NGUYỄN TÂN QUẢNG KÝ HỌA
@@@
ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN VĂN
ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN VĂN
Tiểu luận & Chân dung văn học
(Nguyễn Chu
Nhạc)
CHÍNH DANH GỌI TỄU..
·
Chính danh gọi Tễu
Đấy là một gã đặc biệt. Đặc
biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần
của mình - các tập thơ là đủ thấy: Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ
may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để
hoàn tất thành Phồn tập.
Tôi thì nhất quyết gọi gã là
Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng:
Cởi trần đống khố múa chơi
Hát rằng,
giữa đất và trời có ta
Đất là
mẹ, trời là cha
Chính
danh là Tễu, tự là Thảo Dân ...
Còn tên khai sinh do cha mẹ
đặt cho là Phạm Công Trứ - Tiến sĩ Luật
- Nhà thơ - Nhà báo.
Thật khốn khổ cho cái thân
gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ
quê mùa của mình.
Thoạt đầu là cái tên Công
Trứ, khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ - Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời
Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi
Hải Hậu (Nam Định) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với
danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công lập ra hai huyện nguyên là vùng đất
mới bồi, Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn
(Ninh Bình), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau
này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh
nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
Thêm nữa, chẳng hiểu gã có
biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song
lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một danh thần, nhà sử học thời Lê, đầu
thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào (Hưng Yên), đậu
tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng
thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến
quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương
triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư.
Thôi rồi, gã hết đường biện
bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên
danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. Đã từng đứng trên bục
giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như
ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có
thể tự hào mà đứng trong trời đất này!
Tôi biết Phạm Công Trứ khi
đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ
Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý
Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô
ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông
nghiệp Việt
Song le, nhắc đến Phạm Công
Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn
với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có
ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà
làm gì .
Như một định mệnh, Phạm Công
Trứ đến với người yêu thơ bằng bài lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà
tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru,
tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã
được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần
Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo
gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
Quả thật, Phạm Công Trứ sở
trường về thơ lục bát. Song le, thương thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh
nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội
hạc ra đình đội bia, ấy là phải đội các bậc cao thủ tiền bối lục bát là
Nguyễn Du, Tản Đà và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh
tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt
mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã.
Bốn người ngồi bốn góc: Nguyễn Duy - Lê Đình Cánh - Phạm Công Trứ - Đồng Đức
Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
Chơi với Phạm Công Trứ, cũng
thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này
chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một
tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ (tập thơ).
Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ
cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì sẽ
chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy
thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã?
Tôi từng viết một bài tạp
văn Sân trăng (in trong tập Lên núi tầm mai - Nxb Văn học-2005 ),
lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: “ ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con
thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy
thêm như trêu”. Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa
khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi
tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
Thoạt trông tướng gã quê
quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để
nuôi vợ con (một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà
lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo
am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu
chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan-Hoa các, hoặc
giả Nghênh-Phong hiên, hay Vọng-Nguyệt lâu...cho thêm phần nho
nhã. Vậy mà Tễu, một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
Đa phần người yêu thơ, biết
đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy,
thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà
cả ba tập, lại còn thành tên tuyển Cỏ may thi tập. Tôi biết, trong cuộc
đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về
cái thuở “ngồi gỡ lời thề cỏ may”. Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những
phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái
tạng của gã. Gã là folklore, gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông
lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả làng, cả tổng, cả thiên hạ (đâu kém cạnh gì cụ Tú Xương cùng quê với gã). Tôi lại cho rằng, sự
nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
Tễu sinh ra ở quê, đích thị
nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới “cởi
trần đóng khố múa chơi”. Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch: “Đất là mẹ,
trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ Trọng
thực thường lấy chữ ăn làm đầu/ Bạn thì những chó cùng trâu…”. Nhưng đâu
chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao, Tễu bình thường cam phận là thế: “Ra trận
đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng”, song lúc máu yêng
hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: “Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng
nhọn hổ thì ngán ta”. Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo
trò của mình.
Đấy là Tễu gốc. Biến tướng
sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu
thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả “Độc một mảnh khố che thân/ Giấc
mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi”, Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà
biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: “Ai
ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay”. Tễu ta ngồi máy
bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết
phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng, thảo
dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt
thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị
dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn
giản thôi, thì cứ “Sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân”.
Thế là thành Tễu III,
thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi
mới bén mảng ra phố “Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng
Xuân”. Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất
ngoại với Tễu không còn là may, mà đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn
chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích,
dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám
đông Tây-Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi
là chính mình, với khố áo, với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a
điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đêm trăng.
Tễu ta đành lột xác, song
chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi
nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế
thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa “Này
nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa/ Này người dân dã
quê ta/ Cắc tùng nhịp trống, ới a điệu chèo”. Kỳ cùng cho đến một ngày kia,
con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra
trò!... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta
sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao?
Tễu ta, thị dân: “Thị dân
trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/
Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê
đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/
Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến
khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...”. Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở
quê khó hơn nhiều.
Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về
quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn
vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân:
“Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè
nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ
mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/
Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời”.
Xin được nhắc lại, gã biết
tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không
ngán ai. Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với
cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê,
cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài
quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ?!
Khi ngồi với vài ba bạn bè
thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn,
rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ.
Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có
phải vậy không? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự
mà đoán: Trứ, có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật,
làm văn, làm sách (theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh),
chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ
người (như học giả, hiền giả), còn bộ thảo chỉ cây cỏ. Vậy là kẻ đội tên
Trứ muốn thành giả (như tác giả thi ca chẳng hạn) là phải nhập
vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để
nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào
Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ
rơm và công việc nông phu.
Phạm Công Trứ nghe. Gã gật
gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà.
Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : “Đúng
là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần
thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/
Việc chi mà lo sợ”.
Không những thế, ở phần V Thơ
phú giao duyên, gã thẳng thắn tự giễu cợt mình: “Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu
trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/
Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa: chấp chi/ Hắn - Phạm Công Trứ!”.
Gã đã chơi bài ngửa, trắng
phớ trước bàn dân thiên hạ. Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã
(kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao
lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ; hoặc
như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì
hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự).
Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thế thì thương xót và nương
nhẹ ai đây ?!...
·
Tự là Thảo Dân
Có một dạo Phạm Công Trứ
được giao chuyên trách tở Pháp luật cuối tháng. Trong đó khó nhất là
“nuôi” một chuyện mục nửa báo nửa văn, gồm những chuyện pháp luật, xã hội, đời
sống, độ trên dưới nghìn từ. Bí bài, Phạm Công Trứ cầu cứu đến tôi. Chẳng là,
ngày ấy, tôi là Phó trưởng ban Văn hóa xã hội Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), nội
dung công việc hàng ngày liên quan đến các vấn đề văn hóa-xã hội, đời sống-pháp
luật. Các thể loại ngắn như tản văn, tạp bút, câu chuyện là nghề của tôi. Vậy
là tôi nhận lời giữ mục cho Phạm Công Trứ, cũng đâu cầm cự được vài năm. Lẽ dĩ
nhiên, còn có thêm bài viết của người khác để chuyên mục đa giọng điệu, đỡ
nhàm, và phòng khi tôi quá bận việc hoặc bí đề tài... Nhân đây, cũng phải cảm
ơn Phạm Công Trứ, bởi nhờ những tạp bút, tản văn đó, mà sau này tôi cơi nới,
nhuận sắc được tập sách khá dày dặn là Lên núi tầm mai, in ở nhà Văn
học, 2005.
Đây
cũng là thời kỳ thơ Phạm Công Trứ sung sức nhất. Ngoài các tập thơ tặng, tôi
còn được nghe gã đọc thơ và chuyện phiếm về thi ca, cùng chuyện bếp núc văn
chương chữ nghĩa. Những tư liệu, thi liệu này đã giúp tôi viết bài chân dung Chính
danh gọi Tễu. Khi đưa lên mạng xã hội (blogtiengviet.net), nhiều người
vào dọc, thích thú, cảm nhận và còn cung cấp thêm một số chuyện mà họ biết hoặc
nghe nói về gã, ví như một người sống ở Vũng Tàu, bảo là rất thích bốn câu của lục bát của Phạm Công Trứ “Mướp tàn
sen cũng đi tu/ Lá tre đã thả một mùa heo may/ Con sông không ốm mà gày/ Mắt em
chưa tối đã đầy hoàng hôn”. Khi ấy tôi mới giật mình tự trách sao mình lại bỏ sót câu thơ rất gợi này.
Lại có người thóc mách chuyện
thời Phạm Công Trứ sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ngành Luật, vì chuyện cơm
áo đã cùng người ta buôn hàng này nọ. Rồi cả chuyện đem chó Bắc Kinh về Việt
Trở lại chuyện thơ ca, những
thứ làm nên tên tuổi Phạm Công Trứ trong làng Lục bát Việt
Theo nghĩa Hán-Việt, “thảo” là
cỏ, còn chữ “dân” nghĩa nguyên thủy là kẻ nô lệ. Vậy nên nói thảo dân là tự nhún mình, ví
mình là thứ nhiều như cỏ rác, mang thân
phận thấp hèn của “dân đen”. Tuy nhiên, hai chữ Thảo Dân ở đây viết hoa và được
xem như “tự” của chính danh gọi Tễu. Có lẽ Phạm Công Trứ cũng như một số các
nhà thơ khác “xài” hai chữ Thảo Dân thì chỉ là một cách nói nhún nhường để rồi
biểu dương, vinh danh họ, chứ không mang tính chất hạ thấp, xem thường người
nông dân. Chẳng thế mà cỏ may, một loại dã thảo, đã có mặt trong số bài thơ đầu
tiên trình làng văn nghệ của Phạm Công Trứ. Rồi, như một duyên nợ, cỏ may xuyên
suốt đời thơ và để dấu ấn đậm đặc làm nên thương hiệu thơ Trứ: “Cỏ
may cỏ đĩ cỏ mê/ Cỏ không ngôi thứ cỏ thề cùng tôi… Cuối cùng thì đất lên ngôi/
Tôi hóa thành cỏ hát lời hư vô!”.
Như cái tên “làng phố
giao duyên” viết trường ca này, Phạm Công trứ cũng chẳng cần di đâu xa, gã
cứ lấy nguyên cái làng quê mình trong sự đối sánh, trương tranh, tương giáo với
“phố” mà tả, mà kể, mà giễu cợt, mà
thương nhớ xót xa,... Cũng như cái làng Vũ Đại của Nam Cao hóa thân từ làng Đại
Hoàng quê ông, đại diện cho sự bần cùng hóa pha lưu manh hóa thời thực dân
phong kiến ở làng quê Bắc bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, thì nay làng của Phạm
Công Trứ ở chốn Hải Hậu có thể thay mặt cho làng quê xứ Việt buổi cựa mình, đổi
mới vươn lên thoát nghèo. Bề bộn và nham nhở lắm, biết bao chuyện dở khóc dở
cười với hiện trạng “làng trong phố, phố nửa làng”. Thì đấy: “Ban
ngày phố như làng/ Em tóc vương rơm cỏ/ Đêm về làng hóa phố/ Em tóc nâu môi
trầm”; “Làng xưa vãi húng trồng rau, phố giờ cắt tóc gội đầu như ai”;
“Chỗ này xưa gọi làng Vòng/ Tiếng chày giã cốm uốn cong trăng vàng/ Từ ngày phố
nuốt mất làng/ Những em giã cốm chuyển sang làm đầu”; “Cái mất thì đã mất rồi/
Cái còn nhấp nhổm đứng ngồi không an”...
Dù là tiến sĩ Tây học, gần trọn
đời sống ở phố, làm báo làm thầy đi khắp đó đây, ăn mòn bát đĩa thiên hạ, nhưng
cứ sểnh ra là gã lại hiện nguyên hình là một tay nhà quê, với cỏ rả, bùn đất
đồng áng: “Cỏ may, sao lại cỏ may/ Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê/
Nhớ đồng, nhằm biển anh về/ Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa”; sống lại với
chuồn chuồn bươm bướm từ thuở trẻ trâu: “Rón rén là rón rén ơi/ Chú chuồn ớt
mới đậu rồi, tóm ngay/ Rón rén là rón rén này/ Nàng bướm trắng lại vút bay mất
rồi”.
Gã như còn như tự hào với những
cánh bướm, cánh chuồn, cánh diều mà gã mỹ miều gọi là hồn quê:“Hồn
quê vi vút phiêu diêu/ Ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là
nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”. Chẳng
ngại gì kẻ cười người chê là quê mùa, gã như còn thấy hả hê, hào hứng: “Tắm
truồng thú của trẻ quê/ Ra phố là hết đam mê tắm truồng/ Về quê tìm lại cội
nguồn/ Hòa cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông”...Thậm chí gã còn gọi đó là
bậc nhất “thú quê”: “Thú quê gì sướng nhất ta/ Chọi gà bắt cá hay là cưỡi
trâu?/ Cưỡi trâu chưa sướng nhất đâu? Sướng nhất là được cùng nhau… tắm
truồng”.
Chẳng biết thuở nhỏ gã có
“chăn trâu cắt cỏ” không, song thơ gã đã Cắt cỏ chẳng ngại gai đâm/ Lội
ruộng chẳng hãi âm thầm bùn rêu”. Cùng với cỏ rả là những cào cào, châu
chấu, cua ốc, trâu chó dù đã xuất hiện sớm song phải đến trường ca này thì nó
mới dầy đặc như là một thế giới cần lao lam lũ (dã tràng tự bạch, là ếch, là
trâu…). Thi liệu, thi ảnh toàn là những công việc của người quê, sản vật
của làng quê, từ đó làm nên thứ “văn hóa làng quê”, mà là làng quê của đồng
bằng ven biển, của kẻ tự nhận là… Thảo Dân!
Là trường ca thì cũng phải có
chương hồi chứ, nên gã dụng công băm chặt bày đặt ra cho có đủ cả“Mở”, và
“Khép”, còn khúc giữa là những Ngày tự nhận “Mục đồng là chúng
anh đây/ Lưng trâu đã cưỡi, liềm tay đã cầm/ xưa, Tự bạch, Trích ngang, Làng,
Đấng sinh thành, Viết cho con, Phố, Hà Thành hồi cổ, Hai khúc sông Tô, Làng
trong phố, Phố nửa làng... Là trường ca thì kiểu gì cũng phải tự sự, tức là
kể và tả. Mà đã kể tả thì khó tránh khỏi “con cà con kê”, “ngồi lê đôi mách”,
dù chữ nghĩa có dụng công đến mấy. Phạm
Công Trứ không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, ở Làng phố giao duyên
cũng hạn chế được sự nhàm chán nhờ ở cách kể và ở giọng kể. Ấy là một giọng kể
hóm hỉnh, có duyên và nhất là gã liên tục thay đổi giọng điệu, biến tấu thể
thơ.
Chẳng hạn, gã mượn đồng dao để
nhớ về cái tuổi thơ hoa bướm, mộng mơ “Ngày xưa/ Kéo cưa lừa xẻ/ Chẳng hám
cơm Vua / Chỉ mong được thua/ Về bú tí mẹ (!)/ Ngày xưa/ Mặc quần thủng đít/
Chi chi chành chành/ Quả ổi quả chanh/ Gốc na gốc mít/ Ríu ra ríu rít/ Ngày
xưa/ Đung đưa hoa bìm/ Lim dim hoa khế/ Sao mẹ đi chợ lâu thế?/ Ngày xưa/ Đi
trốn / Đi tìm/ Đống rơm, đống rạ/ Góc bếp, cánh cửa / He hé mắt nhìn/ "Ù
oà", "ù ập"/ Thế là ú tim!...”.
Có lúc Phạm Công Trứ mượn lối văn
biền ngẫu của thể phú để phác họa cảnh và người ở vùng quê biển của gã: “Ngàn
lưỡi chó dưới chân sóng liếm/ Trăm tay mèo trên đầu gió mơn/ Lũ còng gió ườn
mình nằm phơi nắng/ Đàn dã tràng miệt mài xe cát lấp đại dương/ Người đi te
chân kheo cao nghễu nghện/ Dân bắt còng giỏ nặng kéo lệch sườn/ Gái làm muối
bịt mặt cười lấp loá/ Trai kéo rùng cơ bắp cuộn như lươn/ Anh quỳ xuống ô nề
trưa nắng toé/ Lưỡi thấm mùi mặn chát kiếp gío sương/ Anh soi lên ánh mặt trời
nhiệt đới/ Những long lanh tinh kết giữa ngày thường/Anh chạy vồ những con còng
gọng đỏ/Những mắt lồi sắp chết vẫn còn giương/ Anh áp tai vào những vỏ sò, vỏ
ốc/ Nghe u u hồn biển giục lên đường…”.
Cũng bằng lối miên man kể và tả, gã dẫn dụ
người đọc lạc vào trận đồ chữ nghĩa dày công giăng mắc của mình: “Sông quê
nước chảy rầm rì/ Mặt sông sẫm màu nước vối/ Gái quê đi làm đồng về/ Kéo nhau
ra sông tắm tối/ Sớm ra vạn chài hành nghề/ Rộn rịp vãi chài tung lưới…Tháng
chín bước sang tháng mười/ Cốm mới thơm mùi mời gọi/ Rải đồng chim ngói từng
đàn/ Thôn xóm bước vào mùa cưới/ Cô dâu nửa khóc nửa cười/ Chú rể mong trời
chóng tối/ Lúa chiêm cấy hái xong xuôi/ Tết Ta cũng vừa kịp tới/ Nhà nhà gói
bánh, đồ xôi/ Giồng nêu, quét lại tường mới/ Sân đình náo nức cờ người/ Ao làng
om thòm diễn rối/ Thôn nữ váy ngắn nhún đu/ Các cụ ngước nhìn không nói,...”.
Kể gì thì kể, tả gì thì tả, thế
nào rồi cũng phải hiện lên bóng dáng trâu bò thấp thoáng nơi triền đê, ngõ xóm:
“Cảnh quê bao đời tiếp nối/ Trâu bò gặm cỏ triền đê/ Lông mượt vo ve ruồi
muỗi/ Nối đuôi từng đàn chiều về/ Thậm thịch chìm vào ngõ tối/ Mục đồng tóc gió
vàng hoe/ Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi/ Bập bùng ánh lửa bên hè/ Mùi cơm quyện
vào mùi khói/ Lấp ló trên đầu ngọn tre/ Trăng non cong hình lưỡi hái/ Dưới
trăng trai gái nguyện thề/ Thầm thì bãi dâu, ruộng cói/…”.
Làng quê trong Thơ phú giao
duyên cũng như có “âm bản”, bên cạnh cái phồn thực, phong nhiêu là bàng bạc
cái nỗi buồn muôn thuở của đồng quê, nỗi khốn khó lam lũ của những thảo dân,
nhất là khi màn đêm trùm lên lũy tre làng: “Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè/ Ôm
nhau ếch nhái sấp ngửa/ Cót két gió vặn thân tre/ Tưởng tiếng dân nghèo than
thở/ Lấp loáng cánh dơi đi về/ Mèo hoang từng hồi nức nở/ Lửa chài thấp thoáng
ven đê/ Bờ bụi nhọc nhằn tiếng cú/ Kẽo kẹt bên sông vó bè/ Ma trơi trên cồn
nhảy múa/ Say rượu giọng ai lè nhè/ Vu vơ đôi tiếng chó sủa/ Đều đều mẹ kể con
nghe/ Cái thời ngày xưa ngày xửa/ Bến sông trăng ném thia lia/ Thôn xóm chìm
vào giấc ngủ/ Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa/ Trong nhà tiếng người nói
mớ/ Mảnh mai tiếng hạc về khuya/ Chém màn đêm thành hai nửa/ Thoạt tưởng tinh
cầu đang rơi/ Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ…”.
Quả thật, đọc những dòng ma mị
như thế, người ta sây sẩm mặt mày như bị thôi miên mà lạc lối trong mê lộ chữ
nghĩa giăng mắc. Những khúc miên man li bì như vậy không hiếm trong trường ca
này, nó tạo nên cảm giác bất bình thường, ru rín, mê dụ, như tự kỷ ám thị mà
không biết thoát ra bằng lối nào. Về mặt tâm linh, có thể ví chúng với thuật
thôi miên trong lối hát hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt bản
địa. Mà Phủ Giầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở đất Nam Định, quê gã, lại là “cái
nôi” của Đạo Mẫu rất thịnh lối hát chầu văn hầu bóng này. Nói theo ngôn ngữ
hiện đại, Phạm Công Trứ mượn các dạng thức dân gian đặng “thao túng tâm lý” khiến người đọc bị mê dụ dẫn dắt. Song như thế kể
cũng đáng, bởi bức tranh quê mà gã họa nên bằng ngôn từ, nhạc điệu thực sự mê
đắm lòng người. Tôi nghĩ, đó là điểm mạnh, khác biệt riêng có của Phạm Công
Trứ.
Về cấu trúc, trường ca Làng
phố giao duyên không có gì mới. Từ mấy chục năm trước, khi đang còn tuổi
thiếu niên, thần đồng Trần Đăng Khoa, trong trường ca Khúc hát người anh
hùng, đã dùng ngôn ngữ thơ để kể trong không gian truyện về sự tích anh
hùng của người thôn nữ Mạc Thị Bưởi. Và, để thâu tóm chủ để tư tưởng của từng
khúc, từng chương, đồng thời làm cọc tiêu, điểm nối và thay đổi tiết tấu Khoa
đã sử dụng những khúc hát theo thể lục bát rất tài tình. Ở trường ca Làng
phố giao duyên của Phạm Công Trứ, ta cũng bắt gặp thủ pháp này, tuy không
thật rõ ràng. Bởi các khúc lục bát của Phạm Công Trứ đa phần là để thay đổi
tiết tấu chứ không giữ vai trò cô đọng ý tứ và sâu chuỗi mạch thơ như Trần Đăng
Khoa. Có điều, khi sáng tác Làng phố giao duyên, Phạm Công Trứ đã bước
vào tuổi trung niên, nên ngôn ngữ thơ kể chuyện già giặn, ma mãnh, với nhiều
chiêu trò, mảng miếng, như đã nói.
Vậy thì qua trường ca này,
Phạm Công Trứ có đóng góp gì về mặt nghệ thuật thẩm mĩ? Ý tưởng, nội dung thì
quá rõ. Làng phố giao duyên nói về thời kỳ chuyển đổi từ “làng” canh tác
nông nghiệp lạc hậu lên “phố” sản xuất hàng hóa thương mại mại dịch vụ. Trong
quá trình vặn mình chuyển đổi ấy, có mất có được, mà được là chính. “Làng
từng tìm thật mà yêu/ Phố nay lấy khéo làm điều vinh danh/ Không làng tự đánh
mất mình/ Thiếu phố thật khó đua tranh với đời”.
Thương nhớ và cũng bực mình lắm
thay bởi cái sự chuyển đổi còn dang dở, khi phố chưa hẳn thành phố mà quê cũng
không hẳn còn quê. Giao thoa, giao duyên giữa làng và phố với ý tưởng thế,
không chỉ được Phạm Công Trứ chuyển tải trong trường ca này mà còn ở nhiều bài
thơ khác những năm gần đây. Nhìn chung, nếu đem tách ra từng trường đoạn, từng
khúc, nhìn nhận như một bài thơ độc lập thấy nhuyễn và hay, nhưng đặt trong cấu
trúc của trường ca thì còn rối và thiếu liền mạch. Như vậy, xét về tổng thể,
Phạm Công Trứ chưa thật cao tay ấn, còn có chỗ vụng trong bài binh bố trận và
điều khiển đội quân chữ nghĩa của mình.
Điều đáng ghi nhận ở gã phù
thủy Phạm Công Trứ là qua trường ca Làng phố giao duyên, cùng một số bài
thơ khác, dấu ấn về LÀNG rất đậm nét, mặc dù gã không xướng tên một làng
quê cụ thể nào để khám phá, vinh danh, chẳng hạn như cái “bản Hiếu Lễ” của Y
Phương, “bản Hon” của Dương Thuấn, hay “làng Chùa” của Nguyễn Quang Thiều... Ấy
là cái tài của gã, biến cái riêng thành cái chung, nâng cái cụ thể lên thành
khái quát. Mà điều ấy, thật không dễ chút nào và không phải nhà thơ nào cũng
làm được. Sắm vai một Thảo Dân thời 4.0, gã đã khép lại làng phố giao duyên,
bằng một cái kết “mở”: “Biết thân thấp thế lỗi thời/ Giữa làng và phố đành
ngồi giao duyên/ Sâu sắc phát lộ hồn nhiên/ Rạ rơm khuất lấp một miền phồn hoa/
Áo xiêm mớ bảy mớ ba/ Khép vào tưởng phố mở ra thấy làng”.
3. Nhuốm màu thiền lão
Ở vào cái tuổi chấp chới thất
thập niên lão, Phạm Công Trứ lượng sức mình, chẳng thể cứ dương dương như cái
buổi đầu ra phố “Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân”
mà đã thoáng thấy cái sự mệt mỏi, ngấm đời của“Dáng đi có lỗi với đời/ Cái
đầu đã cúi thấp rồi, thấp hơn”. Đóng cửa luyện công đặng nâng cao tuổi thọ,
kéo dài tuổi thi hình như là chủ trương của lão. Hàng chục năm liền, không thấy
gã ọ ẹ ở đâu, thơ phú nơi nào. Sống thì chắc rồi nhưng sống ra sao thì chẳng
rõ. Hỏi thăm vài ba người thân với gã thì họ bảo “Vẫn sống nhăn răng đấy
dưng mà bệnh tật yếm thế lắm”. Hỏi
tiếp “Thế thơ phú gì không?”. Lại bảo “Chắc là có đấy. Lão này còn
ngọ nguậy thì còn thơ. Bắt lão ấy cai thơ khéo lão thăng luôn”.
Rồi một hôm, bất thình
lình thấy Phạm Công Trứ ngồi thù lù nơi phòng khách Hội Nhà văn, số 9 Nguyễn
Đình Chiểu. Quần áo, mũ len khăn cổ xùm xụp, thêm một cái gậy chống bên cạnh và
thẻ xe buýt dây đeo trước ngực. Giá gặp ngoài đường dễ ngỡ lão hành khất nào
đó. Râu tóc bờm xờm bạc cả, riêng ánh mắt thì vẫn ánh lên sự minh triết pha
chút tinh nghịch, giễu cợt vưỡn có.
Thơ gã lại đăng lác đác đây
đó. Tôi biên tập một bài viết bình thơ Nguyễn Bính gửi đến Tạp chí Nhà văn
& cuộc sống. Đọc mà ngờ ngợ, tên tác giả bài viết thì lạ hoắc. Hỏi ra,
ông Tổng Khoa cười toét miệng “Lão Phạm Công Trứ đấy. Tớ bắt đề tên thật rồi”.
Tôi ngớ người “Thảo nào, giọng văn quen quen ...”. Thời gian sau, mỗi
lần đến Hội, gã đều ghé vào Tạp chí chuyện phiếm. Đã bỏ được chiếc gậy chống,
chuyện cũng rôm rả hơn. Lại hiện nguyên hình một gã tiến sĩ nửa nhà quê, độ
lượng và từng trải, thật thà mà tinh quái,...
Thực ra, suốt quãng thời
gian bế quan, hay trầm cảm tự kỷ gì đấy, gã vẫn bập bõm, chi chút với thơ “Về
già thơ phú lai rai/ Chẳng cao thêm được chỉ dài thêm ra”. Có điều, điềm
tĩnh, thâm trầm hơn về cách nhìn nhận cuộc sống, và giọng điệu đã hạ tông,
thương đời, thương mình hơn, nhưng vẫn lộ rõ sự hóm hỉnh vốn có của “gã nhà
quê… tinh quái” như “đọc vị” của nhà thơ kiêm nhà phê bình cũng rất tinh
quái là Nguyễn Hoàng Sơn trong một bài viết về thơ Trứ trước đây.
Về chữ nghĩa, vẫn nguyên đó một
Phạm Công Trứ biến hóa, giàu thanh sắc, hình ảnh, nhạc điệu,... Riêng về thơ
lục bát, theo tôi, gã không lẫn bất cứ một ai trong số các cao thủ về thể thơ
này (như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Trần Đăng Khoa, Đồng Đức Bốn). Cùng
giàu chất uy-mua, nhưng ở Nguyễn Duy quãng thời gian sau là chủ ý bông đùa và
đẩy lên thành nghệ thuật; Còn Lê Đình Cánh thì chủ thể luôn đứng hẳn một phía
để rồi quan sát, tủm tỉm cười mà cảm thông đôi chút; Riêng Phạm Công Trứ là sự
tự thân, tự giễu, lấy chính mình làm đối tượng rồi ra chuyện người nên có sự
đồng cảm, chia sẻ,...
Được biết, lão đang ráo riết
chuẩn bị in “Thơ Chùm”, một dạng “sơ tuyển”, nhân cập tuổi “cổ
lai hy”. Chẳng hiểu xuất phát từ đâu, gã lẩn thẩn sắp xếp “cây thơ” mình theo
từng chủ đề, mà gã gọi là “chùm”: Cỏ, Phồn, Linh, Luật, Lão, Mùa, Nhi, Triết
... và kỳ công viết luận giải mào đầu cho từng chùm. Hẳn diễn lại trò xưa trong
cách chơi chữ đặt tên như thời Cỏ may, Phồn thi...? Kể cũng thú vị. Song
ở đây, tôi chỉ điểm mấy chùm, bắt đầu bằng chữ “lờ” (L) của gã để bàn qua thôi.
Trước hết là Thơ Luật.
Luật thi không đề cập nhiều đến khái niệm luật pháp dù gã học luật, phó giáo sư
tiến sĩ luật hẳn hoi, mà là những chiêm nghiệm của cái người mà số phận “mắc
kẹt” giữa luật và thơ:“Đi giữa đôi bờ: luật và thơ/ Luật vuông hình khối,
luật có gờ/ Thơ thon hình ống, thơ có cánh/ Thao thiết một dòng thực lẫn mơ”.
Bằng con mắt của một nhà báo
chuyên luật, Phạm Công Trứ quan sát sự vật, hiện tượng, thói đời ... để luận về
đúng sai, thiện ác, quyền năng, trách nhiệm và công lý, từ đó rút ra bài học,
điều chỉnh hành vi xử sự hướng tới cái thiện bằng tư duy thơ, diễn ngôn thơ:“Để
tồn tại phải luôn thích ứng/ Ấy là quy luật của muôn đời/ Khủng long tuyệt diệt
vì to lớn/ Kiến giun bé nhỏ mãi sinh sôi” (Luật đời); “Sông có khúc/ Người có thời/ Xong thì đi chỗ khác chơi/ Nếu không muốn
bị ông giời nhấc ra” (Luật chơi); “Nếu đời là một cuộc chơi/ Ai người làm
luật, ai người cầm cân?/ Ai người gác cổng, dọn sân/ Ai chờ vào cuộc ai dần bắn
ra?” (Một cuộc chơi); “Chữ “quan” (倌) có một cái ô/ Giương ra là để che cho
nhiều mồm/ Mồm ăn, mồm nói, mồm hôn/ Mồm tụng kinh sách, mồm chôn sống người” (Chữ
quan); “Sinh ra vốn đã có rồi/ Ấy là quyền của ông Giời ban cho/ Cung đình
mấy cụ Tân Nho/ Phán rằng có cái còn to hơn Giời!” (Quyền tự nhiên);
“Việc của nó là “bắt”/
Việc của mày là “khai”/ Việc của họ là “buộc”/ Việc của chúng là “cãi”/ Tao
“tuyên” là hết bài (Công
Lý); “Các ác nhìn từ nhiều phía/ Càng nhìn càng khó phân minh/ Khi
thì là dao là búa/ Khi thì ngoảnh mặt làm thinh” (Cái ác)… v.v...
Diễn đạt nôm na, tưng tửng, mà tinh quái làm sao!
Với Phạm Công Trứ, luật của người
(nhân luật), luật của trời (thiên luật) đan xen với nhau, nhìn ra chúng để mà
sống, chấp nhận, chia sẻ và ứng xử cho phải đạo, cả nhân đạo và thiên đạo. Còn
với riêng mình, từ lâu gã đã tự thú:“Số kiếp định rồi: thơ cùng luật/ Thực
mộng nên đành cảnh phân thân/ Ngày nơi bàn giấy tra điều khoản/ Đêm với trăng
hoa lại gieo vần”.
Thơ
Lão của Phạm Công Trứ, lấy tuổi tác (Thọ lão) ra để bàn luận. Tựu trung
lại, khi tuổi đã cao người ta tự ý thức về cái sự già đi của bản thân nên nhìn
nhận cuộc đời có khác đi. Người già thì hay hoài cổ, gã cũng thế “Già thì cứ
nhận rằng già/ Bảo “người cao tuổi” chỉ là đẩy đưa/ Với con hay kể ngày xưa/
Với vợ hay nhắc thuở vừa biết nhau” (Già). Già thì hay chạnh lòng, gã cũng
chạnh lòng “Ngày nào ngồi sau lưng cha/ Cha đùa thường bảo:“Cu là cái
đuôi!”/ Thoắt thôi con đã đôi mươi/ Sau lưng giờ lại một người là cha/ Trạnh
lòng song chẳng nói ra:/ “Biết đâu nó nghĩ mình là... cái đuôi?” (Đuôi);
Già thì hay tủi thân, gã cũng không ngoại lệ: “Gái son bạn với giai tân/
Giêng hai diễu hết hội gần, hội xa/ Ngậm ngùi cho cái thân già/ Chống gậy ra
ngõ để mà… nhìn giêng”. Già thì sợ hãi đủ mọi thứ, nhất là sợ chết:“Hồi bé sợ nhất là ma/ Lớn lên thì
sợ người ta hơn mình/ Lấy vợ sợ vợ kém xinh/ Lấy chồng thì sợ chồng rình đấm
cho/ Con sợ láo, vợ sợ hư/ Giờ thì sợ chết mà chưa thành gì/ Thôi thì cứ vô tư
đi/ Sợ thì cứ sợ, ta thì cứ ta” (Sợ); “Phải có cái gì để đọc/ Phải có cái gì để
nghe.../ Hãi nhất là không gì cả/ Thiu thiu là bị bóng đè” (Hãi); Già thì
hay suy tư, triết lý vụn, triết lý vặt “Vẫn biết thân là cõi tạm/ Bạc
tiền là của phù vân/ Thế mà vẫn “tham” vẫn “hận”/ Thế mà vẫn “si” vẫn “sân”/
Vẫn biết đời là bể khổ/ Trốn sao khỏi kiếp luân hồi/ Thế mà vẫn “con xin Bụt”/
Thế mà vẫn “lậy Chúa tôi”/ Vẫn biết sống là để chết/ Trời gọi chẳng thể chạy làng/
Thế mà vẫn tập vẫn luyện/ Thế mà vẫn thuốc vẫn thang/ Vẫn biết thơ là thơ thẩn/
No-bel còn chẳng ăn ai/ Thế mà vẫn ra thi tập/ Thế mà vẫn muốn khen tài/ Vẫn
biết ừ thì vẫn biết/ Thế mà vẫn cứ thế mà/ Càng sống lại càng nặng “nghiệp”/ Cả
làng đâu phải riêng ta!” (Vẫn biết); Già thì hay chiêm nghiệm: “…Đến
tuổi này/ Chỉ thấy râu ria là tươi tốt/ Chỉ thấy cây gậy là sáng suốt/dìu dắt/
nâng đỡ/bước ta đi!
Đi đâu?
đi về phía mông lung
đi về phía vô cùng...
Có lúc lão như rơi vào tâm trạng “bán âm bán
dương”:“Đang cuối tuổi “nhi nhĩ thuận”/ Mặt dần đờ đẫn như ngây/ Tai dần ù ờ
như mất/ Mắt dần dài dại như cây/ Chân dần nặng nặng như đất/ Tóc dần phơ phất
như mây...”. Có lúc gã lại như kẻ “tự kỷ ám thị”: “Tr. Ơi, lạnh toát cả
người/ Tên mình ai gọi từ nơi vô hình…Lần trước còn ngỡ xa xôi/ Lần này gần gặn
ngay nơi đầu giường/ Phía đầu giường nửa sương, nửa gió/ Chỗ cuối giường nửa
tỏ, nửa mờ/ Mình thì nửa tỉnh nửa mơ/ Vô hình trời gọi hay ngờ rằng ai/ Bần
thần dụi mắt, bứt tai/ Buông ra một tiếng thở dài... rồi im” (Tiếng
gọi); Kể cả tâm trạng tiếc đời, ham sống“Bảy
mươi còn được là bao/ Còn say sưa được phút nào cứ say” (Say) để rồi tự
nhủ: “Bảy mươi tụng niệm
câu này:/ Sống một ngày biết một ngày, chứ sao!” (Than sống). Trong
cái bi vẫn có cái hài cùng một giọng lưỡi chất chưởng: “Ai ơi đừng vội than
già/ Ngồi bô, đóng bỉm lại là trẻ con/ Còn người, còn nước, còn non/ Thì vẫn
đóng bỉm, thì còn ngồi bô!”…v.v...
Tóm lại, lão thi là một
cái nhìn khá minh triết về sự vận động của vũ trụ, con người và bản thân. Nhận
thức rồi để biết sợ, biết trân trọng cuộc sống, nâng niu những cái mình đang
có. Với Phạm Công Trứ, lão thi là một cách chấp nhận thực tế, kể cả cái hư vô,
để tồn tại và vượt lên chính mình,...
Nói về Thơ Linh, Phạm Công Trứ gần xa luận
giải “Tâm linh là một
khái niệm mở, biểu hiện như là một thế giới - thế giới tâm hồn dưới ánh sáng
của chữ “linh”. Linh cảm, linh giác, linh nghiệm, phiêu linh… đều thuộc họ nhà “linh”, đầy
huyền hồ, lắm nghi hoặc. Thời nay, tâm linh được xem như một khoa học, rất
được giới học giả, các nhà huyền học để tâm và những nghiên cứu, khảo nghiệm
cũng đã đạt được một số thành tựu. Quan điểm hai thế giới (vật chất và tinh
thần) dưới cái nhìn duy vật cổ điển đang dần nhường chỗ cho quan điểm ba thế
giới (vật chất, tinh thần và tâm linh) dưới cái nhìn duy vật đan cài với duy
tâm. Tâm linh có họ hàng gần gũi với tinh thần nhưng không đồng nhất với tinh
thần”.
Thơ Linh của gã đây: “Hạt
ngọc cuộn tròn ôm lá sen/ Bí ẩn nào như bí ẩn đêm/ Đừng tiếc ngày về tan mất
ngọc/ Sớm mai sen ngọc lại ngời lên” (Sen ngọc); “Chờ cho dương thế lịm
say/ Gác Quan-Hoa mới thoảng bay hương quỳnh/ Cõi quỳnh trắng, mộng quỳnh
trinh/ Chỉ vành trăng khuyết nghiêng mình tiễn hoa!” (Quỳnh hoa); “Ngại lấm bụi trần nơi dương thế/ Dạ hoa
hương chỉ thoảng về đêm/ Trắng trinh khai nở đen huyền bí/ Thưởng hoa đâu cứ
phải cần đèn.” (Dạ hoa); “Đêm mùa hè ngắn/ Đời quỳnh hoa ngắn hơn/ Khép
rồi búp trắng/ Lặn rồi trăng đơn/ Hoa dẫu tạ tàn không cánh rụng/ Xác hoa tự
hoá chẳng mồ chôn/ Trăng - hoa/ lặn - nở/ vô-thường-mộng/ Phù thế người ơi!/
Một/ Đoá/ Hồn.” (Một đóa hồn); “Vô ngã” là chân ngã/ “Vô ngôn” là chân ngôn/ Nếu như biết
mình dại/ Thì nghĩa là đã khôn?” (Ngộ) ;“Đã coi trời đất là nhà/ Ai chủ ai khách
phân ra làm gì/ Đã tin sống gửi thác về/ Trắng tay thì có khác chi tay đầy” (Khác
gì); “bây giờ và ở đây”/ An lạc
nằm trong mấy chữ này/ Đọc chi muôn quyển, đi
muôn dặm/ “Ngay bây giờ và ở chính đây”/
Thở/ Chấm hết!” (Lạc); “Cách chùa đã một thôi dài/ Tai còn đồng vọng một
vài “buông... buông”/ Bâng lâng giữa cõi vô thường/ Trăng liềm mờ hiện, giọt
chuông loãng dần...”…
Thú thật,
cứ sa đà vào Thơ Linh của Phạm Công Trứ, dễ có cảm giác mình được hóa thân
thành chàng quý tử họ Giả (Giả Bảo Ngọc)
vui vầy cùng đám tiểu thư khuê các nơi Vinh phủ, Ninh phủ uống rượu vịnh thơ
trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Ai ngờ, gã tiến sĩ luật nặng chất
nông phu này thơ thanh thoát đến thế. Linh hay Thiền gì đó hơi nhạt màu Phật
song đậm phong vị Lão-Trang. Mải mê, khéo rồi có ngày gã đắc đạo mà thành Tiên
cũng nên? Hi… hi...
Thay cho lời kết
Mai này, ... người ta
thoáng thấy, khi trên hè phố thủ đô, lúc chốn ngõ quê vùng ven biển Hải Hậu đây
đó, một lão già râu tóc bạc phơ, ăn vận nửa quê nửa tinh, chân đánh võng cùng
với cây gậy trong tay, ánh mắt nhìn còn tinh ranh, hay ngó nghiêng, miệng lẩm
nhẩm gì đó. Bám theo lão là một lũ trẻ quê lau nhau hiếu kỳ. Còn người qua
đường chỉ chỏ, phỏng đoán lão già này hâm đơ hay sao ấy. Chẳng hiểu những lời
thiên hạ đàm tiếu có lọt tai gã hay không nhưng từ cái miệng lởm chởm râu ria
như muôn mũi kim cỏ may thoáng nở ra nụ cười độ lượng, rồi cất tiếng nghêu
ngao: “Nước nước nước/
Non non non/ Thoảng nghe trong gió như còn cuốc kêu/ Đói đói
đói/ Nghèo nghèo nghèo/ Áo cơm nặng nợ bám theo đến giờ/ Mộng
mộng mộng/ Mơ mơ mơ/ Thương bao kẻ sĩ ngóng chờ No-bel/ Yếu
yếu yếu/ Hèn hèn hèn/ Nghe đi nghe lại dần quen mất rồi/ Bác
bác bác/ Tôi tôi tôi/ Tôi đi hỏi bác, bác thời hỏi ai/ Nhanh
như chớp mắt đời người/ Ngắn như một tiếng thở dài, vậy thôi!”...
Lại có người vẻ tỏ tường: “Lão
ấy chính danh gọi Tễu, từng có thời tự nhận là Thảo Dân, một nhà thơ nổi tiếng
đấy!".
Chính Hạ, 2023
ĐẢO CHÌM CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
CHUYỆN NGOÀI TRUYỆN
I. Những nhân
vật của tiểu thuyết mini Đảo Chìm
ở ngoài đời.
Những chuyện
tôi kể sau đây, bắt đầu từ một trang mạng xã hội, Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net)
vào đầu năm 2011.
Khi ấy,
tôi (Nguyễn Chu Nhạc, tác giả bài viết này) lập trang cá nhân trên
BlogTiếng Việt có tên Ngẫm & Viết. Bài đăng đều đều
với phần cảm nhận (comment) của nhiều cư dân mạng. Chẳng có gì đáng nói, đến
một ngày (27/2/2011), tôi đăng bài nói về một bài thơ ứng tác của nhà thơ Trần
Đăng Khoa thời học trò có tên “Sắp mưa” theo thể Đường luật, thất
ngôn bát cú. Người bàn luận đông lắm, khen chê đủ kiểu, trong đó có ý kiến khía
vào chuyện bài thơ này luật bằng trắc chưa thật chỉnh. Ý chê là đúng.
Trong rất nhiều ý kiến ấy, tôi thực sự chú ý đến Bạn đọc (chỉ
người không phải là bloger, tức là không lập trang cá nhân với tư cách là
bloger) có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn:“Bình luận từ: Trần
Trọng Trí [Bạn đọc] 28.02.11@20:32 Tôi đã về hưu
mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ
Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về Trần Đăng Khoa rất hay. Tôi bèn ra quán Nét
ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt
ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu ghép lại, vần điệu, niêm
luật có thể búa sua. Vì thế chẳng nên mang luật thơ ra bàn. Tôi là dân Nga học
(Tôi học thuyền trưởng ở Ô-Đe-sa, Nga, cùng Ngô Tự Lập), từng có thơ in trên
báo Hải quân nhân dân và báo Văn Nghệ. Tôi cũng rất yêu thơ
Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý.
Nhưng thơ Đường sang ta nó mới gò bó, hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà
thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng đã thoát ra khỏi cái lề luật hà
khắc của nó và mới thành đỉnh cao của thi ca nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm
với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ ngày xưa,
chúng tôi chỉ gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ ứng tác. (Tức là thơ đọc ngay tắp lự). Bài
thứ nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu kết: "Thuyền trưởng
ơi, tiếc là không có rượu/ Ta đã uống đâu mà, sao biển cả đã say/ Để sóng lớn
chồm lên muôn ngọn núi/ Nâng tầu ta đi canh giữ nước non này". Chúng
tôi khoái những câu thơ ấy lắm. Rất hào sảng và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm
một bài thơ đái trên biển. Cứ đứng sau tàu, sõng thẳng từ trên boong xuống
biển. Không ngờ cha Cua Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ
tình mà cánh lính biển tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc ngay và nhớ đến tận
bây giờ: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn trùng mây nước/ Nỗi nhớ em
không một phút nào nguôi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả vào biển cả/ Nguồn yêu
thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã Cua
đồng, và nhắn giùm: Thuyền trưởng Trí vẫn nhớ Khoa, Mong Khoa sớm trở về với
biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Đinh thì ghé Trí chơi.”.
Thật bất
ngờ và vui. Bởi từ ý kiến bày tỏ quan điểm về thi ca rất hiện đại và tiến bộ,
Trần Trọng Trí còn cho biết ông từng công tác, có mối quen biết cũ với nhà thơ
Trần Đăng Khoa, đặc biệt là thơ ứng tác của Khoa đầy thú vị. Tôi khoe ông rằng
nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có trang cá nhân trên Blog này, có tên Lão
Khoa, ông có thể vào đọc, tha hồ nhắn nhe nhau, đồng thời tôi cũng mách
với Khoa về chuyện thuyền trường Trần Trọng Trí nhắn gửi. Nhà thơ nhớ ngay người quen cũ, lập tức trả
lời: “Vài hôm rồi quây quả với mấy việc hệ trọng, bữa nay ghé vào quán lá
nhà lão Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được nhiều
bạn cũ, có người đến ba chục năm nay
không thấy mặt,... Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có
cô con gái rất xinh tên là Trần Thu Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú
lính khác, đi đến đâu bác cũng được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính
mới té ngửa: "Bố ơi, dạo này con ngoong lắm, con không gác chân lên cổ
mẹ, mí nữa đêm ngủ con không còn đái dầm nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu
thư công nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Chính trị viên
Thuận ở cuốn tiểu thuyết mini Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con
rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé.”...
Từ bất ngờ
này dẫn đến bất ngờ khác, một cựu lính hải quân, cấp dưới của thuyền trưởng
Trần Trọng Trí đã nhận ra thủ trưởng cũ của mình: “Bình luận từ: Nguyễn Văn
Tròn: Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em
nghe bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông Khoa, hóa
ra lại gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng
sống được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác Khoa còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất
thiết thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết
thơ lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch
ra ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em thích nhất bài thơ Sếp tặng em.
Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới cưới. Sếp viết hộ em: "Gửi
tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm xuýt mất cu/ Mìn vướng, bom gài, anh
đéo sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt cu". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần
và vật chất. Mất cái "cần tăng dân số" thì có đến hàng trăm mét dù,
nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn của nả về cho vợ mà con vợ em nó vẫn bỏ. đi theo
thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ em thay ba vợ rồi. Vợ đương chức của
em hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện chăm con.
Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy.”...
Điều thú
vị nữa, trong phần cảm nhận của bài viết này, nhiều bậc văn-thi sĩ, nhà phê
bình văn học và các bậc cao nhân đều vào bàn góp, nhất là kể về tài ứng tác của
nhà thơ Trần Đăng Khoa như Nhật Tuấn, Vu Gia, Đỗ Hoàng, Vũ Cao Đàm,... và có cả
những bạn thơ văn thuở thiếu thời của Trần Đăng Khoa là Chu Hồng Quý, Nguyễn
Việt An cũng nhảy vào đàm luận....
Thấp
thoáng bóng dáng vài ba nhân vật của tiểu tuyết Đảo Chìm, thuyền
trưởng Trần Trọng Trí, (Chính trị viên Thuận), lính thủy Nguyễn Văn Tròn
(Tư Xồm) và còn nữa... Lẽ dĩ
nhiên, tướng Giáp Văn Cương, vị Tư lệnh Quân chủng Hải Quân, một nhân vật trung
tâm, ông là người nổi tiếng, nhưng tôi không nhắc ở bài viết này, bởi trong
tiểu thuyết Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa đã dành đến cả hai chương để khắc họa chân dung ông, vả
lại ông cũng đã khuất bóng lâu rồi, hãy để ông yên giấc ngàn thu cùng những
huyền thoại xung quanh mình. Ở đây, tôi muốn dành để nói về các nguyên mẫu khác
mà nhiều người còn chưa biết họ ngoài đời. Tôi thấy, cũng cần có đôi lời thưa
cùng quý bạn đọc, những phần trích từ các nguyên mẫu nhân vật được tôi dẫn
trong bài viết này, có thể làm ai đó không hài lòng, bởi vẫn quen với văn
chương kinh điển, mực thước lễ giáo, mà họ lại nguyên là lính tráng, bụi bặm,
bỗ bã nhưng vô cùng trong sáng và xót xa như chính đời sống và số phận thực của
họ ở ngoài đời, hơn nữa, vài ba người trong số họ cũng đã khuất, vì thế những
hiện vật của họ, những câu chuyện của họ đã trở thành kỷ vật vô giá, thiêng
liêng. Vậy nên, tôi xin phép được để nguyên, xem như hiện vật của bảo tàng.
