ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN VĂN (bản thảo tập sách 27)


 

NGUYỄN TÂN QUẢNG KÝ HỌA

@@@

ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN VĂN




 

ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN VĂN

Tiểu luận & Chân dung văn học

(Nguyễn Chu Nhạc)

 

 

CHÍNH DANH GỌI TỄU..          

 

                                                                           

·        Chính danh gọi Tễu

          Đấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của mình - các tập thơ là đủ thấy: Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.

          Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng:

                             Cởi trần đống khố múa chơi

                             Hát rằng, giữa đất và trời có ta

                             Đất là mẹ, trời là cha

                             Chính danh là Tễu, tự là Thảo Dân ...       

          Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ - Tiến sĩ Luật  - Nhà thơ - Nhà báo. 

          Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.

          Thoạt đầu là cái tên Công Trứ, khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ - Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu (Nam Định) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ  đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn  (Ninh Bình), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.

          Thêm nữa, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một danh thần, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào (Hưng Yên), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư.

          Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. Đã từng đứng trên bục giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này!

          Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh, khi ấy là Phó Tổng biên tập Báo NNVN. Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước. 

          Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì .

          Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng bài lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.

          Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, thương thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia, ấy là phải đội các bậc cao thủ tiền bối lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc: Nguyễn Duy - Lê Đình Cánh - Phạm Công Trứ - Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.

          Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ (tập thơ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã?

          Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng (in trong tập Lên núi tầm mai - Nxb Văn học-2005 ), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu”. Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.

          Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con (một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan-Hoa các, hoặc giả Nghênh-Phong hiên, hay Vọng-Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu, một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.

          Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển Cỏ may thi tập. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở “ngồi gỡ lời thề cỏ may”. Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là folklore, gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả làng, cả tổng, cả thiên hạ (đâu kém cạnh gì cụ Tú Xương cùng quê với gã). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.

          Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới “cởi trần đóng khố múa chơi”. Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch: “Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu/ Bạn thì những chó cùng trâu…”. Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao, Tễu bình thường cam phận là thế: “Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng”, song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: “Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta”. Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.

          Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả “Độc một mảnh khố che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi”, Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: “Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay”. Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng, thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai ? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ “Sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân”.

          Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố “Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân”. Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, mà đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê , mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây-Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo, với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đêm trăng.

          Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa “Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa/ Này người dân dã quê ta/ Cắc tùng nhịp trống, ới a điệu chèo”. Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò!... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao?

          Tễu ta, thị dân: “Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ ...”. Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.

           Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân: “Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời”.

          Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai. Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ?!

          Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã ... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài ... ! Có phải vậy không? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán: Trứ, có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách (theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người (như học giả, hiền giả), còn bộ thảo chỉ cây cỏ. Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành giả (như tác giả thi ca chẳng hạn) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.

          Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn : “Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ”.

          Không những thế, ở phần V Thơ phú giao duyên, gã thẳng thắn tự giễu cợt mình: “Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/ Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa: chấp chi/ Hắn - Phạm Công Trứ!”.     

          Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ. Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã (kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thế thì thương xót và nương nhẹ ai đây ?!...   

·        Tự là Thảo Dân

          Có một dạo Phạm Công Trứ được giao chuyên trách tở Pháp luật cuối tháng. Trong đó khó nhất là “nuôi” một chuyện mục nửa báo nửa văn, gồm những chuyện pháp luật, xã hội, đời sống, độ trên dưới nghìn từ. Bí bài, Phạm Công Trứ cầu cứu đến tôi. Chẳng là, ngày ấy, tôi là Phó trưởng ban Văn hóa xã hội Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), nội dung công việc hàng ngày liên quan đến các vấn đề văn hóa-xã hội, đời sống-pháp luật. Các thể loại ngắn như tản văn, tạp bút, câu chuyện là nghề của tôi. Vậy là tôi nhận lời giữ mục cho Phạm Công Trứ, cũng đâu cầm cự được vài năm. Lẽ dĩ nhiên, còn có thêm bài viết của người khác để chuyên mục đa giọng điệu, đỡ nhàm, và phòng khi tôi quá bận việc hoặc bí đề tài... Nhân đây, cũng phải cảm ơn Phạm Công Trứ, bởi nhờ những tạp bút, tản văn đó, mà sau này tôi cơi nới, nhuận sắc được tập sách khá dày dặn là Lên núi tầm mai, in ở nhà Văn học, 2005.

          Đây cũng là thời kỳ thơ Phạm Công Trứ sung sức nhất. Ngoài các tập thơ tặng, tôi còn được nghe gã đọc thơ và chuyện phiếm về thi ca, cùng chuyện bếp núc văn chương chữ nghĩa. Những tư liệu, thi liệu này đã giúp tôi viết bài chân dung Chính danh gọi Tễu. Khi đưa lên mạng xã hội (blogtiengviet.net), nhiều người vào dọc, thích thú, cảm nhận và còn cung cấp thêm một số chuyện mà họ biết hoặc nghe nói về gã, ví như một người sống ở Vũng Tàu, bảo là rất thích bốn câu  của lục bát của Phạm Công Trứ “Mướp tàn sen cũng đi tu/ Lá tre đã thả một mùa heo may/ Con sông không ốm mà gày/ Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn”. Khi ấy tôi mới giật mình tự trách  sao mình lại bỏ sót câu thơ rất gợi này.

Lại có người thóc mách chuyện thời Phạm Công Trứ sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ngành Luật, vì chuyện cơm áo đã cùng người ta buôn hàng này nọ. Rồi cả chuyện đem chó Bắc Kinh về Việt Nam kiếm lời theo phong trào, rủi ro thế nào mà bán lỗ vốn. Có người còn biết cả chuyện Trần Đăng Khoa (khi ấy đang là sinh viên Trường viết văn Gorky) trêu Phạm Công Trứ, khi xuất khẩu thành thi rằng: “Đã Nguyễn Công rồi... lại Phạm Công/ Tưởng là thi sĩ hóa ra không/ Sang Tây nghiên cứu không thấy chữ/ Túi đầy xi ngực với xi mông”. Ôi, ngày ấy, nhãng học đi buôn là chuyện của nhiều người chứ đâu mình Trứ. Nghĩ mà thương gã một, thì tủi cho trí thức xứ ta mười!

          Trở lại chuyện thơ ca, những thứ làm nên tên tuổi Phạm Công Trứ trong làng Lục bát Việt Nam hiện đại.“Chính danh gọi Tễu”, mới chỉ phác họa một nửa chân dung gã nhà thơ này, còn cái nửa kia tất nhiên“tự là Thảo Dân”như chính câu thơ của gã. Mà Làng phố giao duyên, in năm 2010, một dạng trường ca, trong đó đã thể hiện rất rõ cái gọi là Thảo Dân này.

Theo nghĩa Hán-Việt, “thảo” là cỏ, còn chữ “dân” nghĩa nguyên thủy là kẻ nô lệ. Vậy nên nói thảo dân là tự nhún mình, ví mình là thứ  nhiều như cỏ rác, mang thân phận thấp hèn của “dân đen”. Tuy nhiên, hai chữ Thảo Dân ở đây viết hoa và được xem như “tự” của chính danh gọi Tễu. Có lẽ Phạm Công Trứ cũng như một số các nhà thơ khác “xài” hai chữ Thảo Dân thì chỉ là một cách nói nhún nhường để rồi biểu dương, vinh danh họ, chứ không mang tính chất hạ thấp, xem thường người nông dân. Chẳng thế mà cỏ may, một loại dã thảo, đã có mặt trong số bài thơ đầu tiên trình làng văn nghệ của Phạm Công Trứ. Rồi, như một duyên nợ, cỏ may xuyên suốt đời thơ và để dấu ấn đậm đặc làm nên thương hiệu thơ Trứ: “Cỏ may cỏ đĩ cỏ mê/ Cỏ không ngôi thứ cỏ thề cùng tôi… Cuối cùng thì đất lên ngôi/ Tôi hóa thành cỏ hát lời hư vô!”.

          Như cái tên “làng phố giao duyên” viết trường ca này, Phạm Công trứ cũng chẳng cần di đâu xa, gã cứ lấy nguyên cái làng quê mình trong sự đối sánh, trương tranh, tương giáo với “phố”  mà tả, mà kể, mà giễu cợt, mà thương nhớ xót xa,... Cũng như cái làng Vũ Đại của Nam Cao hóa thân từ làng Đại Hoàng quê ông, đại diện cho sự bần cùng hóa pha lưu manh hóa thời thực dân phong kiến ở làng quê Bắc bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, thì nay làng của Phạm Công Trứ ở chốn Hải Hậu có thể thay mặt cho làng quê xứ Việt buổi cựa mình, đổi mới vươn lên thoát nghèo. Bề bộn và nham nhở lắm, biết bao chuyện dở khóc dở cười với hiện trạng “làng trong phố, phố nửa làng”. Thì đấy: “Ban ngày phố như làng/ Em tóc vương rơm cỏ/ Đêm về làng hóa phố/ Em tóc nâu môi trầm”; “Làng xưa vãi húng trồng rau, phố giờ cắt tóc gội đầu như ai”; “Chỗ này xưa gọi làng Vòng/ Tiếng chày giã cốm uốn cong trăng vàng/ Từ ngày phố nuốt mất làng/ Những em giã cốm chuyển sang làm đầu”; “Cái mất thì đã mất rồi/ Cái còn nhấp nhổm đứng ngồi không an”...

Dù là tiến sĩ Tây học, gần trọn đời sống ở phố, làm báo làm thầy đi khắp đó đây, ăn mòn bát đĩa thiên hạ, nhưng cứ sểnh ra là gã lại hiện nguyên hình là một tay nhà quê, với cỏ rả, bùn đất đồng áng: “Cỏ may, sao lại cỏ may/ Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê/ Nhớ đồng, nhằm biển anh về/ Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa”; sống lại với chuồn chuồn bươm bướm từ thuở trẻ trâu: “Rón rén là rón rén ơi/ Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay/ Rón rén là rón rén này/ Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi”.

Gã như còn như tự hào với những cánh bướm, cánh chuồn, cánh diều mà gã mỹ miều gọi là hồn quê:“Hồn quê vi vút phiêu diêu/ Ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”. Chẳng ngại gì kẻ cười người chê là quê mùa, gã như còn thấy hả hê, hào hứng: “Tắm truồng thú của trẻ quê/ Ra phố là hết đam mê tắm truồng/ Về quê tìm lại cội nguồn/ Hòa cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông”...Thậm chí gã còn gọi đó là bậc nhất “thú quê”: “Thú quê gì sướng nhất ta/ Chọi gà bắt cá hay là cưỡi trâu?/ Cưỡi trâu chưa sướng nhất đâu? Sướng nhất là được cùng nhau… tắm truồng”.

          Chẳng biết thuở nhỏ gã có “chăn trâu cắt cỏ” không, song thơ gã đã Cắt cỏ chẳng ngại gai đâm/ Lội ruộng chẳng hãi âm thầm bùn rêu”. Cùng với cỏ rả là những cào cào, châu chấu, cua ốc, trâu chó dù đã xuất hiện sớm song phải đến trường ca này thì nó mới dầy đặc như là một thế giới cần lao lam lũ (dã tràng tự bạch, là ếch, là trâu…). Thi liệu, thi ảnh toàn là những công việc của người quê, sản vật của làng quê, từ đó làm nên thứ “văn hóa làng quê”, mà là làng quê của đồng bằng ven biển, của kẻ tự nhận là… Thảo Dân!

Là trường ca thì cũng phải có chương hồi chứ, nên gã dụng công băm chặt bày đặt ra cho có đủ cả“Mở”, và “Khép”, còn khúc giữa là những Ngày tự nhận “Mục đồng là chúng anh đây/ Lưng trâu đã cưỡi, liềm tay đã cầm/ xưa, Tự bạch, Trích ngang, Làng, Đấng sinh thành, Viết cho con, Phố, Hà Thành hồi cổ, Hai khúc sông Tô, Làng trong phố, Phố nửa làng... Là trường ca thì kiểu gì cũng phải tự sự, tức là kể và tả. Mà đã kể tả thì khó tránh khỏi “con cà con kê”, “ngồi lê đôi mách”, dù chữ nghĩa có  dụng công đến mấy. Phạm Công Trứ không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, ở Làng phố giao duyên cũng hạn chế được sự nhàm chán nhờ ở cách kể và ở giọng kể. Ấy là một giọng kể hóm hỉnh, có duyên và nhất là gã liên tục thay đổi giọng điệu, biến tấu thể thơ.

Chẳng hạn, gã mượn đồng dao để nhớ về cái tuổi thơ hoa bướm, mộng mơ “Ngày xưa/ Kéo cưa lừa xẻ/ Chẳng hám cơm Vua / Chỉ mong được thua/ Về bú tí mẹ (!)/ Ngày xưa/ Mặc quần thủng đít/ Chi chi chành chành/ Quả ổi quả chanh/ Gốc na gốc mít/ Ríu ra ríu rít/ Ngày xưa/ Đung đưa hoa bìm/ Lim dim hoa khế/ Sao mẹ đi chợ lâu thế?/ Ngày xưa/ Đi trốn / Đi tìm/ Đống rơm, đống rạ/ Góc bếp, cánh cửa / He hé mắt nhìn/ "Ù oà", "ù ập"/ Thế là ú tim!...”.

Có lúc Phạm Công Trứ mượn lối văn biền ngẫu của thể phú để phác họa cảnh và người ở vùng quê biển của gã: “Ngàn lưỡi chó dưới chân sóng liếm/ Trăm tay mèo trên đầu gió mơn/ Lũ còng gió ườn mình nằm phơi nắng/ Đàn dã tràng miệt mài xe cát lấp đại dương/ Người đi te chân kheo cao nghễu nghện/ Dân bắt còng giỏ nặng kéo lệch sườn/ Gái làm muối bịt mặt cười lấp loá/ Trai kéo rùng cơ bắp cuộn như lươn/ Anh quỳ xuống ô nề trưa nắng toé/ Lưỡi thấm mùi mặn chát kiếp gío sương/ Anh soi lên ánh mặt trời nhiệt đới/ Những long lanh tinh kết giữa ngày thường/Anh chạy vồ những con còng gọng đỏ/Những mắt lồi sắp chết vẫn còn giương/ Anh áp tai vào những vỏ sò, vỏ ốc/ Nghe u u hồn biển giục lên đường…”.

 Cũng bằng lối miên man kể và tả, gã dẫn dụ người đọc lạc vào trận đồ chữ nghĩa dày công giăng mắc của mình: “Sông quê nước chảy rầm rì/ Mặt sông sẫm màu nước vối/ Gái quê đi làm đồng về/ Kéo nhau ra sông tắm tối/ Sớm ra vạn chài hành nghề/ Rộn rịp vãi chài tung lưới…Tháng chín bước sang tháng mười/ Cốm mới thơm mùi mời gọi/ Rải đồng chim ngói từng đàn/ Thôn xóm bước vào mùa cưới/ Cô dâu nửa khóc nửa cười/ Chú rể mong trời chóng tối/ Lúa chiêm cấy hái xong xuôi/ Tết Ta cũng vừa kịp tới/ Nhà nhà gói bánh, đồ xôi/ Giồng nêu, quét lại tường mới/ Sân đình náo nức cờ người/ Ao làng om thòm diễn rối/ Thôn nữ váy ngắn nhún đu/ Các cụ ngước nhìn không nói,...”.

Kể gì thì kể, tả gì thì tả, thế nào rồi cũng phải hiện lên bóng dáng trâu bò thấp thoáng nơi triền đê, ngõ xóm: “Cảnh quê bao đời tiếp nối/ Trâu bò gặm cỏ triền đê/ Lông mượt vo ve ruồi muỗi/ Nối đuôi từng đàn chiều về/ Thậm thịch chìm vào ngõ tối/ Mục đồng tóc gió vàng hoe/ Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi/ Bập bùng ánh lửa bên hè/ Mùi cơm quyện vào mùi khói/ Lấp ló trên đầu ngọn tre/ Trăng non cong hình lưỡi hái/ Dưới trăng trai gái nguyện thề/ Thầm thì bãi dâu, ruộng cói/…”.

Làng quê trong Thơ phú giao duyên cũng như có “âm bản”, bên cạnh cái phồn thực, phong nhiêu là bàng bạc cái nỗi buồn muôn thuở của đồng quê, nỗi khốn khó lam lũ của những thảo dân, nhất là khi màn đêm trùm lên lũy tre làng: “Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè/ Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa/ Cót két gió vặn thân tre/ Tưởng tiếng dân nghèo than thở/ Lấp loáng cánh dơi đi về/ Mèo hoang từng hồi nức nở/ Lửa chài thấp thoáng ven đê/ Bờ bụi nhọc nhằn tiếng cú/ Kẽo kẹt bên sông vó bè/ Ma trơi trên cồn nhảy múa/ Say rượu giọng ai lè nhè/ Vu vơ đôi tiếng chó sủa/ Đều đều mẹ kể con nghe/ Cái thời ngày xưa ngày xửa/ Bến sông trăng ném thia lia/ Thôn xóm chìm vào giấc ngủ/ Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa/ Trong nhà tiếng người nói mớ/ Mảnh mai tiếng hạc về khuya/ Chém màn đêm thành hai nửa/ Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi/ Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ…”.

Quả thật, đọc những dòng ma mị như thế, người ta sây sẩm mặt mày như bị thôi miên mà lạc lối trong mê lộ chữ nghĩa giăng mắc. Những khúc miên man li bì như vậy không hiếm trong trường ca này, nó tạo nên cảm giác bất bình thường, ru rín, mê dụ, như tự kỷ ám thị mà không biết thoát ra bằng lối nào. Về mặt tâm linh, có thể ví chúng với thuật thôi miên trong lối hát hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt bản địa. Mà Phủ Giầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở đất Nam Định, quê gã, lại là “cái nôi” của Đạo Mẫu rất thịnh lối hát chầu văn hầu bóng này. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Phạm Công Trứ mượn các dạng thức dân gian đặng “thao túng tâm lý” khiến người đọc bị mê dụ dẫn dắt. Song như thế kể cũng đáng, bởi bức tranh quê mà gã họa nên bằng ngôn từ, nhạc điệu thực sự mê đắm lòng người. Tôi nghĩ, đó là điểm mạnh, khác biệt riêng có của Phạm Công Trứ.

         Về cấu trúc, trường ca Làng phố giao duyên không có gì mới. Từ mấy chục năm trước, khi đang còn tuổi thiếu niên, thần đồng Trần Đăng Khoa, trong trường ca Khúc hát người anh hùng, đã dùng ngôn ngữ thơ để kể trong không gian truyện về sự tích anh hùng của người thôn nữ Mạc Thị Bưởi. Và, để thâu tóm chủ để tư tưởng của từng khúc, từng chương, đồng thời làm cọc tiêu, điểm nối và thay đổi tiết tấu Khoa đã sử dụng những khúc hát theo thể lục bát rất tài tình. Ở trường ca Làng phố giao duyên của Phạm Công Trứ, ta cũng bắt gặp thủ pháp này, tuy không thật rõ ràng. Bởi các khúc lục bát của Phạm Công Trứ đa phần là để thay đổi tiết tấu chứ không giữ vai trò cô đọng ý tứ và sâu chuỗi mạch thơ như Trần Đăng Khoa. Có điều, khi sáng tác Làng phố giao duyên, Phạm Công Trứ đã bước vào tuổi trung niên, nên ngôn ngữ thơ kể chuyện già giặn, ma mãnh, với nhiều chiêu trò, mảng miếng, như đã nói.

          Vậy thì qua trường ca này, Phạm Công Trứ có đóng góp gì về mặt nghệ thuật thẩm mĩ? Ý tưởng, nội dung thì quá rõ. Làng phố giao duyên nói về thời kỳ chuyển đổi từ “làng” canh tác nông nghiệp lạc hậu lên “phố” sản xuất hàng hóa thương mại mại dịch vụ. Trong quá trình vặn mình chuyển đổi ấy, có mất có được, mà được là chính. “Làng từng tìm thật mà yêu/ Phố nay lấy khéo làm điều vinh danh/ Không làng tự đánh mất mình/ Thiếu phố thật khó đua tranh với đời”.

Thương nhớ và cũng bực mình lắm thay bởi cái sự chuyển đổi còn dang dở, khi phố chưa hẳn thành phố mà quê cũng không hẳn còn quê. Giao thoa, giao duyên giữa làng và phố với ý tưởng thế, không chỉ được Phạm Công Trứ chuyển tải trong trường ca này mà còn ở nhiều bài thơ khác những năm gần đây. Nhìn chung, nếu đem tách ra từng trường đoạn, từng khúc, nhìn nhận như một bài thơ độc lập thấy nhuyễn và hay, nhưng đặt trong cấu trúc của trường ca thì còn rối và thiếu liền mạch. Như vậy, xét về tổng thể, Phạm Công Trứ chưa thật cao tay ấn, còn có chỗ vụng trong bài binh bố trận và điều khiển đội quân chữ nghĩa của mình.

          Điều đáng ghi nhận ở gã phù thủy Phạm Công Trứ là qua trường ca Làng phố giao duyên, cùng một số bài thơ khác, dấu ấn về LÀNG rất đậm nét, mặc dù gã không xướng tên một làng quê cụ thể nào để khám phá, vinh danh, chẳng hạn như cái “bản Hiếu Lễ” của Y Phương, “bản Hon” của Dương Thuấn, hay “làng Chùa” của Nguyễn Quang Thiều... Ấy là cái tài của gã, biến cái riêng thành cái chung, nâng cái cụ thể lên thành khái quát. Mà điều ấy, thật không dễ chút nào và không phải nhà thơ nào cũng làm được. Sắm vai một Thảo Dân thời 4.0, gã đã khép lại làng phố giao duyên, bằng một cái kết “mở”: “Biết thân thấp thế lỗi thời/ Giữa làng và phố đành ngồi giao duyên/ Sâu sắc phát lộ hồn nhiên/ Rạ rơm khuất lấp một miền phồn hoa/ Áo xiêm mớ bảy mớ ba/ Khép vào tưởng phố mở ra thấy làng”.

3. Nhuốm màu thiền lão

Ở vào cái tuổi chấp chới thất thập niên lão, Phạm Công Trứ lượng sức mình, chẳng thể cứ dương dương như cái buổi đầu ra phố “Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân” mà đã thoáng thấy cái sự mệt mỏi, ngấm đời của“Dáng đi có lỗi với đời/ Cái đầu đã cúi thấp rồi, thấp hơn”. Đóng cửa luyện công đặng nâng cao tuổi thọ, kéo dài tuổi thi hình như là chủ trương của lão. Hàng chục năm liền, không thấy gã ọ ẹ ở đâu, thơ phú nơi nào. Sống thì chắc rồi nhưng sống ra sao thì chẳng rõ. Hỏi thăm vài ba người thân với gã thì họ bảo “Vẫn sống nhăn răng đấy dưng mà bệnh tật yếm thế lắm”.  Hỏi tiếp “Thế thơ phú gì không?”. Lại bảo “Chắc là có đấy. Lão này còn ngọ nguậy thì còn thơ. Bắt lão ấy cai thơ khéo lão thăng luôn”.

Rồi một hôm, bất thình lình thấy Phạm Công Trứ ngồi thù lù nơi phòng khách Hội Nhà văn, số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Quần áo, mũ len khăn cổ xùm xụp, thêm một cái gậy chống bên cạnh và thẻ xe buýt dây đeo trước ngực. Giá gặp ngoài đường dễ ngỡ lão hành khất nào đó. Râu tóc bờm xờm bạc cả, riêng ánh mắt thì vẫn ánh lên sự minh triết pha chút tinh nghịch, giễu cợt vưỡn có.

          Thơ gã lại đăng lác đác đây đó. Tôi biên tập một bài viết bình thơ Nguyễn Bính gửi đến Tạp chí Nhà văn & cuộc sống. Đọc mà ngờ ngợ, tên tác giả bài viết thì lạ hoắc. Hỏi ra, ông Tổng Khoa cười toét miệng “Lão Phạm Công Trứ đấy. Tớ bắt đề tên thật rồi”. Tôi ngớ người “Thảo nào, giọng văn quen quen ...”. Thời gian sau, mỗi lần đến Hội, gã đều ghé vào Tạp chí chuyện phiếm. Đã bỏ được chiếc gậy chống, chuyện cũng rôm rả hơn. Lại hiện nguyên hình một gã tiến sĩ nửa nhà quê, độ lượng và từng trải, thật thà mà tinh quái,...

          Thực ra, suốt quãng thời gian bế quan, hay trầm cảm tự kỷ gì đấy, gã vẫn bập bõm, chi chút với thơ “Về già thơ phú lai rai/ Chẳng cao thêm được chỉ dài thêm ra”. Có điều, điềm tĩnh, thâm trầm hơn về cách nhìn nhận cuộc sống, và giọng điệu đã hạ tông, thương đời, thương mình hơn, nhưng vẫn lộ rõ sự hóm hỉnh vốn có của “gã nhà quê… tinh quái” như “đọc vị” của nhà thơ kiêm nhà phê bình cũng rất tinh quái là Nguyễn Hoàng Sơn trong một bài viết về thơ Trứ trước đây.

Về chữ nghĩa, vẫn nguyên đó một Phạm Công Trứ biến hóa, giàu thanh sắc, hình ảnh, nhạc điệu,... Riêng về thơ lục bát, theo tôi, gã không lẫn bất cứ một ai trong số các cao thủ về thể thơ này (như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Trần Đăng Khoa, Đồng Đức Bốn). Cùng giàu chất uy-mua, nhưng ở Nguyễn Duy quãng thời gian sau là chủ ý bông đùa và đẩy lên thành nghệ thuật; Còn Lê Đình Cánh thì chủ thể luôn đứng hẳn một phía để rồi quan sát, tủm tỉm cười mà cảm thông đôi chút; Riêng Phạm Công Trứ là sự tự thân, tự giễu, lấy chính mình làm đối tượng rồi ra chuyện người nên có sự đồng cảm, chia sẻ,...

Được biết, lão đang ráo riết chuẩn bị in “Thơ Chùm”, một dạng “sơ tuyển”, nhân cập tuổi “cổ lai hy”. Chẳng hiểu xuất phát từ đâu, gã lẩn thẩn sắp xếp “cây thơ” mình theo từng chủ đề, mà gã gọi là “chùm”: Cỏ, Phồn, Linh, Luật, Lão, Mùa, Nhi, Triết ... và kỳ công viết luận giải mào đầu cho từng chùm. Hẳn diễn lại trò xưa trong cách chơi chữ đặt tên như thời Cỏ may, Phồn thi...? Kể cũng thú vị. Song ở đây, tôi chỉ điểm mấy chùm, bắt đầu bằng chữ “lờ” (L) của gã để bàn qua thôi.

          Trước hết là Thơ Luật. Luật thi không đề cập nhiều đến khái niệm luật pháp dù gã học luật, phó giáo sư tiến sĩ luật hẳn hoi, mà là những chiêm nghiệm của cái người mà số phận “mắc kẹt” giữa luật và thơ:“Đi giữa đôi bờ: luật và thơ/ Luật vuông hình khối, luật có gờ/ Thơ thon hình ống, thơ có cánh/ Thao thiết một dòng thực lẫn mơ”.

          Bằng con mắt của một nhà báo chuyên luật, Phạm Công Trứ quan sát sự vật, hiện tượng, thói đời ... để luận về đúng sai, thiện ác, quyền năng, trách nhiệm và công lý, từ đó rút ra bài học, điều chỉnh hành vi xử sự hướng tới cái thiện bằng tư duy thơ, diễn ngôn thơ:“Để tồn tại phải luôn thích ứng/ Ấy là quy luật của muôn đời/ Khủng long tuyệt diệt vì to lớn/ Kiến giun bé nhỏ mãi sinh sôi” (Luật đời);  Sông có khúc/ Người có thời/ Xong thì đi chỗ khác chơi/ Nếu không muốn bị ông giời nhấc ra” (Luật chơi); Nếu đời là một cuộc chơi/ Ai người làm luật, ai người cầm cân?/ Ai người gác cổng, dọn sân/ Ai chờ vào cuộc ai dần bắn ra?” (Một cuộc chơi); “Chữ “quan” () có một cái ô/ Giương ra là để che cho nhiều mồm/ Mồm ăn, mồm nói, mồm hôn/ Mồm tụng kinh sách, mồm chôn sống người” (Chữ quan); “Sinh ra vốn đã có rồi/ Ấy là quyền của ông Giời ban cho/ Cung đình mấy cụ Tân Nho/ Phán rằng có cái còn to hơn Giời! (Quyền tự nhiên); Việc của nó là “bắt”/ Việc của mày là “khai”/ Việc của họ là “buộc”/ Việc của chúng là “cãi”/ Tao “tuyên” là hết bài (Công Lý); “Các ác nhìn từ nhiều phía/ Càng nhìn càng khó phân minh/ Khi thì là dao là búa/ Khi thì ngoảnh mặt làm thinh” (Cái ác)… v.v... Diễn đạt nôm na, tưng tửng, mà tinh quái làm sao!

Với Phạm Công Trứ, luật của người (nhân luật), luật của trời (thiên luật) đan xen với nhau, nhìn ra chúng để mà sống, chấp nhận, chia sẻ và ứng xử cho phải đạo, cả nhân đạo và thiên đạo. Còn với riêng mình, từ lâu gã đã tự thú:“Số kiếp định rồi: thơ cùng luật/ Thực mộng nên đành cảnh phân thân/ Ngày nơi bàn giấy tra điều khoản/ Đêm với trăng hoa lại gieo vần”.

          Thơ Lão của Phạm Công Trứ, lấy tuổi tác (Thọ lão) ra để bàn luận. Tựu trung lại, khi tuổi đã cao người ta tự ý thức về cái sự già đi của bản thân nên nhìn nhận cuộc đời có khác đi. Người già thì hay hoài cổ, gã cũng thế “Già thì cứ nhận rằng già/ Bảo “người cao tuổi” chỉ là đẩy đưa/ Với con hay kể ngày xưa/ Với vợ hay nhắc thuở vừa biết nhau” (Già). Già thì hay chạnh lòng, gã cũng chạnh lòng “Ngày nào ngồi sau lưng cha/ Cha đùa thường bảo:“Cu là cái đuôi!”/ Thoắt thôi con đã đôi mươi/ Sau lưng giờ lại một người là cha/ Trạnh lòng song chẳng nói ra:/ “Biết đâu nó nghĩ mình là... cái đuôi?” (Đuôi); Già thì hay tủi thân, gã cũng không ngoại lệ: “Gái son bạn với giai tân/ Giêng hai diễu hết hội gần, hội xa/ Ngậm ngùi cho cái thân già/ Chống gậy ra ngõ để mà… nhìn giêng”. Già thì sợ hãi đủ mọi thứ, nhất là sợ chết:Hồi bé sợ nhất là ma/ Lớn lên thì sợ người ta hơn mình/ Lấy vợ sợ vợ kém xinh/ Lấy chồng thì sợ chồng rình đấm cho/ Con sợ láo, vợ sợ hư/ Giờ thì sợ chết mà chưa thành gì/ Thôi thì cứ vô tư đi/ Sợ thì cứ sợ, ta thì cứ ta” (Sợ); “Phải có cái gì để đọc/ Phải có cái gì để nghe.../ Hãi nhất là không gì cả/ Thiu thiu là bị bóng đè” (Hãi); Già thì hay suy tư, triết lý vụn, triết lý vặt “Vẫn biết thân là cõi tạm/ Bạc tiền là của phù vân/ Thế mà vẫn “tham” vẫn “hận”/ Thế mà vẫn “si” vẫn “sân”/ Vẫn biết đời là bể khổ/ Trốn sao khỏi kiếp luân hồi/ Thế mà vẫn “con xin Bụt”/ Thế mà vẫn “lậy Chúa tôi”/ Vẫn biết sống là để chết/ Trời gọi chẳng thể chạy làng/ Thế mà vẫn tập vẫn luyện/ Thế mà vẫn thuốc vẫn thang/ Vẫn biết thơ là thơ thẩn/ No-bel còn chẳng ăn ai/ Thế mà vẫn ra thi tập/ Thế mà vẫn muốn khen tài/ Vẫn biết ừ thì vẫn biết/ Thế mà vẫn cứ thế mà/ Càng sống lại càng nặng “nghiệp”/ Cả làng đâu phải riêng ta!” (Vẫn biết); Già thì hay chiêm nghiệm: “…Đến tuổi này/ Chỉ thấy râu ria là tươi tốt/ Chỉ thấy cây gậy là sáng suốt/dìu dắt/ nâng đỡ/bước ta đi!

Đi đâu?

đi về phía mông lung

đi về phía vô cùng...

Có lúc lão như rơi vào tâm trạng “bán âm bán dương”:“Đang cuối tuổi “nhi nhĩ thuận”/ Mặt dần đờ đẫn như ngây/ Tai dần ù ờ như mất/ Mắt dần dài dại như cây/ Chân dần nặng nặng như đất/ Tóc dần phơ phất như mây...”. Có lúc gã lại như kẻ “tự kỷ ám thị”: “Tr. Ơi, lạnh toát cả người/ Tên mình ai gọi từ nơi vô hình…Lần trước còn ngỡ xa xôi/ Lần này gần gặn ngay nơi đầu giường/ Phía đầu giường nửa sương, nửa gió/ Chỗ cuối giường nửa tỏ, nửa mờ/ Mình thì nửa tỉnh nửa mơ/ Vô hình trời gọi hay ngờ rằng ai/ Bần thần dụi mắt, bứt tai/ Buông ra một tiếng thở dài... rồi im” (Tiếng gọi);  Kể cả tâm trạng tiếc đời, ham sống“Bảy mươi còn được là bao/ Còn say sưa được phút nào cứ say” (Say) để rồi tự nhủ: “Bảy mươi tụng niệm câu này:/ Sống một ngày biết một ngày, chứ sao!” (Than sống). Trong cái bi vẫn có cái hài cùng một giọng lưỡi chất chưởng: “Ai ơi đừng vội than già/ Ngồi bô, đóng bỉm lại là trẻ con/ Còn người, còn nước, còn non/ Thì vẫn đóng bỉm, thì còn ngồi bô!”…v.v...

Tóm lại, lão thi là một cái nhìn khá minh triết về sự vận động của vũ trụ, con người và bản thân. Nhận thức rồi để biết sợ, biết trân trọng cuộc sống, nâng niu những cái mình đang có. Với Phạm Công Trứ, lão thi là một cách chấp nhận thực tế, kể cả cái hư vô, để tồn tại và vượt lên chính mình,...

Nói về Thơ Linh, Phạm Công Trứ gần xa luận giải Tâm linh là một khái niệm mở, biểu hiện như là một thế giới - thế giới tâm hồn dưới ánh sáng của chữ “linh”. Linh cảm, linh giác, linh nghiệm, phiêu linh… đều thuộc họ nhà “linh”, đầy huyền hồ, lắm nghi hoặc. Thời nay, tâm linh được xem như một khoa học, rất được giới học giả, các nhà huyền học để tâm và những nghiên cứu, khảo nghiệm cũng đã đạt được một số thành tựu. Quan điểm hai thế giới (vật chất và tinh thần) dưới cái nhìn duy vật cổ điển đang dần nhường chỗ cho quan điểm ba thế giới (vật chất, tinh thần và tâm linh) dưới cái nhìn duy vật đan cài với duy tâm. Tâm linh có họ hàng gần gũi với tinh thần nhưng không đồng nhất với tinh thần”.

           Thơ Linh của gã đây: “Hạt ngọc cuộn tròn ôm lá sen/ Bí ẩn nào như bí ẩn đêm/ Đừng tiếc ngày về tan mất ngọc/ Sớm mai sen ngọc lại ngời lên” (Sen ngọc); “Chờ cho dương thế lịm say/ Gác Quan-Hoa mới thoảng bay hương quỳnh/ Cõi quỳnh trắng, mộng quỳnh trinh/ Chỉ vành trăng khuyết nghiêng mình tiễn hoa!” (Quỳnh hoa);  “Ngại lấm bụi trần nơi dương thế/ Dạ hoa hương chỉ thoảng về đêm/ Trắng trinh khai nở đen huyền bí/ Thưởng hoa đâu cứ phải cần đèn.” (Dạ hoa); “Đêm mùa hè ngắn/ Đời quỳnh hoa ngắn hơn/ Khép rồi búp trắng/ Lặn rồi trăng đơn/ Hoa dẫu tạ tàn không cánh rụng/ Xác hoa tự hoá chẳng mồ chôn/ Trăng - hoa/ lặn - nở/ vô-thường-mộng/ Phù thế người ơi!/ Một/ Đoá/ Hồn.” (Một đóa hồn); Vô ngã” là chân ngã/ “Vô ngôn” là chân ngôn/ Nếu như biết mình dại/ Thì nghĩa là đã khôn?” (Ngộ) ;“Đã coi trời đất là nhà/ Ai chủ ai khách phân ra làm gì/ Đã tin sống gửi thác về/ Trắng tay thì có khác chi tay đầy” (Khác gì); “bây giờ và ở đây”/ An lạc nằm trong mấy chữ này/ Đọc chi muôn quyển, đi muôn dặm/ “Ngay bây giờ và ở chính đây”/ Thở/ Chấm hết!” (Lạc); “Cách chùa đã một thôi dài/ Tai còn đồng vọng một vài “buông... buông”/ Bâng lâng giữa cõi vô thường/ Trăng liềm mờ hiện, giọt chuông loãng dần...”…

          Thú thật, cứ sa đà vào Thơ Linh của Phạm Công Trứ, dễ có cảm giác mình được hóa thân thành chàng quý tử họ Giả (Giả Bảo Ngọc) vui vầy cùng đám tiểu thư khuê các nơi Vinh phủ, Ninh phủ uống rượu vịnh thơ trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Ai ngờ, gã tiến sĩ luật nặng chất nông phu này thơ thanh thoát đến thế. Linh hay Thiền gì đó hơi nhạt màu Phật song đậm phong vị Lão-Trang. Mải mê, khéo rồi có ngày gã đắc đạo mà thành Tiên cũng nên? Hi… hi...

 

        Thay cho lời kết

          Mai này, ... người ta thoáng thấy, khi trên hè phố thủ đô, lúc chốn ngõ quê vùng ven biển Hải Hậu đây đó, một lão già râu tóc bạc phơ, ăn vận nửa quê nửa tinh, chân đánh võng cùng với cây gậy trong tay, ánh mắt nhìn còn tinh ranh, hay ngó nghiêng, miệng lẩm nhẩm gì đó. Bám theo lão là một lũ trẻ quê lau nhau hiếu kỳ. Còn người qua đường chỉ chỏ, phỏng đoán lão già này hâm đơ hay sao ấy. Chẳng hiểu những lời thiên hạ đàm tiếu có lọt tai gã hay không nhưng từ cái miệng lởm chởm râu ria như muôn mũi kim cỏ may thoáng nở ra nụ cười độ lượng, rồi cất tiếng nghêu ngao: “Nước nước nước/ Non non non/ Thoảng nghe trong gió như còn cuốc kêu/ Đói đói đói/ Nghèo nghèo nghèo/ Áo cơm nặng nợ bám theo đến giờ/ Mộng mộng mộng/ Mơ mơ mơ/ Thương bao kẻ sĩ ngóng chờ No-bel/ Yếu yếu yếu/ Hèn hèn hèn/ Nghe đi nghe lại dần quen mất rồi/ Bác bác bác/ Tôi tôi tôi/ Tôi đi hỏi bác, bác thời hỏi ai/ Nhanh như chớp mắt đời người/ Ngắn như một tiếng thở dài, vậy thôi!”...

        Lại có người vẻ tỏ tường: “Lão ấy chính danh gọi Tễu, từng có thời tự nhận là Thảo Dân, một nhà thơ nổi tiếng đấy!".

                                                                                         Chính Hạ, 2023

 

 

 

ĐẢO CHÌM CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

CHUYỆN NGOÀI TRUYỆN

 

                                    

          I. Những nhân vật của tiểu thuyết mini  Đảo Chìm ở ngoài đời.

 

          Những chuyện tôi kể sau đây, bắt đầu từ một trang mạng xã hội, Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net) vào đầu năm 2011.

          Khi ấy, tôi (Nguyễn Chu Nhạc, tác giả bài viết này) lập trang cá nhân trên BlogTiếng Việt có tên Ngẫm & Viết. Bài đăng đều đều với phần cảm nhận (comment) của nhiều cư dân mạng. Chẳng có gì đáng nói, đến một ngày (27/2/2011), tôi đăng bài nói về một bài thơ ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa thời học trò có tên “Sắp mưa” theo thể Đường luật, thất ngôn bát cú. Người bàn luận đông lắm, khen chê đủ kiểu, trong đó có ý kiến khía vào chuyện bài thơ này luật bằng trắc chưa thật chỉnh. Ý chê là đúng. Trong rất nhiều ý kiến ấy, tôi thực sự chú ý đến Bạn đọc (chỉ người không phải là bloger, tức là không lập trang cá nhân với tư cách là bloger) có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn:Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc]  28.02.11@20:32 Tôi đã về hưu mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về Trần Đăng Khoa rất hay. Tôi bèn ra quán Nét ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu ghép lại, vần điệu, niêm luật có thể búa sua. Vì thế chẳng nên mang luật thơ ra bàn. Tôi là dân Nga học (Tôi học thuyền trưởng ở Ô-Đe-sa, Nga, cùng Ngô Tự Lập), từng có thơ in trên báo Hải quân nhân dân và báo Văn Nghệ. Tôi cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới gò bó, hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng đã thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc của nó và mới thành đỉnh cao của thi ca nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ ngày xưa, chúng tôi chỉ gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ  ứng tác. (Tức là thơ đọc ngay tắp lự). Bài thứ nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu kết: "Thuyền trưởng ơi, tiếc là không có rượu/ Ta đã uống đâu mà, sao biển cả đã say/ Để sóng lớn chồm lên muôn ngọn núi/ Nâng tầu ta đi canh giữ nước non này". Chúng tôi khoái những câu thơ ấy lắm. Rất hào sảng và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm một bài thơ đái trên biển. Cứ đứng sau tàu, sõng thẳng từ trên boong xuống biển. Không ngờ cha Cua Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ tình mà cánh lính biển tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc ngay và nhớ đến tận bây giờ: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn trùng mây nước/ Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả vào biển cả/ Nguồn yêu thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã Cua đồng, và nhắn giùm: Thuyền trưởng Trí vẫn nhớ Khoa, Mong Khoa sớm trở về với biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Đinh thì ghé Trí chơi.”.

