh đời luồn lách thế mà nên.." (Cũng quen), v.v...
Lại có
lúc, Phạm Duy Đức tự nhủ lòng mình, rằng cứ thản nhiên cho qua, cứ xem như một
tiếng cười nhẹ, rồi ra việc gì cũng quaa hết: "Hôm qua chân bước qua
cầu/ Bỏ rơi mất cả nỗi sầu đang đeo/ Tình giờ ai giữ mà neo/ Đáy
sông góc bể thả vèo cho xong/ Tình giờ ai đợi mà mong/ Ôm chi cho
nặng cõi lòng ai đây/ Mai sau qua khúc sông này/ Thương con mắt đỏ cá
Chày không em? " (Tình rơi); và "Cứ đợi
mãi/ Qua đêm/ lại sáng/ Rồi đêm sau/ Chạng vạng/ đêm
sau.../ Chờ em/ bạc cả mái đầu/ Bài thơ/ móm mém/ ngàn
câu/ sai vần/ Đời anh/ Đã lệch cán cân/ Còn bao trọng
lượng/ đổ dần/ cho em! " (Lệch cán cân)...
Cứ thế,
bằng cái phép thắng lợi tinh thần kiểu AQ này, Phạm Duy Đức đã chiến thắng. Mới
hay rằng, tinh thần là quan trọng hơn cả, một khi đầu óc đã thông, cái lòng
cũng sẽ yên và mọi chuyện đều qua tuốt!... Phạm Duy Đức đầu trí với bản thân
mình, khác nào khi xưa Trạng Quỳnh đấu trí với Nhà Chúa?!...
Có thể
nói, Phạm Duy Đức đã chơi thơ và ông tự chủ được cuộc chơi này, Nhưng, với bệnh
tật thì lại khác, ông đã không chiến thắng được nó. Đúng ra, ông không thắng
được số mệnh để ở lại trần gian mà rong ruổi cùng cuộc chơi với thơ ca
...
Song tôi
nghĩ, người thân và bạn bè xứ Thanh, cùng bạn văn chương, có thể lựa chọn trong
vốn liếng thơ ca của ông, làm thành một tuyển tập thơ Phạm Duy Đức,
để những bài thơ ấy, không chỉ tồn tại ở không gian ảo. mà hiện hữu trong đời
sống dưới dạng ấn phẩm, đặng lưu giữ chút tình thơ Phạm Duy Đức gửi lại
?!...
Nữ bác sĩ mê văn chương
( Chân dung văn học bác sĩ Trương Thị
Mầu )
Vào chiều muộn ngày 30 tháng 4 năm 2020, trên trang
Facebook cá nhân, nữ bác sĩ người dân tộc Mường-Trương Thị Mầu, Giám đốc Phòng
khám đa khoa Lương Điền, huyện Bá Thước, tinh Thanh Hóa đã viết một tâm sự ngắn
như sau:
Lại một ngày như thế.
Lẽ ra hôm nay là ngày vui vẻ (30/4) gia
đình cũng tổ chức một bữa tiệc mừng ngày đất nước thống nhất. Kết thúc buổi
chiều chuẩn bị tắm gội và nghỉ ngơi thì “Bác ơi có bệnh nhân cấp cứu”-
một thanh niên bế một cô gái máu me bê bết đầy quần áo, mặt trắng bệch. Chợt
nghĩ hay bệnh nhân chửa ngoài tử cung. Siêu âm kỹ không phải, cô gái cam đoan
cháu không thể có bầu đâu bác ạ. Chắc là cháu xuống kinh nhiều nên choáng thôi,
Huyết áp tụt. Với trực giác có gì không ổn, “Để
bác khám sản cho cháu nhé”. “Cháu
không khám đâu, cũng không thể truyền dịch được vì lâu quá, cháu phải về vì chỉ
xin phép bố mẹ đi chơi một ngày thôi, cho cháu xin đơn thuốc về điều trị”. Mình cho tiêm trợ lực, cô ta vào nhà vệ
sinh bị xỉu luôn, cậu con trai bảo cứ truyền dịch cho cô ấy bác ạ. Đúng như tôi
dự đoán, cô bé bị chấn thương đường sinh dục rất phức tạp. Cậu con trai ấp úng “Chúng
cháu... lần đầu.. Bác ơi, bây giờ phải
chuyển tuyến hay làm sao bây giờ. Chúng cháu sợ quá”/ ”Bác sẽ khâu cho cháu, vì chuyển tuyến chỉ cần chảy thêm chút nữa
là kiệt máu chết đấy, bác sẽ tiêm giảm đau, tất nhiên vẫn đau nhưng chịu được.
Cháu có thể suýt xoa, khóc nhưng không được giãy giụa nghe chưa”. Vừa hồi sức vừa đánh vật, khẩu trang, mồ
hôi, kính mờ, mắt cay, hẹp, ánh sáng nhập nhoè, mình già thật rồi, gần 2h ba
bác cháu tôi mới hoàn thành ca phẫu thuật. Truyền gần 3 chai dịch, uống bịch
sữa cô ấy dần tỉnh táo trở lại, nhưng rất mệt mỏi, tôi lấy 2 lát sâm ngâm mật
ong cho cô ấy nhai rồi hỏi chuyện/ “Bác ơi có ảnh hưởng gì tới chuyện có
con sau này không”/ “Không, nhưng về
tâm lý thì cậu phải vượt qua một số chuyện”.
Thì ra cô ấy, 23 tuổi, tốt nghiệp đại học sư phạm văn, đang chờ việc, đi chơi
với người yêu. Mình bảo cô giáo gì mà bé thế, cô ấy bảo tại dạo này cháu bị áp
lực lo lắng xin việc, lo thi công chức, cô ấy sút 7kg từ 50kg còn 43kg. Lần đầu tiên đi
chơi xa với người yêu, hẹn cuối năm cưới.. Cậu
là người có học, lại học khoa văn mà thiếu kiến thức về kỹ năng sống thế sao.
Cả việc stress do chưa xin được việc nữa, mới 23 tuổi đầu. Rất nhiều người học
đại học đi xuất khẩu lao động, vào làm việc trong các công ty cậu biết không .
Trong lúc theo đuổi mục tiêu chính cậu cần phải trải nghiệm trong cuộc sống,
Thử làm bất việc gì miễn là kiếm ra tiền, đừng phạm pháp là được, thất bại cũng
không sao, cuộc sống sẽ dạy ta phải làm gì để tồn tai. “Bác nói chuyện thật thú vị”, cô ấy cười, cũng xinh. Rồi cô ấy nói: “ước gì cháu mạnh mẽ được
như bác. Hôm nay bác không chỉ cứu mạng cháu mà bác còn cho cháu hiểu ra nhiều
điều. Cám ơn bác rất nhiều”/”Điện
thoại của bác đây, cần gì hỏi sau, truyền xong chai dịch có thể về, không cần
cám ơn, đừng làm phiền bác, bác mệt rũ ra rồi”. Nhớ lại cách đây 3 năm cũng dịp 30/4 mình cũng xử lý một trường hợp
tương tự, chỉ có điều cô bé mới học lớp 11, còn hôm nay là một cô giáo. Buồn. Những ngày 30/4
không vui nhưng cũng không hề dễ quên chút nào..”.
Tôi
mở đầu câu chuyện về một bác sĩ mê văn chương lại bằng chính câu chuyện của
người bác sĩ đó về một chuyện không liên quan gì đến văn chương cả. Song tôi
nghĩ, ai đó đọc câu chuyện bác sĩ Trương Thị Mầu vừa kể đây, sẽ hiểu ý nghĩa và
giá trị nhân văn của nó, mà theo tôi, lý tưởng nghề nghiệp này đã khởi nguồn và
dẫn dắt nữ bác sĩ theo đuổi con đường văn chương như một phép tu thân dưỡng
tâm, tích đức, gột rửa tinh thần ?...
1. Bác sĩ, nhà thơ Trương Thị Mầu.
Sinh năm
1958, tuổi Mậu Tuất tại xứ Mường, chòm
Măng, Lương Ngoại, Bá Thước Thanh Hóa, Trương Thị Mầu những mong ước học hành
trở thành bác sĩ, để chữa bệnh cho bà con dân tộc Mường của mình. Theo học Y
Khoa Thái Bình, tốt nghiệp, nữ bác sĩ trẻ người Mường giữ đúng lời hứa với lòng
mình, trở về xứ Mường quê mình công tác. Năm tháng trôi qua, tận tụy công việc,
Trương Thị Mầu trở thành giám đốc Bệnh viên đa khoa Bá Thước và được phong danh
hiệu Bác sĩ ưu tú. Không an phận,
thấu hiểu việc chăm sóc sức khỏa cho người dân vùng núi xa xôi hẻo lánh là cần
thiết, khi nghir hưu, Trương Thị Mầu thành lập Phòng khám đa khoa Lương Điền
tại quê, tự mình làm giám đốc và bác sĩ trưởng, tiếp tục sự nghiệp khám chữa
bệnh cho người dân quê mình.
Sinh ra trong chiếc nôi văn hóa Mường,
thấm đãm bản sắc văn hóa dân tộc minh, Trương Thị Mầu yêu văn học và sáng tác
thơ văn, xem văn chương như thuốc dưỡng tâm, dưỡng đức cho nghề y và cuộc sống
của mình. Viết truyện, làm thơ như một cach ghi nhật ký. Cứ vậy, lâu ngày, tích
lại nên gia tài nho nhỏ và hơn thế, Trương Thị Mầu trở thành nhà thơ của xứ
Mường. Chị là hội viên Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Thanh Hóa, hội viên Hội
Liên hiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy có viết một
số truyện ngắn, truyện ký, song Trương Thị Mầu là một nhà thơ đúng nghĩa. Đến
nay, chị là tác giả của 5 tập thơ: Nghiêng (2006). Bóng núi (2007), Mùa
dậy sấm (2009), Người dưng (2012) và gần đây là Nương
bóng nhà sàn,
Đọc thơ Trương Thị Mầu, thấy sự nhất
quán, điều này có nghĩa, xuất thân và nghề nghiệp để dấu ấn đậm nét trong tho
ca,
2. Dấu ấn
nghề y trong thơ văn Trương Thị Mầu,
Mầu
chuyện tôi trích ở phần đầu bài viết này chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện
hàng ngày mà Trương Thị Mầu ghi chép lại. Trên cơ sở những câu chuyện có thật
rất chi sinh động ấy, chị chỉ cần lựa chọn, đẩy lên, gia công là thành truyện
ký, truyện ngắn. Khi cảm xúc dâng trào,
thì thành thơ.
Một, hai, ba...cố lên, tim đã hồi!
Nhanh nữa lên, một hai ba: thở rồi
Thở đi em, sâu vào, mạnh nữa
Cho không khí ùa vào bầu phổi...
Máu cỉa em đang hồng trở lại
Đôi môi em thắm dần thôi tím tái
Và mắt em chớp chớp mở choàng
Bài thơ “Thở đi em”nữ bác sĩ kể chuyện, Thấy
rõ, niềm vui vỡ òa sau một ca cấp cứu thành công, trào dâng thành câu chữ vần
điệu. Mộc mac như câu nói thường tình nhưng đầy cảm xúc. Nhung rồi, đâu có được
nghỉ ngơi để tận hưởng niềm vui:
Thày thuôc
nắm tay nhau cười... ứa lệ
Bình tĩnh lại đi tiếp tục ca mổ nhé,
Còn một sinh linh đang đợi chào đời...
Ngay
đó, người bác sĩ lại lao vào ca mới:
“Hãy đón lấy
đây, mooyj bé gái/ Nhanh nhanh lên lại ấn thở, bóp tim/ Thở đi con,/ Kìa,/Thở
đi con gái,/ Tiếng oa/ Vỡ òa.../ Thành ánh bình mình !”.