Những mong được bạn đọc thứ lỗi, nếu có
điều gì không hợp với quý vị.
Và những
câu chuyện ngoài truyện của Đảo Chìm bắt đầu từ đây,...
II.
Đảo Chìm, chuyện ngoài truyện.
Câu chuyện
của thuyền trường Tàu HQ 05 Trường Sa, Trần Trọng Trí và những người lính thuộc
cấp của mình một thời còn tiếp diễn. Song trước khi nói về tiểu thuyết ĐẢO CHÌM
của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng những chuyện ngoài truyện, tôi muốn kể thêm về
vị thuyền trưởng tàu HQ 05, Trần Trọng Trí và những người lính ngày ấy của ông
(Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v...), bởi đó là những nguyên mẫu mà
nhà thơ Trần Đăng Khoa dựng thành các nhân vật chính trong cuốn sách của mình:
Chính trị viên Thuận, Tư Xồm... Âu cũng là cách để bạn đọc biết thêm về các
chuyện thực ngoài đời của các nhân vật tiểu thuyết, mà cụ thể ở đây là xứ ĐẢO
CHÌM.
Vẫn trong phần ghi cảm nhận bài viết của tôi về thơ ứng
tác của Trần Đăng Khoa, một người lính hải quân khác xuất hiện khi anh chàng
này được bạn mình-cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn mách bảo: “Bình luận từ: LÊ VĂN
KHÁNH [Bạn đọc] 02.03.11@10:51: Ôi chồ chồ,
thủ trưởng ơi, em là Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó.
Thằng Tròn điện cho em bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho
thủ trưởng. Em vào mấy hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ
thiên hạ thấy thua thơ thủ trưởng hết. Em đọc thơ thủ trưởng, ai cũng thích.
Vịnh cây khoai môn: Trên rừng sướng nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn
rất ngon./ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/ Lá nó hao hao giống cái l...Vịnh
Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm/ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum./
Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn. Vịnh cái tủ
lạnh Sa-ra-top: Cắm vào run rảy toàn thân./ Rút ra nước chảy từ chân xuống
sàn./ Hỡi người quân tử giàu sang./ Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra. Nhưng
em thích nhất vẫn là bài thơ Sống ở đảo chìm, viết tặng ông Trần
Đăng Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái./ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở
đầu, đái ở chân (Đầu đảo, chân đảo) /Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa./
Chẳng như hồi sống ở nhà./ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ
trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng thức nhá”.
Chưa hết,
trong các cảm nhận vào bài viết của tôi, thầy trò Trí-Tròn còn đối đáp nhau nhiều: “Bluận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] 01.03.11@20:59/: Con cháu tôi lại
khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi lại
phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán thịt
chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm Trường Sa giết con Ái Vân (tên con chó
khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ yêu thích đặt cho chó) để chiêu đãi
tướng Cương, chú với ông Khoa không ăn. Chú còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt
chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng
béo như ông Khoa, hơn 5 sọi rồi mà nước vẫn dâng như lũ sông Hồng. Chú Tròn ba
vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy
(về truyện ngắn Ngày xưa ấy của Nguyễn Chu Nhạc). Vào đọc ngay.
Tôi rất thích. Thích nhất là đoạn làm tình của đôi trẻ. Tôi bây giờ đọc bác
Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn.
Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ. Vào xem mấy con
để l…à". Tôi bảo, thì để đỡ tốn tiền, bà cởi cho tôi xem. Đấy, văn bác
Nhạc được bà ấy ví với cái l.. Chuyến này khéo ông Khoa sẽ ghen vì văn ông Khoa
không được bà ấy đề cao như văn ông Nhạc. Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông
Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên Tivi. Béo quá. Ông ấy mà về làng, không
khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là thằng tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với
mấy ông cựu chiến binh bên Bộ Tổng tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB
đài tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn
làm thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông
in trong tập Hương ngoại ô cùng với một triệu tiền mua sách. Thơ mà cánh
cựu chiến binh quê tôi thích đều là thơ mách qué. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ
đến thăm chú Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây
giờ các bác ấy mở quán ảo rồi, tôi sẽ vào luôn”.
“Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc] 02.03.11@10:24: Thủ trưởng
Trí ơi. May có bác Nhạc làm liên lạc để em được gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt
chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó chẳng quan trọng. Vợ và chú em
vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền và điều hành chung. Quán của em ở thị trấn Ba
Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông khách lắm. Thế cái bệnh lòi
dom của thủ trưởng bây giờ thế nào rồi? Thủ trưởng vẫn làm thơ quậy à? Em vừa
thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối chày gì đó. Bà Giời
đã tốc váy mây/ Ta cùng vợ vác cối chày ra phơi. Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một
chút, chả gì Sếp cũng Đại tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí
thức đọc cả đấy. Em xem thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã.
Bà ấy có thể không thích văn chương nhưng vì tò mò, tưởng ở đấy có l... gái
trinh, mò vào, thấy thủ trưởng nói xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại
tắm cho thủ trưởng một can xăng như vợ nhà báo Hoàng Hùng thì khốn. Đàn bà
không tin được đâu. Gặp thằng mả mẹ nào nó khen đểu cho một câu là sướng chổng
phao câu lên, coi chồng như cứt chó ngay. Các cụ xưa không cho ngồi chung mâm,
chỉ để ăn trong xó bếp kể cũng không oan. Em qua ba cối rồi, em biết. Tanh lắm.
Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây
giừ qua nhà ông Nhạc, anh em mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả
hứng. Thủ trưởng bảo trọng”.
Trong cảm nhận này, Nguyễn Văn Tròn có nhắc đến một
chuyện, ấy là cựu thuyền trưởng, đại tá Trần Trọng Trí xuýt được phong Anh hùng
(danh hiệu AHLLVT). Về điều này, tôi tìm hiểu, nghe đâu, khi xem xét hồ
sơ để phong tặng danh hiệu anh hùng cho Trần Trọng Trí thì có vấn đề về lí lịch
nhân thân (ông vướng thành phần gia đình đia chủ trong CCRĐ, lại dính thêm chuyện mê tín dị đoan gì đó vì ông
cụ thân sinh biết nghề thày cúng nên thi thoảng làng xóm có việc nhờ cúng giùm).
Chẳng rõ hư thực ra sao?
Sau những
ngày đầu đầy xúc động, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã kiềm chế cảm xúc của
mình, tỏ ra điềm tĩnh, sâu lắng, thì chàng cựu lính Nguyễn Văn Tròn vẫn tràn
đầy năng lượng, bắn liên thanh bằng những cảm nhận gây xốc: ”Bình luận từ: Nguyễn văn Tròn [Bạn đọc] 03.03.11@06:22/: Thủ trưởng Trí ơi!. Bây giờ chắc thủ
trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn vô nhà
bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng cái máy tính con con của em. Rất tiện lợi. Giờ em
quyết định thế này: Giữa tháng Ba này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn
Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta
quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi
tính xách tay và cái USB nối mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ
trưởng đọc bác Khoa bác Nhạc và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo giấy nhạt
toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem
phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng
chơi nhòe. Thủ trưởng nhắn cho em thằng Hanh, con Nhạn (Cái con ngày xưa
thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi bóp vú ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi. Còn
thằng Bình, thằng Việt, thằng Cải, thằng Khang, thằng Trường (Thằng Trường khỏe
như trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà
thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả làm thơ tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này
rất thông minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng ngu và hâm đột xuất). Em thấy
đàn bà chẳng sâu sắc thủy chung gì đâu, cù được vào nách là ngả được bàn đèn
luôn, từ con osin đến các mệnh phụ phu nhân, rồi cả hoa hậu nữa, sếp thấy có đứa
nào ra hồn đâu. Đấy như vợ nhà báo Hoàng Hùng đấy, có thể thiêu chồng chạy theo
một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã tốt hơn chày của thằng
Hùng. Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu khen đểu là động cỡn liền. Đàn
bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường coi khinh những thằng
tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn thằng Khánh thì em liên
lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông thương mà không làm
phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn càng tiện lợi. Cánh
công chức toàn thế đấy thủ trưởng ạ. Bồ bịch búa sua”.
Hình như, cảm
thấy ngại khi dùng ngôn ngữ đầy chất lính tráng, anh chàng Nguyễn Văn Tròn có
vẻ khách khí. Tôi bèn thưa lại vì thực lòng muốn mọi người cứ tự nhiên như cũ: “Chủ
nhân xin có lời nhắn với thuyền trưởng Trí, và các cựu binh Nguyễn Văn Tròn, Lê
Văn Khánh v.v... Mọi người cứ giao lưu thoải mái, không có gì phiền đâu. Rất
vui được hầu trà thuốc điếu đóm, cả rượu thịt chó nữa, để bồi tiếp mọi người.
Kính”.
Việc giao
lưu ảo trên mạng xã hội, nhất là khi vào trang cá nhân của tôi và Trần Đăng
Khoa, rồi gặp các lính cựu Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh.... khiến cựu thuyền
trưởng Trần Trọng Trí bị hấp dẫn đến nỗi không cưỡng nổi, cho đến một hôm, ông
thông báo với tôi và cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt: “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] 06.03.11@21:26/ : Tôi đã sắm
máy tính cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn
mê các ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui hòa nhập thế giới hiện đại.
Ngày mai tui đi Sài Lang Thành (ý chỉ Sài Gòn-Tp.Hồ Chí Minh ) nhưng vẫn đọc
các ông đấy”. Với thông báo này, ông còn như ngầm nhắn với các cựu
binh đàn em của mình (Tròn, Khánh....) rằng từ giờ họ có thể tha hồ
chuyện trò với nhau mà không cần nhờ trang cá nhân của ai, không làm phiền
người khác, rằng họ sẽ cùng nhau ôn lại ký ức, làm sống lại thời lính Đảo chìm,
Trường Sa một thuở...
Nhưng, khi còn chưa kịp chuyện Trường Sa thì có một cuộc
đối thoại thơ khá thú vị giữa Trần Trọng Trí với nữ thi sĩ Chử Thu Hằng và
Nguyễn Việt An (một người bạn học, bạn văn chương của tôi và Trần Đăng Khoa
từ thời học phổ thông, hiện sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh). Tôi không đưa
vào bài viết này, song về phần mình, tôi nhận ra sự hóm hỉnh và thông minh, đầy
tài hoa trong việc ứng biến thơ của Trần Trọng Trí, nên nhắn ông: “Bác Trí,
Đọc lại những bài thơ vịnh của bác, gạt đi phần bông đùa, tếu táo, còn lại, thơ
thật hay. Hay lắm đó...”.
Quả thật, Trần Trọng Trí có ngôn ngữ sắc lẻm như dao cau,
mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu,
tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người
tồn dư cả tính láu cá nông dân… Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp
của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông,
cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém. Cho đến ngày 26/3/2011, tôi đăng bài viết
của mình có tên “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện” bàn
về tiểu thuyết “Đảo Chìm” của nhà thơ của Trần Đăng Khoa thì mọi chuyện mới thật
xôm trò. Rất nhiều người vào đọc và bình luận. Xin trích đăng một số cảm nhận
để cùng tham khảo: “Bình luận
từ: Người qua đường [Bạn đọc] 22.03.11@23:22/ (bút danh nhà
văn Nhật Tuấn-NCN) / “Tôi cũng đã đọc Đảo Chìm của Khoa,
do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa viết chân dung văn học thì
giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể loại khác. Nhưng rồi đọc thì
giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui vui, như chơi, thậm chí rất
bông phèng, hoạt kê, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc
cũng đã nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa
hạnh phúc hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có
người chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc rất mới, cũng là một phát hiện, mà không
phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không
ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Chu Nhạc.
Tiếc là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình
hay. Tôi vẫn nói Chu Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú
có tài, dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy”.
Bình luận từ: Chử
Thu Hằng (nhà thơ) [Blogger] 24.03.11@09:02/ “
Bình luận từ: Minh
Tâm (PGS.TS,) [Bạn đọc] 24.03.11@18:20/: “Bài viết
của ông
Bình luận từ: Khách
[Bạn đọc] 24.03.11@21:17/ “Từ một điểm
nhìn cận cảnh, tác giả Trần Đăng Khoa (TĐK) đã xây dựng một không gian nghệ
thuật thật đặc sắc: không gian hữu hạn - không gian vô hạn - không gian tâm
tưởng. 3 loại không gian ấy có khi tách bạch nhưng có lúc lại đan cài, tạo nên
một không gian nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Đó là thứ hiện thực lãng mạn, pha
chút “Liêu trai“ Phương Đông. Phát hiện của anh rất hay! Em xin cóp bài này để
tham khảo, phân tích thêm để bổ sung cho phần thực hành... Cảm ơn anh! Em rất
hâm mộ TĐK, là người đang "gieo rắc" tác phẩm của anh ấy cho lũ trẻ.
Giờ thì hâm mộ luôn cả người bình văn TĐK!”
Bình luận từ: Vũ
Trọng Trường [Bạn đọc] 26.03.11@03:47]/ “Tôi đã đọc nhiều lần Đảo Chìm. Rất tâm đắc với lời bình của
Còn nhiều
lời bình khác của bạn đọc, trong nước, Việt kiều định cư ở nước ngoài, một số
nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, nhân sĩ yêu nước bày tỏ sự quan tâm và ủng hộ
chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Rồi PGS.TS
Minh Tâm còn dẫn dụ, giới thiệu một bài viết khác bình cuốn Đảo Chìm (bài
viết của nhà báo Nguyễn Lương Phán – VOV) để mọi ngươi cùng tham khảo thêm:
“Bình luận từ: PGS. TS Minh Tâm [Bạn
đọc] 26.03.11@23:13/: Đọc bài viết rất
hay của
Song có
lẽ, cảm nhận khiến tôi suy nghĩ nhất, chính là của cựu thuyền trưởng Trần Trọng
Trí, nguyên mẫu nhân vật chính trị viên Thuận trong tiểu thuyết Đảo chìm:
"Trần
Trọng Trí [Bạn đọc] 19.03.11@22:14/
Nhà văn, nhà thơ Chu Nhạc. Bữa rày, ông Khoa đưa lại cái Đảo Chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn
suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách này,
thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến nó một dòng, cũng
như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn
về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với người khác trùng
tên mà viết nhạt toẹt... . Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nôi, có lên thăm ông
Nhạc ông Khoa. Con bé (nhưng cũng là gái xề rồi), là nguyên mẫu, mà trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương,
nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú
Khoa. Bữa nay chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông đi
vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có.
Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển
gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương
ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó
còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.
Đọc cảm
nhận của Trần Trọng Trí, tôi cứ thẫn thờ với một linh cảm mơ hồ... Lại càng
không ngờ, đấy là những dòng cuối cùng ông để lại cho cộng đồng mạng Blog
Tiếng Việt, và cũng là những dòng cuối cùng của ông trên cõi đời này...
Bặt đi cả tháng trời, không thấy Trần Trọng Trí và các đàn em của ông xuât hiện
trên mạng. Tôi nghĩ, chắc mấy thấy trò gặp nhau, mảng vui sau bao ngày xa cách,
nên có ý chờ đợi những câu chuyện của họ sau chuyến đi đầy vui thú này. Song
không hiểu sao, sự vắng bóng của họ cứ khiến tôi phấp phỏng chẳng yên, và mơ hồ
cảm thấy một điều gì đó không lành?...
Quả nhiên,
thật đột ngột, một buổi vào mạng Blog Tiếng Việt, tôi sững sờ
không tin vào mắt mình khi đọc mấy dòng cảm nhận của người con gái ông, nguyên
mẫu Mộng Tương tiểu thư trong tiểu thuyết Đảo Chìm: “Bình luận từ: Trần Thu Hà
[Bạn đọc] 23.04.11@23:24/Chú Chu Nhạc
kính mến! Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì
tai nạn giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn
bố cháu vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã
nửa tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết.
Nếu có gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”.
Cả mạng Blog
Tiếng Việt xôn xao, mọi người vào cảm nhận, bày tỏ sự thương tiếc
ông và chia buồn với Trần Thu Hà cùng
gia đình ông. Tôi chỉ trích ra đây vài cảm nhận.: “Trần
Đăng Khoa [Bạn đọc] · http://Blogtiengviet.net/Lão
Khoa 24.04.11@21:47: @ Trần Thu Hà. Chú thực sự sửng sốt trước
tin của bố cháu và chú Tròn, anh chàng Tư Xồm của chú. Sáng nay, chú đang ở
Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành
về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có
những cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính
bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm lá sinh động hẳn. Thế rồi
bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố
cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình
về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị và báo cho các anh chị ở Ban Văn
nghệ Đài truyền hình VTV, VOV. Mọi người thích lắm. Vậy mà ai ngờ... Đây là một
tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau thương này với mẹ
cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu
như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình”.
Còn đây là cảm nhận của tôi: nguyenchunhac [Bạn
đọc] http://blogtiengviet.net/nguyenchunhac 24.04.11@07:23@Trần Thu H. Trước hết, cho chú được chia buồn
cùng cháu và gia đình, cùng bên gia đình chú Tròn. Chú rất đột ngột khi biêt
tin này. Nhớ cách đây chừng hơn tháng. Bố cháu có tin cho chú là lên Hà Nội và
vào thăm VOV nhưng chú lại đi công tác và chú Khoa cũng không đến cơ quan (vì
ngày nghỉ). Bố cháu còn thông báo là đi Lào với Tròn chơi rồi về dọn nhà lên
Yên Bái ở với gia đình nhà cháu. Vậy mà,... Chú và chú Khoa, và cả làng blog
Tiếng Việt này, sẽ rất buồn vì bố cháu đã ra đi đột ngột. Mọi người sẽ không
quên những dòng cảm nhận, những bài thơ sâu sắc và vui của bố cháu. Đối với chú
Tròn cũng vậy. Có lẽ, chỉ có một an ủi duy nhất, bố cháu và chú Tròn, họ đã
sống bên nhau những ngày gian khó ở Trường Sa, bây giờ họ lại đi cùng nhau. Có
lẽ, họ luôn cần nhau, cháu ạ... Hà có thể cho chú hoặc chú Khoa biết điện thoại
liên hệ, để khi có điều kiện, chú và chú Khoa cùng mọi người đến thắp cho bố
cháu nén hương tưởng nhớ...”.
Ngày 25/4/2011, tôi viết bài “Tưởng nhớ thuyền
trưởng Trần Trọng Trí” trên trang cá nhân của mình. Hầu hết bạn bè
trong Blog Tiếng Việt đều ghi cảm nhận, thương tiếc ông và người
lính của ông, cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn (Tròn Lùn), nhân vật Tư Xồm trong Đảo
Chìm. Nhà thơ Bùi Thị Binh: " buithibinh [Blogger] 27.04.11@15:10/ Viết mấy vần
thơ mộc mạc này tưởng nhớ đến Anh Trần Trọng Trí và Anh Nguyễn Văn Tròn. “Đảo
chìm” em mới đọc lần đầu/ Cái khóc, cái cười cứ quyện nhau/ Mong gặp Lão Khoa
cùng nhân vật/ “Xóm lá mình mà chắc chả lâu”/ Bao nhiêu cảm nhận của “hai Nhà”/
Đọc đi, đọc lại quá xót xa/ Ước muốn không thể thành sự thật/ Để được mời Anh:
Một chén trà./ Anh mất rồi sao "Anh Thuận"ơi/ Tác phẩm “ Đảo Chìm”
vẫn để đời/ Cái danh Trọng Trí còn lưu mãi/ Trong lòng bè bạn … khắp mọi nơi/
Cuộc đời như một chuyến rong chơi/ Thủ trưởng, nhân viên đã hẹn rồi/ Về nơi cực
lạc đừng quên nhé/ Nghĩa tình “mạng ảo” chẳng xa xôi”…
Ai những tưởng, gặp nhau ngoài đời nào có khó gì đâu, khi
đã giao lưu mạng ảo, khi biết địa chỉ và cách nhau cũng không xa. Song không,
như người đời vẫn bảo “vạn sự tùy duyên” hẳn không sai, trời không cho
duyên gặp thì tưởng gặp nhau trong gang tấc, hóa vẫn không. Bằng chứng, Trần
Trọng Trí đã hai lần đến cơ quan chúng tôi (Đài Tiếng nói Việt Nam), ở đây, ông
gặp người này người nọ, nhưng cả hai lần, những người ông muốn gặp (Trần
Đăng Khoa và tôi) thì cả hai chúng tôi đều công tác vắng. Kể cả vậy, ông
vẫn tự tin là gặp nhau không khó, định bụng sau chuyến ông vào Quảng Bình thăm
Tròn Lùn và các đồng đội khác và sang Lào chơi, thì ông Giời lại bắt ông đi
luôn một mach, đi mãi sang thế giới khác....
Cái “những tưởng” ấy cũng có trong suy nghĩ của
nhà văn Trần Hồng Giang, một người phải ngồi xe lăn, đi lại khó khăn, người
cùng sống ở quê Nghĩa Hưng (
Cả tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều nhắn trên trang của
mình ở mạng Blog Tiếng Việt, mong một ngày nào đó Trần Thu Hà, cô
con gái rượu của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đọc được, để lại lời nhắn,
hay số điện thoại liên lạc, hay địa chỉ nhà cô để chúng tôi có manh mối tìm
gặp. Song không, cho đến nay đã hơn chục năm trôi qua, hai chúng tôi vẫn không
biết Trần Thu Hà hiện ở đâu. Chỉ có chút manh mối, ấy là trước khi đi Quảng
Bình và Lào cùng Nguyễn Văn Tròn, Trần Trọng Trí đã hé lộ chút ít, ấy là dự
dịnh của vợ chồng ông sẽ thu dọn rời Nghĩa Hưng lên Yên Bái sống chung với cô
con gái rượu của họ. Thế nhưng, Yên Bái rộng bao la, ở đâu cụ thể nào ai biết.
Hay chăng, thử về thị trấn Liễu Đề (Nghĩa Hưng, Nam Đinh) hỏi dò dân ở
đấy xem gia đình ông, vị đại tá, cựu thuyền trưởng tàu HQ 05 Trưởng Sa, ông thợ
cắt tóc phố huyện, còn sống ở đấy, hay đã chuyển đi đâu, có lên Yên bái không
và cụ thể địa chỉ nhà, số điện thoại liên lạc?... May ra, hy vọng. Song thú
thực, việc này chúng tôi vẫn chưa làm được,... Thật có lỗi với ông.
Có nhiều đồ đoán về nguyên nhân vụ tai nạn ô tô của họ
khi Tròn Lùn tự lái xe của mình đưa thủ trưởng cũ qua Lào sang Thái Lan chơi.
Song cá nhân, tôi đã từng ngồi xe hơi đi
trên đất Thái Lan nên biết luật giao thông của họ giống kiểu Anh, Hồng-kông,
Nhật bản, khác phần lớn các quốc gia khác là ngược lại, đi trái về phải, do đó
người lá xe tay lái thuận, nếu không quen sẽ nhãng quên lao sang làn đường
ngược chiều. Đấy là suy luận vậy thôi. Có một sự thật, mạng Blog Tiếng
Việt sau khi họ vắng bóng thì kém sôi động, trầm lắng hẳn đi, và mấy
năm sau, do trục trặc kỹ thuật, nền tảng
lưu trữ kém, các bloger bị mất bài, rời bỏ đi nơi khác. Blog Tiếng Việt
vắng như chùa Bà Đanh. Giờ nền tảng kỹ thuật mạng này có khá lên, song không
khí thì vắng lặng. Thời vàng son đã qua, khó bề cứu vãn. May mắn thay, phần bài
viết và những cảm nhận liên quan đến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh
lính của ông vẫn còn, để giờ đây tôi có thể tra cứu, trích dẫn, lưu giữ,...
Những gì họ để lại trên trang blog của tôi, thì đã trích
nêu trong phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang cá nhân của nhà
thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là còn nhiều, nhưng trong cuốn sách Đảo Chìm
- Trường Sa của mình, nhà thơ chỉ trích chút ít. Tôi cũng trích lại
đây cảm nhận của Trần Trọng Trí, xem như cái cớ đề bàn thêm về ông và các đồng
đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai
lỳ. Tôi hay vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay
đọc lại cuốn sách về Trường Sa, về chính cuộc sống của chúng tôi, tôi đã khóc.
Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần Thị Thu Hà mà ông Khoa gọi là
Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm đó), có hai con gái. Cháu
ngoại tôi đã học lớp 12, cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó
không biết đấy là chuyện bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này
mà không biết tìm ở đâu. Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải
mở máy tính. Tôi lên Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên
trang của nhà văn Xuân Đức...Tôi sẽ đến thăm ông Nhạc (Nguyễn Chu Nhạc-Đài
Tiếng nói Việt nam), ông Khoa. Lâu rồi, không gặp”...
Tâm thế trong cảm nhận này của Trần Trọng Trí, thực ra,
cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của tôi, khác chăng ở một
vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại các cảm nhận của Trần
Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng mị, sa lầy trong mớ
hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc của mọi người, đặc
biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế bào thần kinh trong
con người vị đại tá (lương tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một
thời, đã về vườn, trong vai ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những
ẩn ức một thời bùng phát, tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ
thôi. Trần Trọng Trí như người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra,
hay đúng hơn là không muốn thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí
ông...
Tôi xin lỗi đã kể hơi dài về Thuyền trưởng Trí, bởi ông
là một nhân vật chính của cuốn Đảo chìm, chúng ta cũng nên biết
kỹ về ông ở ngoài đời thực. Sở dĩ, ngày ấy, Thày trò Trí -Tròn nổi bật
như nhân vật trung tâm của mạng xã hội Blog Tiếng Việt, là bởi họ
gắn với một chủ đề nóng bỏng, ấy là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo của
Việt Nam mà phần lớn người dân xứ ta đều quan tâm; khi mà, họ là nguyên mẫu các
nhân vật chính trong tiểu thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng
Khoa. Trường Sa, Hoàng Sa và rộng ra là Biển Đông chưa bao giờ vơi nóng, bởi
nguyên nhân chính là quan điểm, thái độ và cách ứng xử của nước lớn không phù
hợp với luật pháp quốc tế về chủ quyên biển đảo trong các nước khu vực, nói
chung. Sự tham góp của họ (cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và các cựu thủy
thủ Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh...), cùng tác giả cuốn sách-nhà thơ Trần
Đăng Khoa và rất nhiều các bậc nhân sĩ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, người
lính, bạn đọc nói chung với các câu chuyện thật ngoài đời liên quan dến cuốn
sách, vô hình chung đã biến tác phẩm Đảo Chìm như một sân khấu
lớn, đại cảnh, lớp lang chính phụ, đầy bi hài,...
III. Đảo chìm – Một góc nhìn khác
Ta cùng thử hình dung, Đảo Chìm như một
tác phẩm Sân khấu thì sẽ thế nào nhỉ?
Song trước khi nhìn tiểu thuyết Đảo Chìm
như một Sân khấu lớn, xin trở lại với không gian tiểu thuyết mà tôi đã
nhận thức và nêu ra trong bài viết có tên Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng
không gian truyện. Ở đó, tôi phát hiện sự tài tình của tác giả trong
việc tạo dựng nên ba không gian đồng thời để kể câu chuyện của mình. Ấy là không
gian hữu hạn. Bao gồm “cái lều bạt” chung chiêng trên thềm san hô, là con
tàu loanh quanh trong khu vực của mình, được xem là hòn đảo nổi; ấy còn là không
gian vô hạn với mênh mông trời nước, lúc hiền dịu mộng mơ, lúc lặng thinh
bí hiểm, lúc cuồng điên dữ dội đầy bất trắc; và nữa, một không gian tâm
tưởng chỉ tồn tại trong ý nghĩ của mỗi nhân vật. Ba không gian ấy khi tách
bạch, khi xâm lấn nhau, khi đồng dạng phối cảnh,... Và trong bối cảnh như vậy,
tất thảy nhân vật, con người (từ chàng lính quèn đến vị Tư lệnh), con
vật (chim biển, cá mập, con lợn), vật dụng (lều bạt, tư trang quần
áo, ba lô vật dụng của người lính đã khuất, cuốc xẻng, lưới câu, vũ khí, con
tàu...) đều sống động, có hồn, suy nghĩ, hành xử theo logic của mình....
Chính nhờ tạo dựng một không gian nghệ thuật như vậy nên mọi ý nghĩ, hành động,
tính cách nhân vật, tình huống, tình tiết truyện (có khi phi lý) đều
chấp nhận được và trở nên có lý có tình,... Một sự hỗn mang như mê sảng. Chim
biển, cá mập thì như người, như ma quái, con lợn cũng như người, lại như yêu
tinh; còn con người thì “nhanh chóng mất hơi người”, có lúc như chim,
như cá, lại có khi như lợn, như người nguyên thủy (nhân vật Hai Ùm hay cởi
truồng)... và có khi chỉ là “một chiếc linh hồn nhỏ” (phần kết, Hai
Ùm chết, hồn như nhập vào một con ó biển khổng lồ, dáng gù gù ngồi cửa lều bạt,
khiến đồng đội vừa mừng, vừa rùng mình rờn rợn, như tưởng anh sống lại)....
Và cũng chính việc tạo dựng nên một không gian nghệ thuật như vậy, mà tác phẩm Đảo
Chìm không giống hiện sinh kiều phương Tây, cũng chẳng “hiện thực
huyền ảo” kiểu Mỹ-la-tinh, mà nó là hiện thực lãng mạn pha chút “Liêu
trai” phương Đông...
Còn về ngôn ngữ tiểu thuyết Đảo Chìm. Có
thể nói rất tài tình, điêu luyện trong kỹ nghệ dẫn truyện, kể chuyện. Là nhà
thơ, tác giả Trần Đăng Khoa đã dùng thế mạnh của mình, là dùng ngôn ngữ thơ để
viết văn xuôi và kể chuyện rồi khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ thơ nên chắt lọc,
không dàn trải. Tả hay kể đều chấm phá, cốt gợi chứ không nói hết. Ta hiểu vì
sao tiểu thuyết rất ngắn, mỗi chương cũng rất ngắn. Có chương chỉ hai hay ba
trang. Rất kiệm lời, chắt lọc đến từng chữ một. Không có câu độn, từ thừa. Ngôn
ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và có sức dư ba. Ngay cả những đoạn tả cảnh cũng
rất ấn tượng và có sức ám ảnh. Đây là cảnh hoàng hôn: “Chiều xuống dần. Mặt
trời đã chìm khuất sau một bầu nước rùng rùng tím ngắt. Nhưng những đám mây vẫn
còn bắt nắng, đi lừng lững trên đầu, rừng rực như những đám cháy lớn. Bầy chim
biển đi kiếm ăn về. Chúng kêu toang toác quanh lều. Tiếng kêu hoang vu và tanh
lợm mùi cá...” . Còn đây là cảnh trăng lên ở đảo: ”Sương xuống tê tê.
Phía sau lều bạt, biển bục lên một đám cháy lớn. Trăng đang mọc. Vài con ó biển
giật mình, tiếng kêu oang oác trên thinh không mông lung mờ mịt.” Và đây,
một sự kiện đặc biệt, lợn đẻ ở đảo chìm: “Hàng chục ngọn đuốc rần rật bùng
lên. Lửa réo ù ù trong gió biển. Con tàu hú còi, tức tốc nhổ neo, lượn ba vòng
xung quanh Đảo Chìm. Sau đuôi tàu, biển rực lên một vùng lân tinh sáng chóa.
Trong đêm, nom nó quái dị và kỳ vĩ như một dải Ngân hà đang cháy.” Còn đây
nữa, Đảo Chìm sau cơn bão: “Vùng đảo hoang lạnh một màu khai thiên lập địa.
Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những
rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá voi khổng lồ đã bị rỉa hết
thịt.”
Còn đây là Thiêm. Người lính biển mà cả cuộc đời chỉ còn lại cái ba lô với
tồng tềnh mấy bộ quần áo đã bạc: “Anh nằm giường này nhé. Đây là cái giường
của thằng Thiêm. Đồ đạc của nó kia. Anh quản luôn cho nó nhé. Cứ coi như cái
giường này của anh. - Thiêm nó về phép à? Không! - Hai bùi ngùi - Nó mất rồi
anh ạ! Chắc chắn là mất rồi. Vì chúng em đã lặn lội tìm nó ròng rã hơn tháng
trời mà vẫn chẳng thấy. Tội quá, vừa rồi cu cậu lại có thư mẹ. Bức thư nó mong
mãi hôm qua mới đến. Nó cứ sợ bà cụ làm sao. Người già như ngọn đèn trước gió,
chả biết thế nào. Chúng em vẫn chưa báo tin về gia đình. Bà mẹ nó cứ mong nó về
lấy vợ. Thiêm ơi, u đã
rấm cho mày
một đám rồi đấy. Nhà cũng có sẵn con lợn trong chuồng
rồi. Mày cứ về là cưới thôi. Con đừng lo gì cho u. Ở nhà, u cũng còn mớ rau,
nải chuối, cũng có đồng ra đồng vào. Con đừng gửi tiền cho u nữa. Nếu chính phủ
có cho con đồng nào thì con cứ bỏ vào cái hõng cột, tích lại mà cưới vợ, đừng
gửi cho u nữa... Khổ, ở đây, tiền như giấy lộn, có dùng được vào việc gì đâu.
Mà anh thấy đấy, làm gì có hõng cột...Giọng Hai nghẹn lại: Mẹ nó vẫn chưa biết
là nó đã chết. Tội nghiệp bà cụ quá anh ạ. Em vẫn chưa nghĩ ra cách nào để gửi
những thứ này về cho mẹ nó. Anh xem có cách gì chuyển được về gia đình nó những
thứ này không? Anh có quen ai ở gần quê nó không? Nhưng mà ai có thể ra đây
được? Anh em mình thì chưa thể về…Rồi Hai lầm rầm như nói trong cơn mê sảng:
Thiêm ơi, mày
chỉ còn lại trên
thế gian một chút xíu này thôi.
Tao sẽ gửi về bằng được cho mẹ, cũng có thể tao sẽ trực tiếp mang về trao tận
tay mẹ, để mẹ còn có cái mà thắp hương cho mày. Anh em mày còn có cái để cũng
giỗ mày...Đêm ấy, tôi không sao ngủ được, mắt cứ trân trân nhìn lên nóc bạt.
Trên đó, chiếc ba lô của Thiêm cứ
đong đưa
trong gió. Thỉnh
thoảng, đôi đũa tre lại khua leng
keng vào cái bát sắt sứt men. Vào những lúc như thế, Hai thường lần dậy, múc
một bát nước ngọt đặt lên đầu giường, rồi lặng lẽ chắp tay, vái lên nóc
bạt"
Đây là chi tiết độc. Chi tiết cài để dẫn đến cái chết rất bi tráng của Hai.
Trong Đảo Chìm, mọi chi tiết tưởng như bâng quơ, nhưng rồi đều
được đẩy đến cùng, tạo nên sự ám ảnh. Không có gì thừa và bâng quơ cả.
Còn rất nhiều đoạn văn có sức ám ảnh như thế. Tôi chỉ nảy ra mấy mẩu, để
phần nào minh chứng cho ngôn ngữ đặc sắc của tiểu thuyết Đảo Chìm,...
Giờ thì ta cùng nhìn Đào Chìm ở phương diện
sân khấu với các màn chính kịch, màn phụ
theo lớp lang của nó. Dĩ nhiên, người chính trị viên tên Thuận, các thủy
thủ tên gọi Hai Ùm, Tư Xồm cùng các đồng ngũ của mình trên con tàu HQ và trên
đảo, thêm vị Tư lênh binh chủng nữa, đều là những nhân vật chính. Tác giả cuốn
sách, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người dẫn chuyện. Vậy là đủ vai? Không. Còn
thiếu một vai nữa, ấy là vai phụ. Vai Hề, con lợn An-ta-ra-mê-na. Vẫn biết đây
chỉ là vai phụ thôi, nhưng vai diễn này vô cùng quan trọng
Thiết
nghĩ, hãy khoan bàn về con lợn An-ta-ra-mê-na với tư cách vai Hề, trước hết,
cần xem vai trò của Hề trong sân khấu truyền thống ra sao? Với góc nhìn từ vai
Hề ở sân khấu chèo (có thể mở rộng cho vai Hề trên sân khấu truyền thống nói
chung), nói đến vai Hề, người ta thường nghĩ đến một nhân vật luôn mang
lại tiếng cười cho người xem. Dù chỉ là một vai diễn mang tính chất phụ họa cho
những lớp bối cảnh chính, nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng và đặc biệt
là cái hồn vía của vai diễn, bởi trong tiếng cười chính là sự sâu lắng, phản
ánh rõ nét nhất cuộc sống qua tạo hình đặc biệt của một vai diễn trên sân khấu.
Khái niệm
là vậy, giờ ta thử lấy lăng kính Hề sân khấu soi chiếu vào con lợn
An-ta-ra-mê-na trong Đảo Chìm xem sao? Con lợn tinh ranh, bắng
nhắng, hay làm trò cho lính cười. Ả ta (lợn cái) được mọi người quan tâm, cho
diện váy áo mớ ba mớ bảy lòe loẹt trong khi các chàng lính mình thì trần như
nhộng đóng mỗi chiếc quần cộc, thậm chí chẳng mặc gì; đến thứ quý nhất là nước
ngọt thì tiêu chuẩn hàng ngày của ả ta cũng gấp đôi của lính. Bi hài nhất, là
mỗi khi đến chu kỳ động dục, ả ta tăng động, ngoe nguẩy chìa bộ phận giống cái
ướt nhẹp đỏ hỏn của mình vào mặt đám lính thủy... Chẳng thế mà, từng có một nữ
nhà văn tầm cỡ, trong một lần mạn đàm với nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ ý
định táo bạo, rằng nếu cô ấy là tác giả thì sẽ đảy chi tiết này đến tận cùng (nghĩa
là cho đám lính thủy trong cơn khát thèm đàn bà lâu ngày, không kiềm chế nổi
bản thể, làm cái chuyện đực cái với nàng lợn An-ta-ra-mê-na). Tất nhiên nhà
thơ rất tỉnh táo, chẳng bao giờ nghe ai đó “xui dại” như thế. Ông chỉ bảo, ý
nghĩ của người đời kinh thật.
Song quả thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa ít nhiều cũng băn
khoăn về số phận của vai Hề này, từng tự hỏi, mình có nên chỉnh sửa đôi chút
phần kết của tác phẩm Đảo Chìm, khi có độc giả bày tỏ thắc mắc,
rằng liệu tác giả có bỏ quên con lợn An-ta-na-mê-ra hay không, mà cuối truyện
chẳng thấy nó đâu cả,... Vậy thì nó biến đi đâu, số phận nó ra sao sau cái chết
của Hai Ùm?
Tôi nghĩ, bạn đọc đòi hỏi không sai, song cũng không cần
phải giải quyết chi cả, bởi nó chỉ là vai Hề. Hề chỉ là vai phụ, Hề xuất hiện
để kết nối và sâu chuỗi các phần chính kịch với nhau thành một chỉnh thể
lo-gic, xét về cấu trúc; còn về biểu hiện thì sự ra mắt của Hề là để làm trò,
gây cười, dù là cười vui vẻ sảng khoái, cười chảy nước mắt, hay cười để nuốt
nỗi buồn đau vào tận đáy lòng,...và hơn nữa, thâm chí để nói những điều mà tác
giả không thể nói được trong vai trò người dẫn chuyện, mà cũng không thể gửi
gắm vào các nhân vật chính kịch. Hoàn thành các việc này, là Hề tròn vai, hết chuyện, cần chi đẩy số phận vai
phụ đến tận cùng. Lẽ di nhiên, trong câu chuyện và văn cảnh cụ thể, Hề ta có số
phận thì cũng hay.
Ở đây, còn bởi, cái kết của tác phẩm Đảo Chìm
rất đắt, rất đắc địa rồi, đó là cái chết của nhân vật Hai Ùm, ám ảnh và lay
động tâm can, lay động trời biển. Chẳng ai có thể quên nổi, hình ảnh con chim
biển khổng lồ đứng trước cửa lều bạt dáng gù gù hệt Hai Ùm vì như hồn chàng
lính thủy này nhập vào, khiến đồng đội vửa sợ vừa mừng tưởng anh sống lại. Một
cái kết bi tráng, cô đọng, giàu biểu đạt như đúc tượng vậy, thử hỏi còn có gì
tuyệt hơn, cần chi mà phải bàn thêm về số phận con lợn Hề cho dài dòng văn tư.
Ta cùng đọc lại mấy dòng kết này để thấm nỗi bi tráng: “Thế là lại thêm
một người lính nữa chết ở Đảo Chìm, người đó tại sao không phải tôi, mà lại là
Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được thấy cánh
chim hải âu”. (Ở đây,
tôi xin được mở ngoặc, bởi đó là chi tiết rất đắt, được cài cắm ngay từ đầu
cuốn sách. Hải Âu thường chỉ bay ở ven bờ, cách đất liền chừng hơn trăm cây số.
Ngoài đại dương không có Hải Âu. Vì thế với lính biển, Hải Âu là tín hiệu báo
đất liên. Và trước đó Trần Đăng Khoa cũng đã bàn về cái chết dữ dội của những
người lính biển. Chết mà không được yên. Dẫu chỉ còn một mảnh xương tàn thì
mảnh xương đó vẫn đêm ngày phải vật lộn với sóng gió. Cho nên, mới có chi tiết:
Ước gì trước khi nước khép mặt, Hai được nhìn thấy bóng chim Hải Âu, ấy
là niềm ước vọng mong manh có thể mảnh xương tàn của mình sẽ được sóng đẩy về
với đất). Bởi thế: “Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội
chạy tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua
mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chất. Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển
lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như
máu...”. Hàm súc, ấn tượng như một triết lý, dư ba, mà gợi và mở ra vô tận,...
Nhân đây, bạn đọc nên biết một bí mật về ả
lợn Hề An-ta-ra-mê-na này. Qua câu chuyện lính Trường Sa bàn luận, tôi mới
biết, thực tế, ngày ấy, ngoài Trường Sa, đặc biệt là Đảo Chìm, chẳng có một chú
lợn nào cả. Tác giả, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã hư cấu, tạo nên một ả lợn bắng
nhắng vui nhộn làm trò cười cho lính, trên cơ sở một con chó khoang có thật.
Theo cánh lính Trường Sa commen kể lại, và theo dõi cuộc trò chuyện trên mạng
xã hội Blog Tiếng Việt (đã trích ở phần trước) giữa nhà thơ Trần Đăng
Khoa với cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí (nguyên mẫu nhân vật chính trị
viên Thuận) cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, (nguyên mẫu Tư Xồm),
Lê Văn Khánh, thì lúc ấy ở đảo, họ có nuôi một con chó khoang được goi tên Ái Vân (cánh lính đảo thích lấy tên
của một nữ ca sĩ xinh đẹp nổi tiếng một thời đặt tên cho con chó của họ. Đây
là sự trân trọng yêu mến thực sự của cánh lính đảo, chứ không phải giễu cợt hay
thóa mạ), và rồi trong lần đón tiếp vị Tư lệnh binh chủng thị sát đảo, họ
đã lấy cớ thiết đãi ông rồi làm thịt. Và nếu như, chỉ có thế thôi thì quả là “chó
chết hết chuyện”, nên nhà thơ đã rất sáng tạo khi chế ra một ả lợn tên gọi An-ta-ra-mê-na quyền năng
như phù thủy, tinh ranh như yêu tinh, hoạt náo vui nhộn như tên Hề sân khấu.
Chó khôn và tình nghĩa là đương nhiên (“khuyển mã chi tình”), nhưng lợn khôn
mới khó và lạ chứ (người đời vẫn quen
bảo “ngu như lợn”mà). Ấy vậy, ả lợn An-ta-ra-mê-na này lại
tinh khôn đến bất ngờ, có cá tính hẳn hoi, và như thế nó xứng đáng là một “nhân
vật đặc biệt”. Bí mật của vai Hề này
là thế đó. Và theo tôi, ả lơn này không những góp phần tạo bầu không khí sinh
động cho câu chuyện của những người lính biển, đồng thời nó cũng đóng vai trò
quan trọng làm nên chất uy-mua và bi tráng cho cả thiên truyện.
Có điều này, mỗi
khi nghĩ về tiểu thuyết Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, tôi lại nghĩ
đến hai tiểu thuyết ngắn khác, đó là “Ông già và biển cả” của
Ernest Hemingway và “Trên mảnh đất người đời” của Anatoli
Stepanovich Ivanov. Theo tôi, ba tiểu thuyết ngắn này ít nhiều có độ tương
đồng, về số lượng từ, về độ hàm súc của ngôn ngữ và tính biểu đạt hình
tượng. Nếu như, ở “Ông già và biển
cả” người ta thấy được sự cô đơn của con người giữa thiên nhiên và dù
con người có cố gắng đến mức nào cũng nhiều khi trở nên vô nghĩa; Và ở “Trên
mảnh đất người dời” người ta nhận ra một chân lý khác, ấy là dù có bị
vây hãm trong tình yêu, sự dượt đuổi của người trả thù giấu mặt trong sự kinh
hãi của kẻ chạy trốn, sự ghê tởm và lòng hận thù tột độ thì đến một lúc nào đó
lại có thể tha thứ và coi đấy là cách trả thù còn kinh khủng hơn nhiều. Về
không gian tiểu thuyết, hai cuốn này đơn tuyến, nặng về chất tự sự, giàu nội
tâm...
Còn ở Đảo Chìm, không gian truyện phức tạp
hơn nhiều, dù lượng chữ lại ít hơn, con
người ta sống trong một trật tự tưởng vô cùng nghiêm ngặt song lại như một thế
giới tự do tự tại, nhưng ngặt thay, là con người tự khép mình trong sự cố kết
bởi ý thức trách nhiệm với niềm tự hào và niềm tin vững chắc về một tương lai
mờ mịt, vời vợi phía chân trời... Với
nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng của Đảo Chìm mà tác giả
đã lựa chọn, là rất thích hợp và độc đáo. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lớn
Lê Lựu, một người rất khó tính về nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là
Thần bút.
Còn tôi thì coi đó là một kiệt tác...
Hà
Nội, tháng 5/ 2023
NHỚ NHÀ THƠ -
“bây
giờ là mùa thu”
“Gió tháng tám vu vơ rồi sẽ thổi về/
Cánh bãi sẽ ngô mềm vai áo/ Lá sẽ mượt sau những ngày giông bão/ Nhịp tim mình rồi mạch lạc như xưa.../ Sẽ đến ngày tóc mình ngả vào thu/ Hoa bèo tím chẳng mong manh như trước/ Chim nhạn sẽ bay về thưa thớt/ Cay đắng phai dần thành những bâng khuâng”...
Tôi tin rằng, nhiều
bạn yêu thơ sẽ nhớ những câu thơ này từ bài thơ Bây giờ là mùa thu của nhà
thơ Vũ Đình Minh.
Với Vũ Đình Minh, gọi
ông là nhà văn hay nhà thơ đều đúng, bởi ông viêt đều tay và có những thành
công đáng kể cả văn xuôi (truyện ngắn,
tiểu thuyết, truyện ký, bút ký,...) và thơ.
Mùa thu này, tôi
nhớ và viết về ông như một sự tri ân với người đàn anh thân thiết, người thày
về báo chí, văn chương đáng kính.
Hơn chục năm trước, hồi Vũ Đình Minh
mới về cõi hạc, tôi viết chân dung ông-“Dung dị Vũ Đình Minh” đăng trên
trang blog cá nhân của mình ở Blog Tiếng
Việt, sau đó Báo Nông nghiệp Việt Nam đăng số Tết nguyên đán và sau cùng
tập hợp trong một tập sách của tôi. Đặc biệt, khi bài về chân dung Vũ Đình Mình
đăng trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt.
đã có rất nhiều bạn đọc, nhà báo, bạn văn chương vào cảm nhận. cung cấp một số
chi tiết về Vũ Đình Minh. Ngay cả người con trai của ông, nhà báo Vũ Đình Thành
cũng ghi cảm nhận và cung cấp thêm tư liệu về đời tư và sự nghiệp sáng tác văn
chương của ông. Trên cơ sở những chi tiết và tư liệu này, tôi gom góp và xâu
chuỗi lại, đặng khắc họa đậm nét hơn bức chân dung về Vũ Đình Minh.
Theo nhà báo Vũ Đình
Thành, con trai ông, thì Vũ Đình Minh sinh ngày 30 tháng 12 năm 1944 tại quê,
Tráng Việt, Mê Linh, Vĩnh Phúc. Năm 1965, tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm
Hà Nội, ông tình nguyện xung phong lên miền rừng núi Cao Bằng dạy học. Cả thời
thanh xuân đầy khát khao, ông cống hiến cho vùng đất hoang vắng này, sau đó
chuyển công tác về Vĩnh Phúc, Phú Thọ dạy học ở Trường cấp 3 Đoan Hùng. Vì có
năng khiếu và tham gia sáng tác văn học, nên Vũ Đình Minh được điều về làm
Thường trực Hội Văn học Nghệ thuật tình Vĩnh Phú. Từ năm 1979, ông chuyển công
tác về làm biên tập ở Ban Văn nghệ Đài Phát thanh Hà Nội. Là người có năng lực,
ông lên đến cương vị Trưởng ban, năm 2004 thì nghỉ hưu, sống tại Hà Nội đến khi
qua đời.
