Ấy là nhà thơ Đồng Đức Bốn,
Người yêu thơ xứ mình, hầu như đều thuộc vài ba câu thơ của Đồng Đức Bốn. Đó là
may mắn và hạnh phúc của Đồng Đức Bốn trong thời buổi loạn thi ca này,...
Những câu thơ ấy, như: “Cành hoa sắc một
lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không”; “Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng đẻ cả chiều thành tro”; “Chiều nay Hồ Tây có giông/ Tôi ngồi trên
sóng mà không thấy chìm”; “Xong rồi
chẳng biết đi đâu/ Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương”; “Đang trưa ăn mày vào chùa/ Sư ra cho một lá
bùa rồi đi/ Lá bùa chẳng biết làm gì/ Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày”; “Trở về với mẹ ta thô/ Lỡ mai chết lại mồ côi
dưới mồ”; ‘Đừng buông giọt mắt xuống
sông/ Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”; “Đợi em ở trước cửa thiền/ Lá cây rụng một chiếc thuyền đang trôi”
... Đại loại vậy. Dẫu chỉ thế thôi những tưởng cũng là đủ với người làm
thơ!?... Song không, Đồng Dức Bốn còn có nhiều hơn... Tôi nghĩ thế.
Trước tập thơ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA (NXB Lao
động, 1993), Đồng Đức Bốn xuất bản tập thơ đầu tay, CON NGỰA TRẮNG VÀ RỪNG
CÂY CỎ ĐẮNG (NXB Văn học, 1992), và
sau đó, từ năm 2000 đến năm 2006, Đồng Đức Bốn còn xuất bản thêm 4 ấn phẩm nữa,
nhưng riêng tập CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA, với 112 bài thơ ở vào thời kỳ tác giả vừa độ
chín sáng tạo, thiết tưởng cũng đủ để nhận diện một tài năng thơ Đồng Đức Bốn,
đặc biệt thể Lục bát.
Quả thật, tập "Chăn trâu đốt lửa",
thơ lục bát chiếm già nửa. mà hầu như bài nào cũng đọc được. Vậy là, lục bát
viết được như như thế không phải dễ, không phải ai, nhà thơ nào cũng viết được.
Nào thử xem Đồng Đức Bốn làm gì với mớ lục bát của mình?
@
Trước hết, Đồng Đức Bốn sử dụng ngôn ngữ dân gian, câu cửa miệng, thản
nhiên nói ra như chẳng có gì, mà lại có gì vậy.
Ví như, bài CUỐC KÊU, mở đầu: “Cuốc kêu
như thể cuốc kêu/ Ngàn năm cái giọng vẫn đều thế thôi”, đúng là chẳng có gì
thật, nói ra là để nói, thế thôi. Câu tiếp theo: “Bụi tre bụi dứa tan rồi/ Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu”, thấy
như có cái gì đó rồi. Câu tiếp: “Đường
đời còn lắm bể dâu/ Trắng đen còn một Mỵ Châu để buồn”, có chuyện lớn rồi
đó, mà chuyện quốc gia đại sự, chuyện hưng vong của cả một dân tộc. Lại tiếp: “Thì cho chớp bể mưa nguồn/ Cuốc kếu vẫn giữ
cái hồn cuốc kêu”, đã là sự suy ngẫm, triết lý sinh tồn rồi đấy. Câu tiếp
nối: “Tôi nghe nẫu cả những chiều/ Câu
thơ ngã xuống đổ xiêu quán chùa”, trở về với suy tư cá nhân về lẽ đời. Và
bất ngờ: “Thoắt nghe dựng tiếng gươm khua”,
kết để mở ra một chương mới,... Tôi thích bài thơ này, bởi tính giản dị như
không của nó, mở đầu là nói một việc thường nghe thường thấy, ai cũng biết,
song chẳng mấy người lưu tâm, ấy là tiếng cuốc kêu mỗi ngày, chẳng cần đao to
búa lớn, rủ rỉ dẫn dắt đến việc đại sự, lẽ sinh tồn và bài học giữ nước cả cả
dân tộc.