          Thật bất ngờ và vui. Bởi từ ý kiến bày tỏ quan điểm về thi ca rất hiện đại và tiến bộ, Trần Trọng Trí còn cho biết ông từng công tác, có mối quen biết cũ với nhà thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là thơ ứng tác của Khoa đầy thú vị. Tôi khoe ông rằng nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có trang cá nhân trên Blog này, có tên Lão Khoa, ông có thể vào đọc, tha hồ nhắn nhe nhau, đồng thời tôi cũng mách với Khoa về chuyện thuyền trường Trần Trọng Trí nhắn gửi.  Nhà thơ nhớ ngay người quen cũ, lập tức trả lời: “Vài hôm rồi quây quả với mấy việc hệ trọng, bữa nay ghé vào quán lá nhà lão Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được nhiều bạn cũ,  có người đến ba chục năm nay không thấy mặt,... Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có cô con gái rất xinh tên là Trần Thu Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú lính khác, đi đến đâu bác cũng được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính mới té ngửa: "Bố ơi, dạo này con ngoong lắm, con không gác chân lên cổ mẹ, mí nữa đêm ngủ con không còn đái dầm nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu thư công nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Chính trị viên Thuận ở cuốn tiểu thuyết mini Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé.”...

          Từ bất ngờ này dẫn đến bất ngờ khác, một cựu lính hải quân, cấp dưới của thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã nhận ra thủ trưởng cũ của mình: “Bình luận từ: Nguyễn Văn Tròn: Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em nghe bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông Khoa, hóa ra lại gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng sống được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác Khoa còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất thiết thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết thơ lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch ra ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em thích nhất bài thơ Sếp tặng em. Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới cưới. Sếp viết hộ em: "Gửi tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm xuýt mất cu/ Mìn vướng, bom gài, anh đéo sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt cu". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần và vật chất. Mất cái "cần tăng dân số" thì có đến hàng trăm mét dù, nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn của nả về cho vợ mà con vợ em nó vẫn bỏ. đi theo thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ em thay ba vợ rồi. Vợ đương chức của em hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện chăm con. Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy.”...

          Điều thú vị nữa, trong phần cảm nhận của bài viết này, nhiều bậc văn-thi sĩ, nhà phê bình văn học và các bậc cao nhân đều vào bàn góp, nhất là kể về tài ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa như Nhật Tuấn, Vu Gia, Đỗ Hoàng, Vũ Cao Đàm,... và có cả những bạn thơ văn thuở thiếu thời của Trần Đăng Khoa là Chu Hồng Quý, Nguyễn Việt An cũng nhảy vào đàm luận....

          Thấp thoáng bóng dáng vài ba nhân vật của tiểu tuyết Đảo Chìm, thuyền trưởng Trần Trọng Trí, (Chính trị viên Thuận), lính thủy Nguyễn Văn Tròn (Tư Xồm) và còn nữa...  Lẽ dĩ nhiên, tướng Giáp Văn Cương, vị Tư lệnh Quân chủng Hải Quân, một nhân vật trung tâm, ông là người nổi tiếng, nhưng tôi không nhắc ở bài viết này, bởi trong tiểu thuyết Đảo Chìm, Trần Đăng Khoa đã dành đến  cả hai chương để khắc họa chân dung ông, vả lại ông cũng đã khuất bóng lâu rồi, hãy để ông yên giấc ngàn thu cùng những huyền thoại xung quanh mình. Ở đây, tôi muốn dành để nói về các nguyên mẫu khác mà nhiều người còn chưa biết họ ngoài đời. Tôi thấy, cũng cần có đôi lời thưa cùng quý bạn đọc, những phần trích từ các nguyên mẫu nhân vật được tôi dẫn trong bài viết này, có thể làm ai đó không hài lòng, bởi vẫn quen với văn chương kinh điển, mực thước lễ giáo, mà họ lại nguyên là lính tráng, bụi bặm, bỗ bã nhưng vô cùng trong sáng và xót xa như chính đời sống và số phận thực của họ ở ngoài đời, hơn nữa, vài ba người trong số họ cũng đã khuất, vì thế những hiện vật của họ, những câu chuyện của họ đã trở thành kỷ vật vô giá, thiêng liêng. Vậy nên, tôi xin phép được để nguyên, xem như hiện vật của bảo tàng. Những mong được  bạn đọc thứ lỗi, nếu có điều gì không hợp với quý vị.

          Và những câu chuyện ngoài truyện của Đảo Chìm bắt đầu từ đây,...

 

          II. Đảo Chìm, chuyện ngoài truyện.

 

          Câu chuyện của thuyền trường Tàu HQ 05 Trường Sa, Trần Trọng Trí và những người lính thuộc cấp của mình một thời còn tiếp diễn. Song trước khi nói về tiểu thuyết ĐẢO CHÌM của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng những chuyện ngoài truyện, tôi muốn kể thêm về vị thuyền trưởng tàu HQ 05, Trần Trọng Trí và những người lính ngày ấy của ông (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v...), bởi đó là những nguyên mẫu mà nhà thơ Trần Đăng Khoa dựng thành các nhân vật chính trong cuốn sách của mình: Chính trị viên Thuận, Tư Xồm... Âu cũng là cách để bạn đọc biết thêm về các chuyện thực ngoài đời của các nhân vật tiểu thuyết, mà cụ thể ở đây là xứ ĐẢO CHÌM.

Vẫn trong phần ghi cảm nhận bài viết của tôi về thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa, một người lính hải quân khác xuất hiện khi anh chàng này được bạn mình-cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn mách bảo: “Bình luận từ: LÊ VĂN KHÁNH [Bạn đọc] Email 02.03.11@10:51: Ôi chồ chồ, thủ trưởng ơi, em là Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó. Thằng Tròn điện cho em bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho thủ trưởng. Em vào mấy hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ thiên hạ thấy thua thơ thủ trưởng hết. Em đọc thơ thủ trưởng, ai cũng thích. Vịnh cây khoai môn: Trên rừng sướng nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn rất ngon./ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/ Lá nó hao hao giống cái l...Vịnh Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm/ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum./ Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn. Vịnh cái tủ lạnh Sa-ra-top: Cắm vào run rảy toàn thân./ Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn./ Hỡi người quân tử giàu sang./ Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra. Nhưng em thích nhất vẫn là bài thơ Sống ở đảo chìm, viết tặng ông Trần Đăng Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái./ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở đầu, đái ở chân (Đầu đảo, chân đảo) /Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa./ Chẳng như hồi sống ở nhà./ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng thức nhá”.

          Chưa hết, trong các cảm nhận vào bài viết của tôi, thầy trò Trí-Tròn  còn đối đáp nhau nhiều: “Bluận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] Email 01.03.11@20:59/: Con cháu tôi lại khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi lại phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán thịt chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm Trường Sa giết con Ái Vân (tên con chó khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ yêu thích đặt cho chó) để chiêu đãi tướng Cương, chú với ông Khoa không ăn. Chú còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng béo như ông Khoa, hơn 5 sọi rồi mà nước vẫn dâng như lũ sông Hồng. Chú Tròn ba vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy (về truyện ngắn Ngày xưa ấy của Nguyễn Chu Nhạc). Vào đọc ngay. Tôi rất thích. Thích nhất là đoạn làm tình của đôi trẻ. Tôi bây giờ đọc bác Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn. Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ. Vào xem mấy con để l…à". Tôi bảo, thì để đỡ tốn tiền, bà cởi cho tôi xem. Đấy, văn bác Nhạc được bà ấy ví với cái l.. Chuyến này khéo ông Khoa sẽ ghen vì văn ông Khoa không được bà ấy đề cao như văn ông Nhạc. Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên Tivi. Béo quá. Ông ấy mà về làng, không khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là thằng tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với mấy ông cựu chiến binh bên Bộ Tổng tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB đài tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn làm thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông in trong tập Hương ngoại ô cùng với một triệu tiền mua sách. Thơ mà cánh cựu chiến binh quê tôi thích đều là thơ mách qué. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ đến thăm chú Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây giờ các bác ấy mở quán ảo rồi, tôi sẽ vào luôn”.

Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc] Email 02.03.11@10:24: Thủ trưởng Trí ơi. May có bác Nhạc làm liên lạc để em được gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó chẳng quan trọng. Vợ và chú em vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền và điều hành chung. Quán của em ở thị trấn Ba Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông khách lắm. Thế cái bệnh lòi dom của thủ trưởng bây giờ thế nào rồi? Thủ trưởng vẫn làm thơ quậy à? Em vừa thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối chày gì đó. Bà Giời đã tốc váy mây/ Ta cùng vợ vác cối chày ra phơi.  Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một chút, chả gì Sếp cũng Đại tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí thức đọc cả đấy. Em xem thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã. Bà ấy có thể không thích văn chương nhưng vì tò mò, tưởng ở đấy có l... gái trinh, mò vào, thấy thủ trưởng nói xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại tắm cho thủ trưởng một can xăng như vợ nhà báo Hoàng Hùng thì khốn. Đàn bà không tin được đâu. Gặp thằng mả mẹ nào nó khen đểu cho một câu là sướng chổng phao câu lên, coi chồng như cứt chó ngay. Các cụ xưa không cho ngồi chung mâm, chỉ để ăn trong xó bếp kể cũng không oan. Em qua ba cối rồi, em biết. Tanh lắm. Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây giừ qua nhà ông Nhạc, anh em mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả hứng. Thủ trưởng bảo trọng”.

Trong cảm nhận này, Nguyễn Văn Tròn có nhắc đến một chuyện, ấy là cựu thuyền trưởng, đại tá Trần Trọng Trí xuýt được phong Anh hùng (danh hiệu AHLLVT). Về điều này, tôi tìm hiểu, nghe đâu, khi xem xét hồ sơ để phong tặng danh hiệu anh hùng cho Trần Trọng Trí thì có vấn đề về lí lịch nhân thân (ông vướng thành phần gia đình đia chủ trong CCRĐ, lại  dính thêm chuyện mê tín dị đoan gì đó vì ông cụ thân sinh biết nghề thày cúng nên thi thoảng làng xóm có việc nhờ cúng giùm). Chẳng rõ hư thực ra sao?

          Sau những ngày đầu đầy xúc động, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã kiềm chế cảm xúc của mình, tỏ ra điềm tĩnh, sâu lắng, thì chàng cựu lính Nguyễn Văn Tròn vẫn tràn đầy năng lượng, bắn liên thanh bằng những cảm nhận gây xốc: ”Bình luận từ: Nguyễn văn Tròn [Bạn đọc] Email 03.03.11@06:22/Thủ trưởng Trí ơi!. Bây giờ chắc thủ trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn vô nhà bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng cái máy tính con con của em. Rất tiện lợi. Giờ em quyết định thế này: Giữa tháng Ba này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi tính xách tay và cái USB nối mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ trưởng đọc bác Khoa bác Nhạc và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo giấy nhạt toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng chơi nhòe. Thủ trưởng nhắn cho em thằng Hanh, con Nhạn (Cái con ngày xưa thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi bóp vú ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi. Còn thằng Bình, thằng Việt, thằng Cải, thằng Khang, thằng Trường (Thằng Trường khỏe như trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả làm thơ tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này rất thông minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng ngu và hâm đột xuất). Em thấy đàn bà chẳng sâu sắc thủy chung gì đâu, cù được vào nách là ngả được bàn đèn luôn, từ con osin đến các mệnh phụ phu nhân, rồi cả hoa hậu nữa, sếp thấy có đứa nào ra hồn đâu. Đấy như vợ nhà báo Hoàng Hùng đấy, có thể thiêu chồng chạy theo một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã tốt hơn chày của thằng Hùng. Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu khen đểu là động cỡn liền. Đàn bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường coi khinh những thằng tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn thằng Khánh thì em liên lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông thương mà không làm phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn càng tiện lợi. Cánh công chức toàn thế đấy thủ trưởng ạ. Bồ bịch búa sua”.

          Hình như, cảm thấy ngại khi dùng ngôn ngữ đầy chất lính tráng, anh chàng Nguyễn Văn Tròn có vẻ khách khí. Tôi bèn thưa lại vì thực lòng muốn mọi người cứ tự nhiên như cũ: “Chủ nhân xin có lời nhắn với thuyền trưởng Trí, và các cựu binh Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v... Mọi người cứ giao lưu thoải mái, không có gì phiền đâu. Rất vui được hầu trà thuốc điếu đóm, cả rượu thịt chó nữa, để bồi tiếp mọi người. Kính”.

          Việc giao lưu ảo trên mạng xã hội, nhất là khi vào trang cá nhân của tôi và Trần Đăng Khoa, rồi gặp các lính cựu Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh.... khiến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí bị hấp dẫn đến nỗi không cưỡng nổi, cho đến một hôm, ông thông báo với tôi và cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt: “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] Email 06.03.11@21:26/ : Tôi đã sắm máy tính cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn mê các ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui hòa nhập thế giới hiện đại. Ngày mai tui đi Sài Lang Thành (ý chỉ Sài Gòn-Tp.Hồ Chí Minh ) nhưng vẫn đọc các ông đấy”. Với thông báo này, ông còn như ngầm nhắn với các cựu binh đàn em của mình (Tròn, Khánh....) rằng từ giờ họ có thể tha hồ chuyện trò với nhau mà không cần nhờ trang cá nhân của ai, không làm phiền người khác, rằng họ sẽ cùng nhau ôn lại ký ức, làm sống lại thời lính Đảo chìm, Trường Sa một thuở...

Nhưng, khi còn chưa kịp chuyện Trường Sa thì có một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa Trần Trọng Trí với nữ thi sĩ Chử Thu Hằng và Nguyễn Việt An (một người bạn học, bạn văn chương của tôi và Trần Đăng Khoa từ thời học phổ thông, hiện sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh). Tôi không đưa vào bài viết này, song về phần mình, tôi nhận ra sự hóm hỉnh và thông minh, đầy tài hoa trong việc ứng biến thơ của Trần Trọng Trí, nên nhắn ông: “Bác Trí, Đọc lại những bài thơ vịnh của bác, gạt đi phần bông đùa, tếu táo, còn lại, thơ thật hay. Hay lắm đó...”.

Quả thật, Trần Trọng Trí có ngôn ngữ sắc lẻm như dao cau, mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu, tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người tồn dư cả tính láu cá nông dân… Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông, cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém. Cho đến ngày 26/3/2011, tôi đăng bài viết của mình có tên “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện” bàn về  tiểu thuyết “Đảo Chìm” của nhà thơ của Trần Đăng Khoa thì mọi chuyện mới thật xôm trò. Rất nhiều người vào đọc và bình luận. Xin trích đăng một số cảm nhận để cùng tham khảo:Bình luận từ: Người qua đường [Bạn đọc] Email  22.03.11@23:22/ (bút danh nhà văn Nhật Tuấn-NCN)  /Tôi cũng đã đọc Đảo Chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể loại khác. Nhưng rồi đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui vui, như chơi, thậm chí rất bông phèng, hoạt kê, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc rất mới, cũng là một phát hiện, mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Chu Nhạc. Tiếc là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay. Tôi vẫn nói Chu Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài, dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy”.

Bình luận từ: Chử Thu Hằng (nhà thơ) [Blogger] Email 24.03.11@09:02/ Chu Nhạc tiên sinh! Đảo chìm của anh Trần Đăng Khoa, Chử Thu Hằng chỉ lặng lẽ đọc vì không muốn "khen phò mã tốt áo"; nhưng đọc bài này của Tiên sinh, phải thốt lời thán phục. Thưởng văn phải như thế, rất riêng và chẳng cần phải nhiều lời. Cái Tầm của Tiên sinh đã làm cho Chử Thu Hằng nhiều lần phải ngưỡng mộ

Bình luận từ: Minh Tâm (PGS.TS,) [Bạn đọc] Email 24.03.11@18:20/:Bài viết của ông Chu Nhạc rất hay. Tôi đã đọc Đảo Chìm mấy lần rồi. Tôi rất thích cuốn sách này, nhưng không thấy được rạch ròi như ông Chu Nhạc. Tôi là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cũng đã từng nghiên cứu thi pháp, bài viết của ông Nhạc là ứng dụng thi pháp rất nhuần nhuyễn. Tất nhiên, nếu ông mở rộng thêm thì sẽ rất hay”.

Bình luận từ: Khách [Bạn đọc] Email 24.03.11@21:17/  “Từ một điểm nhìn cận cảnh, tác giả Trần Đăng Khoa (TĐK) đã xây dựng một không gian nghệ thuật thật đặc sắc: không gian hữu hạn - không gian vô hạn - không gian tâm tưởng. 3 loại không gian ấy có khi tách bạch nhưng có lúc lại đan cài, tạo nên một không gian nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Đó là thứ hiện thực lãng mạn, pha chút “Liêu trai“ Phương Đông. Phát hiện của anh rất hay! Em xin cóp bài này để tham khảo, phân tích thêm để bổ sung cho phần thực hành... Cảm ơn anh! Em rất hâm mộ TĐK, là người đang "gieo rắc" tác phẩm của anh ấy cho lũ trẻ. Giờ thì hâm mộ luôn cả người bình văn TĐK!

Bình luận từ: Vũ Trọng Trường [Bạn đọc] Email 26.03.11@03:47]/  “Tôi đã đọc nhiều lần Đảo Chìm. Rất tâm đắc với lời bình của Chu Nhạc.... Lời bình của ông rất đanh,... Mấy hôm nay bọn họ đang gây sự ở Trường Sa bằng tuyên bố Biển Đông là của họ và cấm mọi hoạt động ở quần đảo này. Điều ông Khoa nói ở mấy dòng mở đầu đang thành hiện thực. Vì vậy càng thấy quý cuốn sách của Khoa và bài bình của ông Nhạc. Tôi sống ở Đức, rất xa đất nước nên càng biết ơn những trang viết của các ông để gần lại quê nhà.”.

          Còn nhiều lời bình khác của bạn đọc, trong nước, Việt kiều định cư ở nước ngoài, một số nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, nhân sĩ yêu nước bày tỏ sự quan tâm và ủng hộ chủ quyền biển đảo Việt Nam.

          Rồi PGS.TS Minh Tâm còn dẫn dụ, giới thiệu một bài viết khác bình cuốn Đảo Chìm (bài viết của nhà báo Nguyễn Lương Phán – VOV) để mọi ngươi cùng tham khảo thêm: Bình luận từ: PGS. TS Minh Tâm [Bạn đọc] Email 26.03.11@23:13/: Đọc bài viết rất hay của Chu Nhạc về Đảo Chìm, tôi mò vào mạng xem thiên hạ nói gì về Đảo Chìm thì bắt gặp bài viết cũng rất công phu. Bài này không có tính thi pháp như Chu Nhạc nhưng được cái xúc cảm. Tôi cop về để bạn dọc tham khảo, càng thấy cái tài của Chu Nhạc trong việc dùng chữ...”. Vì bài viết đó khá dài nên không thể trích dẫn ra đây được. Thực lòng, khi được nhiều cao thủ làng văn đọc và bình khen, tôi cũng sinh ái ngại, tự hỏi, không biết bài phân tích của mình về tác phẩm Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa có thật hay như người ta đã khen, song tôi nghĩ, chắc ít nhiều cũng bổ ích cho bạn đọc ?

          Song có lẽ, cảm nhận khiến tôi suy nghĩ nhất, chính là của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, nguyên mẫu nhân vật chính trị viên Thuận trong tiểu thuyết Đảo chìm: "Trần Trọng Trí [Bạn đọc] 19.03.11@22:14/ Nhà văn, nhà thơ Chu Nhạc. Bữa rày, ông Khoa đưa lại cái Đảo Chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến nó một dòng, cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với người khác trùng tên mà viết nhạt toẹt... . Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nôi, có lên thăm ông Nhạc ông Khoa. Con bé (nhưng cũng là gái xề rồi), là nguyên mẫu, mà trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương, nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú Khoa. Bữa nay chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.

          Đọc cảm nhận của Trần Trọng Trí, tôi cứ thẫn thờ với một linh cảm mơ hồ... Lại càng không ngờ, đấy là những dòng cuối cùng ông để lại cho cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt, và cũng là những dòng cuối cùng của ông trên cõi đời này... Bặt đi cả tháng trời, không thấy Trần Trọng Trí và các đàn em của ông xuât hiện trên mạng. Tôi nghĩ, chắc mấy thấy trò gặp nhau, mảng vui sau bao ngày xa cách, nên có ý chờ đợi những câu chuyện của họ sau chuyến đi đầy vui thú này. Song không hiểu sao, sự vắng bóng của họ cứ khiến tôi phấp phỏng chẳng yên, và mơ hồ cảm thấy một điều gì đó không lành?...

          Quả nhiên, thật đột ngột, một buổi vào mạng Blog Tiếng Việt, tôi sững sờ không tin vào mắt mình khi đọc mấy dòng cảm nhận của người con gái ông, nguyên mẫu Mộng Tương tiểu thư trong tiểu thuyết Đảo Chìm: “Bình luận từ: Trần Thu Hà [Bạn đọc]  23.04.11@23:24/Chú Chu Nhạc kính mến! Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì tai nạn giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn bố cháu vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã nửa tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết. Nếu có gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”.

          Cả mạng Blog Tiếng Việt xôn xao, mọi người vào cảm nhận, bày tỏ sự thương tiếc ông  và chia buồn với Trần Thu Hà cùng gia đình ông. Tôi chỉ trích ra đây vài cảm nhận.: Trần Đăng Khoa [Bạn đọc] Email · http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 24.04.11@21:47: @ Trần Thu Hà. Chú thực sự sửng sốt trước tin của bố cháu và chú Tròn, anh chàng Tư Xồm của chú. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có những cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm lá sinh động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị và báo cho các anh chị ở Ban Văn nghệ Đài truyền hình VTV, VOV. Mọi người thích lắm. Vậy mà ai ngờ... Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau thương này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình”.

Còn đây là cảm nhận của tôi: nguyenchunhac [Bạn đọc] http://blogtiengviet.net/nguyenchunhac 24.04.11@07:23@Trần Thu H. Trước hết, cho chú được chia buồn cùng cháu và gia đình, cùng bên gia đình chú Tròn. Chú rất đột ngột khi biêt tin này. Nhớ cách đây chừng hơn tháng. Bố cháu có tin cho chú là lên Hà Nội và vào thăm VOV nhưng chú lại đi công tác và chú Khoa cũng không đến cơ quan (vì ngày nghỉ). Bố cháu còn thông báo là đi Lào với Tròn chơi rồi về dọn nhà lên Yên Bái ở với gia đình nhà cháu. Vậy mà,... Chú và chú Khoa, và cả làng blog Tiếng Việt này, sẽ rất buồn vì bố cháu đã ra đi đột ngột. Mọi người sẽ không quên những dòng cảm nhận, những bài thơ sâu sắc và vui của bố cháu. Đối với chú Tròn cũng vậy. Có lẽ, chỉ có một an ủi duy nhất, bố cháu và chú Tròn, họ đã sống bên nhau những ngày gian khó ở Trường Sa, bây giờ họ lại đi cùng nhau. Có lẽ, họ luôn cần nhau, cháu ạ... Hà có thể cho chú hoặc chú Khoa biết điện thoại liên hệ, để khi có điều kiện, chú và chú Khoa cùng mọi người đến thắp cho bố cháu nén hương tưởng nhớ...”.

Ngày 25/4/2011, tôi viết bài “Tưởng nhớ thuyền trưởng Trần Trọng Trí” trên trang cá nhân của mình. Hầu hết bạn bè trong Blog Tiếng Việt đều ghi cảm nhận, thương tiếc ông và người lính của ông, cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn (Tròn Lùn), nhân vật Tư Xồm trong Đảo Chìm. Nhà thơ Bùi Thị Binh: " buithibinh [Blogger]  27.04.11@15:10/ Viết mấy vần thơ mộc mạc này tưởng nhớ đến Anh Trần Trọng Trí và Anh Nguyễn Văn Tròn. “Đảo chìm” em mới đọc lần đầu/ Cái khóc, cái cười cứ quyện nhau/ Mong gặp Lão Khoa cùng nhân vật/ “Xóm lá mình mà chắc chả lâu”/ Bao nhiêu cảm nhận của “hai Nhà”/ Đọc đi, đọc lại quá xót xa/ Ước muốn không thể thành sự thật/ Để được mời Anh: Một chén trà./ Anh mất rồi sao "Anh Thuận"ơi/ Tác phẩm “ Đảo Chìm” vẫn để đời/ Cái danh Trọng Trí còn lưu mãi/ Trong lòng bè bạn … khắp mọi nơi/ Cuộc đời như một chuyến rong chơi/ Thủ trưởng, nhân viên đã hẹn rồi/ Về nơi cực lạc đừng quên nhé/ Nghĩa tình “mạng ảo” chẳng xa xôi”…

Ai những tưởng, gặp nhau ngoài đời nào có khó gì đâu, khi đã giao lưu mạng ảo, khi biết địa chỉ và cách nhau cũng không xa. Song không, như người đời vẫn bảo “vạn sự tùy duyên” hẳn không sai, trời không cho duyên gặp thì tưởng gặp nhau trong gang tấc, hóa vẫn không. Bằng chứng, Trần Trọng Trí đã hai lần đến cơ quan chúng tôi (Đài Tiếng nói Việt Nam), ở đây, ông gặp người này người nọ, nhưng cả hai lần, những người ông muốn gặp (Trần Đăng Khoa và tôi) thì cả hai chúng tôi đều công tác vắng. Kể cả vậy, ông vẫn tự tin là gặp nhau không khó, định bụng sau chuyến ông vào Quảng Bình thăm Tròn Lùn và các đồng đội khác và sang Lào chơi, thì ông Giời lại bắt ông đi luôn một mach, đi mãi sang thế giới khác....

Cái “những tưởng” ấy cũng có trong suy nghĩ của nhà văn Trần Hồng Giang, một người phải ngồi xe lăn, đi lại khó khăn, người cùng sống ở quê Nghĩa Hưng (Nam Định) với ông: "tranhonggiang [Blogger] 25.04.11@21:33/ Bất ngờ quá anh Nhạc ơi!. Em đọc "Đảo chìm" của anh Trần Đăng Khoa ngay từ lần xuất bản đầu tiên. Với lòng yêu mến và cảm phục những người lính đảo đến khôn cùng. Vậy nhưng đến vừa rồi qua blog của các anh thì em mới biết là bác Trí nguyên mẫu trong "Đảo chìm" là đồng hương Nghĩa Hưng với em. Biết được thông tin này, em đã rất vui mừng, em đã nhờ một người bạn ở thị trấn Liễu Đề, liên lạc với bác Trí để một lúc nào đó có thể gặp gỡ. Em hy vọng khi gặp được bác ấy thì sẽ viết một cái gì đó về một con người mà mình ngưỡng mộ. Thế mà... Cuộc đời này sao lại có những thực tế phũ phàng như thế chứ!”.

Cả tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều nhắn trên trang của mình ở mạng Blog Tiếng Việt, mong một ngày nào đó Trần Thu Hà, cô con gái rượu của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đọc được, để lại lời nhắn, hay số điện thoại liên lạc, hay địa chỉ nhà cô để chúng tôi có manh mối tìm gặp. Song không, cho đến nay đã hơn chục năm trôi qua, hai chúng tôi vẫn không biết Trần Thu Hà hiện ở đâu. Chỉ có chút manh mối, ấy là trước khi đi Quảng Bình và Lào cùng Nguyễn Văn Tròn, Trần Trọng Trí đã hé lộ chút ít, ấy là dự dịnh của vợ chồng ông sẽ thu dọn rời Nghĩa Hưng lên Yên Bái sống chung với cô con gái rượu của họ. Thế nhưng, Yên Bái rộng bao la, ở đâu cụ thể nào ai biết. Hay chăng, thử về thị trấn Liễu Đề (Nghĩa Hưng, Nam Đinh) hỏi dò dân ở đấy xem gia đình ông, vị đại tá, cựu thuyền trưởng tàu HQ 05 Trưởng Sa, ông thợ cắt tóc phố huyện, còn sống ở đấy, hay đã chuyển đi đâu, có lên Yên bái không và cụ thể địa chỉ nhà, số điện thoại liên lạc?... May ra, hy vọng. Song thú thực, việc này chúng tôi vẫn chưa làm được,... Thật có lỗi với ông.

Có nhiều đồ đoán về nguyên nhân vụ tai nạn ô tô của họ khi Tròn Lùn tự lái xe của mình đưa thủ trưởng cũ qua Lào sang Thái Lan chơi. Song cá nhân,  tôi đã từng ngồi xe hơi đi trên đất Thái Lan nên biết luật giao thông của họ giống kiểu Anh, Hồng-kông, Nhật bản, khác phần lớn các quốc gia khác là ngược lại, đi trái về phải, do đó người lá xe tay lái thuận, nếu không quen sẽ nhãng quên lao sang làn đường ngược chiều. Đấy là suy luận vậy thôi. Có một sự thật, mạng Blog Tiếng Việt sau khi họ vắng bóng thì kém sôi động, trầm lắng hẳn đi, và mấy năm sau, do  trục trặc kỹ thuật, nền tảng lưu trữ kém, các bloger bị mất bài, rời bỏ đi nơi khác. Blog Tiếng Việt vắng như chùa Bà Đanh. Giờ nền tảng kỹ thuật mạng này có khá lên, song không khí thì vắng lặng. Thời vàng son đã qua, khó bề cứu vãn. May mắn thay, phần bài viết và những cảm nhận liên quan đến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh lính của ông vẫn còn, để giờ đây tôi có thể tra cứu, trích dẫn, lưu giữ,...

Những gì họ để lại trên trang blog của tôi, thì đã trích nêu trong phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang cá nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là còn nhiều, nhưng trong cuốn sách Đảo Chìm - Trường Sa của mình, nhà thơ chỉ trích chút ít. Tôi cũng trích lại đây cảm nhận của Trần Trọng Trí, xem như cái cớ đề bàn thêm về ông và các đồng đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai lỳ. Tôi hay vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay đọc lại cuốn sách về Trường Sa, về chính cuộc sống của chúng tôi, tôi đã khóc. Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần Thị Thu Hà mà ông Khoa gọi là Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm đó), có hai con gái. Cháu ngoại tôi đã học lớp 12, cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó không biết đấy là chuyện bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này mà không biết tìm ở đâu. Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải mở máy tính. Tôi lên Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên trang của nhà văn Xuân Đức...Tôi sẽ đến thăm ông Nhạc (Nguyễn Chu Nhạc-Đài Tiếng nói Việt nam), ông Khoa. Lâu rồi, không gặp”...

Tâm thế trong cảm nhận này của Trần Trọng Trí, thực ra, cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của tôi, khác chăng ở một vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại các cảm nhận của Trần Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng mị, sa lầy trong mớ hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc của mọi người, đặc biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế bào thần kinh trong con người vị đại tá (lương tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một thời, đã về vườn, trong vai ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những ẩn ức một thời bùng phát, tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ thôi. Trần Trọng Trí như người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra, hay đúng hơn là không muốn thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí ông...

Tôi xin lỗi đã kể hơi dài về Thuyền trưởng Trí, bởi ông là một nhân vật chính của cuốn Đảo chìm, chúng ta cũng nên biết kỹ về ông ở ngoài đời thực. Sở dĩ, ngày ấy, Thày trò Trí -Tròn nổi bật như nhân vật trung tâm của mạng xã hội Blog Tiếng Việt, là bởi họ gắn với một chủ đề nóng bỏng, ấy là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam mà phần lớn người dân xứ ta đều quan tâm; khi mà, họ là nguyên mẫu các nhân vật chính trong tiểu thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trường Sa, Hoàng Sa và rộng ra là Biển Đông chưa bao giờ vơi nóng, bởi nguyên nhân chính là quan điểm, thái độ và cách ứng xử của nước lớn không phù hợp với luật pháp quốc tế về chủ quyên biển đảo trong các nước khu vực, nói chung. Sự tham góp của họ (cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và các cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh...), cùng tác giả cuốn sách-nhà thơ Trần Đăng Khoa và rất nhiều các bậc nhân sĩ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, người lính, bạn đọc nói chung với các câu chuyện thật ngoài đời liên quan dến cuốn sách, vô hình chung đã biến tác phẩm Đảo Chìm như một sân khấu lớn, đại cảnh, lớp lang chính phụ, đầy bi hài,...

 

III. Đảo chìm – Một góc nhìn khác

Ta cùng thử hình dung, Đảo Chìm như một tác phẩm Sân khấu thì sẽ thế nào nhỉ?

Song trước khi nhìn tiểu thuyết Đảo Chìm như một Sân khấu lớn, xin trở lại với không gian tiểu thuyết mà tôi đã nhận thức và nêu ra trong bài viết có tên Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ở đó, tôi phát hiện sự tài tình của tác giả trong việc tạo dựng nên ba không gian đồng thời để kể câu chuyện của mình. Ấy là không gian hữu hạn. Bao gồm “cái lều bạt” chung chiêng trên thềm san hô, là con tàu loanh quanh trong khu vực của mình, được xem là hòn đảo nổi; ấy còn là không gian vô hạn với mênh mông trời nước, lúc hiền dịu mộng mơ, lúc lặng thinh bí hiểm, lúc cuồng điên dữ dội đầy bất trắc; và nữa, một không gian tâm tưởng chỉ tồn tại trong ý nghĩ của mỗi nhân vật. Ba không gian ấy khi tách bạch, khi xâm lấn nhau, khi đồng dạng phối cảnh,... Và trong bối cảnh như vậy, tất thảy nhân vật, con người (từ chàng lính quèn đến vị Tư lệnh), con vật (chim biển, cá mập, con lợn), vật dụng (lều bạt, tư trang quần áo, ba lô vật dụng của người lính đã khuất, cuốc xẻng, lưới câu, vũ khí, con tàu...) đều sống động, có hồn, suy nghĩ, hành xử theo logic của mình.... Chính nhờ tạo dựng một không gian nghệ thuật như vậy nên mọi ý nghĩ, hành động, tính cách nhân vật, tình huống, tình tiết truyện (có khi phi lý) đều chấp nhận được và trở nên có lý có tình,... Một sự hỗn mang như mê sảng. Chim biển, cá mập thì như người, như ma quái, con lợn cũng như người, lại như yêu tinh; còn con người thì “nhanh chóng mất hơi người”, có lúc như chim, như cá, lại có khi như lợn, như người nguyên thủy (nhân vật Hai Ùm hay cởi truồng)... và có khi chỉ là “một chiếc linh hồn nhỏ” (phần kết, Hai Ùm chết, hồn như nhập vào một con ó biển khổng lồ, dáng gù gù ngồi cửa lều bạt, khiến đồng đội vừa mừng, vừa rùng mình rờn rợn, như tưởng anh sống lại).... Và cũng chính việc tạo dựng nên một không gian nghệ thuật như vậy, mà tác phẩm Đảo Chìm không giống hiện sinh kiều phương Tây, cũng chẳng “hiện thực huyền ảo” kiểu Mỹ-la-tinh, mà nó là hiện thực lãng mạn pha chút “Liêu trai” phương Đông...

Còn về ngôn ngữ tiểu thuyết Đảo Chìm. Có thể nói rất tài tình, điêu luyện trong kỹ nghệ dẫn truyện, kể chuyện. Là nhà thơ, tác giả Trần Đăng Khoa đã dùng thế mạnh của mình, là dùng ngôn ngữ thơ để viết văn xuôi và kể chuyện rồi khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ thơ nên chắt lọc, không dàn trải. Tả hay kể đều chấm phá, cốt gợi chứ không nói hết. Ta hiểu vì sao tiểu thuyết rất ngắn, mỗi chương cũng rất ngắn. Có chương chỉ hai hay ba trang. Rất kiệm lời, chắt lọc đến từng chữ một. Không có câu độn, từ thừa. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và có sức dư ba. Ngay cả những đoạn tả cảnh cũng rất ấn tượng và có sức ám ảnh. Đây là cảnh hoàng hôn: “Chiều xuống dần. Mặt trời đã chìm khuất sau một bầu nước rùng rùng tím ngắt. Nhưng những đám mây vẫn còn bắt nắng, đi lừng lững trên đầu, rừng rực như những đám cháy lớn. Bầy chim biển đi kiếm ăn về. Chúng kêu toang toác quanh lều. Tiếng kêu hoang vu và tanh lợm mùi cá...” . Còn đây là cảnh trăng lên ở đảo: ”Sương xuống tê tê. Phía sau lều bạt, biển bục lên một đám cháy lớn. Trăng đang mọc. Vài con ó biển giật mình, tiếng kêu oang oác trên thinh không mông lung mờ mịt.” Và đây, một sự kiện đặc biệt, lợn đẻ ở đảo chìm: “Hàng chục ngọn đuốc rần rật bùng lên. Lửa réo ù ù trong gió biển. Con tàu hú còi, tức tốc nhổ neo, lượn ba vòng xung quanh Đảo Chìm. Sau đuôi tàu, biển rực lên một vùng lân tinh sáng chóa. Trong đêm, nom nó quái dị và kỳ vĩ như một dải Ngân hà đang cháy.” Còn đây nữa, Đảo Chìm sau cơn bão: “Vùng đảo hoang lạnh một màu khai thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá voi khổng lồ đã bị rỉa hết thịt.

Còn đây là Thiêm. Người lính biển mà cả cuộc đời chỉ còn lại cái ba lô với tồng tềnh mấy bộ quần áo đã bạc: “Anh nằm giường này nhé. Đây là cái giường của thằng Thiêm. Đồ đạc của nó kia. Anh quản luôn cho nó nhé. Cứ coi như cái giường này của anh. - Thiêm nó về phép à? Không! - Hai bùi ngùi - Nó mất rồi anh ạ! Chắc chắn là mất rồi. Vì chúng em đã lặn lội tìm nó ròng rã hơn tháng trời mà vẫn chẳng thấy. Tội quá, vừa rồi cu cậu lại có thư mẹ. Bức thư nó mong mãi hôm qua mới đến. Nó cứ sợ bà cụ làm sao. Người già như ngọn đèn trước gió, chả biết thế nào. Chúng em vẫn chưa báo tin về gia đình. Bà mẹ nó cứ mong nó về lấy vợ.  Thiêm  ơi,  u  đã  rấm  cho  mày  một  đám  rồi đấy. Nhà cũng có sẵn con lợn trong chuồng rồi. Mày cứ về là cưới thôi. Con đừng lo gì cho u. Ở nhà, u cũng còn mớ rau, nải chuối, cũng có đồng ra đồng vào. Con đừng gửi tiền cho u nữa. Nếu chính phủ có cho con đồng nào thì con cứ bỏ vào cái hõng cột, tích lại mà cưới vợ, đừng gửi cho u nữa... Khổ, ở đây, tiền như giấy lộn, có dùng được vào việc gì đâu. Mà anh thấy đấy, làm gì có hõng cột...Giọng Hai nghẹn lại: Mẹ nó vẫn chưa biết là nó đã chết. Tội nghiệp bà cụ quá anh ạ. Em vẫn chưa nghĩ ra cách nào để gửi những thứ này về cho mẹ nó. Anh xem có cách gì chuyển được về gia đình nó những thứ này không? Anh có quen ai ở gần quê nó không? Nhưng mà ai có thể ra đây được? Anh em mình thì chưa thể về…Rồi Hai lầm rầm như nói trong cơn mê sảng: Thiêm  ơi,  mày  chỉ còn  lại  trên  thế gian  một chút xíu này thôi. Tao sẽ gửi về bằng được cho mẹ, cũng có thể tao sẽ trực tiếp mang về trao tận tay mẹ, để mẹ còn có cái mà thắp hương cho mày. Anh em mày còn có cái để cũng giỗ mày...Đêm ấy, tôi không sao ngủ được, mắt cứ trân trân nhìn lên nóc bạt. Trên đó, chiếc ba lô của Thiêm  cứ đong  đưa  trong  gió.  Thỉnh  thoảng,  đôi đũa tre lại khua leng keng vào cái bát sắt sứt men. Vào những lúc như thế, Hai thường lần dậy, múc một bát nước ngọt đặt lên đầu giường, rồi lặng lẽ chắp tay, vái lên nóc bạt"

Đây là chi tiết độc. Chi tiết cài để dẫn đến cái chết rất bi tráng của Hai. Trong Đảo Chìm, mọi chi tiết tưởng như bâng quơ, nhưng rồi đều được đẩy đến cùng, tạo nên sự ám ảnh. Không có gì thừa và bâng quơ cả.

Còn rất nhiều đoạn văn có sức ám ảnh như thế. Tôi chỉ nảy ra mấy mẩu, để phần nào minh chứng cho ngôn ngữ đặc sắc của tiểu thuyết Đảo Chìm,...