Trở lại chuyện cũ, mùa thu năm 1987, tôi từ vị trí kỹ sư nông nghiệp ở
huyện miền núi biên giới Trị Tôn (An
Giang) về làm báo tại Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN) thì Vũ Đình Minh đã là Trưởng ban Văn nghệ Đài Phát thanh
Hà Nội rồi. Khi ấy. Đài Hà Nội chưa ra truyền hình, nên các chương trình văn
nghệ của Đài rất được người làm chăm chút và thính giả đón nhận. Có lẽ, các
chương trình văn nghệ ở đây hay chẳng mấy kém chương trình văn nghệ của Đài
trung ương. Vậy nên, Vũ Đình Minh cũng rất được đám văn nghệ sĩ Hà Nội nể
trọng, cầu thân, đặng mong được phát bài. Nhuận bút ít ỏi, song thời buổi cả
nước thiếu thốn, đói kém nên đồng nhuận bút quý bao nhiêu. Tôi tập tọng nghề
báo, tiếng nhà báo cũng oai đấy, nhưng túi thường nhẵn khi chưa hết tháng.
ngoài công việc chuyên môn ở cơ quan, tôi dành thời gian viết báo vặt để kiếm
tiền và tối đi học ngoại ngữ, tiếng Pháp ở trung tâm nơi góc phố Nhà Chung.
Viết báo vặt thì phải chịu khó, ngó các báo trung ương, địa phương, báo ngành,
thấy tờ nào có mục mà mình có thể viết được là mần thôi. Anh bạn thân, nhà báo
Trịnh Bá Ninh làm phóng viên báo Nông nghiệp chỉ dẫn này nọ, đặng giới thiệu
làm quen với một số nơi. Ngoài nhà văn Trần Nguyên Vấn (Trần Phương Trà) ở Ban Văn nghệ Đài TNVN mà tôi làm quen từ hồi còn
ở trong
Ít lâu sau, Vũ Đình
Minh xin việc cho người em ruột về làm cùng Đài Hà Nội và cho gia đình họ ở ghé
căn nhà ấy, thì tôi bớt lui tời vì cảm thấy phiền, mà chỉ ghé cơ quan ông thôi.
Thời
thế, hoàn cảnh gia đình mỗi người đổi thay, Vũ Đình Minh đưa cả vợ con từ quê
ra Hà Nội ở chung, chuyển nhà mới mãi đường Tam Trinh nối dài, còn tôi thì lập
gia đình, vợ tôi cũng không phải là một cô gái nào mà Vũ Đình Minh thấy đường
được mai mối cho tôi như ông đã từng đùa vui, và tôi cũng được cấp vài chục
thước nhà tập thể cơ quan lấy chỗ chui ra chui vào, nên anh em chúng tôi có
phần xa nhau hơn trước. Thi thoảng vẫn gặp nhau ở đâu đó vì công việc làm báo,
hay lâu lâu điện thoại hỏi thăm thôi, chứ chẳng có thời gian mà ngồi đối ẩm
cạch chén cao hứng đàm luận văn chương như ngày xưa cũ...
Rồi
Đài Phát thanh Hà Nội ra thêm truyền hình, cơ quan rời khỏi Hàng Dầu đến trụ sở
mới to đẹp nhưng mãi tận phố Huynh Thúc Kháng, nên hai anh em đã xa lại càng
xa. Vũ Đình Minh rất hân hoan và bận mải vì làm truyền hình, nên viết văn, làm
thơ ít đi. Song chính quãng thời gian này, Vũ Đình Minh đã đi tiên phong trong
việc làm phim tài liệu chân dung các văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa thuộc hàng
gạo cội của Việt
Nhóm
bạn “bộ tứ huyền ảo” của Vũ Đình Minh
cũng dần rệu rã bởi nhà thơ Trinh Đường tuổi cao sức yếu ít ra ngoài, nhà thơ
Nguyễn Thái Vận thì mất sớm vì bệnh tim, chỉ còn mỗi nhà thơ Trần Nguyên Vấn là
hay đây đó. Vũ Đình Minh lại lần nữa chuyển nhà lên phố, gần nơi cơ quan. Ngày
ấy chưa có điện thoại di đông, liên lạc qua máy bàn công sở hay nhà riêng. Có
lần, tôi điện thoại phiền ông, một sự việc Đài của ông nêu, liên quan đến việc
tranh chấp đất đai của một người bạn tôi. Ông bảo, ban biên tập của ông không
làm trực tiếp vụ đó song ông có biết, vụ này khó bởi ông phó chủ tịch thành
phố, người được giao xem xét đã xử lý, giải quyết vụ việc theo hướng đó rồi,
Đài ông cũng chỉ nói theo chỉ đạo mà thôi, không thể nào khác được. Chuyện công
việc xong, ông đùa tôi, hỏi đã thăng tiến đến chức vụ nào rồi, đem tôi so sánh
với người này kẻ nọ. rồi ông cười sảng khoái lắm.
Trước
lúc Vũ Đình Minh nghỉ hưu, tôi gặp ông một lần. Đợt ấy, Hội đồng hương văn nghệ
sĩ quê Hải Hưng tổ chức gặp mặt đầu xuân ở Hội trường Đài PT&TH Hà Nội, do
nhà văn Đào Quang Thép (Phó giám đốc Đài) chịu trách nhiệm. Tôi đến dự, tan
cuộc, ra về, đến cổng đài thì thấy Vu Đình Minh đứng đấy. Tôi vội xuống xe,
chào ông. Lâu ngày gặp nhau, tay bắt mặt mừng, tranh thủ hỏi thăm đủ thứ
chuyện. Vũ Đình Minh vẫn cười đấy, nhưng nụ cười heo héo, và tôi thấy khi sắc
ông không vượng. Ông bảo: “Mày ạ... Sắp
tới. tao về hưu rồi. Xả hơi một chút rồi viết lại. Mấy năm rồi, bận chương
trình của Đài, hết kịch bản này đến kịch bản khác, nổi tiếp nhau , tối cả mặt
mày, chả viết được mấy”.
Bẵng đi một dạo, nghe
đâu sức khỏe ông xuống nhanh, nhất là sau khi ái nữ của ông lâm trọng bệnh,
chữa trị khắp nơi nhưng không qua khỏi. Ông buồn nhiều và suy sụp cũng rất
nhanh... Đúng thời gian này, tôi phải xa Hà Nội hai năm theo quyết định điều
động vào phụ trách văn phòng Đài TNVN khu vực miền Trung tại Đà Nẵng nên anh em
ít liên hệ với nhau.
Trở lại chuyện thơ văn
của Vũ Đình Minh. Chính yếu, Vũ Đình Minh là tác giả văn xuôi với gầm chục tập
truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký, truyện cho thiếu nhi (Ông già ngồi dưới vòm cây gạo, Đi qua bão tố, Mặt đất và bầu trời, Mùa
cạn, Trả giá cuối cùng, Một giớ làm quan, Chiếc diều nằm trên cỏ... ), song
bạn đọc lại luôn nhớ đến ông-một Vũ Đình Minh Thơ. Ngay trong
phần tư liệu về cha mình gửi cho tôi, Vũ Đình Thành thống kê tên 2 tập thơ của
ông là Gió đồng, Mưa trước cửa nhà, và tập thơ in chung Lời từ đất. Cẩn thận, Vũ Đình Thành còn chọn gửi cho tôi 5 bài thơ
(Hội Lim, Sang năm con lên bảy, Ý nghĩ
ngày mưa, Mùa đông nhớ bạn, Bây giờ là mùa thu). Có lẽ, đây là những bài
thơ hay mà Vũ Đình Thành lựa chọn theo ý cá nhân mình, hay theo ý cha mình và
bạn đọc nói chung, xem đó là những bài thơ hay nhất. tiêu biểu làm nên giọng
điệu, phong vị thơ Vũ Đình Minh ?!...
Cứ chiểu theo ý nhận
xét, đánh giá của bạn đọc là khách quan nhất, những người tôi quen biết, ý kiến
khá nhất quán. Xin nêu ra đây để tham khảo, như nét khắc họa:
Ông Bùi Hải Đăng, một nhà phong thủy, làm thơ và yêu
thơ ở Gia Lộc, Hải Dương viết: “Tôi quen
bác Vũ Đình Minh những năm 1975- 1978 khi bác biên tập thơ ở Hội văn nghệ Vĩnh Phú... Năm 1978 tôi
đi sông Đà rồi chuyển về Hải Phòng, rồi nghỉ mất sức, đã gần 40 năm chưa gặp
lại bác Minh...Trong tâm trí của tôi bác là người hiền lành, giản dị, khiêm
cung và dễ gần. Hồi đó ông sống thật bình lặng. Bài thơ "Hội Lim" là
kỷ niệm buồn về cuộc yêu không thành có thật trong ông với một cô giáo vùng
Kinh Bắc.... Tôi đọc thơ ông từ chùm thơ được giải của báo"Người giáo viên nhân dân" khi đó
ông còn dạy học vùng cao... Năm 1975 ông đi dự trại viết ở Quảng Bá khi kết
thúc trại mang về một chùm thơ hay. nồng nàn cảm xúc. Năm 1976, có thời gian
chỉ hai tháng ông viết được đến 4 truyện ngắn. Khi đó tôi ở công trường dệt
Minh Phương, có tối sang chỗ Hội chơi, ông thường trải chiếu ra sân sỏi nói
chuyện dưới trăng... một lần đọc thơ ông đến đoan: "Em đi qua nghiêng
nón khẽ chào/ Tôi thơ thẩn mái đình nhiều ngói quá!/ Cây ổi bờ ao cong cành
xanh đặc quả/ Đến bao giờ ổi chín hở em?”. Thấy tôi ngẫm ngợi ông bảo:”Tớ học
ca dao đó” ... Thoáng chốc như vừa đâu đây, Hoàng Hữu, Nguyễn Đình Ảnh và Ông
giờ đã thành người thiên cổ cả rồi...Ôi kiếp người quả là ngắn ngủi..”.
Nhà thơ Nguyễn Thị Tuyết ở Đông Anh, Hà Nội, một giáo
viên nghỉ hưu từng nhiều năm dạy học ở Hà Giang: “Người đọc hiểu thêm nhiều về nhà văn, nhà thơ Vũ Đình Minh -tác giả của
nhiều bài thơ được đông đảo bạn đọc yêu thích -Riêng mình rất tâm đắc bài HỘI
LIM của nhà thơ Vũ Đình Minh...”.
Nhà văn Trần Tâm ở Cẩm Phả, Quảng Ninh: “Tôi
cũng đã biết và gặp ông ngày ông làm việc tại Đài phát thanh Hà Nội. Tôi như được gặp lại mấy người anh, bạn văn chương, những
Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đình Minh... Đó là những con
người bằng xương bằng thịt mà tôi đã vinh dự được gần gũi gắn bó. Trong số đó,
có người tôi gặp gỡ, ghé qua như một buổi dạo chơi, có người góp sức nâng đỡ
tôi như một người thày tận tụy. Có người đã đi về miền sương khói, có người đã
vào tuổi cổ lai hy...”
Ông Lê Minh Dung, bạn yêu thơ ở Tp Hồ Chí Minh: “Tôi
cũng thích thơ của anh Vũ Đình Minh, nhiều bài hay, như Hội Lim, Bây giờ là mùa
thu,...”Bây giờ đã vào thu, nhịp tim đập bình yên/ anh lại nhớ mùa hè nông
nổi ấy/ hoa bèo tím mỏng manh lắm đấy/ nhưng điều này chẳng nói với hai ta…”.
Nhà văn Thái Sinh ở Lào
Cai: “Từ rất lâu rồi tôi chép bài thơ: Mùa đông nhớ bạn của Vũ Đình Minh:
Bạn ở Nà Giàng mùa đông về sớm hơn/ Học
trò có nhớ mang rơm cho thầy về trải ổ/ Cái lạnh căm căm từ trong hang đá/ Cái
lạnh run tay tỏa từ trong mưa... Bài thơ 7 khổ, câu nào cũng chan chứa tình
thầy trò, đúng với tâm trạng và việc làm của những thầy giáo vùng cao chúng tôi
vào những năm 1975. Chống gậy leo đèo lặn lội rừng sâu. Gọi các em mấy ngày bỏ
lớp...”.
Có hai bạn đọc ở miền Trung nhận xét
ngắn gọn, một ghi “Tôi rất xúc động trước tình cảm tác giả bài viết dành
cho nhà thơ Vũ Đình Minh. Tôi cũng đã từng xúc động trước Thơ của Vũ Đình Minh”;
và một là nữ giáo viên: “Cảm ơn tác giả
bài viết về Vũ Đình Minh, ông có những vần thơ giản dị viết về nghề giáo mà tôi
phải trăn trở suốt đời: "Mở trang sách, ánh mắt nhìn khao khát/ Tôi
biết tôi không được nói những lời thừa...".
Phần nhiều, bạn đọc cảm tình với Vũ Đình
Minh qua thơ, nhưng cũng có những người yêu thích văn xuôi của ông, nhất là bút
ký. Chẳng hạn như, nhà văn Nguyễn Cao Thâm (Hà Nội) nhận xét: “Tôi cũng đã
đọc thơ, ký, truyện ngắn của bác Vũ Đình Minh. Ấn tượng nhất với tôi là những bài
ký của bác ấy đọc trên Đài Tiếng nói Việt
Riêng nhà văn Nguyễn Ngọc Chiến (Hội văn học nghệ
thuật Quảng Trị) lại cho biết một thông tin hay: “Tôi vẫn giao lưu cùng anh Vũ Đình Minh khi anh có blog ở vnweblogs,
nhưng chỉ được đọc lẻ của anh chứ chưa đọc trọn tập bao giờ... Chủ lực của Vũ
Đình Minh là truyện ngắn!”.
Thì rõ rồi, Vũ Đình Minh chủ lực là truyện ngắn, không
có gì phải bàn, nhưng Nguyễn Ngọc Chiến tiết lộ chi tiết là từng giao lưu với
Vũ Đình Minh trên mạng xã hội vnweblogs thì
tôi ngạc nhiên. Vậy là ông rất chi hiện đại. Ông tiếp cận với mạng xã hội, với
văn học mạng còn trước cả tôi, người kém ông những hơn chục tuổi.
Tôi nhớ, lâu lắm rồi, nếu không nhầm, một lần, báo Văn
nghệ ra, tôi và Vũ Đình Minh có truyện ngắn in chung một số. Truyên ngắn “Ông già ngồi dưới vòm cây gạo” của Vũ
Đình Minh giới thiệu trang bìa, còn truyện ngắn “Vĩnh biệt những mùa trăng” của tôi in ở trang ruột. Khi ấy, niềm
vui trong tôi thật khó tả, Anh em, thày trò nghề văn thân nhau có truyện đi
chung một sô báo, thật sướng. Tiếc là tôi không giữ được số báo lưu đó đến giờ.
Riêng tôi, học được ở ông nhiều, cả quan điểm về sáng
tác. Hơn một lần, lúc trà dư tửu hậu, Vũ Đình Minh vỗ vai tôi bảo: “Này chú em, tao nói cho mà biết... Nghê
viết, chớ có kén cả chọn canh. Mình chỉ viết thể loại nào.... bất kể, truyện
ngắn, bút ký, tiểu thuyết. thơ ca, kịch phim, hay gì gì đi chăng nữa... cứ thấy
mình viết được, và có thể viết hay... là viết...:. Ông đã làm thế, và đáng
mừng là ở thế loại nào Vũ Đình Minh cũng có những thanh công nhất định.
Vậy là, đã hơn mười năm ông rời cõi tạm. Ông mất vào
mùa thu năm 2010, sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư vòm họng.
Hôm tiễn biệt ông ở nhà tang lễ bệnh viện, tôi đi cùng nhà thơ Trần Nguyên Vấn
và vài ba nhà văn khác, hòa trong đám đông những đồng nghiệp, bạn hữu, người
thân của ông, lòng xúc động, nhớ về những ngày tháng đầy gian khó của anh em...
May sao, gần đây, tôi xem một phim tư liệu về nhà thơ
Nguyễn Hữu Hà, lại thấy hình ảnh nhà thơ Vũ Đình Minh đi lại, cười nói cũng
những bạn văn thơ. Phim này do chính Vũ Đình Minh làm, dựng chân dung nhà thơ
Nguyễn Hữu Hà, một trong se-ri phim chân dung do Vũ Đình Minh chủ trương và
trực tiếp thực hiện ở Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội. Phim do Vũ Đình
Minh đạo diên, đồng thời ông cũng vào một vai, bởi ông là bạn học thời phổ
thông xưa với nhà thơ Nguyễn Hữu Hà ở Trường cấp 3 Trần Phú, thị xã Vĩnh Yên. Ngày ấy, Vũ Đình Minh đang viên mãn nên dáng
vẻ nhanh nhẹn, tươi tỉnh và rất chi hóm hỉnh,... Ông đi trên đường đê hay lững
thững đường làng, lúc lẫn vào màu xanh vườn chuối nơi quê bạn mà như thả hồn về
quê mình. Ai ngờ, chỉ mấy năm sau, bao nhiêu thứ đổ ập xuống thân hình nhỏ thó
gày guộc của ông,... Tôi cũng đã từng
đặt câu hỏi, Vũ Đình Minh dày công phác họa nên bao nhiêu chân dung các văn
nghệ sĩ đàn anh và bè bạn, liệu ông có làm chân dung về mình? Chẳng rõ nữa...
Nhưng thôi, cũng may, bóng hình ông cứ thắp thoáng đâu đó trong chân dung bè
bạn,... Có lẽ vậy, cũng là phù hợp với bản chất dung dị vốn có của ông
chăng?...
Thơ hay văn, hay nhà làm phim chân dung, cái nào nổi
trội của Vũ Đình Minh? Tôi tin là nhiều bạn bè văn chương của ông từng đặt câu
hỏi như vậy. Tôi cũng phân vân vậy. Nhưng đến giờ, đã mười mấy năm Vũ Đình Minh
đã rời cõi tạm, tôi tự tìm ra câu trả lời. Vũ Đình Minh khởi nguồn văn chương
là thi ca từ khi ông còn là sinh viên sư phạm và những năm tháng ông dạy học ở
vùng núi xa xôi Cao Bằng, thì đến khi ra đi, dù đã thử sức sáng tạo ở các thể
loại văn nghệ khác, ông vẫn là một nhà thơ đích thực. Nhà thơ Nguyễn Hữu Hà,
người bạn hoc cùng với ông thời phổ thông ở Trường cấp 3 Trần Phú, thị xã Vĩnh
Yên xưa kể một chi tiết thú vị, Vũ Đình Minh yêu thơ và làm thơ từ khi học phổ
thông. Ngày ấy (năm 1963), nhà trường
tổ chức thi thơ nội bộ do nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi làm giám khảo, thì Vũ Đình
Minh đã giành giải nhất với bài thơ ‘Đôi
dòng sữa”, ý tứ bài thơ là mỗi người ta lớn khôn trưởng thành được đều nhờ
vào đôi nguồn sữa, ấy là sữa mẹ với công sinh thành dưỡng dục và nguồn sữa kia
chính là công sức dạy dỗ của thầy cô giáo nhà trường bồi bổ kiến thức và tâm
hồn. Cùng thi ngày ấy, còn có hai học sinh khác đoạt giải nhì và ba mà sau này
họ đều trở thành nhà thơ tên tuổi của thi đàn Việt
Thơ Vũ Đình Minh không giàu ý từ và mạnh ở sức khái
quát, nhưng chan chứa cái tình, câu chữ, vần điệu có sức gợi, cái mà thơ cần
nhất. Vậy là đủ. Và giờ tôi gọi Vũ Đình Minh với danh xưng NHÀ THƠ, mà không
ngại khi so với những sáng tác khác của ông,...Và còn bởi, như tôi biết, hết
thảy những ai đã dính dáng đến thơ thì chẳng bao giờ bỏ nó được. Người ta mê
thơ, làm thơ như một thứ Giời hành vậy !...
Chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tôi, người đàn em văn
chương, người học trò nghề của Vũ Đình Minh, cũng như ông, thử sức mình ở các
thể loại, y lời tâm sự chân thành như một lời khuyên bảo của ông ngày nào, rồi sẽ có ngày mình nhận ra mình mạnh ở thể
loại nào nhất?...
Giờ thì tôi hiểu, sau hơn bốn mươi năm cầm bút, tôi
mạnh nhất ở thể loại nào? Phải chăng, đó là tản văn, là chân dung-tiểu luận và
phê bình văn học? Như nhà văn Nhật Tuấn, nhà thơ-nhà nghiên cứu và phê bình văn
học Trần Nhuận Minh, và cả nhà thơ Trần Đăng Khoa, những người đã đưa ra nhận
định và lưu ý với tôi?...
TỦM TỈM LÊ ĐÌNH CÁNH
1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát
Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt
Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo
muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và
mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn
Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.
Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê
Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ,
mà cụ thể lại là Thơ lục bát.
Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc,
trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của
Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in
riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất
lành do NXB Thanh Niên ấn
hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).
Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà
thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn
Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“
(bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương
sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao
nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê
Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư
tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài
thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt
Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình
Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể
lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài
ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca
Việt
Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao
nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều
bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ
trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ
từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông
với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thế nọ, rồi trích dẫn thế
kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ
lục bát...
Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài
nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc,
song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo
cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu
thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai
mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc
chở đầy ước mong”.
Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ,
lập ý rõ ràng
Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng,
têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những
bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.
Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu,
câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...
Vậy là, khi mang những nhận định trên
mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông
có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng
được giải, làm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi, Trăng nở nụ
cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ
xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga
Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông
Chùy, Cõi xưa, Bến quê, Trở lại Ba Lòng,
Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...
Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy
rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ,
dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.
Xin được viện dẫn, như :
“Mải
lo cơm đủ áo lành/ Còn đâu lúc rỗi để
thành vọng phu” (Gió đất); “Ở rừng
từng hát ru nhau/ Lá trầu chị héo, quả cau em già” (Em đi); “Tình yêu như thể chơi đề/ Đợi con độc đắc
lại về trắng tay,... Đố ai hết nợ đàn bà/ Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu” (Chợ tình); “Chốn quê vẹo cột vênh kèo/ Ốc
cam phận ốc lại đèo kiếp rêu”. (Chợ người); “Xế tà tháp lặn vào mây/ Vầng
trăng chính sử hao gày hoàng hôn” (Lời xưa); “Sau già là cõi xa xăm/ Nén hương
đỏ lửa mỗi năm đôi lần.” (Hỏi đất); “Giếng
làng mưa bão vẫn trong/ Chợ quê rớt
già vẫn đong đếm đầy” (Thú quê); “Đao
đình cong nỗi phế hưng/ Một thời lá
rụng dửng dưng sân chùa” (Phận rùa);
“Tuổi già như thể nắng hanh/ Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều”
(Về hưu); “Ơi người áo mũ cân đai/ Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành”
(Tiểu sành); “Nắm tay củ ấu vẫn tròn/
Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi” (Chợ
Mơ); “Giả vờ có ngủ được đâu/ Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi” (Ngủ
nhờ); “Ngày xưa xe lộn về Bần/ Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu” (Về
Phố Hiến); “Nẻo đường bồ bịch cong cong’
Vừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...” (Nẻo
đường cong cong); “Bắt chồng em có chọn
anh/ Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu/
Như là đồng đất chọn trâu/ Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày/ Chọn anh như cối chọn chày/ Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô” (Bắt
chồng); “Thân cò trở lại nghề nông/ Rời cây súng biết tay không có gì/ Mấy đồng hưu trí thấm chi/ Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người” (Anh
lại đi cày); “Nứa mai thưng hở vách lều/
Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy/ Mưa bay như thể sương dầy/ Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay” (Gặp
ở Mường Tè)...
Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay
như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy,
thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài
thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý
thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...
Chẳng hạn, như:
“Thế cờ
nghiêng về đâu/ Pháo mã thành vô dụng/ Sĩ
tượng thành thất sủng/ Tốt đen cười
sang sông” (Nắng Hàm Tân); “Ai biết
được ma nào ăn cỗ/ Ai dại gì công bố
chuyện đi đêm” (Vợ Ba); “Gặp bạn tình
lòng đã thấy no/ Rượu chưa nhắp lời
đà có lửa/ Trưa đứng nắng bồn chồn vó
ngựa/ Chợ lim rim một nửa sang chiều”
.(Chợ Bắc Hà); “Đường một chiều cứ
thế tôi đi/ Tôi biết dại làm người
nhụt chí/ Cái đáng vứt lại cất làm
của quý/ Cái phải chôn đi lại để
trưng bày” (Đường Bà Triệu); “Đâu đá
lát lên đền Tam Tổng/ Lạnh khói hương
thông thốc giữa trời/ Hai hộ pháp vẫn
muôn đời gác cổng/ Ông Ác cười! Ông
Thiện toát mồ hôi... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo/ Thời gian như nước ngầm băng hoại/ Trái tim tôi càng sống càng nghèo” (Quê
ngoại); “Mùa khô Đồng Văn trơ gió/ Gió khê lời đá thở dài/ Gió như tiền vào nhà khó/ Một đời gió thổi trần ai” (Mùa khô Đồng
Văn) v.v..
Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong
tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình
thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện
nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến
ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc
đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này.
Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa
máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên,
Phố Làng v.v...:
Ví như: “Đèn mờ
nửa đỏ nửa xanh/ Để em đỡ trẻ. Để anh đỡ già” (Hát Karaoke); “Phố làng xóa sổ nông dân/ Quán quê lai ghép
công nhân nửa mùa/ Lượn lờ chào bán gọi mua/ Dật dờ chai cốc được thua với đề” (Phố
Làng); “Mảnh bằng bán tận châu Phi/ Tiền
lương đếm lại nhiều khi mủi lòng/ Ước mơ xé lẻ từng đồng/ Thương con liệt sĩ
lấy chồng thương binh,/ Vết thương như kẻ vô tình/ Tấy lên những lúc gia đình
ăn vay.” (Vàng xám) v.v...
Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể
thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông,
thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít
nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt
Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...
2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.
Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ,
đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh
nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học
Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông
lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng
chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến
nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015,
con số đã là 7.
Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như
tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ
vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật,
nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với
tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm
biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông
luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu
cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình
văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn
học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...
Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù
chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi
nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút
ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ
hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài
Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học
khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác
phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông
được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí
chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa,
uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không
riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít
nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...
Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.
Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là
bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh.
Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc
theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp
từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý
thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông
từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân
trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là
phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là
phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy,
gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách.
Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối
nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là
biến chủ thành khách, còn mình từ khách
thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý
mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo
cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê
Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia
tăng hàm lượng văn chương cho bài
biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm
hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến
thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm
phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút
chuyên ký sự khác cùng thời...
Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến
thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo
cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc
nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết
dạng này, khá thành công, như: Hoa sen,
Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng
gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...
Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm
của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn
đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muốn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì
đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi
tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương
ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo
tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...
Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy
là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh
có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông,
quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai
đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều
mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này,
tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn
dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi
gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ
lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối
hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...
Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ
Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể
loại bút ký, ký sự văn học !...
3.
Tủm tỉm Lê Đình Cánh.
Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu,
nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV),
tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc
của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở
58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phải hàng
năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng
Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng).
Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ
thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ
(Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân
đội và Tạp chí Văn học (Viện Văn
học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững
chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ
ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ
phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà
thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng
Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên,
thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi
cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân
biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người
trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu
có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng
xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau
đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát
sóng, sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.
Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho
tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ
Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được
xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng
tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên,
đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng và cần văn học
dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ - ông trùm của văn học thiếu nhi
nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo
lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi
của Hội Nhà văn Việt
Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có
thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người
khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông,
trong công việc và đời sống, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi,
việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì
phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự
lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh
thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, thấy
ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản thân
học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo
tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công
việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người
khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải
quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm
giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả
khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm
thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông
văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc
chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ
tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng
bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ...
Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân
gian. Cùng với đó, chịu đi và đi nhiều,
chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vở
lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo
nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình
Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người
được đồng hóa, gán với nhân vật Trạng
Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt,
Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách
minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính
thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà
dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và
hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ
song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng như khướu nhưng viết
ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được
cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...
Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh
Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ
nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà
do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ)
Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại
một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân
tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và
tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa
miệng thì vẫn đấy....
Sau những xã giao thông thường, bập
vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như
khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông
giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực
và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông
vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan
sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa,
vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm,
được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác
từ thời là người của nhà Đài (VOV),
cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Ở tuổi gần tấm mươi, ông sống chung
với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính
nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.
Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là,
mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về
sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh
thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi
thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với
gia đình, với cuộc đời này !...
Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây?...
Chân dung tôi viết về ông, Lê Đình Cánh có đọc và tỏ
ra hài lòng, thích thú, trước khi ông trở bệnh nặng rồi mất. Song giờ đây, với ông, tất cả đều là phù du... Có hăng, ít
nhiều cho những ai từng biết và yêu
thích thơ ông mà thôi ?!... ./.
NGƯỜI CẢ ĐỜI MẢI MÊ ĐUỔI MỘT CON DIỀU ...
Ấy là nhà thơ Đồng Đức Bốn,
Người yêu thơ xứ mình, hầu như
đều thuộc vài ba câu thơ của Đồng Đức Bốn. Đó là may mắn và hạnh phúc của Đồng
Đức Bốn trong thời buổi loạn thi ca này,...
Những câu thơ ấy, như: “Cành hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm
vào như không”; “Mải mê đuổi một con
diều/ Củ khoai nướng đẻ cả chiều thành tro”; “Chiều nay Hồ Tây có giông/ Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm”;
“Xong rồi chẳng biết đi đâu/ Xích lô Bà
Triệu ra cầu Chương Dương”; “Đang
trưa ăn mày vào chùa/ Sư ra cho một lá bùa rồi đi/ Lá bùa chẳng biết làm gì/ Ăn
mày nhét túi lại đi ăn mày”; “Trở về
với mẹ ta thô/ Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ”; ‘Đừng buông giọt mắt xuống sông/ Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”;
“Đợi em ở trước cửa thiền/ Lá cây rụng
một chiếc thuyền đang trôi” ... Đại loại vậy. Dẫu chỉ thế thôi những tưởng
cũng là đủ với người làm thơ!?... Song không, Đồng Dức Bốn còn có nhiều hơn...
Tôi nghĩ thế.
Trước tập thơ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA (NXB Lao động, 1993), Đồng Đức Bốn xuất
bản tập thơ đầu tay, CON NGỰA TRẮNG VÀ RỪNG CÂY CỎ ĐẮNG (NXB Văn học, 1992), và sau đó, từ năm 2000 đến năm 2006, Đồng Đức
Bốn còn xuất bản thêm 4 ấn phẩm nữa, nhưng riêng tập CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA, với 112
bài thơ ở vào thời kỳ tác giả vừa độ chín sáng tạo, thiết tưởng cũng đủ để nhận
diện một tài năng thơ Đồng Đức Bốn, đặc biệt thể Lục bát.
Quả thật, tập "Chăn trâu đốt lửa", thơ lục bát chiếm già nửa. mà hầu như bài
nào cũng đọc được. Vậy là, lục bát viết được như như thế không phải dễ, không
phải ai, nhà thơ nào cũng viết được.
Thử xem Đồng Đức Bốn làm gì với mớ
lục bát của mình?
@
Trước hết, Đồng Đức Bốn sử dụng ngôn ngữ dân gian, câu cửa miệng, thản
nhiên nói ra như chẳng có gì, mà lại có gì vậy.
Ví như, bài CUỐC KÊU, mở đầu: “Cuốc kêu như thể cuốc kêu/ Ngàn năm cái
giọng vẫn đều thế thôi”, đúng là chẳng có gì thật, nói ra là để nói, thế
thôi. Câu tiếp theo: “Bụi tre bụi dứa tan
rồi/ Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu”, thấy như có cái gì đó rồi. Câu
tiếp: “Đường đời còn lắm bể dâu/ Trắng
đen còn một Mỵ Châu để buồn”, có chuyện lớn rồi đó, mà chuyện quốc gia đại sự,
chuyện hưng vong của cả một dân tộc. Lại tiếp: “Thì cho chớp bể mưa nguồn/ Cuốc kếu vẫn giữ cái hồn cuốc kêu”, đã
là sự suy ngẫm, triết lý sinh tồn rồi đấy. Câu tiếp nối: “Tôi nghe nẫu cả những chiều/ Câu thơ ngã xuống đổ xiêu quán chùa”,
trở về với suy tư cá nhân về lẽ đời. Và bất ngờ: “Thoắt nghe dựng tiếng gươm khua”, kết để mở ra một chương mới,...
Tôi thích bài thơ này, bởi tính giản dị như không của nó, mở đầu là nói một
việc thường nghe thường thấy, ai cũng biết, song chẳng mấy người lưu tâm, ấy là
tiếng cuốc kêu mỗi ngày, chẳng cần đao to búa lớn, rủ rỉ dẫn dắt đến việc đại
sự, lẽ sinh tồn và bài học giữ nước cả cả dân tộc.
Hay như bài ĐỢI CHỜ THÁNG BA, mở
đầu cũng bằng một việc hết sức bình thường: “Bây giờ chờ đợi tháng ba/ Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng”. Đúng là
chắng có gì, thậm chí là vu vơ vớ vẩn, cũng phải. Song câu tiếp theo: “Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang
thang chợ chiều”, thì quả là bắt đầu có chuyện rồi. Nào xem có chuyện gì: “Lề dường trong những chiếc lếu/ Có cô hàng
xén ngồi vêu cả ngày”, thấy chút lộ diện chút về một làng quê nghèo, chẳng
mấy ai mua bán gì. Nhưng tiếp đến: “Ngả
nghiêng mấy lão thợ cày/ Rượu say vác cả cối chày nện nhau”, thì rõ rồi,
nghèo, không có việc làm, sinh “nhàn cư
vi bất thiện”. Ai cũng biết, tháng ba là tháng giáp hạt, hay đói kém. Làng
xóm giàu có, người dân của ăn của để thì đỡ, chứ vốn thiếu thốn triền miên thôi
rồi. Vì nghèo nàn, đến thần phật cũng mất thiêng, bất lực, còn dân chúng lo
thân chẳng xong, nghĩ gì đến thần phật, mà lễ bái: “Miếu thờ phật tượng ngồi đau/ Cửa thiền rêu đã lên màu cổ xưa”. Để
rồi kết ở câu thơ khiến người ta phải suy nghĩ: “Tháng ba vẳng tiếng chuông chùa/ Bây giờ tôi đợi bóng vua về làng”.
Bài thơ với một cái kết như vậy là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động. Vua quan
gì đâu, ấy là lời thỉnh cầu khẩn thiết về một sự quan tâm của các nhà quản lý
đất nước, cần phải làm gì đó để thay đổi cơ chế, đem lại công ăn việc làm cho
người dân, thoát nghèo, làm giàu,...
Cái lối mở đầu cửa miệng thản
nhiên như không ấy, để rồi gây sự, xưng mọc về những chuyện đâu đâu ấy, khá phổ
biến trong thơ Đồng Đức Bốn. Có thể thấy như vậy trong các bài Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn, Chợ buồn, Cái đêm em ở với chồng, Hoa dong riềng, Hội Lim, Sông Thương ngày
không em, Đàn buồn lại mắc dây oan,
Bờ sông, Nhà quê, và nhiều bài thơ
khác của ông...
@ Thơ Đồng Đức Bốn nhìn chung là
Gợi.
Trong lời Tựa thơ Đồng Đức Bốn, nhà
văn Nguyễn Huy Thiệp, đã phân chia ra mấy loại người làm thơ (loại một là các thiên thần, loại hai là
những người khởi nghĩa,...), và ông đưa ra nhận định “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ, một người khởi nghĩa”. Tôi chẳng rõ,
nói như vậy, Nguyễn Huy Thiệp định dạng Đồng Đức Bốn thuộc loại nào?
Tôi thì thấy, thơ Đồng Đức Bốn
nhin chung là gợi.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi
tiếng đời Thanh là Viên Mai, trong cuốn sách "Tùy Viên thi thoại" của mình, đã nghiên cứu thơ ca Trung Hoa
cổ đại để đưa ra quan điểm, thơ trước tiên ở gợi (sức gợi), và cùng
với đó là ý tứ, ngôn từ, nhạc điệu,... Như vậy, thơ hay thì quan
trọng ở sức gợi, rồi theo đó là ý, ngôn, nhạc. Tôi đồng tình với quan điểm này.
Thế nên, cũng như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định, tôi thấy thơ Đồng Đức Bón
hay.
Lại xem thơ Đồng Đức Bốn gợi
thế nào ?
“Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều” (Chờ đợi tháng ba), câu thơ thật gợi,
khiến người ta cứ phải hình dung xem sao. Hay như, gợi làm sao: “Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít
gió đông thì nhiều” (Chăn trâu đôt
lửa): “Em như chim bay về ngàn/ Để
rơi một cánh hoa tan nát chiều” (Sông
Thương ngày không em): “Nhà em ở chỗ
vòng quanh/ Sao tôi đi mãi không thành đường đi” (Về Nhổn tìm em): “Cái đêm em
ở với chồng/ Để ai hóa đá bên sông đợi đò/ Cái đêm hôm ấy gió mùa/ Tơ nhện
giăng đến cổng chùa thì tan” (Cái
đêm em ở với chồng): “Chuông chùa
tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò” (Bờ sông): “Bây giờ tuổi đã hoàng hôn/ Tôi ra đứng gió đợi buồn trên sông” (Đợi buồn)...vv... Thơ Đồng Dức Bốn, rất
nhiều nhưng câu thơ giàu sức gợi như thế,... Tôi nghĩ, thơ Đồng Đức Bốn hấp dẫn
người đọc trước hết nhờ sức gợi.
@ Liên kết lỏng làm nên sức bền
thơ Đồng Đức Bốn,
Thơ Đồng Đức Bốn, phần lớn cả
bài không rõ ý tứ, liên kết các khổ thơ trong bài cũng lỏng, thậm chí, câu
trước, khổ thơ trước như chẳng liên quan gì đến câu sau, khổ thơ sau. Ấy vậy,
mỗi câu, mỗi khổ thơ lại có vai trò làm cọc tiêu cho các câu thơ trong bài
nương tựa vào nhau mà đứng vững., đến mức, nếu lược bớt đi lại cảm thấy chống
chếnh. Các bài thơ Chăn trâu đốt lửa,
Cuốc kếu, Chờ dợi tháng ba là những bài thơ có ý tứ rõ ràng, liên kết khá
chặt chẽ, chiếm số ít trong thơ Đồng Đức Bốn. Nhìn chung, thơ ông thuộc dang
liên kết lỏng, đơn giản, bởi mỗi câu thơ đều mang ý tứ riêng và dường như hoàn
thành xứ mệnh của nó rồi.
Này đây, bài Chợ buồn, cả thảy 4 cặp
lục bát: “Chợ buồn đem bán những vui/ Đã
mua được cái ngậm ngùi chưa em”, nếu chỉ ngắn gọn thì thế cũng thành bài
thơ rồi. Nhưng tác giả vẫn thêm “Chợ buồn
bán nhớ cho quên/ Bán mưa cho nắng bán đêm cho ngày”, rồi lại thêm nưa “Chợ buồn bán tỉnh cho say/ Bán thương suốt
một kiếp này cho yêu”, cũng không thừa, vẫn
thêm nữa để kết “Tôi giờ xa cách
bao nhiêu/ Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư”. Mấy câu sau, tách riêng
ra, mỗi cũng thành câu đủ làm nên ý của nó, song tất cả xếp liền với nhau lại
làm nên sự dày dặn cho cái kết chung, mà cũng là tâm trạng thực của nhà thơ.
Bài thơ Sông Thương ngày không em, cũng là một bài thơ như vậy. Câu đầu “Không em ra ngõ kéo diều/ Nào ngờ được mảnh
trăng chiều trên tay”. Vậy thôi, cũng gợi và mở rồi, để cho người ta mặc
sức liên tưởng. Nhưng vì muốn đi đến cái kết chở tâm tư của mình “Không em từ bấy đến giờ/ Bàn tay vẫn héo như
cờ chịu tang” thi tác giả phải thêm “Sông
Thương như gỗ hóa trầm/ Mùi hương để vết tím bầm trên da”, và “Sông Thương từ buổi em xa/
Lối kết cấu lỏng, dựa vào các
câu thơ cọc tiêu ấy làm nên sức bền cho thơ Đồng Đức Bốn. Tựu chung, bài có thể
dông dài, hay lan man, khong rõ ý, thậm ý tứ tản mát đi chăng nữa, thì nhờ có
một, đôi câu thơ hay, khiến bạn đọc thích thú mà thể tất, mà bỏ qua cho cái tội
dông dài của tác giả. Bởi người ta, chỉ cần nắm bắt một câu thơ giàu sức gợi,
ấn tượng, hay là thấy đủ, thuộc nagy được, đặng ngâm ngợi hay mang ra bình
luận, tán thưởng vui bạn vui bầu lúc trà dư tửu hậu. Vậy là Đồng Đức Bốn làm
được điều này, bởi thơ ông có nhiều câu như thế !...
@ Với lại, Đồng Đức Bốn
có cái lối, cứ “xưng xưng mọc mọc”,
cũng có thể cho là dùng phép “thậm xưng” nói ra cái ý của mình,
đặt điều, nói quá lên, đem gán ghép cho người ta những thứ ấy, rồi lấy đó làm
cái cớ, chỗ nương tựa, để mà buồn rầu, khổ ải, than vãn này nọ, kiểu bắt đền,
ăn vạ,... Ở ngoài đời, nếu ai mà sống và ứng xử thế, cứ cường điệu, làm quá lên
mọi chuyện thì thật không ổn chút nào, song trong thơ thì lại ổn, thậm chí là
đắc địa, nếu biết tiết chế. Tôi nghĩ, Đồng Đức Bốn rất chi đắc địa và thật lợi
hại với thủ pháp này.
Thì những đây: “Em đi từ hạ vào thu/ Gặp
tôi ở chốn sương mùa chưa tan/ Em đi từ phái gian nan/ Gặp tôi ở chỗ cung dàn
dứa dây” (Về phố Hàng Tre); “Một chiều về phố hàn Thuyên/ Sao em lại nỡ
bỏ quên tôi rồi” (Về phố Hàn Thuyên);
“Anh từ trong em bước ra/ Tiếng thương
tiêng nhớ gấp ba chuông chùa/ Em từ anh ra lạ chưa/ Một ngày những có bốn mùa
đổi thay” (Chuông chùa Quán Sứ);
“Tôi ngồi làm thơ cho ma/ Và coi quỷ dữ
như là tình nhân/ Chán chơi với các vị thần/ Tôi đi tìm cỏ mùa xuân đắp mổ”
(Viết bên hồ Hai Bà); “Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai
nấp trong lòng trộm nghe” (Ở phố Bà
Quẹo); “Có ai yêu giả bao giờ/ Để tội
cái ngõ gọi ngờ Tạm Thương/ Tôi về ngày ấy nhiều sương/ Mà sao chỉ một giọt
vương trong lòng” (Ngõ Tạm Thương);
“Phố tình bạc bẽo bao nhiêu/ Mà sao tôi
vẫn cứ yêu như thường” (Nhà em ở sát
chợ Mơ); “Ước gì mưa mãi chẳng tan/
Để cho sấm cứ râm ran khắp trời/ Để cho em nép vào tôi/ Ôm chung một giọt mưa
rơi xuống lòng” (Phố Nối mưa rào); “Màu
hoa đỏ một nụ cười/ Lặng im mà sóng luân hồi dâng cao” (Hoa dong diềng); “Một mình
đi với một đêm/ Một đêm đi với sấm rền trong mưa” (Ở phố Bà Quẹo); “Chiều nay Hồ
Tây có dông/ Tôi ngồi trên sóng mà khong thấy chìm” (Chiều nay Hồ Tây có dông)...vv... Nhiều làm những câu thơ như thế,
nên có thể xem, “thậm xưng” là thủ pháp phổ biến được Đồng Đức Bốn dùng đạt hiệu
quả cao.
@ Nếu như trong thơ, Trần
Đăng Khoa và trong văn, Nguyễn Huy Thiệp đều chú trọng và rất tài tình trong
nghệ thuật tạo dựng không gian truyện, thì trong thơ Đồng Đức Bốn, cái không
gian nghệ thuật ấy lại lễnh loãng, thậm chí chẳng có không gian nào. Thế nhưng,
gần như bài thơ nào, cũng có câu thơ hay và may sao, tự thân câu thơ ấy làm nên
không gian riêng cho mình, hư ảo, ấn tượng, ám ảnh, để người đọc phải nhớ và vì
thế cứu vớt cả bài thơ.
Ví như: Bài thơ Bờ sông, câu kết “Bờ sông có một con đò/ Gác chèo ông lão nằm lo trăng buồn”. Tự
thân, tạo được không gian riêng có, chẳng cần đến mấy câu thơ trên “Bờ sông hoa cải hoa cà/ Ước chi áo tím như
là ai mong”; “Chuông chùa chùa tiếng
đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò”. Hay như: “Tôi là một kẻ mồ côi/ Thế gian mất, tôi còn
tôi một mình” (Nửa dêm Đà Lạt) ;
Hay như bài Thăm mộ Nguyễn Du, tác
giả luận đề “Đời Kiều sao lắm tái tê/ Đời
tôi sao lắm đam mê chưa thành”, rồi những câu thơ tiếp nối cứ lan man mỗi
câu một ý cho đến khi thấy cần thôi thì tác giả vội kết: “Tôi đi về vẫn dọc ngang/ Câu thơ thập thững nén nhang cho ngươi”, may
sao câu này lại khá ấn tượng ... Hay nữa, trong bài thơ Tôi là vua không có ngai, câu mở đầu tuyên bố thản nhiên như thế,
tác giả triết luận bâng quơ theo cái kiểu “nói
đại không chịu trách nhiệm”, là để đi đến cái kết bất ngờ, ngẫm ra mới thấy
hay “Chìm trong vương quốc của thơ/ Không
cho người được may cờ để treo”,...v.v...
@ Lại có cảm giác, cứ như
tác giả sướng gì viết nấy, rồi đem chúng thả chung vào một cái ao và cố tình
khoắng loạn lên cho các câu thơ riêng lẻ chao động, trô dạt, va quệt dan díu
vào nhau mà thành. Là tôi cứ hình dung vậy khi đọc thơ Đồng Đức Bốn, chẳng hay
?
Bài thơ Nhà quê, tác giả chia làm mấy khúc, là cách để đỡ phải mất công
nhào luyện vo viên chúng với nhau, bởi nhà quê thì có cả ngàn vạn chuyện, biết
nói sao cho hết, mà có nói ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác cũng
không hết chuyện. Thế nên, tác giả chỉ buông vài câu “Nhà quê có cái giếng đình,”, rồi “Nhà quê chân lấm tay bùn,” đã thấy chẳng cần phải con cà con kê
nữa, dẫu có mang chuyện Thị Màu ra bàn thì mãi cũng nhàm, nên thôi, túm chuyện
vào một mớ cho xong “Bao nhiêu là thứ bùa
mê/ Cũng không bằng được nhà quê của mình,...”, tự hào kiểu nhà quê, ra
điều nhà quê của tớ còn ối chuyện để kể nhưng đây không thèm nhé,... Đây cũng
là thói ma lanh, láu cá đầy chất “nhà quê”
của Đồng Đức Bốn mà nhà thơ sử dụng trong thơ mình,...
Hay như, bài Vu vơ
chùa Hương, gồm mấy phần, mỗi phần một ý, ngưòi ta có thể quên, song sẽ khó
quên câu thơ trong bài, như "Có gì
trong tiếng chuông êm/ Quả mơ vẫn héo cả đêm lẫn ngày/ Chùa Hương nghi ngút
hương bay/ Phật ngồi cũng héo cả ngày lẫn đêm,". Rồi như bài Qua nhà người yêu cũ, nhà thơ thấy gì nói
đó, vu vơ cho có chuyện, nếu như thiếu đi câu hay “Vẫn còn thấy vướng trên môi/ Tóc em một sợi rong chơi lạc vào” thì
bài thơ nhạt hoét. Nữa là bài thơ có cái tít rất kêu Thơ viết gửi người tình khi tôi đã chết, cũng đâu có gì ghê gớm, to tát, chỉ vu vơ thôi, nếu
như không có câu dỗi mình mà giận người “Chết
rồi tôi vẫn làm người/ Để nhân những nỗi đau đời cho em”... Chịu khó tìm
kiếm, nhặt nhạnh trong thơ ông, dạng thức này không hiếm. Tôi cho, đây cũng là
một dạng thức hợp làm nên chất Đồng Đức Bốn.
Bình sinh buổi Đồng Đức Bốn còn
chưa là gì cho đến khi trở thành nhà thơ nổi tiếng, được nhiều người biết đến
tôi có gặp ông mấy lần. Đôi lần là ở tòa soạn Báo Nông nghiệp (nay là Nông
nghiệp Việt
Nói như vậy, là để thấy, trước đó tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng), và sau đó là mấy tập thơ nữa, thì
cái người ta nhắc đến (sẽ còn nhắc đến)
phần lớn là những bài thơ, câu thơ nằm trong tập Chăn trâu đốt lửa. Ngay khi làm tập, Đồng Đức Bốn đã nhặt nhiều bài
thơ trong tập thơ đầu tay (Con ngựa
trắng và rừng quả đắng) mang sang tập Chăn
trâu đốt lửa. Rồi sau đó, ông vẫn tiếp tục lựa chọn một số bài thơ hay,
được người đọc yêu thích sang làm cốt cho tập thơ mới của mình. Đặc biệt tập
thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn xuất bản năm 2006 vào năm ông mất, dày hơn nghìn
trang, có thể xem là tuyển tập thơ Đồng Đức Bốn (Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc,
NXB Hội Nhà văn). Lại cũng không có nghĩa, những tập thơ sau không có những
bài thơ hay, câu thơ ấn tượng. Bởi dù có hay không những tập thơ khác của ông
thì giờ đây trên không gian mạng, người ta có thể tìm đọc hàng trăm bài thơ
được nhặt ra từ các tập thơ của ông, mà có thể xem đó là những bài thơ hay,
hoặc được người đọc yêu thích trong toàn bộ thi cả của Đồng Đức Bốn.