Hay như bài ĐỢI CHỜ THÁNG BA, mở đầu cũng bằng một việc hết sức bình thường: “Bây giờ chờ đợi tháng ba/ Tôi ra đứng ở cây
đa đầu làng”. Đúng là chắng có gì, thậm chí là vu vơ vớ vẩn, cũng phải.
Song câu tiếp theo: “Khói nhà ai cứ mọc
ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều”, thì quả là bắt đầu có chuyện
rồi. Nào xem có chuyện gì: “Lề dường
trong những chiếc lếu/ Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày”, thấy chút lộ diện
chút về một làng quê nghèo, chẳng mấy ai mua bán gì. Nhưng tiếp đến: “Ngả nghiêng mấy lão thợ cày/ Rượu say vác cả
cối chày nện nhau”, thì rõ rồi, nghèo, không có việc làm, sinh “nhàn cư vi bất thiện”. Ai cũng biết,
tháng ba là tháng giáp hạt, hay đói kém. Làng xóm giàu có, người dân của ăn của
để thì đỡ, chứ vốn thiếu thốn triền miên thôi rồi. Vì nghèo nàn, đến thần phật
cũng mất thiêng, bất lực, còn dân chúng lo thân chẳng xong, nghĩ gì đến thần
phật, mà lễ bái: “Miếu thờ phật tượng
ngồi đau/ Cửa thiền rêu đã lên màu cổ xưa”. Để rồi kết ở câu thơ khiến
người ta phải suy nghĩ: “Tháng ba vẳng
tiếng chuông chùa/ Bây giờ tôi đợi bóng vua về làng”. Bài thơ với một cái
kết như vậy là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động. Vua quan gì đâu, ấy là lời
thỉnh cầu khẩn thiết về một sự quan tâm của các nhà quản lý đất nước, cần phải
làm gì đó để thay đổi cơ chế, đem lại công ăn việc làm cho người dân, thoát
nghèo, làm giàu,...
Cái lối mở đầu cửa miệng thản nhiên như không ấy, để rồi gây sự, xưng mọc về những
chuyện đâu đâu ấy, khá phổ biến trong thơ Đồng Đức Bốn. Có thể thấy như vậy
trong các bài Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn,
Chợ buồn, Cái đêm em ở với chồng, Hoa dong riềng, Hội Lim, Sông Thương ngày
không em, Đàn buồn lại mắc dây oan,
Bờ sông, Nhà quê, và nhiều bài thơ
khác của ông...
@
Thơ Đồng Đức Bốn nhìn chung là Gợi.
Trong lời Tựa thơ Đồng Đức Bốn, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đã phân chia ra
mấy loại người làm thơ (loại một là các
thiên thần, loại hai là những người khởi nghĩa,...), và ông đưa ra nhận
định “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ, một
người khởi nghĩa”. Tôi chẳng rõ, nói như vậy, Nguyễn Huy Thiệp định dạng
Đồng Đức Bốn thuộc loại nào?
Tôi thì thấy, thơ Đồng Đức Bốn nhin chung là gợi.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi tiếng đời Thanh là Viên Mai, trong cuốn
sách "Tùy Viên thi thoại"
của mình, đã nghiên cứu thơ ca Trung Hoa cổ đại để đưa ra quan điểm, thơ trước
tiên ở gợi (sức gợi), và cùng với đó là ý
tứ, ngôn từ, nhạc điệu,... Như
vậy, thơ hay thì quan trọng ở sức gợi, rồi theo đó là ý,ngôn,nhạc. Tôi đồng
tình với quan điểm này. Thế nên, cũng như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định,
tôi thấy thơ Đồng Đức Bón hay.
Lại xem thơ Đồng Đức Bốn gợi thế nào ?
“Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ
lang thang chợ chiều” (Chờ đợi tháng
ba), câu thơ thật gợi, khiến người ta cứ phải hình dung xem sao. Hay như,
gợi làm sao: “Chăn trâu đốt lửa trên
đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” (Chăn trâu đôt lửa): “Em như
chim bay về ngàn/ Để rơi một cánh hoa tan nát chiều” (Sông Thương ngày không em): “Nhà
em ở chỗ vòng quanh/ Sao tôi đi mãi không thành đường đi” (Về Nhổn tìm em): “Cái đêm em ở với chồng/ Để ai hóa đá bên sông đợi đò/ Cái đêm hôm ấy
gió mùa/ Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan” (Cái đêm em ở với chồng): “Chuông
chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò” (Bờ sông): “Bây giờ tuổi đã hoàng hôn/ Tôi ra đứng gió đợi buồn trên sông” (Đợi buồn)...vv... Thơ Đồng Dức Bốn, rất
nhiều nhưng câu thơ giàu sức gợi như thế,...
Tôi nghĩ, thơ Đồng Đức Bốn, nhờ sức gợi mà hấp dẫn người đọc.
@
Liên kết lỏng làm nên sức bền thơ Đồng Đức Bốn,
Thơ Đồng Đức Bốn, phần lớn cả bài không rõ ý tứ, liên kết các khổ thơ trong bài
cũng lỏng, thậm chí, câu trước, khổ thơ trước như chẳng liên quan gì đến câu
sau, khổ thơ sau. Ấy vậy, mỗi câu, mỗi khổ thơ lại có vai trò làm cọc tiêu cho
các câu thơ trong bài nương tựa vào nhau mà đứng vững., đến mức, nếu lược bớt
đi lại cảm thấy chống chếnh. Các bài thơ Chăn
trâu đốt lửa, Cuốc kếu, Chờ dợi tháng ba là những bài thơ có ý
tứ rõ ràng, liên kết khá chặt chẽ, chiếm số ít trong thơ Đồng Đức Bốn. Nhìn
chung, thơ ông thuộc dang liên kết lỏng, đơn giản, bởi mỗi câu thơ đều mang ý
tứ riêng và dường như hoàn thành xứ mệnh của nó rồi.
Này đây, bài Chợ buồn, cả thảy 4 cặp
lục bát: “Chợ buồn đem bán những vui/ Đã
mua được cái ngậm ngùi chưa em”, nếu chỉ ngắn gọn thì thế cũng thành bài
thơ rồi. Nhưng tác giả vẫn thêm “Chợ
buông bán nhớ cho quên/ Bán mưa cho nắng bán đêm cho ngày”, rồi lại thêm nưa
“Chợ buồn bán tỉnh cho say/ Bán thương
suốt một kiếp này cho yêu”, cũng không thừa, vẫn thêm nữa để kết “Tôi giờ xa cách bao nhiêu/ Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư”.
Mấy câu sau, tách riêng ra, mỗi cũng thành câu đủ làm nên ý của nó, song tất cả
xếp liền với nhau lại làm nên sự dày dặn cho cái kết chung, mà cũng là tâm
trạng thực của nhà thơ.
Bài thơ Sông Thương ngày không em,
cũng là một bài thơ như vậy. Câu đầu “Không
em ra ngõ kéo diều/ Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay”. Vậy thôi, cũng
gợi và mở rồi, để cho người ta mặc sức liên tưởng. Nhưng vì muốn đi đến cái kết
chở tâm tư của mình “Không em từ bấy đến
giờ/ Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang” thi tác giả phải thêm “Sông Thương như gỗ hóa trầm/ Mùi hương để
vết tím bầm trên da”, và “Sông Thương
từ buổi em xa/
Nhiều bài thơ Đồng Đức Bốn là vậy, chiếm số đông, nhất là thơ lục bát. Có cảm
giác, khi sáng tác, tác giả chắp nối các câu thơ riêng vào với nhau, hoặc tác
giả không làm chủ được mình, mặc cho câu thơ dẫn dắt mình đi, lạc bước, để rồi
khi giật mình tỉnh giác, ngơ ngác tìm đường trở về. Các bài Đàn buồn lại mắc dây oan, Thôi đừng hát nữa người ơi, Chiều mưa trên phố Huế, Em bỏ chồng về ở với anh không,... đều
thuộcvdạng này.