Lúc ấy, người bác sĩ mới cảm nhận được niềm hạnh phúc
vô bờ khi mình vừa đem sự sống đến cho người khác:
Hạnh phúc nào
hơn người thầy thuốc
như những
thiên thần được chắp cánh bay lên,
Để có những tâm sự nặng nỗi niềm nghề nghiệp trong thơ
văn của mình, Trương Thị Mầu đã gửi gắm ước mơ xanh từ ngày còn là sinh viên
trường y cùng thày bạn, trên giảng đường. khi thực tập va cả buổi đầu cuộc đời
bác sĩ của mình.
Chẳng
thể nào quên ca mổ đầu tiên
Thiếu
thuốc mê, thiếu người phụ mổ
Bệnh
nhân đau đứt đoạn từng hơi thở
Qua
khỏi rồi thầy thuốc khóc rồi...run.
Có
một thời dịch dã liên miên
Thầy
thuốc bệnh nhân sắt se nghèo đói
Mái
nhà tranh ánh đèn dầu le lói
Lửa
bập bùng xua lạnh lẽo đêm đông.
Dẫu có thế, đâu ngại khó ngại khổ, một
khi đã thề cả cuộc đời theo nghề y nặng lời thể Hypocrat:
Ai
nhớ ai quên một thời đã sống
Nước
sông đục ngầu đánh phèn, lọc, lặng
Pha
dịch truyền bằng muối biển đường ăn.
Mối
tình đầu rồi cũng lãng quên
Cuộc
sống ngặt nghèo lo âu toan tính,
Với
nghề y tôi là người lính
Mỗi
chặng qua rồi, tiếp tục hành quân.
(Ước mơ xanh)
Tôi
rất thích những tản văn bắt nguồn từ các chuyện thật trong công việc
nghề y hàng ngày của Trương Thị Mầu, chân thực, ưu tư, cảm động và nặng nhân
văn... (nhu Niềm vui có thật, Day dứt, Nhìn cái chết....). Trong tản văn Duy dứt, chị tâm sự rằng, hết thày
công việc trong quá trình hành nghề y của mình, chị không nề hà gì, song vẫn
thấy nản nhất là phải tư vấn hoặc tự tay giải quyết các ca “vỡ kế hoạch” (có thai ngoài ý muốn). Ngại và nản,
không đơn thuần công việc chuyên môn, mà vì tính
chất công việc, là do ý nghĩ đang làm cái chuyện “giết người có chủ đích”
có sự thỏa thuận đôi bên, đối tương và bác sĩ hành nghê. Kết thúc tản văn, chị
kể câu chuyện “Tối qua lại có một cô bé
mới 22 tuổi chưa chồng, được mẹ đưa đến khám vì đau bụng, hai mẹ con cười nói
ồn ào, khi SA mình phát hiện cô bé đã có thai 4 tháng, được thông báo cả 2 mẹ
con tròn mắt ngạc nhiên, sau phút sững sờ người mẹ chửi con, người con cãi mẹ
chuyện om xòm. Người mẹ hỏi là của thằng nào, người con bảo không nhớ chắc là
do con say rượu. Thế đấy. Cô bé nằng nặc đòi bỏ thai, người mẹ nài nỉ. Mình
thấy chán chường và mệt mỏi quá không buồn tư vấn hay giải thích gì nữa. Chỉ
nói: nếu còn muốn sống thì đưa cô bé đến bệnh viện phụ sản ở đó người ta sẽ nói
nên làm gì. Thấy mình quát to 2 mẹ con thôi cãi nhau lẳng lặng lên xe ra về.
Một trận mưa rào đổ xuống, lòng mình ướt sũng như mưa!..”.
Còn hơn sự day dút, ấy là “nhìn cái chết” mà chẳng thể làm gì, ngoài sự bất lực. “Nói đến cái chết thì ai cũng sợ, nhưng thực
chất là sợ cái gì thì lại không rạch ròi được. Có lẽ là sự cô đơn, lạnh và
không chia sẻ được cùng ai.Rồi thì trách nhiệm, bổn phận chưa hoàn thành, nào
là nuối tiếc vân vân và vân vân. Nhưng cũng thật kỳ lạ phải nói là kỳ diệu mới
phải, bài điếu văn nào thì người chết cũng tỏa sáng lung linh, những câu chữ
tốt đẹp nhất giành ca ngợi người chết. Đặc biệt các nhà văn nhà thơ chỉ thật sự
nổi tiếng khi đã chết rồi. Có những bản thảo khi còn sống đã gõ cửa khắp nơi
chẳng ai buồn đăng khi chết rồi chợt thành cái rất hay ho. Nên cái chết nhìn về
khía cạnh nào đó cũng mang lại điều kỳ diệu. Mọi người cũng nói nhiều đến việc
sống hướng thiện chết bình thản. Nhưng có lẽ quan sát nhiều cái chết nhất là
các bác sỹ khoa hồi sức cấp cứu còn gọi là khoa điều trị tích cực. Mình cũng
không nhớ hết được đã cứu được bao nhiêu người khỏi tay thần chết nhưng cũng
không nhớ hết được đã vuốt mắt đưa tiễn bao nhiêu người sang thế giới bên
kia...”. Chị đã viết vậy trong tản văn “Nhìn cái chết”. Có nhiều lần bất lực “nhìn cái chết” nhu vậy, bác sĩ Trương Thị Mầu mới thấy niềm vui khi
cứu sống được bệnh nhân nó lớn lao thế nào. “Đã 5 ngày trôi qua kể từ khi cấp cứu thành công ca bệnh nhân TTĐ 50
tuổi bị ngừng tim ngừng thở mình vẫn không tin được là bệnh nhân có thể qua
khỏi, sống được và tỉnh táo trở lại, thật kỳ diệu lắm thay. sáng 1/11/2013
phòng khám tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng ngừng thở, da vàng ệch, nghe
không thấy nhịp tim, đồng tử giãn căng.... Bọn mình đã khẩn trương cấp cứu, chỉ
trong vòng 1 phút tất cả các thao tác vừa bóp bóng trợ thở có o xy, ép tim
ngoài lồng ngực, bơm trực tiếp Adrenalin vào buồng tim, các động tác nhịp nhàng
chính xác và ăn ý, 2 phút sau tim đập trở lại, 5 phút sau sắc mặt dần hồng lên,
đúng 15 phút sau bệnh nhân dã tự thở được, 30 phút sau các chỉ số sống đã tương
đối ổn định,...”. Ở tản văn, “Niềm vui có thật”, nữ bác sĩ mở đầu
bằng câu chuyện có thật tại bệnh viện mình phụ trách. Và chị kêt tiếp câu
chuyện, khi bệnh nhân cần chuyển tiếp lên tuyến trên hỗ trợ sau cấp cứu ban
đầu, đúng lúc bệnh viện thiếu phương tiện, chị đã dùng xe riêng của mình, và
cũng chỉ dám hy vọng bênh nhân sống sót nhưng có thể sẽ phải sống cuộc đời thực
vật phần đời còn lại, không ngở, bệnh nhân đã hồi phục sau mấy ngày điều trị
tích cực. Niềm vui lan tỏa, chị tâm sự “Mình
thấy vui quá chừng. Từ khi về hưu chỉ có chuyên tâm đọc sách và chữa bệnh mình
thấy bàn tay mình như có hồn, trái tim mình hòa đồng với nỗi đau của người
bệnh, mình thấy cuộc sống đáng yêu quá. Ai nói về hưu thì không vui. Niềm vui
có thật và thật sự là vui!...”
3. Dấu vấn văn hóa Mường,
Gái bản Mường, mấy từ ấy thật gần với dáng vẻ, cử chỉ và cách nói năng, ứng
xử chân thành, mộc mạc của Trương Thị Mầu. Như cái cách người ta hay dẫn câu
thơ của Hàn Mặc Tử “người thơ phong vận
như thơ ấy”, Trương Thị Mầu là người mang chất Mường bẩm sinh, và chị cũng
đã mang được nét văn hõa Mường vài thơ ca mình.
Khác nhà thơ lớn tuổi cùng
quê xứ Mường với mình là Ma Bích, Trương Thị Mầu chưa hẳn nhăm nhăm chủ trương
thể hiện và bảo vệ bản sắc Mường một cách quyết liệt, song chất Mường sẵn có ở
con người chị, nên biểu hiện trong thơ một cách vô thức và cả ý thức nữa. Là
người xuất thân ở xứ Mường, nhưng công việc hàng ngày làm chị thoát ra khỏi xứ
Mường của mình, thêm bản tính quàng giao, đã làm nên con người Trương Thị Mầu.
Chất Mường không thật sâu đậm, nhưng cứ phảng phất đâu đó trong thơ chị, khiến
người ta nhận ra và không thể quên được.
Chất Mường ở đây, chưa thật
rạch ròi, song trước hết trong ngôn từ, cách diễn đạt tự thân mà có, rồi sau là
ý thức tìm kiếm và chủ định biểu đạt, từ lời ăn tiếng nói đến phong tục tập
quán vào thi ca...
Bài thơ Ảo ảnh, Trương Thị Mầu kể chuyện
tình Mường, song có lẽ, chị mượn cớ vậy để đánh thức người con gái Mường trong chính bản thân mình:
Tôi
đi tìm em , cô gái Mường ơi
Đôi
mắt nâu ẩn hiện sau vòm lá
Tìm
về bến xưa nơi con đò già mơ ngủ
Đập
nước đã dâng đầy sóng đuổi sóng lao xao.
Một em gái bản Mường chính
hiệu “cô em gái khéo tay/ đánh cồng, dệt lụa, vá may thêu thùa..” mà từ lúc
còn nhỏ, rời bản đi học trường xa,
nhưng đã vượt khó :Thương nhau từng bữa
cơm nghèo/ Canh môn, rau sắn cheo leo bản Mường...” ước một ngày kia có
kiến thức cao, giúp bản ích đời,...
Bài thơ Thượng
du là một bài đậm nét Mường:
Nhớ
em ngược lại Cành Nàng
Nhớ
luồng Thiết Kế nhớ vàng Lũng Cao
Tìm
em em ở nơi nao
Có
thương chọn hộ cành Đào làng Son
Chọn
thêm đôi vịt phố Đòn
Mùa
Xuân trẩy hội tung còn Mường Khô
Nhớ
hè cùng tắm thác Mơ
Lưng
ong váy thắm bây giờ ở đâu.
Lung
linh bóng nước soi cầu
Nhớ
thuyền độc mộc nhớ câu phiền lòng
"Nhất Suội, nhì Cả, ba Long"
Nhớ
người năm cũ gò lưng chống bè
Xưa
rồi một bến sông quê
Bức
tranh cổ tích theo về mai sau...
Và bài thơ Mường Ống cũng là một bài
như vậy:
“Ngoảnh mặt lên Mường trên
Thấy bà Da Dần phân năm phân tháng
Bà gánh xường đi bán
Qua Mường Ống đứt quai
Qua Mường Ai đứt gánh
Để gái Mường trên giỏi xường
Trai
Mường dưới giỏi mo...
Về Mường Ống một lần đi anh
Cùng em tìm lại vết tích cây Chu đá
Có còn không những lá Chu đồng
Trên đồi Lai Li Lai Láng
Mây trắng ngút ngàn Pù Luông xanh...”
Kể
lể vậy, cũng chỉ để nuốn khoe xứ Mường quê mình”
“Chỉ muốn anh cảm nhận
Có một xứ Mường trăm mến ngàn thương...”