Có điều, không may cho Đồng Đức Bốn là không mấy thọ, hưởng dương chưa đến tuổi
lục tuần bởi căn bệnh hiểm ghèo, tuy đã
thành danh và thơ vừa độ chín. Giả sử, trời cho ông thọ thì nhà thơ vẫn có thể
cho ra thi phẩm hay. Đáng tiếc là vậy. Song tôi nghĩ, với chất thơ này, cùng
các thủ pháp sáng tác mà tôi đã nêu ở trên, Đồng Đức Bốn khó có thể tiến xa hơn
nữa, hoặc giả chỉ để làm mới mình thôi. Còn như, vẫn tiếp tục giọng điệu ấy,
chỉ càng thêm cũ, thêm nhàm, thậm chí, không khéo còn làm nhạt nhòa đi cái đặc
sắc mình từng có. Bằng chứng, tính từ thời điểm Đồng Đức Bốn bắt dầu tập tọng
thơ phú (khoảng năm 1980) cho đến lúc
ông qua đời (2006), với mấy trăn bài
thơ, thì đến nay, số bài thơ được người yêu thơ đọc nhiều nhất và thích nhất
của ông cũng độ chừng đâu đó mươi bài (Trở
về với mẹ ta thôi, Vào chùa, Chăn trâu đốt lửa, Em bỏ chống về ở với ta không,
Đời tôi, Chợ buồn, Chờ đợi tháng ba, Nhà quê, Cái đêm em ở với chồng, Đêm sông
Cầu, Bờ sông,...). Tất nhiên, nếu tính theo đơn vị câu, thơ Đồng Dức Bốn
khá có nhiều câu thơ hay, gợi, được ngươi ta nhớ và thích,... Chí ít, ông có sự
vinh hạnh vì mình đã gây được ảnh hưởng đến người khác.Và tôi tin thế, bởi đã
thấy, những câu thơ gợi và hay của Đồng Đức Bốn thực sự ảnh hưởng đến nhiều cây
bút thơ sau ông, cũng như một thời, ối cây bút văn xuôi xứ ta bị ảnh hưởng, chi
phối bởi giọng điệu, khí chất Nguyễn Huy Thiệp, trong sáng tác của mình,...
Chuyện cuộc đời ông, tôi không mấy biết về Đồng Đức Bốn. Tuổi Mậu Tý, mệnh
"Tích lịch hỏa" cùng với
ông (sinh 1948), làng văn chương xứ Việt mình nhiều người có tài (Văn Chinh, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Hiếu,...
). Bản thân Đồng Đức Bốn xuất thân con nhà nông dân nghèo ở An Hải (Hải Phòng),
song ông lăn lộn qua nhiều loại nghề (Thanh
niên xung phong thời chiến tranh chống Mỹ, rồi thợ cơ khí qua nhiều đơn vị, rồi
nữa là thương nhân), nên có thể xem là người từng trải, giàu vốn sống. Đó
là lợi thế của ông. Tôi cũng từng nghe người ta nói nhiều về đời thơ, việc xuất
bản thơ và chuyện lang bạt đó đây, giao lưu bạn bè, làng văn chương,... hay
nhiều mà dở cũng có, thành giai thoại cả, lại thật hư chẳng mấy rõ...!?...Nên
không dám bàn.
Tôi nghĩ là, trong cái rủi lại
có cái may, bởi rời bỏ dương thế, ông chẳng còn phải đau đời, vật vã với chuyện
chữ nghĩa, thơ phú nữa. Kể từ khi dính cái bẫy thi ca, coi như ông đã vướng
nghiệp, đánh cược đời mình, dại dột "mải
mê đuổi một con diều" rồi. Song còn may mắn hơn nhiều người, cả đời thơ phú tay tắng vẫn hoàn tay trắng, còn
ông, với ngần ấy thôi, nhất là thơ lục bát, Đồng Đức Bốn đã đủ để ngao du với
đời rồi.
Hơn chục năm trước, trong một vài bài
viết, khi bàn về thơ Việt Nam hiện đại, riêng thể lục bát, tôi đã mạo muội khi
xếp bốn nhà thơ ngồi bốn góc chiếu Lục bát, ấy là Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh,
Phạm Công Trứ, và Đồng Đức Bốn. Giờ thì trong chiếu thơ Lục bát ấy, tôi nghĩ,
vẫn còn cả bốn vị này, nhưng chẳng thể trấn giữ riêng mình mỗi người một góc
chiếu, mà xin các ngài phải xê dịch đôi chút để nhường chỗ cho mấy người khác
nữa cùng ngồi,...
Tôi muốn ngưng bài viết này,
bằng câu thơ kết trong bài “Đời tôi”
của Đồng Đức Bốn sáng tác năm 1986. nghĩa là khi ông mới tập tọng thơ phú, vậy
mà đã mang tính tiền định: “Đời tôi giàu
ở chiêm bao/ Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng”,... ./.
NGUYỄN VĨNH TIẾN
Kiến
trúc Chữ, Hội họa Chữ và Âm nhạc Chữ
Thực lòng, tôi định viết về Nguyễn Vĩnh Tiến nhưng cứ
lần lữa vì chưa biết bắt đầu vẽ chân dung anh như thế nào, bởi con người đa tài
này thật khó nắm bắt, cứ như cánh nhạn bay xa mình vậy?...
Nhưng sao không bắt đầu chính bằng cái sự khó nắm bắt này nhỉ? Ấy là phương pháp khoanh một vòng
tròn lớn. Rồi sao nữa? Là xem Tiến có cái gì hay thì nhặt bỏ chúng vào cái vòng
tròn đó để quan sát và phân tích. Nào, kiến trúc sư, làm thơ, sáng tác nhạc,
lại thêm vẽ nữa…
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ không phân tích
về nghề kiến trúc và cái tài hội họa của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà chủ yếu bàn về nghệ thuật thơ của anh, cùng với đó là
âm nhạc, yếu tố quan trọng làm nên tính chất dân gian đương đại trong thơ-nhạc
của Nguyễn Vĩnh Tiến.
“Ông, tờ mờ sáng ông đi về phía núi/ Đồi núi mở ra
câu chuyện buồn trung du...” Có lẽ, tôi sẽ bắt dầu câu chuyện về anh chàng
“bốn trong một” này bằng câu thơ,
cũng là lời mở ca khúc “Ông tôi”,
xuất phát từ một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cha anh, bởi nó đúng
với Nguyễn Vĩnh Tiến, chí ít từ buổi đầu tiên kế thừa, dấn thân vào kiếp thơ
nhạc, cho đến lúc này.
“Thi nhân sầu/
vì vạn sự đổi thay/ con người chẳng bao giờ đạt Đạo...”, một bài thơ đầy
tính triết học, Nguyễn Vĩnh Tiến khai mở dòng triết luận man mát pha trộn giữa
Phật giáo và Đạo giáo như thế, bởi anh ý thức được sự gian khó, cực nhọc song
cũng đầy niềm vui và nỗi buồn trong hành trình Thi-Nhạc-Họa của mình, khi mà đã ở vào cái thế “cháu giờ tuổi giống triền đê/ chỉ thoải thoải dốc đổ về bến sông ”... Nhưng hãy
khoan nói về chất triết lý trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến để trở về với thời tuổi
thơ trong trẻo…
I. Chất đồng dao trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến.
Trước khi bàn riêng về chất đồng dao trong thơ Nguyễn
Vĩnh Tiến, tôi khẳng định, chính chất đồng dao trong thơ anh là nền tảng, hồn
cốt làm nên chất dân gian đương đại trong âm nhạc của anh. Chất đồng dao từ
vùng đất trung du Phú Thọ hay nói rộng lớn hơn từ cả vùng châu thổ Sông Hồng
trong hệ ngôn ngữ của anh vấn vít, xoắn xít vào nhau, quyện thành một khối, khó
tách bạch ra được. Với Nguyễn Vĩnh Tiến, điều bất ngờ là khi một ca khúc ra
đời, chẳng rõ lời thơ hay giai điệu, cái nào hình thành trước? Kể cả những bài
thơ tồn tại dưới dạng một thi phẩm, thì có thể, một ngày đẹp trời nào đấy, nó
được cất lời thành ca khúc, chỉ là sớm hay muộn, bởi thanh âm giai diệu đã có
sẵn trong từng câu thơ rồi ... Thơ trong nhạc, nhạc trong thơ. Dòng chảy ấy trở
nên cồn cào và độc đáo.
Nguyễn Vĩnh Tiến có cả sê-ri ca khúc về người thân
trong gia đình, bà tôi, ông tôi, cha tôi, mẹ tôi.... mà ở đó, phần lời đều là
thơ, đều xứng đáng là một thi phẩm độc lập. Này đây:”Nhớ làng tôi, từng dòng mương
xanh bay bay bay bay... Nhớ bà tôi, một trăm năm rồi ngọn cỏ hóa mây trời... Cười
cười một chuỗi, trời thử bụng ta, có mùa thóc lép lợp trên mái nhà, có mùa hoa
cà tự nhiên tím tái, bà ví lông gà, vàng như vườn cải, ông ví mặt trời như lời
mối lái, ai ví tình yêu như trò nghịch dại ?... Bà lên Kẻ Chợ có buồn được đâu,
ra về lúc lắc, héo mòn một sâu...”. Cứ dắt dây, dung dăng dung dẻ, quanh
co, lòng vòng như thế, Nguyễn Vĩnh Tiến đã vẽ lên một làng quê vô cùng ấn tượng
(mà rộng ra là một nông thôn miền Bắc Việt Nam điển hình) dân dã, dung
dị, thân thương, gần gũi và đầy vất vả nghèo khó qua hình tượng người bà. Câu
thơ tài tình “Một mình bà đội cả trời
nắng to” trong bài thơ Nguyễn Vĩnh Tiến thực ra được viết từ năm 10 tuổi,
nhân một lần về thăm bà, hồn nhiên, thật thà ngày ấy lại làm nên ngòi châm kích
hoạt và chắp cánh cho ca khúc Bà tôi
nổi tiếng sau này, được xem như sự khai mở sự nghiệp ca nhạc của anh, mang tính
chất dân gian đương đại riêng biệt.
Hay như, những câu thơ đầy chất đồng dao từng làm Du
Tử Lê say lòng, lấy làm thích thú, trích dẫn tròng bài viết của ông “Nguyễn Vĩnh Tiến, tài hoa và lục bát”: “Quê
tôi cả thẹn hay lo/ Dòng sông vắng khách con đò trầm ngâm/ Bụi tre thích đứng
cười thầm/ Giàn bầu giàn bí thích cầm tay nhau/ Con chim sẻ nhớ bẹ cau/ Con chào mào lại nhớ màu ổi ương”(Tuổi tôi);
“Tháng tám đã
sắp cạn rồi/ Ngoài song tháng chín đã ngồi trong sương/ Anh mơ hẻo lánh con
đường/ Cánh đồng hoa dại nằm vương đôi mình”...
Có thể thấy, rất nhiều những câu thơ mang chất đồng
dao và chất ca dao mới trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thơ đến tự nhiên như hơi
thở:
“Bỗng dưng
một cánh chuồn chuồn/ Lấy của tôi một nỗi buồn bay đi/ Để cho hoa lá ùa về/ Để
tôi lạc giữa bốn bề là tôi ” (Một cánh chuồn chuồn);
“Có gì nặng trĩu
đường trôi/ Một mùa xuân rót một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn
kêu kẽo kẹt trên thân thể buồn” (Đáy
xuân);
“Ai trách con vịt trắng/ Ngủ lại đứng một
chân/ Ai yêu con chuồn ớt/ Bay quanh ruộng rau cần‟ (Vỗ trống);
“Những đôi cánh
chim se sẻ/ Vội vàng đôi bàn tay xinh/ Em mua bao nhiêu mới đủ/ Xổ tung cái
chuyện chúng mình” (Se sẻ);
“Nâng lên những búp tay/ Mặt trời và nõn
chuối/ Nắng vàng và lá bưởi/ Cánh cò và gai tre” (Thấy một mùa quen quen);
“Đưa em đưa em
qua cầu/ Anh mang con sông về làm dâu/ Xa nhau xa nhau bao năm rồi/ Hoa bèo xác
phác dạt bờ nao/ Bóng tre đã mục, bóng cầu đã mục/ Rêu xanh lên mắt ngóng tin
nhau” (Giữa con sông làng);
“Những
con chồn hoang/ Đêm mò về làng/ Mắt như sao rơi xuống đất/ Mỗi chiếc lông rụng
mang theo một hạt bụi của núi đồi... Chồn
ơi chồn đứng ở đâu/ Ban ngày đang ngủ trên đầu ban đêm/ Chồn đi đá cứng chân
mềm/ Về làng mà hát mà xuyên qua làng” (Chồn hoang);
“Chòng
chành đã đến canh tư/
“Đêm
qua núi lại kiễng chân/ Lại tô thẫm ngực những tuần cỏ xanh/ Lại bóng đè những
mộng lành/ Lại mạch ngầm những suối quanh thuở nào” (Đêm qua núi lại kiễng chân) ;
“Mưa mùa thu,
giọt mùa đông/ Như cầu không nhịp, như sông không phà/ Đong mưa bằng vạt cà sa/
Nhớ nhau mình lại thẩn tha cổng chùa/ Tháng chín hạc trắng nhớ vua/ Sông Hồng
gió hát lạc mùa ngã ba/ Tháng mười, vườn đỗ ra hoa/ Một con sẻ nhỏ xa nhà, sang
sông” (Mưa mùa thu); v.v...
Với thủ pháp cơn mưa đồng dao và ca
dao mới này, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến cứ trườn đi một cách uyển chuyển, khó nắm
bắt, mà hay gây bất ngờ bởi những câu thơ xuất thần. Bất ngờ, những điều tưởng
như phi lý song lại chấp nhận được vì ở một tổng thể hợp cảnh hợp ý hợp tình.
Ấy là cái nét rất riêng và là điểm mạnh của thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Lẽ dĩ nhiên,
chất liệu đồng dao vô cùng linh hoạt này được nhào luyện bởi yếu tố kiến tạo
hình họa chồng lớp màu sắc, sự nhòe trong câu chữ, độ loang của Màu Nước, mảng
miếng của hội họa lập thể và cả sự hư ảo của hội họa trừu tượng. Đó chính là
điểm mạnh riêng có trong thơ anh.
II.
Thơ cấu trúc
Thực ra, đây chỉ là cách gọi rút gọn, khi tôi chưa tìm
được cách gọi khác chuẩn hơn để diễn đạt yếu tố kiến tạo kiến trúc trong thơ
Nguyễn Vĩnh Tiến mà thôi.
Bản thân là một kiến trúc sư, lại rất mạnh về thiết kế
quy hoạch, nên có thể xem, Nguyễn Vĩnh Tiến mang chất nghề nghiệp (kiến tạo không gian hình họa) vào thi ca
và cả âm nhạc của mình. Sự ảnh hưởng ấy là yếu tố tự thân, lâu thành quen, gần
như bản năng, dần dà làm nên phong cách riêng, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến,
mà qua đó ngươi ta có thể phân biệt thơ anh với thơ người khác.
Trong lĩnh vực thiết kế quy hoạch kiến trúc, người ta
phải thực hiện việc tổ chức sắp xếp từ tổng thể đến chi tiết, một cách khoa
học, chính xác, tỉ mỉ nhưng vẫn vô cùng lãng mạn (lãng mạn trong không gian mở và gợi của những kiến trúc sư có tài)
để tận dụng tối ưu không gian, thậm chí chiếm lĩnh không gian có thể phóng
chiếu tối đa tâm hồn, tầm nhìn, khi mà con người trong kiến trúc bị hạn chế bởi
yếu tố chịu lực của cấu trúc và vật liệu...
Còn ở đây, trong không gian nghệ thuật, người ta có
thể làm được hơn thế, vượt qua được giới hạn thông thường. Tôi nghĩ, trong thơ
ca và âm nhạc, kiến trúc sư Nguyễn Vĩnh Tiến đã làm được cái việc ‘vượt qua giới hạn thông thường”, làm
phong phú thêm cấu trúc thi ca và âm nhạc của mình, với sự hỗ trợ đắc lực của
chất liệu đồng dao. Lẽ dĩ nhiên, còn có những yếu tố khác cấu thành, tôi sẽ
phân tích rõ hơn ở phần sau....
Hãy xem, cái gọi là “thơ cấu trúc” của Nguyễn Vĩnh Tiến ra sao?...
Tìm đọc những bài thơ cũ, cả những bài thơ được anh
phổ nhạc thành ca khúc, và nữa, đọc các bài thơ Tiến đăng hàng ngày trên trang
Facebook của mình, đều nhận diện phong cách này rất rõ:
“Tôi như tảng đá
ong nham nhở/ Khắc làm sao tên của tháng ngày em/ Chỉ mong sao nước chảy đá
mềm/ Em đừng gọi tôi bằng tên bằng tuổi/ Em đừng ví tôi nỗi suối niềm sông/ Tôi
là chòi hoang, chờ em nghỉ giữa đồng” (Lại
trôi) ;
“Anh đã lúng túng mùa gieo mạ/ Anh đã quá nắng ngày gieo
mầm…Anh đã khói úa triền đê vàng/ Anh đã lỡ chuyến đò qua ngày/ Giờ chiều neo u
ám .../ Anh vẫn nhớ rõ bàn tay mềm/ Lưng đã thắt đáy mùa Xuân tròn/ Em đã lấp
loáng mùa vun trồng/ Tay em đã cấy từng hy vọng/ Mạ non ửng mầm/ Duyên thì tùy/
Thuyền thì sông/ Lòng sao giờ lại cách lòng ?...” (Mạ non ửng mầm) ;
“Rồi
có ngày/ Nàng bước ra/ Và ôm chầm lấy chàng thi sỹ/ Chàng ơi/ Có thể Yêu thương
đậm sâu nhất là khi chàng yên nghỉ/ ... Em cần đủ chữ, đủ tứ mới lên hình/...
Chờ nàng từ lúc bình minh/ Từ khi Tháng Một tưởng mình Tháng Ba/ Ngoài hiên,
ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới biết, mình qua đời rồi ... " (Đợi nàng Thơ);
“Tôi
lặn lội những nàng đêm/ Quấn quýt tay mềm/ Trong mơ và lụa/ Những mùa Xuân sến
súa/ Những thập niên đổ vỡ/ Trong đêm nức nở môi nàng/ Tên em là hoa xoan/ Hẹn
anh tháng Ba bờ đê xóm cũ/ Tên em là nụ/ Hẹn anh chúm chím bên dốc đá tháng
Năm/ Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa
đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm);
“Chùng chình cũng đến tháng Tư/ Hoa vàng lại thấy đánh đu cành xoài .../
Nàng Bân nước mắt chưa ngoai/ Năm ngón tay dài lạnh mải miết đan/ Xa xa dãy núi
xanh tràn/ Nhớ thương lẽo đẽo từng đàn phả sương/ Tháng Tư xuân cạn đầu giường/
Hệt như chai rượu thất thường đêm qua/ Đêm qua tôi gặp Tháng Ba/ Vừa đi vừa thả
cánh hoa mịt mùng ...” (Tháng Tư) ;
“Sông Thao réo ùng ục màu hồng xám/ lặn ngụp
giữa dòng củi mục xác tuổi thơ trôi / Cây gạo đứng giữa bãi bồi, không lá / Tôi
đáng lẽ ngồi chờ chuyến đò định mệnh.../Tôi đi chậm lại bỗng muốn khóc xối xả/
Muốn cõng về cho em một quả núi/ Rồi nằm thật dài như đường ray/ Tôi đáng lẽ đã
thấy chuyến đò định mệnh/ Nếu không lạc vào những tiếng chuông trên mặt nước/
Rồi đuổi theo em áo vàng trong cánh đồng ngô...” (Trung du);
“Phú Thọ nằm khép nép / Ngay bên cạnh bờ
sông / Chợ Mè tử thuở tôi lông bông / Đến giờ vẫn bán chổi và rế / Ông bà tôi
hình như vẫn thế/ Chết lâu rồi vẫn đi
dạo đâu đây / Này từng ruộng lạc củ gầy / Này đường dốc của những ngày nốc ao
... / Thị xã của tôi / Thị xã cồn cào... / Với mùi thịt da như triền đồi cháy
nắng / Tôi càng trôi, chuyến đò càng nặng, Một phút chiêm bao đã gần hết đời
người ...” (Phú
Thọ của tôi); v.v...
Quả là, tôi không thể cứ sa đà lạc lối trong không gian “kiến trúc chữ” và “hội họa chữ” mà Nguyễn Vĩnh Tiến kiến tạo nên, bởi biết trích dẫn
bao nhiêu cho vừa trong vô vàn những khúc thơ cấu trúc tầng tầng lớp lớp như
vậy? Người ta có thể thấy, trong không gian hình họa được tác giả kiến tạo, có
đủ không gian bốn chiều (rộng hẹp, cao
thấp, dọc ngang và thời gian nữa), thấy sắc màu, giai tầng, ẩn hiện, thực
ảo, ma mị, phân tâm ...
Có thể
nói, Nguyễn Vĩnh Tiến đã chuyển hóa tất thảy những gì mình đang ấp ủ trong nghệ
thuật kiến trúc mà ngoài đời còn chưa thực hiện được vào thơ ca và âm nhạc của
mình. Trong không gian hình họa ấy, hay đúng hơn là trong thế giới của trí óc
tưởng tưởng riêng mình, Nguyễn Vĩnh Tiến mặc sức thoải mái kiến tạo.... Và
chính vì thế, nó ảnh hưởng đến hình thức thơ của anh.
Để ý,
Nguyễn Vĩnh Tiến rất ít sử dụng các thể thơ truyền thống, như ngũ ngôn, lục
ngôn, thất ngôn, trừ lục bát. Dường như, các thể thơ truyền thống khá chật
chội, bức bối với ý tưởng khó nắm bắt và ngôn từ tự nhiên của anh. Ngay trong
thơ lục bát của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến cũng không chịu bó buộc với luật vần
sáu, tám nên hay thay đổi tiết tấu nhịp thơ bằng vần lưng ở câu tám. Và như
thế, Nguyễn Vĩnh Tiến tránh được cái nhàm của thể thơ lục bát, lại có thể đột
biến cho những câu lục bát xuất thần.
Nguyễn
Vĩnh Tiến, chủ yếu, là thơ tự do. Thơ tự do theo quan niệm của riêng mình.
Nhân đây,
tôi muốn nói thêm quan điểm của Nguyễn Vĩnh Tiến về “thơ tự do”. Xin phép
không kiến giải thế nào là thơ tự do, bởi phàm người làm thơ, yêu thơ thì ai
cũng biết, cũng hiểu thể thơ tự do. Tuy nhiên, Nguyễn Vĩnh Tiến lại có cái nhìn
thể thơ tự do theo cách của mình. Theo anh, “Thơ tự do là muốn kết hợp thể thơ nào cũng được, miễn là mạch thơ, cảm
xúc thơ, ý thơ, tứ thơ trở thành một cấu trúc hay, đẹp, và quyến rũ”. Vậy
thôi. Quan niệm vậy, nên phần lớn trong hàng nghìn bài thơ của mình, Nguyễn
Vĩnh Tiến lựa chọn thể thơ tự do kết hợp kiểu này để chuyển tải ý tưởng, bởi
đây thực sự là chiếc túi càn khôn to nhỏ tùy thích có thể bao vây đặng chứa nổi
không gian hình họa mà tác giả kiến tạo nên.
Xin trích một khúc trong
bài thơ “Loài thi sĩ” làm ví dụ:
“... Thi sỹ không nên lấy vợ
Nhạc sỹ sống một mình cũng chẳng sao...
Nốt nhạc lúc thấp lúc cao
Thất thường nhịp phách, mưa rào nội tâm ...
Thi sỹ hồn mưa lâm thâm
Đôi khi thích bay lên bằng đôi cánh ướt
Rừng ý nghĩ thỉnh thoảng sầu thảm tê buốt
Mà chẳng hiểu nổi tại sao ...
Sống gì phần nửa chiêm bao
Lúc tỉnh thức, cũng lạc vào mộng mơ
Ai mà đợi, ai thèm chờ
Người tỉnh thì ghét người thơ, đúng rồi ...”
III. Thuyết về cái kết nốc –ao.
Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thích cả bài có, nhưng cũng
có nhiều bài thích câu kết, đơn giản bởi câu kết thường hay và rất ấn tượng.
Những tưởng, là ngẫu nhiên thôi, hoặc giả, thì cũng là người ưa cách dụng công
vào câu kết. Song không hẳn thế, ấy còn là chủ trương của Nguyễn Vĩnh Tiến.
Có lần, Nguyễn Vĩnh Tiến mời tôi và nhà thơ Nguyễn
Đình Hiển, cùng cha mình, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, du xuân miền trung du, lên
chơi trang trại của gia đình anh ở Thôn Liêm, thị xã Phú Thọ. Lúc trà dư tửu
hậu, nhà thơ Nguyễn Đình Hiển cao hứng đọc thơ, một bài thơ về mẹ. Bài thơ này
cả thảy có 5 cặp lục bát, cặp lục bát thứ 3 khá hay “Mẹ giờ đã hóa thành chùa/ Ta như chú tiểu bốn mùa chạy quanh”. Nghe
rồi, trong khi mọi người tấm tắc khen bài thơ hay, thì Nguyễn Vĩnh Tiến bảo: “Sao bài thơ không kết ở cặp thứ 3 này? Kết ở đấy, bài thơ ngắn gọn, hàm súc, mà là
cái kết mở, có dư ba...”. Ngẫm nghĩ, ai cũng thấy đúng vậy, thêm vài cặp
lục bát nữa, bài thơ chẳng thêm được ý gì mấy, mà cái kết là kết đóng, rất chi
bình thường. Nhà thơ Nguyễn Đình Hiển mặt ngẩn ngơ, chẳng biết nói sao, nửa
muốn nửa tiếc.
Thế rồi, Nguyễn Vĩnh Tiến cao hứng bảy tỏ quan điểm
của mình, về cái kết nốc-ao (knock-out).
Theo Tiến, khi làm một bài thơ, tác giả chẳng mấy khác võ sĩ lên sàn đấu. Khi
hạ được đối thủ, không phải bằng cách tính điểm làng nhàng, mà hạ bằng
knock-out thì trận đấu hay nhất và đúng luật là nên kết thúc thắng lợi ở đấy,
chứ chẳng ai dại dột lại đi hà hơi tiếp sức rồi dựng đối thủ dậy, để đấu tiếp,
mà rất có thể mình lại thua. Với hình dung như vậy, phàm người làm thơ được
trời cho câu thơ hay, nếu thấy đủ, thì nên biết dừng bài thơ ở đấy. Chẳng nên
ham và tham, kẻo mà?...(Nhân đây, tôi lạm
bàn chút. Những năm gần đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã làm cái việc “dọn vườn” thơ
mình rất hệu quả. Ấy là, ông rà soát lại thơ mình, cả những bài thơ làm từ thuở
thiếu thời, cắt bỏ câu thừa, câu đệm, bỏ những gì ông cho là rườm rà, chỉ giữ
lại hồn cốt và tinh chất của bài thơ. Thế nên, nhiều bài thơ ông, có cái kết
hay bất ngờ. Nó chẳng mấy khác cái kết nock out kiểu Nguyễn Vĩnh Tiến đang làm.
Tôi cho rằng, biên tập lại thơ mình thì không bao giờ là nuộn cả).
Thiết nghĩ, quan niệm vậy, cũng lạ và lý thú!...
May mắn thay, trong thực tiễn, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến có
rất nhiều cái kết nốc-ao:
“Ngạo nghễ cái gì hả bướm/ Chỉ nên chập chờn
thôi .../ Nơi xa vốn dĩ không lời/ Đạo là vô đạo, chôn nơi im lìm .... “(Thi nhân sầu);
“Ngoài hiên, ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới
biết, mình qua đời rồi ...” (Đợi
nàng Thơ) ;
“Tự do lượn bốn phương trời/ Đến khi mỏi cánh
thì rơi xuống hồ...” (Loài Thi sỹ);
”...Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những thứ, mới vừa trôi qua ...” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ) ;
“...Sông Hồng khi tỉnh khi say/ Uống trăm năm
nữa, cạn ngày nay không ...?” (Bố
tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);
“... Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng
non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then
cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm) ;
“...Bụi còn phủ cả lên lời/ Nghĩa trang
chữ nghĩa nằm phơi bóng vàng .../ Trăm năm, mơ chửa sang trang/ Nội tâm cũng
nát như hoàng thành xưa
“ (Đêm nay ngủ ở Hà Nội) ;
“...
Sống sao cho chạm mưa nguồn/ Sợi mưa rơi xuống, thích luồn lỗ kim .../ Chỉ còn
lịch sử lim dim/ Xem lũ bọ gậy chết chìm đáy chum ...” (Lấp
Lỗ Thủng) ;
“... À
ơi, yêu đương trong lòng/ Ngủ đi với nhớ
và mong mệt nhoài/ À ơi, tới bến như lai/ Chữ như cò trắng bay đầy bến sông ..” (Thiền Thở Thiền Thơ) ;
“Chèo
ơi chống mãi không xong/ Diễn viên luống cuống, rèm buông nhạc tràn/ Tô tô, vẽ
vẽ, hỏi han/ Chỉ thấy nhân vật, đã toan bỏ bài.../ Anh ngồi uống sợi thở dài/ Uống
luôn gió của những ngày tối tăm... “(Xem Chèo) ; v.v...
Rất nhiều những cái kết bài thơ như thế.
Không hẳn đều hay, nhưng ấn tượng, khiến người đọc phải nghĩ ngợi. Ấy là kết
mở, để lại dư ba. Một không gian mới lại mênh mang mở ra sau cái kết.
Thì cứ cho đây là một thử nghiệm của
Nguyễn Vình Tiến, thì với anh, đến giờ, tôi nghĩ đó là một thành công.
IV. Dự cảm
về một dương gian nhập nhoạng
Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, không nhiều và cũng chưa rõ
nét, nhưng người ta có thể nhận biết về một dương gian mà ở đó chập chờn âm
dương, bóng hình chạng vạng. Trước khi bàn, thiết tưởng hãy xem một số bài thơ,
câu thơ khơi gợi về dự cảm này:
“Ngồi xem cửa sổ chia ô/ Mưa hôm nay lụt nước cờ hôm qua/ Tô viền cho
những bóng ma/ Bằng ánh mắt sẫm như là chì than/ Tô xong, sót lại trên bàn/ Một
con tốt nhỏ đang giàn giụa bơi... “(Bàn
cờ);
“Có gì nặng trĩu đường trôi/ Một mùa xuân rót
một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn kêu kẽo kẹt trên thân thể
buồn” (Đáy xuân)
“....
Sao lại cố bê tông nốt đồng cỏ?/ Sao lại muốn thiên nhiên thành những thành phố
điên?/ Sao sân si tiếp tục sinh muộn phiền/ Và cổ suý cho những giá trị ảo?/ Đã
bao thập niên ăn tạp và nói láo/ Sao không ngồi đốt lửa bập bùng ở quê/ Rồi
tĩnh tâm tìm một lối về/ Với nông thôn đang xác xơ lạnh lẽo ...?/ Càng chạy sẽ
càng đuối sức/ Càng bơi sẽ càng hụt hơi/ Bao nhiêu sâu lắng trên đời/ Có bao
giờ đọng ở nơi ồn ào?/ Chuồn chuồn chết rụng giữa ao/ Gió đưa cái xác dạt vào
bụi khoai ...” (Sao chúng ta không về nông thôn) ;
“Trong một bữa tiệc/ Say rũ rồi óc tưởng tượng thôi.../ Mà sao lòng dạ
tơi bời/ Lấy tiên không lấy, lấy người làm chi? / Trong một bữa tiệc/ Ma men
len lỏi dẫn lối thôi.../ Mà sao lòng dạ tơi bời/ Lấy ma không lấy, lấy người
làm chi ...?” (Tưởng tượng trong một
bữa tiệc);
“Nhưng tôi một giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn
chôn xương chân giường/ Còn tin cá chết để xương/ Thì còn châu báu trong rương
cho nàng...” (Đêm nay ngủ ở Việt Trì);
“Nàng bay về phía tự do/ Và nàng thích lấp lánh/ Của cải
và kinh nghiệm của tôi/ Đều lần lượt trôi vào cống rãnh .../ Nhưng nàng không
đỏng đảnh/ Lúc nào cũng ẩm ướt thiết tha/ Nàng hoá ra chỉ là ảo ảnh/ Của hồn
tôi phản chiếu hồn hoa...” (Nàng Thơ-02);
“Anh vẫn
thế.../ Chạy từ bờ đê chạy về dốc Tỉnh/ Chẳng có ngọn đồi nào bình tĩnh/ Nếu
tính từ nội tâm tính ra/ Nhưng vẻ ngoài thì nghìn năm hiền hoà/ Chỉ cọ cháy
những bàn tay vụng dại ../ Chả lẽ lại về chết ở đây/ Chứ không phải một ngọn
núi kiêu bạc/ Một đỉnh cao thế giới? / Cũng để làm gì đâu?/ Chết là hoa cải
phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai nhừ/ Chỉ là
bếp lửa hình như ... bập bùng ...” (Đêm
nay ngủ ở Phú Thọ);
“Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao/ Anh về nơi nào, hạc trắng cũng bay/ Xót
xa thời những kẽ tay/ Run run mộ biếc cỏ may vướng gì? / Sông Hồng thở khói vô
vi/ Hồn hồi hộp nấp bên rìa miếu hoang/
Hỏi han đến cuối đường làng/ Mới hay đò cuối ngày sang sông rồi.../ Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao
“Ngược xuôi trong cõi hão huyền/ Nhiều khi tỉnh thức là
miền vô vi... / Thế rồi giấc mộng tô chì/ Chân dung giấy nháp cũng đi như người
...” (Trầm cảm-01) ;
“Anh trồng cây tỏi/ Nó nở
hoa hành .../ Yêu đương một thuở tanh bành/ Học hành lởm khởm không thành núi
cao.../ Rồi cuối Xuân có mưa rào/ Có hồn lành lạnh nhập vào hồn anh ...” (Đêm trung du); v.v...
Những
bóng hình chập chờn âm dương này tuy không nhiều, nhưng dường như thường trực,
ám ảnh tâm trí Nguyễn Vĩnh Tiến. Cảm giác như, có sự phân thân hay phân tâm nào
đó trong con người tác giả? Không thật rõ, những tôi linh cảm vậy. “Ông
bà tôi hình như vẫn thế/ Chết lâu rồi vẫn đi dạo đâu đây” (Phú
Thọ của tôi). Nếu theo quan niệm của người xưa, dương sao âm vậy, thì cảm
giác như Nguyễn Vĩnh Tiến ở nhiều thời khắc, sống chung với cả hai thế giới,
nói chuyện thản nhiên với cả người dương và người âm ...
Chúng ta
đều biết, “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ và “Liêu trai chí dị” của
Bồ Tùng Linh là truyện lạ, truyện ma. Thế nhưng, ở “Truyền kỳ mạn lục” thì ma
rõ ma, sợ sợ là, đọc rồi nhát đi đêm, song ở “Liêu trai chí dị” thì ma
lẫn với người dương, hành xử như người dương, không mấy sợ. Tôi nghĩ, chất âm
dương trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến gần với chất “Liêu trai chí dị” hơn.
V. Tính
triết luận, mạnh và yếu.
Triết học đã là sự đam mê từ thuở tuổi 20 của chàng
sinh viên Kiến trúc khi bắt đầu đọc theo hệ thống triết học Hy Lạp, triết học
Pháp và Triết học Đức. Về sau, sang tuổi 30, Tiến thổ lộ mới đủ tuổi ngấm dần
triết học Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh đó, anh còn say mê các sách Tâm lý
học và Lịch sử :
“Anh chẳng thích lỗ thủng lịch sử/ Anh
thích lỗ thủng của em/ Ẩm ướt, hồi hộp và đầy hải sản.../ Và lịch sử cũng chẳng
có lỗ thủng/ Lịch sử được lấp đầy bởi linh hồn và xác chết/ Và sự man rợ tàn
sát của tất cả chủng loài.../ Chỉ có
lỗ thủng của em là tuyệt vời /Chỉ có lỗ thủng của em là sinh sôi / Sinh ra cả
một chân trời / Ngày xưa thi sỹ có người từng bay .../ Cứ loạn xạ lên Triết lý,
giãi bày/ Rồi ăn thịt, ăn rau, và nói
đạo nghĩa” (Lấp Lỗ thủng);
“Chúng ta nên nuôi nấng sự khinh bỉ/ Và để chúng mọc lên
như dương sỉ nóc nhà/ Chúng ta nên oà như rêu biếc/ Phủ phù du lên mọi tiếng
ngợi ca/ Chúng ta nên nuôi những lời câm nín/
Trong lồng son của máu và hoa/
Rồi chúng ta nên ra bờ sông vắng/
Ngủ chông chênh như một mỏ neo phà .....” (Nên nuôi nấng
sự khinh bỉ);
“Chúa
trởi hỏi viên kim cương : -Mày là gì mà kiêu căng quá vậy?/ Kim cương trả lời :
Vì tôi siêu cứng/ - Thế mày không biết sức mạnh của dòng nước mềm mại à?/ Kim
cương trả lời : Nhưng tôi lấp lánh/ - Thế mày ko biết sức mạnh của vật chất tối
à/ Kim cương trả lời : Tôi còn đắt giá nữa ?/ - Thế mày không biết kinh tế duy
tâm và tiền ảo là gì à?/ Kim cương khóc oà : Thế ngài không thương cái đẹp?/
Thượng đế bỏ đi, vì theo lẽ công bằng, con bò và cỏ dại cũng đẹp.” (Cái
đẹp);
“Đừng
leo cao/ Lại rơi xuống vực thẳm của sự thờ ơ/ Đừng xuống thấp/ Lại bị âm hồn
năm cũ làm chật giấc mơ .../ Dân gian sinh sôi/ Dân gian rượm lời/ Như hoa mỗi
loài mỗi vẻ .../ Anh thôi không kẻ vẽ/ Chỉ để thời gian phác thảo hộ tương lai
.../ Tương lai, không đúng, không sai/ Nối sợi thở dài đan áo nàng Bân .../ Kìa
em, sau Tết, là Xuân/ Tình anh nước lã hoà dân gian rồi ...”
(Xuân dân gian);
“Giật mình lại thấy trống không/ Vừa
hình hài thế, đã bong bóng rồi ... / Ven am Ao nhỏ/ Lá tre rụng bời bời/ Hỏi
sao có tình huynh đệ ?/ Huynh đệ là khi mọc rễ/ Còn nhường tăm tối cho nhau/
Ngọn cỏ rầu/ Núi thích sâu/ Còn khe ẩm ướt lại ngước bóng núi/ Tháng ngày lúi
húi/ Không dám đi vào lối cửa Từ Bi/ Cửa Từ Bi chẳng mạng nhện gì/ Chỉ tò vò
khóc than vì thương thôi ... / Thương cho vạn dặm xa xôi / Cứ huênh hoang mãi
những thời vô minh” (Nhìn
cánh nhạn);
“Tôi chưa kịp lạc trong những khúc rẽ/ Thì mưa vết thương đã phủ những
ngày lành .../ Tôi có những ngọn cỏ màu xanh/ He hé nhú bên rìa niềm hy vọng/
Và cũng ở bên rìa những chuyển động/ Một lũ thời gian ngu ngốc ngẩn ngơ trông
...” (Vết thương và lũ thời gian);
“...
Bạn thơ chết ở nẻo thơ/ Bạn tình chết ở bơ vơ cuộc tình ../. Sáng ra, đã thấy
thương mình/ Thương bong bóng vỡ những hình bóng hoa/ Hoa gì lại nở đường xa/
Nở vô danh cả chuyến phà vô hương .../ Sáng ra, hạnh phúc đứng đường/ Dưới
chân, sóng của thất thường, thành sông ...” (Sáng ra hạnh
phúc đứng đường);
“Bấy
lâu chẳng đếm thời gian/ Tháng ba chưa hết mà toàn tháng tư / Đêm năm canh mà
lại như/ Trống không bàn tiệc, tàn dư cuộc cờ .../ Bấy lâu cơn lũ ngủ mơ/ Thành
mặt nước sấp tràn bờ lan đi.../ Bấy lâu hơi thở đeo chì/ Chỉ hoa gạo đỏ những
khi đêm tàn..”. (Hoa gạo đỏ);
“Hết rồi ngày tháng mộng mơ/ Đời còn nhặt rác trên bờ tháng năm/
Cũng chẳng vĩnh cửu ăn nằm/ Sống là hơi thở ghé thăm nhẹ nhàng/ Lá lành hay
rách, đều vàng/ Đều rơi rụng ở dưới hàng mi cong/ Ô kìa đêm đã thành dòng/ Sao
anh vá cái Trống Không làm gì ?” (Vá víu) v.v...
Với hàng ngàn bài thơ, từ những năm
Nguyễn Vĩnh Tiến hồn nhiên, tươi tắn,
sau này, hàm lượng triết luận ngày càng tăng, nhất là mươi năm trở lại đây, hầu
như bài thơ nào cũng có tính triết học. Nếu như, tính triệt luận là hệ quả tất
yếu của ngôn ngữ dân gian đương đại
và không gian kiến trúc trong thơ
Nguyễn Vĩnh Tiến, thì đương nhiên, yếu tố này dần trở thành chủ đạo và nó làm
nên sắc thái, diện mạo, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, làm người ta nhận ra
anh giữa những nhà thơ khác.
Quả vậy, chất triết luận là một điểm
mạnh tạo nên tính khái quát và sức nặng cho thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Nó làm bài
thơ thoát khỏi sự tẻ nhạt, chàng màng, à ơi thường thấy. Mỗi bài, người ta đều
cảm nhận được tác giả khái quát một điều gì đấy, hay gửi thông điệp nào đó, mặc
dù chưa hẳn đã đúng, đã hay hoặc mang tính phổ quát, song rõ ràng là có ý
tưởng.
Tuy vậy, cái gì cũng có tính hai mặt của
nó. Ở một liều lượng đủ và hợp lý sẽ mang đến hiệu quả tích cực, còn như nặng
về triết học hay xã hội học quá liều sẽ khiến Thơ trở thành khô cứng, giảm đi
sức gợi, phai đi sắc màu và giai điệu. Điểm lại thơ Nguyễn Vĩnh Tiến nói chung,
với những đoạn trích trên đây, tuy có nhiều khúc triết luận khá nhuần nhuyễn,
uyển chuyển về giai điệu. song không khó để nhận thấy, tính triết luận đồng
thời, vừa là điểm mạnh và điểm yếu trong thơ anh.
VI. Tâm thế
thơ chở “nỗi buồn trung du”
Ngay đầu bài
viết này, tôi đã mượn câu thơ trong một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền,
thân sinh của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà anh mượn để làm lời cho ca khúc” Ông tôi” của mình : “Tờ mờ sáng ông đi về phía núi. Đồi núi mở ra
câu chuyện buồn trung du...”. Cho đến giờ, nhận thấy, gần như toàn bộ sự
nghiệp thi ca-âm nhạc của Nguyễn Vĩnh Tiến, nói chung, mang đậm âm hưởng này.
Dường như, nó ám ảnh, thường trực trong ý nghĩ của Nguyễn Vĩnh Tiến và dần ngấm
vào tâm thế anh, rồi được biểu hiện trong thi ca cùng âm nhạc của anh....
“Tôi lao như mũi tên/ mê theo quả bàng chín ẩn
hiện trong lá tim/ Tuổi tôi bao giờ cắn ngập những làn hương?/ Phố xá im lặng
chồn chân/ Cánh cửa màu trắng phía ngày xa rộng toác/ Vẫn ít người trở về/ Tôi
quen trò trốn tìm sắc ngày nhạt/ Khi
chán lại tìm trùng điệp những ngọn đồi chơi trò cánh cung mây/ Tôi chạy xa rồi
cái bến đợi chuyến đò định mệnh/ Nhưng Sông Thao lẽo đẽo chảy trong
người”. (Trung
du ) ;
“Tôi là một con chim, bay qua dòng sông/ Tôi
nghiêng đôi cánh,... Mặt sóng soi tôi thành một con sóng/ Dòng nước soi tôi
thành một chiếc lá/ Trôi dạt...trôi dạt.../ Tôi bay đi tìm .... bóng tôi/ Bờ
lau hình như hình như ai che tiếng nói/ Bờ lau hình như hình như ai gom tiếng
sóng/ Sóng vỗ, nghe như câu chuyện về dòng sông/ Bỏ quên mất bóng cho đôi bờ/
Gửi bao héo hắt cho đôi bờ/ Tôi chao, chao đi chao lại cùng sương khói/ Tìm đâu
thấy bóng tôi trôi ngày/ Tìm đâu trí nhớ tôi sương mù..../ Cuối chân trời, mây
lững thững bay/ Cuối một ngày, sông lững thững trôi...” (Chim bông lau tìm bóng) ;
“Tôi chỉ bị
quyến rũ bởi cội nguồn/ Và nỗi buồn chó ăn đá gà ăn sỏi/ Nên tôi không đứng về
phe tài giỏi/ Tôi trôi theo từng thân cọ luống chè xanh.../ Đêm nay ngủ ở Việt
Trì/ Tôi ngóng về Cầu Phong Châu Đỉnh Hùng Lĩnh/ Chắc vua Hùng sống lại cũng
không thể bình tĩnh/ Trước những ngọn đồi như da thịt rách bươm.../ Nhưng tôi một
giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn chôn xương chân giường...” (Đêm nay
ngủ ở Việt Trì);
“Mộng về xóm núi lân
la/ Hỏi thăm, lạnh lẽo đã qua nửa lòng?/ Nhớ trái na nặng đầu đông/ Lá na rơi ở vườn không lặng lờ/ Nửa đêm lau
lách nằm mơ/ Nồm lên hơi ẩm nương nhờ ngón tay/ Lang lang lớp lớp mây mây/ Nỡ
lòng nào lỡ phút giây hoạ hoằn/ Nước nôi từ thuở gối chăn/ Nửa lòng lạnh ngắt,
nửa rần rật reo ...” ( Xóm núi)
;
“Ngày mai lại đến giỗ bà/ Trung du xanh thẫm nhạt nhoà mưa xưa/ Thạch Đê
đồng lạnh gió mùa/ Cẩm Khê xoan cũng mới vừa tháng ba.../ Mười mấy năm cháu xa
bà/ Hồn phảng phất mãi hiên nhà, đồi xưa/ Cây mít giờ đã lên chùa/ Bụi tre đã
đốn, rễ trơ góc vườn/ Nhà xưa giờ đã trống trơn/ Cháu con mê mải chập chờn xa
quê.../ Cháu giờ tuổi giống triền đê/ Chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông ...” (Giỗ Bà nội);
“Chết
là hoa cải phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai
nhừ/ Chỉ là bếp lửa hình như ... bập bùng .../ Sầu thì riêng chẳng sầu chung/
Người cứ bừng bừng cháy cõi người thôi/ Trung Du đêm vắng lặng rồi/ Tôi nằm tôi
nếm từng thời khắc qua.../ Có chang chang nắng nhớ phà/ Có đêm khóc những người
già mộng du../ Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những
thứ, mới vừa trôi qua ....” (Đêm nay
ngủ ở Phú Thọ);
Vậy là con sông Thao cứ lẽo
đẽo chảy theo chân, theo cái bóng của cậu bé Nguyễn Vĩnh Tiến từ thuở lon ton
cho đến khi giật mình nhận ra mình đã ở vào cái “tuổi giống triền đê, chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông”. Người xưa
bảo “ngũ thập tri thiên mệnh”, giờ
chớm đến tuổi này, Nguyễn Vĩnh Tiến đã ngộ ra, cái gọi là “ngày xưa” đâu có xa xôi gì, mà chính là “những thứ mới vừa trôi qua”. Nhanh thế, mau vậy, nhưng đâu có thể
vội vàng.
Cùng với cuộc sống bộn bề
chảy xiết ngày hôm nay, Nguyễn Vĩnh Tiến đã biết cách tổng hợp, kéo dài, vẽ những
bức tranh thơ khổ lớn, du hành ngược dòng thời gian về quá khứ,...
“Bố tôi Cẩm Khê, Mẹ tôi Hoài Đức/ Hai vùng quê ròng ròng ký ức/ Hai vùng
quê rã rời đổi thay/ Trước cò bay/ Giờ bụi bay/ Trước mỏi cánh/ Giờ sa lầy/ Tôi
lớn lên từng ngày/ Người thân mất đi từng cụ/ Trẻ con lớn lên từng đứa/ Cho đến
một ngày khoé mắt cay cay/ Có bao nhiêu khế chín cây/ Có bao thành quách lung
lay bóng hồ/ Còn bao nhiêu thứ hồ đồ/ Còn bao nhiêu gió mơ hồ vẫn bay...” (Bố tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);
“...Phía Nam là Trung du thở/ Phía Bắc là mây âu lo/ Nhà tôi nằm
ở trên đồi/ Có cây mít mật quả rơi kiến bò/ Tối qua tôi uống rượu ngô/ Ăn xôi
ngũ sắc đến giờ vẫn say/ Thương nhau thì mới cầm tay/ Từng sợi hơi ấm thành dây
tơ hồng /... Quê nội tôi ở đó, giờ vẫn chiêm bao/ Tôi mơ thấy mình thành viên
đá ở Thẩm Thoóng...” (Yên Bái); v.v...