Lối kết cấu lỏng, dựa vào các câu thơ cọc tiêu ấy làm nên sức bền cho thơ Đồng
Đức Bốn. Tựu chung, bài có thể dông dài, hay lan man, khong rõ ý, thậm ý tứ tản
mát đi chăng nữa, thì nhờ có một, đôi câu thơ hay, khiến bạn đọc thích thú mà
thể tất, mà bỏ qua cho cái tội dông dài của tác giả. Bởi người ta, chỉ cần nắm
bắt một câu thơ giàu sức gợi, ấn tượng, hay là thấy đủ, thuộc nagy được, đặng
ngâm ngợi hay mang ra bình luận, tán thưởng vui bạn vui bầu lúc trà dư tửu hậu.
Vậy là Đồng Đức Bốn làm được điều này, bởi thơ ông có nhiều câu như thế !...
@
Với lại, Đồng Đức Bốn có cái lối, cứ “xưng xưng mọc mọc”, cũng có thể cho là dùng phép “thậm
xưng” nói ra cái ý của mình, đặt điều, nói quá lên, đem gán ghép cho
người ta những thứ ấy, rồi lấy đó làm cái cớ, chỗ nương tựa, để mà buồn rầu,
khổ ải, than vãn này nọ, kiểu bắt đền, ăn vạ,... Ở ngoài đời, nếu ai mà sống và
ứng xử thế, cứ cường điệu, làm quá lên mọi chuyện thì thật không ổn chút nào,
song trong thơ thì lại ổn, thậm chí là đắc địa, nếu biết tiết chế. Tôi nghĩ,
Đồng Đức Bốn rất chi đắc địa và thật lợi hại với thủ pháp này.
Thì những đây: “Em đi từ hạ vào thu/ Gặp
tôi ở chốn sương mùa chưa tan/ Em đi từ phái gian nan/ Gặp tôi ở chỗ cung dàn
dứa dây” (Về phố Hàng Tre); “Một chiều về phố hàn Thuyên/ Sao em lại nỡ
bỏ quên tôi rồi” (Về phố Hàn Thuyên);
“Anh từ trong em bước ra/ Tiếng thương
tiêng nhớ gấp ba chuông chùa/ Em từ anh ra lạ chưa/ Một ngày những có bốn mùa
đổi thay” (Chuông chùa Quán Sứ);
“Tôi ngồi làm thơ cho ma/ Và coi quỷ dữ
như là tình nhân/ Chán chơi với các vị thần/ Tôi đi tìm cỏ mùa xuân đắp mổ”
(Viết bên hồ Hai Bà); “Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai
nấp trong lòng trộm nghe” (Ở phố Bà
Quẹo); “Có ai yêu gỉ bào giờ/ Để tội
cái ngõ gọi ngờ Tạm Thương/ Tôi về ngày ấy nhiều sương/ Mà sao chỉ một giọt
vương trong lòng” (Ngõ Tạm Thương);
“Phố tình bạc bẽo bao nhiêu/ Mà sao tôi
vẫn cứ yêu như thường” (Nhà em ở sát
chợ Mơ); “Ước gì mưa mãi chẳng tan/
Để cho sấm cứ râm ran khắp trời/ Để cho em nép vào tôi/ Ôm chung một giọt mưa
rơi xuống lòng” (Phố Nối mưa rào);
“Màu
hoa đỏ một nụ cười/ Lặng im mà sóng luân hồi dâng cao” (Hoa dong diềng); “Một mình
đi với một đêm/ Một ddeeem đi với sấm rền trong mưa” (Ở phố Bà Quẹo); “Chiều nay Hồ
Tây có dông/ Tôi ngồi trên sóng mà khong thấy chìm” (Chiều nay Hồ Tây có dông)...vv... Nhiều làm những câu thơ như thế,
nên có thể xem, “thậm xưng” là thủ pháp phổ biến được Đồng Đức Bốn dùng đạt hiệu
quả cao.