Còn trong bài thơ “Phố
huyện”, Trương Thị Mầu ý thúc trước sư nhạt phai chất Mường trong hiện
thực đời sống xã hội khi mà làng bản Mường mình đổi thay trong cơn lốc đô thị
hóa, diện mạo thì “nửa làng nửa phố”, còn con người thì “nửa tỉnh nửa quê”: “Cô kia gái
bản chưa chồng/ Nay đi trên phố tay bồng nách mang/ Con đường phố rộng thênh
thang/ Có còn nhớ bản nhớ làng suối xa?” Liệu có còn không cái tình cái nghĩa, và cách ứng xử chan hòa gần gũi
mộc mạc của dân tộc mình, khi mà cố niu giữ: “Sau nhà vẫn bụi trầu cay/ Trước hiên vẫn cái
điếu cày cây cau/ Mưu sinh còn lắm cơ cầu/Vẫn không quên nếp trước sau của
làng”?
Thương nhất, bài thơ Bà ơi, lá rụng về nguôn.
là lời tạ lỗi trước mộ bà, vì mình chẳng thể níu giữ Mường lại cho bà,
“Trời mênh mang nước mênh mông
Ngổn ngang con với cánh đồng tuổi thơ
Vẫn dòng sông của ngày xưa
Nấm mồ đằng đãi nắng mưa của bà
Tưởng như còn đó chưa xa
Bà đang
đánh chuyện Nàng Nga Nàng Ờm
Lom khom thổi cái nùn rơm
Nướng ngô lùi sắn đồ cơm xứ Mường
Lưng còng vác nước ống bương
Bờ sông dốc đứng con đường tuột trơn.
Khói hương tỏa bóng chập chờn
Con như một kẻ vô ơn với bà...:”
Chỉ cần để ý tên các tập thơ của Trương Thị Mầu thôi,
trong 5 tập đã xuất bản, thì có đến 3 tập (Bóng núi, Mùa dậy sấm và Níu bóng nhà sàn)
biểu hiện ý thức bảo tồn không gian văn hóa dân tộc của chị. Nếu như thời mới
làm thơ (Bóng núi, Mùa dậy sấm), dấu ấn văn hóa Mường còn chưa sâu đậm
và ít nhiều mang tính vô thức, thì đến Níu bóng nhà sàn, tâm thức hướng về
cội nguồn dân tộc và nỗi nềm một ngày kia, bản sắc văn hóa Mường trong cộng
đồng dần phai nhạt, đã dồn tụ, biều hiện thành ý tú, câu chữ, thông điệp...
Trước tiên là ký ức tuổi thơ ở bàn: “Trải
bao nắng sớm chiều tà/ Đất còn in dấu chân ta thuở nào /Khúc này xúc hến mò
nga/ oBờ kia nhặt lá ép vào trang thơ...” (Dòng sông tuổi thơ); Rồi đến thứ văn hóa vật thể là cái nhà
sàn Mường ở bản từng mấy đời gia đình chung sống nay sắp bị phá bỏ để xay cái
nhà lầu kiểu phố: “Trưa vóng Đông cha
ngồi đan lưới/ Chiều vóng Ngang mế ngồi dệt cửi,/ Đèn con vịt thơm thơm dầu
bưởi/ Tiếng thoi đều đều, tiếng mế nhẹ êm/ Bà Dạ Dần hiện trong giấc ngủ hằng
đêm....”(Níu bóng nhà sàn). Rồi trách cứ các em sống ở bản mà không giữ
nối căn nhà sàn của cha mẹ để lai “Giận
các em sao lại bán nhà sàn/ Xây nhà hai tầng dưới chân núi Khú/ Ngày khánh
thành đông hơn ngày họp họ/ Buồn một mình ký ức dở từng trang..: Cố mà
không giữ được, níu cũng chẳng thể, thì chỉ còn tự xoa dịu, an ủi lòng mình
bằng nỗi nhớ mà thôi ”Tôi lớn lên giữa
chiều rộng chiều dài/ Biển Bắc trời Nam, biển người, ngơ ngác/ Như con nai lạc
rừng xao xác/ Níu bóng nhà xưa tôi nhớ lối quay về...” (Níu
bóng nhà sàn)....
Tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ Trương Thị
Mầu, còn khá nhiều câu chữ, ý tứ mang chất Mường, nhưng chị không phải là người
nệ cổ, cứ khư khư níu giữ, hay đau đáu nỗi niềm về chất Mường phôi pha trong
đời sống xã hội hiện đại. Trương Thị Mầu là người có kiến thức và trải đời, nên
đã biết thoát ra, vươn đến những giá trị khác từ sự phát triển mang tính tất
yếu.
Có những điều bình thường giản dị, song
có khi người ta phải đi gần hết cõi con người mới nhận ra, Trương Thị Mầu cũng
vậy.
“Nhưng chắc chắn ta chính là sự sống
Con của mẹ mình cháu của ông ta
Là cha mẹ của con mình sinh ra
Là cụ kỵ của đời đời cháu chắt
Không thể khác chẳng bao giờ kết thúc.
Cội nguồn ơi xin một chốn đi về...” (Điều bất tử)
Hay như, trong các bài Nghỉ
hưu và Người đàn bà sáu mươi tuổi, Trương Thi Mầu ngộ ra rằng:
Ồ thảnh thơi
Qua
chặng đường khó nhọc
Buồn
gì đâu
Có
ai hát khải hoàn... ...
Từng
chặng một
Cứ
mải mê leo núi
Chiếu
nghỉ dài
Thôi
thả sức nghỉ chân.
Sau
lưng mình
Khép
lại những phù vân. (Nghỉ hưu)
“Người đàn bà sáu mươi tuổi tư duy bằng
trực giác
Thấy rõ ràng cái điều xưa học mãi không hiểu,
Trong vô thức có một ước mơ cưa quậy
Một con đường như lộ dần nét vẽ
Một niềm tin dồn nén sáu mươi năm
Một hiện sinh tự nó đã nảy mầm.
Người đàn bà sáu mươi lại quẩy gánh lên
vai
bước tiếp..” (Người đàn bà sáu mươi tuổi)
Điều ấy, khiến chị khác với nhà thơ Ma
Bích, một nhà thơ của bản làng đậm đặc chất Mường. Và cùng với Ma Bích, Trương
Thị Mầu đã thêm tiếng nói Mường, góp phần đưa chất Mường trong thi ca vượt ra
khỏi vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, làm nên sự phong phú nghệ thuật của các dân
tộc thiểu số Việt Nam. ./.
Nhả
báo Trịnh Bá Ninh &
căn
phòng ở P16 Thụy Khuê
1.
Căn phòng ấy
rộng vừa 9 m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của
Bộ Nông nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày
xưa”, nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện
của ngày xưa !...
Căn phòng rộng vừa 9
m2 ấy là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.
Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều lần nhắc đến tên anh,
trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên nhắc lại đôi chút, để bạn
đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba người, nhà thơ Trần Đăng
Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời phổ thông với nhau, lứa
học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ (1972-1975).
Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3 Nam Sách (Hải Dương),
cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương (cũ)
để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng
4.1975), thì có thêm tôi, và Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số
người khác nữa. Sau này, thân thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4
người (Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh-Nguyễn Chu Nhạc- Nguyễn Việt An).
Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập
thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá
Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của
tỉnh Hải Hưng (cũ), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở
về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến
dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại
thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo
học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang
công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân
bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo
Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên
nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua
nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên
giới Tây Nam, giải phóng Campuhia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.
Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ
đô và công việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu
dạt phương xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để
ba chúng tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.
Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó,
Trịnh Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu,
mặc thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các
bộ ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc
gia đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan.
Vẫn không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá
Ninh cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời
gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2
trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang
nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn
phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa,
ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế
nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì
thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy
bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ
thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành
chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách
cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng
sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc
xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy
rồi.
Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của
khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy
Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy
Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập
thể của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là
kiến trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là
chuồng nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời
Tây, đầu thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên
P16 Thụy Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ
Nông nghiệp đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu
P16 Thụy Khuê làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.
Cơ ngơi vừa 9
m2, ấy là cơ đồ giang sơn của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh
ở với nhau thì đâu có gì đáng nói. Cái chính, đây là nơi đi lại, tá túc của
không biết bao nhiêu người thân và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng anh
em ruột thịt thì đủ hai bên quê, nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương),
nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây); bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng
Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông
nghiệp … thêm bạn bè của M cũng lắm. Có những ngày cao điểm, căn phòng 9 ấy (9
mét vuông), người ngủ đêm, trên giường dưới nền vừa đúng 9 người, bình quân
mặt bằng, 1 người/1 m2, và để bớt ngột ngạt, đủ dưỡng khí cho từng ấy con người
hít thở, cửa ra vào mở toang. Mở của như vậy, hoàn toàn yên tâm, không sợ trộm,
bời vì, khu P16 an ninh tốt, nếu có trộm vào nhà, kiểu gì cũng đụng chạm vào
người, và cuối cùng, trộm có khéo đến mức không đụng chạm vào ai thì trong nhà
cũng chẳng có gì mà lấy... Có vê hài hước, nhưng sự thực là vậy...
Nhân sự thưởng xuyên hay thi thoảng tá túc căn phòng 9 của
vợ chồng nhà báo Trịnh Bá Ninh cũng đáng nể lắm. Nổi tiếng và đáng nể nhất là
nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cặp đôi bạn bè Nình-Khoa có chút đặc biệt
thân tình hơn người khác chút, ở chỗ, cùng quê Nam Sách (Hải Dương);
cùng học Trưởng cấp 3 Nam Sách (tuy khác lớp); và cùng Đội tuyển học
sinh giỏi Văn tình Hải Hưng (cũ) thi Kỳ thi học sinh giỏi lớp 10 (hệ
10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975). Trần Đăng Khoa vốn nổi tiếng,
anh quan hệ rộng và có khá nhiều người quen ở Hà Nội, và thế, anh có nhiều nơi
chốn để lui tới, mỗi khi anh về Hà Nội, tuy nhiên, đến đâu thì anh cũng phải
giữ kẽ, thậm chí, phải diễn chút, song khi về căn phòng 9 ấy,
anh hoàn toàn tự do, tự nhiên như anh là chủ vậy, ăn uống, ngả ngốn, kềnh cang,
buôn chuyện, "hồn nhiên như cô tiên"... Vi thế, mà có cả một quàng
thời gian dài, dù là đi chiến trường C, dù vê Hải Quân, hay sau này đi học tại
Đại học Gorky (Liên Xô), thì mỗi khi đặt chân về Hà Nội, căn phòng 9 của Trịnh
Bá Ninh cũng coi như "giang sơn" của Trần Đăng Khoa vậy.
Lui tới đây thường xuyên, cũng phải kể đến, nhà báo
Nguyễn Sĩ Bình (nguyên Phó Cơ quan đại diện báo Quân Đội nhân dân tại Tp. Hồ
Chí Minh, vốn quen biết với tôi và Trịnh Bá Ninh từ thời cùng học ở Đại học
Nông nghiệp 1 Hà Nội). Cùng ở báo Quân Đội nhân dân, hay lui tới căn phòng
9 ấy, có nhà thơ Mai Nam Thắng và Nguyễn Đình Xuân. Với Nguyễn Đình Xuân, khi
mới về nhận công tác tại Báo QĐND và tập tọng làm thơ, vốn quê Nam Sách với
Trịnh Bá Ninh, vào cuối tuần Nguyễn Đình Xuân thường đến căn phòng 9, chuyện
thơ phú, gửi bài cộng tác, rồi lân la làm quen với cô con gái mới lớn xinh xắn
của vị hàng xóm chung vách với căn phòng 9, và trở thành con rể của vị hàng xóm
này. Nói vui, thật "lãi mẹ đẻ lãi
con"...