Giờ thì ta cùng nhìn Đào Chìm ở phương diện sân khấu với các màn chính kịch, màn phụ  theo lớp lang của nó. Dĩ nhiên, người chính trị viên tên Thuận, các thủy thủ tên gọi Hai Ùm, Tư Xồm cùng các đồng ngũ của mình trên con tàu HQ và trên đảo, thêm vị Tư lênh binh chủng nữa, đều là những nhân vật chính. Tác giả cuốn sách, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người dẫn chuyện. Vậy là đủ vai? Không. Còn thiếu một vai nữa, ấy là vai phụ. Vai Hề, con lợn An-ta-ra-mê-na. Vẫn biết đây chỉ là vai phụ thôi, nhưng vai diễn này vô cùng quan trọng

          Thiết nghĩ, hãy khoan bàn về con lợn An-ta-ra-mê-na với tư cách vai Hề, trước hết, cần xem vai trò của Hề trong sân khấu truyền thống ra sao? Với góc nhìn từ vai Hề ở sân khấu chèo (có thể mở rộng cho vai Hề trên sân khấu truyền thống nói chung), nói đến vai Hề, người ta thường nghĩ đến một nhân vật luôn mang lại tiếng cười cho người xem. Dù chỉ là một vai diễn mang tính chất phụ họa cho những lớp bối cảnh chính, nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng và đặc biệt là cái hồn vía của vai diễn, bởi trong tiếng cười chính là sự sâu lắng, phản ánh rõ nét nhất cuộc sống qua tạo hình đặc biệt của một vai diễn trên sân khấu.

          Khái niệm là vậy, giờ ta thử lấy lăng kính Hề sân khấu soi chiếu vào con lợn An-ta-ra-mê-na trong Đảo Chìm xem sao? Con lợn tinh ranh, bắng nhắng, hay làm trò cho lính cười. Ả ta (lợn cái) được mọi người quan tâm, cho diện váy áo mớ ba mớ bảy lòe loẹt trong khi các chàng lính mình thì trần như nhộng đóng mỗi chiếc quần cộc, thậm chí chẳng mặc gì; đến thứ quý nhất là nước ngọt thì tiêu chuẩn hàng ngày của ả ta cũng gấp đôi của lính. Bi hài nhất, là mỗi khi đến chu kỳ động dục, ả ta tăng động, ngoe nguẩy chìa bộ phận giống cái ướt nhẹp đỏ hỏn của mình vào mặt đám lính thủy... Chẳng thế mà, từng có một nữ nhà văn tầm cỡ, trong một lần mạn đàm với nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ ý định táo bạo, rằng nếu cô ấy là tác giả thì sẽ đảy chi tiết này đến tận cùng (nghĩa là cho đám lính thủy trong cơn khát thèm đàn bà lâu ngày, không kiềm chế nổi bản thể, làm cái chuyện đực cái với nàng lợn An-ta-ra-mê-na). Tất nhiên nhà thơ rất tỉnh táo, chẳng bao giờ nghe ai đó “xui dại” như thế. Ông chỉ bảo, ý nghĩ của người đời kinh thật.

Song quả thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa ít nhiều cũng băn khoăn về số phận của vai Hề này, từng tự hỏi, mình có nên chỉnh sửa đôi chút phần kết của tác phẩm Đảo Chìm, khi có độc giả bày tỏ thắc mắc, rằng liệu tác giả có bỏ quên con lợn An-ta-na-mê-ra hay không, mà cuối truyện chẳng thấy nó đâu cả,... Vậy thì nó biến đi đâu, số phận nó ra sao sau cái chết của Hai Ùm?

Tôi nghĩ, bạn đọc đòi hỏi không sai, song cũng không cần phải giải quyết chi cả, bởi nó chỉ là vai Hề. Hề chỉ là vai phụ, Hề xuất hiện để kết nối và sâu chuỗi các phần chính kịch với nhau thành một chỉnh thể lo-gic, xét về cấu trúc; còn về biểu hiện thì sự ra mắt của Hề là để làm trò, gây cười, dù là cười vui vẻ sảng khoái, cười chảy nước mắt, hay cười để nuốt nỗi buồn đau vào tận đáy lòng,...và hơn nữa, thâm chí để nói những điều mà tác giả không thể nói được trong vai trò người dẫn chuyện, mà cũng không thể gửi gắm vào các nhân vật chính kịch. Hoàn thành các việc này, là Hề  tròn vai, hết chuyện, cần chi đẩy số phận vai phụ đến tận cùng. Lẽ di nhiên, trong câu chuyện và văn cảnh cụ thể, Hề ta có số phận thì cũng hay.

Ở đây, còn bởi, cái kết của tác phẩm Đảo Chìm rất đắt, rất đắc địa rồi, đó là cái chết của nhân vật Hai Ùm, ám ảnh và lay động tâm can, lay động trời biển. Chẳng ai có thể quên nổi, hình ảnh con chim biển khổng lồ đứng trước cửa lều bạt dáng gù gù hệt Hai Ùm vì như hồn chàng lính thủy này nhập vào, khiến đồng đội vửa sợ vừa mừng tưởng anh sống lại. Một cái kết bi tráng, cô đọng, giàu biểu đạt như đúc tượng vậy, thử hỏi còn có gì tuyệt hơn, cần chi mà phải bàn thêm về số phận con lợn Hề cho dài dòng văn tư. Ta cùng đọc lại mấy dòng kết này để thấm nỗi bi tráng: “Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở Đảo Chìm, người đó tại sao không phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được thấy cánh chim hải âu”.  (Ở đây, tôi xin được mở ngoặc, bởi đó là chi tiết rất đắt, được cài cắm ngay từ đầu cuốn sách. Hải Âu thường chỉ bay ở ven bờ, cách đất liền chừng hơn trăm cây số. Ngoài đại dương không có Hải Âu. Vì thế với lính biển, Hải Âu là tín hiệu báo đất liên. Và trước đó Trần Đăng Khoa cũng đã bàn về cái chết dữ dội của những người lính biển. Chết mà không được yên. Dẫu chỉ còn một mảnh xương tàn thì mảnh xương đó vẫn đêm ngày phải vật lộn với sóng gió. Cho nên, mới có chi tiết: Ước gì trước khi nước khép mặt, Hai được nhìn thấy bóng chim Hải Âu, ấy là niềm ước vọng mong manh có thể mảnh xương tàn của mình sẽ được sóng đẩy về với đất). Bởi thế: “Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chất.  Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như máu...”. Hàm súc, ấn tượng như một triết lý, dư ba,  mà gợi và mở ra vô tận,...

          Nhân đây, bạn đọc nên biết một bí mật về ả lợn Hề An-ta-ra-mê-na này. Qua câu chuyện lính Trường Sa bàn luận, tôi mới biết, thực tế, ngày ấy, ngoài Trường Sa, đặc biệt là Đảo Chìm, chẳng có một chú lợn nào cả. Tác giả, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã hư cấu, tạo nên một ả lợn bắng nhắng vui nhộn làm trò cười cho lính, trên cơ sở một con chó khoang có thật. Theo cánh lính Trường Sa commen kể lại, và theo dõi cuộc trò chuyện trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt (đã trích ở phần trước) giữa nhà thơ Trần Đăng Khoa với cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí (nguyên mẫu nhân vật chính trị viên Thuận) cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, (nguyên mẫu Tư Xồm), Lê Văn Khánh, thì lúc ấy ở đảo, họ có nuôi một con chó khoang được goi  tên Ái Vân (cánh lính đảo thích lấy tên của một nữ ca sĩ xinh đẹp nổi tiếng một thời đặt tên cho con chó của họ. Đây là sự trân trọng yêu mến thực sự của cánh lính đảo, chứ không phải giễu cợt hay thóa mạ), và rồi trong lần đón tiếp vị Tư lệnh binh chủng thị sát đảo, họ đã lấy cớ thiết đãi ông rồi làm thịt. Và nếu như, chỉ có thế thôi thì quả là “chó chết hết chuyện”, nên nhà thơ đã rất sáng tạo khi chế ra  một ả lợn tên gọi An-ta-ra-mê-na quyền năng như phù thủy, tinh ranh như yêu tinh, hoạt náo vui nhộn như tên Hề sân khấu. Chó khôn và tình nghĩa là đương nhiên (“khuyển mã chi tình”), nhưng lợn khôn mới khó và lạ chứ (người đời vẫn quen  bảo “ngu như lợn”mà). Ấy vậy, ả lợn An-ta-ra-mê-na này lại tinh khôn đến bất ngờ, có cá tính hẳn hoi, và như thế nó xứng đáng là một “nhân vật đặc biệt”.  Bí mật của vai Hề này là thế đó. Và theo tôi, ả lơn này không những góp phần tạo bầu không khí sinh động cho câu chuyện của những người lính biển, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng làm nên chất uy-mua và bi tráng cho cả thiên truyện.

Có điều này,  mỗi khi nghĩ về tiểu thuyết Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, tôi lại nghĩ đến hai tiểu thuyết ngắn khác, đó là “Ông già và biển cả” của Ernest Hemingway và “Trên mảnh đất người đời” của Anatoli Stepanovich Ivanov. Theo tôi, ba tiểu thuyết ngắn này ít nhiều có độ tương đồng, về số lượng từ, về độ hàm súc của ngôn ngữ và tính biểu đạt hình tượng.  Nếu như, ở “Ông già và biển cả” người ta thấy được sự cô đơn của con người giữa thiên nhiên và dù con người có cố gắng đến mức nào cũng nhiều khi trở nên vô nghĩa; Và ở “Trên mảnh đất người dời” người ta nhận ra một chân lý khác, ấy là dù có bị vây hãm trong tình yêu, sự dượt đuổi của người trả thù giấu mặt trong sự kinh hãi của kẻ chạy trốn, sự ghê tởm và lòng hận thù tột độ thì đến một lúc nào đó lại có thể tha thứ và coi đấy là cách trả thù còn kinh khủng hơn nhiều. Về không gian tiểu thuyết, hai cuốn này đơn tuyến, nặng về chất tự sự, giàu nội tâm...  

Còn ở Đảo Chìm, không gian truyện phức tạp hơn nhiều, dù lượng chữ  lại ít hơn, con người ta sống trong một trật tự tưởng vô cùng nghiêm ngặt song lại như một thế giới tự do tự tại, nhưng ngặt thay, là con người tự khép mình trong sự cố kết bởi ý thức trách nhiệm với niềm tự hào và niềm tin vững chắc về một tương lai mờ mịt, vời vợi phía chân trời...  Với nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng của Đảo Chìm mà tác giả đã lựa chọn, là rất thích hợp và độc đáo. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lớn Lê Lựu, một người rất khó tính về nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là Thần bút.

Còn tôi thì coi đó là một kiệt tác...

 

                                                                                Hà Nội, tháng 5/ 2023

 

 

 

 

 

 

NHỚ NHÀ THƠ -

bây giờ là mùa thu

 

 

“Gió tháng tám vu vơ rồi sẽ thổi về/ Cánh bãi sẽ ngô mềm vai áo/ Lá sẽ mượt sau những ngày giông bão/ Nhịp tim mình rồi mạch lạc như xưa.../ Sẽ đến ngày tóc mình ngả vào thu/ Hoa bèo tím chẳng mong manh như trước/ Chim nhạn sẽ bay về thưa thớt/ Cay đắng phai dần thành những bâng khuâng”...

 

Tôi tin rằng, nhiều bạn yêu thơ sẽ nhớ những câu thơ này từ bài thơ Bây giờ là mùa thu của nhà thơ Vũ Đình Minh.

Với Vũ Đình Minh, gọi ông là nhà văn hay nhà thơ đều đúng, bởi ông viêt đều tay và có những thành công đáng kể cả văn xuôi (truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký, bút ký,...) và thơ.

          Mùa thu này, tôi nhớ và viết về ông như một sự tri ân với người đàn anh thân thiết, người thày về báo chí, văn chương đáng kính.

          Hơn chục năm trước, hồi Vũ Đình Minh mới về cõi hạc, tôi viết chân dung ông-“Dung dị Vũ Đình Minh” đăng trên trang blog cá nhân của mình ở Blog Tiếng Việt, sau đó Báo Nông nghiệp Việt Nam đăng số Tết nguyên đán và sau cùng tập hợp trong một tập sách của tôi. Đặc biệt, khi bài về chân dung Vũ Đình Mình đăng trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt. đã có rất nhiều bạn đọc, nhà báo, bạn văn chương vào cảm nhận. cung cấp một số chi tiết về Vũ Đình Minh. Ngay cả người con trai của ông, nhà báo Vũ Đình Thành cũng ghi cảm nhận và cung cấp thêm tư liệu về đời tư và sự nghiệp sáng tác văn chương của ông. Trên cơ sở những chi tiết và tư liệu này, tôi gom góp và xâu chuỗi lại, đặng khắc họa đậm nét hơn bức chân dung về Vũ Đình Minh.

Theo nhà báo Vũ Đình Thành, con trai ông, thì Vũ Đình Minh sinh ngày 30 tháng 12 năm 1944 tại quê, Tráng Việt, Mê Linh, Vĩnh Phúc. Năm 1965, tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, ông tình nguyện xung phong lên miền rừng núi Cao Bằng dạy học. Cả thời thanh xuân đầy khát khao, ông cống hiến cho vùng đất hoang vắng này, sau đó chuyển công tác về Vĩnh Phúc, Phú Thọ dạy học ở Trường cấp 3 Đoan Hùng. Vì có năng khiếu và tham gia sáng tác văn học, nên Vũ Đình Minh được điều về làm Thường trực Hội Văn học Nghệ thuật tình Vĩnh Phú. Từ năm 1979, ông chuyển công tác về làm biên tập ở Ban Văn nghệ Đài Phát thanh Hà Nội. Là người có năng lực, ông lên đến cương vị Trưởng ban, năm 2004 thì nghỉ hưu, sống tại Hà Nội đến khi qua đời.

 

          Trở lại chuyện cũ, mùa thu năm 1987, tôi từ vị trí kỹ sư nông nghiệp ở huyện miền núi biên giới Trị Tôn (An Giang) về làm báo tại Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN) thì Vũ Đình Minh đã là Trưởng ban Văn nghệ Đài Phát thanh Hà Nội rồi. Khi ấy. Đài Hà Nội chưa ra truyền hình, nên các chương trình văn nghệ của Đài rất được người làm chăm chút và thính giả đón nhận. Có lẽ, các chương trình văn nghệ ở đây hay chẳng mấy kém chương trình văn nghệ của Đài trung ương. Vậy nên, Vũ Đình Minh cũng rất được đám văn nghệ sĩ Hà Nội nể trọng, cầu thân, đặng mong được phát bài. Nhuận bút ít ỏi, song thời buổi cả nước thiếu thốn, đói kém nên đồng nhuận bút quý bao nhiêu. Tôi tập tọng nghề báo, tiếng nhà báo cũng oai đấy, nhưng túi thường nhẵn khi chưa hết tháng. ngoài công việc chuyên môn ở cơ quan, tôi dành thời gian viết báo vặt để kiếm tiền và tối đi học ngoại ngữ, tiếng Pháp ở trung tâm nơi góc phố Nhà Chung. Viết báo vặt thì phải chịu khó, ngó các báo trung ương, địa phương, báo ngành, thấy tờ nào có mục mà mình có thể viết được là mần thôi. Anh bạn thân, nhà báo Trịnh Bá Ninh làm phóng viên báo Nông nghiệp chỉ dẫn này nọ, đặng giới thiệu làm quen với một số nơi. Ngoài nhà văn Trần Nguyên Vấn (Trần Phương Trà) ở Ban Văn nghệ Đài TNVN mà tôi làm quen từ hồi còn ở trong Nam, nay thành người cùng cơ quan, thì Trịnh Bá Ninh dắt tôi đến giới thiệu làm quen với Vũ Đình Minh. Cơ quan ông ở góc phố Hàng Dầu, gần chỗ bức phù điêu "Quyết từ cho tổ quốc quyết sinh", Hồ Gươm (nay người ta sửa thành "Cảm tử cho tổ quốc quyết sinh"), nên tôi hay mò sang thăm ông. Lân la, tôi quen luôn cả nhóm bộ tứ của ông. Cao tuổi và trưởng nhóm là nhà thơ Trinh Đường, mà mọi người quen gọi vui là “Trinh Đoàn trưởng". kế đến là nhà văn Trần Nguyên Vấn, hai anh sàn sàn nhau là nhà thơ Nguyễn Thái Vận (biên tập viên ở Nhà xuất bản Lao Động) và Vũ Đình Minh. Với nhà thơ Trinh Đường thì tôi chỉ ra mắt xã giao, vì ông có độ chênh lệch tuổi tác, cương vị, nên không dám gần, cứ kính nhi viên chi thôi. Nhà thơ Nguyễn Thái Vận bảnh người, nói năng nhỏ nhẹ và lịch sự, song cảm nhận ở nơi anh có vẻ lành lạnh hơi khách khi nên tôi ngài ngại, giữ khoảng cách đủ độ ấm. Còn nhà thơ Trần Nguyên Vấn thì thành người một nhà rồi. Riêng Vũ Đình Minh nhỏ người, trông xâu xấu trai như mình, dáng vẻ quê quê kiểu thầy giáo làng, tính tình lại dễ chịu, xuề xòa và khi vui là đến sảng khoái, tôi thấy hợp nên thân ngay. Tôi nằm bàn ở Trụ sở cơ quan 58 Quán Sứ sang Hàng Dầu cơ quan ông cũng gần nên hầu như tuần nào cũng ghé. Hơn nữa, Vũ Đình Minh còn hứa "Tao sẽ để ý, thấy con bé nào đường được thì giới thiệu cho mày làm người yêu...". Tôi gần với Vũ Đình Minh, còn bởi, tôi độc thân chưa vợ, hết giờ làm việc và ngày nghỉ chủ nhật chẳng biết đi đâu, các vị kia thì gia đình vợ con dầm ấm đề huề ở Hà Nội cả, riêng Vũ Đình Minh mặc dù mua được căn nhà cấp 4 xóm nơi chân dốc phố Lò Đúc nhưng vợ con ông vẫn ở quê bên Mê Linh, tháng đôi lần đạp xe thồ đèo lủng củng đồ hàng về quê, khi ra lại nặng xe thồ đèo nông sản, những ngô khoai sắn rau cỏ... Tôi hay đến đây, vui chuyện, anh em khi cao hứng thì cạch chén tợp đôi ba chén rượu lạc rang, tóp mỡ, đậu rán chấm nước mắm. rau thơm giải sầu...

Ít lâu sau, Vũ Đình Minh xin việc cho người em ruột về làm cùng Đài Hà Nội và cho gia đình họ ở ghé căn nhà ấy, thì tôi bớt lui tời vì cảm thấy phiền, mà chỉ ghé cơ quan ông thôi.

          Thời thế, hoàn cảnh gia đình mỗi người đổi thay, Vũ Đình Minh đưa cả vợ con từ quê ra Hà Nội ở chung, chuyển nhà mới mãi đường Tam Trinh nối dài, còn tôi thì lập gia đình, vợ tôi cũng không phải là một cô gái nào mà Vũ Đình Minh thấy đường được mai mối cho tôi như ông đã từng đùa vui, và tôi cũng được cấp vài chục thước nhà tập thể cơ quan lấy chỗ chui ra chui vào, nên anh em chúng tôi có phần xa nhau hơn trước. Thi thoảng vẫn gặp nhau ở đâu đó vì công việc làm báo, hay lâu lâu điện thoại hỏi thăm thôi, chứ chẳng có thời gian mà ngồi đối ẩm cạch chén cao hứng đàm luận văn chương như ngày xưa cũ...

          Rồi Đài Phát thanh Hà Nội ra thêm truyền hình, cơ quan rời khỏi Hàng Dầu đến trụ sở mới to đẹp nhưng mãi tận phố Huynh Thúc Kháng, nên hai anh em đã xa lại càng xa. Vũ Đình Minh rất hân hoan và bận mải vì làm truyền hình, nên viết văn, làm thơ ít đi. Song chính quãng thời gian này, Vũ Đình Minh đã đi tiên phong trong việc làm phim tài liệu chân dung các văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa thuộc hàng gạo cội của Việt Nam. Ồng làm hàng trăm phim chân dung, trong đó có những phim hay như nhà thơ Hoàng Hữu, nhà viết lịch Tào Mạt, nhà thơ Huy Cân, Vũ Cao, nhạc sĩ Văn Cao, căp vợ chồng nhà thơ Lưu Quang Vũ-Xuân Quỳnh v.v... được bạn bè đồng nghiệp và khán giả xem phim đánh giá cao. Phát hiện và thực hiện ý tưởng đó, Vũ Đình Minh và các đồng nghiệp ở Đài Phát thanh truyền hình Hà Nội còn đi trước cả đài trung ương bởi sau đấy ít năm, Đài Truyền hình Việt Nam mới làm phóng sự chân dung văn nghệ sĩ. Công việc vào trớn, hanh thông, Vũ Đình Minh lại thêm niềm vui, cưới vợ cho con trai. Hôm cưới, tôi đến muộn, khách khứa đã vừa mâm hết, tôi phải dợi mãi, ăn cùng mâm với gia đinh hai họ. Vũ Đình Minh vừa vui, vừa mệt, kiểu mừng của người vừa làm xong một việc lớn, ông cứ cốc bia trên tay, lẫm chẫm như con trẻ, la cà các bàn, cụng lý cảm ơn quan khách. Bữa ấy, ngắm nhìn Vũ Đình Minh, tôi mừng cho ông đã vượt qua những tháng năm vất vả, gian khó...

          Nhóm bạn “bộ tứ huyền ảo” của Vũ Đình Minh cũng dần rệu rã bởi nhà thơ Trinh Đường tuổi cao sức yếu ít ra ngoài, nhà thơ Nguyễn Thái Vận thì mất sớm vì bệnh tim, chỉ còn mỗi nhà thơ Trần Nguyên Vấn là hay đây đó. Vũ Đình Minh lại lần nữa chuyển nhà lên phố, gần nơi cơ quan. Ngày ấy chưa có điện thoại di đông, liên lạc qua máy bàn công sở hay nhà riêng. Có lần, tôi điện thoại phiền ông, một sự việc Đài của ông nêu, liên quan đến việc tranh chấp đất đai của một người bạn tôi. Ông bảo, ban biên tập của ông không làm trực tiếp vụ đó song ông có biết, vụ này khó bởi ông phó chủ tịch thành phố, người được giao xem xét đã xử lý, giải quyết vụ việc theo hướng đó rồi, Đài ông cũng chỉ nói theo chỉ đạo mà thôi, không thể nào khác được. Chuyện công việc xong, ông đùa tôi, hỏi đã thăng tiến đến chức vụ nào rồi, đem tôi so sánh với người này kẻ nọ. rồi ông cười sảng khoái lắm.

          Trước lúc Vũ Đình Minh nghỉ hưu, tôi gặp ông một lần. Đợt ấy, Hội đồng hương văn nghệ sĩ quê Hải Hưng tổ chức gặp mặt đầu xuân ở Hội trường Đài PT&TH Hà Nội, do nhà văn Đào Quang Thép (Phó giám đốc Đài) chịu trách nhiệm. Tôi đến dự, tan cuộc, ra về, đến cổng đài thì thấy Vu Đình Minh đứng đấy. Tôi vội xuống xe, chào ông. Lâu ngày gặp nhau, tay bắt mặt mừng, tranh thủ hỏi thăm đủ thứ chuyện. Vũ Đình Minh vẫn cười đấy, nhưng nụ cười heo héo, và tôi thấy khi sắc ông không vượng. Ông bảo: “Mày ạ... Sắp tới. tao về hưu rồi. Xả hơi một chút rồi viết lại. Mấy năm rồi, bận chương trình của Đài, hết kịch bản này đến kịch bản khác, nổi tiếp nhau , tối cả mặt mày, chả viết được mấy”.

Bẵng đi một dạo, nghe đâu sức khỏe ông xuống nhanh, nhất là sau khi ái nữ của ông lâm trọng bệnh, chữa trị khắp nơi nhưng không qua khỏi. Ông buồn nhiều và suy sụp cũng rất nhanh... Đúng thời gian này, tôi phải xa Hà Nội hai năm theo quyết định điều động vào phụ trách văn phòng Đài TNVN khu vực miền Trung tại Đà Nẵng nên anh em ít liên hệ với nhau.

Trở lại chuyện thơ văn của Vũ Đình Minh. Chính yếu, Vũ Đình Minh là tác giả văn xuôi với gầm chục tập truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký, truyện cho thiếu nhi (Ông già ngồi dưới vòm cây gạo, Đi qua bão tố, Mặt đất và bầu trời, Mùa cạn, Trả giá cuối cùng, Một giớ làm quan, Chiếc diều nằm trên cỏ... ), song bạn đọc lại luôn nhớ đến ông-một Vũ Đình Minh Thơ. Ngay trong phần tư liệu về cha mình gửi cho tôi, Vũ Đình Thành thống kê tên 2 tập thơ của ông là Gió đồng, Mưa trước cửa nhà, và tập thơ in chung Lời từ đất. Cẩn thận, Vũ Đình Thành còn chọn gửi cho tôi 5 bài thơ (Hội Lim, Sang năm con lên bảy, Ý nghĩ ngày mưa, Mùa đông nhớ bạn, Bây giờ là mùa thu). Có lẽ, đây là những bài thơ hay mà Vũ Đình Thành lựa chọn theo ý cá nhân mình, hay theo ý cha mình và bạn đọc nói chung, xem đó là những bài thơ hay nhất. tiêu biểu làm nên giọng điệu, phong vị thơ Vũ Đình Minh ?!...

Cứ chiểu theo ý nhận xét, đánh giá của bạn đọc là khách quan nhất, những người tôi quen biết, ý kiến khá nhất quán. Xin nêu ra đây để tham khảo, như nét khắc họa:

Ông Bùi Hải Đăng, một nhà phong thủy, làm thơ và yêu thơ ở Gia Lộc, Hải Dương viết: “Tôi quen bác Vũ Đình Minh những năm 1975- 1978 khi bác biên tập  thơ ở Hội văn nghệ Vĩnh Phú... Năm 1978 tôi đi sông Đà rồi chuyển về Hải Phòng, rồi nghỉ mất sức, đã gần 40 năm chưa gặp lại bác Minh...Trong tâm trí của tôi bác là người hiền lành, giản dị, khiêm cung và dễ gần. Hồi đó ông sống thật bình lặng. Bài thơ "Hội Lim" là kỷ niệm buồn về cuộc yêu không thành có thật trong ông với một cô giáo vùng Kinh Bắc.... Tôi đọc thơ ông từ chùm thơ được giải của báo"Người giáo viên nhân dân" khi đó ông còn dạy học vùng cao... Năm 1975 ông đi dự trại viết ở Quảng Bá khi kết thúc trại mang về một chùm thơ hay. nồng nàn cảm xúc. Năm 1976, có thời gian chỉ hai tháng ông viết được đến 4 truyện ngắn. Khi đó tôi ở công trường dệt Minh Phương, có tối sang chỗ Hội chơi, ông thường trải chiếu ra sân sỏi nói chuyện dưới trăng... một lần đọc thơ ông đến đoan: "Em đi qua nghiêng nón khẽ chào/ Tôi thơ thẩn mái đình nhiều ngói quá!/ Cây ổi bờ ao cong cành xanh đặc quả/ Đến bao giờ ổi chín hở em?”. Thấy tôi ngẫm ngợi ông bảo:”Tớ học ca dao đó” ... Thoáng chốc như vừa đâu đây, Hoàng Hữu, Nguyễn Đình Ảnh và Ông giờ đã thành người thiên cổ cả rồi...Ôi kiếp người quả là ngắn ngủi..”.

Nhà thơ Nguyễn Thị Tuyết ở Đông Anh, Hà Nội, một giáo viên nghỉ hưu từng nhiều năm dạy học ở Hà Giang: “Người đọc hiểu thêm nhiều về nhà văn, nhà thơ Vũ Đình Minh -tác giả của nhiều bài thơ được đông đảo bạn đọc yêu thích -Riêng mình rất tâm đắc bài HỘI LIM của nhà thơ Vũ Đình Minh...”.

Nhà văn Trần Tâm ở Cẩm Phả, Quảng Ninh: Tôi cũng đã biết và gặp ông ngày ông làm việc tại Đài phát thanh Hà Nội. Tôi như được gặp lại mấy người anh, bạn văn chương, những Trinh Đường, Ngô Quân Miện, Nguyễn Thái Vận, Vũ Đình Minh... Đó là những con người bằng xương bằng thịt mà tôi đã vinh dự được gần gũi gắn bó. Trong số đó, có người tôi gặp gỡ, ghé qua như một buổi dạo chơi, có người góp sức nâng đỡ tôi như một người thày tận tụy. Có người đã đi về miền sương khói, có người đã vào tuổi cổ lai hy...

Ông Lê Minh Dung, bạn yêu thơ ở Tp Hồ Chí Minh: “Tôi cũng thích thơ của anh Vũ Đình Minh, nhiều bài hay, như Hội Lim, Bây giờ là mùa thu,...”Bây giờ đã vào thu, nhịp tim đập bình yên/ anh lại nhớ mùa hè nông nổi ấy/ hoa bèo tím mỏng manh lắm đấy/ nhưng điều này chẳng nói với hai ta…”.

Nhà văn Thái Sinh ở Lào Cai: “Từ rất lâu rồi tôi chép bài thơ: Mùa đông nhớ bạn của Vũ Đình Minh: Bạn ở Nà Giàng mùa đông về sớm hơn/ Học trò có nhớ mang rơm cho thầy về trải ổ/ Cái lạnh căm căm từ trong hang đá/ Cái lạnh run tay tỏa từ trong mưa... Bài thơ 7 khổ, câu nào cũng chan chứa tình thầy trò, đúng với tâm trạng và việc làm của những thầy giáo vùng cao chúng tôi vào những năm 1975. Chống gậy leo đèo lặn lội rừng sâu. Gọi các em mấy ngày bỏ lớp...”.

Có hai bạn đọc ở miền Trung nhận xét ngắn gọn, một ghi “Tôi rất xúc động trước tình cảm tác giả bài viết dành cho nhà thơ Vũ Đình Minh. Tôi cũng đã từng xúc động trước Thơ của Vũ Đình Minh”; và một là nữ giáo viên: Cảm ơn tác giả bài viết về Vũ Đình Minh, ông có những vần thơ giản dị viết về nghề giáo mà tôi phải trăn trở suốt đời: "Mở trang sách, ánh mắt nhìn khao khát/ Tôi biết tôi không được nói những lời thừa...".

Phần nhiều, bạn đọc cảm tình với Vũ Đình Minh qua thơ, nhưng cũng có những người yêu thích văn xuôi của ông, nhất là bút ký. Chẳng hạn như, nhà văn Nguyễn Cao Thâm (Hà Nội) nhận xét: “Tôi cũng đã đọc thơ, ký, truyện ngắn của bác Vũ Đình Minh. Ấn tượng nhất với tôi là những bài ký của bác ấy đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam”. Hay như họa sĩ Đặng Đình Nguyễn ở Quảng Yên (Quảng Ninh): “Tôi ấn tượng với những bài ký của bác Vũ Đình Minh:,

Riêng nhà văn Nguyễn Ngọc Chiến (Hội văn học nghệ thuật Quảng Trị) lại cho biết một thông tin hay: “Tôi vẫn giao lưu cùng anh Vũ Đình Minh khi anh có blog ở vnweblogs, nhưng chỉ được đọc lẻ của anh chứ chưa đọc trọn tập bao giờ... Chủ lực của Vũ Đình Minh là truyện ngắn!”.

Thì rõ rồi, Vũ Đình Minh chủ lực là truyện ngắn, không có gì phải bàn, nhưng Nguyễn Ngọc Chiến tiết lộ chi tiết là từng giao lưu với Vũ Đình Minh trên mạng xã hội vnweblogs thì tôi ngạc nhiên. Vậy là ông rất chi hiện đại. Ông tiếp cận với mạng xã hội, với văn học mạng còn trước cả tôi, người kém ông những hơn chục tuổi.

Tôi nhớ, lâu lắm rồi, nếu không nhầm, một lần, báo Văn nghệ ra, tôi và Vũ Đình Minh có truyện ngắn in chung một số. Truyên ngắn “Ông già ngồi dưới vòm cây gạo” của Vũ Đình Minh giới thiệu trang bìa, còn truyện ngắn “Vĩnh biệt những mùa trăng” của tôi in ở trang ruột. Khi ấy, niềm vui trong tôi thật khó tả, Anh em, thày trò nghề văn thân nhau có truyện đi chung một sô báo, thật sướng. Tiếc là tôi không giữ được số báo lưu đó đến giờ.

Riêng tôi, học được ở ông nhiều, cả quan điểm về sáng tác. Hơn một lần, lúc trà dư tửu hậu, Vũ Đình Minh vỗ vai tôi bảo: “Này chú em, tao nói cho mà biết... Nghê viết, chớ có kén cả chọn canh. Mình chỉ viết thể loại nào.... bất kể, truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết. thơ ca, kịch phim, hay gì gì đi chăng nữa... cứ thấy mình viết được, và có thể viết hay... là viết...:. Ông đã làm thế, và đáng mừng là ở thế loại nào Vũ Đình Minh cũng có những thanh công nhất định.

Vậy là, đã hơn mười năm ông rời cõi tạm. Ông mất vào mùa thu năm 2010, sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư vòm họng. Hôm tiễn biệt ông ở nhà tang lễ bệnh viện, tôi đi cùng nhà thơ Trần Nguyên Vấn và vài ba nhà văn khác, hòa trong đám đông những đồng nghiệp, bạn hữu, người thân của ông, lòng xúc động, nhớ về những ngày tháng đầy gian khó của anh em...

May sao, gần đây, tôi xem một phim tư liệu về nhà thơ Nguyễn Hữu Hà, lại thấy hình ảnh nhà thơ Vũ Đình Minh đi lại, cười nói cũng những bạn văn thơ. Phim này do chính Vũ Đình Minh làm, dựng chân dung nhà thơ Nguyễn Hữu Hà, một trong se-ri phim chân dung do Vũ Đình Minh chủ trương và trực tiếp thực hiện ở Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội. Phim do Vũ Đình Minh đạo diên, đồng thời ông cũng vào một vai, bởi ông là bạn học thời phổ thông xưa với nhà thơ Nguyễn Hữu Hà ở Trường cấp 3 Trần Phú, thị xã Vĩnh Yên.  Ngày ấy, Vũ Đình Minh đang viên mãn nên dáng vẻ nhanh nhẹn, tươi tỉnh và rất chi hóm hỉnh,... Ông đi trên đường đê hay lững thững đường làng, lúc lẫn vào màu xanh vườn chuối nơi quê bạn mà như thả hồn về quê mình. Ai ngờ, chỉ mấy năm sau, bao nhiêu thứ đổ ập xuống thân hình nhỏ thó gày guộc của  ông,... Tôi cũng đã từng đặt câu hỏi, Vũ Đình Minh dày công phác họa nên bao nhiêu chân dung các văn nghệ sĩ đàn anh và bè bạn, liệu ông có làm chân dung về mình? Chẳng rõ nữa... Nhưng thôi, cũng may, bóng hình ông cứ thắp thoáng đâu đó trong chân dung bè bạn,... Có lẽ vậy, cũng là phù hợp với bản chất dung dị vốn có của ông chăng?...

Thơ hay văn, hay nhà làm phim chân dung, cái nào nổi trội của Vũ Đình Minh? Tôi tin là nhiều bạn bè văn chương của ông từng đặt câu hỏi như vậy. Tôi cũng phân vân vậy. Nhưng đến giờ, đã mười mấy năm Vũ Đình Minh đã rời cõi tạm, tôi tự tìm ra câu trả lời. Vũ Đình Minh khởi nguồn văn chương là thi ca từ khi ông còn là sinh viên sư phạm và những năm tháng ông dạy học ở vùng núi xa xôi Cao Bằng, thì đến khi ra đi, dù đã thử sức sáng tạo ở các thể loại văn nghệ khác, ông vẫn là một nhà thơ đích thực. Nhà thơ Nguyễn Hữu Hà, người bạn hoc cùng với ông thời phổ thông ở Trường cấp 3 Trần Phú, thị xã Vĩnh Yên xưa kể một chi tiết thú vị, Vũ Đình Minh yêu thơ và làm thơ từ khi học phổ thông. Ngày ấy (năm 1963), nhà trường tổ chức thi thơ nội bộ do nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi làm giám khảo, thì Vũ Đình Minh đã giành giải nhất với bài thơ ‘Đôi dòng sữa”, ý tứ bài thơ là mỗi người ta lớn khôn trưởng thành được đều nhờ vào đôi nguồn sữa, ấy là sữa mẹ với công sinh thành dưỡng dục và nguồn sữa kia chính là công sức dạy dỗ của thầy cô giáo nhà trường bồi bổ kiến thức và tâm hồn. Cùng thi ngày ấy, còn có hai học sinh khác đoạt giải nhì và ba mà sau này họ đều trở thành nhà thơ tên tuổi của thi đàn Việt Nam hiện đại. Đủ biết tài thơ của Vũ Đình Minh khởi phát sớm thế nào.

Thơ Vũ Đình Minh không giàu ý từ và mạnh ở sức khái quát, nhưng chan chứa cái tình, câu chữ, vần điệu có sức gợi, cái mà thơ cần nhất. Vậy là đủ. Và giờ tôi gọi Vũ Đình Minh với danh xưng NHÀ THƠ, mà không ngại khi so với những sáng tác khác của ông,...Và còn bởi, như tôi biết, hết thảy những ai đã dính dáng đến thơ thì chẳng bao giờ bỏ nó được. Người ta mê thơ, làm thơ như một thứ Giời hành vậy !...

Chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tôi, người đàn em văn chương, người học trò nghề của Vũ Đình Minh, cũng như ông, thử sức mình ở các thể loại, y lời tâm sự chân thành như một lời khuyên bảo của ông ngày nào,  rồi sẽ có ngày mình nhận ra mình mạnh ở thể loại nào nhất?...

Giờ thì tôi hiểu, sau hơn bốn mươi năm cầm bút, tôi mạnh nhất ở thể loại nào? Phải chăng, đó là tản văn, là chân dung-tiểu luận và phê bình văn học? Như nhà văn Nhật Tuấn, nhà thơ-nhà nghiên cứu và phê bình văn học Trần Nhuận Minh, và cả nhà thơ Trần Đăng Khoa, những người đã đưa ra nhận định và lưu ý với tôi?...

 

 

 

 

TỦM TỈM LÊ ĐÌNH CÁNH

 

                     

          1. Một chỗ trong chiếu thơ Lục bát

Ấy là cái chiếu thơ lục bát Việt Nam thời nay, mà tôi xin được trải ra, để mời mấy nhà thơ vào ngồi, mỗi người một góc, mà ở đó có nhà thơ Lê Đình Cánh.

          Trong bài viết Chính danh gọi Tễu, hay chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ, tôi đã mạo muội, từ nhận định cá nhân, xin trải ra cái chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta và mời bốn nhà thơ vào ngồi, ấy là: Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn.

          Nếu định danh vậy, có nghĩa là, với Lê Đình Cánh, chí ít, phải thành danh với Thơ, mà cụ thể lại là Thơ lục bát

          Nói như vậy, cũng đồng nghĩa với việc, trong giới văn chương Việt Nam hiện đại, người ta biết đến tư cách nhà thơ của Lê Đình Cánh, mặc dù, theo liệt kê, đến nay, trong tổng số 11 tác phẩm in riêng, thì có 4 tập thơ, mà có tới 7 tập bút ký văn học; và tập thơ đầu tay Đất lành do NXB Thanh Niên ấn hành năm 1986, lại ra sau tập bút ký văn học Vùng đất sẽ có tên ( NXB Thanh Hóa, năm 1985 ).

          Với riêng tôi, biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh, ấy là khi ông được giải thưởng cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ ( năm 1976 ) với 2 bài thơ “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”. Câu thơ “Lên thang chẳng dám bước dài/ Vào khu tập thể gặp ai cũng chào“ (bài Mẹ ra Hà Nội) và câu “Nắng lành như mắt cừu non/ Long lanh sương sớm như còn ngậm trăng“ (bài Trên cao nguyên Tả Phình), ấy là những câu thơ hay, mà sau này, mỗi khi nói đến Lê Đình Cánh và thơ của ông, người ta đều nhớ... Thậm chí, trong vài cuộc trà dư tửu hậu, cao hứng văn thơ, có ai đó đã đưa ra nhận định, rằng đấy là những bài thơ, câu thơ đã đóng đinh nhà thơ Lê Đình Cánh vào nền thi ca Việt Nam hiện đại...

          Theo tôi, một khi xếp nhà thơ Lê Đình Cánh ngồi vào một góc chiếu thơ lục bát hiện tại xứ ta, thì có nghĩa, thơ thể lục bát của ông phải nhiều, phải nhuần nhuyễn, tài tình, chứ đâu riêng chỉ vài ba bài thơ, câu thơ ấy. Để đóng đinh được Lê Đình Cánh gắn chặt vào nền thi ca Việt Nam hiện đại, phải cần nhiều “đinh” hơn thế. Chẳng qua, mấy bài thơ,  câu thơ nọ, là dấu ấn đầu tiên khiến người ta bắt đầu nhận diện ra riêng một Lê Đình Cánh, trong số rất nhiều nhà thơ và người làm thơ ở xứ ta mà thôi.