@
Nếu như trong thơ, Trần Đăng Khoa và trong văn, Nguyễn Huy Thiệp đều chú trọng
và rất tài tình trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện, thì trong thơ Đồng
Đức Bốn, cái không gian nghệ thuật ấy lại lễnh loãng, thậm chí chẳng có không
gian nào. Thế nhưng, gần như bài thơ nào, cũng có câu thơ hay và may sao, tự
thân câu thơ ấy làm nên không gian riêng cho mình, hư ảo, ấn tượng, ám ảnh, để
người đọc phải nhớ và vì thế cứu vớt cả bài thơ.
Ví như: Bài thơ Bờ sông, câu kết “Bờ sông có một con đò/ Gác chèo ông lão nằm
lo trăng buồn”. Tự thân, tạo được không gian riêng có, chẳng cần đến mấy
câu thơ trên “Bờ sông hoa cải hoa cà/ Ước
chi áo tím như là ai mong”; “Chuông
chùa chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò”. Hay
như: “Tôi là một kẻ mồ côi/ Thế gian mất,
tôi còn tôi một mình” (Nửa dêm Đà
Lạt) ; Hay như bài Thăm mộ Nguyễn Du,
tác giả luận đề “Đời Kiều sao lắm tái tê/
Đời tôi sao lắm đam mê chưa thành”, rồi những câu thơ tiếp nối cứ lan man mỗi
câu một ý cho đến khi thấy cần thôi thì tác giả vội kết: “Tôi đi về vẫn dọc ngang/ Câu thơ thập thững nén nhang cho ngươi”,may
câu này lại khá ấn tượng ...Hay nữa,
trong bài thơ Tôi là vua không có ngai,
câu mở đầu tuyên bố thản nhiên như thế, tác giả triết luận bâng quơ theo cái
kiểu “nói đại không chịu trách nhiệm”,
là để đi đến cái kết bất ngờ, ngẫm ra mới thấy hay “Chìm trong vương quốc của thơ/ Không cho người được may cờ để treo”,...v.v...
@ Lại có cảm giác, cứ như tác giả
sướng gì viết nấy, rồi đem chúng thả chung vào một cái ao và cố tình khoắng
loạn lên cho các câu thơ riêng lẻ chao động, trô dạt, và quệt dan díu vào nhau
mà thành. La tôi cứ hình dung vậy khi đọc thơ Đồng Đức Bốn, chẳng hay ?
Bài thơ Nhà quê, tác giả chia làm
mấy khúc, là cách để đỡ phải mất công nhào luyện vo viên chúng với nhau, bởi
nhà quê thì có cả ngàn vạn chuyện, biết nói sao cho hết, mà có nói ngày này
sang ngày khác, năm này sang năm khác cũng không hết chuyện. Thế nên, tác giả
chỉ buông vài câu “Nhà quê có cái giếng
đình,”, rồi “Nhà quê chân lấm tay bùn,”
đã thấy chẳng cần phải con cà con kê nữa, dẫu có mang chuyện Thị Màu ra bàn thì
mãi cũng nhàm, nên thôi, túm chuyện vào một mớ cho xong “Bao nhiêu là thứ bùa mê/ Cũng không bằng được nhà quê của mình,...”,
tự hào kiểu nhà quê, ra điều nhà quê của tớ còn ối chuyện để kể nhưng đây không
thèm nhé,... Đây cũng là thói ma lanh, láu cá đầy chất “nhà quê” của Đồng Đức Bốn mà nhà thơ sử dụng trong thơ mình,...