Ngày ấy, những chàng trai chưa vợ, nói chung, đều
ước muốn có được một tổ ấm bé nhỏ như thế, vậy nên, lui tới đây, để có được một
chút cảm giác yên ổn, ấm áp gia đình. Những Trần Đăng Khoa, Mai Nam Thắng,
Nguyễn Đình Xuân và tôi là khách thường xuyên của căn phòng này. Và đã là
khách, thì cơm nước, rượu chè, thậm chí ngủ lại là chuyện thường. Vợ chống công
chức, lương ba cọc ba đồng của thời bao cấp, lo đủ ăn đã vất vả rồi, lại thêm
đám khách thường xuyên không mời mà đến như cánh anh em bạn bè độc thân chúng
tôi, không lo sao được. Ấy vậy mà, Trịnh Bá Ninh xem như không có gì, còn Mai,
vợ anh, thì lúc nào cũng tươi như hoa, có khách đến nhà là quý... Cỡm bữa,
ngoài rau dưa, có hai món thường trực, ấy là lạc rang và đậu rán. Lạc rang, nghề
nông nghiệp, xem như món "nhà giồng được". Gọi vậy cho vui, chứ thực
ra, để có lạc, Mai phải nhận lạc củ về bóc vỏ, trả nhân, phần dôi ra thì để làm
thực phẩm chính. Tiện cái, lạc nhân để cả vỏ lụa rang mặn để ăn cơm, còn khi có
khách, lạc nhân rang lên, thề là có đồ nhắm, đưa cay đôi ba chén rượu quốc lủi.
Thi thoảng, có trứng và cá. Cá mua tem phiếu, toàn cá biển, cá nục ướp là nhất
rồi, còn lại toàn cá đồng tiên, thân mỏng toàn xương, nhưng kho nồi áp xuất,
nhừ xương, chịu khó nhai kỹ, cũng bùi và ngon đáo để. Đại loại vậy. Gần như bữa
cơm tối nào, nhà cũng có khách. Sau này, để thêm thắt thu nhập, Mai nuôi gà
công nghiệp, và thế, Ninh lại phải vận dụng mối quan hệ, nhờ cậy, mua được ít
cám gà. Đã có lần, thức ăn cho gà hết, Ninh bận đi công tác, nhờ tôi cầm giấy
giới thiệu đi nhận cám gà thay anh...
Những năm tháng ấy, thiếu thốn và nghèo, nhưng mà
vui, thứ giàu có nhất, là tình người. Tôi là người qua lại và tá túc ở đấy
nhiều nhất, nên thấu hiểu điều đó. Thời kỳ tôi còn công tác ở Bảy Núi, An Giang,
hầu như năm nào cùng đi phép, qua lại đây thường xuyên. Không những tá túc, ăn
nhờ ở đậu nơi căn phòng 9 ấy, Trịnh Bá Ninh còn động viên và giúp tôi viết bài
cộng tác các báo, anh còn đưa tôi đi gặp gỡ, làm quen với một số nhà báo, nhà
văn đã thành danh, đặng đưa tôi vào bầu không khí báo chí, văn chương để tôi
lấy đó mà cố gắng, không bỏ cuộc. Kể cả khi tôi đã xin được về Đài Tiếng nói
Việt Nam làm báo chuyên nghiệp, thì cảnh nằm bàn cũng ái ngại làm sao. Vậy nên,
qua lại đây, vẫn luôn cho tôi cảm giác tin cậy và ấm cúng gia đình. Tôi biết ơn
vợ chồng anh vì tất thảy những gì họ làm cho tôi... Trịnh Bá Ninh có bản tinh
hài hước, nên ảm giác, chẳng khó khăn nào là quá sức anh, chẳng có gì là không
thể vượt qua. Giờ nghĩ lại những bữa cơm đạm bạc, nhớ lại những câu nói hài
hước của Trịnh Bá Ninh, mà anh bạn Việt An hay lấy ra đùa, "nhà chật có
cái hay, mình cứ ngồi giữa nhà, quờ tay ra là lấy được mọi thứ", mỗi khi
nhắc đến thời gian khó ấy, tôi lại rân rấn nước mắt...
Cùng hay qua lại căn phòng 9 ấy, còn có Nguyễn Tuấn
Phong (hiện là Phó trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương), rồi PSG.Ts Nguyễn Hữu
Sơn (Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam), PGS. Ts Trịnh Bá Đĩnh (Viện Văn
học VN), anh ruột của Trịnh Bá Ninh. Ngoài ra, tôi còn loàng thoáng gặp những
người yêu văn chương, tập tọng viết lách lai vãng ở căn phòng này, mà sau này
họ đều trờ thành Hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam như Đặng Vương Hưng, Nguyễn Thanh Vân... Giờ đây, mỗi khi chúng tôi ngồi với nhau, lúc
trà dư tửu hậu, khi nhiều người đã thành danh và cao tuổi cả rồi, hay nhắc lại
"chuyện ngày xưa" thì hầu như, chuyện về căn phòng 9m2 ở P16 Thụy
Khuê ấy luôn là trung tâm của mọi cầu chuyện. Tôi biết, còn có một vài người,
ngày ấy, khi họ mới tập tọng báo chí, văn chương, nhưng ở tỉnh lẻ, mỗi khi về
thủ đô, cũng ghé thăm và tá túc nơi căn phòng đó, nhưng sau này, đã thành danh,
giàu có ở Hà Nội, họ đã quên chuyện về căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, và lẽ dĩ
nhiên, cũng "quên" cả chủ
nhân của nó. Chuyện đời là vậy, chẳng trách mà làm gì, nhưng chạnh buồn!... Có
lần, chỉ hai người với nhau, tôi nhắc đến vài cái tên đó, Trịnh Bá Ninh phảy
tay, cười bảo: "Ông vẫn còn nhớ à?
Tôi thì quên lâu rồi ông ơi... Nhớ chả để làm gì...". Ừ, cứ quên như
vậy mà lại hay!...
Có một chuyện, anh bạn Việt An định cư ở thành phố
Hổ Chí Minh, không biết đã từng ghé căn phòng 9 ấy chưa, hay chỉ nghe kể, cứ
đùa rằng: "Căn phòng như vậy, lúc nào cũng đông người tá túc, thế mà không
hiểu vợ chồng nhà này, loay hoay thế nào vẫn đẻ được cậu con trai bụ mẫm, khỏe
mạnh". Là đùa vui, nghĩ cũng thấy hay hay, cu cậu bụ mẫm ấy, nay đã là
tiến sĩ dược học đang làm việc ở Mỹ, và nghe đâu, đề tài nghiên cứu khoa học mà
cậu ta tham gia là thuốc chữa HIV.
Căn phòng 9 m2 ấy, dường như ám ảnh và theo đuổi Trịnh Bá
Ninh mãi, bởi sau dăm, bảy năm ở đây, anh đổi nhà, chuyển nhượng lại cho một
cặp vợ chồng già hưu trí, mua một căn hộ khác nằm sâu tận cùng một ngõ hẹp tối
om ở phố Nguyễn Khuyến, và thật trùng hợp, căn hộ này diện tích mặt bằng cũng
chừng 9 m2 thôi, nhưng bù lại, nó được chồng 3 tầng, vị chi tổng diện tích dưới
ba chục mét vuông... Lại thêm một lần chuyển đổi nữa, nhà mới rộng. Nhưng khi
nhà rộng, lại chỉ có hai vợ chồng hưu với nhau, bởi cả hai đứa con cùng nghiên
cứu và du học ở Mỹ. Thêm nữa nhà rộng thì khách lại thưa, bởi vì giờ đây, bạn
bè, người thân, ai cũng có nhà cửa và gia đình riêng của mình. Thu xếp mãi, may
ra, năm chỉ một đôi lần đến nhà nhau ăn cơm... Ăn uống, tiệc tùng gì thì mời
nhau ra quán...
Căn phòng 9 m2 ở P16 Thụy Khuê, cùng với những vị
khách không mời mà đến ngày ấy, đã là quá khứ. Dù chưa lâu, song xem như đã
thành chuyện cổ tích !?...
2.
Tự
thân yêu văn chương, lại là người làm báo, thậm chí có hơn hai chục năm làm
quản lý báo chí, và bạn bè lui tới, vây quanh toàn là dân văn chương cả, chẳng
lẽ, Trịnh Bá Ninh không viết lách gì, là nói riêng về khía cạnh văn chương mà
thôi ?
Nói
như vậy, là vì mọi người chưa từng thấy Trịnh Bá Ninh công bố tác phẩm văn học
nào của mình, hay như, bạn bè bàn luận gì về một tác phẩm văn chương nào của anh...
Ngay
từ năm 1975, khi mấy đứa chúng tôi ở Lớp Bồi dưỡng học sinh giỏi văn của tỉnh
Hải Hưng (Trần Đăng Khoa, Nguyễn Chu
Nhạc, Nguyễn Việt An và Trịnh Bá Ninh) hay chuyện trò về văn chương với
nhau, đọc cho nhau nghe những sáng tác mới của mình, Trịnh Bá Ninh, ngoài việc
thuộc khá nhiều thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ,
Xuân Quỳnh ... thì anh còn đọc thơ của mình. Giờ tôi còn nhớ, ngày ấy, anh có
bài thơ Viên gạch ra lò mà Trần Đăng
Khoa rất khen bởi ý tứ hay. Được biết, sau đó bài thơ này của Trịnh Bá Ninh
được lựa chọn vào Tuyển tập thơ của
tỉnh Hài Hưng (cũ). Hồi đó, như thế là vinh dự lắm rồi. Sau này, trừ Trần Đăng
Khoa đã thành danh, nổi tiếng thế giới, vào bộ đội và theo duổi sự nghiệp sáng
tác văn học, thì mấy đứa chúng tôi chẳng ai theo học chuyên ngành về văn học
cả, mà toàn học chuyên ngành kỹ thuật, Nguyễn Việt An học Cơ điện, tôi và Trịnh
Bá Ninh học Nông nghiệp, nên có yêu văn chương đi chăng nữa thì cũng chỉ sáng
tác nhì nhằng cho vui thôi.
Ngay
từ thời học sinh, sinh viên, Trịnh Bá Ninh đã thích thơ mang tính triết lý, đấy
cũng là lý do để thấy, anh yêu thích thơ Chế Lan Viên hơn thơ Xuân Diệu, Huy
Cận, Tố Hữu. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên dài, có tính triết luận, khó đọc,
khó nhớ, vậy mà Trịnh Bá Ninh thuộc lòng, đọc vanh vách. Ngày ấy, các nhà thơ
trẻ mới nổi như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Hoàng
Nhuận Cầm ... thì Trịnh Bá Nình cũng thích và thuộc khá nhiều bài, nhiều câu
thơ hay của nhứng nhà thơ này. Có cảm giác, Trịnh Bá Ninh thích tính triết lý
trong thơ, song không phải sự triết lý khô cứng hay trúc trắc, mà phải ẩn giấu
trong những câu thơ giàu hình ảnh, sự liên tưởng và nhạc điệu...
Yêu
thơ, nhưng sớm bước vào nghề báo, ngay từ khi tốt nhiệp đại học, năm 1981,
Trịnh Bá Ninh đã về đầu quân cho tờ báo của Bộ Nông nghiệp, nên anh phải làm
công việc của một phóng viên, nghĩa chuyên viết về tài nông nghiệp, nông dân và
nông thôn (Tam nông). Có lẽ, một tâm
hồn nhạy cảm, yêu thơ và công việc làm báo đã pha trộn, kết hợp lại trong anh,
để Trịnh Bá Ninh chọn một thể loại nửa văn nửa báo, ấy là bút ký và ghi chép.
Anh tỏ ra rất mạnh về thể loại này. Chính vì thế, Trịnh Bá Ninh đã vài lần đoạt
giải cao cuộc thi bút ký do Báo Văn nghệ, bào Tiền phong và Đài Tiếng nói Việt
Nam tổ chức. Tiếc là, Trịnh Bá Ninh sớm làm công tác quản lý, nên bận bịu với
việc tổ chức tòa soạn và biên tập bài vở nên ít dành thời gian cho viết lách.
Anh trở thành vị Phó Tổng biên tập của tờ báo ở vào thời điểm được bổ nhiệm là
trẻ nhất làng báo Việt, và giữ chúc vụ ấy suốt 24 năm, cho đến lúc nghỉ hưu.