          Vậy, cùng với “Mẹ ra Hà Nội“ và “Trên cao nguyên Tà Phình”, Lê Đình Cánh còn có những gì? Chắc chắn, ông còn có nhiều bài thơ khác, đặc biệt là thơ lục bát hay. Thực ra, nói rằng ông có một chỗ trong cái chiếu thơ lục bát thời nay, chỉ là một cách nói vui hình tượng, chứ từ lâu nay, Lê Đình Cánh đã thành danh với thơ lục bát. Người ta viết về ông với thể thơ này rất nhiều, những đánh giá, nhận định thế nọ, rồi trích dẫn thế kia, tất cả đều nhằm minh chứng một điều, ông đã thành công, đắc địa với thơ lục bát...

          Mặc dù không muốn nhắc lại bài này bài nọ, trích dẫn những câu thơ lục bát hay của ông mà nhiều người khác đã nhắc, song cũng không thể không làm cái việc ấy. Thôi thì, tôi xin nhặt nhạnh theo cái nhìn của mình vậy. Ngay như, trong bài thơ “Mẹ ra Hà Nội’, cùng với câu thơ mọi người đã nói, còn có các câu thơ khác hay không kém, như : “Khoác vai mẹ chiếc đãy nghèo/ Năm xưa thắt lại bao điều dắng cay” và “Sào tre đêm gõ nhịp gày/ Ba khoang đò dọc chở đầy ước mong”.

Tựu chung, có thể thấy, thơ ông luôn cấu tứ chặt chẽ, lập ý rõ ràng

Về tính chất, đầy sự hóm hỉnh, dí dỏm, cái tưng tửng, têu tếu, ít nhiều lạc quan, ở đây là sự lạc quan có trách nhiệm, kể cả những bài thơ gam buồn; không có cái buồn da diết, bi lụy.

Về hình thái, lục bát nhuyễn, cả ngôn từ và nhịp điệu, câu chữ chắt lọc, tinh tế, linh hoạt, hoán đổi ...

          Vậy là, khi mang những nhận định trên mà áp vào thơ ca nói chung, nhất là thơ lục bát của Lê Đình Cánh, sẽ thấy ông có khá nhiều bài thơ, câu thơ hay. Theo tôi, cùng với những bài thơ hay, từng được giải, làm nên tên tuổi Lê Đình Cánh như: Mẹ ra Hà Nội, Trên cao nguyên Tà Phình, Một mình anh đi, Trăng nở nụ cười,... còn có những bài thơ hay khác như: Quán Sứ bên này, Đền thờ hạt lúa, Em đi, Ai mua chổi rơm, Lời thề cỏ xanh, Chợ Mơ, Gọi đò, Chùa bà Đanh, Ga Vinh, Về hưu, Tiểu sành, Sông Cầu chày, Sương sa trắng đầu, Đêm sông Chùy, Cõi xưa,  Bến quê, Trở lại Ba Lòng, Rượu tăm, Một nửa, Nỗi oan Thị Màu, v.v...

          Cũng theo đó, người ta có thể tìm thấy rất nhiều những khổ thơ, những câu lục bát hay rải rác đâu đó ở các bài thơ, dọc quá trình sáng tạo thi ca của Lê Đình Cánh.

Xin được viện dẫn, như :

          “Mải lo cơm đủ áo lành/ Còn đâu lúc rỗi để thành vọng phu” (Gió đất); “Ở rừng từng hát ru nhau/ Lá trầu chị héo, quả cau em già” (Em đi); “Tình yêu như thể chơi đề/ Đợi con độc đắc lại về trắng tay,... Đố ai hết nợ đàn bà/ Để tôi cắt tóc bỏ nhà đi tu” (Chợ tình); “Chốn quê vẹo cột vênh kèo/ Ốc cam phận ốc lại đèo kiếp rêu”. (Chợ người); “Xế tà tháp lặn vào mây/ Vầng trăng chính sử hao gày hoàng hôn” (Lời xưa); “Sau già là cõi xa xăm/ Nén hương đỏ lửa mỗi năm đôi lần.” (Hỏi đất); “Giếng làng mưa bão vẫn trong/ Chợ quê rớt già vẫn đong đếm đầy” (Thú quê); “Đao đình cong nỗi phế hưng/ Một thời lá rụng dửng dưng sân chùa” (Phận rùa);  “Tuổi già như thể nắng hanh/ Vừa long lanh sớm. Đã mong manh chiều” (Về hưu); “Ơi người áo mũ cân đai/ Nắm xương có xếp vào hai tiểu sành” (Tiểu sành); “Nắm tay củ ấu vẫn tròn/ Người ơi vẫn ngọt bồ hòn trên môi” (Chợ Mơ); “Giả vờ có ngủ được đâu/ Nằm chong chong mắt lâu lâu lại ngồi” (Ngủ nhờ); “Ngày xưa xe lộn về Bần/ Mấy phen tuột xích quãng gần Khoái Châu” (Về Phố Hiến); “Nẻo đường bồ bịch cong congVừa lo thoát khỏi. Vừa mong nhảy vào...” (Nẻo đường cong cong); “Bắt chồng em có chọn anh/ Như kim chọn chỉ vá lành áo nâu/ Như là đồng đất chọn trâu/ Nương cao cũng kéo ruộng sâu cũng cày/ Chọn anh như cối chọn chày/ Canh khuya giã sắn rạng ngày đâm ngô” (Bắt chồng); “Thân cò trở lại nghề nông/ Rời cây súng biết tay không có gì/ Mấy đồng hưu trí thấm chi/ Cảnh nhà vơi bát lắm khi mụ người” (Anh lại đi cày); “Nứa mai thưng hở vách lều/ Rừng khô xao xác nai kêu lẻ bầy/ Mưa bay như thể sương dầy/ Sàn khuya thương ngọn nến gày lắt lay” (Gặp ở Mường Tè)...

Vẫn còn khá nhiều những câu thơ, khổ thơ lục bát hay như thế. Và nếu chỉ nghĩ, nhà thơ Lê Đình Cánh có riêng “chiếc đũa thần“ mặc sức điều khiển thơ lục bát tài tình như vậy, thì không hẳn. Ở những bài thơ không phải lục bát, bắt gặp đó đây những bài thơ, câu thơ hay không kém. Vẫn chất suy tư thế sự, vẻ hóm hỉnh, tinh quái, ý thức trách nhiệm với đời, khiến người ta phải suy nghĩ, day dứt...

Chẳng hạn, như:

“Thế cờ nghiêng về đâu/ Pháo mã thành vô dụng/ Sĩ tượng thành thất sủng/ Tốt đen cười sang sông” (Nắng Hàm Tân); “Ai biết được ma nào ăn cỗ/ Ai dại gì công bố chuyện đi đêm” (Vợ Ba); “Gặp bạn tình lòng đã thấy no/ Rượu chưa nhắp lời đà có lửa/ Trưa đứng nắng bồn chồn vó ngựa/ Chợ lim rim một nửa sang chiều” .(Chợ Bắc Hà); “Đường một chiều cứ thế tôi đi/ Tôi biết dại làm người nhụt chí/ Cái đáng vứt lại cất làm của quý/ Cái phải chôn đi lại để trưng bày” (Đường Bà Triệu); “Đâu đá lát lên đền Tam Tổng/ Lạnh khói hương thông thốc giữa trời/ Hai hộ pháp vẫn muôn đời gác cổng/ Ông Ác cười! Ông Thiện toát mồ hôi... Tôi trở về tuổi trẻ chẳng về theo/ Thời gian như nước ngầm băng hoại/ Trái tim tôi càng sống càng nghèo” (Quê ngoại); “Mùa khô Đồng Văn trơ gió/ Gió khê lời đá thở dài/ Gió như tiền vào nhà khó/ Một đời gió thổi trần ai” (Mùa khô Đồng Văn) v.v..

Khi bắt đầu sang thời đổi mới, nhiều giá trị phong tục, tập quán cũ dần mai một, mất đi, còn những giá trị mới hoặc chưa hình thành, hoặc đã manh nha song còn chưa được khẳng định, xã hội sinh nhiều chuyện nhiễu nhương, Lê Đình Cánh đã không bỏ qua. Vẫn bằng thể thơ lục bát từng khiến ông thành danh ngày nào, giờ ông lại dùng “chiếc đũa thần” của mình, khoắng một hồi, ra nhiều bài thơ hay về chủ đề mới này. Có thể kể tên các bài thơ sau đây: Toa máy lạnh, Hát Karaoke, Hồ Tây, Vàng xám, Qua cầu Long Biên, Phố Làng v.v...:

Ví như: “Đèn mờ nửa đỏ nửa xanh/ Để em đỡ trẻ. Để anh đỡ già” (Hát Karaoke); “Phố làng xóa sổ nông dân/ Quán quê lai ghép công nhân nửa mùa/ Lượn lờ chào bán gọi mua/ Dật dờ chai cốc được thua với đề” (Phố Làng); “Mảnh bằng bán tận châu Phi/ Tiền lương đếm lại nhiều khi mủi lòng/ Ước mơ xé lẻ từng đồng/ Thương con liệt sĩ lấy chồng thương binh,/ Vết thương như kẻ vô tình/ Tấy lên những lúc gia đình ăn vay.” (Vàng xám) v.v...

Dù thời trước hay thời nay, dù mảng đề tài nào, thể thơ nào, thơ Lê Đình Cánh vẫn nguyên giá trị, những gì đã làm nên thơ ông, thành danh cùng với ông, theo cách nghĩ của tôi. Quan trọng là, ông đã có ít nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền thi ca Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ lục bát cổ truyền, riêng có của xứ ta !...

Hơn thế nữa, Lê Đình Cánh đâu chỉ có thơ...

 

         2. Nhà thơ, khỏe viết văn xuôi.

Lê Đình Cánh được bạn đọc cả nước biết đến qua Thơ, đặc biệt Thơ lục bát; bản thân ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với tư cánh nhà thơ; còn công việc cơ quan, ông có nhiều năm là Trưởng phòng, Phòng Văn học Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), song thể loại sung sức nhất của ông lại là bút ký-ký sự-tản văn. Bằng chứng, kể từ tập văn xuôi đầu tiên, Vùng đất sẽ có tên được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 1985, cho đến nay, tập văn xuôi mới nhất, Miền chầu văn do NXB Hội Nhà văn xuất bản cuối năm 2015, con số đã là 7.

Không rõ, Lê Đình Cánh đã từng có ý định viết dài, như tiểu thuyết, hay hồi ký hay chưa, song với văn xuôi ngắn, ông đẻ sòn sòn, cứ vài ba năm một tập? Mặc dù, làm việc ở một đơn vị chuyên về văn học nghệ thuật, nhưng lại thuộc cơ quan báo chí lớn của quốc gia, nên tự thân Lê Đình Cánh, với tư cánh là một người cầm bút, thì dù đi viết bài như một phóng viên, ở nhà làm biên tập viên, và cả khi chịu trách nhiệm xuất bản trong tư cách người quản lý (ở đây là chữ ký phát sóng), thì ông luôn ý thức về tính thời sự vốn có của báo chí. Có lẽ vậy, để đáp ứng các yêu cầu này, ông đã lựa chọn cách viết ngắn? Và như thế, cùng với Thơ, loại hình văn học đã ám vào con người ông để thành nghiệp, ông sáng tác bút ký, ký sự văn học và tản văn. Mà viết khỏe, lại đa dạng...

Mạo muội, tôi lần theo các trang văn xuôi của ông. Dù chỉ có trong tay 3 tập: Đường xuân (NXB Quân đội nhân dân, 2003), Nắng Nghi Sơn (NXB QĐND, 2013) và Miền chầu văn (NXB Hội Nhà văn, 2015), và khi đọc, cái kỹ, cái lướt, song tôi nghĩ, chí ít cũng có thể khái quát để nhận diện một văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thực ra, trong nhiều năm qua, Lê Đình Cánh viết bút ký, ký sự, tản văn rải rác, đều tay, cả khi ông còn làm việc hay khi đã nghỉ hưu. Đa phần, các tác phẩm văn xuôi của ông đều được đọc, phát sóng trên các Chương trình phát thanh Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam, hoặc trước hoặc sau, các tác phẩm này được đăng trên Báo Văn nghệ, các báo và tạp chí văn học khác ở trung ương và địa phương. Vậy nên, cơ bản là tôi đã đọc, nghe các tác phẩm văn xuôi của Lê Đình Cánh. Sở dĩ, hầu hết các tác phẩm văn xuôi của ông được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ báo và tạp chí chuyên ngành, trước hết, là do chất lượng và tính thời sự của chúng; thêm nữa, uy tín của chính tác giả cũng góp phần vào. Mấy chục năm qua, phải chăng, không riêng gì tôi, nhiều bạn yêu văn học nghệ thuật, cũng có thể nhận ra, cùng với lục bát thơ Lê Đình Cánh, còn có bút ký Lê Đình Cánh? Vậy nên, ông đã ít nhiều thành công ở lĩnh vực văn xuôi thể loại này!...

Theo đó, tôi thử định dạng văn xuôi Lê Đình Cánh.

Thứ nhất, chiếm phần lớn trong các tập văn xuôi của ông, ấy là bút ký, ký sự từ những chuyến đi. Lại nói, những chuyến đi của Lê Đình Cánh. Thường là, phóng viên nhà Đài, đi công tác theo sự phân công của cơ quan, hoặc theo lời mời của các cơ quan, ban ngành, tổ chức, đơn vị nào đó, hoặc phối hợp từng nhóm phóng viên từ các cơ quan báo khác nhau, hoặc đi ngẫu hứng theo ý thích, ý đồ riêng. Với Lê Đình Cánh, ông  từng đi theo tất cả cách thức vậy, nhưng phần lớn là theo lời mời trân trọng từ phía các cơ quan, đơn vị bên ngoài, bởi uy tín riêng ông có. Nếu là phóng viên thời sự, hay chuyên đề khác, sau chuyến đi, sản phẩm sẽ là tin, là phóng sự thu thanh, là phỏng vấn, còn ông, là bút ký, ký sự. Và một khi đã vậy, gì thì gì, khó tránh khỏi sự minh họa chiều lòng nhau trong quan hệ chủ-khách. Lê Đình Cánh không phải là ngoại lệ, tuy nhiên, ông luôn biết cách, mà theo lối nói chữ là “phản chủ vi khách“, ấy là biến chủ thành khách, còn mình từ khách thành chủ, ở đây, nên hiểu là sự chủ động trong thông tin, viết bài theo ý mình, tránh sự nể nang, lệ thuộc vào chủ nhà, không mô tả cứng nhắc như báo cáo, không nói một chiều ... Đọc một loạt các bài viết kiểu này, thấy được, Lê Đình Cánh đã khá khôn khéo, biết thoát khỏi tính báo chí thông thường để gia tăng hàm lượng văn chương cho bài biết, hay nói cách khác, là ông biết đã mềm hóa bài viết bằng những thông tin bên lề, từ sự lao động quá khứ, từ kiến thức của mình về thiên nhiên, địa lý và lịch sử phát triển của vùng đất... làm phong phú cho bài viết... Ấy, cũng là sự khác biệt của ông với nhiều cây bút chuyên ký sự khác cùng thời...

Thứ hai, Lê Đình Cánh hay chọn cách thể hiện quan điểm, kiến thức, kiến văn của mình thông qua các tản văn, tạp bút, luận bàn mang tính khảo cứu, nhân một sự kiện hay hiện tượng nào đó, nhân dư luận xã hội này nọ, hoặc nhân câu chuyện đời sống xảy ra thường ngày... Ta có thể kể tên một số bài viết dạng này, khá thành công, như: Hoa sen, Miền chầu văn, Vầng trăng Lũng Nhai, Thị xã núi Thúy sông Vân, Ngàn Nưa, Nắng gió Kênh Than, Vài cách đến, Có một thể thơ , v.v...

Ở dạng này, Lê Đình Cánh cho thấy kiến thức uyên thâm của mình trong nhiều lĩnh vực, bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội; lập luận vấn đề logic và khá linh hoạt. Thật khó khi muốn tranh luận hoặc bắt bẻ ông điều gì đó. Thêm nữa, ngôn từ rất hoạt, cùng sự hóm hỉnh, dí dỏm trong cách chọn chi tiết, trong hội thoại, trong vận dụng vốn dân gian như ca dao, tục ngữ, phương ngữ, thành ngữ... đặng tạo ra diện mạo riêng cho các sáng tác của mình. Theo tôi, chính những bài viết kiểu này, cơ bản làm nên một Lê Đình Cánh văn xuôi !...

Thứ ba, theo cách nói vui cửa miệng của giới trẻ bây giờ, ấy là: Thích thì viết thôi. Lê Đình Cánh có khá nhiều tản văn, tạp bút được viết với ý muốn và tâm thế như vậy. Với ông, quả là, quan tâm thì viết, thích thì viết. Vậy thôi. Có thể, viết ra để cho ai đó, cũng có khi, chỉ để trải lòng mình, để nói ra bằng chữ nghĩa những điều mình nghĩ, mình hiểu. Với sự thôi thúc vậy, nên trong các bài viết ở dạng này, tuy vẫn bời bời thông tin, kiến thức, song giọng văn lại không tung tảy như vốn dĩ, mà cẩn trọng, có gì đó như ngầm phô diễn sự hiểu biết, nửa lặng thầm gửi gắm thông điệp gì đó, chứa đựng ý thức trách nhiệm với đời, cứ như ông tự nhủ lòng mình vậy. Điểm qua, thấy nhiều bài hay, như : Nụ tầm xuân, Cây núc nác, Cò lửa, Rau má ruộng, Chim rẻ quạt, Chuối hột, Bèo ong, Củ mài, v.v...

Và như thế, dù sáng tác văn xuôi ở dạng nào, nhà thơ Lê Đình Cánh đã có những đóng góp đáng kể cho văn xuôi Việt Nam hiện đại ở thể loại bút ký, ký sự văn học !...

 

3.     Tủm tỉm Lê Đình Cánh.    

Dẫu biết đến tên tuổi nhà thơ Lê Đình Cánh đã lâu, nhưng cho đến khi về đầu quân cho nhà Đài (VOV), tôi mới giáp mặt ông. Khi ấy, đơn vị biên tập của tôi ở chung, gần nơi làm việc của Ban Văn học nghệ thuật tại trụ sở 58 Quán Sứ. Tôi về Đài Tiếng nói Việt Nam từ mùa thu năm 1987, song phải hàng năm sau, khi làm thân với nhà thơ Trương Hữu Lợi, tôi mới bén mảng đến Phòng Văn học thiếu nhi, mà lúc ấy, nhà thơ Lê Đình Cánh làm Trưởng phòng (còn Trương Hữu Lợi làm Phó trưởng phòng). Hồi đó, có thể nói, Ban Văn học nghệ thuật Đài TNVN, cùng với Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn VN), Tạp chí Văn nghệ Quân độiTạp chí Văn học (Viện Văn học Việt Nam) tạo thành tứ trụ vững chắc cho cả nền văn học nước nhà. Vì thế, ai đó theo nghiệp văn chương, đều mơ ước được làm việc tại bốn cơ quan này. Với tôi, mới tập tọng văn chương thơ phú, tuy cùng cơ quan, nơi làm việc lại gần nhau là thế, nhưng đến khi theo nhà thơ Trương Hữu Lợi bước chân vào Phòng Văn học thiếu nhi, tôi vẫn khép nép lắm. Song ngay từ lần gặp đầu tiên, thái độ cởi mở và cách nói năng hóm hỉnh của Lê Đình Cánh, nhanh chóng làm tôi cảm thấy thoải mái, tự tin hơn. Tôi nhớ, lúc ấy, biết tên tôi, ông còn phân biệt tôi với Lê Cảnh Nhạc, người trùng tên, một cây bút trẻ về văn học thiếu nhi mới nổi. Ông còn bảo tôi, nếu có sáng tác gì về văn học thiếu nhi thì hãy đưa ông và anh chị em trong Phòng xem, đặng sử dụng phát sóng nếu đạt yêu cầu. Được lời như cởi tấm lòng, nên sau đó, tôi đã có một số tản văn, tạp bút, truyện ngắn cho thiếu nhi được phát sóng, sau này, tôi đủ để tập hợp thành một tập sách có tên “Công cống mùa thu”, được NXB Kim Đồng ấn hành năm 1999.

          Đấy là những gì Lê Đình Cánh dành cho tôi từ buổi ban đầu. Sau này, khi tôi có nhiều truyện ngắn được đăng trên Báo Văn nghệ, Báo Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh và một số báo khác, và cả khi tôi có vài ba tập truyện được xuất bản, thì với Lê Đình Cánh, ông vẫn xem tôi là một cây bút có nhiều sáng tác cho thiếu nhi. Ông khuyên tôi, dù có thế nào đi chăng nữa, cũng đừng quên, đừng bỏ viết cho thiếu nhi, bởi đây là đối tượng đặc biệt đáng và cần văn học dẫn dắt, như cái cách sau này, nhà thơ Phạm Hổ - ông trùm của văn học thiếu nhi nước nhà đã khuyên nhủ tôi. Cũng chính nhà thơ Lê Đình Cánh đã lựa chọn, bảo lãnh giới thiệu và động viên tôi tham dự một Trại sáng tác văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Và nhờ tham gia Trại viết đó, tôi được gặp gỡ, làm quen với một số cây bút trong lĩnh vực này như Thai Sắc, Thái Vĩnh Linh, Hoài Khánh, Lê Minh Hoài và Phong Điệp khi đó còn rất trẻ... Hơn thế, tôi còn được tiếp xúc, được nghe nói chuyện, và trao đổi với các nhà văn mà tôi vốn kính nể là Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Phạm Hổ, v.v... Tôi đã viết về chuyện này trong chân dung văn học “Phạm Hổ, người thắp lửa”, nên không nhắc lại ở đây. Thành thật, tất cả những gì mà nhà thơ Lê Đình Cánh từng ưu ái dành cho tôi, ngày ấy, bây giờ, tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về hết thẩy!...

          Như tôi đã định tính, ấy là cái sự “tủm tỉm” của nhà thơ Lê Đình Cánh. Có thể nói, Lê Đình Cánh là người lạc quan, và biết cách làm lạc quan cho người khác, kể cả trong văn chương lẫn cuộc sống thường ngày. Có cảm giác, với ông, trong công việc và đời sống, chẳng có gì là khó khăn đến mức không thể làm nổi, việc khó đến mấy, rồi ra cũng có cách giải quyết của nó. Thế nên, không việc gì phải khổ sở, bi lụy cả. Tiếp xúc với ông và đọc văn thơ ông, người ta thấy, sự lạc quan thường trực nơi ông, qua cái cười tủm tỉm. Ngay cả trong khung cảnh thật vui, chung và riêng, chẳng mấy khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, thấy ông phá lên, cười ha hả, khoái trá... Lê Đình Cánh tư chất thông minh, bản thân học chuyên Vật lý, rồi tham gia cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, thạo tiếng Anh, thêm tu nghiệp báo chí, nên kiến văn phong phú, đa dạng. Trong công việc và cuộc sống, tự thân, ông là người cẩn trọng, chu đáo, nhưng với người khác lại dễ cảm thông, chia sẻ, nên chẳng bao giờ ông đao to búa lớn, mà giải quyết mọi việc đều nhẹ nhàng, tinh tế, dễ chịu... Người sao, văn vậy, cứ cảm giác như Lê Đình Cánh tủm tỉm cười trong mỗi bài thơ, câu thơ, câu văn, kể cả khi bài thơ, tản văn ấy thuộc gam buồn đi chăng nữa. Vậy thôi, song khó lắm thay. Người hóm hỉnh, hài hước như ông, trước hết là người thông minh, có phông văn hóa cao, và nữa, biết cách không quan trọng hóa vấn đề. Đàm luận hoặc chuyện phiếm với Lê Đình Cánh thật thích. Ông đọc nhiều, cộng thêm trí nhớ tuyệt vời, nên khi đàm thoại, ông có thể viện dẫn “thiên kinh vạn quyển”. Có cảm giác ông như một cái kho chứa đựng bao nhiêu thứ, khi cần thứ gì, cứ rút các ngăn kiến thức, vốn sống mà ra cả ... Lê Đình Cánh biệt tài về thiên văn địa lý, lịch sử và vốn văn hóa dân gian.  Cùng với đó, chịu đi và đi nhiều, chịu khó tìm tòi từ cuộc sống, nên ông rất thực tế, chứ không phải chỉ sách vở lý thuyết suông. Ông có thể kể vanh vách quy trình này, cách thức nọ để tạo nên, làm ra các thứ... Ông có thể khiến người đối thoại với mình từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác về sự am tường của ông. Tôi cứ rẩm riu nghĩ, Lê Đình Cánh vốn cùng quê với Cống Quỳnh (người được đồng hóa, gán với  nhân vật Trạng Quỳnh trong giai thoại dân gian), nên cảm giác, ông phảng chất Trạng Quỳnh trong người. Đặc biệt, Lê Đình Cánh khi đàm thoại, ông hùng biện một cách hóm hỉnh, lập luận một cách minh triết, ứng biến linh hoạt, diễn đạt mạch lạc, đầy sức lôi cuốn và có tính thuyết phục cao. Ấy vậy, một khi đã đàm thoại cùng Lê Đình Cánh, thật khó mà dứt ra được ... Người ta bảo, thường ở đời, được cái này thì hỏng cái kia, và hình như trong văn chương cùng vậy; từng thấy nhiều người nói năng thì ậm ừ song khi viết lại đầy ma lực, lại có người, tài nói năng như khướu nhưng viết ra thì nhạt toẹt,... Riêng với Lê Đình Cánh thì được cả đôi, ông đã mang được cái duyên nói năng ngoài đời vào văn thơ của mình...

          Vào một sáng cuối tuần cuối xuân Đinh Dậu, tôi đến thăm ông, tại nhà riêng ở số 168 Đường Trường Chinh, Hà Nội. Từ nhiều năm nay, gia đình ông sống tại biệt thự kiến trúc Pháp cổ này, ngôi nhà do Nhà nước cấp cho ông nhạc (bố vợ) Lê Đình Cánh, đại tá Đặng Tính, một sĩ quan cao cấp của Quân đội, huyền thoại một thời gắn với Đường Trường Sơn, của cuộc chiến tranh chống Mỹ giải phóng dân tộc thống nhất non sông ngày nào. Vài ba năm nay, gặp lại, thấy ông gày đi và tuổi tác thêm một chút, song vẻ tinh anh trong ánh mắt nhìn, cùng nụ cười nửa miệng thì vẫn đấy....

          Sau những xã giao thông thường, bập vào chuyện văn chương, thời thế, lại thấy ngay một Lê Đình Cánh ngày nào, như khi ông còn làm việc sung sức. Và cũng ngay đó, tôi như lạc vào mê trận mà ông giăng mắc trong những câu chuyện đời sống xã hội và văn chương, giữa hiện thực và hoài niệm, giữa cái chung và cái riêng, giữa tôi và ông, và... Trí nhớ ông vẫn tốt, minh mẫn và khúc chiết, cảm giác như ông chẳng quên một thứ gì. Quan sát cách bài trí, nhìn ngắm những bức thư pháp đẹp do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa, vốn đồng hương, đồng họ, thủ bút tặng ông, rồi đó là chiếc xe đạp hiệu Pha-vô-rít, chiếc xe máy Honda DD đỏ ngày nào ông dùng để đi làm, được xếp gọn gàng phủ bụi thời gian để chung nơi cất giữ các vật lưu niệm khác từ thời là người của nhà Đài (VOV), cho thấy, ông vẫn đang sống với quá khứ. Ở tuổi gần tấm mươi, ông sống chung với các con. Thêm nữa, những phương tiện hiện đại như truyền hình cáp, vi tính nối mạng đã giúp ông cập nhật thế giới hàng ngày.

Chuyện trò, vẫn thấy ở ông vẻ hóm hỉnh xưa. Biết là, mấy năm gần đây, dần tuổi cao, bệnh tật, thêm nỗi ưu tư, cùng những lo lắng về sự biến động ngoài xã hội, có lạc quan đến mấy thì cũng là sự gắng gỏi tinh thần thôi. Phảng phất đâu đó trong cái nhìn xa xôi và nụ cười mỉm, cảm nhận nơi thẳm sâu tâm can ông, nỗi buồn ẩn chứa, ý thức trách nhiệm với văn chương, với gia đình, với cuộc đời này !...

Ra về, tự nhủ lòng, mình sẽ viết về ông sao đây?...

Chân dung tôi viết về ông, Lê Đình Cánh có đọc và tỏ ra hài lòng, thích thú, trước khi ông trở bệnh nặng rồi mất. Song giờ đây,  với ông, tất cả đều là phù du... Có hăng, ít nhiều cho những ai từng biết và yêu  thích thơ ông mà thôi ?!... ./.

 

 

 

 

 

 

 

NGƯỜI CẢ ĐỜI MẢI MÊ ĐUỔI MỘT CON DIỀU ...

 

          Ấy là nhà thơ Đồng Đức Bốn,
          Người yêu thơ xứ mình, hầu như đều thuộc vài ba câu thơ của Đồng Đức Bốn. Đó là may mắn và hạnh phúc của Đồng Đức Bốn trong thời buổi loạn thi ca này,...
         Những câu thơ ấy, như: “Cành hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không”; “Mải mê đuổi một con diều/ Củ khoai nướng đẻ cả chiều thành tro”; “Chiều nay Hồ Tây có giông/ Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm”; “Xong rồi chẳng biết đi đâu/ Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương”; “Đang trưa ăn mày vào chùa/ Sư ra cho một lá bùa rồi đi/ Lá bùa chẳng biết làm gì/ Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày”; “Trở về với mẹ ta thô/ Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ”; ‘Đừng buông giọt mắt xuống sông/ Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm”; “Đợi em ở trước cửa thiền/ Lá cây rụng một chiếc thuyền đang trôi” ... Đại loại vậy. Dẫu chỉ thế thôi những tưởng cũng là đủ với người làm thơ!?... Song không, Đồng Dức Bốn còn có nhiều hơn... Tôi nghĩ thế.
        Trước tập thơ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA (NXB Lao động, 1993), Đồng Đức Bốn xuất bản tập thơ đầu tay, CON NGỰA TRẮNG VÀ RỪNG CÂY CỎ ĐẮNG (NXB Văn học, 1992), và sau đó, từ năm 2000 đến năm 2006, Đồng Đức Bốn còn xuất bản thêm 4 ấn phẩm nữa, nhưng riêng tập CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA, với 112 bài thơ ở vào thời kỳ tác giả vừa độ chín sáng tạo, thiết tưởng cũng đủ để nhận diện một tài năng thơ Đồng Đức Bốn, đặc biệt thể Lục bát.
       Quả thật, tập "Chăn trâu đốt lửa", thơ lục bát chiếm già nửa. mà hầu như bài nào cũng đọc được. Vậy là, lục bát viết được như như thế không phải dễ, không phải ai, nhà thơ nào cũng viết được.
       Thử xem Đồng Đức Bốn làm gì với mớ lục bát của mình?


@ Trước hết, Đồng Đức Bốn sử dụng ngôn ngữ dân gian, câu cửa miệng, thản nhiên nói ra như chẳng có gì, mà lại có gì vậy.
        Ví như, bài CUỐC KÊU, mở đầu: “Cuốc kêu như thể cuốc kêu/ Ngàn năm cái giọng vẫn đều thế thôi”, đúng là chẳng có gì thật, nói ra là để nói, thế thôi. Câu tiếp theo: “Bụi tre bụi dứa tan rồi/ Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu”, thấy như có cái gì đó rồi. Câu tiếp: “Đường đời còn lắm bể dâu/ Trắng đen còn một Mỵ Châu để buồn”, có chuyện lớn rồi đó, mà chuyện quốc gia đại sự, chuyện hưng vong của cả một dân tộc. Lại tiếp: “Thì cho chớp bể mưa nguồn/ Cuốc kếu vẫn giữ cái hồn cuốc kêu”, đã là sự suy ngẫm, triết lý sinh tồn rồi đấy. Câu tiếp nối: “Tôi nghe nẫu cả những chiều/ Câu thơ ngã xuống đổ xiêu quán chùa”, trở về với suy tư cá nhân về lẽ đời. Và bất ngờ: “Thoắt nghe dựng tiếng gươm khua”, kết để mở ra một chương mới,... Tôi thích bài thơ này, bởi tính giản dị như không của nó, mở đầu là nói một việc thường nghe thường thấy, ai cũng biết, song chẳng mấy người lưu tâm, ấy là tiếng cuốc kêu mỗi ngày, chẳng cần đao to búa lớn, rủ rỉ dẫn dắt đến việc đại sự, lẽ sinh tồn và bài học giữ nước cả cả dân tộc.
         Hay như bài ĐỢI CHỜ THÁNG BA, mở đầu cũng bằng một việc hết sức bình thường: “Bây giờ chờ đợi tháng ba/ Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng”. Đúng là chắng có gì, thậm chí là vu vơ vớ vẩn, cũng phải. Song câu tiếp theo: “Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều”, thì quả là bắt đầu có chuyện rồi. Nào xem có chuyện gì: “Lề dường trong những chiếc lếu/ Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày”, thấy chút lộ diện chút về một làng quê nghèo, chẳng mấy ai mua bán gì. Nhưng tiếp đến: “Ngả nghiêng mấy lão thợ cày/ Rượu say vác cả cối chày nện nhau”, thì rõ rồi, nghèo, không có việc làm, sinh “nhàn cư vi bất thiện”. Ai cũng biết, tháng ba là tháng giáp hạt, hay đói kém. Làng xóm giàu có, người dân của ăn của để thì đỡ, chứ vốn thiếu thốn triền miên thôi rồi. Vì nghèo nàn, đến thần phật cũng mất thiêng, bất lực, còn dân chúng lo thân chẳng xong, nghĩ gì đến thần phật, mà lễ bái: “Miếu thờ phật tượng ngồi đau/ Cửa thiền rêu đã lên màu cổ xưa”. Để rồi kết ở câu thơ khiến người ta phải suy nghĩ: “Tháng ba vẳng tiếng chuông chùa/ Bây giờ tôi đợi bóng vua về làng”. Bài thơ với một cái kết như vậy là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động. Vua quan gì đâu, ấy là lời thỉnh cầu khẩn thiết về một sự quan tâm của các nhà quản lý đất nước, cần phải làm gì đó để thay đổi cơ chế, đem lại công ăn việc làm cho người dân, thoát nghèo, làm giàu,...
         Cái lối mở đầu cửa miệng thản nhiên như không ấy, để rồi gây sự, xưng mọc về những chuyện đâu đâu ấy, khá phổ biến trong thơ Đồng Đức Bốn. Có thể thấy như vậy trong các bài Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn, Chợ buồn, Cái đêm em ở với chồng, Hoa dong riềng, Hội Lim, Sông Thương ngày không em, Đàn buồn lại mắc dây oan, Bờ sông, Nhà quê, và nhiều bài thơ khác của ông...


          @ Thơ Đồng Đức Bốn nhìn chung là Gợi.
          Trong lời Tựa thơ Đồng Đức Bốn, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đã phân chia ra mấy loại người làm thơ (loại một là các thiên thần, loại hai là những người khởi nghĩa,...), và ông đưa ra nhận định “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ, một người khởi nghĩa”. Tôi chẳng rõ, nói như vậy, Nguyễn Huy Thiệp định dạng Đồng Đức Bốn thuộc loại nào?
          Tôi thì thấy, thơ Đồng Đức Bốn nhin chung là gợi.
          Nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi tiếng đời Thanh là Viên Mai, trong cuốn sách "Tùy Viên thi thoại" của mình, đã nghiên cứu thơ ca Trung Hoa cổ đại để đưa ra quan điểm, thơ trước tiên ở gợi (sức gợi), và cùng với đó là ý tứ, ngôn từ, nhạc điệu,... Như vậy, thơ hay thì quan trọng ở sức gợi, rồi theo đó là ý, ngôn, nhạc. Tôi đồng tình với quan điểm này. Thế nên, cũng như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định, tôi thấy thơ Đồng Đức Bón hay.
          Lại xem thơ Đồng Đức Bốn gợi thế nào ?
         “Khói nhà ai cứ mọc ngang/ Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều” (Chờ đợi tháng ba), câu thơ thật gợi, khiến người ta cứ phải hình dung xem sao. Hay như, gợi làm sao: “Chăn trâu đốt lửa trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” (Chăn trâu đôt lửa): “Em như chim bay về ngàn/ Để rơi một cánh hoa tan nát chiều” (Sông Thương ngày không em): “Nhà em ở chỗ vòng quanh/ Sao tôi đi mãi không thành đường đi(Về Nhổn tìm em): “Cái đêm em ở với chồng/ Để ai hóa đá bên sông đợi đò/ Cái đêm hôm ấy gió mùa/ Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan(Cái đêm em ở với chồng): “Chuông chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò” (Bờ sông): “Bây giờ tuổi đã hoàng hôn/ Tôi ra đứng gió đợi buồn trên sông” (Đợi buồn)...vv... Thơ Đồng Dức Bốn, rất nhiều nhưng câu thơ giàu sức gợi như thế,... Tôi nghĩ, thơ Đồng Đức Bốn hấp dẫn người đọc trước hết nhờ sức gợi.


          @ Liên kết lỏng làm nên sức bền thơ Đồng Đức Bốn,
         Thơ Đồng Đức Bốn, phần lớn cả bài không rõ ý tứ, liên kết các khổ thơ trong bài cũng lỏng, thậm chí, câu trước, khổ thơ trước như chẳng liên quan gì đến câu sau, khổ thơ sau. Ấy vậy, mỗi câu, mỗi khổ thơ lại có vai trò làm cọc tiêu cho các câu thơ trong bài nương tựa vào nhau mà đứng vững., đến mức, nếu lược bớt đi lại cảm thấy chống chếnh. Các bài thơ Chăn trâu đốt lửa, Cuốc kếu, Chờ dợi tháng ba là những bài thơ có ý tứ rõ ràng, liên kết khá chặt chẽ, chiếm số ít trong thơ Đồng Đức Bốn. Nhìn chung, thơ ông thuộc dang liên kết lỏng, đơn giản, bởi mỗi câu thơ đều mang ý tứ riêng và dường như hoàn thành xứ mệnh của nó rồi.
Này đây, bài Chợ buồn, cả thảy 4 cặp lục bát: “Chợ buồn đem bán những vui/ Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em”, nếu chỉ ngắn gọn thì thế cũng thành bài thơ rồi. Nhưng tác giả vẫn thêm “Chợ buồn bán nhớ cho quên/ Bán mưa cho nắng bán đêm cho ngày”, rồi lại thêm nưa “Chợ buồn bán tỉnh cho say/ Bán thương suốt một kiếp này cho yêu”, cũng không thừa, vẫn  thêm nữa để kết “Tôi giờ xa cách bao nhiêu/ Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư”. Mấy câu sau, tách riêng ra, mỗi cũng thành câu đủ làm nên ý của nó, song tất cả xếp liền với nhau lại làm nên sự dày dặn cho cái kết chung, mà cũng là tâm trạng thực của nhà thơ.
         Bài thơ Sông Thương ngày không em, cũng là một bài thơ như vậy. Câu đầu “Không em ra ngõ kéo diều/ Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay”. Vậy thôi, cũng gợi và mở rồi, để cho người ta mặc sức liên tưởng. Nhưng vì muốn đi đến cái kết chở tâm tư của mình “Không em từ bấy đến giờ/ Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang” thi tác giả phải thêm “Sông Thương như gỗ hóa trầm/ Mùi hương để vết tím bầm trên da”, và “Sông Thương từ buổi em xa/ Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm”. Cảm thấy chưa đủ, tác giả dông dài thêm mấy cặp lục bát nữa, mà câu nào cũng đủ ý của mình “Em đi như chim về ngàn/ Để rơi một cánh hoa tan nát chiều”, “Tôi đi trên dòng sông gai/ Lối chân chim đâu trên vai thành hồ”. Có vẻ như chúng chẳng liên quan gì đến nhau, nhưng mỗi câu đều khá gợi, nên đứng được, riêng mình, hay nương tựa vào nhau thành bài thì vẫn ổn. Nhiều bài thơ Đồng Đức Bốn là vậy, chiếm số đông, nhất là thơ lục bát. Có cảm giác, khi sáng tác, tác giả chắp nối các câu thơ riêng vào với nhau, hoặc tác giả không làm chủ được mình, mặc cho câu thơ dẫn dắt mình đi, lạc bước, để rồi khi giật mình tỉnh giác, ngơ ngác tìm đường trở về. Các bài Đàn buồn lại mắc dây oan, Thôi đừng hát nữa người ơi, Chiều mưa trên phố Huế, Em bỏ chồng về ở với anh không,... đều thuộcvdạng này.
         Lối kết cấu lỏng, dựa vào các câu thơ cọc tiêu ấy làm nên sức bền cho thơ Đồng Đức Bốn. Tựu chung, bài có thể dông dài, hay lan man, khong rõ ý, thậm ý tứ tản mát đi chăng nữa, thì nhờ có một, đôi câu thơ hay, khiến bạn đọc thích thú mà thể tất, mà bỏ qua cho cái tội dông dài của tác giả. Bởi người ta, chỉ cần nắm bắt một câu thơ giàu sức gợi, ấn tượng, hay là thấy đủ, thuộc nagy được, đặng ngâm ngợi hay mang ra bình luận, tán thưởng vui bạn vui bầu lúc trà dư tửu hậu. Vậy là Đồng Đức Bốn làm được điều này, bởi thơ ông có nhiều câu như thế !...