Hay như, bài Vu vơ chùa Hương, gồm mấy phần, mỗi phần một ý, ngưòi ta có thể
quên, song sẽ khó quên câu thơ trong bài, như "Có gì trong tiếng chuông êm/ Quả mơ vẫn héo cả đêm lẫn ngày/ Chùa
Hương nghi ngút hương bay/ Phật ngồi cũng héo cả ngày lẫn đêm,". Rồi
như bài Qua nhà người yêu cũ, nhà
thơ thấy gì nói đó, vu vơ cho có chuyện, nếu như thiếu đi câu hay “Vẫn còn thấy vướng trên môi/ Tóc em một sợi
rong chơi lạc vào” thì bài thơ nhạt hoét. Nữa là bài thơ có cái tít rất kêu
Thơ viết gửi người tình khi tôi đã chết,
cũng đâu có gì ghê gớm, to tát, chỉ vu
vơ thôi, nếu như không có câu dỗi mình giân người “Chết rồi tôi vẫn làm người/ Để nhân những nỗi đau đời cho em”...
Chịu khó tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ ông, dạng thức này không hiêm. Tôi cho,
đây cũng là một dạng thức hợp làm nên chất Đồng Đức Bốn.
Bình sinh lúc Đồng Đức Bốn còn chưa là gì cho đến khi trở thành nhà thơ nổi
tiếng, được nhiều người biết đến tôi có gặp ông mấy lần. Đôi lần là ở tòa soạn Báo Nông nghiệp (nay là Nông nghiệp Việt
Nói như vậy, là để thấy, trước đó tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng), và sau đó là mấy tập thơ nữa, thì
cái người ta nhắc đến (sẽ còn nhắc đến)
phần lớn là những bài thơ, câu thơ nằm trong tập Chăn trâu đốt lửa. Ngay khi làm tập, Đồng Đức Bốn đã nhặt nhiều bài
thơ trong tập thơ đầu tay (Con ngựa
trắng và rừng quả đắng) mang sang tập Chăn
trâu đốt lửa. Rồi sau đó, ông vẫn tiếp tục lựa chọn một số bài thơ hay,
được người đọc yêu thích sang làm cốt cho tập thơ mới của mình. Đặc biệt tập
thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn xuất bản năm 2006 vào năm ông mất, dày hơn nghìn
trang, có thể xem là tuyển tập thơ Đồng Đức Bốn (Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc,
NXB Hội Nhà văn). Lại cũng không có nghĩa, những tập thơ sau không có những
bài thơ hay, câu thơ ấn tượng. Bởi dù có hay không những tập thơ khác của ông
thì giờ đây trên không gian mạng, người ta có thể tìm đọc hàng trăm bài thơ
được nhặt ra từ các tập thơ của ông, mà có thể xem đó là những bài thơ hay,
hoặc được người đọc yêu thích trong toàn bộ thi cả của Đồng Đức Bốn.