Người như anh, cũng là hiếm có, 36 năm làm báo trong đó có 24 năm là Phó Tổng
biên tập và chỉ ở một tờ báo, từ lúc bước chân vào nghề, cho đến khi nghỉ hưu.
Thực ra, Trịnh Bá Ninh đã từng có thời điểm, muốn rời bỏ tờ báo Nông nghiệp,
không phải anh không yêu tờ báo này, mà cũng chẳng phải anh chán mảng đề tài Tam nông, để chuyển công tác sang Ban
Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài
TNVN), bởi anh muốn thử sức mình trong lĩnh vực văn chương, mà anh yêu thích
và thực sự có năng khiếu. Thế nhưng. nghiệp đời không cho anh cơ hội ấy, nghĩa
công việc văn chương và báo chí chuyên về văn học nghệ thuật. Tôi nhớ, ngày ấy,
Ban lãnh đạo Ban biên tập Văn học nghệ thuật Đài TNVN (Ban VHNT) là các nhà thơ Trần Nhật Lam. Trần Mạnh Thường, Lê Đình
Cánh và nhà văn Trần Nguyên Vấn đã rất khoái Trịnh Bá Ninh và nhất quyết nhận
anh về đầu quân. Nghĩ rằng, Trịnh Bá Ninh sẽ có một bước ngoặt
trong cuộc đời, ai dè, đúng vào thời điểm ấy, một tình huống mới nảy sinh. Ây
là, một nữ giáo viên, người chuyên sáng tác thơ thiếu nhi, từng có nhiều năm là
cộng tác viên của chương trình phát thanh Văn học thiếu nhi, sau khi bỏ nghề
giáo để theo học Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp trường này, bày tỏ ý
muốn được về công tác tại Ban VHNT Đài TNVN. Một tình thế khó xử. Biết chuyện,
Trịnh Bá Ninh chủ động đặt vấn đề nhường chỗ, tức là nhường suất biên chế duy
nhất được phân bổ của Ban VHNT, về phần mình chờ dịp sau... Và thế là, câu
chuyện bị chuyển sang một hướng khác. Trong lúc chờ suất biên chế tiếp theo của
Ban VHNT nhà Đài thì Trịnh Bá Ninh được tín nhiệm bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng
biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam và trở thành vị lãnh đạo trẻ nhất làng báo
Việt ở vào thời điểm ấy. Và rồi, ở cương vị mới, Trịnh Bá Ninh lại phải tập trung
trí tuệ, sức lực khẳng định mình. Và hơn thế, anh muốn cống hiến cho sự nghiệp
phát triển Tam nông, mà anh hằng mong
muốn. Chằng thế mà, người ta đồn là, anh đã từng thẳng thừng trả lời câu hỏi
của một vị lãnh đạo Bộ chủ quản “Báo của
Bộ lại cứ toàn đăng bài viết đánh Bộ mình là sao?”, khi anh chỉ đạo điều
tra và đăng nhiều loạt bài chỉ rõ sự yếu kém trong công tác quản lý một số lĩnh
vực thuộc Bộ-“Thưa đồng chí, báo nêu ra
cái sai là để sửa... Tôi nghĩ, cần phải đặt quyền lợi của người nông dân lên cao
hơn ạ...”. Đại khái thế. Có người bảo, phải chăng tính cương trực và sự
quyết liệt chống lại cái sai trong lĩnh vực quản lý ngành chủ quan, mà anh
không được vài ba vị lãnh đạo ưa, nên không thể lên đến cương vị lãnh đạo cao
nhất của tờ báo? Đây chỉ là suy đoán, nhưng theo tôi, Trịnh Bá Ninh đã ứng xử
đúng và anh đáng nhận được sự nể trọng của đồng nghiệp và hơn cả là bà con nông
dân...
Quan
trọng hơn, cho đến thời điểm này, tờ báo mà Trịnh Bá Ninh từng có 23 năm làm
Phó Tổng biên tập phụ trách nội dung, và ông cũng đã về nghỉ hưu dăm năm nay,
đã có một ê-kóp lãnh đạo mới thay thế, trẻ hơn, tràn đầy nhiệt huyết, thì họ
đều là những phóng viên thuộc cấp của Trịnh Bá Ninh, được ông dìu dắt một
thời.... Sự ảnh hưởng của ông là rất hớn, có lẽ vậy, mà hiện nay, tờ báo này
vẫn mang dáng dấp phong cách làm báo của ông,...
Nghỉ quản lý, Trịnh Bá
Ninh không làm báo viết nữa. Ông chuyển sang làm báo hình, tham gia hội đồng tư
vấn, thẩm định chương trình cho vài công ty truyền thông, và lên sóng giữ mực
cho một kênh truyền hình. Lâu lâu, nhân nha đăng bài thơ trân trang cá nhân
Facebook của mình...
3.
Tôi biết, nhiều năm nay,
Trịnh Bá Ninh vẫn làm thơ, song ông không công bó trên báo chí hay xuất bản
thành tập. Những bài thơ đó, vẫn năm đâu đó trong sổ tay, liwi trữ của bàn bè.
Hoặc tháng, khi vui buồn lúc trà dư tửu hậu cùng mọi người, ông đọc ra như một
sự trải lòng,...
Một số bài thơ của Trịnh Bá Ninh mà tôi và
bàn văn chương thích:
Tuổi
hai mươi hãy yêu đi đừng đợi,
Trái cây rơi gõ xuống mặt thềm
Gõ vào tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi
Bạn đã yêu ở tuổi hai mươi. Khát khao, sôi
nổi.
Ở tuổi hai mươi, nhìn vào mắt người con gái
Ngọn lửa cháy lên thành tiếng gọi
Tuổi hai mươi. Hãy yêu đi. Đừng đợi.
Và bạn đã yêu với cả cuộc đời mình.
Tuổi hai mươi trong lành như tia nắng ban mai
Mỏng mềm như chiếc lá mùa xuân
Và tình yêu như cơn gió thổi dọc cánh đồng.
Tuổi hai mươi, hãy yêu đi, đừng đợi
Lần đầu bạn yêu và thất vọng
Người con gái quay lưng với tình yêu tuổi hai
mươi của bạn
Bạn chưa biết lo toan và gánh vác cuộc đời
Chỉ biết khát khao yêu đến vụng về ở cái tuổi
hai mươi.
(1977)
Lời
dặn bạn lúc chia xa
Tất cả sẽ lùi xa, bạn ơi
Những câu hỏi chẳng bao giờ mình hỏi
Để day dứt người đi,
và cả người ở lại,
Vẫn những cơn gió vô tình ấm áp suốt đời ta.
Sẽ chẳng có gì níu lại nữa, bạn ơi
Lá cây rụng trả màu vàng cho đất
Ngôi sao lặn cho bình minh tỉnh giấc
( Nhưng có cái mất đi chẳng để lại chút gì ).
Bạn chẳng giữ trong lòng những sắc màu lóng lánh lúc ra đi,
Hạt giống vỏ dày nhiều năm mới mọc
Chùm quả trái mùa dẫu nhiều vị chát
Mình vẫn nếm say sưa như chưa có bao giờ.
Đấy là những điều,
mình nói lúc chia xa.
(1981)
Dặn
con,
Còn mình con trong ngôi nhà vắng
Nhớ khóc to lên cho nỗi sợ bốc hơi
Sẽ thấy bà tiên của muôn đời
Với đôi cánh diệu kỳ bà che chở con,
bay qua những vương triều vàng son và tàn lụi
Nơi những chiếc bánh ngọt là của phù thủy
Và bình nước lã sẽ biến một ông già ăn xin trên
đường
thành người xoa dịu nỗi đau
Nhưng không thấy bóng hình mẹ cha đâu
Sáng: dậy sớm mang theo " cặp lồng "
Chiều: tính nhẩm tháng thừa hay thiếu.
Bạn bè cha đi qua chiến tranh
Đã bội thực vì món ăn cổ tích
( Sắc đẹp là yêu tinh
Rách rưới là thiên thần )
Cứ tin thế, những người không về nữa
Nhoi nhói cỏ sắc dưới chân
Những trái tim vùi trong đất đen
Không gõ nhịp vào tương lai
Để làm thành cổ tích.
(2. 1989)
Mẹ ( Tâm sự Thị
Màu )
Cha con là ai ?
Cha con làm gì ?
Câu hỏi ấy mẹ mang vào ruột đất
Một mình con ngơ ngác
Trước bụi tre ngà đang nghiến răng.
Mẹ ơi !
Con không muốn sinh ra dưới dấu chân thiên thần
Để một ngày kia ôm ngựa sắt
Bay lên trời
Xa mẹ.
(6.1990)
Đò trăng
Ta trở về đông
đã cuối mùa đi
Xuân mới
chớm bến chiều quê hoang vắng
Gió vẫn
thổi , hàng tre gà gật ngủ
Hoàng hôn đời buông xuống một đò trăng.
(07.2.2020)
Côn Sơn cảm tác,
Gió mơ hồ vuốt năm tháng xa xăm
Vườn cổ tích chúng mình 16 tuổi
Xin gửi lại ngây ngô cho lầm đường lạc lối
Côn Sơn chiều chớp mắt 45 năm
Bàn cờ Tiên tượng đá vẫn trầm ngâm
Ai dám bước những nước cờ uyên ảo
Ai biết được cờ tàn trong giông bão
Những phận người ngụp lặn Lục Đầu Giang
(01/3/2020)
Thu
I
Ăm ắp hương mùa Thu
Tím tràn qua ô cửa
Em của thời rất xa
Không về ngày xưa nữa
Dù anh còn ngọn lửa
Cháy vụn trời heo may
II
Ta đuổi bắt trong vườn Thu miên ảo
Quả chín căng nứt áo lá giao mùa
Sương khói dệt mắt mùa Thu trong mắt
Quãng nắng trầm âm mãi phím đàn xưa
III
Không còn nữa đoàn thuyền bẹ chuối
Cánh buồm xanh khát gió trước ao nhà
Ta từng nhốt mùa Thu trong tre trúc
Nhưng sáo diều vẫn giăng mắc đồng xa.
Gửi mùa hạ,
Thôi cứ mặc cho mùa hè xõa nắng
Cỏ vẫn xanh ngây dại trước hiên nhà
Không son phấn, mặt thời gian bạc phếch
Ký ức ngập ngừng , ký ức xót xa
Mùa hè ấy, mùa hè kỳ lạ quá
Trái cây rơi lõm mái rạ quê nghèo
Cá quẫy ao vỡ trăng non mùa hạ
Những mảnh vàng âu yếm với rong rêu
Sao nhanh thế. Mùa hè đi. Nhanh thế
Phượng còn kia rắc đỏ ngã ba đường
Đừng có hỏi vì sao ta níu giữ
Dòng sông nào giờ cũng hóa sông Tương
Vii đề,
Gió
mơ hồ vuốt năm tháng xa xăm
Vườn cổ tích chúng mình 16 tuổi
Xin gửi lại ngây ngô cho lầm đường lạc lối
Côn Sơn chiều chớp mắt 45 năm
Bàn cờ Tiên tượng đá vẫn trầm ngâm
Ai dám bước những nước cờ uyên ảo
Ai biết được cờ tàn trong giông bão
Những phận người ngụp lặn Lục Đầu Giang
Cây trái – Đời người,
(Tuần đầu cha đi xa )
Khăn tang trắng, cây xôn xao mùa nắng
Mảnh nhỏ vườn hoang chim chẳng bay về
Mùi mít chín theo chân người khuất bóng
Người xa thật rồi khuyết một mảnh hồn quê
Đêm không ngủ nghe xoài rụng trái
Thậm thịch vu vơ như bước chân người
Tiếng tắc lưỡi của thạch sùng đêm vắng
Nhịp nhịp thời gian quay bánh luân hồi
Đêm không ngủ, hương đèn không ngủ
Cành phan đu đưa ảo ảnh mơ hồ
Trăng đỏ thẫm đúng một mùa Trăng máu
Tưới cây vườn đẫm một sắc tiễn đưa
Rằm tháng Tư, Tân sửu.