        @ Với lại, Đồng Đức Bốn có cái lối, cứ “xưng xưng mọc mọc”, cũng có thể cho là dùng phép “thậm xưng” nói ra cái ý của mình, đặt điều, nói quá lên, đem gán ghép cho người ta những thứ ấy, rồi lấy đó làm cái cớ, chỗ nương tựa, để mà buồn rầu, khổ ải, than vãn này nọ, kiểu bắt đền, ăn vạ,... Ở ngoài đời, nếu ai mà sống và ứng xử thế, cứ cường điệu, làm quá lên mọi chuyện thì thật không ổn chút nào, song trong thơ thì lại ổn, thậm chí là đắc địa, nếu biết tiết chế. Tôi nghĩ, Đồng Đức Bốn rất chi đắc địa và thật lợi hại với thủ pháp này.
Thì những đây: “Em đi từ hạ vào thu/ Gặp tôi ở chốn sương mùa chưa tan/ Em đi từ phái gian nan/ Gặp tôi ở chỗ cung dàn dứa dây” (Về phố Hàng Tre); “Một chiều về phố hàn Thuyên/ Sao em lại nỡ bỏ quên tôi rồi” (Về phố Hàn Thuyên); “Anh từ trong em bước ra/ Tiếng thương tiêng nhớ gấp ba chuông chùa/ Em từ anh ra lạ chưa/ Một ngày những có bốn mùa đổi thay” (Chuông chùa Quán Sứ); “Tôi ngồi làm thơ cho ma/ Và coi quỷ dữ như là tình nhân/ Chán chơi với các vị thần/ Tôi đi tìm cỏ mùa xuân đắp mổ” (Viết bên hồ Hai Bà); “Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe” (Ở phố Bà Quẹo); “Có ai yêu giả bao giờ/ Để tội cái ngõ gọi ngờ Tạm Thương/ Tôi về ngày ấy nhiều sương/ Mà sao chỉ một giọt vương trong lòng” (Ngõ Tạm Thương); “Phố tình bạc bẽo bao nhiêu/ Mà sao tôi vẫn cứ yêu như thường(Nhà em ở sát chợ Mơ); “Ước gì mưa mãi chẳng tan/ Để cho sấm cứ râm ran khắp trời/ Để cho em nép vào tôi/ Ôm chung một giọt mưa rơi xuống lòng(Phố Nối mưa rào);  “Màu hoa đỏ một nụ cười/ Lặng im mà sóng luân hồi dâng cao(Hoa dong diềng); “Một mình đi với một đêm/ Một đêm đi với sấm rền trong mưa” (Ở phố Bà Quẹo); “Chiều nay Hồ Tây có dông/ Tôi ngồi trên sóng mà khong thấy chìm(Chiều nay Hồ Tây có dông)...vv... Nhiều làm những câu thơ như thế, nên có thể xem, “thậm xưng” là thủ pháp phổ biến được Đồng Đức Bốn dùng đạt hiệu quả cao.


         @ Nếu như trong thơ, Trần Đăng Khoa và trong văn, Nguyễn Huy Thiệp đều chú trọng và rất tài tình trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện, thì trong thơ Đồng Đức Bốn, cái không gian nghệ thuật ấy lại lễnh loãng, thậm chí chẳng có không gian nào. Thế nhưng, gần như bài thơ nào, cũng có câu thơ hay và may sao, tự thân câu thơ ấy làm nên không gian riêng cho mình, hư ảo, ấn tượng, ám ảnh, để người đọc phải nhớ và vì thế cứu vớt cả bài thơ.
       Ví như: Bài thơ Bờ sông, câu kết “Bờ sông có một con đò/ Gác chèo ông lão nằm lo trăng buồn”. Tự thân, tạo được không gian riêng có, chẳng cần đến mấy câu thơ trên “Bờ sông hoa cải hoa cà/ Ước chi áo tím như là ai mong”; “Chuông chùa chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò”. Hay như: “Tôi là một kẻ mồ côi/ Thế gian mất, tôi còn tôi một mình” (Nửa dêm Đà Lạt) ; Hay như bài Thăm mộ Nguyễn Du, tác giả luận đề “Đời Kiều sao lắm tái tê/ Đời tôi sao lắm đam mê chưa thành”, rồi những câu thơ tiếp nối cứ lan man mỗi câu một ý cho đến khi thấy cần thôi thì tác giả vội kết: “Tôi đi về vẫn dọc ngang/ Câu thơ thập thững nén nhang cho ngươi”, may sao câu này lại khá ấn tượng ... Hay nữa, trong bài thơ Tôi là vua không có ngai, câu mở đầu tuyên bố thản nhiên như thế, tác giả triết luận bâng quơ theo cái kiểu “nói đại không chịu trách nhiệm”, là để đi đến cái kết bất ngờ, ngẫm ra mới thấy hay “Chìm trong vương quốc của thơ/ Không cho người được may cờ để treo”,...v.v...


        @ Lại có cảm giác, cứ như tác giả sướng gì viết nấy, rồi đem chúng thả chung vào một cái ao và cố tình khoắng loạn lên cho các câu thơ riêng lẻ chao động, trô dạt, va quệt dan díu vào nhau mà thành. Là tôi cứ hình dung vậy khi đọc thơ Đồng Đức Bốn, chẳng hay ?
        Bài thơ Nhà quê, tác giả chia làm mấy khúc, là cách để đỡ phải mất công nhào luyện vo viên chúng với nhau, bởi nhà quê thì có cả ngàn vạn chuyện, biết nói sao cho hết, mà có nói ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác cũng không hết chuyện. Thế nên, tác giả chỉ buông vài câu “Nhà quê có cái giếng đình,”, rồi “Nhà quê chân lấm tay bùn,” đã thấy chẳng cần phải con cà con kê nữa, dẫu có mang chuyện Thị Màu ra bàn thì mãi cũng nhàm, nên thôi, túm chuyện vào một mớ cho xong “Bao nhiêu là thứ bùa mê/ Cũng không bằng được nhà quê của mình,...”, tự hào kiểu nhà quê, ra điều nhà quê của tớ còn ối chuyện để kể nhưng đây không thèm nhé,... Đây cũng là thói ma lanh, láu cá đầy chất “nhà quê” của Đồng Đức Bốn mà nhà thơ sử dụng trong thơ mình,...
        Hay như, bài  Vu vơ chùa Hương, gồm mấy phần, mỗi phần một ý, ngưòi ta có thể quên, song sẽ khó quên câu thơ trong bài, như "Có gì trong tiếng chuông êm/ Quả mơ vẫn héo cả đêm lẫn ngày/ Chùa Hương nghi ngút hương bay/ Phật ngồi cũng héo cả ngày lẫn đêm,". Rồi như bài Qua nhà người yêu cũ, nhà thơ thấy gì nói đó, vu vơ cho có chuyện, nếu như thiếu đi câu hay “Vẫn còn thấy vướng trên môi/ Tóc em một sợi rong chơi lạc vào” thì bài thơ nhạt hoét. Nữa là bài thơ có cái tít rất kêu Thơ viết gửi người tình khi tôi đã chết, cũng đâu  có gì ghê gớm, to tát, chỉ vu vơ thôi, nếu như không có câu dỗi mình mà giận người “Chết rồi tôi vẫn làm người/ Để nhân những nỗi đau đời cho em”... Chịu khó tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ ông, dạng thức này không hiếm. Tôi cho, đây cũng là một dạng thức hợp làm nên chất Đồng Đức Bốn.


         Bình sinh buổi Đồng Đức Bốn còn chưa là gì cho đến khi trở thành nhà thơ nổi tiếng, được nhiều người biết đến tôi có gặp ông mấy lần. Đôi lần là ở tòa soạn Báo Nông nghiệp (nay là Nông nghiệp Việt Nam) năm trên phố Ngô Quyền, Hà Nội, và một lần đâu đó tại nhà riêng nhà thơ Trương Hữu Lợi. Ngày ấy, một dạo tôi cộng tác thường xuyên cho một chuyên mục của Báo Nông nghiệp, chuyên bình các bài thơ về đề tài nông thôn, nông dân, nông nghiệp ( 3N). Tôi đã chọn bài thơ Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn để bình. Tình cờ chạm mặt nhau ở đấy, Đồng Đức Bốn nói lời cảm ơn vì việc tôi đã làm, sau đó ông rủ tôi xuống quán chè chén lề đường cửa tòa soạn báo cho tiện nói chuyện. Ông lấy trong cặp tập thơ mới xuất bản ký tặng tôi, ấy là tập Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993), mà sau này, đọc lại thật kỹ, tôi cho rằng đây là tập thơ hay, nếu không muốn nói tập thơ ấy dồn tụ tinh túy thơ ca của Đồng Đức Bốn ở độ chín, tập hợp được những bài thơ hay, có nhiều câu thơ hay để bạn đọc, người yêu thơ xứ mình đến giờ vẫn nhớ và mang ra bình luận.
Nói như vậy, là để thấy, trước đó tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng), và sau đó là mấy tập thơ nữa, thì cái người ta nhắc đến (sẽ còn nhắc đến) phần lớn là những bài thơ, câu thơ nằm trong tập Chăn trâu đốt lửa. Ngay khi làm tập, Đồng Đức Bốn đã nhặt nhiều bài thơ trong tập thơ đầu tay (Con ngựa trắng và rừng quả đắng) mang sang tập Chăn trâu đốt lửa. Rồi sau đó, ông vẫn tiếp tục lựa chọn một số bài thơ hay, được người đọc yêu thích sang làm cốt cho tập thơ mới của mình. Đặc biệt tập thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn xuất bản năm 2006 vào năm ông mất, dày hơn nghìn trang, có thể xem là tuyển tập thơ Đồng Đức Bốn (Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, NXB Hội Nhà văn). Lại cũng không có nghĩa, những tập thơ sau không có những bài thơ hay, câu thơ ấn tượng. Bởi dù có hay không những tập thơ khác của ông thì giờ đây trên không gian mạng, người ta có thể tìm đọc hàng trăm bài thơ được nhặt ra từ các tập thơ của ông, mà có thể xem đó là những bài thơ hay, hoặc được người đọc yêu thích trong toàn bộ thi cả của Đồng Đức Bốn.
Có điều, không may cho Đồng Đức Bốn là không mấy thọ, hưởng dương chưa đến tuổi lục tuần bởi căn bệnh hiểm ghèo, tuy  đã thành danh và thơ vừa độ chín. Giả sử, trời cho ông thọ thì nhà thơ vẫn có thể cho ra thi phẩm hay. Đáng tiếc là vậy. Song tôi nghĩ, với chất thơ này, cùng các thủ pháp sáng tác mà tôi đã nêu ở trên, Đồng Đức Bốn khó có thể tiến xa hơn nữa, hoặc giả chỉ để làm mới mình thôi. Còn như, vẫn tiếp tục giọng điệu ấy, chỉ càng thêm cũ, thêm nhàm, thậm chí, không khéo còn làm nhạt nhòa đi cái đặc sắc mình từng có. Bằng chứng, tính từ thời điểm Đồng Đức Bốn bắt dầu tập tọng thơ phú (khoảng năm 1980) cho đến lúc ông qua đời (2006), với mấy trăn bài thơ, thì đến nay, số bài thơ được người yêu thơ đọc nhiều nhất và thích nhất của ông cũng độ chừng đâu đó mươi bài (Trở về với mẹ ta thôi, Vào chùa, Chăn trâu đốt lửa, Em bỏ chống về ở với ta không, Đời tôi, Chợ buồn, Chờ đợi tháng ba, Nhà quê, Cái đêm em ở với chồng, Đêm sông Cầu, Bờ sông,...). Tất nhiên, nếu tính theo đơn vị câu, thơ Đồng Dức Bốn khá có nhiều câu thơ hay, gợi, được ngươi ta nhớ và thích,... Chí ít, ông có sự vinh hạnh vì mình đã gây được ảnh hưởng đến người khác.Và tôi tin thế, bởi đã thấy, những câu thơ gợi và hay của Đồng Đức Bốn thực sự ảnh hưởng đến nhiều cây bút thơ sau ông, cũng như một thời, ối cây bút văn xuôi xứ ta bị ảnh hưởng, chi phối bởi giọng điệu, khí chất Nguyễn Huy Thiệp, trong sáng tác của mình,...
Chuyện cuộc đời ông, tôi không mấy biết về Đồng Đức Bốn. Tuổi Mậu Tý, mệnh "Tích lịch hỏa" cùng với ông (sinh 1948), làng văn chương xứ Việt mình nhiều người có tài (Văn Chinh, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Hiếu,... ). Bản thân Đồng Đức Bốn xuất thân con nhà nông dân nghèo ở An Hải (Hải Phòng), song ông lăn lộn qua nhiều loại nghề (Thanh niên xung phong thời chiến tranh chống Mỹ, rồi thợ cơ khí qua nhiều đơn vị, rồi nữa là thương nhân), nên có thể xem là người từng trải, giàu vốn sống. Đó là lợi thế của ông. Tôi cũng từng nghe người ta nói nhiều về đời thơ, việc xuất bản thơ và chuyện lang bạt đó đây, giao lưu bạn bè, làng văn chương,... hay nhiều mà dở cũng có, thành giai thoại cả, lại thật hư chẳng mấy rõ...!?...Nên không dám bàn.
          Tôi nghĩ là, trong cái rủi lại có cái may, bởi rời bỏ dương thế, ông chẳng còn phải đau đời, vật vã với chuyện chữ nghĩa, thơ phú nữa. Kể từ khi dính cái bẫy thi ca, coi như ông đã vướng nghiệp, đánh cược đời mình, dại dột "mải mê đuổi một con diều" rồi. Song còn may mắn hơn nhiều người, cả  đời thơ phú tay tắng vẫn hoàn tay trắng, còn ông, với ngần ấy thôi, nhất là thơ lục bát, Đồng Đức Bốn đã đủ để ngao du với đời rồi.

         Hơn chục năm trước, trong một vài bài viết, khi bàn về thơ Việt Nam hiện đại, riêng thể lục bát, tôi đã mạo muội khi xếp bốn nhà thơ ngồi bốn góc chiếu Lục bát, ấy là Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ, và Đồng Đức Bốn. Giờ thì trong chiếu thơ Lục bát ấy, tôi nghĩ, vẫn còn cả bốn vị này, nhưng chẳng thể trấn giữ riêng mình mỗi người một góc chiếu, mà xin các ngài phải xê dịch đôi chút để nhường chỗ cho mấy người khác nữa cùng ngồi,...
          Tôi muốn ngưng bài viết này, bằng câu thơ kết trong bài “Đời tôi” của Đồng Đức Bốn sáng tác năm 1986. nghĩa là khi ông mới tập tọng thơ phú, vậy mà đã mang tính tiền định: “Đời tôi giàu ở chiêm bao/ Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng”,... ./.

 

 

 

 

NGUYỄN VĨNH TIẾN

Kiến trúc Chữ, Hội họa Chữ và Âm nhạc Chữ

         

                                     

 

Thực lòng, tôi định viết về Nguyễn Vĩnh Tiến nhưng cứ lần lữa vì chưa biết bắt đầu vẽ chân dung anh như thế nào, bởi con người đa tài này thật khó nắm bắt, cứ như cánh nhạn bay xa mình vậy?...

Nhưng sao không bắt đầu chính bằng cái sự khó nắm bắt này nhỉ? Ấy là phương pháp khoanh một vòng tròn lớn. Rồi sao nữa? Là xem Tiến có cái gì hay thì nhặt bỏ chúng vào cái vòng tròn đó để quan sát và phân tích. Nào, kiến trúc sư, làm thơ, sáng tác nhạc, lại thêm vẽ nữa…

 

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ không phân tích về nghề kiến trúc và cái tài hội họa của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà chủ yếu bàn về nghệ thuật thơ của anh, cùng với đó là âm nhạc, yếu tố quan trọng làm nên tính chất dân gian đương đại trong thơ-nhạc của Nguyễn Vĩnh Tiến.

 

Ông, tờ mờ sáng ông đi về phía núi/ Đồi núi mở ra câu chuyện buồn trung du...” Có lẽ, tôi sẽ bắt dầu câu chuyện về anh chàng “bốn trong một” này bằng câu thơ, cũng là lời mở ca khúc “Ông tôi”, xuất phát từ một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, cha anh, bởi nó đúng với Nguyễn Vĩnh Tiến, chí ít từ buổi đầu tiên kế thừa, dấn thân vào kiếp thơ nhạc, cho đến lúc này.

 

Thi nhân sầu/ vì vạn sự đổi thay/ con người chẳng bao giờ đạt Đạo...”, một bài thơ đầy tính triết học, Nguyễn Vĩnh Tiến khai mở dòng triết luận man mát pha trộn giữa Phật giáo và Đạo giáo như thế, bởi anh ý thức được sự gian khó, cực nhọc song cũng đầy niềm vui và nỗi buồn trong hành trình Thi-Nhạc-Họa của mình, khi mà đã ở vào cái thế “cháu giờ tuổi giống triền đê/ chỉ thoải thoải dốc đổ về bến sông ”... Nhưng hãy khoan nói về chất triết lý trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến để trở về với thời tuổi thơ trong trẻo…

 

I. Chất đồng dao trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến.

 

Trước khi bàn riêng về chất đồng dao trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, tôi khẳng định, chính chất đồng dao trong thơ anh là nền tảng, hồn cốt làm nên chất dân gian đương đại trong âm nhạc của anh. Chất đồng dao từ vùng đất trung du Phú Thọ hay nói rộng lớn hơn từ cả vùng châu thổ Sông Hồng trong hệ ngôn ngữ của anh vấn vít, xoắn xít vào nhau, quyện thành một khối, khó tách bạch ra được. Với Nguyễn Vĩnh Tiến, điều bất ngờ là khi một ca khúc ra đời, chẳng rõ lời thơ hay giai điệu, cái nào hình thành trước? Kể cả những bài thơ tồn tại dưới dạng một thi phẩm, thì có thể, một ngày đẹp trời nào đấy, nó được cất lời thành ca khúc, chỉ là sớm hay muộn, bởi thanh âm giai diệu đã có sẵn trong từng câu thơ rồi ... Thơ trong nhạc, nhạc trong thơ. Dòng chảy ấy trở nên cồn cào và độc đáo.

 

Nguyễn Vĩnh Tiến có cả sê-ri ca khúc về người thân trong gia đình, bà tôi, ông tôi, cha tôi, mẹ tôi.... mà ở đó, phần lời đều là thơ, đều xứng đáng là một thi phẩm độc lập. Này đây:”Nhớ làng tôi, từng dòng mương xanh bay bay bay bay... Nhớ bà tôi, một trăm năm rồi ngọn cỏ hóa mây trời... Cười cười một chuỗi, trời thử bụng ta, có mùa thóc lép lợp trên mái nhà, có mùa hoa cà tự nhiên tím tái, bà ví lông gà, vàng như vườn cải, ông ví mặt trời như lời mối lái, ai ví tình yêu như trò nghịch dại ?... Bà lên Kẻ Chợ có buồn được đâu, ra về lúc lắc, héo mòn một sâu...”. Cứ dắt dây, dung dăng dung dẻ, quanh co, lòng vòng như thế, Nguyễn Vĩnh Tiến đã vẽ lên một làng quê vô cùng ấn tượng ( rộng ra là một nông thôn miền Bắc Việt Nam điển hình) dân dã, dung dị, thân thương, gần gũi và đầy vất vả nghèo khó qua hình tượng người bà. Câu thơ tài tình “Một mình bà đội cả trời nắng to” trong bài thơ Nguyễn Vĩnh Tiến thực ra được viết từ năm 10 tuổi, nhân một lần về thăm bà, hồn nhiên, thật thà ngày ấy lại làm nên ngòi châm kích hoạt và chắp cánh cho ca khúc Bà tôi nổi tiếng sau này, được xem như sự khai mở sự nghiệp ca nhạc của anh, mang tính chất dân gian đương đại riêng biệt.

 

Hay như, những câu thơ đầy chất đồng dao từng làm Du Tử Lê say lòng, lấy làm thích thú, trích dẫn tròng bài viết của ông  “Nguyễn Vĩnh Tiến, tài hoa và lục bát”: “Quê tôi cả thẹn hay lo/ Dòng sông vắng khách con đò trầm ngâm/ Bụi tre thích đứng cười thầm/ Giàn bầu giàn bí thích cầm tay nhau/ Con chim sẻ nhớ bẹ cau/ Con chào mào lại nhớ màu ổi ương”(Tuổi tôi); 

Tháng tám đã sắp cạn rồi/ Ngoài song tháng chín đã ngồi trong sương/ Anh mơ hẻo lánh con đường/ Cánh đồng hoa dại nằm vương đôi mình”...

Có thể thấy, rất nhiều những câu thơ mang chất đồng dao và chất ca dao mới trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thơ đến tự nhiên như hơi thở:

“Bỗng dưng một cánh chuồn chuồn/ Lấy của tôi một nỗi buồn bay đi/ Để cho hoa lá ùa về/ Để tôi lạc giữa bốn bề là tôi ” (Một cánh chuồn chuồn); 

Có gì nặng trĩu đường trôi/ Một mùa xuân rót một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn kêu kẽo kẹt trên thân thể buồn” (Đáy xuân);

 “Ai trách con vịt trắng/ Ngủ lại đứng một chân/ Ai yêu con chuồn ớt/ Bay quanh ruộng rau cần‟ (Vỗ trống); 

Những đôi cánh chim se sẻ/ Vội vàng đôi bàn tay xinh/ Em mua bao nhiêu mới đủ/ Xổ tung cái chuyện chúng mình” (Se sẻ); 

          “Nâng lên những búp tay/ Mặt trời và nõn chuối/ Nắng vàng và lá bưởi/ Cánh cò và gai tre” (Thấy một mùa quen quen);

Đưa em đưa em qua cầu/ Anh mang con sông về làm dâu/ Xa nhau xa nhau bao năm rồi/ Hoa bèo xác phác dạt bờ nao/ Bóng tre đã mục, bóng cầu đã mục/ Rêu xanh lên mắt ngóng tin nhau” (Giữa con sông làng);

          “Những con chồn hoang/ Đêm mò về làng/ Mắt như sao rơi xuống đất/ Mỗi chiếc lông rụng mang theo một hạt bụi của núi đồi... Chồn ơi chồn đứng ở đâu/ Ban ngày đang ngủ trên đầu ban đêm/ Chồn đi đá cứng chân mềm/ Về làng mà hát mà xuyên qua làng” (Chồn hoang);

          “Chòng chành đã đến canh tư/ Tay khô cánh cúc vàng dư gió lùa/ Tháng tám đã khép cổng chùa/ Tiếng chuông có vọng đến mùa thu sau/ Sen tàn những lúc xa nhau/ Anh như hạt cốm gói nhàu lá sen” (Canh tư);

          “Đêm qua núi lại kiễng chân/ Lại tô thẫm ngực những tuần cỏ xanh/ Lại bóng đè những mộng lành/ Lại mạch ngầm những suối quanh thuở nào(Đêm qua núi lại kiễng chân) ;

Mưa mùa thu, giọt mùa đông/ Như cầu không nhịp, như sông không phà/ Đong mưa bằng vạt cà sa/ Nhớ nhau mình lại thẩn tha cổng chùa/ Tháng chín hạc trắng nhớ vua/ Sông Hồng gió hát lạc mùa ngã ba/ Tháng mười, vườn đỗ ra hoa/ Một con sẻ nhỏ xa nhà, sang sông” (Mưa mùa thu); v.v...

 

          Với thủ pháp cơn mưa đồng dao và ca dao mới này, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến cứ trườn đi một cách uyển chuyển, khó nắm bắt, mà hay gây bất ngờ bởi những câu thơ xuất thần. Bất ngờ, những điều tưởng như phi lý song lại chấp nhận được vì ở một tổng thể hợp cảnh hợp ý hợp tình. Ấy là cái nét rất riêng và là điểm mạnh của thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Lẽ dĩ nhiên, chất liệu đồng dao vô cùng linh hoạt này được nhào luyện bởi yếu tố kiến tạo hình họa chồng lớp màu sắc, sự nhòe trong câu chữ, độ loang của Màu Nước, mảng miếng của hội họa lập thể và cả sự hư ảo của hội họa trừu tượng. Đó chính là điểm mạnh riêng có trong thơ anh.

 

II. Thơ cấu trúc

 

Thực ra, đây chỉ là cách gọi rút gọn, khi tôi chưa tìm được cách gọi khác chuẩn hơn để diễn đạt yếu tố kiến tạo kiến trúc trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến mà thôi.

Bản thân là một kiến trúc sư, lại rất mạnh về thiết kế quy hoạch, nên có thể xem, Nguyễn Vĩnh Tiến mang chất nghề nghiệp (kiến tạo không gian hình họa) vào thi ca và cả âm nhạc của mình. Sự ảnh hưởng ấy là yếu tố tự thân, lâu thành quen, gần như bản năng, dần dà làm nên phong cách riêng, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, mà qua đó ngươi ta có thể phân biệt thơ anh với thơ người khác.

 

Trong lĩnh vực thiết kế quy hoạch kiến trúc, người ta phải thực hiện việc tổ chức sắp xếp từ tổng thể đến chi tiết, một cách khoa học, chính xác, tỉ mỉ nhưng vẫn vô cùng lãng mạn (lãng mạn trong không gian mở và gợi của những kiến trúc sư có tài) để tận dụng tối ưu không gian, thậm chí chiếm lĩnh không gian có thể phóng chiếu tối đa tâm hồn, tầm nhìn, khi mà con người trong kiến trúc bị hạn chế bởi yếu tố chịu lực của cấu trúc và vật liệu...

Còn ở đây, trong không gian nghệ thuật, người ta có thể làm được hơn thế, vượt qua được giới hạn thông thường. Tôi nghĩ, trong thơ ca và âm nhạc, kiến trúc sư Nguyễn Vĩnh Tiến đã làm được cái việc ‘vượt qua giới hạn thông thường”, làm phong phú thêm cấu trúc thi ca và âm nhạc của mình, với sự hỗ trợ đắc lực của chất liệu đồng dao. Lẽ dĩ nhiên, còn có những yếu tố khác cấu thành, tôi sẽ phân tích rõ hơn ở phần sau....

 

Hãy xem, cái gọi là “thơ cấu trúc” của Nguyễn Vĩnh Tiến ra sao?...

Tìm đọc những bài thơ cũ, cả những bài thơ được anh phổ nhạc thành ca khúc, và nữa, đọc các bài thơ Tiến đăng hàng ngày trên trang Facebook của mình, đều nhận diện phong cách này rất rõ:

Tôi như tảng đá ong nham nhở/ Khắc làm sao tên của tháng ngày em/ Chỉ mong sao nước chảy đá mềm/ Em đừng gọi tôi bằng tên bằng tuổi/ Em đừng ví tôi nỗi suối niềm sông/ Tôi là chòi hoang, chờ em nghỉ giữa đồng” (Lại trôi) ;

Anh đã lúng túng mùa gieo mạ/ Anh đã quá nắng ngày gieo mầm…Anh đã khói úa triền đê vàng/ Anh đã lỡ chuyến đò qua ngày/ Giờ chiều neo u ám .../ Anh vẫn nhớ rõ bàn tay mềm/ Lưng đã thắt đáy mùa Xuân tròn/ Em đã lấp loáng mùa vun trồng/ Tay em đã cấy từng hy vọng/ Mạ non ửng mầm/ Duyên thì tùy/ Thuyền thì sông/ Lòng sao giờ lại cách lòng ?...”  (Mạ non ửng mầm) ;

Rồi có ngày/ Nàng bước ra/ Và ôm chầm lấy chàng thi sỹ/ Chàng ơi/ Có thể Yêu thương đậm sâu nhất là khi chàng yên nghỉ/ ... Em cần đủ chữ, đủ tứ mới lên hình/... Chờ nàng từ lúc bình minh/ Từ khi Tháng Một tưởng mình Tháng Ba/ Ngoài hiên, ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới biết, mình qua đời rồi ... " (Đợi nàng Thơ);

Tôi lặn lội những nàng đêm/ Quấn quýt tay mềm/ Trong mơ và lụa/ Những mùa Xuân sến súa/ Những thập niên đổ vỡ/ Trong đêm nức nở môi nàng/ Tên em là hoa xoan/ Hẹn anh tháng Ba bờ đê xóm cũ/ Tên em là nụ/ Hẹn anh chúm chím bên dốc đá tháng Năm/ Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm);

Chùng chình cũng đến tháng Tư/ Hoa vàng lại thấy đánh đu cành xoài .../ Nàng Bân nước mắt chưa ngoai/ Năm ngón tay dài lạnh mải miết đan/ Xa xa dãy núi xanh tràn/ Nhớ thương lẽo đẽo từng đàn phả sương/ Tháng Tư xuân cạn đầu giường/ Hệt như chai rượu thất thường đêm qua/ Đêm qua tôi gặp Tháng Ba/ Vừa đi vừa thả cánh hoa mịt mùng ...”  (Tháng Tư) ;

Sông Thao réo ùng ục màu hồng xám/ lặn ngụp giữa dòng củi mục xác tuổi thơ trôi / Cây gạo đứng giữa bãi bồi, không lá / Tôi đáng lẽ ngồi chờ chuyến đò định mệnh.../Tôi đi chậm lại bỗng muốn khóc xối xả/ Muốn cõng về cho em một quả núi/ Rồi nằm thật dài như đường ray/ Tôi đáng lẽ đã thấy chuyến đò định mệnh/ Nếu không lạc vào những tiếng chuông trên mặt nước/ Rồi đuổi theo em áo vàng trong cánh đồng ngô...” (Trung du);

“Phú Thọ nằm khép nép / Ngay bên cạnh bờ sông / Chợ Mè tử thuở tôi lông bông / Đến giờ vẫn bán chổi và rế / Ông bà tôi hình như vẫn thế/  Chết lâu rồi vẫn đi dạo đâu đây / Này từng ruộng lạc củ gầy / Này đường dốc của những ngày nốc ao ... / Thị xã của tôi / Thị xã cồn cào... / Với mùi thịt da như triền đồi cháy nắng / Tôi càng trôi, chuyến đò càng nặng, Một phút chiêm bao đã gần hết đời người ...”  (Phú Thọ của tôi); v.v...

          Quả là, tôi không thể cứ sa đà lạc lối trong không gian “kiến trúc chữ” và “hội họa chữ” mà Nguyễn Vĩnh Tiến kiến tạo nên, bởi biết trích dẫn bao nhiêu cho vừa trong vô vàn những khúc thơ cấu trúc tầng tầng lớp lớp như vậy? Người ta có thể thấy, trong không gian hình họa được tác giả kiến tạo, có đủ không gian bốn chiều (rộng hẹp, cao thấp, dọc ngang và thời gian nữa), thấy sắc màu, giai tầng, ẩn hiện, thực ảo, ma mị, phân tâm ...

Có thể nói, Nguyễn Vĩnh Tiến đã chuyển hóa tất thảy những gì mình đang ấp ủ trong nghệ thuật kiến trúc mà ngoài đời còn chưa thực hiện được vào thơ ca và âm nhạc của mình. Trong không gian hình họa ấy, hay đúng hơn là trong thế giới của trí óc tưởng tưởng riêng mình, Nguyễn Vĩnh Tiến mặc sức thoải mái kiến tạo.... Và chính vì thế, nó ảnh hưởng đến hình thức thơ của anh.

 

Để ý, Nguyễn Vĩnh Tiến rất ít sử dụng các thể thơ truyền thống, như ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, trừ lục bát. Dường như, các thể thơ truyền thống khá chật chội, bức bối với ý tưởng khó nắm bắt và ngôn từ tự nhiên của anh. Ngay trong thơ lục bát của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến cũng không chịu bó buộc với luật vần sáu, tám nên hay thay đổi tiết tấu nhịp thơ bằng vần lưng ở câu tám. Và như thế, Nguyễn Vĩnh Tiến tránh được cái nhàm của thể thơ lục bát, lại có thể đột biến cho những câu lục bát xuất thần.

 

Nguyễn Vĩnh Tiến, chủ yếu, là thơ tự do. Thơ tự do theo quan niệm của riêng mình.

Nhân đây, tôi muốn nói thêm quan điểm của Nguyễn Vĩnh Tiến về “thơ tự do”. Xin phép không kiến giải thế nào là thơ tự do, bởi phàm người làm thơ, yêu thơ thì ai cũng biết, cũng hiểu thể thơ tự do. Tuy nhiên, Nguyễn Vĩnh Tiến lại có cái nhìn thể thơ tự do theo cách của mình. Theo anh, “Thơ tự do là muốn kết hợp thể thơ nào cũng được, miễn là mạch thơ, cảm xúc thơ, ý thơ, tứ thơ trở thành một cấu trúc hay, đẹp, và quyến rũ”. Vậy thôi. Quan niệm vậy, nên phần lớn trong hàng nghìn bài thơ của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến lựa chọn thể thơ tự do kết hợp kiểu này để chuyển tải ý tưởng, bởi đây thực sự là chiếc túi càn khôn to nhỏ tùy thích có thể bao vây đặng chứa nổi không gian hình họa mà tác giả kiến tạo nên.

Xin trích một khúc trong bài thơ “Loài thi sĩ” làm ví dụ:

“... Thi sỹ không nên lấy vợ

Nhạc sỹ sống một mình cũng chẳng sao...

Nốt nhạc lúc thấp lúc cao

Thất thường nhịp phách, mưa rào nội tâm ...

Thi sỹ hồn mưa lâm thâm

Đôi khi thích bay lên bằng đôi cánh ướt

Rừng ý nghĩ thỉnh thoảng sầu thảm tê buốt

Mà chẳng hiểu nổi tại sao ...

Sống gì phần nửa chiêm bao

Lúc tỉnh thức, cũng lạc vào mộng mơ

Ai mà đợi, ai thèm chờ

Người tỉnh thì ghét người thơ, đúng rồi ...”

 

III. Thuyết về cái kết nốc –ao.

Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thích cả bài có, nhưng cũng có nhiều bài thích câu kết, đơn giản bởi câu kết thường hay và rất ấn tượng. Những tưởng, là ngẫu nhiên thôi, hoặc giả, thì cũng là người ưa cách dụng công vào câu kết. Song không hẳn thế, ấy còn là chủ trương của Nguyễn Vĩnh Tiến.

 

Có lần, Nguyễn Vĩnh Tiến mời tôi và nhà thơ Nguyễn Đình Hiển, cùng cha mình, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, du xuân miền trung du, lên chơi trang trại của gia đình anh ở Thôn Liêm, thị xã Phú Thọ. Lúc trà dư tửu hậu, nhà thơ Nguyễn Đình Hiển cao hứng đọc thơ, một bài thơ về mẹ. Bài thơ này cả thảy có 5 cặp lục bát, cặp lục bát thứ 3 khá hay “Mẹ giờ đã hóa thành chùa/ Ta như chú tiểu bốn mùa chạy quanh”. Nghe rồi, trong khi mọi người tấm tắc khen bài thơ hay, thì Nguyễn Vĩnh Tiến bảo: “Sao bài thơ không kết ở cặp thứ 3 này?  Kết ở đấy, bài thơ ngắn gọn, hàm súc, mà là cái kết mở, có dư ba...”. Ngẫm nghĩ, ai cũng thấy đúng vậy, thêm vài cặp lục bát nữa, bài thơ chẳng thêm được ý gì mấy, mà cái kết là kết đóng, rất chi bình thường. Nhà thơ Nguyễn Đình Hiển mặt ngẩn ngơ, chẳng biết nói sao, nửa muốn nửa tiếc.

Thế rồi, Nguyễn Vĩnh Tiến cao hứng bảy tỏ quan điểm của mình, về cái kết nốc-ao (knock-out). Theo Tiến, khi làm một bài thơ, tác giả chẳng mấy khác võ sĩ lên sàn đấu. Khi hạ được đối thủ, không phải bằng cách tính điểm làng nhàng, mà hạ bằng knock-out thì trận đấu hay nhất và đúng luật là nên kết thúc thắng lợi ở đấy, chứ chẳng ai dại dột lại đi hà hơi tiếp sức rồi dựng đối thủ dậy, để đấu tiếp, mà rất có thể mình lại thua. Với hình dung như vậy, phàm người làm thơ được trời cho câu thơ hay, nếu thấy đủ, thì nên biết dừng bài thơ ở đấy. Chẳng nên ham và tham, kẻo mà?...(Nhân đây, tôi lạm bàn chút. Những năm gần đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã làm cái việc “dọn vườn” thơ mình rất hệu quả. Ấy là, ông rà soát lại thơ mình, cả những bài thơ làm từ thuở thiếu thời, cắt bỏ câu thừa, câu đệm, bỏ những gì ông cho là rườm rà, chỉ giữ lại hồn cốt và tinh chất của bài thơ. Thế nên, nhiều bài thơ ông, có cái kết hay bất ngờ. Nó chẳng mấy khác cái kết nock out kiểu Nguyễn Vĩnh Tiến đang làm. Tôi cho rằng, biên tập lại thơ mình thì không bao giờ là nuộn cả).

Thiết nghĩ, quan niệm vậy, cũng lạ và lý thú!...

May mắn thay, trong thực tiễn, thơ Nguyễn Vĩnh Tiến có rất nhiều cái kết nốc-ao:

Ngạo nghễ cái gì hả bướm/ Chỉ nên chập chờn thôi .../ Nơi xa vốn dĩ không lời/ Đạo là vô đạo, chôn nơi im lìm .... “(Thi nhân sầu);

Ngoài hiên, ngõ nắng lân la/ Hỏi thăm mới biết, mình qua đời rồi ...” (Đợi nàng Thơ) ;

Tự do lượn bốn phương trời/ Đến khi mỏi cánh thì rơi xuống hồ...” (Loài Thi sỹ);

”...Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những thứ, mới vừa trôi qua ...” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ) ;

“...Sông Hồng khi tỉnh khi say/ Uống trăm năm nữa, cạn ngày nay không ...?” (Bố tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);

“... Tên em là rằm/ Hẹn anh ngày trăng non e ấp/ Các nàng xâm xấp/ Ấm ngực mùa đông/ Thì ra cây cải vừa ngồng/ Then cài sao để cõi lòng mở toang ... ?” (Những nàng đêm) ;

“...Bụi còn phủ cả lên lời/ Nghĩa trang chữ nghĩa nằm phơi bóng vàng .../ Trăm năm, mơ chửa sang trang/ Nội tâm cũng nát như hoàng thành xưa(Đêm nay ngủ ở Hà Nội) ;

“... Sống sao cho chạm mưa nguồn/ Sợi mưa rơi xuống, thích luồn lỗ kim .../ Chỉ còn lịch sử lim dim/ Xem lũ bọ gậy chết chìm đáy chum ...” (Lấp Lỗ Thủng) ;

“... À ơi, yêu đương trong lòng/ Ngủ đi với  nhớ và mong mệt nhoài/ À ơi, tới bến như lai/ Chữ như cò trắng bay đầy bến sông ..” (Thiền Thở Thiền Thơ) ;

“Chèo ơi chống mãi không xong/ Diễn viên luống cuống, rèm buông nhạc tràn/ Tô tô, vẽ vẽ, hỏi han/ Chỉ thấy nhân vật, đã toan bỏ bài.../ Anh ngồi uống sợi thở dài/ Uống luôn gió của những ngày tối tăm... “(Xem Chèo) ; v.v...

 

Rất nhiều những cái kết bài thơ như thế. Không hẳn đều hay, nhưng ấn tượng, khiến người đọc phải nghĩ ngợi. Ấy là kết mở, để lại dư ba. Một không gian mới lại mênh mang mở ra sau cái kết.

Thì cứ cho đây là một thử nghiệm của Nguyễn Vình Tiến, thì với anh, đến giờ, tôi nghĩ đó là một thành công.