Tôi ngại, cứ mãi lan man
trong dòng ký ức của Nguyễn Vĩnh Tiến thì e rằng sẽ lạc lối sa lầy chẳng biết
đường ra... Với tâm thế này, những câu
chuyện buồn trung du sẽ vẫn như dòng sông Thao cứ lẽo đẽo trôi chảy, mang theo
cái bóng của Nguyễn Vĩnh Tiến cho đến ngày nào đó anh cảm thấy quá mệt mỏi mà
buông bỏ chăng.?...
Giờ thì chưa, trong dòng
chảy ký ức của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến đã bày tỏ thái độ của một trí thức, thẳng
thắn và dứt khoát, khi mà nông thôn xứ mình, cả miền quê trung du và làng quê
của anh, đang trong cơn lốc “đô thị hóa” với nhiều bất cập, lo nhiều hơn
mừng...
“Sao chúng ta không về nông thôn?/ Cùng quây quần bên nồi cơm nóng/ Vườn
ao chuồng, đi dưới trăng thấy bóng/ Tre, Lúa, Sông còn nghe thấy tiếng reo .../
Sao chúng ta cứ chê nông thôn nghèo ?” (Sao chúng ta không về nông thôn);
“... Anh hãy phơi áo ra nắng/ Để áo thơm mùi nắng/ Hôm nay anh
về thôn vắng/ Dân làng bán hết cây to/ Để nhường cho các dự án/ Để tầng lớp
trung lưu mới/ Được kiến trúc xanh và chất lượng sống mộng mơ .../ Ơ hơ.../
Ruộng khô hết cả bờ/ Cá chết vì nhiễm độc/ Người dân lởi xởi với một số người
đi mua đất...” (Phơi áo sau Xuân);
Lẽ dĩ nhiên, đô thị hóa
nông thôn là một tất yếu cuả cuộc sống và phát triển. Nông thôn cũng không thể
cứ mãi nghèo đói cũ kỹ lạc hậu để bây giờ chúng ta lấy cớ mà thương nhớ nỉ non
này nọ.... Song rõ ràng, hiện tại, nhiều cảnh sắc và những giá trị truyền thống
tốt đẹp của làng quê Việt bị mai một, mất đi trong khi các giá trị văn hóa mới
chưa hình thành, hoặc dang dở không thể hiện được tính tích cực. Ấy là điều
đáng lo.
Thế nên, Nguyễn Vĩnh Tiến,
con người Thơ chất chứa “bốn trong một”
ấy không lo âu sao được? Khi mà, còn chưa thực hiện được những dự án lớn quy
hoạch tổng thể và bảo tồn di sản làng quê Việt thời hiện đại, thì việc bày tỏ
trong thi ca và âm nhạc của mình là cần thiết. Hãy cứ cất lên những lời cảnh
tỉnh, âu cũng là tiếng nói thiết thực, thể hiện trách nhiệm công dân và nghệ sĩ
của mình.
Nguyễn Vĩnh Tiến, kể từ buổi ban đầu, cái
ngày mà tôi mường tượng về anh “một con
sẻ nhỏ xa nhà, sang sông”, rời mảnh đất trung du Phú Thọ về Thủ đô học
hành, rồi sang Pháp du học, lại trở về Việt nam, thì đến giờ, cũng đã hơn 30
năm trôi qua, anh thực sự trở thành một con đại bàng giang đôi cánh rộng bay
lượn giữa bầu trời thơ ca nhạc họa!...
Vẽ xong vòng tròn để phác
thảo chân dung Nguyễn Vĩnh Tiến, tôi hy vọng sẽ có một cách tiếp cận để hiểu,
cảm và thưởng thức những tác phẩm mới tiếp tục dồi dào sức sáng tạo của Tiến.
Và kìa, con đại bàng ấy đã lại tiếp tục giang rông đôi cánh tự do bên ngoài cái
vòng tròn tôi vẽ…
Có lẽ, đó mới chính là
Nguyễn Vĩnh Tiến ?!... ./.
Hà Nội, tháng 4/ 2023
Triết
lý ĐÈN VÀNG
trong
“không gian Nguyễn Huy Thiệp”
Đọc lại truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, với tôi là một sự ngẫu nhiên. Số là, đầu hè năm nay (2022) tôi tham
gia chuyến lên Sa-pa với cha con, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền và nhạc sĩ Nguyễn
Vĩnh Tiến. Trước chuyến tôi đến ngủ đêm tại nhà họ để sáng hôm sau lên đường
sớm. Tối ấy, chuyện vãn mỏi miệng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền bảo tôi “Nghe nói chú thích văn Nguyễn Huy Thiệp,...
có muốn nghe lại không? ... Dạo này, tôi hay mất ngủ, những lúc như thế, tôi cứ
vào mạng, Youtube ấy, nghe đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, ... Hay lắm, mà lại dễ
ngủ. Ngủ lúc nào không biết...Cứ như Nguyễn Huy Thiệp ru mình vào một giấc mộng
khác ấy...”. Rồi nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền cho nghe truyện “Phẩm ttết”, và “Vàng lửa”,... Và rồi chũng tôi thiếp đi trong mộng mị,
Sáng hôm sau, ngồi xe với cha con nhà
thơ, nhạc sĩ, Nguyễn Vĩnh Tiến bật cho ca các ca khúc của anh chàng. Tôi nghe
nhạc đấy mà đâu óc cứ váng vất các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã
thức dậy trong tôi cảm xúc, tâm trạng những ngày xưa còn chưa xa, khi hóng từng
truyện ngắn của ông xuất hiện trên báo chí,...Nguyễn Huy Thiệp mất vào cuối
xuân năm 2021, thoáng chốc đã qua giỗ đầu ông rồi,...
Sau chuyến đi ấy, bẵng đi
vài tháng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền gắn thẻ sang trang Facebook của tôi đường link Youtube
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, như muốn nhắc nhở tôi, hãy nghe lại đi, Tôi
nghe lại truyện ‘Sống dễ lắm”, rồi
cúứ thế, liền mấy ngày, tôi lần lượt nghe đọc lại truyện "Không có vua", "Những bài học nông thôn", "Bài học tiếng Việt", "Tội ác và trưng phạt", "Huyền thoại phố phường", "Chảy đi sông ơi", :"Muối của rừng’, "Quan âm chỉ lộ", "Sang sông", "Mưa Nhã Nam", "Ông Móng", "Giọt máu", "Con gái thủy thần", "Những người thợ xẻ", "Như sương như khói bay"... Những
truyện ngày trước tôi rất thích, đọc đi đọc lại nhiều lần gần như thuộc, vậy mà
giờ nghe lại thấy quen mà lạ. Có lẽ, sau nhiều năm, đời sống xã hội thay đổi...
nên cách nhìn nhận, đánh giá cuộc sống của tôi cũng khác. Với lại, tâm trạng
đọc cũng khác trước. Nếu ngày trước, tôi háo hức đọc như nuốt từng chữ từng câu
rồi bị cuốn theo, mặc cho Nguyễn Huy Thiệp dẫn dắt, thì nay, tôi nghe người đọc
diễn cảm với tâm trạng muốn thẩm định lại,...Thấy quen thì rõ rồi, còn lạ là
bởi chợt phát hiện ra điều này điều kia, hàm ý này hàm ý nọ trong câu chuyện cũ
mà ngày trước mình chưa từng ngộ,...
Tôi đặc biệt thích cái
triết lý “đèn vàng” được Nguyễn Huy
Thiệp nêu ra rồi kiến giải trong truyện ngắn “Bài học tiếng Việt” mà ông lấy nguyên mẫu từ cố nhà văn Vũ Trọng
Phụng, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và xem như hàng đầu của văn học Việt Nam
hiện đại. Song trước khi bàn về cái triết lý “đèn vàng” này, tôi muốn nói đến một phương thức đặc sắc làm nên bản
sắc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là nghệ thuật không gian truyện, mà ở đây,
tôi gọi là không gian Nguyễn Huy Thiệp.
Trong những truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, thì không gian truyện thật đặc biệt, dù chỉ là không gian hẹp trong một
chuyến đò ngang với thời gian mười phút (như “Sang sông”), hay không gian hiu quạnh trong túp nhà tuềnh toàng,
xác xơ ven sông Đà mờ mịt khói sương (trong "Như sương như khói bay") , hay không gian rộng lớn quốc gia,
dân tộc, triều đại (như "Kiếm sắc",
"Vàng lửa", "Phẩm tiết") hoặc không gian xuyên
suốt hàng trăm năm qua bốn đời của gia tộc họ Phạm (như "Giọt máu"),... Và trong không gian
nào thì cũng đủ để chứa câu chuyện, lớp lang với hàng tá khái niệm, hàng mớ lý
thuyết, hàng đống minh chứng mà tác giả cố tính nhét vào. Đó là cái tài của
riêng Nguyễn Huy Thiệp, bởi ở đấy, luôn chứa đựng những cặp khái niệm đối lập,
như đạo đức-vô luân, sáng tỏ-vô minh, văn minh-mông muội, ý thức-vô thức, cao
cả-hèn hạ, phúc thiện-tội ác, tình yêu-hận thù,... Cũng ở ngay không gian hỗn
độn thực hư lẫn lộn ấy, cái có lý và sự vô lý đều có chỗ trong một trật tự
lo-gic theo khuôn phép của tác giả. Đó chính là giọng điệu kể chuyện ma mị,
ngôn ngữ hội thoại quỷ ám. Tôi nghĩ, bằng ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự làm
bạn đọc bị ám ảnh,...
Giờ thì tôi nói về triết lý
“đèn vàng” của ông. Trong truyện “Bài học tiếng Việt”, sau khi đưa ra các trạng
huống đèn xanh, đèn đỏ, đấy là những tín hiệu dứt khoát một chiều, Nguyễn Huy
Thiệp đi sâu phân tích trạng thái “đèn vàng”, Đây là trạng thái lưỡng lự. Ở
trạng thái này, mỗi con người có sự lựa chọn khác nhau theo tính toán của riêng
mình, hoặc dấn tới vượt thật nhanh, hoặc dứt khoát dựng lại chờ đợi, lại cũng
có thể lưỡng lự giữa đi hay dừng, và như thế, mỗi sự lựa chọn sẽ có những kết
quả tương ứng, thuận lợi hay bất trắc tùy may rủi,... Trở lại các sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp, hầu như các truyện, đều giăng mắc những ngã tư "đèn
vàng", ông đưa đẩy và dẫn dắt các nhân vật của mình đến trạng thái đèn
vàng, để cho họ tự lựa chọn theo mạch truyện, tâm lý nhân vật và lo-gic tình
tiết,... rồi cứ thế, tác giả tiện nước đẩy thuyền, tha hồ đưa hàng lô triết
luận của mình vào,...
Trạng thái "đèn vàng" được ẩn trong không gian
truyện ma mị, hư ảo mà ở đấy có cả thiên thần và ác quỷ, thiên đường và địa
ngục thì đương nhiên, cả nhân vật và bạn đọc chúng ta dễ bị ám thị,...và khi
ấy, mặc sức thuận theo ý đồ của nhà phù thủy,...
Để minh chứng cho triết lý
“đèn vàng” của Nguyễn Huy Thiệp, tôi
xin dẫn chứng từ một số truyện ngắn của ông.
Ví như:
Ở truyện “Huyền thoại phố phường”,
anh hàng nhà quê công chức nghèo tên Hạnh ra phố lập nghiệp, thoạt đầu chàng ta
lân la làm quen và giao du với dám con gái nhà giàu với ý đồ “chui ngầm chạn” hưởng lợi từ nhà vợ
tương lại, đấy là một sự lựa chọn có ý đồ, một lần xử lý trạng thái “đèn vàng” có thể tạm gòi là thành công.
Thế nhưng. khi gặp trầng thái “đèn vàng”
tiếp theo, anh chàng Hạnh đã xử lý một cách quyết liệt, ấy là việc đấy bà
Thiều, mẹ vợ tương lai của mình vào trạng thái trớ trêu hiến thân cho gã, nhằm
đánh đổi tấm vé số của mình dược tặng trước đó, lấy tấm vé số của bà Thiều vì
nghĩ tấm vé số đó được thần linh bảo hộ sẽ trúng độc đắc sau khi nó được bà ta
đem đi lễ bái cầu xin ở các đền phủ. Rốt cuộc, kết quả ngược lại, anh chàng
Hạnh trắng tay mọi nhẽ, trở thành thằng dở người,...
Hay như,
truyện ngắn “Những bài học nông thôn”,
anh giáo Triệu khi gặp tình huống “đèn
vàng” đã quyết định rất nhanh, ngay tắp lự, nhảy ra lấy thân mình chặn con
trâu điên để cứu thằng cu Tiến, chịu cái chết thương tâm. Ấy là vì anh giáo
Triệu nghĩ mình sớm ngộ ra ý nghĩa cuộc đời, có sống thêm cũng vậy thôi, nên
chấp nhận cái chết có thể đến với mình
để cứu mạng một đứa trẻ ngây thơ. Trong trạng huống ấy, giáo Triệu có
thể né tránh cái chết, mặc cho con trâu điên húc cu Tiến thì cũng chẳng ai
trách cứ anh ta được. Nhưng không, ý nghĩa cuộc sống mà giáo Triệu ngộ ra là sự bất tử,... Và như
thế, giáo Triệu đã chọn cái chết để thành huyền thoại của làng,...
Hay như,
truyện ngắn “Như sương như khói bay”,
nhân vật chính là ông Trụ, một ông già bị người ta bỏ quên quá tuổi nghỉ hưu,
mấy chục năm trời dằng đẵng một mình trông cái trạm thủy văn ven bờ sông Đà
hoang vắng, hiu hắt, mờ ảo sương khói. Ngoài việc hằng ngày do nước đo sóng rồi
ghi chép vào một cũ sổ, thì có chút niềm vui dạy chữ và chút dạo lý ở đời cho
một bé gái trẻ con, có cha mẹ hẳn hoi mà như bị bỏ rơi, dần bước sang tuổi mới
lớn. Dần dà, trong bầu sương khói mụ mị ấy, hai con người cô đơn nương tựa vào
nhau, nâng đỡ tâm hồn nhau, khiến họ không còn ý thức về vai trò của mỗi người.
Ông Trụ tự thấy mình như ông, như cha, như thầy giáo,... và còn là một người
khác giới đối với bé San; và ngược lại, cô bé San cũng cảm nhận ông Trụ là tất
thảy đối với nó (ông, cha, thầy giáo và
người đàn ông khác giới,.. gần như một người tình). Trong trạng thái “đèn
vàng” mù mờ, mọi chuyện diễn ra bình thường, song le, chẳng thể mãi “đèn vàng”, nên khi chuyển trạng thái “đèn đỏ”, ấy là lúc cả hai người đều nhận
ra thứ tình cảm pha chút luyến ái thì là lúc buojc phải ra quyết định. Bé San
trẻ con, nó chưa mấy hiểu sự “nguy hiểm” của thứ tình cảm này, nhưng ông Trụ
thì không, ông hiểu rõ sự thể sẽ rao sao tùy theo sự lựa chọn của mình. Hoặc ở
lại sống với bé San, mặc cuộc đời trồi đến đâu thì đến, hoặc “đèn đỏ” stop, bở về xuôi với gia đình
của mình như một kẻ yếu đuối trốn chạy? Và ông Trụ đã trốn chạy vào một sớm
sương khói mù trời như ảo ảnh, chấp nhận đem theo phần còn lại của cuộc đời mình sự day dứt khôn nguôi. Còn
bé San, không có ông Trụ, nó mất nốt chỗ dựa cuối cùng để trụ lại với cuộc đời
này. Thân phận nó ra sao, còn là một câu hỏi chẳng của riêng ông Trụ mà cho cả mỗi
bạn đọc chúng ta?...
Hay như, truyện “Con gái thủy thần”, cả một vùng quê ven sông Cái gần nửa thế kỷ
qua sống với một huyền thoại về Mẹ Cả-Janna Đoàn Thị Phương, con gái thủy thần,
cho đến khi anh chàng Trương, một gã nông dân trẻ tuổi chất phác phát hiện ra,
giai thoại về con gái thủy thần lại do một lão già liệt chân tai quái gớm giếc
(cha của Đô Thi) phịa ra lòa thiên hạ. Một khúc gỗ khô từ cây muỗn cổ thụ bị
sét đánh vùi dưới cát thành mộ Mẹ Cả huyền thoại, và người ta cứ sống với những
huyền thoại thì cuộc đời này mới nên thơ và đẹp đẽ làm sao. Khi đụng vào thực
tế cuộc sống, cái gì cũng chẻ hoe thì đều chẳng ra gì. Cái anh chàng tên Trương ngốc nghếch kia cứ lần mò đi tìm
sự thật, thấy được hiện thân của Mẹ Cả-con gái thủy thần-Janna Doàn Thị Phương,
chẳng qua là một cô gái bình thường, con rơi của lão chủ hãng nước mắm, đem gửi
nhờ nhà thơ nuôi giúp thành con chiên của Chúa, cũng yêu ghét, thất tình như
ai,... Ở đây, sự mù mờ lưỡng trạng thái “đèn
vàng” lại có trác dụng hơn sự rõ ràng, rành mạch của đèn đỏ hay đèn xanh.
Hãy để cho các huyền hoại có đất sống, đừng chẻ hoe mà làm gì, kẻo sẽ thành vô
duyên, tẻ nhạt!...
Cũng có thể dẫn chứng thêm
hai truyện khác nữa, như truyện “Sang
sông”, trạng thái “đèn vàng” chỉ
trong chốc lát, bằng thời gian của một chuyến đò ngang; hay như truyện “Giọt máu”, thì trạng thái này lại nhiều
lần xuất hiện, kéo dài giả nửa thế kỷ với mỗi đời tiếp nối dòng tộc gia đình họ
Phạm,...
Hàng trăm truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, hầu như truyện nào tác giả cũng tạo ra trạng thái hay tình huống “đèn vàng” như thế. Vậy nên, xem đây là
một đặc trưng phương pháp sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là có cái lý
của nó.
Một điểm nữa, nhìn chung,
không gian Nguyễn Huy Thiệp thường đượm buồn, các cũng bậc và tâm trạng đem đến
nỗi buồn, rồi lây lan sang người khác như một thứ bệnh truyền nhiễm. Nhưng mà
nó đẹp, đầy tính thẩm mỹ. Còn nó có nguy hiểm hay không thì tùy mức thẩm thấu
của mỗi người?...
Nguyễn Huy Thiệp cũng hay
nói đến tín ngưỡng, tôn giáo. Dường như, ông luôn đi tìm nó, thứ tín ngưỡng của
riêng ông., m ở đấy, đánh thức được Lòng trắc ẩn- qua đó giáo dục, giáo
hóa đùng hơn, sự khai hóa lại thì phải?
Thêm nữa, Nguyễn Huy Thiệp
cũng hay tự mâu thuẫn với chính mình. Song có lẽ vậy, khi đọc truyện của ông,
đến đâu thích thú đến đó, rồi cứ thế sa vào bẫy của ông lúc bào không biết, đến
hết truyện lại như mờ mịt chẳng có lối ra và bỗng không hiểu ông đã nói gì. Lối
viết ấy là điểm mạnh của Nguyễn Huy Thiệp, nó gây ảnh hưởng, chi phối nhiều cây
bút văn xuôi khác., mà sau này, tôi nhận ra dấu vết ấy ở truyện ngắn này truyện
ngắn nọ ở cây bút nọ cây bút kia. Kể cả tác giả bài viết này, cũng từng bị ảnh
hưởng lối viết của Nguyễn Huy Thiệp.
Sau này, đọc thêm diễn văn
của Nguyễn Huy Thiệp khi ông nhận giải thưởng văn học quốc tế ở Italia, giải Premio
Nonino (2008) , tôi càng thám những điều đó!... ./.
NGUYỄN HUẤN,
KỊCH SĨ GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú
Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy
là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tại Huế vào một ngày đầu tháng 9
năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời.... Ở tuổi 66, không phải là trẻ nhưng
cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười
lăm nắm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang ;ang thang đâu đó ở Huế rồi đột ngột
ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định rồi mất vào chiều ngày mồng một
tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn
Huấn đã sắp đặt cho sự ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, kh anh bỏ nhà
lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những
năm còn lại của mình, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là
chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...
1. Cách đây khoảng 25 năm,
đó là năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn
Huấn, cùng Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là phóng viên
chương trình Tạp chí truyền thanh & Du lịch do nhà báo Thanh Lịch phụ
trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu
lưu tình ái của anh, tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cô gái xứ dừa Bến
Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức
tranh để lại”. Truyện in báo rồi vào sách, mọi người biết lấy ra trêu
Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết
của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nôi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt tăm và
nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền Trumg. Nguyễn Huần cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao sống nhăn
răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một phần tư
thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần
này, thì anh diễn cố cho xong!...
Nguyễn Huấn quê Kim Thái,
Vụ bản,
Dường như, vận may chưa mỉm
cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vai quần chúng,
thậm chí không có vai mà chỉ làm cái việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông
cảnh, kéo phông màn,.. Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc rời Nhà hát Tuổi
trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian
này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNVN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng
cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài
các chương trình như Sân khấu truyền
thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ
nhật, Kể chuyện cảnh giác tối thứ
bảy, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng
các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên,
Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi với ngần
ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp
diễn, vì ở đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân
Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,
Tôi lần đầu biết Nguyễn
Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu. Khi ấy tôi làm việc ở
Phòng Tiếp dân và xử lý đơn thư của
Ban Thính giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang
Tình làm trưởng ban. Phòng làm việc cua tôi thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ
sở 58 Quán Sứ, ngay phía dưới tòa biệt thự kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban
Văn nghệ với các phòng Văn học, Sân khấu và Văn học thiếu nhi. Một chiều, nghe
tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó
ra thì thấy một người to béo,mặt đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người
già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh chàng to béo lảm nhảm đe dọa người kia. Nhà
báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà,
bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh chàng béo. Người này khựng lại, vằn mắt quát
nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga: Kto?
(Mày là ai)?. Miệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy, biên
tập viên Hồ Nhật Quang chạy đến kịp vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa quát
vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sau đó, tôi biết được chàng béo
say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn. Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài
lấy nhuận bít, rồi vui miệng rủ Vũ Hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ
nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô
xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huấn thành
tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn
khi về chung phòng làm việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phục
thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh trí, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.
Lân la rồi chẳng hiểu sao,
Nguyễn Huấn xin được vào học việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà nước và Pháp luật do nhà báo Lê
Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà
báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con
ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc cả. Khi ấy,
Đài đã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã
vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên chính thức của nhà đài. Sau này,
Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ môn ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt
điểm tuyển. Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của
Đài bảo, vì tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà cho nợ ngoại ngữ. Quả là,
vào Đài, Nguyễn Huấn đã phát huy được chất giọng tốt trời phú và khả năng diễn
xuất của mình cho làn sóng của Đài, không những thế đây còn là chiếc cần câu
cơm khi anh làm thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nợ môn
tiếng Nga là thế, nhưng đã có lần, tôi chứng kiến, trong một chuyến công tác,
khi cần giao lưu với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ôm ghi ta hát bài Đôi Bờ bằng tiếng Nga khá chuẩn xác, hay
và đầty cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhờ khả năng này
Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hay do anh gây nên để thoát hiểm. Tội
và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được. Thực ra, ẩn
trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn Huấn. Thời
còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng và Trần Nhật Minh, mỗi
khi thấy Nguyễn Huấn giả lả nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện, mấy chúng
tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”,
tồi thì bỏ qua cho nhau cả.
Kể chuyện Nguyễn Huấn mà
quên không nhắc chuyện “liên kết mậm
giềng” của anh thì thật thiếu sót. Đây là câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu
tố hài hước như chuyện ở một sân khấu hài kịch. Chuyện này lý giải đời Nguyễn
Huấn chính thức ba đời vợ và mỗi thị sinh cho anh một công chúa, hay như cách
nói dân dã của anh là vịt giời hoặc chữ nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời
Nguyễn Huấn kể, tôi chắp nối lại thì toàn cảnh thế thiếp của Nguyễn Huấn nhứ
sau: Thời còn là công nhân lái tàu goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy
vợ và có con gái đầu lòng. Cô vợ này sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn.
Tiếp theo, lang bạt về quê, Nguyễn Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì
phải và kết cục của cuộc hôn nhân thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này,
khi đã là phóng viên nhà Đài, trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ,
Nguyễn Huấn tình cờ làm quen với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy
làm vợ rồi đưa theo về Hà Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cô con gái nữa ra đời.
Vậy là, liên doanh mậm giềng của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi
nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách
liên doanh tiếp với hy vọng cho ra một mậm giềng (con trai) đặng có người nối
dõi tông đường. Thế nhưng, trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời
chẳng gật. Trước tuổi nghỉ hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ,
nằm nhà cả năm trời. Dẫu không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất
toại thì cơ thể cũng chậm chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà
thôi. Đành nghỉ hưu trước tuổi mầy năm, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi
thiệt thòi lắm. Về chức vụ, hàm phó vụ trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên
chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành kịch phát thanh, huân chương Lao động hạng 3.
2. Nguyễn Huấn là người yêu thơ, là tác
giả của hàng trăm bài thơ, ...song chẳng mấy quan tâm. Hình như, ở vào thời kỳ
chiến tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy thơ ca làm chỗ dựa
tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huẫn cũng là người như vậy. Sau
này Nguyễn Huấn có tập hợp in thành tập,
( tập Bóng đời, NXB Hội Nhà văn 2009)
nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết anh dính dáng thi
ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm nhận thức, thi ca không nuôi sống bản
thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng tác kịch, diễn kịch phát thanh, rồi công tác
tham gia các hội diễn văn nghệ quần
chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tươi thóc thật để lấy cái ăn cho vào
miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ đã mất công sinh ra các
tiểu thư, công chúa cho mình.
Tôi nhớ, trong
nhiều chuyến công tác đi các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn
Huấn cao hứng đọc thơ anh, thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc.
Mục đích làm gia vị cho các cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, lúc ngà
ngà say, Nguyễn Huấn mượn rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê
thơ, tôn thờ thơ và cũng thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật
khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn
đấy nhé. Ông là dân văn xuôi thì cứ văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái
và làm duyên với đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huấn cũng có
lý. Nhưng mà, cái gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính,
song thơ túc tắc, cũng dăm bảy tập rồi. Còn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ
từ khi nghỉ hưu, nằm khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên
đường, dường như chỉ có thơ (sau miếng ăn, cuộc nhậu) là giúp anh chuyên chở sự
hưng phấn hay nôi cô đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình,
Nguyễn Huấn trải lòng bằng những bài thơ... Ví như “SócTrăng nhớ” làm vào cuối năm 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai
trẻ lang bạt kỳ hồ đây những lỗi lầm: “Anh
sẽ đưa em về/ Bến Nguyệt Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề
sang sông/ Dù đục và dù trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day
dứt khôn cùng/ Người ơi !/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều
cửa bể/ Mây nước buồn nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/
Người xưa !/ Và sông xưa !/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn
Khmer/ Sông Trăng buồn sắt se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/
Cô đơn một bóng thuyền/ Thế mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tính”. Hay như bài thơ “Em và thu “ làm ngày 10.8.2021
không lâu trước ngày Nguyễn Huấn ra đi vĩnh viến cũng một tông như vậy:
“Có
phải em/ MÙA
THU/ Lá
vàng lơi lơi/ đường
vắng/ Thu
lại mùa .../ em
vẫn em/ Hình
như/ câu
Thơ/ của
mùa Thu cũ/ Em
tít tắp xa/ nơi
miền xanh núi ngủ/ Từng
đêm.../ vòng
tay thả hững hờ/ Thu
cùng em/ câu
đợi, câu chờ/ Cúc
vườn nhà/ vàng
lên như nắng/ Hoa
hát em nghe/ lời
trống vắng/ Và
nói hộ lòng/ em
mãi mãi/ yêu
anh/ Ở
bên ni/ vẫn
bát ngát xanh/ Huế
giao mùa/ dòng
trong ngăn ngắt/ Bến
Sông Hương/ anh
đi tìm câu hát/ Thương
nhớ duyềnh lên/ mỗi
độ Thu về/ Câu
thơ em ngân nga/ quấn
quýt níu chân đi/ Cúc
Quỳ vàng ruộm/ cho
ai cay mắt/ Lễ
giao mùa/ năm
nay Cô-vít/ anh
nỏ về được mô ? Anh
không về/ Câu
Thu
sang ,..”
Dường như, cái nghiệp diễn kịch thấm vào con người Nguyễn
Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử hằng ngày, cũng như trong nghề báo của anh. Và
với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có chút tính kịch, câu chữ lại càng rõ, chất hội họa
thêm chút khoa trương kiêu diễn viên thoại sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi
người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng. Miễn sao Nguyễn Huân thấy vui, hay yên lòng
mình là được, bởi nhiều nhà thơ lớn con ối bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa
là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của Nguyễn Huấn còn đậm chất khoa trương
hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên là bộ đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và Điện Biên nhân dịp kỷ
niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp
thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ
tích/ Người lính trẻ trung theo đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực
làng quê/ Súng bom thù xé ngang trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu
hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”* người đi/ Hiền lành như bông lúa rễ tre /
Trong như giọt chuông/ chiều trong trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt
quê hương / son sắt lời thề / Điện Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào
đồng đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm
phía quân thù/ Chiến hào Him Lam/ nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao
thiết quá/ Có phải không cha: cánh hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh
Điện Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến
thắng/ Cha về nhé - sớm nay - cùng nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/
Bài ca hóa lửa vừng đông/Bóng cha xanh mướt cánh đồng Điện Biên”...
Thơ ca làng nhàng vậy thôi, nhưng trong
nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết sức nghiêm túc.
Cùng với các nghệ sĩ, đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, Nghi Xuyên, Nguyễn
Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu truyền thanh không
những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ thống phát thanh cả
nước. Gjui nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú
(NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thanh
hoàn toàn xúng đáng. Không những vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt
nghệ thuật sử dụng âm thanh, tiếng động trong nghè báo phát thanh và lịch vực
quảng cáo khá thành công.... Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp
chí truyền thanh cùng với tôi và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật
Minh... là những năm tháng Nguyễn Huấn say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy
hết khả năng chất kịch trong con người và kiến thức của mình để sáng tạo từ
khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn xuất của mình, để tạo nên những sản phẩm phát
thanh chất lượng cao,...
3. Một sáng chủ nhật (tháng
9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng chút hơi thu mát
mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì thì điện thoại
reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi tôi có biết anh
ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai. Sau một hồi chất
vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo "Huấn đây. Nguyễn Huấn đây". Nguyễn
Huấn thật sao? Thực lòng, khi nghe máy, đầu óc tôi không hề nghĩ đến Nguyễn
Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không
sủi tăm" những dăm, bảy năm nay rồi. Giờ thì không còn nghi ngờ gì
nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau nói... í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần
như ngày nào tôi và Nguyễn Huấn cùng alo cho nhau, này nọ. Tôi biết anh khỏe
lại được mấy tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần
kinh chập mạch" từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang
đương chức Phó trưởng ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV...
An ủi, khi đó, anh đã xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...
Nói căn bệnh "thần
kinh chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn Huấn bị
tai biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi làm lại.
Ai cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi cũng vậy,
nhưng cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười thì sau chỉ
còn ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã hơn dăm năm
nay. Cách đây mấy năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một số anh em
cơ quan đi viếng ở mãi Nam Định. Gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy... Ai
ngờ đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện
Quân đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại,
chập nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như
hồi nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới
đầu tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật
mừng!
` Đúng
hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều
muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui
đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ là dứt ra, để không sai hẹn với người
khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.
Nói theo cách nói thông
dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi hại hơn xưa
!...
Nhưng lợi hại chẳng thấy đâu, Nguyễn Huấn trở lại cuộc sống nguyên tính
cách xưa, ăn to nói lớn, đi phăm phăm, làm linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa.
Hinh như, Nguyễn Huấn sống bù cho gần chục năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi
nhẹ nói khẽ. Có cảm giác, Nguyễn Huấn hung hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên
tiếp gặp gơ lại các bạn bè đồng nghiệp làng báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn
Huấn rời Hà Nội, lang thang đâu đó mãi miền Tây
Lần gặp cuối cùng của tôi
với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê dịp tôi xây
lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dốc chuyện, nhậu tưng bừng và quậy
cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm ỏ quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống khá
nhiều. Rạng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân trên
Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy đúng ngày
Quân đội nhân dân Việt
Sau lần ấy, tôi chỉ còn
thấy bóng dáng Nguyễn Huấn thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc dòng tin nhắn
trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ chút đỉnh về
tài chính,... Lần theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn Huấn vẫn
lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng gió
hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn Huấn
vẫn đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi, biết
giải thích sao đây,...? Dường như những ngày tháng cuối đời lang bạt này,
Nguyễn Huấn quên mất lời tự răn mình và khuyên nhủ bạn bè là chớ đắm mình vào
thơ mà khốn khổ, anh chỉ còn mấy mối quan tâm, ấy là miếng ăn vào miệng cho đỡ
xót lòng và cùng với đó là Em và Thơ. Trân trang cá nhân của Nguyễn Huấn nhan
nhản thơ tình,. Thơ về những vùng đất mà anh từng đặt hân đến...
Tôi không rõ lá số Tử vi
của Nguyễn Huấn cụ thể ra sao, nhưng cứ cuộc đời anh mà suy thì hẳn cung Di và
cung Nô của Nguyễn Huấn phải có sao tốt, nên chỉ khi nào Nguyễn Huấn còn đi
được ấy là Nguyễn Huấn tồn tại, và hình như đến đâu anh cũng gặp được những
người tử tế giúp đỡ, phò trợ ?... Thời bao cấp khốn khó, Nguyễn Huấn đã sớm ý
thức việc lưu giữ những hình ảnh ghi dấu chân mình. Anh có chiếc máy ảnh cơ cũ
kỹ nhưng vẫn chụp tốt, nên đến đâu cũng chụp dăm ba pô ảnh lưu niệm. Thời phim
ảnh dắt đỏ song Nguyễn Huấn không tiếc tiền, chụp xong về chọn hình rửa thành
ảnh hẳn hoi và mỗi khi trở lại nơi cũ, anh mang theo ảnh tặng lại cho chủ nhà.
Mỗi lần vậy, Nguyễn Huấn ranh ma nháy
mắt với tôi nói nhỏ:”Mỡ nó rán nó ấy
mà...”. Nhờ thế sau này, tôi lưu giữ trong album của mình nhiều hình ảnh về
Nguyễn Huấn và tôi cùng đồng nghiệp báo chí khác...
Và cho đến một ngày (kỳ
nghỉ lễ Quốc khánh 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi, vì biết anh
quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép lại rồi,
chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những cơn say,
Nguyễn Huấn nhập đồng diễn, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè ai đó có
muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,
Nguyễn Huấn, chàng kịch sĩ
giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đồng nghiệp làng báo, chẳng quên anh đâu !...
RƯỢU
NÚI AI RÓT MÀ SAY,...
( Chân dung nhà thơ Lò Cao Nhum)
Thế là nhà thơ Lò Cao Nhum,
người con của Bản Lác, Mai Châu đã ra đi
mĩa mãi vì căn bệnh trọng.
Biết đến tên và thơ Lo Cao
Nhum thì từ lâu nhưng phải đến năm 2011, tôi mới giao du với ông qua mạng Blog
Tiếng Việt.
Tôi đi du lịch Bản Lác cũng
nhiều, nhưng cũng chỉ có một lần ghé thăm chơi nhà Lò Cao Nhum. Ấy là khoảng
mươi năm trước, vào dịp xuân, tôi cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn
Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhạc sĩ Phạm Quang Hiển vô xứ Thanh chơi, thăm nhà của nhà văn Trịnh
Tuyên ở Cẩm Thủy, rồi quá bộ lên Bá Thước thăm nhà thơ Trương Thị Màu. Tôi post
ảnh lên mạng, nhà thơ Lò Cao Nhum biết tin bèn gọi điện nhắn là khi về thì tiện
đường vòng qua Bản Lác, Mai Châu ghé nhà ông chơi. Thế là đoàn chúng tôi sang
Mai Châu, đến Bản Lác ghé nhà Lò Cao Nhum. Có trà có rượu nên không khí cuộc
gặp thêm phần ấm áp, rôm rả, thơ phú dạt dào,...
Những lần sau, ghé bản Lác,
thì hoặc ông chơi xa vắng nhà, hoặc chúng tôi vội nên chỉ í ới qua điện thoại
dăm câu ba điều vậy thôi.
Trang cá nhân của nhà thơ
Lò Cao Nhum trên Blog Tiếng Việt lấy tên Rượu
Núi, tôi đọc thơ ông chủ yếu ở đây. Thi thoảng thấy tên ông trên báo này
báo nọ thì bài đọc bài không, nên chẳng lạm bàn, song qua đó cũng đủ để nhận
diện, thấy được chất văn hóa bản địa (Thái
và Mường) và dấu ấn bản tính nhỏ nhẹ rủm rỉm riêng có của Lò Cao Nhum.
Lần giở từng trang của nhà
thơ Lò Cao Nhum trên Blog Tiềng Việt mà ông bỏ lửng gần chục năm nay, ngược
thời gian để nhận diện một Lò Cao Nhum, thơ và người. Trang cá nhân của ông lấy
tên RƯỢU NÚI, thì hẳn ông phải tâm đắc với bài thơ này và xem đó như sự đại
diện hay một tuyên ngôn về thơ, về quê hưởng bản quán và con người mình...
Hãy xem cái cách Lò Cao
Nhum, hay rộng ra là người Thái Bản Lác mời rượu bạn bè: “Rượu núi/ Bạn
đến/ Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu/
Chiếu đan bằng tia mặt trời/ Bát rượu trăng rằm/ Mong hồn vía bạn đừng thất lạc/ Cầu
cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa/ Gái bản
nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn
tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt...”. Vậy thì đâu còn xa lạ
nữa, dù bạn là người Thái, người Mường, người Mông, người Kinh hay dân tộc nào
đi nữa thì bàn tay cũng da cũng thịt như nhau cả thôi.
Có thẻ
nói, chỉ bằng một bài thơ “Rượu núi”
Lò Cao Nhum đã xóa nhòa đi cái khoảng cách về sắc tộc. về sự giàu nghèo, gần
xa, cũ mới,... Đấy là cái khéo riêng có của nhà thơ, ấy còn là văn hóa ứng xử
của người Thái và một số dân tộc thiểu số vùng cao...
Cảm giác chung, Lò
Cao Nhum cũng như các nhà thơ người dân tộc thiểu số vùng cao khác (Pơ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh...)
yếu tố dân tộc bản địa rất rõ. Tất nhiên, mỗi dân tộc thiểu số vùng cao, bản
sắc văn hóa khác nhau đôi chút, song tựu chung, văn hóa ứng xử lại khá giống
nhau, ấy là sự hiếu khách và lòng tin ở con người. Người Thái, người Mường vùng
Tây Bắc đều khá tinh tế và khéo léo trong ứng xử với khách. Bản thân, tôi có
nhiều năm ngang dọc Tây Bắc nên hiểu điều này. Giờ hãy xem Lò Cao Nhum thưởng
trà với bạn hữu ra sao: “Hương trà thơm thao thức/ Quyện vấn vít mãi thôi/ Em
nâng lời chén nước/ Sóng sánh vỗ lòng tôi/ Nhấp một ngụm thành hai/ Nhấp hai
ngụm thành mười/ Một đêm trà gió thức/ Chung chiêng lá trọn đời”.(Hương trà).
Với cái phép nhân của lòng người “một
thành hai, hai thành mười” ấy, mới thấy Lo Cao Nhum khéo và cũng ngoa làm sao.
Nét văn hóa của người miền núi đồng
rừng, tục “bắt vợ” cũng được Lò Cao Nhum thi vị hóa: “... Nghiêng lòng rình khe vách/
Ngả tim ngóng buồng trong/ Đâu là trời, là đất/ Đâu là vuông, là tròn./ Tiếng
khèn hổn hển/ Khua lạo xạo con đường đá sỏi/ Bỗng lách qua khe liếp/ Vồ dốc
núi/
Chộp rừng rú/ Bế bổng thiên thần/ Nhẹ nhõm hòa vào sương ban mai” (Bắt vợ).
Văn hóa ứng xử của người Thái, người
Mường vốn tinh tế, phả vào người thơ rủm rỉm Lò Cao Nhum nên đã khéo càng thêm
khéo. Chuyện gia đình, có khéo ăn ở bao nhiêu cũng chẳng thể tránh được những
giận hờn, sứt mẻ. Nhưng với Lo
Cao Nhum những lúc thế này: “Hơi tí em bỏ
về bên ngoại/ Làm cơm canh, ấm chén rối lên/ Bậu cửa vào vấp chân/ Khung cửa ra
đụng trán/Thương cái bếp nguội lạnh...”. Để vợ giận thì chỉ có thua và
thiệt thôi, nên người thơ nhủ lòng mình, cũng là cách lấy lòng vợ: “Thôi cũng vì cái vung trót méo/ Cũng vì
nắng quá mà mưa/ May mà vung còn dẻo/ May mà vẹo lại tròn/ Bữa cơm trưa một
mình/Anh còn so thêm đũa” (Mưa nắng
nhà mình). Đến nước này thì gỗ đá cũng tan thành nước, người vợ nào cũng
đành cầm lòng, giận dỗi chi nữa. Nịnh vợ giỏi thế, khó có ai hơn được Lò Cao
Nhum. Thường ngày là vậy,nhà thơ nịnh
đầm theo quán tính, nhưng hễ có dịp thì tội gì mà không giả vờ có chút tị nạnh
với chị em : “Làm phụ nữ thích thật/ Có
ngày vui tháng ba/ Có ngày hoa tháng mười/ Làm phụ nữ vui thật.../ Làm phụ nữ sướng thật/ Bao nhiêu là tiếng
khen/ Bao nhiêu là lời tán/ Ngọt thơm suốt cả đêm..”, nhưng rồi vẫn nửa
thương nửa răn dạy: “Ngày vui ngắn chẳng
tày/ Về còn lo con nhỏ/ Còn trăm ngày giặt giũ/ Còn nghìn đêm khóc thầm./ Phụ
nữ vốn rộng lòng/ Đàn ông đừng hẹp bụng/ Phụ nữ đáng thưởng lắm/ Ngày nào cũng
ngày hoa” (Thơ vui ngày hoa tặng
cánh mày râu). Tị nạnh như thế thì cũng là một cách lấy lòng người thôi.
Khôn thế, có mà khôn hết cả phần thiên hạ ...
Những
tưởng chỉ vui bàn chuyện văn hóa dâ\n tộc, ứng xử cộng đồng làng bản, gia đình
vậy thôi, chứ thực ra, nhà thơ cũng thích bàn chuyện thế sự. Song chuyện thế sự
có ghê gớm thế nào đi chăng nữa thì cũng nhìn từ bản thân mình, từ người thân
mà ra chuyện thiên hạ. Hãy xem Lò Cao Nhum bàn chuyện thế sự ra sao? “Họ bảo tôi đi đường ngược chiều/ Bị phạt là
điều cầm chắc/ Chợt hiểu đấy là phép tắc/ Giống bản mình giăng bủa Ta leo... /
Ngôi nhà ta có nóc, có sàn/ Làm người
không thể không phép tắc/ Phép tắc không thể không chòi gác/ Cuộc đời có ngã
ba, ngã bảy/Trong ta có đèn đỏ hay không...” (Ngược chiều).
Vậy thì lệ làng, phép nước cũng nhìn nhận từ bản thân
mình mà ra. Bố bản hay ai cũng thế cả thôi, cứ phải khép mình mà tuân thủ suy
ra phép công thì xã hội mới có trật tự chứ.
“Căn phòng tôi
một góc khói bay/ Tôi ngấu nghiến chợ chiều ùa đến/ Nhịp đời thường cà chan
nước mắm/ Không góc đêm chạm cốc bon che./ Căn phòng tôi chiếu rải thênh thênh/
Ríu ran tiếng giao lưu đồng loại/ Nhịp nhàng tiếng đưa nia sàng sảy/ Nụ cười
thơm lọt sàng xuống nia” (Căn phòng
tôi). Cái riêng đã thành chung rồi, chuyện của mình thành chuyện làng xã,
chuyện xã hội thôi. Thế sự với Lò Cao Nhum cứ thủ thỉ là vậy. Chẳng hơi đâu phải đao to búa lớn cả, chuyện
thế sự đơn giản là lời dăn con: “Rồi ngày mai con xuống núi/ Gặp phố phường
ngã bảy, ngã mười/ Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng/ Mỗi lần vấp, một bước
đi/ Sẽ sực nhớ người thầy trên núi.../ Ngày
mai con xuống núi/ Cùng tay nải hành trang đầu tiên/ Đi như suối chảy về với
biển/ Chớ quên mạch đá cội nguồn.” (Ngày mai con xuống núi)...; Hay đâu như
chuyện ăn bát phở dưới phố: “Người Núi xa
bản Mỗ, bản Lác/ Đi phố xa cải tổ cái đầu?/ Sau hội Thơ, hội Văn, hội Bè, hội
Bạn/ Muốn về lắm rồi/ Nhớ gà đồi…/ Thế là xong/ Người Núi làm sao biết được/
Mấy trăm tấn gà mắc dịch om, lưu/ Bột rượu cồn nhập của Tàu pha nước/ Thơm lừng
môi – trôi xuống ruột: ngọt lừ!/ Ngon lỗ miệng – bụng đứ đừ/Ung thư, tắc ruột
coi như xong đời...” (Đau cái sự phở
gà); Hay đơn giản là nghe tiếng chim ngoại thành: “Lật chăn bên này/ Trở gối bên kia/ Tiếng chim cuốc/ Ven đầm sậy một khu
đô thị/ Đêm không vắng/ Mà thăm thẳm/ Chim gù đôi/ Như khoan vào đáy ruột.../
Lặng nghe đêm sâu/ Tiếng chim đôi khi như nấc/ Tiếng chim thảng thốt/ Giữa chói
chang sức nén/Ngàn tấn bê tông...’ (Tiếng
chim cuốc bên đầm ngoại thành): Hay là chút cảm xúc khi về Điện Biên thăm
Mường Phăng: “Chín sẽ quên và mười sẽ
quên// Nhưng không quên Pú Thẩu (*) Đại tướng/ Mùa hoa vông đếm hoa vông ngồi
đợi/ Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi chờ mong./ Về Mường Phăng câu ca còn ngân/ Sáu
mươi mùa ve sôi chín núi/ Ngày noọng sao hát lời buộc trói/ Pú Thẩu về sợi chỉ
về theo...” (Câu hát Mường Phăng);
Rồi nữa, khi bố bản nhìn thấy cây thốt nốt bên bờ biên giới sinh ngẫm nghĩ: “Cây thốt nốt lắc lư vô tư nghiêng ngả./ Rễ
chùm uống nước ruộng này/ Uống nước ruộng kia/ Cỏ xanh cũng không chia/ Phương
này phía nọ./ Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày/ Cô gái Nam Bộ bên này
ngơi tay gieo sạ/ Dưới vòm râm thốt nốt/ Rôm rả mùa màng” (Cây thốt nốt giữa bờ biên giới); v.v...
Cứ rủ rỉ tâm sự như tự nói với chính mình, Lò Cao Nhum suy ngẫm và kể chuyện thế sự theo cách riêng của mình,
chẳng khác mấy việc hàng ngày ông tìm
lối mòn lên núi hay đi nương rãy,...
Như thế, cũng không có nghĩa mọi việc
phả vào nhà thơ đều đơn giản cả, không đa sự song ông cũng ưa triết lý: “Ừ đời người mới đó buổi mai/ Dăm chén rượu
đã chạm chiều chạng vạng/ Nồng say mối tình không biết ngán/ Chẳng khỏa đầy nỗi
hoảng hốt bâng quơ./ Ừ thì trời cho ta làm thơ/ Phơi phới đi từ thiếu thời cắp
sách/ Nhưng cũng khoác cho ta áo rách.../ Sáu mươi năm còn vá đụp vá chằn...”
(Những con giáp di); “Ở trên núi có bấy nhiêu hộ/ Một phần ba giầu
có đỏ rừng,... / Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè
sẻn,.../ Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả lên rừng/ Đã thế
sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trúng gà kẻ khó” (Trên núi có ba loại người); “”Pù
Bin có sấm rền bất chợt/ Dội lên giấc ngủ giữa trưa mù/ Giấc mơ không thể mơ
trọn giấc... / Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh trên sương gió, nắng mưa/
Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ suốt bốn mùa (Ở đèo cao Pù Bin),... v.v...
Quả thật, đọc thơ Lò Cao Nhum, những khi bắt gặp ông triết lý,
tôi cứ cười thầm, nghĩ bụng và hình dung, khi viết ra những câu thơ mang tính
triết luận như vậy, hẳn nhà thơ nhẩm bụng hay lẩm bẩm một mình “này, đừng có nghĩ là người vùng cao chúng
tớ ai cũng thật thà như đếm đâu nhớ,...?”. Song rõ là, cái kiểu triết lý
như vậy. chẳng giống người miền xuôi tẹo nào, vì nó vẫn rất chi là “thật thà đáng yêu”, hay chăng người giả vờ “thật thà đáng yêu “?...