Có một ngày,
(Viết cho một nhà báo quên 21/6)
Có một ngày đã gợi nhớ một ngày
Mây trắng quá, trời sâu thăm thẳm quá
Mây lãng đãng hồn thơ Lưu Quang Vũ
“Thơ tôi là mây trắng của
đời tôi”
Thơ của đời anh, mây của một thời
Trang giấy trắng, bút vạch đường " Nhân danh Công lý"
Trên cơm áo là nỗi niềm kẻ sĩ
Là thân phận dân oan vẫn đắm đuối kiếp người
Thời ấy anh ba mươi bốn mươi
Đã dám sống như những gì mình có
Không tạm ứng niềm tin, không mượn vay quá khứ
Trằn trọc bao đêm nghe sấm động chân trời...
*.**
Đừng rắc phấn vàng lên trang giấy em tôi
Mật đừng ngọt ngâm trong lời chim cú
Gian dối đã ngấm vào từng nhịp thở
Thì trái tim không đập nhịp Con Người
21/6/2021. Ngày Hạ chí
Thẩm thơ Trịnh Bá Ninh thế nào, xin được dành
bạn đọc,...
SỰ THÚ VỊ Ở MỘT TRẠI SÁNG TÁC VĂN HỌC
Đây là lần đầu tiên tôi dự một trại
sáng tác văn học của Hội Nhà văn Việt
Ngoài vài ba khuôn mặt, cái tên quen
biết ở Hà Nội, tôi có chút chờ đợi xem mình sẽ được gặp những ai trong số hơn
nghìn hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam, tham dự trại sáng tác văn học này.
Tiết trời mùa thu Đà Lạt khá lạnh,
trời chợt mưa chợt nắng, trước sau, đủ 25 thành viên, các nhà văn, nhà thơ, nhà
phê bình văn học lục tục có mặt. Được biết, trại sáng tác đợt này được Hội và
Bộ chủ quản Nhà sáng tác ưu ái triệu tập đông hơn mọi lần (thường mỗi trại trước đây chỉ khoảng 15-20 thành viên). Hình như,
năm nay, sau hai đợt cao điểm dịch Covid19, các nhà quản lý văn hóa có nới tay
mà ưu ái hơn chút thì phải...
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà được Hội cử đại diện cho Ban
Sáng tác phu trách trại viết. Nhà phê bình Nguyên An được cử làm Trại trưởng,
với sự trợ giúp của hai nữ Trại phó xinh tươi là nhà phê bình văn học Tôn
Phương Lan và nhà văn Lê Hồng Nguyên.
Ngày ba bữa, việc của các nhà là đóng kín cửa phòng
văn, và viết. Tuy nhiên, với cảnh sắc trời thu Đà Lạt quyến rũ làm vậy, dù đợt
này có mưa nhiều do ảnh hưởng từ bão và áp thấp nhiêt đới trên Biển Đông, thì
có nén đến mấy, cũng khó cầm lòng, không tránh khỏi phải bung cửa phòng văn mà
rông ra phố, cà phê cà pháo, dạo quanh và la cà chợ đêm đôi chút. Tham quan
thực địa cũng là một cách sáng tác mà.
Đợt này có mặt mấy vị cao tuổi là nhà văn Tô Hoàng,
nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, nhà văn Vương Tâm, nhà thơ Phạm Đình Ân, dịch giả
Lê Đăng Hoan, nhà văn Nguyễn Hiếu... trẻ nhất là nhà văn Lê Hồng Nguyên thì
nghe đâu cũng đã lên vai bà ngoại rồi.
Ngần ấy con người, nếp sống, thói quen sáng tác và
phong cách văn chương mỗi người mỗi vẻ, sinh hoạt tập thể gần nửa tháng trời,
dưới sự khéo léo và chân thành của người phụ trách là nhà văn Võ Thị Xuân Hà và
Trại trưởng Nguyên An, mọi người quây quần chan hòa, ấm áp, thân tình như người
một nhà...
Với các nhà thơ, quang cảnh thơ mộng của Đà Lạt và bầu
không khí văn chương gợi mở, dễ lên men cảm hứng sáng tác tại chỗ, trong khi
các nhà văn thì phần đông tập trung hoàn thiện hoặc chỉnh sửa, nhuân sắc các
tác phẩm dài hơi của mình... Dự trại sáng tác, đương nhiên viết là trọng, song
tôi nghĩ, việc giao lưu, đàm thoại về cuộc sống, về văn chương, nghệ thuật nói
chung, kể cả việc tìm hiểu, để rồi cảm thông và chia sẻ cùng nhau những buồn
vui trong cuộc đời mỗi nhà văn cũng quan trọng không kém, bởi ý nghĩa và giá
trị nhân văn trong các tác phẩm văn chương của mồi người đều từ lòng mình mà ra
?!...
Nhà văn Tô Hoàng, người cao tuổi nhất (79) lại là
người sôi nổi, nhiệt huyết bậc nhất. Ông đặc biệt thú vị và rất cuốn hút với
những câu chuyện đầy bi hài từ thời chiến tranh chống Mỹ mà chính ông là nhân
chứng, và nữa, các mẩu chuyện thuộc dạng “thâm
cung bí sử” của nhiều nhà văn Việt Nam khi theo học ở Liên Xô cũ. Xem ra,
ông còn nặng lòng với các chân dung văn học đang viết hoặc sẽ viết..,
Nhà văn Nguyễn Hiếu thuộc diện chăm chỉ bậc nhất, ngày
hai buổi cặm cụi gõ phím chữ, song hành với một tiểu thuyết và một kịch bản sân
khấu đang viết dở cùng về đề tài lịch sử là Khúc Thừa Dụ và Phạm Ngũ Lão. Riêng
mỗi tối thì ông dành trọn cho thể thao, ăn uống qua quýt cho xong rồi nhanh
nhanh chóng chóng về phòng đắp chăn dán mắt vào ti vi xem bóng đá Ta và quần
vợt Tây, ai rủ đi đâu cũng từ chối.
Nhà văn-địch giả Lê Đăng Hoan luôn xởi lời và sắn lòng
chia sẻ sự hiểu biết và những kiến thức của mình về ngôn ngữ và văn học Hàn
Quốc. Triều Tiên, những điều mà không phải các nhà văn nhà thơ nào cũng biết.
Nhà thơ Phạm Đình Ân vẫn giữ được sự cần mẫn vốn có.
Ông cẩn trọng, mực thước, rành rẽ trong mọi chuyện. Ông chu đáo tặng cho mọi
người tác phẩm mới của mình-“Trong người
có lá”, tập thơ dành cho tuổi thơ. Ở thời này, vẫn viết cho tuổi thơ là
điều hiếm. Ông vẫn giữ thói quen viết tay mà không sử dụng vi tính.
Nhà thơ Phạm Xuân Trường, nghiện thuốc là khó ai bằng.
Khi cao hứng, ông đọc các bài thơ đầy sự chiêm nghiệm của mình, cảm hứng sáng
tác nhanh không kém việc ông xài hết vài bao thuốc lá mỗi ngày. Nhà thơ đất
cảng Hải Phòng này tài hoa riêng có, ấy là sáng tạo tác phẩm gò đồng chân dung
hàng trăm văn nghệ sĩ đất Việt mà ông quý trọng, yêu mến. Vào Đà Lạt, ông kỳ
công mang mấy bức chân dung gò đồng là tác phẩm của ông để tặng cho người được
ông khắc họa hiện đang sống ở đây.
Nhà văn Vương Tâm thì luôn bận bịu. Dường như lúc nào
ông cũng đang mắc nợ trả bài cho ai đó, tờ báo nào đó một bài tản văn, bút ký,
hay chân dung văn học. Những khi tỏ ra thư thái, ông có niềm vui uống trá Thái
Nguyên đặc cắm tăm và rủ mọi người cùng thưởng bằng bộ ấm chén trà nhỏ xíu
trong hành lý mang theo của mình. Nghe nói, ông có thú vui chơi và có bộ sưu
tập ấm chén trà rất đáng nể.
Nhà văn Phạm Thanh Khương thì rất chi cuốn hút khi kể
những câu chuyện liên quan đến lĩnh vực biên phòng mà ông từng nhiều năm công
tác. Con người ông toát lên sự tháo vát, nhanh nhẹn và quyêt đoán trong công
việc và cuộc sống. Ông rất am hiểu và chia sẻ cùng mọi người những kinh nghiệm,
sự hiểu biết về văn hóa và tập tục của nhiều dân tộc thiểu số miền núi. Ông dành tâm huyết cho một
tiểu thuyết lịch sử đang viết dở, ấy vậy, trên trang của mình ở mạng xã hội.
ông hay đăng các bài thơ ngắn, ý tứ hàm súc và ngôn từ mới lạ,... Phạm Thanh
Khương rỉ tai vài người báo tin rằng sắp tới ông được tặng thưởng giải Nhì cuộc
thi viết về đề tài Vì an ninh tổ quốc và
sự bình yên của cuộc sống do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ
chức.
Nhà văn Y Ban thành danh với các tác phẩm văn học của
mình thì ai cũng biết, song có lẽ đây là lần đầu, nhiều nhà văn tham dự Trại
sáng tác được biết thêm một cái tài nữa của Y Ban, ấy là hát chầu văn. Màn biểu
diễn Cô đôi thượng ngàn của Y Ban hôm
khai mạc Trại khiến mọi người ngạc nhiên thích thú,
Nhà thơ Đỗ Thị Tấc của vùng đất Lai Châu, Tây Bắc thì
nhiều người biết đến với một phong cách thơ của người vùng cao dân tộc thiểu
số, song ít ai rõ, nữ sĩ này người Kinh, quê gốc đất nhãn lồng Hưng Yên, chọn
Lai Châu làm quê, yêu văn hóa Thái và hăng hái với công việc bảo tồn văn hóa
Thái còn máu hơn cả người Thái xịn. Đến với Trại sáng tác này, Đỗ Thị Tấc luôn
gây ra những trận cười sáng khoái, bởi chất tự nhiên hoang dã, hệt như một “gã đàn ông dân tộc thiểu số”. “Anh chàng” này còn tranh thủ kêu gọi
quyên góp sách truyện, đặng tha lôi về quê, lập thư viện cho trẻ em vùng cao.
Các nữ sĩ của miệt vườn Tây Nam bộ là nhà thơ Song Hảo
và Thu Trang khá thùy mị, kín đáo. Dường như ít bộc lộ quan điểm cá nhân, ngoài
việc tự giới thiệu ngắn gọn về mình và đọc thơ trong buổi khai mạc Trại, thì
các nàng có vẻ thu mình. Riêng nhà thơ Trần Thái Hồng mạnh dạn hơn, chịu khó
giao tiếp, đọc thơ, tặng sách cho mọi người. Nghe đâu, Thái Hồng còn là một
doanh nhân khá thành đạt. Việc tự cầm lái ô tô riêng từ quê nhà miệt Đồng bằng
sông Cửu Long lên tới Đà Lạt, vượt chặng đường hơn 500 km thì cánh đàn ông cũng
phải nể.
Các nhà văn Trần Thị Trường, Nguyễn Thị Anh Thư, nhà
thơ Phạm Hồ Thu và nhà phê bình văn học Tôn Phương Lan vốn thân nhau đã lâu thì
hay quây quần cùng người chị cả là nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn theo cái cách
rất chi thân tình “chị em ta bánh đa bánh
đúc” .