 

IV. Dự cảm về một dương gian nhập nhoạng

 

Đọc thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, không nhiều và cũng chưa rõ nét, nhưng người ta có thể nhận biết về một dương gian mà ở đó chập chờn âm dương, bóng hình chạng vạng. Trước khi bàn, thiết tưởng hãy xem một số bài thơ, câu thơ khơi gợi về dự cảm này:

Ngồi xem cửa sổ chia ô/ Mưa hôm nay lụt nước cờ hôm qua/ Tô viền cho những bóng ma/ Bằng ánh mắt sẫm như là chì than/ Tô xong, sót lại trên bàn/ Một con tốt nhỏ đang giàn giụa bơi... “(Bàn cờ);

Có gì nặng trĩu đường trôi/ Một mùa xuân rót một lời đáy xuân/ Có quang gánh nỗi đồng lần/ Hồn kêu kẽo kẹt trên thân thể buồn” (Đáy xuân)

“.... Sao lại cố bê tông nốt đồng cỏ?/ Sao lại muốn thiên nhiên thành những thành phố điên?/ Sao sân si tiếp tục sinh muộn phiền/ Và cổ suý cho những giá trị ảo?/ Đã bao thập niên ăn tạp và nói láo/ Sao không ngồi đốt lửa bập bùng ở quê/ Rồi tĩnh tâm tìm một lối về/ Với nông thôn đang xác xơ lạnh lẽo ...?/ Càng chạy sẽ càng đuối sức/ Càng bơi sẽ càng hụt hơi/ Bao nhiêu sâu lắng trên đời/ Có bao giờ đọng ở nơi ồn ào?/ Chuồn chuồn chết rụng giữa ao/ Gió đưa cái xác dạt vào bụi khoai ...” (Sao chúng ta không về nông thôn) ;

Trong một bữa tiệc/ Say rũ rồi óc tưởng tượng thôi.../ Mà sao lòng dạ tơi bời/ Lấy tiên không lấy, lấy người làm chi? / Trong một bữa tiệc/ Ma men len lỏi dẫn lối thôi.../ Mà sao lòng dạ tơi bời/ Lấy ma không lấy, lấy người làm chi ...?” (Tưởng tượng trong một bữa tiệc);

Nhưng tôi một giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn chôn xương chân giường/ Còn tin cá chết để xương/ Thì còn châu báu trong rương cho nàng...” (Đêm nay ngủ ở Việt Trì);

Nàng bay về phía tự do/ Và nàng thích lấp lánh/ Của cải và kinh nghiệm của tôi/ Đều lần lượt trôi vào cống rãnh .../ Nhưng nàng không đỏng đảnh/ Lúc nào cũng ẩm ướt thiết tha/ Nàng hoá ra chỉ là ảo ảnh/ Của hồn tôi phản chiếu hồn hoa...” (Nàng Thơ-02);

 “Anh vẫn thế.../ Chạy từ bờ đê chạy về dốc Tỉnh/ Chẳng có ngọn đồi nào bình tĩnh/ Nếu tính từ nội tâm tính ra/ Nhưng vẻ ngoài thì nghìn năm hiền hoà/ Chỉ cọ cháy những bàn tay vụng dại ../ Chả lẽ lại về chết ở đây/ Chứ không phải một ngọn núi kiêu bạc/ Một đỉnh cao thế giới? / Cũng để làm gì đâu?/ Chết là hoa cải phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai nhừ/ Chỉ là bếp lửa hình như ... bập bùng ...” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ);

Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao/ Anh về nơi nào, hạc trắng cũng bay/ Xót xa thời những kẽ tay/ Run run mộ biếc cỏ may vướng gì? / Sông Hồng thở khói vô vi/ Hồn hồi hộp nấp bên rìa miếu hoang/  Hỏi han đến cuối đường làng/ Mới hay đò cuối ngày sang sông rồi.../ Việt Trì - Phú Thọ - Lâm Thao

“Ngược xuôi trong cõi hão huyền/ Nhiều khi tỉnh thức là miền vô vi... / Thế rồi giấc mộng tô chì/ Chân dung giấy nháp cũng đi như người ...” (Trầm cảm-01) ;

          Anh trồng cây tỏi/ Nó nở hoa hành .../ Yêu đương một thuở tanh bành/ Học hành lởm khởm không thành núi cao.../ Rồi cuối Xuân có mưa rào/ Có hồn lành lạnh nhập vào hồn anh ...” (Đêm trung du); v.v...

 

Những bóng hình chập chờn âm dương này tuy không nhiều, nhưng dường như thường trực, ám ảnh tâm trí Nguyễn Vĩnh Tiến. Cảm giác như, có sự phân thân hay phân tâm nào đó trong con người tác giả? Không thật rõ, những tôi linh cảm vậy. “Ông bà tôi hình như vẫn thế/ Chết lâu rồi vẫn đi dạo đâu đây” (Phú Thọ của tôi). Nếu theo quan niệm của người xưa, dương sao âm vậy, thì cảm giác như Nguyễn Vĩnh Tiến ở nhiều thời khắc, sống chung với cả hai thế giới, nói chuyện thản nhiên với cả người dương và người âm ...

 

Chúng ta đều biết, “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ và “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh là truyện lạ, truyện ma. Thế nhưng, ở “Truyền kỳ mạn lục” thì ma rõ ma, sợ sợ là, đọc rồi nhát đi đêm, song ở “Liêu trai chí dị” thì ma lẫn với người dương, hành xử như người dương, không mấy sợ. Tôi nghĩ, chất âm dương trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến gần với chất “Liêu trai chí dị” hơn.

 

V. Tính triết luận, mạnh và yếu.

 

Triết học đã là sự đam mê từ thuở tuổi 20 của chàng sinh viên Kiến trúc khi bắt đầu đọc theo hệ thống triết học Hy Lạp, triết học Pháp và Triết học Đức. Về sau, sang tuổi 30, Tiến thổ lộ mới đủ tuổi ngấm dần triết học Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh đó, anh còn say mê các sách Tâm lý học và Lịch sử :

 

“Anh chẳng thích lỗ thủng lịch sử/ Anh thích lỗ thủng của em/ Ẩm ướt, hồi hộp và đầy hải sản.../ Và lịch sử cũng chẳng có lỗ thủng/ Lịch sử được lấp đầy bởi linh hồn và xác chết/ Và sự man rợ tàn sát của tất cả chủng loài.../ Chỉ có lỗ thủng của em là tuyệt vời /Chỉ có lỗ thủng của em là sinh sôi / Sinh ra cả một chân trời / Ngày xưa thi sỹ có người từng bay .../ Cứ loạn xạ lên Triết lý, giãi bày/  Rồi ăn thịt, ăn rau, và nói đạo nghĩa” (Lấp Lỗ thủng);

Chúng ta nên nuôi nấng sự khinh bỉ/ Và để chúng mọc lên như dương sỉ nóc nhà/ Chúng ta nên oà như rêu biếc/ Phủ phù du lên mọi tiếng ngợi ca/ Chúng ta nên nuôi những lời câm nín/  Trong lồng son của máu và hoa/  Rồi chúng ta nên ra bờ sông vắng/  Ngủ chông chênh như một mỏ neo phà .....” (Nên nuôi nấng sự khinh bỉ);

Chúa trởi hỏi viên kim cương : -Mày là gì mà kiêu căng quá vậy?/ Kim cương trả lời : Vì tôi siêu cứng/ - Thế mày không biết sức mạnh của dòng nước mềm mại à?/ Kim cương trả lời : Nhưng tôi lấp lánh/ - Thế mày ko biết sức mạnh của vật chất tối à/ Kim cương trả lời : Tôi còn đắt giá nữa ?/ - Thế mày không biết kinh tế duy tâm và tiền ảo là gì à?/ Kim cương khóc oà : Thế ngài không thương cái đẹp?/ Thượng đế bỏ đi, vì theo lẽ công bằng, con bò và cỏ dại cũng đẹp.”  (Cái đẹp);

“Đừng leo cao/ Lại rơi xuống vực thẳm của sự thờ ơ/ Đừng xuống thấp/ Lại bị âm hồn năm cũ làm chật giấc mơ .../ Dân gian sinh sôi/ Dân gian rượm lời/ Như hoa mỗi loài mỗi vẻ .../ Anh thôi không kẻ vẽ/ Chỉ để thời gian phác thảo hộ tương lai .../ Tương lai, không đúng, không sai/ Nối sợi thở dài đan áo nàng Bân .../ Kìa em, sau Tết, là Xuân/ Tình anh nước lã hoà dân gian rồi ...”  (Xuân dân gian);

“Giật mình lại thấy trống không/ Vừa hình hài thế, đã bong bóng rồi ... / Ven am Ao nhỏ/ Lá tre rụng bời bời/ Hỏi sao có tình huynh đệ ?/ Huynh đệ là khi mọc rễ/ Còn nhường tăm tối cho nhau/ Ngọn cỏ rầu/ Núi thích sâu/ Còn khe ẩm ướt lại ngước bóng núi/ Tháng ngày lúi húi/ Không dám đi vào lối cửa Từ Bi/ Cửa Từ Bi chẳng mạng nhện gì/ Chỉ tò vò khóc than vì thương thôi ... / Thương cho vạn dặm xa xôi / Cứ huênh hoang mãi những thời vô minh”  (Nhìn cánh nhạn);

Tôi chưa kịp lạc trong những khúc rẽ/ Thì mưa vết thương đã phủ những ngày lành .../ Tôi có những ngọn cỏ màu xanh/ He hé nhú bên rìa niềm hy vọng/ Và cũng ở bên rìa những chuyển động/ Một lũ thời gian ngu ngốc ngẩn ngơ trông ...” (Vết thương và lũ thời gian);

“... Bạn thơ chết ở nẻo thơ/ Bạn tình chết ở bơ vơ cuộc tình ../. Sáng ra, đã thấy thương mình/ Thương bong bóng vỡ những hình bóng hoa/ Hoa gì lại nở đường xa/ Nở vô danh cả chuyến phà vô hương .../ Sáng ra, hạnh phúc đứng đường/ Dưới chân, sóng của thất thường, thành sông ...” (Sáng ra hạnh phúc đứng đường);

Bấy lâu chẳng đếm thời gian/ Tháng ba chưa hết mà toàn tháng tư / Đêm năm canh mà lại như/ Trống không bàn tiệc, tàn dư cuộc cờ .../ Bấy lâu cơn lũ ngủ mơ/ Thành mặt nước sấp tràn bờ lan đi.../ Bấy lâu hơi thở đeo chì/ Chỉ hoa gạo đỏ những khi đêm tàn..”. (Hoa gạo đỏ);

“Hết rồi ngày tháng mộng mơ/ Đời còn nhặt rác trên bờ tháng năm/ Cũng chẳng vĩnh cửu ăn nằm/ Sống là hơi thở ghé thăm nhẹ nhàng/ Lá lành hay rách, đều vàng/ Đều rơi rụng ở dưới hàng mi cong/ Ô kìa đêm đã thành dòng/ Sao anh vá cái Trống Không làm gì ?”  (Vá víuv.v...

 

Với hàng ngàn bài thơ, từ những năm Nguyễn Vĩnh Tiến  hồn nhiên, tươi tắn, sau này, hàm lượng triết luận ngày càng tăng, nhất là mươi năm trở lại đây, hầu như bài thơ nào cũng có tính triết học. Nếu như, tính triệt luận là hệ quả tất yếu của ngôn ngữ dân gian đương đạikhông gian kiến trúc trong thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, thì đương nhiên, yếu tố này dần trở thành chủ đạo và nó làm nên sắc thái, diện mạo, định dạng thơ Nguyễn Vĩnh Tiến, làm người ta nhận ra anh giữa những nhà thơ khác.

Quả vậy, chất triết luận là một điểm mạnh tạo nên tính khái quát và sức nặng cho thơ Nguyễn Vĩnh Tiến. Nó làm bài thơ thoát khỏi sự tẻ nhạt, chàng màng, à ơi thường thấy. Mỗi bài, người ta đều cảm nhận được tác giả khái quát một điều gì đấy, hay gửi thông điệp nào đó, mặc dù chưa hẳn đã đúng, đã hay hoặc mang tính phổ quát, song rõ ràng là có ý tưởng.

Tuy vậy, cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Ở một liều lượng đủ và hợp lý sẽ mang đến hiệu quả tích cực, còn như nặng về triết học hay xã hội học quá liều sẽ khiến Thơ trở thành khô cứng, giảm đi sức gợi, phai đi sắc màu và giai điệu. Điểm lại thơ Nguyễn Vĩnh Tiến nói chung, với những đoạn trích trên đây, tuy có nhiều khúc triết luận khá nhuần nhuyễn, uyển chuyển về giai điệu. song không khó để nhận thấy, tính triết luận đồng thời, vừa là điểm mạnh và điểm yếu trong thơ anh.

 

VI. Tâm thế thơ chở  “nỗi buồn trung du

 

Ngay  đầu bài viết này, tôi đã mượn câu thơ trong một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền, thân sinh của Nguyễn Vĩnh Tiến, mà anh mượn để làm lời cho ca khúc” Ông tôi” của mình : “Tờ mờ sáng ông đi về phía núi. Đồi núi mở ra câu chuyện buồn trung du...”. Cho đến giờ, nhận thấy, gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca-âm nhạc của Nguyễn Vĩnh Tiến, nói chung, mang đậm âm hưởng này. Dường như, nó ám ảnh, thường trực trong ý nghĩ của Nguyễn Vĩnh Tiến và dần ngấm vào tâm thế anh, rồi được biểu hiện trong thi ca cùng âm nhạc của anh....

 

 “Tôi lao như mũi tên/ mê theo quả bàng chín ẩn hiện trong lá tim/ Tuổi tôi bao giờ cắn ngập những làn hương?/ Phố xá im lặng chồn chân/ Cánh cửa màu trắng phía ngày xa rộng toác/ Vẫn ít người trở về/ Tôi quen trò trốn tìm sắc ngày nhạt/  Khi chán lại tìm trùng điệp những ngọn đồi chơi trò cánh cung mây/ Tôi chạy xa rồi cái bến đợi chuyến đò định mệnh/ Nhưng Sông Thao lẽo đẽo chảy trong người”.  (Trung du ) ;

Tôi là một con chim, bay qua dòng sông/ Tôi nghiêng đôi cánh,... Mặt sóng soi tôi thành một con sóng/ Dòng nước soi tôi thành một chiếc lá/ Trôi dạt...trôi dạt.../ Tôi bay đi tìm .... bóng tôi/ Bờ lau hình như hình như ai che tiếng nói/ Bờ lau hình như hình như ai gom tiếng sóng/ Sóng vỗ, nghe như câu chuyện về dòng sông/ Bỏ quên mất bóng cho đôi bờ/ Gửi bao héo hắt cho đôi bờ/ Tôi chao, chao đi chao lại cùng sương khói/ Tìm đâu thấy bóng tôi trôi ngày/ Tìm đâu trí nhớ tôi sương mù..../ Cuối chân trời, mây lững thững bay/ Cuối một ngày, sông lững thững trôi...” (Chim bông lau tìm bóng) ;

Tôi chỉ bị quyến rũ bởi cội nguồn/ Và nỗi buồn chó ăn đá gà ăn sỏi/ Nên tôi không đứng về phe tài giỏi/ Tôi trôi theo từng thân cọ luống chè xanh.../ Đêm nay ngủ ở Việt Trì/ Tôi ngóng về Cầu Phong Châu Đỉnh Hùng Lĩnh/ Chắc vua Hùng sống lại cũng không thể bình tĩnh/ Trước những ngọn đồi như da thịt rách bươm.../ Nhưng tôi một giận mười thương/ Dẫu không tin, vẫn chôn xương chân giường...” (Đêm nay ngủ ở Việt Trì);

Mộng về xóm núi lân la/ Hỏi thăm, lạnh lẽo đã qua nửa lòng?/ Nhớ trái na nặng đầu đông/  Lá na rơi ở vườn không lặng lờ/ Nửa đêm lau lách nằm mơ/ Nồm lên hơi ẩm nương nhờ ngón tay/ Lang lang lớp lớp mây mây/ Nỡ lòng nào lỡ phút giây hoạ hoằn/ Nước nôi từ thuở gối chăn/ Nửa lòng lạnh ngắt, nửa rần rật reo ...” ( Xóm núi) ;

Ngày mai lại đến giỗ bà/ Trung du xanh thẫm nhạt nhoà mưa xưa/ Thạch Đê đồng lạnh gió mùa/ Cẩm Khê xoan cũng mới vừa tháng ba.../ Mười mấy năm cháu xa bà/ Hồn phảng phất mãi hiên nhà, đồi xưa/ Cây mít giờ đã lên chùa/ Bụi tre đã đốn, rễ trơ góc vườn/ Nhà xưa giờ đã trống trơn/ Cháu con mê mải chập chờn xa quê.../ Cháu giờ tuổi giống triền đê/ Chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông ... (Giỗ Bà nội);

Chết là hoa cải phai màu/ Từ vàng rực đổ sang nhàu vàng thư/ Từ sắn khô đến khoai nhừ/ Chỉ là bếp lửa hình như ... bập bùng .../ Sầu thì riêng chẳng sầu chung/ Người cứ bừng bừng cháy cõi người thôi/ Trung Du đêm vắng lặng rồi/ Tôi nằm tôi nếm từng thời khắc qua.../ Có chang chang nắng nhớ phà/ Có đêm khóc những người già mộng du../ Bây giờ tôi hiểu Ngày Xưa/ Chính là những thứ, mới vừa trôi qua ....” (Đêm nay ngủ ở Phú Thọ);

 

Vậy là con sông Thao cứ lẽo đẽo chảy theo chân, theo cái bóng của cậu bé Nguyễn Vĩnh Tiến từ thuở lon ton cho đến khi giật mình nhận ra mình đã ở vào cái “tuổi giống triền đê, chỉ thoai thoải dốc đổ về bến sông”. Người xưa bảo “ngũ thập tri thiên mệnh”, giờ chớm đến tuổi này, Nguyễn Vĩnh Tiến đã ngộ ra, cái gọi là “ngày xưa” đâu có xa xôi gì, mà chính là “những thứ mới vừa trôi qua”. Nhanh thế, mau vậy, nhưng đâu có thể vội vàng.

 

Cùng với cuộc sống bộn bề chảy xiết ngày hôm nay, Nguyễn Vĩnh Tiến đã biết cách tổng hợp, kéo dài, vẽ những bức tranh thơ khổ lớn, du hành ngược dòng thời gian về quá khứ,...

 

Bố tôi Cẩm Khê, Mẹ tôi Hoài Đức/ Hai vùng quê ròng ròng ký ức/ Hai vùng quê rã rời đổi thay/ Trước cò bay/ Giờ bụi bay/ Trước mỏi cánh/ Giờ sa lầy/ Tôi lớn lên từng ngày/ Người thân mất đi từng cụ/ Trẻ con lớn lên từng đứa/ Cho đến một ngày khoé mắt cay cay/ Có bao nhiêu khế chín cây/ Có bao thành quách lung lay bóng hồ/ Còn bao nhiêu thứ hồ đồ/ Còn bao nhiêu gió mơ hồ vẫn bay...(Bố tôi Cẩm Khê, mẹ tôi Hoài Đức);

“...Phía Nam là Trung du thở/ Phía Bắc là mây âu lo/ Nhà tôi nằm ở trên đồi/ Có cây mít mật quả rơi kiến bò/ Tối qua tôi uống rượu ngô/ Ăn xôi ngũ sắc đến giờ vẫn say/ Thương nhau thì mới cầm tay/ Từng sợi hơi ấm thành dây tơ hồng /... Quê nội tôi ở đó, giờ vẫn chiêm bao/ Tôi mơ thấy mình thành viên đá ở Thẩm Thoóng...” (Yên Bái); v.v...

 

Tôi ngại, cứ mãi lan man trong dòng ký ức của Nguyễn Vĩnh Tiến thì e rằng sẽ lạc lối sa lầy chẳng biết đường ra... Với tâm thế này, những câu chuyện buồn trung du sẽ vẫn như dòng sông Thao cứ lẽo đẽo trôi chảy, mang theo cái bóng của Nguyễn Vĩnh Tiến cho đến ngày nào đó anh cảm thấy quá mệt mỏi mà buông bỏ chăng.?...

Giờ thì chưa, trong dòng chảy ký ức của mình, Nguyễn Vĩnh Tiến đã bày tỏ thái độ của một trí thức, thẳng thắn và dứt khoát, khi mà nông thôn xứ mình, cả miền quê trung du và làng quê của anh, đang trong cơn lốc “đô thị hóa” với nhiều bất cập, lo nhiều hơn mừng...

Sao chúng ta không về nông thôn?/ Cùng quây quần bên nồi cơm nóng/ Vườn ao chuồng, đi dưới trăng thấy bóng/ Tre, Lúa, Sông còn nghe thấy tiếng reo .../ Sao chúng ta cứ chê nông thôn nghèo ?” (Sao chúng ta không về nông thôn);  

“... Anh hãy phơi áo ra nắng/ Để áo thơm mùi nắng/ Hôm nay anh về thôn vắng/ Dân làng bán hết cây to/ Để nhường cho các dự án/ Để tầng lớp trung lưu mới/ Được kiến trúc xanh và chất lượng sống mộng mơ .../ Ơ hơ.../ Ruộng khô hết cả bờ/ Cá chết vì nhiễm độc/ Người dân lởi xởi với một số người đi mua đất...(Phơi áo sau Xuân);

 

Lẽ dĩ nhiên, đô thị hóa nông thôn là một tất yếu cuả cuộc sống và phát triển. Nông thôn cũng không thể cứ mãi nghèo đói cũ kỹ lạc hậu để bây giờ chúng ta lấy cớ mà thương nhớ nỉ non này nọ.... Song rõ ràng, hiện tại, nhiều cảnh sắc và những giá trị truyền thống tốt đẹp của làng quê Việt bị mai một, mất đi trong khi các giá trị văn hóa mới chưa hình thành, hoặc dang dở không thể hiện được tính tích cực. Ấy là điều đáng lo.

 

Thế nên, Nguyễn Vĩnh Tiến, con người Thơ chất chứa “bốn trong một” ấy không lo âu sao được? Khi mà, còn chưa thực hiện được những dự án lớn quy hoạch tổng thể và bảo tồn di sản làng quê Việt thời hiện đại, thì việc bày tỏ trong thi ca và âm nhạc của mình là cần thiết. Hãy cứ cất lên những lời cảnh tỉnh, âu cũng là tiếng nói thiết thực, thể hiện trách nhiệm công dân và nghệ sĩ của mình.

 

Nguyễn Vĩnh Tiến, kể từ buổi ban đầu, cái ngày mà tôi mường tượng về anh “một con sẻ nhỏ xa nhà, sang sông”, rời mảnh đất trung du Phú Thọ về Thủ đô học hành, rồi sang Pháp du học, lại trở về Việt nam, thì đến giờ, cũng đã hơn 30 năm trôi qua, anh thực sự trở thành một con đại bàng giang đôi cánh rộng bay lượn giữa bầu trời thơ ca nhạc họa!...

 

Vẽ xong vòng tròn để phác thảo chân dung Nguyễn Vĩnh Tiến, tôi hy vọng sẽ có một cách tiếp cận để hiểu, cảm và thưởng thức những tác phẩm mới tiếp tục dồi dào sức sáng tạo của Tiến. Và kìa, con đại bàng ấy đã lại tiếp tục giang rông đôi cánh tự do bên ngoài cái vòng tròn tôi vẽ…

Có lẽ, đó mới chính là Nguyễn Vĩnh Tiến ?!... ./.

 

                                                          Hà Nội, tháng 4/ 2023

 

Triết lý ĐÈN VÀNG

trong “không gian Nguyễn Huy Thiệp

 

 

Đọc lại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, với tôi là một sự ngẫu nhiên. Số là, đầu hè năm nay (2022) tôi tham gia chuyến lên Sa-pa với cha con, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền và nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến. Trước chuyến tôi đến ngủ đêm tại nhà họ để sáng hôm sau lên đường sớm. Tối ấy, chuyện vãn mỏi miệng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền bảo tôi “Nghe nói chú thích văn Nguyễn Huy Thiệp,... có muốn nghe lại không? ... Dạo này, tôi hay mất ngủ, những lúc như thế, tôi cứ vào mạng, Youtube ấy, nghe đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, ... Hay lắm, mà lại dễ ngủ. Ngủ lúc nào không biết...Cứ như Nguyễn Huy Thiệp ru mình vào một giấc mộng khác ấy...”. Rồi nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền cho nghe truyện “Phẩm ttết”, và “Vàng lửa”,... Và rồi chũng tôi thiếp đi trong mộng mị,

Sáng hôm sau, ngồi xe với cha con nhà thơ, nhạc sĩ, Nguyễn Vĩnh Tiến bật cho ca các ca khúc của anh chàng. Tôi nghe nhạc đấy mà đâu óc cứ váng vất các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã thức dậy trong tôi cảm xúc, tâm trạng những ngày xưa còn chưa xa, khi hóng từng truyện ngắn của ông xuất hiện trên báo chí,...Nguyễn Huy Thiệp mất vào cuối xuân năm 2021, thoáng chốc đã qua giỗ đầu ông rồi,...

Sau chuyến đi ấy, bẵng đi vài tháng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền gắn thẻ sang trang Facebook của tôi đường link Youtube truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, như muốn nhắc nhở tôi, hãy nghe lại đi, Tôi nghe lại truyện ‘Sống dễ lắm”, rồi cúứ thế, liền mấy ngày, tôi lần lượt nghe đọc lại truyện "Không có vua", "Những bài học nông thôn", "Bài học tiếng Việt", "Tội ác và trưng phạt", "Huyền thoại phố phường", "Chảy đi sông ơi", :"Muối của rừng’, "Quan âm chỉ lộ", "Sang sông", "Mưa Nhã Nam", "Ông Móng", "Giọt máu", "Con gái thủy thần", "Những người thợ xẻ", "Như sương như khói bay"... Những truyện ngày trước tôi rất thích, đọc đi đọc lại nhiều lần gần như thuộc, vậy mà giờ nghe lại thấy quen mà lạ. Có lẽ, sau nhiều năm, đời sống xã hội thay đổi... nên cách nhìn nhận, đánh giá cuộc sống của tôi cũng khác. Với lại, tâm trạng đọc cũng khác trước. Nếu ngày trước, tôi háo hức đọc như nuốt từng chữ từng câu rồi bị cuốn theo, mặc cho Nguyễn Huy Thiệp dẫn dắt, thì nay, tôi nghe người đọc diễn cảm với tâm trạng muốn thẩm định lại,...Thấy quen thì rõ rồi, còn lạ là bởi chợt phát hiện ra điều này điều kia, hàm ý này hàm ý nọ trong câu chuyện cũ mà ngày trước mình chưa từng ngộ,...

Tôi đặc biệt thích cái triết lý “đèn vàng” được Nguyễn Huy Thiệp nêu ra rồi kiến giải trong truyện ngắn “Bài học tiếng Việt” mà ông lấy nguyên mẫu từ cố nhà văn Vũ Trọng Phụng, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và xem như hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Song trước khi bàn về cái triết lý “đèn vàng” này, tôi muốn nói đến một phương thức đặc sắc làm nên bản sắc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là nghệ thuật không gian truyện, mà ở đây, tôi gọi là không gian Nguyễn Huy Thiệp.

Trong những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, thì không gian truyện thật đặc biệt, dù chỉ là không gian hẹp trong một chuyến đò ngang với thời gian mười phút (như “Sang sông”), hay không gian hiu quạnh trong túp nhà tuềnh toàng, xác xơ ven sông Đà mờ mịt khói sương (trong "Như sương như khói bay") , hay không gian rộng lớn quốc gia, dân tộc, triều đại (như "Kiếm sắc", "Vàng lửa", "Phẩm tiết") hoặc không gian xuyên suốt hàng trăm năm qua bốn đời của gia tộc họ Phạm (như "Giọt máu"),... Và trong không gian nào thì cũng đủ để chứa câu chuyện, lớp lang với hàng tá khái niệm, hàng mớ lý thuyết, hàng đống minh chứng mà tác giả cố tính nhét vào. Đó là cái tài của riêng Nguyễn Huy Thiệp, bởi ở đấy, luôn chứa đựng những cặp khái niệm đối lập, như đạo đức-vô luân, sáng tỏ-vô minh, văn minh-mông muội, ý thức-vô thức, cao cả-hèn hạ, phúc thiện-tội ác, tình yêu-hận thù,... Cũng ở ngay không gian hỗn độn thực hư lẫn lộn ấy, cái có lý và sự vô lý đều có chỗ trong một trật tự lo-gic theo khuôn phép của tác giả. Đó chính là giọng điệu kể chuyện ma mị, ngôn ngữ hội thoại quỷ ám. Tôi nghĩ, bằng ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự làm bạn đọc bị ám ảnh,...

Giờ thì tôi nói về triết lý “đèn vàng” của ông. Trong truyện “Bài học tiếng Việt”, sau khi đưa ra các trạng huống đèn xanh, đèn đỏ, đấy là những tín hiệu dứt khoát một chiều, Nguyễn Huy Thiệp đi sâu phân tích trạng thái “đèn vàng”, Đây là trạng thái lưỡng lự. Ở trạng thái này, mỗi con người có sự lựa chọn khác nhau theo tính toán của riêng mình, hoặc dấn tới vượt thật nhanh, hoặc dứt khoát dựng lại chờ đợi, lại cũng có thể lưỡng lự giữa đi hay dừng, và như thế, mỗi sự lựa chọn sẽ có những kết quả tương ứng, thuận lợi hay bất trắc tùy may rủi,... Trở lại các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như các truyện, đều giăng mắc những ngã tư "đèn vàng", ông đưa đẩy và dẫn dắt các nhân vật của mình đến trạng thái đèn vàng, để cho họ tự lựa chọn theo mạch truyện, tâm lý nhân vật và lo-gic tình tiết,... rồi cứ thế, tác giả tiện nước đẩy thuyền, tha hồ đưa hàng lô triết luận của mình vào,...

Trạng thái "đèn vàng" được ẩn trong không gian truyện ma mị, hư ảo mà ở đấy có cả thiên thần và ác quỷ, thiên đường và địa ngục thì đương nhiên, cả nhân vật và bạn đọc chúng ta dễ bị ám thị,...và khi ấy, mặc sức thuận theo ý đồ của nhà phù thủy,...

Để minh chứng cho triết lý “đèn vàng” của Nguyễn Huy Thiệp, tôi xin dẫn chứng từ một số truyện ngắn của ông.

Ví như: Ở truyện “Huyền thoại phố phường”, anh hàng nhà quê công chức nghèo tên Hạnh ra phố lập nghiệp, thoạt đầu chàng ta lân la làm quen và giao du với dám con gái nhà giàu với ý đồ “chui ngầm chạn” hưởng lợi từ nhà vợ tương lại, đấy là một sự lựa chọn có ý đồ, một lần xử lý trạng thái “đèn vàng” có thể tạm gòi là thành công. Thế nhưng. khi gặp trầng thái “đèn vàng” tiếp theo, anh chàng Hạnh đã xử lý một cách quyết liệt, ấy là việc đấy bà Thiều, mẹ vợ tương lai của mình vào trạng thái trớ trêu hiến thân cho gã, nhằm đánh đổi tấm vé số của mình dược tặng trước đó, lấy tấm vé số của bà Thiều vì nghĩ tấm vé số đó được thần linh bảo hộ sẽ trúng độc đắc sau khi nó được bà ta đem đi lễ bái cầu xin ở các đền phủ. Rốt cuộc, kết quả ngược lại, anh chàng Hạnh trắng tay mọi nhẽ, trở thành thằng dở người,...

Hay như, truyện ngắn “Những bài học nông thôn”, anh giáo Triệu khi gặp tình huống “đèn vàng” đã quyết định rất nhanh, ngay tắp lự, nhảy ra lấy thân mình chặn con trâu điên để cứu thằng cu Tiến, chịu cái chết thương tâm. Ấy là vì anh giáo Triệu nghĩ mình sớm ngộ ra ý nghĩa cuộc đời, có sống thêm cũng vậy thôi, nên chấp nhận cái chết có thể đến với mình  để cứu mạng một đứa trẻ ngây thơ. Trong trạng huống ấy, giáo Triệu có thể né tránh cái chết, mặc cho con trâu điên húc cu Tiến thì cũng chẳng ai trách cứ anh ta được. Nhưng không, ý nghĩa cuộc sống  mà giáo Triệu ngộ ra là sự bất tử,... Và như thế, giáo Triệu đã chọn cái chết để thành huyền thoại của làng,...

Hay như, truyện ngắn “Như sương như khói bay”, nhân vật chính là ông Trụ, một ông già bị người ta bỏ quên quá tuổi nghỉ hưu, mấy chục năm trời dằng đẵng một mình trông cái trạm thủy văn ven bờ sông Đà hoang vắng, hiu hắt, mờ ảo sương khói. Ngoài việc hằng ngày do nước đo sóng rồi ghi chép vào một cũ sổ, thì có chút niềm vui dạy chữ và chút dạo lý ở đời cho một bé gái trẻ con, có cha mẹ hẳn hoi mà như bị bỏ rơi, dần bước sang tuổi mới lớn. Dần dà, trong bầu sương khói mụ mị ấy, hai con người cô đơn nương tựa vào nhau, nâng đỡ tâm hồn nhau, khiến họ không còn ý thức về vai trò của mỗi người. Ông Trụ tự thấy mình như ông, như cha, như thầy giáo,... và còn là một người khác giới đối với bé San; và ngược lại, cô bé San cũng cảm nhận ông Trụ là tất thảy đối với nó (ông, cha, thầy giáo và người đàn ông khác giới,.. gần như một người tình). Trong trạng thái “đèn vàng” mù mờ, mọi chuyện diễn ra bình thường, song le, chẳng thể mãi “đèn vàng”, nên khi chuyển trạng thái “đèn đỏ”, ấy là lúc cả hai người đều nhận ra thứ tình cảm pha chút luyến ái thì là lúc buojc phải ra quyết định. Bé San trẻ con, nó chưa mấy hiểu sự “nguy hiểm” của thứ tình cảm này, nhưng ông Trụ thì không, ông hiểu rõ sự thể sẽ rao sao tùy theo sự lựa chọn của mình. Hoặc ở lại sống với bé San, mặc cuộc đời trồi đến đâu thì đến, hoặc “đèn đỏ” stop, bở về xuôi với gia đình của mình như một kẻ yếu đuối trốn chạy? Và ông Trụ đã trốn chạy vào một sớm sương khói mù trời như ảo ảnh, chấp nhận đem theo phần còn lại  của cuộc đời mình sự day dứt khôn nguôi. Còn bé San, không có ông Trụ, nó mất nốt chỗ dựa cuối cùng để trụ lại với cuộc đời này. Thân phận nó ra sao, còn là một câu hỏi chẳng của riêng ông Trụ mà cho cả mỗi bạn đọc chúng ta?... 

Hay như, truyện “Con gái thủy thần”,  cả một vùng quê ven sông Cái gần nửa thế kỷ qua sống với một huyền thoại về Mẹ Cả-Janna Đoàn Thị Phương, con gái thủy thần, cho đến khi anh chàng Trương, một gã nông dân trẻ tuổi chất phác phát hiện ra, giai thoại về con gái thủy thần lại do một lão già liệt chân tai quái gớm giếc (cha của Đô Thi) phịa ra lòa thiên hạ. Một khúc gỗ khô từ cây muỗn cổ thụ bị sét đánh vùi dưới cát thành mộ Mẹ Cả huyền thoại, và người ta cứ sống với những huyền thoại thì cuộc đời này mới nên thơ và đẹp đẽ làm sao. Khi đụng vào thực tế cuộc sống, cái gì cũng chẻ hoe thì đều chẳng ra gì. Cái anh chàng  tên Trương ngốc nghếch kia cứ lần mò đi tìm sự thật, thấy được hiện thân của Mẹ Cả-con gái thủy thần-Janna Doàn Thị Phương, chẳng qua là một cô gái bình thường, con rơi của lão chủ hãng nước mắm, đem gửi nhờ nhà thơ nuôi giúp thành con chiên của Chúa, cũng yêu ghét, thất tình như ai,... Ở đây, sự mù mờ lưỡng trạng thái “đèn vàng” lại có trác dụng hơn sự rõ ràng, rành mạch của đèn đỏ hay đèn xanh. Hãy để cho các huyền hoại có đất sống, đừng chẻ hoe mà làm gì, kẻo sẽ thành vô duyên, tẻ nhạt!...

Cũng có thể dẫn chứng thêm hai truyện khác nữa, như truyện “Sang sông”, trạng thái “đèn vàng” chỉ trong chốc lát, bằng thời gian của một chuyến đò ngang; hay như truyện “Giọt máu”, thì trạng thái này lại nhiều lần xuất hiện, kéo dài giả nửa thế kỷ với mỗi đời tiếp nối dòng tộc gia đình họ Phạm,...

Hàng trăm truyện của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như truyện nào tác giả cũng tạo ra trạng thái hay tình huống “đèn vàng” như thế. Vậy nên, xem đây là một đặc trưng phương pháp sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là có cái lý của nó.

 

Một điểm nữa, nhìn chung, không gian Nguyễn Huy Thiệp thường đượm buồn, các cũng bậc và tâm trạng đem đến nỗi buồn, rồi lây lan sang người khác như một thứ bệnh truyền nhiễm. Nhưng mà nó đẹp, đầy tính thẩm mỹ. Còn nó có nguy hiểm hay không thì tùy mức thẩm thấu của mỗi người?...

Nguyễn Huy Thiệp cũng hay nói đến tín ngưỡng, tôn giáo. Dường như, ông luôn đi tìm nó, thứ tín ngưỡng của riêng ông., m ở đấy, đánh thức được Lòng trắc ẩn- qua đó giáo dục, giáo hóa đùng hơn, sự khai hóa lại thì phải?

Thêm nữa, Nguyễn Huy Thiệp cũng hay tự mâu thuẫn với chính mình. Song có lẽ vậy, khi đọc truyện của ông, đến đâu thích thú đến đó, rồi cứ thế sa vào bẫy của ông lúc bào không biết, đến hết truyện lại như mờ mịt chẳng có lối ra và bỗng không hiểu ông đã nói gì. Lối viết ấy là điểm mạnh của Nguyễn Huy Thiệp, nó gây ảnh hưởng, chi phối nhiều cây bút văn xuôi khác., mà sau này, tôi nhận ra dấu vết ấy ở truyện ngắn này truyện ngắn nọ ở cây bút nọ cây bút kia. Kể cả tác giả bài viết này, cũng từng bị ảnh hưởng lối viết của Nguyễn Huy Thiệp.

Sau này, đọc thêm diễn văn của Nguyễn Huy Thiệp khi ông nhận giải thưởng văn học quốc tế ở Italia, giải Premio Nonino (2008) , tôi càng thám những điều đó!... ./.

 

 

 

 

NGUYỄN HUẤN,

KỊCH SĨ GIỮA ĐỜI THƯỜNG

 

 

Vậy là. Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Huấn đã diễn nốt vai diễn cuối cùng của mình trên sân khấu cuộc đời, ấy là sự ra đi vĩnh viễn của anh sau cơn đột quỵ tại Huế vào một ngày đầu tháng 9 năm 2021, giữa lúc dịch Covid 19 mù trời.... Ở tuổi 66, không phải là trẻ nhưng cũng chưa là cao, nếu biết chăm sóc sức khỏe, hoàn toàn có thể thêm mươi, mười lăm nắm nữa, Nghe nói, Nguyễn Huấn đang ;ang thang đâu đó ở Huế rồi đột ngột ngột bị đột quỵ, đưa về quê Vụ Bản, Nam Định rồi mất vào chiều ngày mồng một tháng chín. Với bạn bè và anh em cơ quan thì là đột ngột, song thực ra, Nguyễn Huấn đã sắp đặt cho sự ra đi vình viễn của mình từ mấy năm trước, kh anh bỏ nhà lang bạt kỳ hồ,... Sống như thế, nghĩa là anh đã chọn cho mình cách sống những năm còn lại của mình, kể cả cái chết, có điều, ngày giờ sớm muộn thế nào là chuyện thiên cơ huyền bí mà thôi,...

1. Cách đây khoảng 25 năm, đó là năm 1996, khi mấy chúng tôi làm việc chung phòng với nhau, tôi và Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh. Nguyễn Thị Thu Liên là phóng viên chương trình Tạp chí truyền thanh & Du lịch do nhà báo Thanh Lịch phụ trách. Gần gũi. hay nghe Nguyễn Huấn kể chuyện đời mình, nhất là các cuộc phiêu lưu tình ái của anh, tôi đã lấy chuyện tình của anh với một cô gái xứ dừa Bến Tre làm nguyên mẫu cho truyện ngắn “Bức tranh để lại”. Truyện in báo rồi vào sách, mọi người biết lấy ra trêu Nguyễn Huấn, anh vờ trách và còn khoái trí bịa thêm chi tiết cho ly kỳ. Cái kết của truyện ngắn ấy, nhân vật chính nôi máu giang hồ, bỏ việc đi biệt tăm và nghe đâu bỏ mạng vì tai nạn ở một tỉnh miền Trumg. Nguyễn Huần cười khì bảo :”Mày rủa tao nhá... cứ đợi đấy, tao sống nhăn răng cho chúng mày hay,...”. Quả là Nguyễn Huấn đã sống thêm một phần tư thế kỷ, mặc dù qua mấy cơn bạo bệnh, để nối dài vai diễn cuộc đời mình. Lần này, thì anh diễn cố cho xong!...

Nguyễn Huấn quê Kim Thái, Vụ bản, Nam Định, sinh naw,1956 tuổi Bính Thân. Anh hay vui miệng khoe, tuổi Con Khỉ nên theo nghiệp diễn là đúng vai đúng số. Nghe đâu, sơ sinh, Nguyễn Huấn nặng tới 4,3 kg, là chuyện hiếm hồi ấy. Bố là công an, mẹ là cán bộ phụ nữ, thuộc thành phần cơ bản, nhưng anh không theo nghiệp học hành mà sớm trở thành công nhân, vì bố mất sớm. Nguyễn Huấn làm công nhân ở Khu gang thép Thái Nguyên với nghề chính là lái xe goòng chở than và quặng. Sau này, những cuộc rượu vui, anh hay đùa về thời kỳ ấy, rằng hàng ngày cứ phải cầm lái điều khiển cái đầu tàu kép dăm toa xe chờ đầy than, quặng chạy đi chạy lại trên một đoạn đường cố định vài trăm mét, không khác gì phải diễn một vai kịch phụ khô cứng và nhạt phèo. Có lẽ vì chán nghề, không cam chịu, Nguyễn Huấn tìm niềm vui trong hoạt động văn nghệ quần chúng. Anh có khiếu kẻ vẽ, cắt giấy, hát hò, diễn kịch nên trờ thành hạt nhân văn nghệ quần chúng ở Khu gang thép Thép Thái Nguyên. Và rồi cơ hội đến, Nguyễn Huấn được đơn vị mình cử đi dự tuyển đào tạo ở Trường Sân khấu Điện ảnh trung ương. Được đào tạo chính quy ở ngôi trường danh giá, Nguyễn Huấn bắt đầu làm quen và giao du với nhiều nhân vật có tiếng trong giối nghệ thuật biểu diễn ở trung ương, nên khi tốt nghiệp, anh không muốn quay về chốn cũ, vì như thế, nghĩa là anh chấp nhận vai diễn nhỏ, chẳng biết đến bao giờ mặt mũi mới sủi tăm lên được. Nhưng không quay về cơ quan cũ, cũng đòng nghĩa với bỏ việc chấp nhận cuộc sống tự do, tự lo công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, mà thời bao cấp, những việc ấy còn quan trọng hơn cả sự nghiệp. Thế nhưng, Nguyễn Huấn vẫn sẵn sàng chấp nhận, để đi tìm vai diễn lớn cho cuộc đời mình. Ạnh bước chân vào ngưỡng cửa Nhà hát Tuổi trẻ khi đó có các tên tuổi lớn là Thùy Chi, Phạm Thị Thành, Đức Trung và cùng với lứa diễn viên trẻ đầy tài năng như Lan Hương, Chí Trung, Ngọc Huyền, Minh Hằng, Anh Tú, Lê Khanh vv...