Có điều, không may cho Đồng Đức Bốn là không mấy thọ, hưởng dương chưa đến tuổi
lục tuần bởi căn bệnh hiểm ghèo, tuy đã
thành danh và thơ vừa độ chín. Giả sử, trời cho ông thọ thì nhà thơ vẫn có thể
cho ra thi phẩm hay. Đáng tiếc là vậy. Song tôi nghĩ, với chất thơ này, cùng
các thủ pháp sáng tác mà tôi đã nêu ở trên, Đồng Đức Bốn khó có thể tiến xa hơn
nữa, hoặc giả chỉ để làm mới mình thôi. Còn như, vẫn tiếp tục giọng điệu ấy,
chỉ càng thêm cũ, thêm nhàm, thậm chí, không khéo còn làm nhạt nhòa đi cái đặc
sắc mình từng có. Bằng chứng, tính từ thời điểm Đồng Đức Bốn bắt dầu tập tọng
thơ phú (khoảng năm 1980) cho đến lúc
ông qua đời (2006), với mấy trăn bài
thơ, thì đến nay, số bài thơ được người yêu thơ đọc nhiều nhất và thích nhất
của ông cũng độ chừng đâu đó mươi bài (Trở
về với mẹ ta thôi, Vào chùa, Chăn trâu đốt lửa, Em bỏ chống về ở với ta không,
Đời tôi, Chợ buồn, Chờ đợi tháng ba, Nhà quê, Cái đêm em ở với chồng, Đêm sông
Cầu, Bờ sông,...). Tất nhiên, nếu tính theo đơn vị câu, thơ Đồng Dức Bốn
khá có nhiều câu thơ hay, gợi, được ngươi ta nhớ và thích,... Chí ít, ông có sự
vinh hạnh vì mình đã gây được ảnh hưởng đến người khác.Và tôi tin thế, bởi đã
thấy, những câu thơ gợi và hay của Đồng Đức Bốn thực sự ảnh hưởng đến nhiều cây
bút thơ sau ông, cũng như một thời, ối cây bút văn xuôi xứ ta bị ảnh hưởng, chi
phối bởi giọng điệu, khí chất Nguyễn Huy Thiệp, trong sáng tác của mình,...
Chuyện cuộc đời ông, tôi không mấy biết về Đồng Đức Bốn. Tuổi Mậu Tý, mệnh
"Tích lịch hỏa" cùng với
ông (sinh 1948), làng văn chương xứ Việt mình nhiều người có tài (Văn Chinh, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Hiếu,...
). Bản thân Đồng Đức Bốn xuất thân con nhà nông dân nghèo ở An Hải (Hải Phòng),
song ông lăn lộn qua nhiều loại nghề (Thanh
niên xung phong thời chiến tranh chống Mỹ, rồi thợ cơ khí qua nhiều đơn vị, rồi
nữa là thương nhân), nên có thể xem là người từng trải, giàu vốn sống. Đó
là lợi thế của ông. Tôi cũng từng nghe người ta nói nhiều về đời thơ, việc xuất
bản thơ và chuyện lang bạt đó đây, giao lưu bạn bè, làng văn chương,... hay
nhiều mà dở cũng có, thành giai thoại cả, lại thật hư chẳng mấy rõ...!?...Nên
không dám bàn.
Tôi nghĩ là, trong cái rủi lại có cái may, bởi rời bỏ dương thế, ông chẳng còn
phải đau đời, vật vã với chuyện chữ nghĩa, thơ phú nữa. Kể từ khi dính cái bẫy
thi ca, coi như ông đã vướng nghiệp, đánh cược đời mình, dại dột "mải mê đuổi một con diều" rồi. Song
còn may mắn hơn nhiều người, cả đời thu
phú tay tắng vẫn hoàn tay trắng, còn ông, với ngần ấy thôi, nhất là thơ lục
bát, Đồng Đức Bốn đã đủ để ngao du với đời rồi.
Hơn chục năm trước, trong một
vài bài viết, khi bàn về thơ Việt Nam hiện đại, riêng thể lục bát, tôi đã mạo
muội khi xếp bốn nhà thơ ngồi bốn góc chiếu Lục bát, ấy là Nguyễn Duy, Lê Đình
Cánh, Phạm Công Trứ, và Đồng Đức Bốn. Giờ thì trong chiếu thơ Lục bát ấy, tôi
nghĩ, vẫn còn cả bốn vị này, nhưng chẳng thể trấn giữ riêng mình mỗi người một
góc chiếu, mà xin các ngài phải xê dịch đôi chút để nhường chỗ cho mấy người
khác nữa cùng ngồi,...
Tôi muốn ngưng bài viết này, bằng câu thơ kết trong bài “Đời tôi” của Đồng Đức Bốn sáng tác năm 1986. nghĩa là khi ông mới
tập tọng thơ phú, vậy mà đã mang tính tiền định: “Đời tôi giàu ở chiêm bao/ Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng”,...
./.
Nhận xét
Đăng nhận xét