@@@
NHÀ THƠ LÊ ĐÌNH CÁNH & CÁC ĐỒNG NGHIỆP VOV6
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát
Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo
muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và
mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn
Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.
Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê
Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ,
mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc,
trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của
Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in
riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất
lành do NXB Thanh Niên ấn
hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà
thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“
(bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương
sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao
nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê
Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư
tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài
thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt
Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình
Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể
lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài
ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca
Việt
Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao
nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều
bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ
trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ
từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông
với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thê nọ, rồi trích dẫn thế
kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ
lục bát...
Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài
nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc,
song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo
cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu
thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai
mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc
chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ,
lập ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng,
têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những
bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu,
câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi mang những nhận định trên
mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông
có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng
được giải, lèm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi Trăng nở nụ
cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ
xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga
Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông
Chùy, Cõi xưa, Bến quê, Trở lại Ba Lòng,
Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...
Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy
rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ,
dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
“Mải
lo cơm đủ áo lành/ Còn đâu lúc rỗi để
thành vọng phu” (Gió đất); “Ở rừng
từng hát ru nhau/ Lá trầu chị héo, quả cau em già” (Em đi); “Tình yêu như thể chơi đề/ Đợi con độc đắc
lại về trắng tay,... Đố ai hết nợ đàn bà/ Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu” (Chợ tình); “Chốn quê vẹo cột vênh kèo/ Ốc
cam phận ốc lại đèo kiếp rêu”. (Chợ người); “Xế tà tháp lặn vào mây/ Vầng
trăng chính sử hao gày hoàng hôn” (Lời xưa); “Sau già là cõi xa xăm/ Nén
hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.” (Hỏi đất); “Giếng làng mưa bão vẫn trong/ Chợ
quê rớt già vẫn đong đếm đầy” (Thú quê); “Đao đình cong nỗi phế hưng/ Một
thời lá rụng dửng dưng sân chùa” (Phận rùa); “Tuổi
già như thể nắng hanh/ Vừa long lanh
sớm. Đã mong manh chiều” (Về hưu); “Ơi
người áo mũ cân đai/ Nắm xương có xếp
vào hai tiểu sành” (Tiểu sành); “Nắm
tay củ ấu vẫn tròn/ Người ơi vẫn ngọt
bồ hòn trên môi” (Chợ Mơ); “Giả vờ có
ngủ được đâu/ Nằm chong chong mắt lâu
lâu lại ngồi” (Ngủ nhờ); “Ngày xưa xe
lộn về Bần/ Mấy phen tuột xích quãng
gần Khoái Châu” (Về Phố Hiến); “Nẻo
đường bồ bịch cong cong’ Vừa lo thoát
khỏi. Vừa mong nhảy vào...” (Nẻo đường cong cong); “Bắt chồng em có chọn anh/ Như
kim chọn chỉ vá lành áo nâu/ Như là
đồng đất chọn trâu/ Nương cao cũng
kéo ruộng sâu cũng cày/ Chọn anh như
cối chọn chày/ Canh khuya giã sắn
rạng ngày đâm ngô” (Bắt chồng); “Thân
cò trở lại nghề nông/ Rời cây súng
biết tay không có gì/ Mấy đồng hưu
trí thấm chi/ Cảnh nhà vơi bát lắm
khi mụ người” (Anh lại đi cày); “Nứa
mai thưng hở vách lều/ Rừng khô xao
xác nai kêu lẻ bầy/ Mưa bay như thể
sương dầy/ Sàn khuya thương ngọn nến
gày lắt lay” (Gặp ở Mường Tè)...
Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay
như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc
sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ
không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn
chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến
người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
“Thế cờ
nghiêng về đâu/ Pháo mã thành vô dụng/ Sĩ
tượng thành thất sủng/ Tốt đen cười
sang sông” (Nắng Hàm Tân); “Ai biết
được ma nào ăn cỗ/ Ai dại gì công bố
chuyện đi đêm” (Vợ Ba); “Gặp bạn tình
lòng đã thấy no/ Rượu chưa nhắp lời
đà có lửa/ Trưa đứng nắng bồn chồn vó
ngựa/ Chợ lim rim một nửa sang chiều”
.(Chợ Bắc Hà); “Đường một chiều cứ
thế tôi đi/ Tôi biết dại làm người
nhụt chí/ Cái đáng vứt lại cất làm
của quý/ Cái phải chôn đi lại để
trưng bày” (Đường Bà Triệu); “Đâu đá
lát lên đền Tam Tổng/ Lạnh khói hương
thông thốc giữa trời/ Hai hộ pháp vẫn
muôn đời gác cổng/ Ông Ác cười! Ông
Thiện toát mồ hôi... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo/ Thời gian như nước ngầm băng hoại/ Trái tim tôi càng sống càng nghèo” (Quê
ngoại); “Mùa khô Đồng Văn trơ gió/ Gió khê lời đá thở dài/ Gió như tiền vào nhà khó/ Một đời gió thổi trần ai” (Mùa khô Đồng
Văn) v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong
tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình
thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện
nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến
ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc
đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này.
Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa
máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như: “Đèn mờ
nửa đỏ nửa xanh/ Để êm đỡ trẻ. Để anh đỡ già” (Hát Karaoke); “Phố làng xóa sổ nông dân/ Quán quê lai ghép
công nhân nửa mùa/ Lượn lờ chào bán gọi mua/ Dật dờ chai cốc được thua với đề” (Phố
Làng); “Mảnh bằng bán tận châu Phi/ Tiền
lương đếm lại nhiều khi mủi lòng/ Ước mơ xé lẻ từng đồng/ Thương con liệt sĩ
lấy chồng thương binh,/ Vết thương như kẻ vô tình/ Tấy lên những lúc gia đình
ăn vay.” (Vàng xám) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể
thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông,
thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít
nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...
2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.
Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ,
đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh
nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học
Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông
lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng
chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến
nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015,
con số đã là 7.
Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như
tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ
vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật,
nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với
tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm
biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông
luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu
cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình
văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn
học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...
Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù
chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi
nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút
ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ
hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài
Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học
khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác
phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông
được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí
chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa,
uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không
riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít
nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...
Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là
bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh.
Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc
theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp
từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý
thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông
từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân
trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là
phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là
phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy,
gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách.
Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối
nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là
biến chủ thành khách, còn mình từ khách
thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý
mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo
cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê
Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia
tăng hàm lượng văn chương cho bài
biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm
hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến
thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm
phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút
chuyên ký sự khác cùng thời...
Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến
thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo
cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc
nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết
dạng này, khá thành công, như: Hoa sen,
Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng
gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...
Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm
của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn
đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muôn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì
đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi
tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương
ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo
tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...
Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy
là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh
có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông,
quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai
đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều
mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này,
tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn
dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm
thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng
mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối
hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...
Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ
Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể
loại bút ký, ký sự văn học !...
3.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu,
nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV),
tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc
của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở
58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phải hàng
năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng
Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng).
Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ
thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ
(Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân
đội và Tạp chí Văn học (Viện Văn
học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững
chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ
ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ
phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà
thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng
Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên,
thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi
cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân
biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người
trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu
có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng
xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau
đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát
sóng, sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.
Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho
tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ
Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được
xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng
tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên,
đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng cần văn học dẫn
dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ - ông trùm của văn học thiếu nhi
nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo
lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi
của Hội Nhà văn Việt
Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có
thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người
khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông,
trong công việc và đời sống, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi,
việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì
phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự
lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh
thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ,
thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản
thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo
tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công
việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người
khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải
quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm
giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả
khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm
thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông
văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc
chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ
tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng
bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ...
Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân
gian. Cùng với đó, chịu đi và đi nhiều,
chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vở
lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo
nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình
Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người
được đồng hóa, gán với nhân vật Trạng
Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt,
Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách
minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính
thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà
dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và
hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ
song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng như khướu nhưng viết
ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được
cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...
Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh
Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ
nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà
do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ)
Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại
một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân
tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và
tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa
miệng thì vẫn đấy....
Sau những xã giao thông thường, bập
vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như
khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông
giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực
và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông
vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan
sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa,
vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm,
được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác
từ thời là người của nhà Đài (VOV),
cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Ở tuổi gần tấm mươi, ông sống chung
với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính
nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.
Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là,
mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về
sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh
thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi
thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với
gia đình, với cuộc đời này !...
Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây?...
Chân dung tôi viết về ông, Lê Đình Cánh có đọc và tỏ
ra hài lòng, thích thú, trước khi ông trở bệnh nặng rồi mất. Song giờ đây, với ông, tất cả đều là phù du... Có hăng, ít
nhiều cho những ai từng biết và yêu
thích thơ ông mà thôi ?!... ./.
Nhận xét
Đăng nhận xét