Dường như, vận may chưa mỉm cười với Nguyễn Huấn khi anh chỉ được giao thỉ các vai phụ, vai quần chúng, thậm chí không có vai mà chỉ làm cái việc khiêng vác, bưng bê, kê dọn phông cảnh, kéo phông màn,.. Vài năm như thế. Nguyễn Huấn bỏ việc rời Nhà hát Tuổi trẻ, sống dặt dẹo, tá túc nhà bạn bè, người quen, ở Hà Nội,. Quãng thời gian này, Nguyễn Huấn may mắn bám được vào Đài TNVN (VOV) để theo nghiệp diễn bằng cách viết kịch bản, diễn xuất, đạo diễn kịch truyền thanh. Những năm ấy, ngoài các chương trình như Sân khấu truyền thanh, Văn nghệ quân đội sáng chủ nhật, Kể chuyện cảnh giác tối thứ bảy, thì nhiều chương trình khác của Đài TNVN có chủ trương sân khấu hóa bằng các tiết mục câu chuyện truyền thanh, như Công nghiệp, Nông nghiệp, Thanh niên, Phụ nữ, Đại gia đình các dân tộc Việt Nam,.. Cứ loanh quanh, đeo đuổi với ngần ấy, nhuận bút còm nhưng đó là nguồn sống và động lực để Nguyễn Huấn theo nghiệp diễn, vì ở đó. Nguyễn Huấn còn tham nhập vào nhóm kịch sĩ nghiệp dư công tác ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao gồm Phạm Huỳnh Công, Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Xuân Chiến,...lấy chỗ tá túc và niềm vui làm nghề,

Tôi lần đầu biết Nguyễn Huấn vào năm 1988 lại là một kỷ niệm và ấn tượng xấu. Khi ấy tôi làm việc ở Phòng Tiếp dân và xử lý đơn thư của Ban Thính giả Đài TNVN do nhà báo Hoàng Đồng phụ trách và nhà văn Đặng Quang Tình làm trưởng ban. Phòng làm việc cua tôi thuộc dãy nhà cấp 4 trong khu trụ sở 58 Quán Sứ, ngay phía dưới tòa biệt thự kiến trúc Pháp, mơi làm việc của Ban Văn nghệ với các phòng Văn học, Sân khấu và Văn học thiếu nhi. Một chiều, nghe tiếng ồn ào bên ngoài, rồi tiếng chân người chạy, Tôi và nhà báo Hoàng Đồng ngó ra thì thấy một người to béo,mặt đỏ bự, tay cầm chiếc kéo đuổi theo một người già hơn có mái tóc bạc. Miệng anh chàng to béo lảm nhảm đe dọa người kia. Nhà báo Hoàng Đồng nhận ra người đầu bạc là đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, bèn xồ ra chặn ngay trước mặt anh chàng béo. Người này khựng lại, vằn mắt quát nhà báo Hoàng Đông bằng tiếng Nga: Kto? (Mày là ai)?. Miệng hỏi tay lăm lăm chiếc kéo nhọn. May sao, vừa lúc ấy, biên tập viên Hồ Nhật Quang chạy đến kịp vòng tay ôm ngang ngươi chàng béo, vừa quát vừa dỗ dành, ngăn được vụ ấu đả có thể đổ máu. Sau đó, tôi biết được chàng béo say rượu quạy phá gây rồi hôm ấy là Nguyễn Huấn. Bữa đó, Nguyễn Huấn đến Đài lấy nhuận bít, rồi vui miệng rủ Vũ Hà và Hồ Nhật Quang đi nhậu. Quá chén rủ nhau về cơ quan, chuyện nọ dọ chuyên kia thành cãi nhau và thế là xảy ra xô xát. Cái tật say rượu hoặc mượn rượu để quậy ăn vào máu thịt Nguyễn Huấn thành tính, mà sau này tôi hay phải chứng kiếm, thậm chí là nạn nhân của Nguyễn Huấn khi về chung phòng làm việc với nhau. Được cái, Nguyễn Huấn là người phục thiện, khi tỉnh rượu, tĩnh trí, biết xin lỗi bạn bè nên mọi chuyện cũng qua.

Lân la rồi chẳng hiểu sao, Nguyễn Huấn xin được vào học việc ở một phòng phát thanh mới thành lập là Nhà nước và Pháp luật do nhà báo Lê Thông phụ trách, cùng với mấy phóng viên mới là Đàm Hoa và Nguyễn Sĩ Lý. Nhà báo Lê Thông bản tính thân thiện, ôn hòa và bao dung nên ông dung nạp được con ngựa bất kham Nguyễn Huấn mà không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc cả. Khi ấy, Đài đã bắt đầu tổ chức tuyển dụng theo hình thức thi tuyển và Nguyễn Huấn đã vượt qua được kỳ thi để trở thành phóng viên chính thức của nhà đài. Sau này, Nguyễn Huấn vui miệng kể, thực ra anh còn nợ môn ngoại ngữ (đăng ký thi tiếng Nga) nhưng không đạt điểm tuyển. Nhà báo Trần Quang Khải khi đó là Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ của Đài bảo, vì tiếc chất giọng vàng của Nguyễn Huấn mà cho nợ ngoại ngữ. Quả là, vào Đài, Nguyễn Huấn đã phát huy được chất giọng tốt trời phú và khả năng diễn xuất của mình cho làn sóng của Đài, không những thế đây còn là chiếc cần câu cơm khi anh làm thêm, diễn thuê, đọc quảng cáo thuê. Nguyễn Huấn vào Đài nợ môn tiếng Nga là thế, nhưng đã có lần, tôi chứng kiến, trong một chuyến công tác, khi cần giao lưu với cơ sở, anh ngà ngà say, đã ôm ghi ta hát bài Đôi Bờ bằng tiếng Nga khá chuẩn xác, hay và đầty cảm xúc. Anh có khả năng bắt chước của một kịch sĩ và nhờ khả năng này Nguyễn Huấn hóa giải nhiều chuyện không hay do anh gây nên để thoát hiểm. Tội và nhiều bạn bè đều biết vậy, bực đấy nhưng khó giận lâu được. Thực ra, ẩn trong khả năng sự diễn của một kịch sĩ, là sự phục thiện của Nguyễn Huấn. Thời còn ở chung phòng với Nguyễn Huấn, cùng Phạm Duy Hưng và Trần Nhật Minh, mỗi khi thấy Nguyễn Huấn giả lả nói cười cầu tài sau khi anh gây chuyện, mấy chúng tôi lại nháy mắt nhau hàm ý “lại diễn đấy”, tồi thì bỏ qua cho nhau cả.

Kể chuyện Nguyễn Huấn mà quên không nhắc chuyện “liên kết mậm giềng” của anh thì thật thiếu sót. Đây là câu chuyện đời thực nhưng đầy yếu tố hài hước như chuyện ở một sân khấu hài kịch. Chuyện này lý giải đời Nguyễn Huấn chính thức ba đời vợ và mỗi thị sinh cho anh một công chúa, hay như cách nói dân dã của anh là vịt giời hoặc chữ nghĩa là hoàng tử đái ngồi. Cứ như lời Nguyễn Huấn kể, tôi chắp nối lại thì toàn cảnh thế thiếp của Nguyễn Huấn nhứ sau: Thời còn là công nhân lái tàu goòng ở Gang thép Thái Nguyên, anh sớm lấy vợ và có con gái đầu lòng. Cô vợ này sau đi lao động ở Nga và vợ chồng ly hôn. Tiếp theo, lang bạt về quê, Nguyễn Huấn tán đổ một cô công nhân ngành dệt thì phải và kết cục của cuộc hôn nhân thứ hai này cũng là một con gái. Mãi sau này, khi đã là phóng viên nhà Đài, trong một chuyến công tác lên Đoan Hùng, Phú Thọ, Nguyễn Huấn tình cờ làm quen với một cô giáo dạy mầm non người dân tộc Tày, lấy làm vợ rồi đưa theo về Hà Nội. Rốt cuộc, lại thêm một cô con gái nữa ra đời. Vậy là, liên doanh mậm giềng của Nguyễn Huấn thất bại hoàn toàn. Ba đời vợ, mỗi nàng sinh hạ cho Nguyễn Huấn một công chúa. Nguyễn Huấn vẫn hậm hực, tim cách liên doanh tiếp với hy vọng cho ra một mậm giềng (con trai) đặng có người nối dõi tông đường. Thế nhưng, trời đâu có chiều lòng người. người muốn song trời chẳng gật. Trước tuổi nghỉ hưu vài ba năm, Nguyễn Huấn bị một cơn tai biến nhẹ, nằm nhà cả năm trời. Dẫu không méo miệng, bại tay, thọt chân, hay bán thân bất toại thì cơ thể cũng chậm chạp, chỉ đi nhẹ nói khẽ, loanh quanh trong nhà mà thôi. Đành nghỉ hưu trước tuổi mầy năm, song Nguyễn Huấn cũng không đến nỗi thiệt thòi lắm. Về chức vụ, hàm phó vụ trưởng, về nghề nghiệp, phóng viên chính, nghệ sĩ ưu tú chuyên ngành kịch phát thanh, huân chương Lao động hạng 3.

 

2. Nguyễn Huấn là người yêu thơ, là tác giả của hàng trăm bài thơ, ...song chẳng mấy quan tâm. Hình như, ở vào thời kỳ chiến tranh gian khó và thời bao cấp khổ ải, nhiều người lấy thơ ca làm chỗ dựa tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn thì phải. Nguyễn Huẫn cũng là người như vậy. Sau này  Nguyễn Huấn có tập hợp in thành tập, ( tập Bóng đời, NXB Hội Nhà văn 2009)  nhưng cũng làng nhàng nên chỉ bạn bè, đồng nghiệp biết anh dính dáng thi ca. Là người thực tế, Nguyễn Huấn sớm nhận thức, thi ca không nuôi sống bản thân nên anh chọn nghề kịch. Sáng tác kịch, diễn kịch phát thanh, rồi công tác tham gia các hội diễn văn nghệ quần  chúng ngành nghề. Miễn là có tiền tươi thóc thật để lấy cái ăn cho vào miệng, và thi thoảng góp tiền nuôi con cho các bà vợ đã mất công sinh ra các tiểu thư, công chúa cho mình.

          Tôi nhớ, trong nhiều chuyến công tác đi các địa phương với tôi, lúc trà dư tửu hậu, Nguyễn Huấn cao hứng đọc thơ anh, thơ tôi và một số bài thơ tình khác mà anh thuộc. Mục đích làm gia vị cho các cuộc nhậu thêm màu sắc mà thôi. Đã có lần, lúc ngà ngà say, Nguyễn Huấn mượn rượu, viện dẫn người này kẻ nọ, dính vào thơ, đam mê thơ, tôn thờ thơ và cũng thân tàn ma dại về thơ. Nguyên Huấn nửa đùa nửa thật khuyên tôi: “ Ông chớ dấn vào thơ mà khốn đấy nhé. Ông là dân văn xuôi thì cứ văn xuôi mà tẩn. Thơ phú đôi câu để tán gái và làm duyên với đời chút đỉnh thôi...”. Ngẫm ra, thấy Nguyễn Huấn cũng có lý. Nhưng mà, cái gì chót thích rồi thì đâu dễ bỏ. Tôi vẫn văn xuôi là chính, song thơ túc tắc, cũng dăm bảy tập rồi. Còn với Nguyễn Huấn, nói vậy thôi, chứ từ khi nghỉ hưu, nằm khoèo một chỗ, nhất là khi khỏe lại, lang thang trên đường, dường như chỉ có thơ (sau miếng ăn, cuộc nhậu) là giúp anh chuyên chở sự hưng phấn hay nôi cô đơn cơ nhỡ,... Trang cá nhân trên mạng xã hội của mình, Nguyễn Huấn trải lòng bằng những bài thơ... Ví như “SócTrăng nhớ” làm vào cuối năm 2018 nơi từng ghi dấu một thời trai trẻ lang bạt kỳ hồ đây những lỗi lầm: “Anh sẽ đưa em về/ Bến Nguyệt Giang vắng gió/ Chiều Sóc Trăng đò nhỏ/ Chở lời thề sang sông/ Dù đục và dù trong/ Thì muôn đời vẫn thế/ Câu dân ca dâu bể/ Mãi day dứt khôn cùng/ Người ơi !/ Và Sông ơi!/ Đừng vô tình như thể/ Nhớ không chiều cửa bể/ Mây nước buồn nghiêng em/ Bãi bờ rưng rưng mắt/ Phù sa xanh tóc dừa/ Người xưa !/ Và sông xưa !/ Chở ta về ký ức/ Mùa Ghe Ngo háo hức/ Rực rỡ hồn Khmer/ Sông Trăng buồn sắt se/ Chiều nhớ nhung hoang hoải/ Thế mà người đi mãi/ Cô đơn một bóng thuyền/ Thế mà người đi mãi// Sóc Trăng vẫn nặng duyên tính”.  Hay như bài thơ “Em và thu “ làm ngày 10.8.2021  không lâu trước ngày Nguyễn Huấn ra đi vĩnh viến cũng một tông như vậy: “Có phải em/ MÙA THU/ Lá vàng lơi lơi/ đường vắng/ Thu lại mùa .../ em vẫn em/ Hình như/ câu Thơ/ của mùa Thu cũ/ Em tít tắp xa/ nơi miền xanh núi ngủ/ Từng đêm.../ vòng tay thả hững hờ/ Thu cùng em/ câu đợi, câu chờ/ Cúc vườn nhà/ vàng lên như nắng/ Hoa hát em nghe/ lời trống vắng/ Và nói hộ lòng/ em mãi mãi/ yêu anh/ Ở bên ni/ vẫn bát ngát xanh/ Huế giao mùa/ dòng trong ngăn ngắt/ Bến Sông Hương/ anh đi tìm câu hát/ Thương nhớ duyềnh lên/ mỗi độ Thu về/ Câu thơ em ngân nga/ quấn quýt níu chân đi/ Cúc Quỳ vàng ruộm/ cho ai cay mắt/ Lễ giao mùa/ năm nay Cô-vít/ anh nỏ về được mô ? Anh không về/ Câu Nam bình mượn Thu/ một chút nồng nàn/ em ru giấc/ Một chút se se/ một chút vàng/ Em vẫn em/ Thu vẫn
Thu sang ,..

         
Dường như, cái nghiệp diễn kịch thấm vào con người Nguyễn Huấn, ảnh hưởng đến cách ứng xử hằng ngày, cũng như trong nghề báo của anh. Và với thơ phú cũng vậy. Ý tứ có chút tính kịch, câu chữ lại càng rõ, chất hội họa thêm chút khoa trương kiêu diễn viên thoại sân khấu vậy. Thôi không sao, mỗi người mỗi vẻ, chẳng mấy quan trọng. Miễn sao Nguyễn Huân thấy vui, hay yên lòng mình là được, bởi nhiều nhà thơ lớn con ối bài ngô nghê, ối câu khờ khạo nữa là,... Thơ tình đã vậy, thơ thế sự của Nguyễn Huấn còn đậm chất khoa trương hơn. Ví như bài thơ tặng người cha nguyên là bộ đội Điện Biên của mình, bài Cha tôi và Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên: “Thấp thoáng gương mặt cha tôi/ Ào ào đi trong câu hát/ Diệu kỳ Điện Biên mở trang cổ tích/ Người lính trẻ trung theo đồng đội tìm về/ Cuộc chiến xưa băm nát ngực làng quê/ Súng bom thù xé ngang trời Tây Bắc/ Mẹ kể rằng: đêm trùng trùng câu hát/ Phía “ Vừng đông hửng sáng”* người đi/ Hiền lành như bông lúa rễ tre / Trong như giọt chuông/ chiều trong trẻo / Lành hiền câu dân ca cò lả / Từ biệt quê hương / son sắt lời thề / Điện Biên ơi hãy nói nhỏ tôi nghe/ Căn hầm nào đồng đội cùng cha thức/ Giọt mưa dầm lạnh giữa lòng cơm vắt/ Nòng súng đăm đăm phía quân thù/ Chiến hào Him Lam/ nhành ban nở ngày xưa/ 50 năm Xuân này thao thiết quá/ Có phải không cha: cánh hoa ban ấy/ Trắng ngút ngàn phút lấp lánh Điện Biên/ Giữa rợp trời mầu cờ đỏ thần tiên/ Bản mường vang khúc reo hò chiến thắng/ Cha về nhé - sớm nay - cùng nắng/ Hòa vào đoàn quân giữ nước kiêu hùng/ Bài ca hóa lửa vừng đông/Bóng cha xanh mướt cánh đồng Điện Biên...

Thơ ca làng nhàng vậy thôi, nhưng trong nghề kịch truyền thanh, Nguyễn Huấn là một người làm nghê hết sức nghiêm túc. Cùng với các nghệ sĩ, đạo diễn sân khấu truyền thanh Vũ Hà, Nghi Xuyên, Nguyễn Huấn có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực sân khấu truyền thanh không những trên làng sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mà còn hệ thống phát thanh cả nước. Gjui nhận cuối đời về nghệ thuật của Nguyễn Huấn-danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSUT) trong lĩnh vực Kịch truyền thanh hoàn toàn xúng đáng. Không những vậy, Nguyễn Huấn còn mang chất kịch, đặc biệt nghệ thuật sử dụng âm thanh, tiếng động trong nghè báo phát thanh và lịch vực quảng cáo khá thành công.... Thời kỳ Nguyễn Huấn làm việc ở Chương trình Tạp chí truyền thanh cùng với tôi và các phóng viên Phạm Duy Hưng, Trần Nhật Minh... là những năm tháng Nguyễn Huấn say nghề nhất. Nguyễn Huấn đã phát huy hết khả năng chất kịch trong con người và kiến thức của mình để sáng tạo từ khâu kịch bản đến đạo diễn, diễn xuất của mình, để tạo nên những sản phẩm phát thanh chất lượng cao,...

 

3. Một sáng chủ nhật (tháng 9/2018) , sau khi nhâm nhi tách cafe đen không đường, thưởng chút hơi thu mát mẻ, bật máy, định viết một cái stt. Lưỡng lự chưa biết viết gì thì điện thoại reo, Nhìn số máy lạ, nhưng vẫn nghe. Một giọng đàn ông ấm, hỏi tôi có biết anh ta là ai không, Tôi nghe quen quen, nhưng không đoán ra là ai. Sau một hồi chất vấn với hàng loạt câu hỏi, không cho tôi trả lời, anh ta bảo "Huấn đây. Nguyễn Huấn đây". Nguyễn Huấn thật sao? Thực lòng, khi nghe máy, đầu óc tôi không hề nghĩ đến Nguyễn Huấn, bởi anh bị bệnh, "lặn không sủi tăm" những dăm, bảy năm nay rồi. Giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cả hai vui quá, tranh nhau nói... í ới đến gần nữa tiếng... Sau hôm đó, gần như ngày nào tôi và Nguyễn Huấn cùng alo cho nhau, này nọ. Tôi biết anh khỏe lại được mấy tháng nay, là nhờ gặp thầy gặp thuốc, chữa căn bệnh "thần kinh chập mạch" từ gần chục năm nay, khiến anh phải nghỉ hưu sớm khi đang đương chức Phó trưởng ban Ban Kiểm tra và UVTV-thường trực LCH Nhà báo VOV... An ủi, khi đó, anh đã xong cái danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú...

Nói căn bệnh "thần kinh chập mạch" là nói vui, nhưng cũng là thật. Năm 2011, Nguyễn Huấn bị tai biến nhẹ. Anh nghỉ chữa bệnh, tưởng chừng dăm tháng là có thể đi làm lại. Ai cũng nghĩ vậy, bởi nhìn vẻ ngoài, chân tay bình thường, mặt mũi cũng vậy, nhưng cái khác là ở độ nhanh chậm. Ví dụ, trước đấy, anh nhanh mười thì sau chỉ còn ba, bốn phần. Rồi anh đành phải nghỉ hưu sớm. An phận vậy đã hơn dăm năm nay. Cách đây mấy năm. bà cụ thân sinh Nguyễn Huấn mất, tôi cùng một số anh em cơ quan đi viếng ở mãi Nam Định. Gặp anh, Nguyễn Huấn vẫn chậm chạp vậy... Ai ngờ đâu... Lý giải việc này, Nguyễn Huấn giải thích,anh được các bác sĩ Viện Quân đội 103 chẩn trị, châm cứu để chữa căn bệnh các dây thần kinh bị bó lại, chập nhau, tác động đến một số chức năng... Nay anh khỏi bệnh, nhanh nhẹn như hồi nào. Tôi được biết, anh đã tự phóng xe máy đi gặp gỡ anh em bạn bè, và mới đầu tuần, anh đã lên VOV, đóng kịch truyền thanh cho VOV6 được rồi... Thật mừng!

`        Đúng hẹn, Nguyễn Huấn ghé thăm tôi ở nơi làm việc... Dồn nén bao chuyện, cả hai đều muốn bung ra... Vui nhiều, song vẫn đúng là tính chất Nguyễn Huấn xưa,có vui đến mấy, nhưng hẹn ai, làm gì, đúng giờ là dứt ra, để không sai hẹn với người khác. Tôi có chút quà, sách tặng bạn.

Nói theo cách nói thông dụng. NSUT Nguyễn Huấn đã trở lại... và mọi người mong anh, lợi hại hơn xưa !...

          Nhưng lợi hại chẳng thấy đâu, Nguyễn Huấn trở lại cuộc sống nguyên tính cách xưa, ăn to nói lớn, đi phăm phăm, làm linh tinh, thậm chí còn dữ hơn xưa. Hinh như, Nguyễn Huấn sống bù cho gần chục năm tròi bệnh tật ru rú xó nhà, đi nhẹ nói khẽ. Có cảm giác, Nguyễn Huấn hung hổ tận hưởng cuộc sống. Sau liên tiếp gặp gơ lại các bạn bè đồng nghiệp làng báo, bạn học sân khấu cũ, Nguyễn Huấn rời Hà Nội, lang thang đâu đó mãi miền Tây Nam bộ, rồi lên Tây Nguyên,...bỏ lại sau lưng người vợ thứ ba, người đã sinh cho anh cô công chúa út.

Lần gặp cuối cùng của tôi với Nguyễn Huấn, ấy là vào cuối năm 2018, khi anh theo tôi về quê dịp tôi xây lại phần mộ cha mẹ. Mấy ngày ở quê tôi, anh dốc chuyện, nhậu tưng bừng và quậy cũng ra trò. Tôi nhớ, đêm ỏ quê, Nguyễn Huấn không ngủ mặc dù anh uống khá nhiều. Rạng sáng, anh bổ chửng dậy, bật máy tính, cập nhật trang cá nhân trên Facebook, rồi làm thơ tặng người cha xưa là chiến sĩ Điện Biên, vì hôm ấy đúng ngày Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12. Anh dánh thức, dựng tôi dậy khi trời còn chưa sáng, để đọc cho tôi nghe bài thơ anh vừa sáng tác (tôi đã trích ở phần trước bài viết này)....

Sau lần ấy, tôi chỉ còn thấy bóng dáng Nguyễn Huấn thấp thoáng qua Facebook của anh, hoặc dòng tin nhắn trên điện thoại, khi hỏi thăm này nọ, khi tỏ ý muốn được giúp đõ chút đỉnh về tài chính,... Lần theo dấu vết, bạn bè và người thân biết là Nguyễn Huấn vẫn lang bạt đâu đó khi thì miền Cửu Long sóng nước, lúc lại miền Trung nắng gió hay Tây Nguyên bạt ngàn rứng núi. Cả thời kỳ dịch Covid19 mù trời, Nguyễn Huấn vẫn đâu đó trên đường. Hẳn là ông giời bắt tội đầy anh phải đi. Thế thôi, biết giải thích sao đây,...? Dường như những ngày tháng cuối đời lang bạt này, Nguyễn Huấn quên mất lời tự răn mình và khuyên nhủ bạn bè là chớ đắm mình vào thơ mà khốn khổ, anh chỉ còn mấy mối quan tâm, ấy là miếng ăn vào miệng cho đỡ xót lòng và cùng với đó là Em và Thơ. Trân trang cá nhân của Nguyễn Huấn nhan nhản thơ tình,. Thơ về những vùng đất mà anh từng đặt hân đến...

Tôi không rõ lá số Tử vi của Nguyễn Huấn cụ thể ra sao, nhưng cứ cuộc đời anh mà suy thì hẳn cung Di và cung Nô của Nguyễn Huấn phải có sao tốt, nên chỉ khi nào Nguyễn Huấn còn đi được ấy là Nguyễn Huấn tồn tại, và hình như đến đâu anh cũng gặp được những người tử tế giúp đỡ, phò trợ ?... Thời bao cấp khốn khó, Nguyễn Huấn đã sớm ý thức việc lưu giữ những hình ảnh ghi dấu chân mình. Anh có chiếc máy ảnh cơ cũ kỹ nhưng vẫn chụp tốt, nên đến đâu cũng chụp dăm ba pô ảnh lưu niệm. Thời phim ảnh dắt đỏ song Nguyễn Huấn không tiếc tiền, chụp xong về chọn hình rửa thành ảnh hẳn hoi và mỗi khi trở lại nơi cũ, anh mang theo ảnh tặng lại cho chủ nhà. Mỗi lần vậy, Nguyễn Huấn ranh ma nháy mắt với tôi nói nhỏ:”Mỡ nó rán nó ấy mà...”. Nhờ thế sau này, tôi lưu giữ trong album của mình nhiều hình ảnh về Nguyễn Huấn và tôi cùng đồng nghiệp báo chí khác...

Và cho đến một ngày (kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2021), Ông Giời bảo Nguyễn Huấn dừng lại thôi, vì biết anh quá mỏi chân rồi!...? Sân khấu cuộc đời anh, cánh màn nhung đã khép lại rồi, chẳng cần anh phải diễn thêm nữa,... Khi sống, thi thoảng sau những cơn say, Nguyễn Huấn nhập đồng diễn, làm phiền không ít người. Giờ thì bạn bè ai đó có muốn được Nguyễn Huấn làm phiền cũng không được nữa rồi,

Nguyễn Huấn, chàng kịch sĩ giang hồ lãng tử ơi, bạn bè, đồng nghiệp làng báo, chẳng quên anh đâu !...

 

 

 

 

 

RƯỢU NÚI AI RÓT MÀ SAY,...

( Chân dung nhà thơ Lò Cao Nhum)

 

Thế là nhà thơ Lò Cao Nhum, người con của Bản Lác, Mai Châu  đã ra đi mĩa mãi vì căn bệnh trọng.

Biết đến tên và thơ Lo Cao Nhum thì từ lâu nhưng phải đến năm 2011, tôi mới giao du với ông qua mạng Blog Tiếng Việt.

Tôi đi du lịch Bản Lác cũng nhiều, nhưng cũng chỉ có một lần ghé thăm chơi nhà Lò Cao Nhum. Ấy là khoảng mươi năm trước, vào dịp xuân, tôi cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhạc sĩ Phạm Quang Hiển vô  xứ Thanh chơi, thăm nhà của nhà văn Trịnh Tuyên ở Cẩm Thủy, rồi quá bộ lên Bá Thước thăm nhà thơ Trương Thị Màu. Tôi post ảnh lên mạng, nhà thơ Lò Cao Nhum biết tin bèn gọi điện nhắn là khi về thì tiện đường vòng qua Bản Lác, Mai Châu ghé nhà ông chơi. Thế là đoàn chúng tôi sang Mai Châu, đến Bản Lác ghé nhà Lò Cao Nhum. Có trà có rượu nên không khí cuộc gặp thêm phần ấm áp, rôm rả, thơ phú dạt dào,...

Những lần sau, ghé bản Lác, thì hoặc ông chơi xa vắng nhà, hoặc chúng tôi vội nên chỉ í ới qua điện thoại dăm câu ba điều vậy thôi.

Trang cá nhân của nhà thơ Lò Cao Nhum trên Blog Tiếng Việt lấy tên Rượu Núi, tôi đọc thơ ông chủ yếu ở đây. Thi thoảng thấy tên ông trên báo này báo nọ thì bài đọc bài không, nên chẳng lạm bàn, song qua đó cũng đủ để nhận diện, thấy được chất văn hóa bản địa (Thái và Mường) và dấu ấn bản tính nhỏ nhẹ rủm rỉm riêng có của Lò Cao Nhum.

Lần giở từng trang của nhà thơ Lò Cao Nhum trên Blog Tiềng Việt mà ông bỏ lửng gần chục năm nay, ngược thời gian để nhận diện một Lò Cao Nhum, thơ và người. Trang cá nhân của ông lấy tên RƯỢU NÚI, thì hẳn ông phải tâm đắc với bài thơ này và xem đó như sự đại diện hay một tuyên ngôn về thơ, về quê hưởng bản quán và con người mình...

Hãy xem cái cách Lò Cao Nhum, hay rộng ra là người Thái Bản Lác mời rượu bạn bè: “Rượu núi/ Bạn đến/ Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu/ Chiếu đan bằng tia mặt trời/ Bát rượu trăng rằm/ Mong hồn vía bạn đừng thất lạc/ Cầu cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa/ Gái bản nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt...”. Vậy thì đâu còn xa lạ nữa, dù bạn là người Thái, người Mường, người Mông, người Kinh hay dân tộc nào đi nữa thì bàn tay cũng da cũng thịt như nhau cả thôi.

Có thẻ nói, chỉ bằng một bài thơ “Rượu núi” Lò Cao Nhum đã xóa nhòa đi cái khoảng cách về sắc tộc. về sự giàu nghèo, gần xa, cũ mới,... Đấy là cái khéo riêng có của nhà thơ, ấy còn là văn hóa ứng xử của người Thái và một số dân tộc thiểu số vùng cao...

Cảm giác chung, Lò Cao Nhum cũng như các nhà thơ người dân tộc thiểu số vùng cao khác (Pơ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh...) yếu tố dân tộc bản địa rất rõ. Tất nhiên, mỗi dân tộc thiểu số vùng cao, bản sắc văn hóa khác nhau đôi chút, song tựu chung, văn hóa ứng xử lại khá giống nhau, ấy là sự hiếu khách và lòng tin ở con người. Người Thái, người Mường vùng Tây Bắc đều khá tinh tế và khéo léo trong ứng xử với khách. Bản thân, tôi có nhiều năm ngang dọc Tây Bắc nên hiểu điều này. Giờ hãy xem Lò Cao Nhum thưởng trà với bạn hữu ra sao: “Hương trà thơm thao thức/ Quyện vấn vít mãi thôi/ Em nâng lời chén nước/ Sóng sánh vỗ lòng tôi/ Nhấp một ngụm thành hai/ Nhấp hai ngụm thành mười/ Một đêm trà gió thức/ Chung chiêng lá trọn đời”.(Hương trà). Với cái phép nhân của lòng người “một thành hai, hai thành mười” ấy, mới thấy Lo Cao Nhum khéo và cũng ngoa  làm sao.

          Nét văn hóa của người miền núi đồng rừng, tục “bắt vợ” cũng được Lò Cao Nhum thi vị hóa: “...  Nghiêng lòng rình khe vách/ Ngả tim ngóng buồng trong/ Đâu là trời, là đất/ Đâu là vuông, là tròn./ Tiếng khèn hổn hển/ Khua lạo xạo con đường đá sỏi/ Bỗng lách qua khe liếp/ Vồ dốc núi/
Chộp rừng rú/ Bế bổng thiên thần/ Nhẹ nhõm hòa vào sương ban mai
” (Bắt vợ).

          Văn hóa ứng xử của người Thái, người Mường vốn tinh tế, phả vào người thơ rủm rỉm Lò Cao Nhum nên đã khéo càng thêm khéo. Chuyện gia đình, có khéo ăn ở bao nhiêu cũng chẳng thể tránh được  những  giận hờn, sứt mẻ. Nhưng với  Lo Cao Nhum những lúc thế này: “Hơi tí em bỏ về bên ngoại/ Làm cơm canh, ấm chén rối lên/ Bậu cửa vào vấp chân/ Khung cửa ra đụng trán/Thương cái bếp nguội lạnh...”. Để vợ giận thì chỉ có thua và thiệt thôi, nên người thơ nhủ lòng mình, cũng là cách lấy lòng vợ: “Thôi cũng vì cái vung trót méo/ Cũng vì nắng quá mà mưa/ May mà vung còn dẻo/ May mà vẹo lại tròn/ Bữa cơm trưa một mình/Anh còn so thêm đũa” (Mưa nắng nhà mình). Đến nước này thì gỗ đá cũng tan thành nước, người vợ nào cũng đành cầm lòng, giận dỗi chi nữa. Nịnh vợ giỏi thế, khó có ai hơn được Lò Cao Nhum. Thường ngày  là vậy,nhà thơ nịnh đầm theo quán tính, nhưng hễ có dịp thì tội gì mà không giả vờ có chút tị nạnh với chị em : “Làm phụ nữ thích thật/ Có ngày vui tháng ba/ Có ngày hoa tháng mười/ Làm phụ nữ vui thật.../  Làm phụ nữ sướng thật/ Bao nhiêu là tiếng khen/ Bao nhiêu là lời tán/ Ngọt thơm suốt cả đêm..”, nhưng rồi vẫn nửa thương nửa răn dạy: “Ngày vui ngắn chẳng tày/ Về còn lo con nhỏ/ Còn trăm ngày giặt giũ/ Còn nghìn đêm khóc thầm./ Phụ nữ vốn rộng lòng/ Đàn ông đừng hẹp bụng/ Phụ nữ đáng thưởng lắm/ Ngày nào cũng ngày hoa” (Thơ vui ngày hoa tặng cánh mày râu). Tị nạnh như thế thì cũng là một cách lấy lòng người thôi. Khôn thế, có mà khôn hết cả phần thiên hạ ...

          Những tưởng chỉ vui bàn chuyện văn hóa dâ\n tộc, ứng xử cộng đồng làng bản, gia đình vậy thôi, chứ thực ra, nhà thơ cũng thích bàn chuyện thế sự. Song chuyện thế sự có ghê gớm thế nào đi chăng nữa thì cũng nhìn từ bản thân mình, từ người thân mà ra chuyện thiên hạ. Hãy xem Lò Cao Nhum bàn chuyện thế sự ra sao? “Họ bảo tôi đi đường ngược chiều/ Bị phạt là điều cầm chắc/ Chợt hiểu đấy là phép tắc/ Giống bản mình giăng bủa Ta leo... / Ngôi nhà ta có nóc, có sàn/ Làm người không thể không phép tắc/ Phép tắc không thể không chòi gác/ Cuộc đời có ngã ba, ngã bảy/Trong ta có đèn đỏ hay không...” (Ngược chiều).

Vậy thì lệ làng, phép nước cũng nhìn nhận từ bản thân mình mà ra. Bố bản hay ai cũng thế cả thôi, cứ phải khép mình mà tuân thủ suy ra phép công thì xã hội mới có trật tự chứ.

Căn phòng tôi một góc khói bay/ Tôi ngấu nghiến chợ chiều ùa đến/ Nhịp đời thường cà chan nước mắm/ Không góc đêm chạm cốc bon che./ Căn phòng tôi chiếu rải thênh thênh/ Ríu ran tiếng giao lưu đồng loại/ Nhịp nhàng tiếng đưa nia sàng sảy/ Nụ cười thơm lọt sàng xuống nia” (Căn phòng tôi). Cái riêng đã thành chung rồi, chuyện của mình thành chuyện làng xã, chuyện xã hội thôi. Thế sự với Lò Cao Nhum cứ thủ thỉ là vậy.  Chẳng hơi đâu phải đao to búa lớn cả, chuyện thế sự đơn giản là lời dăn con:  “Rồi ngày mai con xuống núi/ Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười/ Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng/ Mỗi lần vấp, một bước đi/ Sẽ sực nhớ người thầy trên núi.../ Ngày mai con xuống núi/ Cùng tay nải hành trang đầu tiên/ Đi như suối chảy về với biển/  Chớ quên mạch đá cội nguồn.” (Ngày mai con xuống núi)...; Hay đâu như chuyện ăn bát phở dưới phố: “Người Núi xa bản Mỗ, bản Lác/ Đi phố xa cải tổ cái đầu?/ Sau hội Thơ, hội Văn, hội Bè, hội Bạn/ Muốn về lắm rồi/ Nhớ gà đồi…/ Thế là xong/ Người Núi làm sao biết được/ Mấy trăm tấn gà mắc dịch om, lưu/ Bột rượu cồn nhập của Tàu pha nước/ Thơm lừng môi – trôi xuống ruột: ngọt lừ!/ Ngon lỗ miệng – bụng đứ đừ/Ung thư, tắc ruột coi như xong đời...” (Đau cái sự phở gà); Hay đơn giản là nghe tiếng chim ngoại thành: “Lật chăn bên này/ Trở gối bên kia/ Tiếng chim cuốc/ Ven đầm sậy một khu đô thị/ Đêm không vắng/ Mà thăm thẳm/ Chim gù đôi/ Như khoan vào đáy ruột.../ Lặng nghe đêm sâu/ Tiếng chim đôi khi như nấc/ Tiếng chim thảng thốt/ Giữa chói chang sức nén/Ngàn tấn bê tông...’ (Tiếng chim cuốc bên đầm ngoại thành): Hay là chút cảm xúc khi về Điện Biên thăm Mường Phăng: “Chín sẽ quên và mười sẽ quên// Nhưng không quên Pú Thẩu (*) Đại tướng/ Mùa hoa vông đếm hoa vông ngồi đợi/ Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi chờ mong./ Về Mường Phăng câu ca còn ngân/ Sáu mươi mùa ve sôi chín núi/ Ngày noọng sao hát lời buộc trói/ Pú Thẩu về sợi chỉ về theo...” (Câu hát Mường Phăng); Rồi nữa, khi bố bản nhìn thấy cây thốt nốt bên bờ biên giới sinh ngẫm nghĩ: “Cây thốt nốt lắc lư vô tư nghiêng ngả./ Rễ chùm uống nước ruộng này/ Uống nước ruộng kia/ Cỏ xanh cũng không chia/ Phương này phía nọ./ Chàng trai Căm Pu Chia ruộng bên buông cày/ Cô gái Nam Bộ bên này ngơi tay gieo sạ/ Dưới vòm râm thốt nốt/ Rôm rả mùa màng” (Cây thốt nốt giữa bờ biên giới); v.v... Cứ rủ rỉ tâm sự như tự nói với chính mình, Lò Cao Nhum suy ngẫm và  kể chuyện thế sự theo cách riêng của mình, chẳng khác mấy việc  hàng ngày ông tìm lối mòn lên núi hay đi nương rãy,...

          Như thế, cũng không có nghĩa mọi việc phả vào nhà thơ đều đơn giản cả, không đa sự song ông cũng ưa triết lý: “Ừ đời người mới đó buổi mai/ Dăm chén rượu đã chạm chiều chạng vạng/ Nồng say mối tình không biết ngán/ Chẳng khỏa đầy nỗi hoảng hốt bâng quơ./ Ừ thì trời cho ta làm thơ/ Phơi phới đi từ thiếu thời cắp sách/ Nhưng cũng khoác cho ta áo rách.../ Sáu mươi năm còn vá đụp vá chằn...” (Những con giáp di); “Ở trên núi có bấy nhiêu hộ/ Một phần ba giầu có đỏ rừng,... / Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè sẻn,.../ Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả lên rừng/ Đã thế sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trúng gà kẻ khó” (Trên núi có ba loại người); “”Pù Bin có sấm rền bất chợt/ Dội lên giấc ngủ giữa trưa mù/ Giấc mơ không thể mơ trọn giấc... / Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh trên sương gió, nắng mưa/ Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ suốt bốn mùa (Ở đèo cao Pù Bin),... v.v...

          Quả thật, đọc thơ  Lò Cao Nhum, những khi bắt gặp ông triết lý, tôi cứ cười thầm, nghĩ bụng và hình dung, khi viết ra những câu thơ mang tính triết luận như vậy, hẳn nhà thơ nhẩm bụng hay lẩm bẩm một mình “này, đừng có nghĩ là người vùng cao chúng tớ ai cũng thật thà như đếm đâu nhớ,...?”. Song rõ là, cái kiểu triết lý như vậy. chẳng giống người miền xuôi tẹo nào, vì nó vẫn rất chi là “thật thà đáng yêu”, hay chăng  người giả vờ “thật thà đáng yêu “?...

          Nhà thơ, ai mà chẳng đa sự, đa tình. Âu cũng là cái cách nhà thơ tự đo-ping, gây cảm xúc  để thành thơ?... Thứ tình cảm  mà  nhà thơ Thuận Hữu đã buột miệng nói hộ thiên hạ chúng sinh ấy, chút ý nghĩ  “ngoài chồng ngoài vợ”. Giờ thì xem Lò Cao Nhum sóng sánh ra sao?