Nhà thơ, ai mà chẳng đa sự, đa tình.
Âu cũng là cái cách nhà thơ tự đo-ping, gây cảm xúc để thành thơ?... Thứ tình cảm mà nhà
thơ Thuận Hữu đã buột miệng nói hộ thiên hạ chúng sinh ấy, chút ý nghĩ “ngoài
chồng ngoài vợ”. Giờ thì xem Lò Cao Nhum sóng sánh ra sao?
Lần giở thơ ông, bắt gặp
một bài thơ của một bạn thơ giấu tên thật, ký bút danh THỊ NỞ tặng thơ Lò Cao
Nhum: “Quả cuối năm ngọt đậm/ Hoa cuối mùa vẫn hương/ Nắng cuối
chiều như mật/ Đỏ thêm nét môi hường./
Thời gian ào
suối lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày/ Muối đã mặn vẫn mặn/ Gừng
đã cay thêm cay./ Từ ngàn xưa đến nay/
Tình yêu là phép lạ/ Chỉ một giọt trong ngần/ Cũng sánh
ngang biển cả./ Cơn mưa rào mùa hạ/ Dào dạt ướt vai anh/ Giấc mơ trưa có thật/ Một bờ vai
xanh xanh”. Lại lần hồi cho rõ
nguồn cơn, có một bài thơ của Lò Cao Nhum, trước đó không lâu gửi tặng một "người hôm qua" nào đó, đọc rồi thì hiểu đây là bài thơ
khởi từ phía nhà thơ, khơi nguồn cho bài
thơ hồi đáp của người bạn thơ giấu tên kia: “Không thể gọi người xưa/ Vì ngày mai còn nhớ/ Không thể gọi ngày cũ/
Bởi tình nào đã xa./ Mà thời hoa là hoa/ Đến mùa nở cứ nở/ Hương chắt chiu cho
quả/ Ai hái trái vườn xưa?/ Kể gì thủa bâng quơ/ Gì nên ở còn ở/ Thời gian ào
thác lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày./ Chỉ lạ điều xưa nay/ Tiêu nghìn vàng không
nhớ/ Hoa buổi đầu chớm nở/ Gió day dứt trọn đời” (Thơ gửi người hôm qua),....
Có thể, chỉ là võ đoán, song tôi thấy
thấp thoáng đâu đó bóng dáng cái người mà nhà thơ gọi là “người hôm qua” ấy, khi bắt gặp đôi ba lần nhà thơ giới thiệu thơ
của một “nàng thơ” trên trang cá nhân
của mình. Sự việc đó khiến tôi cứ liên tưởng, sâu chuỗi,... rồi suy luận vậy
thôi,... Âu cũng là để ta nhìn nhận con người thơ Lo Cao Nhum thi vị hơn chăng
?...
Nhớ về Lò Cao
Nhum, không thể không nhớ đến bài thơ Rượu
núi của ông. Nhưng Lò Cao Nhum còn có những bài thơ khác, ta không thể bỏ
qua để thêm phần rõ cái triết lý về nguồn cội sắc tộc, dấu ấn văn hóa bản địa,
chất Thái Mường hòa quện nhuần nhị trong con người và thơ ca của Lò Cao Nhum (ông có cha người Thái mẹ người Mường)
: “Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận
ra đồng tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tin hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/
Anh có thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc
chiếu,.../ Rồi anh ra đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá nhà
sàn/ Văng vẳng níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi” (Nóc nhà ta có hoa khau cút); “Ông
nội tôi khai sinh miền đất/ Bắt đầu là gồng gánh núi non/ Ở trong núi có mồ hôi
của đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ/ Nỗi khổ ủ niềm khát khao/ Rồi ông vung dao
phạt quang mầm đói/ Ông chọc lỗ gieo hạt củ no/ Sự sống ấm chân trời hoang
sơ,...” (Ông nội tôi khai sinh miền
đất); “Tao có chồng, mày đi bắt vợ/
Bao mùa vụ cắm cúi đời nương,.../ Giờ mày năm chân, tao bảy tay/ Chuyện chồng
vợ còn giấu vào núi/ Tao nhớ mày gùi lưng lủi thủi/ Nén mũi kim thêu áo cho
chồng,.../ Chợ tình tâm sự mấy mươi phiên/ Yêu thương gập ghềnh còng dáng
núi,...” ( Lời chợ phiên). v.v....
Vậy đấy, văn hóa
bản địa, sắc tộc tháng ngày lẽo đẽo theo chân
nhà thơ mang dấu ấn đời sống thường nhật, từ nét hoa văn nhà sàn, chuyện
cha ông khai sơn lập bản, nét ẩm thực bát rượu nắm xôi, đến phong tục chợ phiên
chợ tình,... với Lò Cao Nhum hòa quện, chung đúc thành thơ mà nên giọng điệu
của riêng ông.
Cũng như một số nhà thơ dân tộc
thiểu số khác, có thể nói, Lò Cao Nhum ít nhiều góp phần công sức làm phong phú
văn hóa dân tộc mình.
Hơn cả, người ta ghi nhận nhà thơ Lò
Cao nhum ở điểm này.
Những ai, đã ít nhất một
lần, như tôi từng nâng bát rượu núi ngồi
khoanh chân nơi sàn nhà Lò Cao Nhum ở Bản Lác, thì hãy thêm lần nâng bát rượu
núi trên tay, bởi Lò Cao Nhum đã mời: “... Rượu nhà tôi// Rượu buộc chỉ cổ tay/ Thắp lửa tình
chiêng, tình trống/ Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say/
Nào bạn ơi/ Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền ngọn núi/ Giữa chiếu đan
bằng tia mặt trời.”...
Giờ đây, .... Rượu
núi ai rót mà say?...
Khi mà, Lò Cao Nhum đã rời
bỏ mọi người, ngủ vùi giấc muôn đời nơi Xứ Mường đồng vàng, núi xanh, mây
trắng,...thả cho thơ mình mặc sức thung thăng !... ./.
TẢN MẠN VỀ BA BỨC ẢNH
Vào ngày mồng 1 tháng 6 (thứ 6, 2023), tôi xem mạng xã hội, tình
cờ thấy có 3 bức ảnh, xem rồi cứ khiến mình phải suy nghĩ mãi.
Bức thứ nhất, minh họa cho bài viết trên trang của nhà văn Tô
Hoàng, ấy là ảnh chụp hai nhà văn nổi tiếng của văn học Nga là Lev Tolstoi và
nhà văn Makxim Gorky tại trang trại Iasnaia Poliana ở tỉnh Tula, nước Nga. Hình
dáng của hai người thật đối lập, Lev Tolstoi thì thấp nhỏ với chòm râu dài như
ông già tuyết, còn Makxim Gorky thì cao gày cứng như thanh củi. Hai con người
vĩ đại này, còn đối lập ở thành phần xuất thân, L. Tolstoi quý tộc, bá tước,
giàu có, nhà trang ấp rộng lớn, còn M.Gorky thì xuất thân nông dân, nghèo khó,
phải lang thang đó đây, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, tự học để viết văn. Duy có
một điều, giống nhau ở hai con người khác nhau về mọi phương diện, ấy là tư
tưởng tiến bộ, yêu nước Nga, yêu dân Nga và cùng mong muốn giải phóng ách nô lệ
cho dân nghèo nước Nga. Tư tưởng thì chung đúc, nhưng cách thức thì khác nhau,
trong khi L. Tolstoi theo chủ nghĩa dân túy đơn thuần, tự hoàn thiện mình trên
tinh thần Cơ đốc giáo thì M.Gorky ngả hẳn về tư tưởng cách mạng bôn-sê-vich,
lật đổ chế độ Sa-hoàng, thay thế bằng chế độ dân chủ. Cũng đúng thôi, thành phần
nào thì cách nghĩ, cách giải quyết ấy. Thế nên, với ngài quý tộc L. Tolstoi,
theo chủ nghĩa dân túy, muốn giải phóng nông nô, nhưng bản thân ông vấp phải tư
tưởng bảo thủ và sự phản đối ngay trong chính gia đình mình, đó là người vợ của
ông, vì bà này vẫn muốn duy trì chế độ nông nô...
Khác với ông, nhà văn M. Gorky (tác giả của Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học
của tôi, Bài ca chim ưng, Người mẹ...) quyết liệt đi theo tư tưởng cách
mạng bôn-sê-vich của lãnh tụ V.I Lenin, song ông cũng có những cấn cá và giữ
quan điểm riêng về học thuyết mà họ cùng theo đuổi. Nghe nói, giữa ông và V.I
Lenin tuy yêu quý và rất tôn trọng nhau, nhất trí với nhau về cơ bản, song cũng
khác nhau về một số luận điểm học thuyết mà họ cùng theo đuổi, nên hễ mỗi khi họ
có cơ hội bên nhau là dễ xảy ra tranh luận... Trước đó đúng 6 năm, vào một ngày
hè đầu tháng 6 năm 2017 tôi đã từng đến thăm trang trại Isnaia Poliana của ngài
L. Tolstoi, viếng ngôi mộ cỏ xanh giản dị của ông tại trang trại này và ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ mà ngày xưa
ông vẫn hay ngồi tựa của suy ngẫm, nên thêm phần kính trọng con người tài năng,
có tâm hồn vĩ đại và tấm lòng nhân ái ấy,... Tôi cũng đã đi từng phòng căn nhà
sơn xanh hai tầng, nơi xưa kia L. Toltoi
chấp bút tiểu thuyết nổi tiếng “Chiến
tranh và hòa bình” của mình. Tôi vô cùng ấn tương phòng đọc sách của ông,
để biết rằng từ hồi ấy, ông đã đọc sách “Đạo
đức kinh” của Lão Tử và đánh giá rất cao tư tưởng của triết gia cổ đại
Trung Quốc này. Thú vị nữa, LTolstoi đã viết sách A,B,C với ý đồ và mong muốn
cải cách giáo dục cho nước Nga khi đó quá lạc hậu với châu Âu Mỹ. Những câu
chuyện ngụ ngôn do ông chấp bút (như Rùa
và thỏ, Lừa và ngựa, Sư tử và chuột,
Con quạ và cái bình, Kiến và chim bồ câu, Thằng nói dối, Người làm vườn và những đứa con trai, Đôi bạn đường v.v...) vô cùng giản dị, gần gũi, hài hước, dí dỏm,
thông minh và dễ hiểu về những con vật xung quanh đời sống con người hàng ngay
trở thành các bài học đáng ghi nhớ và bổ ích cho chúng ta. Với L.Tolstyoi,
thiết nghĩ, tư tưởng xã hội về giải phóng nông nô và các tác phẩm của ông như Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Phục sinh... đã khiến ông thành con người vĩ đại rồi.
Bức ảnh thứ 2, tôi lấy từ trang mạng Hà Nội, ảnh chụp Đại tướng Võ
Nguyên Giáp ngồi bên nhạc sĩ-nhà thơ-họa sĩ Văn Cao. Không rõ bức ảnh được chụp
ở nhà vị đại tướng hay nhà Văn Cao, sau lưng họ có một bức thư pháp Hán tự rất
đẹp. Nhưng với chai rượu để trước mặt và bức thư pháp Hán tự mà theo đồ đoán
của tôi có thể do Tào Mạt, hoặc Nguyễn Văn Bách thủ bút, thì cuộc gặp gỡ này
tại nhà Văn Cao? Tự suy luận thế nhưng khi tìm hiểu thêm thì được biết, bức này
ấy được nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán chụp tại nhà riêng của Văn Cao ở phố Yết
Kiêu, Hà Nội trong một lần vị Đại tướng đến thăm ông. Đây là hai tài danh của Đất
Việt ở thế kỷ 20. Khác nhau về vị trí công việc, về thân phận chính trị và sự
ảnh hưởng xã hội..., song cả hai con người này kết quả cuối cùng đều đi đến
thành công, tuy có gặp những trắc trở và mang nỗi đau đời riêng có.
Bức ảnh thư 3, tôi lấy từ trang cá nhân của Nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam chụp cảnh Đoàn nhà văn Việt Nam ngồi ở phòng
chờ thuộc lãnh thổ Jordani để làm thủ tục nhập cảnh vào lãnh thổ Palestine.
Trong ảnh là vị chủ tịch Hội nhà văn Paletine cũng các thành viên trong đoàn (nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trần Hữu
Việt, nhà văn Bích Ngân và nhà văn Nguyễn Bình Phương). Nhà thơ Nguyễn
Quang Thiếu cầm máy nên ông không có mặt trong khuôn hình.
Họ đều là các cây bút có tiếng ở Việt Nam, đều đang làm báo, nên mỗi người có
suy nghĩ riêng và thể hiện bằng tác phẩm của mình ngay trong và sau chuyến đi.
Mọi người sẽ được đọc, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chớp nhoáng chia sẻ một số
hình ảnh và phần nào hé lộ suy nghĩ của ông bằng các tút ngắn trên Facebook cá
nhân (về hàng rào thép gai, về món cá
trong bữa ăn, về dòng sông Jordan nơi Chúa rửa mặt, về cây ô liu đơn độc trên
mảnh đất khô cằn...) và sau đó là những sáng tác thơ theo nhau ra đời. Song
le, đây là vùng đất đặc biệt, và có lẽ đặc biệt từ thởi mở đầu Công lịch với sự
xuất hiện của Đức Chúa Jesus. Hơn hai ngàn năm qua, vùng đất này hầu như chẳng
mấy yên hàn bởi các cuộc chiến liên miên nguyên do từ mâu thuẫn tôn giáo, sắc
tộc và nguồn nước,... Chẳng hiểu, các nhà văn, nhà thơ khác cùng đoàn nghĩ gì,
chứ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi biết, cùng với những gì mắt thấy tai nghe ở
vùng đất đặc biệt này (vùng đất của Chúa
và của những con người khát vọng tự do) , ông còn bận lòng bởi quá khứ, ấy
là mấy cuộc chiến đổ máu và hy sinh mà mình từng tham gia, chiến trường
Campuchia và cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Biển Đông,... Bởi ngay
trước đó, trong cả chuyến đi, trên đường ông cùng Đoàn Nhà văn Việt Nam sang
thăm Palestine, Trần Đăng Khoa và tôi (Nguyễn Chu Nhạc) vẫn trao đổi qua mạng
xã hội, bàn luận quanh một bài viết của tôi- “Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, chuyện ngoài truyện",
khiến ký ức của ông nổi sóng !?...
P/S:
May mắn cho đoàn nhà văn Việt Nam đến vùng đất chết đã trở về không sứt mẻ, bởi
chỉ sau chuyến đi ấy không lâu, những ngày đầu tháng 10 này (2023), cuộc chiến
giữa Israel và tổ chức Hamas (phong trào
kháng chiến Hồi giao) đã nổ ra gây bao chết chóc cho hai bên cùng dân
Palestine và chưa biết khi nào chấm dứt? Có một sự trùng lặp, cùng thời điểm
này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã cho đăng ký sự trên chuyên đề Mùa thu của ấn
phẩm Viết & Đọc, về chuyến đi
của Đoàn Nhà văn Việt Nam thăm Palestine theo lời mời của Hội nhà văn nước này .
Những gì tai nghe mắt thấy cùng linh cảm của những người cầm bút cho thấy một
bầu không khí bức bối ngột ngạt của sự mất tự do, hé lộ mầm mống chiến tranh.
Bài thơ Trước một bức tường than khóc của ông, đoạn kết đã nói lên tất
cả: “Ngày ngày những tín đồ/ Đến trước Bức tường Than khóc/ Ở Jerusalem / Để cầu xin ân phước / Còn tôi
đến trước bức tường/ Trong bảo tàng một nhà thơ / Để nghe tiếng than khóc / Của
những linh hồn mất Tự Do”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã cảm nhận hơi thở của
thần Chiến tranh, trong bài thơ Qua sông Jordan về thân phận của Đức Chúa và các con chiên của người,
ông viết: “ ... Tôi lặng ngắm dòng sông/
Từng in gương mặt Chúa/ Giờ như vũng trâu đằm/ Dây thép gai vây bủa/ Ở trên cây
thánh giá/ Chúa còn bị hành hình/ Huống chi con của Chúa/ Những kiếp người mong
manh...” .
MƯA XUÂN CỎ MỌC
(Về
trạng nguyên Nguyễn Trực)
1.
Đình tiền sinh thụy thảo,
Tiết tháng giêng mưa xuân. Mưa bay bụi
như rắc phấn. Về quê vợ theo hướng dòng người trẩy hội chùa Hương. Dòng người
xa cuồn cuộn ngược xuôi. Mưa ngày thêm nặng hạt, rồi cứ thế rơi rơi đều đều như
rây bột. Thế này thì ướt áo rồi. Rẽ theo các ngả đường quê, đâu đó phấp phới
bóng cờ hội lại thêm tiếng trống thì thùng, chợt nhớ tới bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, và từng câu
thơ cứ hiện ra :”Bữa ấy mưa xuân phơi
phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rựng vơi đầy…”, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên/ Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh” …
Lòng tự hỏi, quê mùa giờ còn mấy cô gái được như thế? Nghĩ rồi lại thấy man mác
buồn. Một nỗi buồn khi ý thức được những cái quý giá đang mất đi mà mình không
có cách gì để níu kéo, kìm giữ. Nỗi buồn ấy cứ len lỏi trong lòng khi thắp
hương tưởng nhớ trước mộ các tiền nhân. Cái lẽ sinh, lão, bệnh, tử của đời thì
vô tư mà con người lại hay nặng lòng, day dứt. Thế hệ trước thường là hay trách
cứ thế hệ sau cứ mải miết chạy theo cái mới mà không chịu quan tâm bảo tồn tập
tục, phong vị cũ. Thế hệ trẻ nhiều người lại cho rằng lớp già cổ hủ, cứ lo ôm
lấy cái cũ, chẳng chịu thay đổi ?…Cái gì còn thì sẽ còn, cầu trời phật vậy,
song cơ bản vẫn phải từ ý thức của con người !...
Xã Tam Hưng (Thanh Oai, Hà Tây), hai
làng hai ngôi chùa lớn. Chùa làng Hưng Giáo (Hưng
Phúc tự) bên này mới tu sửa, mang dáng dấp của những ngôi chùa phương
Hội chùa làng còn chưa mở. Vào chùa
Đại Bi bằng cửa hậu .Chùa vắng tanh, phần vì còn chưa đến hội, phần vì chùa dở
trùng tu, phần thêm trời đang mưa, nên đường đất lép nhép, nên người ta ngại
chăng? Tha thẩn nhang đèn, hết ngắm nghía các pho La hán lại lẩm bẩm đọc những
bức đại tự và đôi ba câu đối. Chữ nghĩa nhà Phật và các bậc tiền nhân sâu xa
không dễ hiểu ngay được. Trùng tu, tốn kém thế song không khéo lại làm mất đi
cái cổ kính và hồn cốt tâm linh xưa mà thay vào đó là sự phô trương lòe loẹt ?
…
Chợt nhớ, đây là quê hương của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực,
người tên đứng đầu trong toàn bộ văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà
Nội. Nghe đâu ông đậu trạng nguyên khi mới 26 tuổi trong khoa thi hội đầu tiên
của thời Lê sơ- dưới triều Lê Thái Tông, cách chúng ta hơn 500 năm. Ông là
người tài giỏi và có khí tiết nổi tiếng trong lịch sử, làm thơ viết sách đủ cả
nhưng rồi thất lạc gần hết, chỉ còn mấy bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục mà thôi. Lại có cả chuyện ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, rằng sau khi đỗ
đạt làm quan, được cử đi sứ Trung Hoa gặp khoa thi bên ấy bèn xin ứng thí và
cũng đậu trạng nguyên. Chuyện này khiến tôi phân vân, đồ chừng chỉ là giai
thoại dân gian, chứ chắc gì sự thât lịch sử. Thôi thì đành đợi lúc nào ngày
rộng tháng dài sẽ để tâm truy nguyên xem thực hư ra sao ?
Ngoài trời mưa xuân vẫn như rây bột,
đều đều, rơi rơi… Những mảnh mạ non mỡ màng, những vạt cỏ non lấm tấm đón mưa,
những tiếng vặt diệt, tiếng tát nước
thì thòm và biết bao thanh âm của đồng quê, vừa bình dị gần gũi vừa như báo
hiệu điềm lành !...
Thấp thoáng một câu thơ cổ “Đình tiền sinh thụy thảo… “, được hiểu
nôm na là Trước sân cỏ mọc báo điềm lành…
Ừ… vẫn mưa xuân, cỏ mọc !... Lòng thấy
bình yên, ấm áp!...
2. Nguyễn Trực, có phải là lưỡng quốc
trạng nguyên ?
Lần lữa mãi, sau đận thăm chùa làng Bối Khê (Đại Bi tự) hồi giêng hai năm Canh Tuất,
tôi cũng lần giở sử sách để tìm xem sự nghiệp văn chương của Trạng nguyên
Nguyễn Trực, nhất là chuyện có đúng ông là Lưỡng quốc trạng nguyên hay không ?
Bắt đầu bằng cuốn Từ điển các nhân vật lịch sử Việt
Tra một cuốn khác, sách Các nhà khoa bảng Việt
Cả hai sách này, thì một cuốn nhắc đến
chuyện Nguyễn Trực đi sứ nhà Minh và có họa thơ với nhau, song tuyệt nhiên
không thấy nhắc tới việc ông gặp khoa thi bên Trung Hoa và xin thi rồi đậu
trạng nguyên, để rồi nhân gian tôn vinh là Lưỡng
quốc trạng nguyên. Về tên sách của ông viết ra thì chép khác nhau. Xin bàn
thêm việc này ở phần sau.
Nhưng hai cuốn đó là sách biên soạn
thời nay, nên có thể các tác giả đã lược bớt đi cho ngắn gọn để phù hợp với
tiêu chí cuốn sách. Vậy sách cổ có thể ghi chép chi tiết hơn chăng ?
Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của
Lê Quý Đôn (bản in năm 2007 của Viện Sử
học , NXB Văn hóa thông tin) , trong phần Chế độ khoa cử, có thấy nhắc đến khoa thi Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3,
1442 một cách sơ lược, song bù lại có phần bao quát hơn "... Sĩ tử ứng thí 450 tên, lấy 33 người
trúng tuyển, qua tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban cho ăn yến, mũ áo, cân đai và
cho vinh qui về làng.Việc này bèn định thành thể lệ ...". Có một thông
tin hay, ấy là kể từ khoa thi ấy mới định ra thể lệ thi cử như ta biết về khoa
cử phong kiến Việt
Vậy có chuyện Nguyễn Trực thi đậu
trạng nguyên trên đất Trung Hoa không ? Bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú (bản in năm 2007 của Viện Sử học-NXB Giáo
Dục) ở phần Nhân vật chí, quyển VII- người phò tá công lao tài đức, có
phần viết khá kỹ lưỡng về Nguyễn Trực, từ thân thế đến sự nghiệp công lao của
ông. Sách viết : " ... Cha ông là
Thì Trung giỏi về địa lý, thấy ở làng Nghĩa Bang huyện An Sơn có ngôi đất quý,
nhân lấy con gái họ Đỗ người làng ấy và làm nhà ở đấy, mới sinh ra ông ở am núi
Phật Tích. Lúc bé ông thông minh, rộng xem các sách. Năm 12 tuổi giỏi làm văn;
18 tuổi đỗ đầu thi Hương ở Sơn Tây; 26 tuổi đỗ Đệ nhất tiến sĩ tên, đứng đầu về
khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo đời Lê Thái Tông, tức trạng
nguyên mở đầu của nhà Lê... Ông vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp khoa thi, ông
là bồi thần cũng xin thi, nhà Minh lại cho đỗ trạng, nên đời bấy giờ gọi là
trạng nguyên hai nước. Năm Diên Ninh thứ 2 (1445), gặp khi nhà có tang ông xin
về làng. Bấy giờ học trò các nơi theo học kể hàng nghìn người. Sau khi hết trở,
gặp sứ Minh sang, vua sai ông giữ việc
tờ bồi qua lại và làm bài biểu mừng vua Minh lên ngôi, được người Minh khen
ngợi. Khi vua Lê Nhân Tông bị giết, ông làm văn tế, lời lẽ rất thống thiết "...
Như vậy, theo sách Các nhà khoa bảng Việt nam (CNKBVN),
thì trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trực có hai lần đi sứ nhà Minh là
vào các năm Thái Hòa thứ 1 và Diên Ninh thứ 6 . Còn sách LTHCLC thì nói chuyện Nguyễn Trực thi
đỗ trạng nguyên ở Trung Hoa dưới triều Minh song lại không nói cụ thể năm nào.
Nếu căn cứ vào đoạn chép vừa trích từ LTHCLC và thử đồ rằng Nguyễn Trực đi sứ
và dự thi là vào năm Thái Hoà 1 (1443), chỉ một năm sau khi ông đỗ trạng nguyên
Việt. Vậy liệu có xảy ra điều đó không ?
Tra cứu bộ ĐVSKTTcủa Ngô Sĩ Liên (sử biên niên) thấy rằng, năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông
- tương đương với Minh, Chính Thống thứ 7) là một năm thật đặc biệt với rất
nhiều sự kiện trọng đại liên quan đến lịch sử nước Việt. Lựa chọn, liệt kê một
số sự kiện trong năm này dể thấy được sự kinh
thiên động địa của nó :
- Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442). Mùa
xuân, tháng giêng, làm cung điện mới .
- Tháng 3, thi hội các nhân sĩ trong
nước, cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập
đệ, bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ
đồng tiến sĩ xuất thân. Lại sai dựng bia làm văn đề tên. Tiến sĩ được dựng bia
ghi tên bắt đầu từ đây. (như vậy là sử
gia nổi tiếng Ngô Sĩ Liên, tác giả của bộ sử trứ danh Việt Nam - ĐVSKTT , đỗ tiến sĩ tại chính khoa thi
này).
- Mùa thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng tử
Tư Thành sinh (sau này là Lê Thánh Tông,
vị vua nổi tiếng hiền tài trong lịch sử Việt
- Ngày 27 (tháng 7) vua đi tuần về
miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự chùa Côn Sơn, ở
hương của Nguyễn Trãi.
- Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến
vườn Lệ Chi huyện Gia Định (nay là huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), bỗng bị bệnh ác rồi băng... Mọi người đều nói là
Nguyễn thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi)
giết vua.
- Ngày 12 (tháng 8)... tôn Hoàng thái
tử Bang Cơ lên ngôi (tức vua Lê Nhân
Tông). Bấy giờ mới 2 tuổi. Lấy sang năm làm Thái Hòa năm thứ1 (tức năm 1443).
- Ngày 16 (tháng 8), giết Hành khiển
Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn thị Lộ, giết đến ba đời (vì bị gán cho tội âm mưu giết vua).
- Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước
Minh. Đồng tri Hải Tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và Thiêm tri thẩm hình viện Đỗ Thì
Việp sang tạ ơn cho mũ áo; Thị ngự sử Triệu Thái sang tâu việc địa phương Khâm
Châu; bọn Tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang; Tham tri Lê
Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu
sang cầu phong.
Sau một năm đầy biến cố như thế, khi
Lê Nhân Tông lên ngôi đã đổi niên hiệu là Thái Hòa, năm thứ 1 (1443), và trong
năm này, ĐVSKTT chép việc bang giao
Việt- Trung như sau :
- Tháng 11, nước Minh sai chánh sứ là
Hành nhân ty hành nhân Trình Cảnh sang tế (hẳn
là tế vua Lê Thái Tông).
- Ngày 25 (tháng 11), nước Minh sai chánh sứ là Quang
Lộ tự thiếu khanh, Tống Kiệt, phó sứ là Binh khoa đô cấp sự trung Tiết Khiêm
sang phong vua (Lê Nhân Tông) làm An
Nam quốc vương.
- Ngày 26 (tháng 11), sai Tham tri bạ
tịch là Trình Dục, Nội mật viện chánh chưởng là Trình Thanh, Hàn lâm viện trực
học sĩ là Nguyễn Khắc Hiếu sang nước Minh tạ ơn việc sách phong.
Như vậy, trong năm này (tức Thái Hòa 1, 1443) chỉ có một đoàn
sứ sang nước Minh, song không thấy có tên Nguyễn Trực. Vả lại, nếu có tham gia
vào đoàn sứ bộ thì ông cũng chỉ là một thành viên trong đoàn không được nêu tên
mà thôi, đơn giản bởi ông vừa mới đỗ đạt, cùng lắm là mới được bổ nhiệm, con
đường quan lại chưa có gì.
Lại xem năm Diên Ninh 6 , là năm mà các tác giả cuốn CNKBVN cho là Nguyễn Trực có đi sứ Minh. Sách ĐVSKTT chép rất tóm tắt quãng thời gian 2 năm tính từ Mậu Dần,
Diên Ninh thứ 5 (1458) đến tháng 9 Diên Ninh thứ 6 với mỗi sự kiện thi hội lấy
bọn Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân. Sự việc chi tiết hơn với sự kiện : mùa
đông, tháng 10, ngày mồng 3 (Kỷ Mão, Diên
Ninh năm thứ 6, 1459), khi Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân làm cuộc chính biến cung
đình, giết chết vua (Lê Nhân Tông) và
cả Tuyên từ hoàng thái hậu. Đến ngày mồng 7, Lê Nghi Dân tự lên ngôi vua, đổi
niên hiệu là Thiên Hưng tính từ ngày mồng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão, 1459).
Trong thời gian ở ngôi vua 8 tháng, Lê Nghi Dân chỉ có 2 sự kiện hoạt động bang
giao với nhà Minh, được sách ĐVSKTT
chép như sau :
- Tháng ấy (tháng 10, năm 1459) Nghi Dân sai Lê Cảnh Huy , Nguyễn Như Đổ,
Hoành Thanh, Nguyễn Nghiêu Tư sang nước Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc
mò ngọc trai.
- Ngày 20 (tháng 10, năm 1459) lại sai bọn Trần Phong , Lương Như Hộc, Trần
Bá Linh sang nước Minh xin phong.
Đến ngày mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (tức Thiên Hưng thứ 2, 1460), Lê Nghi
Dân bị nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt lật đổ, bắt tự thắt cổ chết, rồi lập
Gia vương Lê Tư Thành làm vua (tức Lê
Thánh Tông), niên hiệu được đổi ngay sau đó là Quang Thuận khi Lê Thánh
Tông lên ngôi. Như vậy, đầu năm Diên Ninh thứ 6 khi Lê Nhân Tông còn chấp chính
thì không thấy chép gì về hoạt động bang giao với nhà Minh, đến khi Lê Nghi Dân
cướp ngôi, có cử 2 đoàn đi sứ nhà Minh thì đều không thấy tên Nguyễn Trực. Cứ
cho rằng về sau các nhà biên soạn nhầm cách gọi niên hiệu Thiên Hưng thứ 1 với năm Diên
Ninh thứ 6 (vì cùng là năm 1459 theo công lịch) nên ghi là Nguyễn Trực đi
sứ vào năm Diên Ninh thứ 6 thì cũng
không có gì liên quan đến việc ông đỗ đạt ở bên đó. Giả thiết, ông có tham gia
vào đoàn đi sứ Minh năm ấy, thì cái chuyện ông dự thi và đậu trạng nguyên với
triều Minh là một sự kiện chấn động, chi ít cũng phải được ghi chép trong ĐVSKTT chứ ? Quả thật, không thể tin
nổi, nếu có một sự kiện vẻ vang về uy tín cá nhân mà còn nâng tầm ảnh hưởng tới
danh dự quốc thể nhường ấy, lại bị sử thần Ngô Sĩ Liên, vốn là người thi đỗ
cùng khoa và làm quan cùng thời với Nguyễn Trực lại bỏ qua, không nói đến chút
nào trong bộ ĐVSKTT của mình ?
Liệu có việc ông dự khoa thi với triều
Minh và lại đậu trạng nguyên không, khi mà
ĐVSKTT không hề đả động gì ?
Gần đây, tham khảo bài viết Nguyễn
Trực, tấm gương vê trí học-nhân học của tác giả Phan Tuấn đăng trên Tạp
chí Xưa Nay số 287, tháng 7 năm
2007, có đoạn viết : "Năm 1444 ông (Nguyễn
Trực) cùng bảng nhãn Trịnh Thiết Tường, bạn cùng khoa thi đi kinh sứ Trung
Hoa , gặp khoa thi được mời dự thi, nhật kỳ thú: Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên,
Trịnh Thiết Tường lại đỗ Bảng nhãn. Vì thế lịch sử có ghi hai ông là Lưỡng quốc
trạng nguyên, Lưỡng quốc bảng nhãn. Nguyễn Trực về nước được vua ban 8 chữ :
"Thánh công danh văn. Bắc triều hiền
ngã".
Tra cứu sách ĐVSKTT xem năm 1444 ghi chép gì? Ấy là năm Giáp Tý, Thái Hòa năm
thứ 2 (tương đương Minh, Chính thống thứ
9), thấy có chép việc khảo thí học trò bổ làm thuộc lại các ty; việc gộp
làm sổ đinh ; việc sai Lê Khôi, Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh Chiêm Thành;
việc bắt giam Thái phó Lê Liệt ; việc có động đất, nhật thực, nguyệt thực; và
cuối năm ấy có việc đi sứ nhà Minh. Sách chép là : " Tháng 11, sai sứ sang
nước Minh : Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là
Lê Quát sang cống nộp hằng năm. Tham tri Đông đạo là Nguyễn Lan sang tâu việc địa
giới Khâm Châu". Như vậy không hề thấy tên Nguyễn Trực và Trịnh Thiết
Tường. Không hiểu tác giả bài viết trên lấy tư liệu từ đâu để khẳng định sự
kiện đó? Lại càng khó tin hơn, khi tác giả này có lẽ đã nhầm với Trịnh Khiết Trường. Không có Trịnh Khiết
Tường nào cùng khoa thi với Nguyễn Trực, mà chỉ có bảng nhãn Trịnh Khiết
Trường. Theo sách Các vị trạng nguyên,
bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam của tác giả Trần
Hồng Đức biên soạn (Hội khoa học lịch sử
Việt Nam-NXB Thông tin năm 1999) thì Trịnh Khiết Trường (sau này còn được tuyển làm phò mã) quê
Thanh Hóa đỗ Bảng nhãn khoa thi Mậu Thìn, Thái Hòa năm thứ 6 (1448) triều Lê
Nhân Tông cùng khoa này, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ Trạng
nguyên, Chu Thiêm Uy đỗ Thám hoa), tức là thi đỗ 6 năm sau Nguyễn Trực.
Việc này sách ĐVSKTT cũng nói đến.
Đối chiếu thêm với chính cuốn sách này của soạn giả Trần Hồng Đức, phần về
trạng nguyên Nguyễn Trực, có nói ông từng đi sứ nhà Minh, song không hề nhắc gì
việc ông là Lưỡng quốc trạng nguyên cả.
Cũng có một căn cứ nữa để tham khảo sự
kiện này, đó là sách Hồng Đức quốc âm
thi tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông (NXB
Văn học, 1982). Sách này có bài thơ Điếu
Nghĩa Bang trạng nguyên (Viếng trạng
nguyên làng Nghĩa Bang). Nghĩa Bang trạng nguyên ở đây là chỉ Nguyễn Trực,
bởi ông tuy quê ở Bối Khê, Thanh Oai (Hà Tây), song từ đời cha ông là Nguyễn
Thì Trung, chạy giặc Minh, đã rời sang sinh sống tại Nghĩa Bang, trấn Sơn Tây,
nay thuộc Quốc Oai (Hà Tây) và sinh ra ông ở đó. Bài thơ được phiên âm là :
" Đời dõi nho tông phát
ấp bang
Trong đạo đức, có từ chương
Nối dòng thi lễ nhà truyền báu
Tranh
giải khôi nguyên bảng chói vàng
Phong lưu một cửa họ sang
Từ đường ở đấy niềm tây lạnh
Dấu cũ càng thơm xạ có hương "
Hai câu thơ Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng/ Nam Bắc hai triều danh dậy,
được các tác giả biên soạn sách là Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú giải như
sau : "Nguyễn Trực ở trong nước đỗ
trạng nguyên, khi phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp nhà Minh mở khoa thi, ông
xin vào dự thi, lại được đỗ ca ". Như vậy, cũng chỉ là những lời phán
chung chung thế thôi, chứ các soạn giả cũng không chỉ rõ được là khoa thi năm
nào, đỗ cao thì cụ thể là gì (bởi từ tiến
sĩ trở lên đều coi là đỗ cao). Nếu cứ cho là trong một lần đi sứ nào đó,
nhân gặp khoa thi ông có ứng thí tại một khoa thi dưới triều Minh, rồi đỗ đạt
thật, thì cũng khó có thể là trạng nguyên, bởi Trung Hoa từ xa xưa luôn tự xưng
là Thiên triều, coi các quốc gia lân
bang, trong đó có An Nam chỉ là chư hầu (bằng
chứng là việc các vua Việt Nam thường bị các vua Trung Hoa phong cho là An Nam
quốc vương và ta luôn phải giữ lệ cống nộp hằng năm) , là man di mọi rợ, và
với bản tính tự cao tự đại cố hữu, thì vua Minh cũng chẳng thể chấp nhận việc
cho sứ thần chư hầu đỗ trạng nguyên (mặc
dù họ có thật sự xuất sắc, đáng đỗ trạng nguyên đi chăng nữa).
Thêm nữa, ngay trong phần Lời nói đầu, các tác giả biên soạn HĐQATT cho biết, sách này là một tập
thơ chỉ được sưu tầm về sau, chứ không phải được biên soạn từ thời Hồng Đức, vì
thế ở trong sách có sự lẫn lộn một số bài thơ của người đời sau, chẳng hạn như
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Căn. Điều này làm cho độ tin cậy của sách này ít
nhiều giảm đi, nhất là khi đem căn cứ từ thơ vịnh để suy ra sự thật lịch sử.
Nguyên việc Nguyễn Trực có phải là Lưỡng quốc trạng nguyên không, thì theo
sử cũ, duy có bộ LTHCLC của Phan Huy
Chú là có nói đến, song lại không ghi rõ năm nào, khoa thi nào của triều Minh.
Quả là khó biết, khi biên soạn sách, phần về Nguyễn Trực, tác giả Phan Huy Chú
đã lấy nguồn từ đâu để viết vào sách của mình việc Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên? Cứ căn cứ ngay
chính phần Phan Huy Chú biên soạn thì cũng có thể thấy, về sự kiện đó, tác giả
cũng không tường nên chỉ nói chung chung vậy, chứ không dẫn dụ được năm tháng,
khoa thi xảy ra sự việc đó. Thế nên, khi Ngô Sĩ Liên là người cùng thời đó còn
không viết gì trong bộ ĐVSKTT của
mình, thì ai dám chắc, hơn 300 năm sau, Phan Huy Chú chính xác trong việc ghi
lại sự kiện tày trời đó. Phải chăng,
khi ấy Phan Huy Chú cũng chỉ ghi từ giai thoại dân gian mà thôi.
Có một điểm khá thống nhất, các sách
đều viết rằng Nguyễn Trực là một người sống thanh khiết, không xu thời, lánh xa
vinh hoa phú quý. Hẳn vì thế, nên mặc dù đỗ trạng nguyên, song quan lộ cũng
không mấy hanh thông, lại càng kém hơn so với hai vị cùng khoa là Nguyễn Như Đổ
và Lương Như Hộc. Tìm trong sách ĐVSKTT, người ta có thể thấy được sự
thăng tiến vinh hiển vượt bậc của hai vị kia, thì riêng ông, chỉ được nhắc đến
có 3 lần. Ấy là, vào năm Kỷ Tỵ, Thái Hòa thứ 7, 1449, ông được làm Hàn lâm viện thị giảng; vào năm Canh
Thìn, Quang Thuận thứ 1, 1460, vua Lê Thánh Tông sai ông cùng với Nguyễn Bá Kỳ
soạn văn bia Mục lăng (tức lăng vua Lê
Nhân Tông) ; và vào năm Kỷ Sửu, l469 , vua lấy ông khi đó là Hàn lâm viện thừa chỉ , cùng với Vũ Vĩnh
Ninh, Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm Độc quyển kỳ thi hội năm ấy.
Thật tiếc, tác giả bài viết này chưa
có điều kiện để tra cứu thêm Minh sử (hoặc
những sách và tài liệu khác) nhằm xem các sử gia Trung Hoa có biết gì và
viết ra sao về sự kiện này không?
Thiết nghĩ, trong khi việc xác nhận
Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên
chưa đầy đủ cơ sở, mà việc bác bỏ cũng chưa mấy thuyết phục, thì chúng ta cứ
xem Nguyễn Trực từng là Lưỡng quốc trạng nguyên đi. Âu như một giai thoại dân
gian, như chuyện kể về Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Chân (chuyện dân gian Tống Chân - Cúc Hoa), hoặc giả như rất nhiều những
câu chuyện trạng dân gian khác, và xem đó như một câu chuyện khuyến học, khuyến
tài cho hậu thế. Vậy cũng là hữu ích. Còn như nghiên cứu, viết sách thì lại là
việc làm khoa học, cần nghiêm túc, cẩn trọng và chính xác, nên mong rằng các
học giả hãy thận trọng với sự kiện này khi viết về Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Đã là người thiên cổ, được sử sách ghi
danh, lại xa cách chúng ta những gần 600
trăm năm rồi, hẳn là Nguyễn Trực cũng không vui khi hậu thế tôn là Lưỡng quốc trạng nguyên, mà cũng chẳng
buồn khi không phải vậy !
Về với thiên nhiên, ông như cây cỏ,
mưa xuân thì mọc !...
3. Thơ văn
còn lại những gì ?
Về Trạng nguyên Nguyễn Trực, tôi còn muốn tìm xem
những bài thơ của ông lưu truyền hậu thế. Hy vọng qua đó, phần nào hiểu thêm
con người ông, từ tính cách thanh cao đến tâm trạng xa lánh vinh hoa và muốn
lui về ở ẩn của ông.
Thật may. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần Văn
tịch chí có nhắc đến 3 tập thi văn của Nguyễn Trực, đó là Vu
liêu tập, Ngu nhàn tập, Kinh nghĩa chư văn tân tập, song đều ghi chú là không rõ mấy quyển. Sách này còn
chép : "Trạng nguyên Nguyễn Trực
soạn, học trò biên sắp. Cả tập mất nhiều, nay còn vài chục bài. Lời và ý thanh
nhã đáng ưa". Sách liệt kê 4 bài, nay xin chép cả ra đây để tiện cho
việc tham khảo, bình luận :
Bài 1: Ngẫu tác
Bệnh
thừa ân chiếu hứa lưu kinh
Quy kế như kim nhất vị thành
Hà nhật Tây Sơn sơn hà lộ
Soa y tiểu lạp khán xuân xanh .
(Dịch)
Có bệnh, nhờ ơn vua lưu lại ở Kinh,
Tính đường về mãi mà đến nay vẫn chưa được,
Biết ngày nào được đi con đường ở dưới chân
núi Tây Sơn,
Đội nón nhỏ, mặc áo tơi, đi xem cày ruộng mùa
xuân.
Bài 2 : Bính Tuất ngâm
Đại đình tằng đối tam thiên tự,
Phù thế hư kinh ngũ thập niên,
Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh
Chí nhân đa bệnh ức điền viên.
(Dịch)
Ở sân vua từng làm bài đối sách ba ngàn chữ,
Giật mình về việc đã năm mươi năm trời đuổi
theo
cái hư danh của thời thế,
Chỉ vì lắm bệnh, nhớ cảnh điền viên.
Bài 3:
Đề chùa Cực Lạc (thuộc Ý
Đột ngột vân gian tự,
Nhân sinh kỷ độ qua ?
U nham tàng Phật tích,
Tiếu bích ỷ tăng gia.
Địa viễn phi trần thiểu,
Sơn cao đức nguyệt đa,
Thượng nhân lưu khách túc
Ổi vụ hựu phanh trà.
(Dịch):
Chùa cao chót
vót ở trên mây
Bởi người dễ mấy lần
được đến
Hang sâu dấu vết Phật
Vách núi dựa nhà tăng,
Xa đất nên ít bụi,
Trên cao được trăng
nhiều.
Nhà sư lưu khách lại,
Nướng khoai lại pha trà.
Bài 4 :
Lên chùa Hương Lô
Tằng tằng
đăng nghiễn lộ,
Thừa hứng yết kim tiên,
Diệu khế tam sinh mộng,
Do tồn nhất lũ yên.
Lâu đài phi thế hữu,
Thảo mộc đắc xuân
thiên.
Du mục phù vân ngoại,
Mang mang thị Đại
thiên.
(Dịch):
Tằng tằng đường leo núi,
Thừa hứng lên yết
Phật,
Khéo hợp mộng ba sinh,
Vẫn còn một tia khói.
Lâu đài này không phải
người trần có được,
Cỏ cây lúc nào cũng
mùa xuân.
Đưa mắt ngoài mây nổi,
Mông mông ấy thế giới Tam thiên.
Có lẽ trong số 6 bài thơ còn lại được chép trong bộ Toàn Việt thi lục (TVTL) có 4 bài này.
Nhìn chung, đều mang tâm trạng muốn rời xa chốn quan trường lui về ở ẩn chốn
sơn lâm, chữa bệnh, tu dưỡng tinh thần, nuôi dạy con cái, gõ đầu trẻ, và chăm
lo việc thiện.... Cũng có thể xem như thái độ "trốn việc quan đi ở chù " vậy .
Học giả Phan Huy Chú sau khi dẫn dụ rằng, đến thời
Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, nhờ văn chương nên Nguyễn Trực càng được vua
yêu, được bổ làm quan to (Tuyên phụng đại
phu, Trung thư lệnh), song ông vẫn mấy lần xin về ở ngôi nhà tranh ở Tây
Sơn mà vua không cho, nên mới có gửi gắm nỗi niềm tâm sự vậy. Qua đó, Phan Huy
Chú bình : "Xem đấy đủ rõ phong độ
và tiết tháo của ông ". Sách dẫn tiếp : "Ông đỗ đầu đại khoa, ra
làm quan mà coi rẻ công danh, thường có ý muốn chóng về. Thân Nhân Trung (một
thành viên trong Nhị thập bát tú ,
Phó súy Tao đàn thời Hồng Đức) có
khen ông là: Lấy văn chương được các
triều tri ngộ mà khiêm tốn kính cẩn giữ vẹn sau trước . Thực là lời phê
bình xác đáng ".
Quả là sau những lời bình của các bậc
danh tài túc nho như vậy, há không cần bình phẩm gì thêm. Tuy nhiên, nếu truy
nguyên để bồi đắp thì hẳn cũng không thừa ?
Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn , quyển V-Tài phẩm, thấy chép về Nguyễn Trực : "Nguyễn Trực đỗ
trạng nguyên lúc còn ít tuổi, giao thiệp đối đáp với sứ nhà Minh là Hoàng Gián,
một lúc họa xong 50 vần thơ lưu biệt, có thể giữ được thể diện trong nước. Nhân
Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà vẽ tượng truyền thần, để ở bên cạnh chỗ
ngồi, để tỏ ra rằng không lúc nào quên được. Thánh Tông sai người đem bộ Thiên
Được những hai vị vua sủng ái như vậy
thì cũng là hiếm, vậy sao ông vẫn muốn sớm cáo bệnh lui về ở ẩn với nếp sống
thanh nhàn? Phải chăng, ngay chính năm ông đỗ trạng nguyên thì đã xảy ra liên
tiếp các sự kiện kinh thiên động địa như đã liệt kê ở phần 2) khiến ông sớm
kinh hãi rồi sinh chán ngán chốn quan trường? Tài danh và công lao nhất mực như
Hành khiển Nguyễn Trãi còn bị vu oan tru di đến 3 đời; các công thần từ thời Lê
Thái Tổ thì tranh giành quyền lực, thanh toán lẫn nhau theo cái lối do chính
Thái Tổ sử dụng là hết thỏ thì đập chó
săn; rồi các phi tần thì ngấm ngầm lôi kéo quan lại và nội thị kết thành bè
cánh tranh giành ảnh hưởng nhằm tiêu diệt nhau để ngoi lên? Ngay trong triều,
thấy những quan lại đồng khoa, và sau mình (như
Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc, Nguyễn Nghiêu Tư...) thăng trầm quan lộ, có
thể làm ông ngán ngẩm?
Lại nữa, cũng có phần ông chịu ảnh
hưởng di truyền và cả sự dạy bảo từ các bậc tiền bối, nhất là cha mình, Nguyễn
Thì Trung vốn là Giáo thụ trong Quốc Tử Giám? Sách KVTL, học giả Lê Quý Đôn chép về người cha của Nguyễn Trực:
"Nguyễn Thì Trung, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, dưới triều nhà Trần,
ông tổ tên là Hữu, giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm hình viện sứ, cha tên
là Bính, giữ chức nho học Huấn đạo. Thì Trung là người có văn học, nối dõi được
gia phong... Sau khi Thái Tổ đã bình
định được cả nước, hào kiệt, nho sinh, văn sĩ các lộ đều tranh nhau đến bái
yết, kẻ trước người sau đều được trao cho quan chức, chỉ có Thì Trung có ý nhạt
nhẽo không cầu hiển đạt làm quan. Đến đầu triều Thái Tông, hạ chiếu tìm hỏi
những hiền tài còn bị bỏ rơi, nghe biết ông là người có văn học đức hạnh, nhà
vua ra đặc chỉ tuyên triệu, hạ lệnh cho sở tại cố khuyên mời ông đến kinh sư,
cho giữ thư khố ở Quốc Tử giám, mùa thu năm thứ 2 (1435) nhà vua ngự điện Hội
Anh, ra bài thi, ông dự thi được trúng cách, cho thăng một tư, giữ chức Thị thư
ban, sau thăng chức Giáo thụ trong Quốc Tử giám. Chưa được bao lâu, liền xin
thôi làm quan, lui về ở chốn lâm tuyền, giảng sách dạy con, vui vẻ tự do, xa
gần nhiều người theo học. Lúc mất, đặt tên thụy là Như Ngu cư sĩ (chữ Ngu ở đây được hiểu là sự yên vui - TG
)... Văn chương của Nguyễn Thì Trung tuy không lưu truyền hết, nhưng xem
bài thơ tiễn viên giáo thụ họ Trình về trí sĩ và một bài khi ông về trí sĩ lưu
lại để từ biệt viên giám sinh họ Hồ cũng có thể tưởng tượng biết được phong vận
thơ văn của ông ".