Riêng nhà văn Nguyễn Thị Phước vẻ ngoài hơi lạnh, khá
kín đáo, ít nói, kiểu người hay suy tư. Nghe đâu, nữ nhà văn này từng một thời
cầm trịch giới văn học nghệ thuật vùng đất Núi
Hồng Sông Lam với chức danh Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An, Tổng
biên tập Tạp chí Sông Lam và đã gặt
hái được kha khá giải thưởng văn học. Vẻ ngoài vậy, nhưng khi trò chuyện lại ân
cần. Khi hào hứng, sẵn lòng mời mọi người cà phê sáng hoặc thưởng vang Đà Lạt
trong bữa ăn.
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu và Trần Quang Đạo bám nhau
như sam. Một ông, lâu lâu buông vài câu chủng chẳng, còn ông kia, một khi lên
tiếng là như lên đồng. Một sự bổ trợ cho nhau. Hai vị này hay bỏ cơm Trại vì
không hợp khẩu vị, ra ăn bên ngoài, thỉnh thoảng còn lôi kéo thêm lão gia Tô
Hoàng đi cùng. Về thơ ca, cả hai đều có sự khẳng định mình, và có thể xem là
hai giọng điệu thơ khác lạ... Trần Quang Đạo khá kín đáo, chẳng rõ đang nghĩ gì
viết gì, còn Nguyễn Linh Khiếu thì đang nhuận sắc và đe sẽ sớm cho ra lò tập
mới, về độ ngồn ngộn chữ nghĩa chắc cỡ ngang Phồn sinh...
Hồ Khải Hoàn (con
trai của nhà thơ Hồ Khải Đại), một bác sĩ chuyên khoa nội tiết, toàn tài
thơ và nhạc, và nhà văn Lê Hồng Nguyên (con
gái nhà thơ Lê Hồng Thiện và phu nhân của nhà thơ Phạm Khải) là trẻ nhất
trại, song về tuổi đời cũng trên dưới ngũ tuần cả rồi. Hai người đã đem đến
Trại sáng tác ít nhiều sự sôi động trẻ trung.
Sự giao lưu của các văn nghệ sĩ ở Đà Lạt và các nhà
văn Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hiện sinh sống ở đây, như nhà nhiếp ảnh Hà
Hữu Nết, họa sĩ-nhà thơ Vi Quốc Hiệp, nhà thơ Vương Tùng Cương và một số văn
nghệ sĩ khác đã đem đến Trại sáng tác luồng sinh khí vui vẻ, chan hòa. Hơn nữa,
việc tổ chức tọa đàm về xu hướng sáng tác văn học hiện nay đã
tạo cơ hội để các nhà văn bộc lộ mình, thể hiện cái nhìn khi đánh giá xu hướng
chung và quan điểm riêng có về sáng tác văn học...
Vẫn còn nữa, những chuyện nhặt nhạnh từ Trại sáng tác
văn học Đà Lạt 2020 có thể ra đây, nhưng xin dành cho dịp khác. Ngót nửa tháng
tập trung ở Nhà sáng tác, mọi người đều gắng hoàn thành dự định của mình. Trong lễ bế mạc, Trại trưởng Nguyên An
đã tổng kết, đặng đưa ra nhận xét, đánh giá tóm tắt, báo cáo kết quả lên Hội
Nhà văn. Song có một điều, nằm ngoài mọi báo cáo, ấy là các nhà văn đã có một
quãng thời gian đủ để hiểu thêm về nhau, để trở nên thân tình hơn trong cuộc
sống, và đặc biệt, sự giao tiếp và đàm thoại văn chương ở Trại sáng tác, vô
hình chung đã kích hoạt sự sáng tạo tiềm ẩn, sự gợi mở mới lạ trong mỗi người
lên nhiều lần. Để rồi, sau đó, sẽ có những tác phẩm văn học hay được khởi nguồn
từ các Trại sáng tác như thế...
Những điều này, nhà thơ Trần Nhương, Trưởng trại sáng
tác văn học 2020 của Hội Nhà văn Việt Nam ở Đại Lải dịp hè vừa qua, cũng bày tỏ
sự đồng tình.
VÕ
QUẢNG, NIỀM CẢM HỨNG VĂN CHƯƠNG
Sáng nay, một sáng đầu
đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời
gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một
chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng
thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm
qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...
Chương trình văn nghệ sáng
cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ
Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn
Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con
phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả
vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên
và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....
Ngày đi học ở quê, tôi đã
say mê đọc truyện "Quê nội"
của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng
ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu
lưu ký” của Tô Hoài, "Đội du
kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học
sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão...
Với riêng tôi, nhà văn Võ
Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn
với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về
điều đó...
Hơn chục năm trước, tôi có
vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt
Vậy mà với
ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục
năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến,...
Vô tình, chuyện về ông lại
thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên
lề, nhưng ồn ào, xôn xao, ì xèo này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng
bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi !...
Mấy
dòng tiễn đưa Nguyễn Huy Thiệp
theo
cánh hạc về trời
Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn
tượng nhất một bức ảnh, không rõ ai chụp. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt
tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường
ngày, nét hiếm thấy ở ông !?...
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời
cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH
PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019,
rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới
náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người
ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta
những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được
tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người
vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu
đáo,
Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà
tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay
cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà
bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác
hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn
bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả
trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu
văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng
của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
Tôi và mấy bạn văn chương
tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt
Có một điều, tôi để ý, nơi
sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người
gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn
chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được
bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời
gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến
đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi
đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới
mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn
nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám
ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà
ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến
người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
Trở về sau đám tang nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang
chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là
người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc
rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà
ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo
như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phàm
cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn,
tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc
tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là
bạn đọc hâm mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm
mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí
những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm
của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao
nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng
về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ
đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương
Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương,
Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện
xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?
Phê bình văn học của Nguyễn
Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chim.
Trò chuyện với hoa thủy tiên. Còn
tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ những ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở
đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi
tôi: "Vậy văn xuôi Việt
Rồi tôi và anh bạn Gia
Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách
thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng,
Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh
Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa...
Tạm dừng ở đấy chờ kể tiếp
!...
Hà Nội, 25.3.2021
Đọc lại Xem đêm
đậm nét diện mạo Phùng Cung,
Những ngày xuân tháng giêng Tân Sửu,
đúng thời điểm dịch Covid 19 bùng phát lại, cầm chân không du xuân lễ hội đâu
được. Ở nhà, viết và đọc sách giải khuây. Tôi đọc lại tập Xem đêm của Phùng Cung.
Số là, từ hơn chục năm trước, tôi đã
tình cở mua được tập thơ Xem đêm lần xuất bản đầu và đọc thấy
thích. Rất thích là đàng khác. Tôi đã viết tiểu luận “Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung”,
gửi đăng báo. Sau đó, tôi phát triển thành chân dung văn học “Phùng
Cung, người tôi chỉ biết qua thơ” (in
trong tập Trời đất thu hay lòng ta
thu, Nxb Dân trí 2016). Trong
những lần đàm đạo văn thơ cùng bạn bè, nhiều lần tôi khen tập thơ Xem đêm,
khiến mọi người tò mò mượn đọc, vì thế mà thất lạc. Tôi tiếc lắm. Trước tết Tân
Sửu, tôi nhờ người quen mua được tập Xem đêm, bản mới do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn ấn hành. Sách in đẹp và phần nội dung có thêm Phụ Lục với các bài viết
của Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm về thơ văn của ông, còn có cả truyện
ngắn Con ngựa già của chúa Trình, mà
vì nó Phung Cung đã dính án văn chương ngày nào...
Đọc lại, vẫn nguyên cảm giác thú vị,
nhưng đằng sau câu chữ, vấn điệu, còn thấy được ý tứ sâu xa về thân phận con
người nói chung và thân phận với nỗi cay đắng riêng ông.
Trong bài viết này, tôi không nhắc lại
những gì đã nói, đã bàn ở các bài viết trước, như việc khắc họa một nông thôn
Bắc bộ điển hình một thời xưa cũ khốn khó còn chưa xa; hay đâu như sự ngộ ra,
để rồi tự an ủi, răn mình mang tính thiền định, kinh kệ nhà Phật,,,
Ở đây, tôi muốn đi sâu tìm hiểu sự ám
ảnh, hàm ý về một thân phận bị dập vùi mà vẫn gắng gỏi ngoi lên, loe lói sáng
như muốn chứng ninh cho sự trong sạch của bản thân...; và không thể không nói
đến một điểm mạnh, ấy là nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian thơ của
Phùng Cung,
1.
Có lẽ, trong tập tho này, khó có bài thơ nào hàm súc, ám ảnh, ấn tượng hơn bài Trà:
“Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không
đổi giọng Tân Cương”. Nó thể hiện nỗi niềm về thân phận, sự kiên định, ý
chí, bản lĩnh và cả khao khát khẳng định sự thanh sạch của bản thân tác giả.
Có thế thấy, hàm ý về nỗi niềm thân
phận bị vùi dập, ý chí, bản lĩnh muốn khẳng định sự thanh sạch và khao khát
vượt lên số phận ẩn giấu trong nhiều câu thơ, bài thơ...
Ví như: “Thánh
thần ơi/ Phải đâu nhật thực triền miên/ Ngày tối hơn đêm/ Đêm-vó-ngựa/ Quỳ gối
chống tay/ Vẫn còn sợ ngã/ Mặt đất quá cheo leo” (Đêm vó ngựa); “Thương cây đào ốm/ Xuân về chẳng nở hoa/ Lá
gày run gió lạnh/ Cây cũng có thời vận ư?” (Cây đào); “Trời đất uy nghi/ Xanh vĩnh cửu/ Chim bay
hình thánh giá muôn phương/ Cung tên tạo hình thánh giá/ Bắn con chim hình
thánh giá tử thương” (Vĩnh cửu); “Phận lấm/ Tối ngày đào khoáy/ Lưng nắng-vẽ/ Hoa văn tiền sử/ Chài chãi
đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi” (Cua đồng); “Tổ tan/ Trứng mất/ Có trời biết vì sao/ Bỏ hót/ Chỉ kêu/ Mỏ run run rớm
máu” (Con chích chòe); “Dông
bão trẩy qua xóm nhỏ/ Giập gãy hết rồi/ Ngô độn chuối xanh/ Xì xằng qua bữa/
Kẻng thúc ngũ liên/ Săn lùng đào ngũ/ Chẫu mắt mù/ Nhìn-đóng-cọc vào đêm” (Giập
gãy); “Trở giấc xem đêm/ Thiên hà
ngọc vụn/ Gió thổi một mình/ Mặt đất tròng trành/ Ma hoa nhày múa” (Xem
đêm); “Hệ lụy với tôi/ Là ăn là
uống/ Miếng ăn miếng uống/ Hành hạ suốt đởi/ Mấy ai dám cả gan/ Đùa dai với đói
khát” (Miếng sống); “Trái đất
lênh đênh/ Chênh chênh mùa nắng/ Gió trĩu cành/ Tải bốn mùa cười khóc/ Sóng
biển xanh/ Nát bóng hải âu” (Tâm tư);
Thậm chí, Phùng Cung còn cân nhắc. sắp đặt số phận
mình, và cho cả cái chết của mình, nếu ông không được sống: “Vạn thuở hồn cỏ xanh/ Mặt đất thơ gắn bó/
Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người” (Ăn năn); “Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi phải sống/ Hẳn rôi còn được
chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn sinh” (Trò chơi);
“Mô hình tôi/ Một trẻ thơ/ Ngoạm củ ráy/
Đứng thẳng người trong xóm/ Quỹ đạo tôi/ Thư thái-loằng ngoằng/ Xó bếp-bở
ao/... Khi tôi chết/ Tôi thèm cái lặng lẽ/ ... Nếu tái sinh/ Tôi chẳng ước ao
gì khác/ Chỉ mong được như kiếp trước/ Xó bếp đói. No/ Bờ ao tắm mát/ Phận cánh
cò/ Mưa-nắng-phong dao” (Thanh thản); “Nhập nhoạng đóm đèn/ Đêm chó mực/ Trạt mùi hạ nhục/ Già trẻ sụt sùi/ Ôm
đầu số phận/ Cúi mặt nhìn ngang/ Nghe lanh chân nhang” (Đoàn
viên)...