Đã rõ ràng, qua phần chép và bình phẩm
của Lê Quý Đôn, ngay từ trứng nước, Nguyễn Trực đã thừa hưởng di truyền tố chất
để làm nên bản tính thanh cao từ bậc cha ông, thêm vào đó, sự dạy dỗ tận tình
của người cha đã sớm định hình phẩm chất cao quý trong con người Nguyễn Trực.
Không những ông không xu thời và biết xa lánh bả quyền quý vinh hoa, Nguyễn
Trực còn có một phẩm chất đáng quý khác là ông không đố kỵ, biết tôn trọng và
nâng đỡ người khác, kể cả khi họ chỉ là bậc dưới về mọi phương diện. Sách KVTL
của Lê Quý Đôn chép :"Lê Hoằng Dục, con Thái phó Lê Văn Linh, học vấn rộng
khắp đầy đủ, thơ từ thanh cao phóng khoáng... thường cảm hứng làm 10 bài thơ Giang thành ngẫu thành, lúc Thánh Tông
còn ở phủ đệ phiên vương, lấy làm thích lắm, theo vần họa lại, sau khi lên ngôi
vua hạ lênh cho từ thần là Nguyễn Trực phê bình, phần nhiều khen ngợi
...". Cũng sách này còn chép: "Bản triều lại có Nguyễn Bảo (người xã Phương Lai, huyện Vũ Tiên, nay
thuộc Thái Bình) đỗ tiến sĩ khoa
Nhâm Thìn (1472) niên hiệu Hồng Đức. Trung thư lệnh là Nguyễn Trực yêu thích
văn chương của Nguyễn Bảo, tìm đến xem mặt và nói : ‘Già này chấm văn kỳ đệ nhị, mãi sau được chấm bài của ông, về lời lẽ
bài chiếu "phục lập phó bí"
(dựng lại bia đã đánh đổ , tài tình ở chỗ
nói rõ được bụng ăn năn hối lỗi của Đường Thái Tông, các sĩ tử không thể theo
kịp được, già này nêu rõ ra là bài ấy đứng vào hàng văn kiệt tác. Từ nay về
sau, nghĩa lý trong Kinh sách thánh hiền, ký thác vào ông cả"... Quả
nhiên, sau này Nguyễn Bảo rất hanh thông về quan lộ, thăng đến chức Thượng thư
bộ Lễ, giữ chức ở viện Hàn lâm dưới triều Lê Hiến Tông, có đóng góp nhiều cho
triều chính.
Truyền thống nho gia nhiều đời tiếp
nối qua ông đến tận con cháu. Cháu ngoại của Nguyễn Trực là Nguyễn Ích Tốn, hẳn
là được thừa hưởng từ ông ngoại mình không những sự di truyền mà cả sự giáo
dưỡng. Nguyễn Ích Tốn đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 15 (1483), cũng là một thành
viên trong Nhị thập bát tú của Tao đàn
do chính Lê Thánh Tông làm chủ súy dưới thời Hồng Đức (Theo sách Hồng Đức quốc âm thi tập - NXB Văn
học,1982).
Có một việc, theo tôi cũng nên xác
định cho rõ, đó tên tác phẩm của Nguyễn Trực được các sách chép khác nhau.
Không kể các tác phẩm Ngu Nhàn tập, Kinh nghĩa chu văn tân tập, và văn bia Mục lăng (soạn cùng Nguyễn Bá Kỳ theo
lệnh của vua Lê Thánh Tông) thì tên một thi văn tập khác của ông lại được chép
khác nhau. Cụ thể là :
- Vu liêu tập (Theo sách LTHCLC của Phan Huy Trú).
- Trừ liêu tập (Theo sách Từ điển các nhân vật lịch sử Việt
- Hu liêu tập (Theo sách Các nhà khoa bảng Việt
Thậm chí, có sách còn chép là Sư
liêu tập. Vậy thì tên gọi nào là đúng? Rất tiếc là phần lớn các sách,
khi biên soạn xuất bản, đều không kèm mẫu tự chữ Hán, mà chỉ có tên Hán Việt
phiên âm mẫu tự Latin, nên thật khó tra cứu. Trong số các sách dẫn ra đây, duy
bộ Các nhà khoa bảng Việt Nam là có
in kèm tên bằng mẫu tự chữ Hán (chép đủ cả tên chính Nguyễn Trực, tên tự Công
Đĩnh, hiệu Hu Liêu, tên tác phẩm- Hu Liêu tập). Căn cứ vào mẫu tự chữ Hán, tra
cứu Từ điển Hán Việt của Đào Duy
Anh, thì không phải là Hu, mà phải đọc là Vu
(chỉ tên một loài cây xấu, không dùng làm
được việc gì, còn có nghĩa bóng để chỉ loại người vô dụng) ; còn chữ Liêu,
cũng theo từ điển nêu trên, có nghĩa là cửa
sổ nhỏ-mà cũng chỉ việc làm quan cùng nhau (ví như : đồng liêu - cùng làm quan với nhau ).
Nếu căn cứ vào đó, thì tên hiệu của
Nguyễn Trực là Vu liêu (chứ không phải
là Hu Liêu). Có lẽ đây là một
cách lấy tên hiệu kiểu tự biếm, tự nhận mình là người vô dụng, thể hiện bản chất khiêm nhường, muốn xa lánh chốn
đình trung của Nguyễn Trực chăng? Cùng với hiệu là Vu liêu, thì tác phẩm là Vu
liêu tập. Điều này đúng với cách gọi trong sách LTHCLC của Phan Huy Chú ./.
THÁI SINH -
“Chưa bao giờ ta lại thèm viết như lúc này...”
Đây là những dòng tâm sự nghẹn lòng của nhà văn Thái
Sinh trên giường bệnh trong thời gian ông chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo,
ung thư mật giai đoạn cuối. Khi sức lực đã yếu, một lần ông để lộ sự ngã lòng
viết trên trang cá nhân: “Chưa bao giờ ta
lại thèm viết như lúc này. Đầu óc đầy ắp tư liệu, nhưng bàn tay không chịu sự
điều khiển. Muốn khóc mà không khóc được. Ông trời còn hành ta dến bao giờ?”.
Ngã lòng vậy, đương nhiên, khi một người thấy cái chết dần đến gần mình mỗi
ngày, nhưng rồi Thái Sinh lại tự vực mình dậy, khi dẫn lời bạn bè báo chí văn
chương đến thăm ông động viên: “....
Hoàng Anh bảo, Thái sinh là người không sợ trời không sợ đất thì chiến thắng
bệnh tật là chuyện bình thường” ...
Lần
giở những ngày tháng Thái Sinh giành giật với cái chết mỗi ngày khi ông gắng
gượng gõ máy tính trên giường bệnh, rút ruột gan viết những trang văn cuối đời
mình, chân dung bạn bè văn nghệ sĩ từng một thời gian khó cùng ông,...
Tôi
nhớ, vào quãng giữa năm 2021, khi dịch Covid 19 còn mù trời, Tạp chí Nhà văn & cuộc sống (Hội Nhà
văn Việt nam) phát động cuộc thi viết Chân
dung cuộc sống, tôi gọi điện thông báo và đặt bài Thái Sinh, ông hào hứng
nhận lời nhưng rồi ỉu xìu ngay, bảo “Tôi đang có vấn đề về sức khỏe ông ạ....
Nhưng tôi sẽ gắng,... dự thi chỉ là một chuyện thôi, song viết được gì cũng là
viết cho mình, cho anh em bạn bè nữa ...”.
Bẵng đi, rồi tôi nhận bài viết của Thái Sinh, kèm ảnh,
về nhà thơ dân tộc Pa Dí, Pờ Sảo Mìn. Tôi đọc thấy thích, chuyển bộ phận biên
tập chung nhưng lâu không thấy xếp số (có lẽ do bài về nhiều quá), tôi đành
phải khiếu đến nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tập, nhắc nhở, bài mới vào số.
Ít lâu sau, tình cờ mục sở thị nhà thơ Pờ Sảo Mìn về xuôi, ghé thăm tòa soạn,
tôi gặp ông nhà thơ này, ngẫm chân dung Thái Sinh phác họa Pờ Sảo Mìn, thấy thú
vị làm sao,...
Tôi
biết tên tuổi nhà văn Thái Sinh lâu rồi, thời Thái Sinh mới về đầu quân báo Nông nghiệp Việt Nam (NNVN), còn tôi khi
ấy cũng là cộng tác thưòng xuyên của tờ báo này. Rồi chạm mặt, gặp loáng thoáng
vài ba lần ở Trụ sở tòa soạn trên phố Ngô Quyền, Hà Nội mỗi dịp họp hành hay
tổng kết cuối năm gì đấy. Thú thật, khi đó tôi chưa mấy đọc văn Thái Sinh, nên
không bàn chuyện văn thơ, tuy nhiên, những bài phóng sự, ký sự về miền núi Tây
Bắc của Thái Sinh gây ấn tượng tốt với tôi. Tôi nể Thái Sinh, trước hết bởi sự
dấn thân, từng trải, hiểu biết vùng đất và con người Tây Bắc, còn bởi tính
nghiêm trọng của vấn đề đặt ra, cùng hái độ, trách nhiệm cảu người cầm bút.
Cùng là dân làm báo chuyên nghiệp với nhau, đọc dăm bài báo của nhau là “ngửi”
ra ngay cái chất của người viết, để rồi nể trọng hay không. Thế đấy. Và tôi
thực sự nể trọng Thái Sinh với tư cách người làm báo. Tôi có tìm hiểu thêm về
Thái Sinh, qua người bạn học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh (Phó Tổng biên tập Báo NNVN), biết Thái
Sinh từng làm việc ở Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái),
rồi báo Lào Cai trước khi về đầu quân giữ chân thường trú Báo NNVN khu vực Tây
Bắc. Xa hơn nữa, khi còn trẻ, Thái Sinh là giáo viên lên vùng núi Than Uyên,
Lai Châu dạy học, dù quê ở Phúc Thọ, Hà Tây,...
Ngày
ấy, Thái Sinh thuộc những người cầm bút trẻ, như tôi, vả lại người viết văn
chưa đông như bây giờ, nên mỗi khi ngó thấy trên báo chí có cái tên mới là dọc
kỹ, đặng thầm so sánh với mình, với người này kẻ nọ, hoặc học lỏm của nhau,...
Năm 1993, tôi xuất bản tập truyện ngắn đầu tay “Đêm nguyệt thực” (NXB Hà
Nội,1993) vào giải cuộc thi truyện ngắn về đề tài Hà Nội, thì Thái Sinh bắt đầu
nổi lên khi giật giải Nhì cuộc thi truyện ngắn (dưới 1.000 từ) của Thế Giới
Mới với truyện Thuyền Lá. Tôi nhớ không nhầm, kỳ thi ấy Phan Thị Vàng Anh (ái nữ của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ
Thị Thường) giành giải Nhất với truyện Hoa Muộn thì phải. Thú thật, cuộc
thi ấy tôi lưỡng lự muốn dự thi, nhưng rốt cuộc lại thôi. Thế nên, tôi đọc kỹ
mấy tác phẩm giải cao ấy lắm, bụng thầm nể trọng. Cái tên Thái Sinh in vào đầu
tôi từ đấy,...
Cuộc
sống bận mải, tôi có thấy đâu đó truyện củaThái Sinh trần báo, nhưng cũng ít
đọc, ngoài những phóng sự, ký sự đăng trên báo NNVN nơi ông là phóng viên
thường trú, biết ông vẫn túc tắc viết văn (truyện ngắn, tiểu thuyết) và làm
thơ. Mãi đầu năm 2018, trong một đám cưới ở Hà Nội, tình cờ, chúng tôi ngồi
cùng mâm với nhau, tôi giữa Thái Sinh và nhà văn Văn Chinh. Vài lần cụng ly câu
chuyện của chúng tôi thêm phần cởi mở. Sau cuộc gặp mặt mấy, tôi và Thái Sinh
kết bạn “mạng xã hội” và kể từ đó, hai người đọc nhau khá đều, ghi comment,
thích thì chat messinger, lâu lâu lại alo buôn chuyện này nọ. Thái Sinh có hai
trang trên Facebook, một tên Thái Sinh
và một tên Thao Dan Nguyen và chịu
khó lên bài đều cả hai. Điều này cho thấy ông rất tích cực sử dụng mạng xã hội
và hiểu rõ công dụng của chúng. Cùng về hưu, nhưng cả hai cùng làm thêm, Thái
Sinh vẫn bám trụ vùng Tây Bắc cho Báo NNVN, còn tôi thì làm cho VTC (Đài truyền hình kỹ thuật số), rồi trang
Web và Tạp chí Nhà văn & cuộc sống
của Hội Nhà văn Việt Nam. Cùng với văn chương, chúng tôi có nhiều chuyện khác
để nói . Quãng thời gian này, Thái Sinh túc tắc đăng tải “Chuyện làng Tào” trên
trang cá nhân. Ở đó, các câu chuyện được kể bằng giọng văn châm biếm, hài hước
và chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên bức tranh rất sinh động về
một làng quê Bắc bộ, đâu như làng Ngọc Tảo quê ông chẳng hạn... Đọc ông nhiều,
tôi dần nhận ra và thêm hiểu chất văn, chất người Thái Sinh,...
1. Khát vọng văn chương & Sự dấn thân,
Rời
quê, Ngọc Tảo. Phúc Thọ, Hà Tây, một vùng đất trù phú đậm đặc trầm tích văn hóa
đồng bằng Bắc bộ. chàng trai trẻ Nguyễn Đình Sinh (tên thật của Thái Sinh) lên
Than Uyên, Lai Châu xa tít mù, làm nghề gõ đầu trẻ, hẳn khi ấy, chẳng bao giờ
chàng trai trẻ này nghĩ mình trở thành nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp.
Để nên
một Thái Sinh, như chúng ta biết, con người và tác phẩm, tôi nghĩ, có hai yếu
tố cơ bản, khát vọng văn chương và sự dấn
thân. Thái Sinh đã đi theo con đường, cái cách mà các bậc đàn anh lớp trước
đã đi, những thầy giáo miền xuôi lên vùng cao dạy học, như Vũ Đình Minh, Bùi
Nguyên Khiết, Nguyễn Thái Vận,... Dạy học, đương nhiên là một nghề cao quý, xã
hội xưa nay vẫn tôn vinh. Nếu chỉ đơn thuần lập thân, lập nghiệp, vậy là ổn,
song khát vọng văn chương (lập ngôn)
lại thôi thúc tâm can. Chẳng đành lòng và thế là thầy giáo trẻ Nguyễn Đình Sinh
cầm bút. Dấn thân thôi. Nuôi mộng văn chương, ấy là khao khát nội tâm, nhưng
với Thái Sinh khi đó còn là chiếc cầu duy nhất nối người thầy giáo trẻ miền
xuôi lên miền ngược này với đời sống xã hội bên ngoài,... Chỉ có viết văn, bằng cách này, thầy giáo Nguyễn Đình Sinh mon men dần sang nghiệp văn
chương, báo chí. Quả nhiên, chàng ta đạt được mục đích. Chẳng rõ, Thái Sinh có
yêu nghề gõ đầu trẻ hay không, nhưng chắc chắn không ghét nó. Chẳng qua, công
việc đó ít nhiều bó buộc chân cẳng, không thể đi xa, nên đành rời bỏ thôi. Người
ta có thể quên những truyện ngắn thuở ban đầu của cây bút trẻ Thái Sinh như “Con sáo biết nói”, “Người ngồi trước tôi hai hàng ghế”, “Rừng có nhiều hoa cúc dại”... song khó có thể quên “Thuyền lá”, cái truyện ngắn dưới một
ngàn từ đoạt giải cao một cuộc thi truyện ngắn đặc biệt, khiến độc giả biết đến
tên Thái Sinh. Thông điệp của truyện ấy thì đã rõ, cái ước mơ mong manh hão
huyền ấy thì trẻ con ai cũng từng có, nhưng chuyển hóa nó thành một hình tượng
văn học thì chẳng dễ chút nào. Vậy mà Thái Sinh đã làm được chỉ bằng ngần ấy
chữ... Tôi đã quên không hỏi ông, mà tốt nhất là không nên hỏi, rằng cái thời
đương trai gõ đầu trẻ con ở nơi thâm sơn cùng cốc Than Uyên (Lai Châu) ấy, thầy
giáo Nguyễn Đình Sinh có bày cho lũ học sinh nhãi ranh của mình chơi trò thả
thuyền lá xuống suối cùng những kời ước hay không? Rất có thể lắm chứ. Để rồi
sau này, Thái Sinh ký thác vào truyện ngắn Thuyền
lá. Mà đâu chỉ trẻ con, cả người lớn đấy chứ. Viết truyện gửi đăng báo, gửi
dự thi, Thái Sinh đã làm cái việc thả những chiếc thuyền lá mong manh, và một
trong số ấy đã mang mơ ước của chủ nhân ra tận cửa sóng để hòa vào biển cả bao
la,... Hình dung này của tôi về buổi ban đầu Thái Sinh đến với văn chương càng
được củng cố thêm khi mà mới đây tôi đọc một status của nhà văn Đỗ Bích Thúy. Ở
đấy, Thúy kể câu chuyện rất hay về thời mình bé con đi học trường bản ở vùng
cao Vị Xuyên, Hà Giang, rằng những xúc cảm văn chương đầu đời mình có được là
từ một cô giáo tên Nhuần gieo mầm,... Với Thái Sinh ngày ấy, tôi nghĩ, không
chỉ gieo chữ, giao mơ ước, khát khao cuộc sống cho học trò mà cho cả chính bản
thân mình ?!
Dấn
thân, là bước tiếp theo để Thái Sinh chuyển hẳn sang con đường báo chí, văn
chương. Rời bỏ một cuộc sống tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng lâu ngày dễ sinh
nhàm chán, chuyển hẳn sang nghiệp viết lách, lênh phênh nay đây mai đó đầy bất
trắc, ngày đó với Thái Sinh đã là một sự dấn thân rồi. Song thú vị là cái chắc.
Với một người đầy sức vóc, ham đi, ham tìm tòi, ham viết lách như Thái Sinh,
nhưng ngày làm ở Văn nghệ ở Hoàng Liên Sơn hẳn là những ngày tháng thoải mái
nhất. Được tiếp xúc hàng ngày, cùng ăn cùng ở, cùng những chuyến đi dài ngày
với các văn nghệ sĩ có tiếng mà mình quý trọng, ngưỡng mộ bấy nay thì thú vị
lắm chứ. Nhưng rồi, đau chỉ yên vui, song gió cũng không ít, nhất là thời điểm
chia tách tỉnh, tan đàn xẻ nghé, mỗi người một nơi,... Những chuyện ngày ấy,
bao tâm sự buồn vui dồn nén, để sau này, Thái Sinh trút hết gan ruột vào ngòi
bút khi ông khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng ông thời gian khó, Pờ Sảo
Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Lâm Quý, Dương Soái, Ngọc Bái,... Chuyện người mà
ra cả chuyện mình, thân phận mình.
Song
le, dấn thân cho văn nghệ chưa thấm đâu nỗi cực nhọc của nghề làm báo. Để có
những phóng sự điều tra, phanh phui vụ tiêu cực này tiêu cực nọ thì gian khổ
cực nhọc đã đành mà còn nguy hiểm đến tính mạng không chừng.... Tất cả những
cái ấy, Thái Sinh từng trải qua hết khi chuyển sang làm báo (Báo Lào Cai, Báo
Nông nghiệp Việt
2. Một Thái Sinh nặng nỗi niềm thơ
Người ta rõ ngay diện mạo một nhà báo, nhà văn Thái
Sinh mạnh mẽ, xông xáo, sắc sảo, đầy bản lĩnh và trung thực, mà không biết hoặc
quên đi một Thái Sinh cũng nặng nỗi niềm thơ,...
Quả là, tôi cũng không mấy biết về thơ Thái Sinh, nên
không lạm bàn, suy diễn. Chỉ bạn bè văn chương nghe nói, hồi còn trẻ, khi mới
chạm ngõ văn chương, Thái Sinh yêu thơ và từng là một người biên tập thơ có
hạng ở Hội văn nghệ tỉnh. Vậy thôi là để thấy Thái Sinh không hề thơ ơ với thơ. Để ý, các cây bút văn chương
xứ ta, hầu hết khởi đầu từ thơ, rồi sau họ mới lựa chọn và theo đuổi thế mạnh
riêng của mình.... Tôi tin, Thái Sinh cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
Thơ là ngôn ngữ của cõi lòng, là chiếc thuyền chở nỗi buồn con người ta mà, đôi
khi còn là phép tu tâm dưỡng tính... Thế nên,
một thầy giáo trẻ miền xuôi lên mạn ngược, tuổi tráng niên thừa sức lực
và đầy khao khát lại bị bó chân trong môi trường dạy học, như Thái Sinh, kiểu
gì chàng ta cũng thả hồn vào thơ... Thơ Thái Sinh đây: “Nỗi buồn đổ xuống giếng khơi/ Giếng không lấp được em lôi lên bờ/
Trách cho người ấy hững hơ/ Buồn em, em bán, bây giờ ai mua?” (Buồn). Rất có thể, khi đã chọn văn xuôi
(bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết) là
chủ lực, lại công thêm công việc làm báo bận rộn hàng ngày, Thái Sinh tạm để
thơ lắng lại nơi đáy lòng mình,...chờ cơ hội mà bột phát.
Cuộc đời nhiều đổi thay, thăng trầm, có thời gian Thái
Sinh tưởng chừng mất việc, những lúc lòng trịu năng nỗi đau đời như vậy, hẳn
chỉ có thơ là chỗ bấu víu để vực mình vậy. Tiếc là, tôi chưa được đọc thơ Thái
Sinh những năm tháng ấy. Có điều này, chăc chắn Thái Sinh không hề thơ ơ với
thơ. Ông quan tâm đến thơ bạn bè, mặt bằng thơ nói chung. Dăm năm trước, tôi
viết về nhà thơ Vũ Đình Minh, trích nhiều thơ ông, Thái Sinh đọc bài, bị cuốn
hút bởi những bài thơ, câu thơ của Vũ Đình Minh hồi nhà thơ này còn dạy học ở
Cao Bằng. Thái Sinh ham bàn, bình luận thơ, rồi nhân đó góp chuyện kể thời mình
dạy học ở Than Uyên. Có lẽ, thơ Vũ Đình Minh đã vô tình thức dậy trong lòng
Thái Sinh ký ức quá vãng, khơi gợi cảm
xúc về một thời lam thầy giáo vùng cao của mình,...
Có một dạo, vài ba năm trước, tôi đăng tải liền mấy
trường ca của tôi trên trang cá nhân. Thái Sinh đọc kỹ, tỏ ra thích thú, nhất
là các trường ca viết về miền núi là Tây Bắc thương nhớ và Đất
nước nơi đầu núi. Ông hết alo cho tôi, lại chát bảo, rất thú vị. Nếu có
chăng, ông chỉ không đồng tình mỗi chi tiết, là tôi có ý chê người vùng cao
uống quá nhiều rượu và mòn mỏi vì điều điều Ông bảo, không phải vậy, gần năm
chục đi khắp mọi nẻo núi rừng Tây Bắc, từng nhiều năm ăn ở với người đồng rừng,
ông nhận thức, người miền núi họ không uống rượu đơn thuần mà “làm bạn với rượu”, họ chỉ nương vào đó
để tự vỗ về an ủi mà vượt qua cuộc sống dầy khó khăn bất trắc hàng nagy, vậy
thôi. Ngẫm ra, thấy Thái Sinh có lý. Ông cũng rất thích trường ca Con
sông tuổi thơ tôi, bởi chăng, Thái Sinh tìm thấy bóng dáng tuổi thơ của
chính mình qua trường ca này của tôi? Chưa hẳn, được Thái Sinh khen thơ mà tôi
thích ông, còn bởi tôi có thêm người hiểu, đồng cảm và chia sẻ cùng mình. Là
người trực tính, ưa nói thật, một khi Thái Sinh đã khen là thực lòng, bởi chưng
ông không cần và không quen thói xã giao lấy lòng ai bao giờ ,...
Quãng năm 2021, khi phát bệnh và biết mình mang trọng
bệnh, bằng linh cảm, Thái Sinh ý thức
được thời gian sống hữu hạn của mình, chữa bệnh đấy nhưng ông bắt đầu tăng tốc.
Với ông, lúc này, viết được cái gì kịp cái ấy... Ở vào thời điểm ấy, Thái Sinh
đã ý thức về nơi an nghỉ vĩnh viễn của mình. Đêm 06.9.2021, ông viết bài thơ Nếu:
“Nếu ngày mai tôi từ giã cỗi trần/ hãy
chôn tôi bên mẹ mình trên quê cha đất tổ/ Nơi cái núm rốn của tôi mẹ chôn dưới
gốc khế, gốc đa/ Cuộc đời bể dâu gốc khế, gốc đa cũng không còn nữa/ Cái núm rố
của tôi đã hóa đất lâu rồi/ Muốn tìm lại tôi cái thời trèo me trèo sấu/ Đã hóa
thành mái tóc phôi pha/ Nay tôi đã già lại muốn về nằm bên mẹ/ Để nghe mẹ kể
chuyện ngày xửa ngày xưa... Mẹ dặn chúng tôi- sống gửi thác về/ Sống nhân nghĩa
đừng làm điều ác/ Tôi đã sống như điều mẹ dặn/ Nếu tôi mất muốn về với mẹ/ Tôi
là con của mẹ, mẹ ơi”. Giờ thì ông được toại nguyện, về bên mẹ mình.
Khi sức lực đã yếu, Thái Sinh vẫn gắng gượng. Tạp chí Nhà văn & cuộc sống in bài
viết của Thái Sinh về nhà thơ Pừ Sảo Mìn, tôi chụp ảnh bài viết gửi cho Thái
Sinh qua Messinger, hôm sau đọc trang cá nhân của ông, Thái Sinh viết: “Hôm qua đang năm thở vì quá mệt do bệnh tật
hoành hành, thì nhận được bài viết của mình đăng trên Tạp chí hà văn & cuộc
sống viết về Pờ Sảo Mìn. Đã hứa với Chunhac Nguyen (Nguyễn Chu Nhạc) sẽ viết về
những nhà văn mình từng sống và làm việc cùng; Nguyễn Ngọc Bái, Lò Ngân Sủn, Mã
A Lềnh, Dương Soái,... Đêm qua, đã hình thành bài viết về Lò Ngân Sủn với nhiều
chi tiết rất đời c ủa nghệ sĩ nhưng ốm quá lại không mang máy tính, đành cất
trong đầu. Về già thường hay nhớ về bạn bè, những người còn sống và những người
đã mất”. Thật thương và nghẹn lòng làm sao. Lúc muốn được viết nhất thì Ông
Giời lại chẳng cho. Nghẹn lòng hơn, lúc Thái Sinh bất lực, dùng phép thắng lợi
tinh thần, ông đã cầu xin làm người quét đền các Vua Hùng: “Con tên là Nguyễn Đình Sinh (Thái Sinh) ....
xin các Vua Hùng cho làm người quét đền...”
May mà, Thái Sinh còn kịp để lại đôi ba chân dung văn
nghệ sĩ bạn bè một thời !...
Tôi tin, cùng với “Thuyền lá” và một số sáng
tác khác, các chân dung văn nghệ sĩ anh em bạn bè mà Thái Sinh kịp phác họa trước
khi ông rời cõi tạm, sẽ là những chiếc đinh ghim văn chương của ông lại với
cuộc đời này !...
Yasunari
Kawabata
CHÚA TỂ CỦA NÚI TUYẾT
1.
Ngôi vị chúa tể.
Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ
sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel
văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác
giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới
: Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của
núi. Cùng với đó, còn kể đến Cố đô, Người đẹp say ngủ, Hồ, Đẹp và buồn, Vũ nữ It-zu và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất sắc nữa
...
Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản, với
riêng tôi và tin rằng còn bao người khác nữa, Y. Kawabata giữ ngôi vị chúa tể.
Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn
chương, và mới đây là Haruki Murakami , người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn
chương trong tương lai, song dẫu thế thì họ cũng khó có thể lật được ngôi vị chúa tể của Y. Kawabata.
Riêng với tôi, chính Y. Kawabata cùng
với những tác phẩm của mình là diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật
Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả
James Clavell, một tác phẩm văn học sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh
một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc
hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên, phải chờ đến
Y. Kawabata, tinh thần và văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét, được
tôn lên hàng đầu.
Bấy lâu nay, nói đến Nhật Bản, người
ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa
anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai (Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ
Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.
Như vậy, Y. Kawabata là một đặc sắc
của Nhật Bản rồi. Song tại sao lại thế? Đơn giản, bởi Y. Kawabata khiến cả thế
giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm
văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ
là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của
nền văn hóa Nhật Bản và đồng hóa nên các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều
có thể tìm thấy từ đấy nhứng gạch nối kia (hoa
anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về
ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu
sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...
Mùa thu năm 2005, tôi sang
Trở lại với mùa thu
Tôi nhớ, trong buổi làm việc báo cáo
kết quả chuyến đi và cũng là buổi làm việc chia tay với Ban lãnh đạo của Trung
tâm y tế quốc tế Nhật Bản, trong ý kiến của mình, tôi dành phần nhiều để nói về
đất nước và con người Nhật Bản thông qua những biểu hiện về văn hóa. Tôi nhắc
đến tác phẩm Vô ảnh đăng của nhà văn
Wantanabe viết về giới y học Nhật Bản, chỉ là mượn cớ để bắc cầu sang Y. Kawabata. Tôi đã thao thao không rõ bao
lâu về văn hóa Nhật được thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này
làm cô phiên dịch tài giỏi cũng hết sức khó khăn trong việc tìm từ chuyển ngữ
sang tiếng Anh, đến mức làm các vị tiến sĩ y khoa bạn phải ngạc nhiên không
hiểu sao cái ông nhà báo Việt này lại biết lắm thứ về văn hóa Nhật đến vậy. Có
lẽ, khi ấy, sự dồn tụ về Y. Kawabata chứa chất trong tôi bao lâu không được
giải tỏa, nên đến khi gặp dịp tôi đã tuôn ra trong sự kích động khó kìm nén,
khiến mình có gì đó bất nhã bởi đáng lý phải nói về chuyện y học bệnh tật thì
lại đi khen một ông nhà văn. Tôi còn nhớ, trong những phút giây như nhập đồng
đó, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, lo phía bạn khó chịu vì sự lac đề của mình, nên đã
viện diễn rằng, chính người cha thân sinh của Kawabata cũng là một bác sĩ. Sau
này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học Nhật Bản cũng không nỡ chê
trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng về tinh thần, về vẻ đẹp,
về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho một nhà văn của họ, người
đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh, Nobel văn chương.
Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa
người Nhật hôm ấy không tài nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi
nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của Y. Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ nữ It-zu, Người đẹp say ngủ , Cố đô, Đẹp và buồn,...đó là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra
tiếng Việt, và dạo ấy do đời sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng
loại giấy xấu màu xám đen, xù xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể
biết được là, đúng vào lúc tôi có dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Y.
Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm về những gì nhà văn này đã viết từ nửa
đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về Y. Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung
tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata, dày hơn nghìn trang in trên giấy loại
tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel văn học.
Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm
nhiều tác phẩm khác của Kawabata, nhất là Diễn
từ Nobel của ông, kể cả bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của
Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận
của mình về con người và giá trị văn chương của ông không mấy khác xa. Y.
Kawabata được trao Nobel văn chương bởi những lý do, như : "Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như một
người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý phụ nữ." ; "Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa
Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của
hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người" , và
"Kawabata , với tư cách nhà văn, đã
phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật
độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu
tinh thần giữa phương Đông với phương Tây".
Ngay chính Y. Kawabata, Diễn
từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông đã lấy
tên "Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản",
như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế nào! Tôi dặc
biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị
thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là Bản
lai diện mục : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu
óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi".
Tôi không dám sa đà vào diễn từ của
Y.Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để
thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông
giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi đọc những kiệt tác văn chương của ông,
tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà
đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ,
những phong cảnh thiên nhiên đẹp một cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo
huyền bí, những phong cách quý tộc vừa trang nhã vừa suy đồi, những phong tục
dân gian khác lạ, những bóng hình của nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất,
tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám ảnh ta !...
Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không
có thời gian và điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô
Sau này, tôi có dịp tiếp xúc, trò chuyện với một bạn gái trẻ Nhật Bản, cô
Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt thuộc Ban Phát thanh
& truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản.Cô có đợt tìm hiểu và học việc tại
cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho tôi hiểu cái tên Sachiko,
âm Hán Việt là Tảo Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm. Là một nữ nhà
báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì không vướng rào
cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong tục Việt, và
ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật Bản. Tôi hỏi cô về Y.
Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về
Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn
chương cho tổ quốc song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh thần
và vẻ đẹp Nhật Bản đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai mờ về Y.
Kawabata, một giá trị đặc sắc của văn hóa Nhật Bản ?
Tôi lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ
chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi hai phía trước sân vườn ngôi nhà
bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những người già ngả lưng trên ghế đá
công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông
bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ
có Y. Kawabata? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh
thủ lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi
điện tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt
mỏi sau một ngày làm việc cật lực, họ có gì về Y. Kawabata không? Hay chính ông
cùng các tác phẩm tuyệt vời của mình đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vừa mới
đây?
Người ta bảo Y. Kawabata tự sát vì bế
tắc. Vậy xã hội Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động
gì lớn khiến ông bế tắc? Hay tự nội tâm ông? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn
chương, một đỉnh cao chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp
trái đất này nằm mơ cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy
?
Chẳng vì lẽ gì cả. Thực ra, câu kết
của Diễn
từ Nobel năm 1968, Y. Kawabata đã bộc lộ : "Những câu thơ Bản lai diện mục
ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".
Thế là đã rõ. Tự chấm dứt sự tồn tại
về thể xác, với Y. Kawabata, chỉ là một cách Thiền !...
2. Tiếng rền của núi tuyết
Cho đến thời điểm này, tôi
đã có ba lần đặt chân đến xứ sở Mặt trời mọc, lần đầu vào mùa thu năm 2005. Các
lần sau, 2014 và 2017, tình cờ cũng đều vào mùa thu. Tôi đã thấy một nước Nhật
đẹp huyền ảo và mông mị trong tấm áo choàng thiên nhiên lá vàng lá đỏ. Tôi cũng
thấy tuyết trắng lấp lánh trên đỉnh núi Phú Sĩ dưới bầu trời trong xanh mùa
thu... Và tôi lại nghĩ về các tác phẩm của Y. Kawabata, vị chua tể của văn
chương Xứ Tuyết,...
Gần đây, tôi đọc thêm một
tác phẩm nữa trong số các kiệt tác của ông, tiểu thuyết “Hồ”. Khác với các tác
phẩm kia, chuyên săn tìm cái đẹp, ở tác phẩm này, nhân vật chính của ông là một
con người bị coi là xấu xí. Song bi kịch là ở chỗ, con người xấu xí ấy lại đam
mê cái đẹp, mà cụ thể là vẻ đẹp khác giới-đàn bà. Nhân vật chính của câu
chuyện, Momoi Gimpei, một người đàn ông luôn mặc cảm vì sự xấu xí về hình thể
và tuổi thơ không mấy tốt đẹp của mình, nên phần sau cuộc đời, gã ta bị mặc cảm
chi phối thành vô thức mà bám theo bóng hình đàn bà đẹp bất kỳ cho dù họ chỉ
thấp thoáng lướt qua gã trên đường đời. Người ta cho rằng, nhà văn cố tình lựa
chọn và tạo dựng một nhân vật đầy khiếm khuyết, đang vùng vẫy tìm lại cái tôi,
tìm lại bản tính như những người Nhật bước ra từ chiến tranh. Có thể là vậy,
song tôi nhận thấy còn hơn thế, Y. Kawabata còn gửi gắm những thông điệp lớn
lao hơn,... Đó là gì vậy?
Tôi thấy ở đây, hình bóng
đàn bà đẹp hay là hình bóng của một tinh thần văn hóa Nhật Bản tốt đẹp một thời
đang dần bị phôi pha, mai một, bị chen lấn xô đẩy, chèn ép bởi văn hóa ngoại
lai? Phải chăng, Y. Kawabata đã sớm nhận thấy và tiên đoán về sự sa sút và xô
bồ của tinh thần văn hóa Nhật Bản khi bước vào thời kỳ công nghiệp phát triển
và toàn cầu hóa?
Rất có thể, gã trai xấu xí
và một quá khứ tuổi thơ không mấy tốt đẹp kia chính là hình ảnh của một nước
Nhật ngày nay, dần bị xô bồ và lệch lạc bởi sức ép từ chính sự phát triển quá
lố của mình và áp lực từ việc toàn cầu hóa, từ sự ô nhiễm và biến đổi khí hậu,
từ dịch bệnh với quy mô toàn cầu,...? Thế nên, sự vô thức (hay ý thưc) đi tìm vẻ đẹp kia, sự tốt đẹp hiện tại còn sót lại đâu
đó (và cả vẻ đẹp trong quá khứ) của
nhân vật Momoi Gimpei, chính là sự cần thiết, sớm ngộ ra để khôi phục vẻ đẹp
tinh thần văn hóa Nhật Bản từng có,...? Đương nhiên, ở vào thời nhà văn sống và
sáng tác, thì đây là sự suy luận thiên tài mang tính tiên tri. Vậy theo tôi,
đây là một thông điệp cơ bản ẩn chứa của tiểu thuyết này.
Tìm hiểu về văn hóa và tinh
thần Nhật Bản, dường như mọi hiện tượng đều được nâng lên một giá trị nào đó và
có ý nghĩa biểu tượng khi mà nó chứa đựng chất nhân văn, như một triết lý sống,
ngay cả với cái chết. Không giống tinh thần Phật giáo, mọi sự đều bé nhỏ và vô
ưu trước Đức Phật, tinh thần Nhật Bản nặng yếu tố Thần Đạo, ít nhiều mang một ý
nghĩa nào đó, gần với cuộc đời.
Người dân Nhật Bản có tuổi
thọ rất cao. Nhưng khi cuộc sống không còn ý nghĩa và giá trị nào đó, nghĩa là
sống chỉ là sự kéo dài thời gian tồn tại trên mặt đất thôi, người ta sẽ tìm
cách chấm dứt. Khác với cái chết theo tinh thần võ sĩ đạo (samurai), người già cô đơn ở Nhật Bản đã từng diễn ra khá phổ biến,
ấy là cách bỏ lại tất cả, một mình đến xứ tuyết, cứ thế đi sâu vào vùng trắng
lạnh mênh mông cho đến khi cạn hơi kiệt sức mà gục ngã vùi mình trong tuyết
giá. Một kết cục đẹp và buồn làm sao ?!
Hay đâu, một giá trị từng
được nâng lên thành triết lý đầy chất nhân văn, mà Y. Kawabata thuật trong tác
phẩm "Người đẹp say ngủ" của mình. Người ta bỏ tiền ra để thuê
dịch vụ ngắm (chỉ được ngắm bằng mắt,
không có hành vi nhục dục) đàn bà đẹp khỏa thân trong trang thái say ngủ (là loại hình dịch vụ, bị dùng thuốc mê ngủ,
không bị cưỡng bức mà là sự thỏa thuận). Đó là một cách hưởng thụ về tính
dục cho những ai có nhu cầu, nhưng cũng có thể nhìn nhận đó như một sự cảm thụ
cái đẹp theo tinh thần mỹ học....
Những triết lý sống-chết
như vậy chỉ có ở Nhật Bản, và cũng chỉ qua cái nhìn đầy mỹ cảm và nhân văn, sâu
săc, cùng bút pháp điêu luyện của Y. Kawabata mới trở nên tuyệt vời như vậy!...
Trong xã hội Nhật Bản hiện
tại, tức là hơn nửa thế kỷ đã qua so với thời gian Y. Kawabata sống và viết,
những cách thức như vậy không còn nữa (hoặc
giả vẫn tồn tại cá biệt trên đất nước Nhật?), thì những triết lý ấy vẫn
không mất đi, bởi ý nghĩa nhân văn của nó. Chí ít, nó tồn tại trong ký ức của
một lớp người, hay trong các tác phẩm tuyệt vời của Y. Kawabata, với sự lan tỏa
trên phạm vi toàn cầu...
Sau cùng, không thể không
nói đến bút pháp, văn phong của Y. Kawabata. Lựa chọn ông để trao Nobel văn
chương năm 1968, Hội đồng giải Nobel đã nhận xét: "... Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn
hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng
cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương
Đông với phương Tây". Dĩ nhiên, không có gì bàn cãi, khi tô đậm mấy
đặc điểm chính của văn chương Kawabata, đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng.
Khi đã là một gạch nối, một
đặc sắc của văn hóa Nhật Bản, tôi nghĩ, cùng với các đặc điểm cơ bản làm nên
giá trị văn chương của Y. Kawabata (đạo
đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng) thì chắc chắn còn những giá trị khác nữa
từ cội nguồn văn hóa dân tộc xem như chất “phụ
gia” để ông hòa quên, nhào nặn thành chất kết dính các giá trị cơ bản kia?
Vậy đó là những gì?
Thường là, mỗi nền văn hóa
đều chịu ảnh hưởng, nếu không muốn nói lấy tôn giáo, tín ngưỡng gốc làm nền
tảng. Với người dân xứ sở Mặt trời mọc, tôn giáo gốc (từ trước Công nguyên) là Thần
đạo (Shinto). Truy nguyên, tư
tưởng của Thần đạo Nhật Bản khác với
những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên
nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết
sinh vật trừ khi vì sự sống còn của con người, nên trước khi ăn người ta thường
phải nói câu Itadakimasu (戴きます) để
cảm ơn những sinh linh đã phải chết để trở thành thức ăn, và đến ngày nay điều
này đã trở thành một phong tục. Như thế, có thể nhận thấy, tư tưởng Thần đạo Nhật Bản với ý nghĩa cơ bản của
nó khi khuyên “con người ta hướng tới sự
trong sáng và tránh điều ác” đã là nên giá trị đạo đức trong các tác phẩm
của Y. Kawabata.
Thẩm mỹ, tôi nghĩ, đặc điểm
nổi trội nhất trong văn chương của ông, nếu không muốn nói Y. Kawabata là nhà
văn theo “chủ nghĩa duy mỹ”. Là người đắm đuối, tôn thờ cái đẹp, song Y.
Kawabata không đơn thuần duy mỹ đến mức độ coi “cái đẹp” là duy nhất mà tách rời nó khỏi nội dung xã hội và đạo đức
cuộc sống. Thẩm mỹ, trong con người và văn chương Kawabata, mang đúng nghĩa của
khái niệm này, sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp hòa quện trong sự cảm thông
sâu sắc của tâm hồn. Mỹ cảm của ông mang thiên hướng đàn bà, pha trộn ẩn ức
tình dục mơ hồ, đơn giản vì họ là biểu tượng của cái đẹp. Những nhân vật nữ của
ông dù ở tầng lớp và thuộc loại người nào, đều được tôn trọng, nâng niu và ít
nhiều ông dành cho họ sự ưu ái. Chính điều này, theo tôi, đã làm nên “đặc sắc
Kawabata”, khiến ông khác lạ với các nhà văn Nhật Bản khác, chẳng những thế, sự
khác lạ và đặc sắc ấy lại giàu năng lượng và có sức nâng, góp phần tôn vinh văn
học, văn hóa Nhật Bản, khiến Hội đồng văn chương Nobel không thể làm ngơ mà
quyết định trao giải cho ông, người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba được
vinh danh. Vinh quang này cho cá nhân Y. Kawabata và văn chương Nhật Bản.
Song Y. Kawabata cần gì ở
điều ấy? Chẳng phải ngẫu nhiên, ông đã mở đầu diễn từ Nobel năm 1968 bằng việc
viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài
thơ có tên là "Bản lai diện mục" : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá
lạnh, tinh khôi". Thực ra, đọc kỹ các tác phẩm của ông, người ta đã
nhận thấy sự thiền định thấm đẫm trong mạch văn, câu chữ. Điều này cho thấy,
chất thiền cũng là một đặc trưng văn chương của Kawabata. Hầu như, các nhân vật
của ông (hay chính bản thân) không
mấy nổi giận và nếu có thì cũng ít khi đến mức mất kiểm soát... Tìm hiểu sự ảnh
hưởng của tôn giáo đến tinh thần Nhật Bản, mặc dù tôn giáo gốc là Thần đạo, nhưng càng về sau, sự lan tỏa
và sức ảnh hưởng của Phật giáo càng mạnh, chi phối tinh thần văn hóa Nhật Bản.
Đây cũng là cách lý giải yếu tố Thiền
trong văn chương của Kawabata, cũng như tâm thế và sự hành xử của các nhân vật
trong tác phẩm của ông. Lấy trạng thái an tĩnh và sự tập trung cao độ trong
cách nhìn nhận, vận động, hành xử là cốt lõi của “thiền định”, và đó cũng chính là tâm thế Y. Kawabata. Vậy xem như,
bài thơ thiền “Bản lai diện mục” cho
thấy sự tiếp nối trạng thái động-tĩnh, thực -ảo, hiện tại-ký ức thay nhau luân
chuyển với vẻ đẹp điển hình của thiên nhiên bốn mùa là căn cốt cảm hứng sáng
tạo văn chương của Y. Kawabata. Các tác phẩm của ông là minh chứng sống động
cho phương châm và cảm hứng sáng tạo này.
Trở lại với nhận định của
Hội đồng Nobel văn chương năm 1968, về sự đóng góp của Y. Kawabata cho sự phát
triển của văn học thế giới, ấy là “nghệ thuật độc sáng”. Vậy hiểu nhận
định này ra sao? Phải chăng, nếu không phải là sự độc đáo và sáng láng thì đó
là gi?
Người Nhật Bản tự hào về Haiku (俳句), một loại thơ độc đáo, một đặc sắc
ngôn ngữ, văn chương của họ. Khởi phát từ đầu thế kỷ 17 và nhanh chóng phát
triển cực thịnh trong thời kỳ
Thậm chí, theo tôi nghĩ,
văn phong của Y. Kawabata chịu ảnh hưởng khá sâu sắc phong vị và tính chất của
Haiku. Chính xác hơn, Y. Kawabata biết cách đồng hóa tính chất và sắc thái của
Haiku để làm nên phong vị riêng mình – “đặc
sắc Kawabata”. Ấy là thứ nghệ thuật mà Hội đồng Nobel văn học năm 1968 gọi
là “nghệ thuật độc sáng”.
Đọc tác phẩm của Y.
Kawabata, dù tiểu thuyết hay truyện ngắn đều thấy rõ điều này. Mỗi tác phẩm của
ông đều ẩn chứa vô vàn những bài thơ Haiku. Đơn cử, điển hình là tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ”, cả tác phẩm là một
bài Haiku lớn. Hình ảnh nhân vạt chính, ông già bảy mươi đắm đuối ngắm người
đàn bà đẹp ở trạng thái khỏa thân say ngủ, là hiện thực nhãn tiền, còn những
dòng suy tưởng miên man, chập chờn hồi ức, hiện tại, mộng mị đan xen của nhân
vật chính là các ý tưởng tương quan với nhau làm nên bài Haiku toàn vẹn, khiến
người đọc suy ngẫm, liên tưởng,... Và trong bài Haiku lớn ấy, lại chứa đựng rất
nhiều bài Haiku khác, dường như mỗi chương, mỗi đoạn đều mang dáng dấp của bài
Haiku, cứ thể nhân lên, vô vàn những bài Haiku nhỏ, cái nọ lồng trong cái kia,
đan cài, bao bọc... Bởi thế, đọc tác phẩm của Y. Kawabata, không thể đọc nhanh,
mà phải đọc chậm, thật chậm rãi, những mong tìm lời giải cho từng bài Haiku mà
tác giả đặt ra. Văn của Y. Kawabata tốc độ chậm là vậy. Điều này khiến cho một
số bạn đọc ưa tốc độ nhanh, thích hiệu ứng sốc, cảm thấy sốt ruột và sinh ngại
chăng ?... Có lẽ, đây cũng là lý do mà các tác phẩm của ông thường ngắn, kể cả
tiểu thuyết ?
Kể từ ngày Y. Kawabata hóa
thân theo “ngàn cánh hạc” xải cánh
trắng bay về “xứ tuyết” tinh khôi để
đêm đêm nghe “tiếng rền của núi”,
chớp mắt đã nửa thế kỳ trôi qua. Khởi nguồn, sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ
19 ở Osaka miền nam nước Nhật, hàng năm linh hồn ông vẫn cùng bầy hạc trắng từ
xứ tuyết phương Bắc trở về thăm cố hương, ngang qua vùng “hồ”, thăm “cố đô”, nơi
ông đã để lại những kỷ niệm “đẹp và buồn”,
từng mộng mị ngắm “người đẹp say ngủ”,..
đã,... từng,...và từng,...
Với các tuyệt phẩm của
mình, thực ra, nửa thế kỷ qua, Y. Kawabata vẫn đang ở đây, cùng mọi người đấy
chứ ?!..../.