Dẫu là “phận lấm”, dẫu có “xó bếp, bờ
ao” hay “lênh đênh”, “ngày tối hơn đêm” di chăng nữa, thì với
Phùng Cung, vẫn quặn thắt một nỗi đau đời-một khao khát vươn lên trên số phận:
“Trăng qua song sắt/ Trăng thăm ngục/
Bỗng ta chợt tỉnh-sững sờ/ Trên vai áo tù/ Trăng và lụa/ Ngày xưa ơi!/ Xa mãi
đến bao giờ...” (Trăng ngục); “Ai giùm tôi thủ tục làm vô tận/ Thỏa thích trải trời xanh cõi không
cùng/ Tôi khao khát huy động/ Những chùm sao đẹp/ Đêm về lung linh chòm xóm
nghèo sao” (Khát vọng): “Hỡi bầu
trời/ Hãy rộng thêm nhiều nữa/ Để phi đoàn cất cánh/ Xếp đội hình thánh giá uy
nghi/ Rộn rã chuông chiều/ Cất giọt mưa sa/ .../ Giải phóng những nếp nhăn/
Trên từng vầng trán hoài nghi” (Giải phóng); “Đêm khuya trằn trọc/ Tôi bắt gặp/ Mùa thiêng hoa chết/ Ngoại giới mưa
bay/ Trong hồn tơi tả/ Trăng úa-đầy trời-lá rụng/ Không gian khát vọng khúc
giải oan” (Khát vong)...
Chịu khó tìm nhặt, trong Xem đêm, vẫn đây đó những câu thơ hàm ý
dạng này, nhưng tôi không sa đà, để khám phá nghệ thuật thi ca tài tình của
Phùng Cung...
2.
Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem
đêm thật tài tính.
Có thể nhận định một cách ngắn gọn
nhất, ấy là sự chắt lọc câu chữ, ý tứ hàm
súc, ám ảnh, ấn tượng, không gian sống động, đầy thanh âm, hình ảnh, sắc màu,
hương vị và trạng thái cảm xúc...
Chắc chắn, ngày ấy, Phung Cung và cả
chúng ta, không một ai biết đến khái niệm 3D, song tài tình thay, mỗi bài thơ
trong tập thơ này đều như một cuốn phim ngắn 3D. Tôi chọn một số bài thơ để
minh chứng cho điều này: “Mặt trời
hạ-thổ/ Núi-giội-chàm/ Đò chuyến cuối/ Nhìn nhau nhọ mặt/Sữa con so ướt yếm/
Thơm-mùi-khoai-luộc/ Dốc bến tối gà/ Đom đóm rối guồng-tơ-lửa/ Nghe đêm trung
giang thả-gió-gọi diều” (Chiều soi bãi); “Sương chiểu nghe-lạnh bước chân/ Khách áo
cũ/ Tìm về bạn cũ/ Ai đốt rác lá tre bên ngõ/ Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm”
(Khói
cuối năm); “Chó sủa dông dài/ Giò
chuyển canh/ Trái thị cuối thu/ Thơm mùi trăng-úa/ Ao khuya nước thở thì thầm”
(Đêm
cuối thu); “Thoảng mùi ruộng ải/
Thóc giống cựa mình/ Nắng vắt ngọn-tre-đuôi-én/ Đủng đỉnh điệu cu cườm/ Lạc
nhịp-gió may” (Mùa gieo mạ); “Gió quẩn
lùm ngỉa cứu/ Mùi ngộ cảm đầy vườn/ Chếch bóng chĩnh tương/ Con vằn say bả/ Hoa
chuối tiêu lầm lũi/ tím Tam-giang” (Nôn nao); “Chó sủa làng xa/ Sủa gơn xóc ốc/ Sao diều ai hóc-gió/ ven sông” (Đêm
ven sông); “Mảng rêu chiều nắng
ghé/ mênh mông/ Con dế loanh quanh/ Tìm lại tiếng mình đêm trước/ Vườn hàng xóm
ngổn ngang/ mùi khế rụng” (Chiều nắng ghé); “Oèng oẹc trời khuya/ Chim lợn xổ giọng hãi hùng/ Tôi
nhìn sông/ Đầy ắp sao xanh/ Ngoằn ngoèo phun tím/ Lửa-hoa-đăng/ Rần rật
rím-luân-hồi” (Sông đếm); “Mành rách gió
lay/ Chim chích đu mình săn nhện/ Góc sân nắng hanh/ Lá mít rụng trờ mình-nghé
bếp/ Chó hàng xóm/ Sủa cầm chừng vài tiếng/ Lỗi bước lên hè/ Guốc nằm chiếc
ngửa chiếc nghiêng” (Nhà vắng); vv ... vv...
Nhiều lắm, khó mà trích dẫn ra hết được. Bài thơ nào
cũng kiệm lời, gạn đến mức cảm giác không có từ nào thừa cả. mỗi từ đều phải
gánh một phần ý tứ. Về tư duy, hình thức thơ, có thể thấy, ở đây có sự kết hợp
nhuần nhuyễn tính hàm súc, tinh tế, ý tại ngôn ngoại của Đường thi, phong vị
thiền và sự chắt lọc của thơ Haiku Nhật Bản, lại gần gũi thân thuộc của tục
ngữ, ca dao Việt
Phần lớn, các bài thơ trong tập này của Phùng Cung là
thơ tự do, câu ngắn, ngắt dòng liên tục. và nhiều câu được ngắt nối bằng dấu
ngang ( - ), giàu nhạc điệu. Có bài là lục bát, hoặc thơ dạng bốn câu, nhưng
được ngắt dòng, nên mới mẻ và ấn tượng. Ở vào thời ký ấy, có thể thấy, Phùng
Cung đã rất ý thức trong việc cách tân thơ.
Ví như: “Trăng
lên/ hàm tiếu/ thẫn thờ/ Nửa chững trăng xế/ Chịu giờ mãn khai” (Hoa
quỳnh); “Này em!/ Cây khế gãy
rồi/ Nỗi chua vẫn hỏi thăm/ Người trồng cây” (Cây khế); “Chút lòng dây gấm khăn điều/ Cảm thương cái
nhện/ Chiều chiều giăng tơ/ Không gian đứt nối sững sờ/ Khăn điều dây gấm/ Ngẩn
ngơ mấy chiều” (Giăng tơ); “Dáng gày-đầy
đặn-trữ tình/ Thuyền au đậu bến Lan Đình/ Trăng xa/ Tử sinh lỡ một lần ba/ Ruột
tằm đau/ Mối tơ thừa gió bay” (Trăng xa); “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Dạt vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh” (Bèo);
“Sen vàng từ thuở lên ngôi/ Bâng khuâng
du khách/ Ngậm ngùi vần thơ/ Cồng chùa nhện mải giăng tơ/ Chuông thiêng ngân
mãi/ Tiếng thừa trong không” (Chùa Kim Liên); “Lá súng lát mặt ao/ đếm ngọc/ Con sộp phàm
vồ bão/ bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch/ Tiếng cuốc bèo da
diết/ gọi ngày mai” (Ao con); “Bờ ao trưa gió lay lá cỏ/ Vang khẽ lời ru nhỏ xanh xanh***/ Cách
cách giòn tan/ Con cào cào dội phách/
Khoe cánh điều/ Bay ngập nắng-bổ-cau” (Nắng bổ cau); “Cành xoan cu gáy đứng/ chào mùa/ Ung dung đổ lèo ba/ dõng dạc/ Mùi cơm
mới/ Xoắn mùi cá kho nhạt/ Hoa cải thơm quấn quýt/ quanh làng. Một lũy thơm”
(Lũy
thơm),...
Đổi mới hình thức thơ trên nền tảng các thể thơ cũ
bằng cách ngắt nhịp song vẫn giữ mạch thơ khiến người ta xem bằng mắt hay đọc
bằng âm đều không thấy nhàm và vẫn dễ nhớ dễ thuộc.
Tuy còn chưa đi sâu phân tích nghệ thuật ngôn ngữ thơ,
nhưng với bấy nhiêu thôi, tôi nghĩ, Phùng Cung đã có những đóng góp nhất định
trong tiến trình đổi mới thi ca Việt
Thế nào là
Thơ,...
Quả thực, tôi đã định làm ngơ, không bàn luận gì,...
Hôm nay, đã là ngày thứ ba kể từ khi Báo Văn Nghệ tổ
chức lễ trao giải cuộc thi Thơ của mình,.. Mấy ngày qua, và vẫn tiếp diễn,
người ta chê cười, nhạo báng, thậm chí xả vả ... cái Ban Giám khảo đã
trao Giải Nhì (giải cao nhất) cuộc thi thơ kéo dài hơn 2 năm của tờ Báo
danh giá bậc nhất của làng văn chương Việt. Nguyên do, vì đã quyết định trao
giải cho chùm thơ 3 bài của tác giả Tòng Văn Hân (Mẹ tôi chửi kẻ
trộm,Làm rể, Nhà trên nhà dưới). Chàng tác giả được giải này không có lỗi
gì khi làm thơ dở. Lỗi là ở Ban Giám khảo kia,
Đọc thơ được giải, rồi đọc các bài bình luận, những
comment của Làng Phây, tôi tự hỏi: Thế
nào là Thơ? Thế nào là thơ hay?... Chịu, chẳng biết nói sao....
Những lời chê trách, nhạo báng có thể hơi quá, nhưng
không sai. Tôi nghĩ là thế,
Công bằng mà nói, về ý tưởng, chúng có chất nhân
văn... Nhưng thơ nào mà chẳng có chất nhân văn? ... Cười khuẩy,...
Xét về nghệ thuật thơ,... thì giả bộ ngô ngọng, nghi
ngơ, không vần điệu... chẳng thật thà dân tộc như vị giám khảo nào đó nhận định
(thực chất, láu cá, dân tộc giả cày),... Và dĩ nhiên, nó chằng có giá
trị gì về nghệ thuật, đơn giản, đó không phải là Thơ!...
Chỉ buồn một điều, một Ban Giám khảo gồm toàn các nhà
thơ nhà văn có tiếng là Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Bình
Phương, Khuất Quang Thụy, mà lại quyết định như vậy, thì thử hỏi, thi ca xứ
Việt mình lấy chuẩn mực ở đâu?...
Trớ trêu, buổi sáng tổ chức lễ trao giải tại trụ sở
Hội Nhà văn Việt Nam, tôi tình cờ đến đấy, thấy người ta đang xướng tên các tác
giả được giải, tôi không vào hội trường mà sà vào đám trà dư tửu hậu với nhà
nhà văn nhà thơ Hà Phạm Phú, Minh Chuyên, Quang Hoài, Nguyễn Đức Dũng, và Phạm
Công Trứ... Chuyện huyên thuyên nhưng lạ là không một ai trong số đó nhắc đến
việc trao giải cả. Vậy là các nhà chằng quan tâm, hoặc vờ không quan tâm?
Ngắm nhà thơ Phạm Công Trứ già nua bệnh tật, thấy
thương nhớ về một thuở sung sức đầy tài hoa của ông đã qua. Rồi lẩn thẩn thương
nhớ một thời thi ca, văn chương được xem như ngôi đền thiêng của xứ sở này,
cũng đã qua!...
Giờ thì thi ca, văn chương dễ dãi, nôm na, mách qué,
nhộm nhoạm quá, ai ai vào ra cũng được,...
Vậy thì thế nào là Thơ,
Thế nào là Thơ hay?...
Và tại sao Thơ lại làm con người ta khổ sở vậy
?...
HẾT.
Nhận xét
Đăng nhận xét