HỒNG LÂU MỘNG &
Giấc mộng lầu hồng của con người.
1.
Sang thế kỷ 21, các nhà nghiên cứu văn
học và khoa học xã hội nhân văn hàng đầu thế giới, nhận thấy sự cần thiết nên
đã nhóm họp, bàn bạc và bỏ phiếu để đi đến việc nhất trí chọn ra 20 tác phẩm
văn học bất hủ mọi thời đại của thế giới. Người ta thấy trong danh sách có
những cái tên rất xứng đáng như : Homèrre với Odysee, Cervantes với Don Quixote, Gustav Flaubert với Bà Bô-va-ry , William Shekespeare với Hamlet, Vua Lia, Marcel Proust với Đi tìm thời gian đã mất, Fedor
Dostoiesky với Tội ác và trừng phạt,
Gabriel Garcia Márquez với Trăm năm cô
đơn v.v...
Tất
nhiên là thế, bởi những cái tên đó đều thật đích đáng, song tôi chỉ ngạc
nhiên, sao lại thiếu vắng cái tên Tào Tuyết Cần với Hồng Lâu Mộng ? Theo tôi, nó không những xứng đáng, thậm chí còn
được xếp trên tất thảy những tác phẩm đã
được kể tên kia.
Vâng, một câu hỏi có tính nghi ngờ độ chuẩn xác và cả
công tâm trong việc bình chọn kia. Phải chăng, cái hội đồng hàng mấy trăm con
người, mà toàn những người thông thái nọ, lại có quá ít thuộc châu Á nên số
phiếu đã không đủ để đưa Hồng Lâu Mộng vào danh sách ấy ? Hoặc giả, tiêu chí
bình chọn không phù hợp để người ta bỏ phiếu cho nó ? Hoặc nữa, nó chưa được
chuyển ngữ sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha ? Nhân chuyện này, tôi
lại nghĩ đến một việc khác còn lớn hơn, đó là sự lo ngại của dân Trung Hoa khi
quá ít người biết sử dụng internet để làm cái việc bỏ phiếu cho Vạn Lý Trường
Thành của họ lọt vào danh sách 7 kỳ quan
thế giới mới do một tổ chức đứng ra bình chọn, trong khi bình
thường ra chỉ cần nhắc đến tên thôi ta cũng thấy nó quá xứng đáng rồi. May rồi
chuyện cũng qua, khi mà Vạn Lý Trường Thành đã có tên trong số 7 kỳ quan thế
giới mới được bình chọn. Nhưng , Hồng
Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần lại không, trong khi nó thực sự là một
"Vạn Lý trường thành" của thế
giới văn chương đông tây cổ kim.
Với cá nhân tôi, nếu ai đó hỏi rằng
thích tác phẩm văn học nào nhất, tôi không ngần ngại mà trả lời : Hồng Lâu Mộng.
Tôi thích viết tên tác phẩm này với
mọi chữ cái đều viết hoa. Viết hoa theo cách tu từ. Nghĩa là nó xứng đáng để
viết hoa, như khi người ta muốn nhấn đến Con Người với phẩm chất cao đẹp nhất
trong thế giới muôn loài !
Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có
cả một hội mang tên Hồng học (hội của
những người yêu thích và nghiên cứu Hồng
Lâu Mộng). Chúng ta đều biết, Trung Hoa có lịch sử văn tự đến mấy ngàn năm,
với biết bao tác phẩm nổi tiếng gồm triết học, sử ký, địa dư, bách khoa thư và
văn học..., song chỉ có mỗi một “Hồng học”, bao gồm hàng vạn những
con nhang đệ tử của Hồng Lâu Mộng,
mà không riêng ở trong biên giới Trung Quốc, còn ở nước ngoài. Đấy là chưa kể
đến hàng triệu độc giả say mê Hồng Lâu
Mộng ở khắp thế giới. Như thế đủ biết Hồng
Lâu Mộng nổi tiếng và hấp dẫn, kỳ thú đến độ nào. Trong tứ đại kỳ thư của nền văn học Trung Hoa,
Hồng Lâu Mộng không có sự kỳ vĩ
hoành tráng của Tam Quốc diễn nghĩa, không có sự mãnh liệt đến sảng khoái và bi
tráng của Thuỷ Hử, và cũng không có chất phiêu dạt ly kỳ của Tây
Du Ký, song bù lại, nó có sự tinh tế, mơn trớn đến ảo diệu và mộng mị
hút hồn người. Không những vậy, Hồng Lâu
Mộng còn đánh dấu sự ra đời của một nền tiểu thuyết Trung Hoa đích thực xét
về tính thể loại văn học.
Quả đúng với mệnh danh, đấy là “giấc mộng lầu hồng” của con người, mà
không ai không thấy và không muốn. Ở đây, tôi không bàn, nếu không muốn nói là
loại trừ việc hiểu hai từ hồng lâu là
để nhằm đến loại gái lầu hồng (ám chỉ kỹ nữ). Giấc mộng lầu hồng, mà
cũng là tất thảy những gì được Tào Tuyết Cần tả trong bộ sách của mình là cuộc
sống cực kỳ vương giả, xa hoa nơi lầu son gác tía của thế gia quyền quý. Cuộc
sống của các chàng công tử và những tiểu thư khuê các trong Đại Quan Viên của đại gia đình họ Giả
đất Kim Lăng dù có đạt đến đỉnh điểm vinh hoa phú quý, cũng sẽ trở thành bình
thường nếu như tác giả không lồng vào đấy những triết lý, mà thực ra chính là
bản chất vốn có của cuộc sống đời người. Những mối quan hệ chân-giả, phúc-họa, tĩnh -động, thực-ảo... đan xen khôn lường, lẩn vào mỗi tính cách và số phận
hàng mấy trăm con người, cho ta thấy mọi phương diện, ngóc ngách của cuộc sống
từng cá nhân đến gia đình, cộng đồng, xã hội, quan trường, triều chính... Tầm
triết lý sâu sắc và ảo diệu của bộ sách còn ở tên chính nó là Thạch
đầu ký. Hòn đá trên đỉnh núi
Thanh Ngạch có linh tính bởi mấy ngàn năm lắng khí thiên nhiên, vì nghe lén
chuyện đời mà nảy sinh thèm muốn được hưởng phúc phận nơi trần thế với đủ các
cung bậc ái, ố, hỉ, nộ... Phiêu lãng cao siêu lắm thay mà cũng chân thực đến
tận cùng .
Cứ thế, cuộc sống như dòng Trường
Giang, đoạn thẳng khúc quanh, nơi dốc nơi bình, khi cuồn cuộn hung dữ lúc hiền
hòa sâu lắng, mùa đục mùa trong, chảy hoài ra biển Đông- sóng vui dập hết anh hùng. Tưởng chừng, cuộc sống chốn vinh hoa phú
quý tột bậc ấy, ngày đêm, tháng năm chỉ biết có yến tiệc cùng phong hoa tuyết
nguyệt sẽ êm đềm, vô lo vô nghĩ, song thực ra lại là nơi ẩn giấu của những yêu
thương-thù hận, vui vẻ-sầu não, ngây thơ-mưu mô, chân thành-lừa lọc gian manh,
mưu cầu thành-bại...tất thảy chồng chất lên nhau và lặn sâu vào trong, tạo
thành những lớp lang, thường ra nào thấy được ... Đấy, chính những lớp lang ấy
làm nên đặc sắc ảo diệu cho Hồng Lâu
Mộng. Người đọc, mỗi bận mỗi hay, mỗi lần mỗi khám phá, càng đọc càng mê
mẩn và không khỏi ngạc nhiên vì những vỉa tầng ý nghĩa trầm lắng dần phát
lộ!...
Về mỹ cảm đã vậy. Hơn nữa, về sự thâm
trầm sâu lắng, như trầm tích, như vật chất quý báu là những tư tưởng Nho, Phật, Lão hòa quyện,
ẩn chứa. Ấy là nền tảng tư tưởng của xã hội Trung Hoa mấy ngàn năm, nó chi phối
tư tưởng xã hội nhiều nước phương Đông và khiến phương Tây hết sức nể trọng,
thích thú khám phá. Hồng Lâu Mộng
còn là tiếng chuông thức tỉnh tâm cam con người trong sự mê muội chìm đắm phù
hoa, đồng thời mang tính dự báo, chế độ phong kiến mấy ngàn năm của Trung Hoa
bắt đầu suy tàn, dần đi đến sự cáo chung,...
Từ thuở học trò cho đến bây giờ, tôi
đã đọc đi đọc lại Hồng Lâu Mộng
chẳng rõ bao nhiêu lần rồi. Mỗi khi đọc xong dòng cuối, buông sách xuống, tôi
lại như người mất cảm giác. Hình như đó là trạng thái của người ý thức được sự
mất phương hướng của mình chăng ?!...
Tôi đã hơn một lần lưỡng lự khi cầm
trên tay cuốn Hậu Hồng Lâu Mộng do Lưu Trợ Thủ hiệu điểm. Đọc hay không ? Tôi sợ
sự thất vọng như khi đọc Hậu Tam Quốc,
Hậu Thủy Hử...Song dẫu sao, với
truyện Tam Quốc hoặc Thủy Hử thì phần nhiều là lịch sử, là
chiến tranh, là sự kiện, nên ít nhiều có chất hấp dẫn riêng của nó. Vậy mà còn
thế, nữa là chuyện nhàn tản phong hoa tuyết nguyệt, nếu không khéo sẽ nhạt
thếch và tẻ ngoét.
Biết là thế, nhưng rồi sự cuốn hút từ Hồng Lâu Mộng bắt tôi phải đọc cuốn Hậu . Đọc rồi sinh ngẩn ngơ. Không phải
ngẩn ngơ vì sự tiếp nối thành công của câu chuyện mà lại chính từ sự non kém
của tác phẩm. Một kiệt tác thì không cần chi thêm nếm. Hồng Lâu Mộng đã làm trọn sứ mệnh của mình là xây nên giấc mộng lầu
hồng cho con người. Tự mình mộng giấc mộng của riêng mình triền miên ngàn năm, nhiều
ngàn năm. Và bất kỳ lúc nào, hễ ai dây vào rồi thì ngẩn ngơ cả đời với nó !...
Thế thì Hậu, có hay không cũng vậy thôi. Hay, hay không hay, đó là một
câu chuyện khác. Tôi đã xem Hậu Hồng Lâu Mộng với ý nghĩ như thế.
Trở lại với Hồng Lâu Mộng, một kiệt tác trong Tứ đại kỳ thư của Trung Hoa tự cổ chí kim. Có chuyện cho rằng, Tào
Tuyết Cần viết phần lớn bộ sách, phần sau là do Cao Ngạc viết. Cho dù thế đi
chăng nữa, về cơ bản, bộ sách vẫn là một chỉnh thể khá nhất quán, mà người đời
khó tìm ra dấu vết của sự lắp ghép, tiếp nối. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn về mạch
chuyện, hơi văn, tính cách nhân vật, tình tiết từng câu chuyện và sự biến hóa
mỗi tuyến chuyện của bộ sách, đã làm nên một lâu đài văn chương. Có ý kiến,
phần đầu do Tào Tuyết Cần, văn đẹp mộng mị và chữ nghĩa nuột nà hơn, phần chấp
bút của Cao Ngạc thì văn hiện dại và tốc độ hơn, mà kết cục số phận các nhân
vật cũng gia tăng ý nghĩa thức tỉnh và tính hiện thực cho tác phẩm,...?. Ngẫm
ra thấy cũng có lý.
Tác phẩm điện ảnh ăn theo tuy khó theo kịp nguyên tác,
song cũng đã thành công vang dội khắp thế giới, bởi nó đã hỗ trợ và vun đắp cho
lâu đài Hồng Lâu Mộng thêm lung linh huyền diệu. Sự thành
công ấy của bộ phim Hồng Lâu Mộng, bản dựng năm 1987, không những đem vinh quang
đến cho đạo diễn mà cả cho các diễn viên chính như Âu Dương Phấn Cường (vai Giả bảo Ngọc), Trần Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), Đặng Tiệp (vai Vương Hy Phượng) v.v... Niềm vinh
quang ấy kéo dài cho đến 20 năm sau, khiến các nhà làm phim trẻ tiếp tục nuôi
tham vọng dựng Hồng Lâu Mộng bản mới hoành tráng hơn, và hy vọng sẽ thành công
không kém bản dựng trước. Người ta sẵn sàng chi hàng chục triệu USD để làm Đại quan viên 2 cũng ở ngay Bắc Kinh để
làm phim trường. Thế nhưng, khó khăn lại ở việc lựa chọn diễn viên, rồi đó là
cảnh quay và diễn xuất ra sao để mang đến sắc thái mới và không làm “mất hồn
vía” của bộ tiểu thuyết này...? Lại càng thấy rõ tầm vóc của Hồng Lâu Mộng lớn đến mức nào !...
Lại nữa, có chuyện rằng Tào Tuyết Cần
viết Hồng Lâu Mộng như viết tự truyện. Gia sản nhà họ Tào
thời cha ông là Tào Luyện Đình trở về trước vốn giàu sang quyền quý, qua niên
hiệu Khang Hy đến niên hiệu Ung Chính nhà Thanh thì bị tội ( án văn tự ?) mà mất hết gia sản, tan
tác cửa nhà, nên Tào Tuyết Cần viết Hồng
Lâu Mộng như trút một hơi thở dài đầy những luyến tiếc...
Cũng có chuyện khác, sách Tùy
Viên thi thoại của Viên Mai , một nhà thơ, nhà nghiên cứu và phê bình
văn học xuất sắc của Trung Hoa đời Thanh, trong một thiên sách của mình, ông có
nói đến Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Viên Mai cho rằng, Đại Quan Viên trong bộ Hồng Lâu Mộng thực ra là mô tả theo Tùy
Viên (vườn nhà họ Tùy) nơi cư ngụ của gia đình Viên Mai. Sách này còn dẫn
chuyện, rằng Tào Tuyết Cần có lần đến chơi Tùy Viên, thấy có cô gái hồng lâu (gái lầu hồng) tuyệt đẹp, đã cảm động mà
tặng bài thơ, đó là : " Bệnh dung
tiều tuỵ thắng đào hoa/ Ngọ hạn triều hồi nguyệt chuyển gia/ Do khủng ý trung
nhân khán xuất/ Cưỡng ngôn kim nhật hiệu sai ta " (được dịch là :
Dung nhan tiều tụy quá hoa đào/ Trưa sốt quay về nóng trở cao/ Còn sợ người yêu
nhìn thấy rõ/ Gượng rằng nay đã bớt phần nào). Thực hư ra sao, chẳng cần
truy nguyên mà làm gì. Chỉ rõ thêm một điều, tâm ý thương hoa tiếc ngọc, nâng
niu trân trọng đàn bà con gái, bất kể thân phận cao sang hay bình dân, con ở,
kỹ nữ của chàng Giả Bảo Ngọc trong sách kia đích thị của Tào Tuyết Cần.
Riêng chỉ ngần ấy thôi, cũng khiến
người đời phải ngẩn ngơ rồi ! ?...
2.
Buộc người đời sau khi đọc phải ngẩn ngơ vì luyến tiếc
giấc mộng lầu hồng ngắn ngủi giữa dòng đời dằng dặc những truân chuyên, buồn
tủi,... đó là cái tài của tác giả Hồng
Lâu Mộng. Tài là thế, song cái tài ấy cụ thể là những gì?
Là trường thiên tiểu thuyết, với hàng
ngàn nhân vật lớn nhỏ, nên việc “bài binh bố trận” sao đây, khi mà người ta
chơi cờ có mấy chục quân thôi đã khó?
Nửa thế kỷ đọc Hồng Lâu Mộng và không ngừng nghĩ ngợi về nó, cho đến nay, tôi mới
vỡ lẽ ra cái tài của Tào Tuyết Cần mà trước đây chỉ cảm nhận không nói ra được,
ấy là cách tạo dựng không gian truyện và nghệ thuật
khắc họa hình hài, tính cách nhân vật.
Thực tình, từ mấy trăm năm trước, khi
loài người chưa biết Điện ảnh là gì thì Tào Tuyết Cần đã
biết dùng các thủ pháp nghệ thuật Điện ảnh để sáng tạo nên Hồng Lâu Mộng. Đọc tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, có thể nhận biết, tác
giả đã sử dụng các thủ pháp hình ảnh Toàn,
Trung, Cận và nghệ thuật chồng mờ,
những đặc trưng cơ bản của điện ảnh.
Trong một không gian không quá rộng,
chủ yếu ở hai phủ Ninh, Vinh với bà chủ quyền uy là Giả mẫu, rồi không gian
được khoanh về mỗi phủ với các không gian nhỏ hơn là gia đình riêng trong quan
hệ máu mủ ruột rà, họ hàng hang hốc và hẹp nữa là qui thành không gian riêng
biệt mỗi cô cậu chủ đơn thân trong Đại Quan Viên, từ không gian chật hẹp nhất
ấy lại tiếp tục mở ra, phân nhánh chia rễ sang đám người hầu con ở,... Dây mơ
rễ má, rắc rối là thế, với hàng trăm nhân vật, hàng ngàn mối quan hệ thì giải
quyết sao đây? Tài tình thay, tác giả (Tào
Tuyết Cần và sau đó Cao Ngạc) đã biết cách sử dụng phương pháp chồng mờ về tổng thể (nghệ thuật điện
ảnh, những hình ảnh thay thế nhau liên tiếp theo trình tự mờ-đậm-mờ), nghĩa là
đem các không gian to nhỏ, rộng hẹp ấy chồng liên tiếp lên nhau, để kể chuyện,
rồi tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà dụng
cảnh toàn, trung, cận. sao cho phù
hợp. Với thủ pháp này, người đọc nhận biết được sự việc, hiện tượng, hình ảnh,
tính cách nhân vật ,... theo logic câu chuyện và trí tưởng tượng của mình, mà
không bị rối.
Có thể, so sánh
không gian truyện giữa Hồng Lâu Mộng & Chiến tranh và hòa
bình để thêm rõ nghệ thuật không gian chồng mờ.
Cùng dạng trường thiên tiểu thuyết, với nhiều nhân
vật, ở tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của
L.Tolstoi, không gian truyện trải rộng bao la, tản mạn, tuy chung quy về mấy
gia đình quý tộc, nhưng không gian khá
riêng biệt, mối quan hệ với nhau thông qua những nhân vật đại diện, chứ không
chằng chịt, chật hẹp và chồng lấn như ở Hồng
Lâu Mộng. Thêm nữa, mối quan hệ họ tộc, gia đình ở xã hội Phương Tây mang
tính độc lập tương đối, khác với xã hội và họ tộc phương Đông vấn vít, nương
tựa, dựa dẫm vào nhau. Thế nên, việc khắc họa nhân vật đậm nét, nổi bật trong
mớ bòng bong quan hệ ở Hồng Lâu Mộng
thực khó. Điều này càng cho thấy cái tài của tác giả Tào Tuyết Cần.
Nghệ thuật không gian truyện về tổng thể là vậy, nhưng
chuyện kể sẽ nhạt nhẽo, vô bổ nếu như tác giả không giỏi việc khắc họa cảnh
vật, con người, tình tiết chuyện...
Ở đây, mỗi nhân vật chính (hay phụ)
lại được khắc họa theo trình tự cấu trúc: trước hết là vị trí và vai trò của
nhân vật, rồi theo đó là hình dáng dung nhan, tính cách con người, quang cảnh
nơi ở, quan hệ với họ hàng-bè bạn-kẻ hầu người hạ... Cứ theo cái trục đó mà đan
cài, khâu nối hay bóc tách mà ra hết,...
Thật tài tình lắm thay,... Cứ xem các nhân vật chính như Giả mẫu, Vương Hy
Phượng, Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân, Lý Hoàn,
Nghênh Xuân, Tích Xuân, Thám Xuân... mỗi người mỗi vẻ hay. Các nhân vật phụ:
gia đình, họ hàng, quan hệ dây mơ rễ má (như Giả Chính, Giả Xá, Vương phu nhân, Hình phu nhân, Dì Triệu, Nguyên
Xuân, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung, Tần Khả Khanh, Tiết Bảo Cầm, Giả
Thụy, Tiết Bàn, Tần Chung, Ba chị em Vưu thị ...); những a hoàn, người hầu
(như Bình Nhi, Uyên Ương, Kim Xuyến, Tập
Nhân, Tình Văn, Tử Quyên, Xạ Nguyệt, Dính Yên....); đám người ngoài có quan
hệ bạn bè quen biết (như Già Lưu, Ni cô Diệu Ngọc, Hương Lăng, Hình
Tụ Yên, Tưởng Ngọc Hàm, Liễu Tương Liên, Hạ Kim Quế,
Với đặc trưng đậm chất điện ảnh như
vậy, nên khi dựng thành phim, đạo diễn Vương Phù Lâm và các nhà làm phim rất
thuận lợi khi chuyển thể Hồng Lâu Mộng
thành phim truyền hình (Bản dựng năm 1987).
Điều này phần nào lý giải, vì sao đây là một trong số ít tác phẩm văn học
chuyển thể điện ảnh thành công nhất trên quy mô thế giới. Từ quang cảnh, phục
trang, chọn diễn viên, diễn xuất, hội thoại, âm nhạc đều tuyệt vời... đến mức
độ, ngỡ như cụ Tào Tuyết Cần sống lại trực tiếp tham gia đạo diễn với Vương Phù
Lâm vậy. Thiết nghĩ, điều ấy chỉ có thể là đạo diễn tài ba Vương Phù Lâm đã đọc
ra và tận dụng hiệu quả nhất tố chất điện ảnh có sẵn trong tác phẩm văn học này
mà thôi. Nhờ sự thành công vang dội của bộ phim mà điện ảnh Hoa đán trình diện
hàng loạt gương mặt diễn viên trẻ có tài, cùng với Đặng Tiệp (vai Phượng Thư), Âu
Dương Phấn Cường (vai Giả Bảo Ngọc), Trần
Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), là Trương
Lợi (vai Tiết Bảo Thoa), Quách Tiêu
Trân (vai Sử Tương Vân), Đông Phương
Văn Anh (vai Giả Thám Xuân), An Văn
(vai Tình Văn) v.v...
Một đặc sắc nữa của Hồng Lâu Mộng mà hiếm có tác phẩm Đông
Tây Kim Cổ nào có dược, ấy là Thơ.
Thơ
ngâm vịnh, trêu ghẹo, đùa rỡn hay tự thán của các nhân vật trong Ninh-Vinh phủ,
Đại Quan Viên (Lý Hoàn, Bảo Ngọc, Đại
Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Ni cô Diệu Ngọc,
Bảo Cầm...), hay cả đám a hoàn (Tình
Văn, Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tử Quên...), đều hay, hợp cảnh hợp tình,... có
những bài thuộc hàng xuất sắc.
Ví như: Đại Ngọc chôn hoa, tự thán: “Giờ hoa rụng có ta chôn cất/ Chôn thân ta
chưa biết bao giờ/ Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ/ Sau này ta chết ai là người
chôn?”; Rồi cũng Lâm Đại Ngọc: “Chiều
hôm quyên lặng tiếng rồi/ Vác mai về đóng cửa
ngoài buồn tênh/ Ngả người trước ngọn đèn xanh/ Ngoài song mưa tạt bên mình chăn đơn” (Táng
hoa từ); và “Ngoài
rèm hoa vẫn nở đầy/ Mà trong rèm lại người gày hơn hoa” (Đào
hoa hành);... Hay đâu: “Tỉnh giấc nỗi niềm ai đã tỏ/ Cỏ khô khói lạnh ngổn
ngang lòng” (Cúc mộng)...
Hay như Sử Tương Vân với bài thơ Đối cúc :”... Sổ khứ cánh vô quân ngạo thế/ Khán lại
duy hữu ngã tri âm/ Thu quang nhẫm
nhiễm hưu cô phụ/ Tương đối nguyên nghi tích thốn âm”. (nghĩa: ở đời mấy ai
xa được thói thô tục/ may thì có nổi một kẻ tri âm/ bóng thu loáng vụt trôi đi
mất/ khi ấy ngẩn ngơ mà tiếc lòng)...
Hay đâu,
Hay như, đêm Trung thu thưởng nguyệt ở Ao Tinh quán,
trăng sáng rỡ khi sen dần tàn, Lâm Đại Ngọc và Sử Tương Vân riêng ngẫm thân
phận mình tức cảnh sinh tình đã thay nhau nối vận mà thốt ra câu thơ hay đến
tái tê rợn người :” ... Cò rò bóng hạc
bên ghềnh/ Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong”.
Không chỉ những cô cậu chủ ở Đại Quan Viên, trong Ninh
phủ, Vinh phủ, mà các a hoàn cũng lây cái bệnh
ngẩn mơ thơ phú của chủ mình. Hàng ngày hầu hạ các cô cậu chủ, khi tiệc
tùng, lễ lạt, khi gặp hội uống rượu đề thơ, đố thơ, đám a hoàn hóng chuyện,
hoặc bị lôi vào cuộc vui... và những lúc an ủi, chia sẻ nỗi ưu tư phiền muộn
của chủ... lâu thành quen, bị ngấm khi nào chẳng hay, mà sinh mơ tưởng hão
huyền (Tập Nhân, Tình Văn, Kim Xuyến, Tử
Quyên...).
Dĩ nhiên, thơ vịnh, thơ đối trong Hồng Lâu Mộng đều do Tào Tuyết Cần sáng tác cả, nhưng khi gán cho
từng nhân vật lại phải hợp cảnh, hợp tình, hợp tính với mỗi người. Ở đây, tôi
không sa đà phân tích sâu phần thơ phú, nhưng có thể thấy, Tào Tuyết Cần tài văn-thơ thật song toàn. Văn
tuyệt vời đã đành, còn Thơ thì dẫu chưa đến hạng kinh điển
nhưng cũng rất chi là hay. Cái tài của Tào Tuyết Cần là hóa thân vào từng nhân
vật, lúc hội đố thơ thì linh hoạt ứng biến, còn khi tâm trạng tự thán ngâm vịnh
lại trầm lắng sâu xa phù hợp với cảnh ngộ thân phận từng người,...
Trong Hồng Lâu
Mộng, ngâm vịnh, đối thơ vừa là cách để gây không khí cho việc tạo dựng
không gian truyện, vừa là phương tiện giao đãi và cũng là sự bày tỏ nỗi niềm
tâm can của mỗi nhân vật. Thêm nữa, dưới thời nhà Thanh, văn học Trung Hoa
không mạnh về thơ mà phát triển văn xuôi tiểu thuyết. Thế nên, thơ phú trong Hồng Lâu Mộng có thêm vai trò ấy là
phần nào phản ánh diện mạo, mặt bằng thơ Trung Hoa thời đó ra sao. Thật là “nhất
cử, đa tiện”. Vì thế, đó cũng là một đặc trưng, góp phần làm nên thành công
của tác phẩm này và cùng với những đặc sắc khác, biến Hồng Lâu Mộng thành một kiệt tác, đôn nó lên đầu bảng đông tây kim
cổ văn chương thế giới.
Còn với riêng tôi, mỗi lần đọc lại, nghiền ngẫm, đặng
thấu hiểu mà thêm lần bóc tách một gia
tầng của tác phẩm để vẻ đẹp tiềm ẩn lộ ra,... Hy vọng là thế !
Thực lòng, mỗi lần như vậy, tôi sa vào cảm thức mất
cân bằng, như mộng mị phiêu du trong Đại Quan Viên cùng các nhân vật, mà đến
nay tôi vẫn chưa biết gọi cảm thức ấy là gì ?!... ./.
Đệ nhất võ công thế giới kiếm hiệp
KIM DUNG
1.
Kim Dung tiên sinh quả không hổ danh oai trấn giang hồ
giới cầm bút võ hiệp kỳ tình. Có thể mạnh dạn mà đưa ra nhận định như thế.
Nửa đầu thế kỷ hai mươi, các tín đồ
của truyện kiếm hiệp xứ ta say mê với các tiểu thuyết kiếm hiệp như Bồng Lai hiệp khách, Giao Trì hiệp nữ, Lục
kiếm đồng... hay một số tiểu thuyết dã sử mang màu sắc kiếm hiệp như Thuyết Đường, Chinh Đông, Chinh Tây, Vạn hoa
lầu, Ngũ hổ bình Liêu, Ngũ hổ bình Nam, Phấn trang lâu v.v... Song như thế
chưa thấm đâu, và sẽ là thiệt thòi nếu như không được biết đến hàng loạt những
tác phẩm kiếm hiệp khác của các danh tài như Kim Dung, Cổ Long, Lương Vũ Sinh,
Ngọa Long Sinh, Nam Kim Thạch, Trần Thanh Vân...
Trong số ấy, ngôi sao sáng nhất không
ai khác ngoài Kim Dung tiên sinh. Không cần nhắc đến toàn bộ sự nghiệp, chỉ cần
mấy bộ trường thiên như Thiên long bát bộ,
Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký, Tiếu ngạo giang hồ, Thần điêu
hiệp lữ, Lộc đỉnh ký, Kim Dung đã
khiến không ai sánh kịp ông rồi. Thêm nữa, mấy bộ ngắn hơn như Thư kiếm ân cừu lục, Tuyết sơn phi hồ, Phi Hồ ngoại truyện, Bích huyết kiếm, Liên Thành quyết, Hiệp
khách hành ... cũng rất chi là đặc sắc và hấp dẫn .
Độc giả say mê truyện kiếm hiệp của
Kim Dung từng đặt câu hỏi, rằng trong thế giới võ hiệp của Kim Dung, nhân vật
nào là người có võ công cao cường nhất? Hỏi vậy rồi người ta tự trả lời, phải
chăng đó là Vương Trùng Dương, Lâm Triều Anh, Trương Tam Phong, Đạt Ma Tổ Sư,
Tiêu Dao Tử, Độc Cô Cầu Bại, Phong Thanh Dương, hay là Vô Danh Thần Tăng, Hoàng
Sam Nữ Tử, Đông Phương Bất Bại, Hoàng Dược Sư, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong,
Chu Bá Thông,...? Hay còn ai nữa?
Tôi nghĩ, nếu có đưa ra một cái tên cụ thể nào đó thì
sẽ ngay lập tức xảy ra tranh luận chẳng đi đến cả. Chẳng thể có câu trả lời
chính xác, bởi không có căn cứ, vả lại cách nhìn nhận và lòng yêu mến từng nhân
vật của độc giả khác nhau. Vậy thì, chỉ có một câu trả lời khả dĩ có thể chấp
nhận được, người có võ công thượng thừa trong thế giới võ hiệp của Kim Dung
chính là Kim Dung tiên sinh, bởi
không ai khác, ông là người đã tạo nên một thế giới phiêu dật kỳ ảo với các
nhân vật võ công cao siêu tranh hùng tranh bá,...
Ở Trung Hoa, nếu trước đây có Hội Hồng học (Hội của những người chuyên
nghiên cứu tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng
và tác giả của nó là Tào Tuyết Cần) thì giờ đây có thêm hội của những tín đồ
yêu mến và chuyên nghiên cứu về Kim Dung tiên sinh cùng các tác phẩm của ông.
Đấy là một vình hạnh không dễ ai có được.
Trên thế giới, có nhiều nhà văn, nhà
nghiên cứu quan niệm rằng, kiếm hiệp không phải là văn học, mà chỉ là cận văn học, nên tác giả của loại tiểu
thuyết này cũng không phải nhà văn. Đánh giá như thế nào là quyền của họ. Tuy
nhiên, nếu chỉ cần lấy tiêu chí là số lượng người đọc và sự ảnh hưởng của tác
phẩm đến văn hóa đọc, đến đời sống xã hội thì chắc chắn Kim Dung xứng đáng với
danh hiệu nhà văn hơn ối nguời.
Rõ ràng Kim Dung cùng các tác phẩm của
ông là một hiện tượng đặc biệt trong làng văn hóa đọc ở thế kỷ 20, và lan sang
cả thế kỷ 21, không riêng gì ở Trung Hoa mà cả châu Á và thế giới.
Tôi nhớ không thật rõ, nhà văn Vương
Sóc thì phải, đã có bài viết về Kim Dung (Kim
Dung trong mắt tôi) và ở đó, sự đánh giá về Kim Dung tiên sinh rất thường,
khi cho rằng tiểu thuyết kiếm hiệp nói chung không phải là văn học với đúng
nghĩa của nó, nên cũng coi như không đóng góp gì cho tiến trình phát triển của
văn học cả, mà chúng chỉ là thứ mua vui
(giải trí) cho đông đảo độc
giả mà thôi.
Cứ cho là như thế đi, vậy chúng ta sẽ
lý giải làm sao khi đánh giá tính văn học của các bộ sách như Harry Porter (J.K. Rowling), Chúa tể của những chiếc nhẫn (The Lord
of the Rings - J.R.R Tokien), Mật mã Da
Vinci, Thiên thần và ác quỷ (Dan
Brow)- những tiểu thuyết thần thoại và trinh thám, xét cho cùng như một thứ
kiếm hiệp thời đại mới của châu Âu ? Xa hơn nữa, là những Shelock Holmes (Conan Doyle) hoặc Bá tước Monte Cristo (Alexandre Dumas) cũng vậy ?
Tôi dám cả quyết rằng, riêng sự ly kỳ
và tính hấp dẫn, truyện kiếm hiệp của Kim Dung tiên sinh đã ăn đứt rồi. Đấy còn
chưa kể đến những hiểu biết rất chi là siêu của tiên sinh về lịch sử, địa dư,
triết học, tôn giáo, võ học, y học ... được thể hiện trong các tác phẩm một
cách tài tình.
Quay trở lại với những tác phẩm của
Kim Dung. Tiên sinh đã gác bút sau 15 tác phẩm trường thiên, dài ngắn đủ cả. Lý
do ông gác bút, có thể dã cảm thấy bút lực không còn dồi dào, và sự lặp lại đã
thấy đâu đó trong một số tác phẩm. Cũng có thể từ những nguyên do khác nữa.
Song theo tôi, khác với Cổ Long và một số cây bút võ hiệp kỳ tình khác, viết vì
tiền và viết như một thói quen, Kim Dung tiên sinh ý thức việc gác bút khi đang
ở đỉnh cao. Đấy là một điều khó, khiến ông khác người và đương nhiên việc ấy
tôn ông lên vị trí cao hơn những người khác. Quả nhiên, dù không viết thêm tiểu
thuyết kiếm hiệp nào nữa, nhưng ông đâu có vì thế mà kém đi về tiền tài và danh
vọng so với thiên hạ. Việc những tác phẩm của ông ngày càng được dịch ra nhiều
thứ tiếng với số lượng bản in cực lớn, thêm vào đó, các nhà điện ảnh đua nhau
dựng phim ăn theo, tất thảy, đều đem đến cho ông những khoản thu khá lớn từ bản
quyền. Tiền tài và danh vọng đủ cả. Không những thế, ông còn được phong giáo sư
danh dự và thỉnh giảng ở nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới.
Sự gác bút đúng lúc của Kim Dung tiên
sinh cũng đáng giá lắm chứ ?!
Gần đây, thiên hạ om xòm với tiểu
thuyết kiếm hiệp Tru Tiên của một
chàng sinh viên thất nghiệp (Tiêu Đỉnh). Nghe đâu, khi xuất hiện
vào năm 2003, nó đã gây nên một làn sóng trong giới độc giả mê kiếm hiệp ở
Trung Hoa, và cùng với " Phiêu Diểu
chi lữ ", "Tiểu Binh truyền
kỳ " làm thành "Tam đại kỳ thư Internet ". Tôi đã
đọc nó trên mạng, và chỉ sau ít trang mê hoặc phần đầu, tôi đã nhận ra sự non
kém của nó về mọi phương diện. Cái được cư dân mạng gọi là "thời đại kiếm hiệp hậu Kim Dung"
hay là “Tiên hiệp” gì đó đã nhanh
chóng chết yểu khi nó được phơi ra dưới ánh sáng ban ngày trước bàn dân thiên
hạ dưới dạng ấn phẩm.
Lại cũng mới đây, báo chí Trung Hoa
đưa tin về một cuộc bỏ phiếu xếp hạng các nhà văn có tên gọi là "Bảng xếp hạng thực lực nhà văn Trung Quốc",
được hình thành từ 58 nhà văn- ứng cử viên được giới thiệu bởi 10 nhà phê bình
văn học do Chu Đại Khả cầm đầu. Kết quả, người được 9 phiếu là Mạc Ngôn; được 6
phiếu có Dư Hoa, Vương An Ức...; được 5 phiếu có Bắc Thôn, Tô Đồng, Giả Bình
Ao...; nữ văn sĩ đương kim Chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc là Thiết Ngưng cũng
chỉ nằm trong số được 4 phiếu ; còn Vương Sóc và Trần Trung Thực cùng mấy nhà
văn khác thì chỉ được có 3 phiếu mà thôi. Tôi không rõ trong số 58 ứng cử viên
được giới thiệu bình chọn có Kim Dung hay không ? Song nếu có thì cũng chẳng
biết sẽ ra sao, bởi nhìn chung, mỗi nhà phê bình đều có quan niệm riêng của họ,
vậy nên, mức độ tin cậy chỉ còn một nửa. Đấy mới là sự xếp hạng của chục nhà
phê bình mà thôi. Nghe đâu, danh sách 58 nhà văn ứng cử viên này sẽ còn được
công bố để rộng khắp bạn đọc bỏ phiếu. Kết quả phiếu bầu của đông đảo công
chúng mới là quyết định đưa đến chung cục cho bảng xếp hạng này.
Dầu sao, tôi nghĩ, Kim Dung luôn được
bạn đọc ở khắp mọi nơi trên thế giới thán phục và yêu mến, bởi ông đã đem đến
cho họ những cảm xúc bi tráng và phiêu bồng khi đọc các tác phẩm của ông.
Đấy là phần thưởng không dễ gì có được
!
2.
Trong số các nhà văn được bỏ phiếu bình chọn ngày nào
ở Trung Quốc thì người dẫn đầu là Mạc Ngôn đã giật giải Nobel văn chương (năm 2012) với các tác phẩm Phong nhũ phì đồn Đàn hương hình cùng nhiều tác phẩm xuất sắc khác. Như vậy, cũng có
thể nhận định cái hội đồng bình chọn ấy là nghiêm túc, công tâm và khá chuẩn
xác. Tuy nhiên, cái gì cũng mang tính tương đối, bởi khoa học xã hội nhân văn,
có chính xác đến đâu chăng nữa, một khi còn bị chi phối bởi yếu tố cảm xúc thì
đương nhiên kết quả dễ lung lay và thay đổi theo thời gian. Giờ đây, người ta
không kể tên Dư Hoa, Vương An Ức, Tô Đồng, Vương Sóc, Giả Bình Ao... những nhà
văn Trung Quốc từng được đánh giá cao một thời, mỗi mùa Nobel văn chương với tư
cánh là các ứng cử viên năng ký, mà lại nhắc đến cái tên Tàn Tuyết... Nhưng
rồi, Nobel văn chương cũng chưa xướng tên bà này. Dẫu sao vẫn còn hy vọng các
mùa sau,...
Nói chuyện này, thực ra dể trở lại một cái tên quen
thuộc hơn nửa thế kỷ qua, kể từ khi ông còn sung sức hay thời gian gác bút và
cả khi đã qua đời, ấy là Kim Dung cùng các tiểu thuyết kiếm hiệp trứ danh của
mình,...
Các tiểu thuyết dài hơi của Kim Dung, tôi đọc đi đọc
lại. Khi chúng được điện ảnh hóa, nhất là các phiên bản do Trung Hoa đại lục
dựng, cũng xem nhiều lần. Vậy điều gì đã hấp dẫn tôi làm vậy, khi mà nhiều tác
phẩm hàng kinh điển của các nhà văn lớn trên thế giới tôi chỉ đọc một vài lần?
Thật khó lý giải cho rạch ròi với những câu hỏi tại sao, khi mà các tiểu thuyết
kiếm hiệp của Kim Dung, người ta không công nhận là văn học đích thực, mà chỉ
cho là á văn học, cận văn học gì đó?
Hấp dẫn, với nhiều thế hệ độc giả, đấy là điểm mạnh
không dễ gì các tác phẩm văn học khác sánh được tiểu thuyết kiếm hiệp cảu Kim
Dung. Điều gì đã tạo nên sự hấp dẫn đó? Võ hiệp kỳ tình, đã trở thành khuôn mẫu
cho thể loại truyện kiếp hiệp nói chung mà các tác giả khác (như Trần Thanh Vân, Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh, Cổ Long,
Điểm dễ nhận thấy “cái
chốt” mà Kim Dung đóng trong truyện của mình, hay nói một cách khác, “chìa khóa vạn năng” dể mở mọi cánh cửa
diệu kỳ, ấy là “duyên kỳ ngộ”. Hiểu
nôm na thì đó là “sự gặp gỡ kỳ diệu”.
Ở đây, không chỉ là duyên kỳ ngộ của các nhân vật nam chính nữ chính với nhau,
mà là sự hợp duyên của nhân vật chính với loại võ công thượng thừa do vô tình
có được,... Nào hãy xem, Trương Vô Kỵ vô tình có được Cửu dương thần công và Càn-khôn-đại
na-di; Lệnh Hồ Xung tình cờ mà được Phong Thanh Dương truyền thụ kiếm khí
thượng thừa với triết lý khác người “vô
chiêu thắng hữu chiêu”, và cũng vô tình học được Hấp tinh đại pháp; Dương Quá thì tình cờ được võ công của Độc Cô
Cầu Bại; Đoàn Dự vô tình học được phép Lăng-ba-vi-bộ
của Tiêu Dao phái và Lục Mạch thần kiếm Đại Lý; Hư Trúc cũng tình cờ mà có công lực
cùng võ công thượng thừa của Tiêu Dao Tử; Thạch Phá Thiên chất phác vô tình
hiểu được chữ khoa đẩu để lĩnh hội võ công tuyệt đỉnh thiên hạ,...
Thực ra, “duyên
kỳ ngộ” chỉ là một cách diễn đạt về sự ĐỐN NGỘ của triết lý nhà Phật. Cái
gọi là “sat-na Đốn ngộ”, hay nói một
cách đơn giản, trong một khoảnh khắc nào đấy con người ta ngộ ra một chân lý,
một điều gì đấy mà lâu nay vốn mờ tối bỗng dưng sáng tỏ. Cái quan trọng hơn,
sau sự đốn ngộ, mọi ý nghĩ trở nên thông suốt, minh triết, nhìn vào đâu vào cái
gì cũng thấu tỏ. Để đạt được trạng thái này, trong thực tế, ít có sự diệu kỳ
xảy ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập trung suy tư nghiền ngẫm chờ cơ duyên
bất chợt mà bùng phát mà thôi. Thế nhưng, trong thế giới võ hiệp của Kim Dung,
cơ duyên và sự kỳ diệu hòa quện làm một, gây hiệu ứng bất ngờ cho bạn đọc, tạo
nên sự cuốn hút, hấp dẫn, cùng trạng thái thăng hoa. Điều ấy chẳng khác mấy
trạng thái phấn khích của doping. Kim Dung mê hoặc người đọc là thế?!...
Điều này còn cho thấy một minh triết, chân lý, tự thân
vốn giản dị, tuyệt nhiên không phải là kết quả của sự hỗn loạn, rắc rối nào cả.
Cho nên, tiếp cận để đi đến chân lý, sự chân thực thuần phác là con đường ngắn
nhất,...
Tựa vào lịch sử, ấy là sự lựa chọn và phương châm xây
dựng không gian truyện cho hầu hết các
sáng tác của mình. Trong hơn chục truyện võ hiệp ngắn dài của Kim Dung, ngoại
trừ tác phẩm “Tiếu ngạo giang hồ”
không thật rõ nét về thời điểm lịch sử, còn lại các câu chuyện khác đều được
đặt trong một bối cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, ngay như “Tiếu ngạo giang hồ”, căn cứ vào sự tồn
tại, hưng vong của các giáo phái ở Trung Hoa như: Minh giáo, Thiếu Lâm, Võ
Đang, Nga My, Thanh Thành, Ngũ hiệp kiếm phái, v.v ... Người ta cũng có thể suy
đoán được bối cảnh lịch sử của cuốn truyện. Có một điểm chú ý dẫn đến việc Kim
Dung lấy bối cảnh lịch sử Trung Hoa để tựa vào, đó là xuất thân của ông. Tuy
định cư và phát triển sự nghiệp ở Hồng-kông nhưng quê hương bản quán của Kim
Dung ở Gia Hưng, Chiết Giang thuộc gia tộc khoa bảng danh giá. Lấy bối cảnh từ
các triều đại phong kiến và sự tồn vinh của các giáo phái Trung Hoa là một lợi
thế rất lớn, bởi lịch sử Trung Hoa là những cuộc chiến liên miên giữa các tập
doàn phong kiến, các triều đại, nội chiến huynh đệ tương tàn, sự kháng cự
của Đạo giáo Trung Hoa với các giáo phái
ngoại lai... . Có lẽ, đây còn là sự khẳng định về nguồn gốc bản thân và gia tộc
trong lịch sử văn hóa dân tộc mình. Nói cách khác, Kim Dung mượn truyện võ hiệp
để quảng bá lịch sử, văn hóa dân tộc, đất nước mình ra phạm vi toàn thế giới.
Có một sự thật là, hư cấu có đến mấy cũng khó vượt nổi
sự phong phú đa dạng của thực tế, vì hư cấu chẳng qua là sản phẩm của đầu óc
con người. Vậy nên, Kim Dung đã khôn khéo lựa chọn một phương thức pha trộn, ấy
là hư cấu về nội đung và tình tiết truyện nhưng đem chúng bỏ vào một không gian
lịch sử cụ thể. Cách thức này vô hình chung vừa tạo nên tính xác thực và cả sự
hoài nghi cho câu chuyện, nhân vật,..Đó cũng là cái cách làm nên sự cuốn hút
cho tác phẩm. Quả thật, đọc các tác phẩm của Kim Dung thấy ông rất hiệu nghiệm
khi sử dụng cách thức này.
Yếu tố nhân văn nhào luyện cùng chất phiêu bồng, Kim
Dung thực sự là một phù thủy cao tay khi dùng ”phép luyện công” này. Thực tế cho thấy, các cây bút chuyên viết
truyện võ hiệp khác cũng đều sử dụng phép thức này, nhưng Kim Dung cao siêu và
tài tình hơn cả. Trong các truyện võ hiệp của mình, sự kết hợp nhuần nhuyễn
chất nhân văn (hạt nhân các nhân vật)
và chất phiêu bồng (dung môi tạo nên
không gian truyện) là những yếu tố xuyên suốt, là chất kết dính các dị
biệt, thái cực với nhau.
Nhân văn là bản chất vốn có trong mỗi con người, vậy
nên nó đậm đặc ở các nhân vật chính diện (Trương
Tam Phong, Quách Tĩnh, Tiêu Phong, Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, Đoàn Dự, Hư
Trúc, Tiểu Long Nữ,...), phai nhạt ở các nhân vật trung gian, mập mờ ở các
nhân vật chính tà lẫn lộn (Nhạc Bất Quần,
Tạ Tốn, Thiên Sơn đồng mỗ, Dương
Khang, Khang Mẫn, Lý Mạc Sầu. Điền Bá Quang, Mộ Dung Phục,
Không thể phủ nhận, chất phiêu bồng làm nên thế giới
ảo diệu của riêng Kim Dung. Ông không sa đà vào sự thực lịch sử, mà chỉ mượn
lịch sử, nương vào đó để dựng không gian truyện của mình, tạo nên một “thế gian võ hiệp” riêng có. Thế gian
truyện của ông chông chênh giữa lịch sử và hư cấu, giữa thực và ảo, giữa thiện
và ác, giữa tiên thánh và con người,... Mà thế giới ấy, người đọc của trần gian
thực tại luôn tò mò thích thú bởi ước muốn thoát tục vươn tới một thế giới lý
tưởng?
Kim Dung thần diệu, tài tình hơn người là vậy
chăng?!...
Có lẽ, vì cao siêu và tài tình hơn người, nên cả lúc
còn sống và khi khuất bóng, các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung mà nhiều nhà
nghiên cứu chỉ xếp vào dạng “cận văn học”, đã và vẫn sẽ hấp dẫn hàng triệu
người trên khắp thế giới, trên phương diện văn bản đọc hay sản phẩm điện ảnh.
Và như vây, Kim Dung xứng danh là “đê nhất võ lâm truyền kỳ” !
PS: Có một người chưa đọc vì không thích Kim Dung, bởi
ông coi truyện kiếm hiệp của Kim Dung và truyện kiếm hiệp nói chung, là “cận văn học”, đó là nhà thơ Trần Đăng
Khoa. Gần đây, nhân tập thơ “Góc sân và
khoảng trời” của ông tái bản lần thứ 157 (Có thể coi là một kỷ lục xuất bản ở Việt Nam hiện nay), tôi hỏi nhà
thơ Trần Đăng Khoa, rằng ông có biết, hiện tại sách của tác giả nào được ấn
hành nhiều nhất thế giới không, thì ông bảo không biết. Tôi bảo, truyện kiếm
hiệp của Kim Dung, với hơn 300 triệu bản in trên toàn cầu (chưa kể số lượng bản in lâu cũng rất lớn). Chưa chắc chắn, song
cũng có thể xem là kỷ lục thế giới rồi. Trần Đăng Khoa tròn mắt, thế á. Tôi
đùa, việc ông coi truyện kiếm hiếp của Kim Dung không phải là sách văn học. Ông
cười, hỏi: “Thế truyệncủa Kim Dung có hấp dẫn không?”. Tôi bảo: “Rất hấp dẫn”. Trần Đăng Khoa toét miệng
cười: “Vậy là được rồi... Là văn học hay không, đâu có còn quan trọng
nữa !”. ./.
Nhận xét
Đăng nhận xét