Lần giở thơ ông, bắt gặp một bài thơ của một bạn thơ giấu tên thật, ký bút danh THỊ NỞ tặng thơ Lò Cao Nhum: Quả cuối năm ngọt đậm/ Hoa cuối mùa vẫn hương/ Nắng cuối chiều như mật/ Đỏ thêm nét môi hường./ Thời gian ào suối lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày/ Muối đã mặn vẫn mặn/ Gừng đã cay thêm cay./ Từ ngàn xưa đến nay/ Tình yêu là phép lạ/ Chỉ một giọt trong ngần/ Cũng sánh ngang biển cả./ Cơn mưa rào mùa hạ/ Dào dạt ướt vai anh/ Giấc mơ trưa có thật/ Một bờ vai xanh xanh”.  Lại lần hồi cho rõ nguồn cơn, có một bài thơ của Lò Cao Nhum, trước đó không lâu gửi  tặng một "người hôm qua" nào đó, đọc rồi thì hiểu đây là bài thơ khởi  từ phía nhà thơ, khơi nguồn cho bài thơ hồi đáp của người bạn thơ giấu tên kia: “Không thể gọi người xưa/ Vì ngày mai còn nhớ/ Không thể gọi ngày cũ/ Bởi tình nào đã xa./ Mà thời hoa là hoa/ Đến mùa nở cứ nở/ Hương chắt chiu cho quả/ Ai hái trái vườn xưa?/ Kể gì thủa bâng quơ/ Gì nên ở còn ở/ Thời gian ào thác lũ/ Cuốn mưa nắng từng ngày./ Chỉ lạ điều xưa nay/ Tiêu nghìn vàng không nhớ/ Hoa buổi đầu chớm nở/ Gió day dứt trọn đời” (Thơ gửi người hôm qua),....

Có thể, chỉ là võ đoán, song tôi thấy thấp thoáng đâu đó bóng dáng cái người mà nhà thơ gọi là “người hôm qua” ấy, khi bắt gặp đôi ba lần nhà thơ giới thiệu thơ của một “nàng thơ” trên trang cá nhân của mình. Sự việc đó khiến tôi cứ liên tưởng, sâu chuỗi,... rồi suy luận vậy thôi,... Âu cũng là để ta nhìn nhận con người thơ Lo Cao Nhum thi vị hơn chăng ?...

Nhớ về Lò Cao Nhum, không thể không nhớ đến bài thơ Rượu núi của ông. Nhưng Lò Cao Nhum còn có những bài thơ khác, ta không thể bỏ qua để thêm phần rõ cái triết lý về nguồn cội sắc tộc, dấu ấn văn hóa bản địa, chất Thái Mường hòa quện nhuần nhị trong con người và thơ ca của Lò Cao Nhum (ông có cha người Thái mẹ người Mường) : “Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận ra đồng tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tin hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/ Anh có thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc chiếu,.../ Rồi anh ra đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá nhà sàn/ Văng vẳng níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi” (Nóc nhà ta có hoa khau cút);  “Ông nội tôi khai sinh miền đất/ Bắt đầu là gồng gánh núi non/ Ở trong núi có mồ hôi của đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ/ Nỗi khổ ủ niềm khát khao/ Rồi ông vung dao phạt quang mầm đói/ Ông chọc lỗ gieo hạt củ no/ Sự sống ấm chân trời hoang sơ,...” (Ông nội tôi khai sinh miền đất); “Tao có chồng, mày đi bắt vợ/ Bao mùa vụ cắm cúi đời nương,.../ Giờ mày năm chân, tao bảy tay/ Chuyện chồng vợ còn giấu vào núi/ Tao nhớ mày gùi lưng lủi thủi/ Nén mũi kim thêu áo cho chồng,.../ Chợ tình tâm sự mấy mươi phiên/ Yêu thương gập ghềnh còng dáng núi,...”  ( Lời chợ phiên). v.v....

Vậy đấy, văn hóa bản địa, sắc tộc tháng ngày lẽo đẽo theo chân  nhà thơ mang dấu ấn đời sống thường nhật, từ nét hoa văn nhà sàn, chuyện cha ông khai sơn lập bản, nét ẩm thực bát rượu nắm xôi, đến phong tục chợ phiên chợ tình,... với Lò Cao Nhum hòa quện, chung đúc thành thơ mà nên giọng điệu của riêng  ông.

           Cũng như một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác, có thể nói, Lò Cao Nhum ít nhiều góp phần công sức làm phong phú văn hóa dân tộc mình.

           Hơn cả, người ta ghi nhận nhà thơ Lò Cao nhum ở điểm này.

Những ai, đã ít nhất một lần,  như tôi từng nâng bát rượu núi ngồi khoanh chân nơi sàn nhà Lò Cao Nhum ở Bản Lác, thì hãy thêm lần nâng bát rượu núi trên tay, bởi Lò Cao Nhum đã mời: “... Rượu nhà tôi// Rượu buộc chỉ cổ tay/ Thắp lửa tình chiêng, tình trống/ Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say/ Nào bạn ơi/ Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền ngọn núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.”...

Giờ đây, .... Rượu núi ai rót mà say?...

Khi mà, Lò Cao Nhum đã rời bỏ mọi người, ngủ vùi giấc muôn đời nơi Xứ Mường đồng vàng, núi xanh, mây trắng,...thả cho thơ mình mặc sức thung thăng !... ./.

 

 

 

 

 

TẢN MẠN VỀ BA BỨC ẢNH

 

 

          Vào ngày mồng 1 tháng 6 (thứ 6, 2023), tôi xem mạng xã hội, tình cờ thấy có 3 bức ảnh, xem rồi cứ khiến mình phải suy nghĩ mãi.
         Bức thứ nhất, minh họa cho bài viết trên trang của nhà văn Tô Hoàng, ấy là ảnh chụp hai nhà văn nổi tiếng của văn học Nga là Lev Tolstoi và nhà văn Makxim Gorky tại trang trại Iasnaia Poliana ở tỉnh Tula, nước Nga. Hình dáng của hai người thật đối lập, Lev Tolstoi thì thấp nhỏ với chòm râu dài như ông già tuyết, còn Makxim Gorky thì cao gày cứng như thanh củi. Hai con người vĩ đại này, còn đối lập ở thành phần xuất thân, L. Tolstoi quý tộc, bá tước, giàu có, nhà trang ấp rộng lớn, còn M.Gorky thì xuất thân nông dân, nghèo khó, phải lang thang đó đây, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, tự học để viết văn. Duy có một điều, giống nhau ở hai con người khác nhau về mọi phương diện, ấy là tư tưởng tiến bộ, yêu nước Nga, yêu dân Nga và cùng mong muốn giải phóng ách nô lệ cho dân nghèo nước Nga. Tư tưởng thì chung đúc, nhưng cách thức thì khác nhau, trong khi L. Tolstoi theo chủ nghĩa dân túy đơn thuần, tự hoàn thiện mình trên tinh thần Cơ đốc giáo thì M.Gorky ngả hẳn về tư tưởng cách mạng bôn-sê-vich, lật đổ chế độ Sa-hoàng, thay thế bằng chế độ dân chủ. Cũng đúng thôi, thành phần nào thì cách nghĩ, cách giải quyết ấy. Thế nên, với ngài quý tộc L. Tolstoi, theo chủ nghĩa dân túy, muốn giải phóng nông nô, nhưng bản thân ông vấp phải tư tưởng bảo thủ và sự phản đối ngay trong chính gia đình mình, đó là người vợ của ông, vì bà này vẫn muốn duy trì chế độ nông nô...

Khác với ông, nhà văn M. Gorky (tác giả của Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi, Bài ca chim ưng, Người mẹ...) quyết liệt đi theo tư tưởng cách mạng bôn-sê-vich của lãnh tụ V.I Lenin, song ông cũng có những cấn cá và giữ quan điểm riêng về học thuyết mà họ cùng theo đuổi. Nghe nói, giữa ông và V.I Lenin tuy yêu quý và rất tôn trọng nhau, nhất trí với nhau về cơ bản, song cũng khác nhau về một số luận điểm học thuyết mà họ cùng theo đuổi, nên hễ mỗi khi họ có cơ hội bên nhau là dễ xảy ra tranh luận... Trước đó đúng 6 năm, vào một ngày hè đầu tháng 6 năm 2017 tôi đã từng đến thăm trang trại Isnaia Poliana của ngài L. Tolstoi, viếng ngôi mộ cỏ xanh giản dị của ông tại trang trại này  và ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ mà ngày xưa ông vẫn hay ngồi tựa của suy ngẫm, nên thêm phần kính trọng con người tài năng, có tâm hồn vĩ đại và tấm lòng nhân ái ấy,... Tôi cũng đã đi từng phòng căn nhà sơn xanh hai tầng, nơi  xưa kia L. Toltoi chấp bút tiểu thuyết nổi tiếng “Chiến tranh và hòa bình” của mình. Tôi vô cùng ấn tương phòng đọc sách của ông, để biết rằng từ hồi ấy, ông đã đọc sách “Đạo đức kinh” của Lão Tử và đánh giá rất cao tư tưởng của triết gia cổ đại Trung Quốc này. Thú vị nữa, LTolstoi đã viết sách A,B,C với ý đồ và mong muốn cải cách giáo dục cho nước Nga khi đó quá lạc hậu với châu Âu Mỹ. Những câu chuyện ngụ ngôn do ông chấp bút (như Rùa và thỏ, Lừa và ngựa, Sư tử và chuột, Con quạ và cái bình, Kiến và chim bồ câu, Thằng nói dối, Người làm vườn và những đứa con trai, Đôi bạn đường v.v...) vô cùng giản dị, gần gũi, hài hước, dí dỏm, thông minh và dễ hiểu về những con vật xung quanh đời sống con người hàng ngay trở thành các bài học đáng ghi nhớ và bổ ích cho chúng ta. Với L.Tolstyoi, thiết nghĩ, tư tưởng xã hội về giải phóng nông nô và các tác phẩm của ông như Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Phục sinh... đã khiến ông thành con người vĩ đại rồi.
         

Bức ảnh thứ 2, tôi lấy từ trang mạng Hà Nội, ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi bên nhạc sĩ-nhà thơ-họa sĩ Văn Cao. Không rõ bức ảnh được chụp ở nhà vị đại tướng hay nhà Văn Cao, sau lưng họ có một bức thư pháp Hán tự rất đẹp. Nhưng với chai rượu để trước mặt và bức thư pháp Hán tự mà theo đồ đoán của tôi có thể do Tào Mạt, hoặc Nguyễn Văn Bách thủ bút, thì cuộc gặp gỡ này tại nhà Văn Cao? Tự suy luận thế nhưng khi tìm hiểu thêm thì được biết, bức này ấy được nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán chụp tại nhà riêng của Văn Cao ở phố Yết Kiêu, Hà Nội trong một lần vị Đại tướng đến thăm ông. Đây là hai tài danh của Đất Việt ở thế kỷ 20. Khác nhau về vị trí công việc, về thân phận chính trị và sự ảnh hưởng xã hội..., song cả hai con người này kết quả cuối cùng đều đi đến thành công, tuy có gặp những trắc trở và mang nỗi đau đời riêng có.


          Bức ảnh thư 3, tôi lấy từ trang cá nhân của Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam chụp cảnh Đoàn nhà văn Việt Nam ngồi ở phòng chờ thuộc lãnh thổ Jordani để làm thủ tục nhập cảnh vào lãnh thổ Palestine. Trong ảnh là vị chủ tịch Hội nhà văn Paletine cũng các thành viên trong đoàn (nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Trần Hữu Việt, nhà văn Bích Ngân và nhà văn Nguyễn Bình Phương). Nhà thơ Nguyễn Quang Thiếu cầm máy nên ông không có mặt trong khuôn hình.
Họ đều là các cây bút có tiếng ở Việt Nam, đều đang làm báo, nên mỗi người có suy nghĩ riêng và thể hiện bằng tác phẩm của mình ngay trong và sau chuyến đi. Mọi người sẽ được đọc, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chớp nhoáng chia sẻ một số hình ảnh và phần nào hé lộ suy nghĩ của ông bằng các tút ngắn trên Facebook cá nhân (về hàng rào thép gai, về món cá trong bữa ăn, về dòng sông Jordan nơi Chúa rửa mặt, về cây ô liu đơn độc trên mảnh đất khô cằn...) và sau đó là những sáng tác thơ theo nhau ra đời. Song le, đây là vùng đất đặc biệt, và có lẽ đặc biệt từ thởi mở đầu Công lịch với sự xuất hiện của Đức Chúa Jesus. Hơn hai ngàn năm qua, vùng đất này hầu như chẳng mấy yên hàn bởi các cuộc chiến liên miên nguyên do từ mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc và nguồn nước,... Chẳng hiểu, các nhà văn, nhà thơ khác cùng đoàn nghĩ gì, chứ nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi biết, cùng với những gì mắt thấy tai nghe ở vùng đất đặc biệt này (vùng đất của Chúa và của những con người khát vọng tự do) , ông còn bận lòng bởi quá khứ, ấy là mấy cuộc chiến đổ máu và hy sinh mà mình từng tham gia, chiến trường Campuchia và cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Biển Đông,... Bởi ngay trước đó, trong cả chuyến đi, trên đường ông cùng Đoàn Nhà văn Việt Nam sang thăm Palestine, Trần Đăng Khoa và tôi (Nguyễn Chu Nhạc) vẫn trao đổi qua mạng xã hội, bàn luận quanh một bài viết của tôi- “Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, chuyện ngoài truyện", khiến ký ức của ông nổi sóng !?...

 

          P/S: May mắn cho đoàn nhà văn Việt Nam đến vùng đất chết đã trở về không sứt mẻ, bởi chỉ sau chuyến đi ấy không lâu, những ngày đầu tháng 10 này (2023), cuộc chiến giữa Israel và tổ chức Hamas (phong trào kháng chiến Hồi giao) đã nổ ra gây bao chết chóc cho hai bên cùng dân Palestine và chưa biết khi nào chấm dứt? Có một sự trùng lặp, cùng thời điểm này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã cho đăng ký sự trên chuyên đề Mùa thu của ấn phẩm Viết & Đọc, về chuyến đi của Đoàn Nhà văn Việt Nam thăm Palestine theo lời mời của Hội nhà văn nước này . Những gì tai nghe mắt thấy cùng linh cảm của những người cầm bút cho thấy một bầu không khí bức bối ngột ngạt của sự mất tự do, hé lộ mầm mống chiến tranh. Bài thơ Trước một bức tường than khóc của ông, đoạn kết đã nói lên tất cả: “Ngày ngày những tín đồ/ Đến trước Bức tường Than khóc/  Ở Jerusalem / Để cầu xin ân phước / Còn tôi đến trước bức tường/ Trong bảo tàng một nhà thơ / Để nghe tiếng than khóc / Của những linh hồn mất Tự Do”.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã cảm nhận hơi thở của thần Chiến tranh, trong bài thơ Qua sông Jordan về thân  phận của Đức Chúa và các con chiên của người, ông viết: “ ... Tôi lặng ngắm dòng sông/ Từng in gương mặt Chúa/ Giờ như vũng trâu đằm/ Dây thép gai vây bủa/ Ở trên cây thánh giá/ Chúa còn bị hành hình/ Huống chi con của Chúa/ Những kiếp người mong manh...” .

 

 

 

 

 

MƯA XUÂN CỎ MỌC

(Về trạng nguyên Nguyễn Trực)

 

          1. Đình tiền sinh thụy thảo,

                                   

          Tiết tháng giêng mưa xuân. Mưa bay bụi như rắc phấn. Về quê vợ theo hướng dòng người trẩy hội chùa Hương. Dòng người xa cuồn cuộn ngược xuôi. Mưa ngày thêm nặng hạt, rồi cứ thế rơi rơi đều đều như rây bột. Thế này thì ướt áo rồi. Rẽ theo các ngả đường quê, đâu đó phấp phới bóng cờ hội lại thêm tiếng trống thì thùng, chợt nhớ tới bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, và từng câu thơ cứ hiện ra :”Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rựng vơi đầy…”, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên/ Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh” … Lòng tự hỏi, quê mùa giờ còn mấy cô gái được như thế? Nghĩ rồi lại thấy man mác buồn. Một nỗi buồn khi ý thức được những cái quý giá đang mất đi mà mình không có cách gì để níu kéo, kìm giữ. Nỗi buồn ấy cứ len lỏi trong lòng khi thắp hương tưởng nhớ trước mộ các tiền nhân. Cái lẽ sinh, lão, bệnh, tử của đời thì vô tư mà con người lại hay nặng lòng, day dứt. Thế hệ trước thường là hay trách cứ thế hệ sau cứ mải miết chạy theo cái mới mà không chịu quan tâm bảo tồn tập tục, phong vị cũ. Thế hệ trẻ nhiều người lại cho rằng lớp già cổ hủ, cứ lo ôm lấy cái cũ, chẳng chịu thay đổi ?…Cái gì còn thì sẽ còn, cầu trời phật vậy, song cơ bản vẫn phải từ ý thức của con người !...

          Xã Tam Hưng (Thanh Oai, Hà Tây), hai làng hai ngôi chùa lớn. Chùa làng Hưng Giáo (Hưng Phúc tự) bên này mới tu sửa, mang dáng dấp của những ngôi chùa phương Nam dòng Phật giáo Tiểu thừa màu sắc sặc sỡ. Chùa làng Bối Khê bên kia (Đại Bi tự) lại bề thế, cổ kinh đúng màu thiền dòng Đại thừa. Thế nhưng, sân chùa cũng ngổn ngang vật liệu xây dựng vì nghe đâu đang được trùng tu.

          Hội chùa làng còn chưa mở. Vào chùa Đại Bi bằng cửa hậu .Chùa vắng tanh, phần vì còn chưa đến hội, phần vì chùa dở trùng tu, phần thêm trời đang mưa, nên đường đất lép nhép, nên người ta ngại chăng? Tha thẩn nhang đèn, hết ngắm nghía các pho La hán lại lẩm bẩm đọc những bức đại tự và đôi ba câu đối. Chữ nghĩa nhà Phật và các bậc tiền nhân sâu xa không dễ hiểu ngay được. Trùng tu, tốn kém thế song không khéo lại làm mất đi cái cổ kính và hồn cốt tâm linh xưa mà thay vào đó là sự phô trương lòe loẹt ? …

          Chợt nhớ, đây là quê hương của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực, người tên đứng đầu trong toàn bộ văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. Nghe đâu ông đậu trạng nguyên khi mới 26 tuổi trong khoa thi hội đầu tiên của thời Lê sơ- dưới triều Lê Thái Tông, cách chúng ta hơn 500 năm. Ông là người tài giỏi và có khí tiết nổi tiếng trong lịch sử, làm thơ viết sách đủ cả nhưng rồi thất lạc gần hết, chỉ còn mấy bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục mà thôi. Lại có cả chuyện ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, rằng sau khi đỗ đạt làm quan, được cử đi sứ Trung Hoa gặp khoa thi bên ấy bèn xin ứng thí và cũng đậu trạng nguyên. Chuyện này khiến tôi phân vân, đồ chừng chỉ là giai thoại dân gian, chứ chắc gì sự thât lịch sử. Thôi thì đành đợi lúc nào ngày rộng tháng dài sẽ để tâm truy nguyên xem thực hư ra sao ?

          Ngoài trời mưa xuân vẫn như rây bột, đều đều, rơi rơi… Những mảnh mạ non mỡ màng, những vạt cỏ non lấm tấm đón mưa, những tiếng vặt diệt, tiếng tát nước thì thòm và biết bao thanh âm của đồng quê, vừa bình dị gần gũi vừa như báo hiệu điềm lành !...

          Thấp thoáng một câu thơ cổ “Đình tiền sinh thụy thảo… “, được hiểu nôm na là Trước sân cỏ mọc báo điềm lành…

          Ừ… vẫn mưa xuân, cỏ mọc !... Lòng thấy bình yên, ấm áp!...

 

2. Nguyễn Trực, có phải là lưỡng quốc trạng nguyên ?

 

Lần lữa mãi, sau đận thăm chùa làng Bối Khê (Đại Bi tự) hồi giêng hai năm Canh Tuất, tôi cũng lần giở sử sách để tìm xem sự nghiệp văn chương của Trạng nguyên Nguyễn Trực, nhất là chuyện có đúng ông là Lưỡng quốc trạng nguyên hay không ?

          Bắt đầu bằng cuốn Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam (NXB Giáo dục-2006 ) do Đinh Xuân Lâm-Trương Hữu Quýnh chủ biên. Sách này cho biết ông đậu trạng nguyên khoa thi năm 1442 (khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3) triều Lê , làm quan thăng đến chức Thừa chỉ Viện Hàn lâm kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Về sự nghiệp văn chương, sách chép : " ... Ông (Nguyễn Trực) viết Trừ liêu tập, Ngu nhàn tập nhưng phần nhiều bị thất lạc, còn lại văn bia Mục Lăng và một số bài thơ ". (chắc là Hu Liêu tập, vì ông có hiệu là Hu Liêu?).

          Tra một cuốn khác, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 (NXB Văn học, 2006) của nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga- Nguyễn Hữu Mùi. Sách này cho biết Nguyễn Trực có tên tự là Công Đĩnh, ông đỗ trạng nguyên (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh) khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, năm 1442, nhưng lại bị in nhầm là đời Lê Thánh Tông, thay vì đời Lê Thái Tông. Về quan chức cũng chép như sách trên, song có đoạn chép về việc đi sứ : "... Hai lần đi sứ nhà Minh (Thái Hòa 1 và Diên Ninh 6), họa thơ của sứ Minh 50 vần làm vẻ vang quốc thể ...". Còn về văn chương, sách chép : "... Tác phẩm có Bối Khê thi tập, cũng tức là Hu Liêu tập, nay cón 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục ." . Sách này còn cho biết thêm là cùng khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo 3 năm 1442 ấy, khi thi Hội thì người đỗ đầu (Hội nguyên) không phải là Nguyễn Trực, mà là Nguyễn Như Đổ (người Thanh Trì-Hà Nội), song đến thi Đình thì Nguyễn Như Đổ chỉ đứng thứ hai (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh- bảng nhãn), nhường vị trí trạng nguyên cho Nguyễn Trực. Cũng khoa thi này, còn có một tài danh nữa là Thám hoa Lương Như Hộc quê  Gia Lộc , Hải  Dương (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh). Sau này, cả ba người đều trở thành các bậc danh tài của lịch sử khoa bảng phong kiến đất Việt.

          Cả hai sách này, thì một cuốn nhắc đến chuyện Nguyễn Trực đi sứ nhà Minh và có họa thơ với nhau, song tuyệt nhiên không thấy nhắc tới việc ông gặp khoa thi bên Trung Hoa và xin thi rồi đậu trạng nguyên, để rồi nhân gian tôn vinh là Lưỡng quốc trạng nguyên. Về tên sách của ông viết ra thì chép khác nhau. Xin bàn thêm việc này ở phần sau.

          Nhưng hai cuốn đó là sách biên soạn thời nay, nên có thể các tác giả đã lược bớt đi cho ngắn gọn để phù hợp với tiêu chí cuốn sách. Vậy sách cổ có thể ghi chép chi tiết hơn chăng ?

          Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn (bản in năm 2007 của Viện Sử học , NXB Văn hóa thông tin) , trong phần Chế độ khoa cử, có thấy nhắc đến khoa thi Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, 1442 một cách sơ lược, song bù lại có phần bao quát hơn "... Sĩ tử ứng thí 450 tên, lấy 33 người trúng tuyển, qua tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban cho ăn yến, mũ áo, cân đai và cho vinh qui về làng.Việc này bèn định thành thể lệ ...". Có một thông tin hay, ấy là kể từ khoa thi ấy mới định ra thể lệ thi cử như ta biết về khoa cử phong kiến Việt Nam sau này.

          Vậy có chuyện Nguyễn Trực thi đậu trạng nguyên trên đất Trung Hoa không ? Bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú (bản in năm 2007 của Viện Sử học-NXB Giáo Dục) ở phần Nhân vật chí, quyển VII- người phò tá công lao tài đức, có phần viết khá kỹ lưỡng về Nguyễn Trực, từ thân thế đến sự nghiệp công lao của ông. Sách viết : " ... Cha ông là Thì Trung giỏi về địa lý, thấy ở làng Nghĩa Bang huyện An Sơn có ngôi đất quý, nhân lấy con gái họ Đỗ người làng ấy và làm nhà ở đấy, mới sinh ra ông ở am núi Phật Tích. Lúc bé ông thông minh, rộng xem các sách. Năm 12 tuổi giỏi làm văn; 18 tuổi đỗ đầu thi Hương ở Sơn Tây; 26 tuổi đỗ Đệ nhất tiến sĩ tên, đứng đầu về khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo đời Lê Thái Tông, tức trạng nguyên mở đầu của nhà Lê... Ông vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp khoa thi, ông là bồi thần cũng xin thi, nhà Minh lại cho đỗ trạng, nên đời bấy giờ gọi là trạng nguyên hai nước. Năm Diên Ninh thứ 2 (1445), gặp khi nhà có tang ông xin về làng. Bấy giờ học trò các nơi theo học kể hàng nghìn người. Sau khi hết trở, gặp sứ Minh sang, vua sai ông giữ  việc tờ bồi qua lại và làm bài biểu mừng vua Minh lên ngôi, được người Minh khen ngợi. Khi vua Lê Nhân Tông bị giết, ông làm văn tế, lời lẽ rất thống thiết "...

          Như vậy, theo sách Các nhà khoa bảng Việt nam (CNKBVN), thì trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trực có hai lần đi sứ nhà Minh là vào các năm Thái Hòa thứ 1Diên Ninh thứ 6 . Còn sách LTHCLC thì nói chuyện Nguyễn Trực thi đỗ trạng nguyên ở Trung Hoa dưới triều Minh song lại không nói cụ thể năm nào. Nếu căn cứ vào đoạn chép vừa trích  từ LTHCLC và thử đồ rằng Nguyễn Trực đi sứ và dự thi là vào năm Thái Hoà 1 (1443), chỉ một năm sau khi ông đỗ trạng nguyên Việt. Vậy liệu có xảy ra điều đó không ?

          Tra cứu bộ ĐVSKTTcủa Ngô Sĩ Liên (sử biên niên) thấy rằng, năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông - tương đương với Minh, Chính Thống thứ 7) là một năm thật đặc biệt với rất nhiều sự kiện trọng đại liên quan đến lịch sử nước Việt. Lựa chọn, liệt kê một số sự kiện trong năm này dể thấy được sự kinh thiên động địa của nó :

          - Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442). Mùa xuân, tháng giêng, làm cung điện mới .

          - Tháng 3, thi hội các nhân sĩ trong nước, cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Lại sai dựng bia làm văn đề tên. Tiến sĩ được dựng bia ghi tên bắt đầu từ đây. (như vậy là sử gia nổi tiếng Ngô Sĩ Liên, tác giả của bộ sử trứ danh Việt Nam - ĐVSKTT , đỗ tiến sĩ tại chính khoa thi này).

          - Mùa thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng tử Tư Thành sinh (sau này là Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng hiền tài trong lịch sử Việt Nam).

          - Ngày 27 (tháng 7) vua đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi.

          - Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Lệ Chi huyện Gia Định (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), bỗng bị bệnh ác rồi băng... Mọi người đều nói là Nguyễn thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi) giết vua.

          - Ngày 12 (tháng 8)... tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi (tức vua Lê Nhân Tông). Bấy giờ mới 2 tuổi. Lấy sang năm làm Thái Hòa năm thứ1 (tức năm 1443).

          - Ngày 16 (tháng 8), giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn thị Lộ, giết đến ba đời (vì bị gán cho tội âm mưu giết vua).

          - Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước Minh. Đồng tri Hải Tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và Thiêm tri thẩm hình viện Đỗ Thì Việp sang tạ ơn cho mũ áo; Thị ngự sử Triệu Thái sang tâu việc địa phương Khâm Châu; bọn Tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang; Tham tri Lê Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong.

          Sau một năm đầy biến cố như thế, khi Lê Nhân Tông lên ngôi đã đổi niên hiệu là Thái Hòa, năm thứ 1 (1443), và trong năm này, ĐVSKTT chép việc bang giao Việt- Trung như sau :

          - Tháng 11, nước Minh sai chánh sứ là Hành nhân ty hành nhân Trình Cảnh sang tế (hẳn là tế vua Lê Thái Tông).

          - Ngày 25 (tháng 11), nước Minh sai chánh sứ là Quang Lộ tự thiếu khanh, Tống Kiệt, phó sứ là Binh khoa đô cấp sự trung Tiết Khiêm sang phong vua (Lê Nhân Tông) làm An Nam quốc vương.

          - Ngày 26 (tháng 11), sai Tham tri bạ tịch là Trình Dục, Nội mật viện chánh chưởng là Trình Thanh, Hàn lâm viện trực học sĩ là Nguyễn Khắc Hiếu sang nước Minh tạ ơn việc sách phong.

          Như vậy, trong năm này (tức Thái Hòa 1, 1443) chỉ có một đoàn sứ sang nước Minh, song không thấy có tên Nguyễn Trực. Vả lại, nếu có tham gia vào đoàn sứ bộ thì ông cũng chỉ là một thành viên trong đoàn không được nêu tên mà thôi, đơn giản bởi ông vừa mới đỗ đạt, cùng lắm là mới được bổ nhiệm, con đường quan lại chưa có gì.

          Lại xem năm Diên Ninh 6 , là năm mà các tác giả cuốn CNKBVN cho là Nguyễn Trực có đi sứ Minh. Sách ĐVSKTT chép rất tóm tắt quãng thời gian 2 năm tính từ Mậu Dần, Diên Ninh thứ 5 (1458) đến tháng 9 Diên Ninh thứ 6 với mỗi sự kiện thi hội lấy bọn Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân. Sự việc chi tiết hơn với sự kiện : mùa đông, tháng 10, ngày mồng 3 (Kỷ Mão, Diên Ninh năm thứ 6, 1459), khi Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân làm cuộc chính biến cung đình, giết chết vua (Lê Nhân Tông) và cả Tuyên từ hoàng thái hậu. Đến ngày mồng 7, Lê Nghi Dân tự lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng  tính từ ngày mồng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão, 1459). Trong thời gian ở ngôi vua 8 tháng, Lê Nghi Dân chỉ có 2 sự kiện hoạt động bang giao với nhà Minh, được sách ĐVSKTT chép như sau :

          - Tháng ấy (tháng 10, năm 1459) Nghi Dân sai Lê Cảnh Huy , Nguyễn Như Đổ, Hoành Thanh, Nguyễn Nghiêu Tư sang nước Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai.

          - Ngày 20 (tháng 10, năm 1459) lại sai bọn Trần Phong , Lương Như Hộc, Trần Bá Linh sang nước Minh xin phong.

          Đến ngày mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (tức Thiên Hưng thứ 2, 1460), Lê Nghi Dân bị nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt lật đổ, bắt tự thắt cổ chết, rồi lập Gia vương Lê Tư Thành làm vua (tức Lê Thánh Tông), niên hiệu được đổi ngay sau đó là Quang Thuận khi Lê Thánh Tông lên ngôi. Như vậy, đầu năm Diên Ninh thứ 6 khi Lê Nhân Tông còn chấp chính thì không thấy chép gì về hoạt động bang giao với nhà Minh, đến khi Lê Nghi Dân cướp ngôi, có cử 2 đoàn đi sứ nhà Minh thì đều không thấy tên Nguyễn Trực. Cứ cho rằng về sau các nhà biên soạn nhầm cách gọi niên hiệu Thiên Hưng thứ 1 với năm Diên Ninh thứ 6 (vì cùng là năm 1459 theo công lịch) nên ghi là Nguyễn Trực đi sứ vào năm Diên Ninh thứ 6 thì cũng không có gì liên quan đến việc ông đỗ đạt ở bên đó. Giả thiết, ông có tham gia vào đoàn đi sứ Minh năm ấy, thì cái chuyện ông dự thi và đậu trạng nguyên với triều Minh là một sự kiện chấn động, chi ít cũng phải được ghi chép trong ĐVSKTT chứ ? Quả thật, không thể tin nổi, nếu có một sự kiện vẻ vang về uy tín cá nhân mà còn nâng tầm ảnh hưởng tới danh dự quốc thể nhường ấy, lại bị sử thần Ngô Sĩ Liên, vốn là người thi đỗ cùng khoa và làm quan cùng thời với Nguyễn Trực lại bỏ qua, không nói đến chút nào trong  bộ ĐVSKTT của mình ?

          Liệu có việc ông dự khoa thi với triều Minh và lại đậu trạng nguyên không, khi mà ĐVSKTT không hề đả động gì ?

          Gần đây, tham khảo bài viết Nguyễn Trực, tấm gương vê trí học-nhân học của tác giả Phan Tuấn đăng trên Tạp chí Xưa Nay số 287, tháng 7 năm 2007, có đoạn viết : "Năm 1444 ông (Nguyễn Trực) cùng bảng nhãn Trịnh Thiết Tường, bạn cùng khoa thi đi kinh sứ Trung Hoa , gặp khoa thi được mời dự thi, nhật kỳ thú: Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Trịnh Thiết Tường lại đỗ Bảng nhãn. Vì thế lịch sử có ghi hai ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, Lưỡng quốc bảng nhãn. Nguyễn Trực về nước được vua ban 8 chữ : "Thánh công danh văn. Bắc triều hiền ngã".

          Tra cứu sách ĐVSKTT xem năm 1444 ghi chép gì? Ấy là năm Giáp Tý, Thái Hòa năm thứ 2 (tương đương Minh, Chính thống thứ 9), thấy có chép việc khảo thí học trò bổ làm thuộc lại các ty; việc gộp làm sổ đinh ; việc sai Lê Khôi, Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh Chiêm Thành; việc bắt giam Thái phó Lê Liệt ; việc có động đất, nhật thực, nguyệt thực; và cuối năm ấy có việc đi sứ nhà Minh. Sách chép là : " Tháng 11, sai sứ sang nước Minh : Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là Lê Quát sang cống nộp hằng năm. Tham tri Đông đạo là Nguyễn Lan sang tâu việc địa giới Khâm Châu". Như vậy không hề thấy tên Nguyễn Trực và Trịnh Thiết Tường. Không hiểu tác giả bài viết trên lấy tư liệu từ đâu để khẳng định sự kiện đó? Lại càng khó tin hơn, khi tác giả này có lẽ đã nhầm với Trịnh Khiết Trường. Không có Trịnh Khiết Tường nào cùng khoa thi với Nguyễn Trực, mà chỉ có bảng nhãn Trịnh Khiết Trường. Theo sách Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam của tác giả Trần Hồng Đức biên soạn (Hội khoa học lịch sử Việt Nam-NXB Thông tin năm 1999) thì Trịnh Khiết Trường (sau này còn được tuyển làm phò mã) quê Thanh Hóa đỗ Bảng nhãn khoa thi Mậu Thìn, Thái Hòa năm thứ 6 (1448) triều Lê Nhân Tông  cùng khoa này, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ Trạng nguyên, Chu Thiêm Uy đỗ Thám hoa), tức là thi đỗ 6 năm sau Nguyễn Trực. Việc này sách ĐVSKTT cũng nói đến. Đối chiếu thêm với chính cuốn sách này của soạn giả Trần Hồng Đức, phần về trạng nguyên Nguyễn Trực, có nói ông từng đi sứ nhà Minh, song không hề nhắc gì việc ông là Lưỡng quốc trạng nguyên cả.

          Cũng có một căn cứ nữa để tham khảo sự kiện này, đó là sách Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông (NXB Văn học, 1982). Sách này có bài thơ Điếu Nghĩa Bang trạng nguyên (Viếng trạng nguyên làng Nghĩa Bang). Nghĩa Bang trạng nguyên ở đây là chỉ Nguyễn Trực, bởi ông tuy quê ở Bối Khê, Thanh Oai (Hà Tây), song từ đời cha ông là Nguyễn Thì Trung, chạy giặc Minh, đã rời sang sinh sống tại Nghĩa Bang, trấn Sơn Tây, nay thuộc Quốc Oai (Hà Tây) và sinh ra ông ở đó. Bài thơ được phiên âm là :

                   " Đời dõi nho tông phát ấp bang

                    Trong đạo đức, có từ chương

                     Nối dòng thi lễ nhà truyền báu

                    Tranh giải  khôi nguyên bảng chói vàng

                     Nam Bắc hai triều danh dậy

                     Phong lưu một cửa họ sang

                     Từ đường ở đấy niềm tây lạnh

                     Dấu cũ càng thơm xạ có hương "

          Hai câu thơ Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng/ Nam Bắc hai triều danh dậy, được các tác giả biên soạn sách là Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú giải như sau : "Nguyễn Trực ở trong nước đỗ trạng nguyên, khi phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp nhà Minh mở khoa thi, ông xin vào dự thi, lại được đỗ ca ". Như vậy, cũng chỉ là những lời phán chung chung thế thôi, chứ các soạn giả cũng không chỉ rõ được là khoa thi năm nào, đỗ cao thì cụ thể là gì (bởi từ tiến sĩ trở lên đều coi là đỗ cao). Nếu cứ cho là trong một lần đi sứ nào đó, nhân gặp khoa thi ông có ứng thí tại một khoa thi dưới triều Minh, rồi đỗ đạt thật, thì cũng khó có thể là trạng nguyên, bởi Trung Hoa từ xa xưa luôn tự xưng là Thiên triều, coi các quốc gia lân bang, trong đó có An Nam chỉ là chư hầu (bằng chứng là việc các vua Việt Nam thường bị các vua Trung Hoa phong cho là An Nam quốc vương và ta luôn phải giữ lệ cống nộp hằng năm) , là man di mọi rợ, và với bản tính tự cao tự đại cố hữu, thì vua Minh cũng chẳng thể chấp nhận việc cho sứ thần chư hầu đỗ trạng nguyên (mặc dù họ có thật sự xuất sắc, đáng đỗ trạng nguyên đi chăng nữa).

          Thêm nữa, ngay trong phần Lời nói đầu, các tác giả biên soạn HĐQATT cho biết, sách này là một tập thơ chỉ được sưu tầm về sau, chứ không phải được biên soạn từ thời Hồng Đức, vì thế ở trong sách có sự lẫn lộn một số bài thơ của người đời sau, chẳng hạn như của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Căn. Điều này làm cho độ tin cậy của sách này ít nhiều giảm đi, nhất là khi đem căn cứ từ thơ vịnh để suy ra sự thật lịch sử.

          Nguyên việc Nguyễn Trực có phải là Lưỡng quốc trạng nguyên không, thì theo sử cũ, duy có bộ LTHCLC của Phan Huy Chú là có nói đến, song lại không ghi rõ năm nào, khoa thi nào của triều Minh. Quả là khó biết, khi biên soạn sách, phần về Nguyễn Trực, tác giả Phan Huy Chú đã lấy nguồn từ đâu để viết vào sách của mình việc Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên? Cứ căn cứ ngay chính phần Phan Huy Chú biên soạn thì cũng có thể thấy, về sự kiện đó, tác giả cũng không tường nên chỉ nói chung chung vậy, chứ không dẫn dụ được năm tháng, khoa thi xảy ra sự việc đó. Thế nên, khi Ngô Sĩ Liên là người cùng thời đó còn không viết gì trong bộ ĐVSKTT của mình, thì ai dám chắc, hơn 300 năm sau, Phan Huy Chú chính xác trong việc ghi lại sự kiện tày trời đó. Phải chăng, khi ấy Phan Huy Chú cũng chỉ ghi từ giai thoại dân gian mà thôi. 

          Có một điểm khá thống nhất, các sách đều viết rằng Nguyễn Trực là một người sống thanh khiết, không xu thời, lánh xa vinh hoa phú quý. Hẳn vì thế, nên mặc dù đỗ trạng nguyên, song quan lộ cũng không mấy hanh thông, lại càng kém hơn so với hai vị cùng khoa là Nguyễn Như Đổ và Lương Như Hộc. Tìm trong sách ĐVSKTT, người ta có thể thấy được sự thăng tiến vinh hiển vượt bậc của hai vị kia, thì riêng ông, chỉ được nhắc đến có 3 lần. Ấy là, vào năm Kỷ Tỵ, Thái Hòa thứ 7, 1449, ông được làm Hàn lâm viện thị giảng; vào năm Canh Thìn, Quang Thuận thứ 1, 1460, vua Lê Thánh Tông sai ông cùng với Nguyễn Bá Kỳ soạn văn bia Mục lăng (tức lăng vua Lê Nhân Tông) ; và vào năm Kỷ Sửu, l469 , vua lấy ông khi đó là Hàn lâm viện thừa chỉ , cùng với Vũ Vĩnh Ninh, Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm Độc quyển kỳ thi hội năm ấy.

          Thật tiếc, tác giả bài viết này chưa có điều kiện để tra cứu thêm Minh sử  (hoặc những sách và tài liệu khác) nhằm xem các sử gia Trung Hoa có biết gì và viết ra sao về sự kiện này không?

          Thiết nghĩ, trong khi việc xác nhận Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên chưa đầy đủ cơ sở, mà việc bác bỏ cũng chưa mấy thuyết phục, thì chúng ta cứ xem Nguyễn Trực từng là Lưỡng quốc trạng nguyên đi. Âu như một giai thoại dân gian, như chuyện kể về Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Chân (chuyện dân gian Tống Chân - Cúc Hoa), hoặc giả như rất nhiều những câu chuyện trạng dân gian khác, và xem đó như một câu chuyện khuyến học, khuyến tài cho hậu thế. Vậy cũng là hữu ích. Còn như nghiên cứu, viết sách thì lại là việc làm khoa học, cần nghiêm túc, cẩn trọng và chính xác, nên mong rằng các học giả hãy thận trọng với sự kiện này khi viết về Trạng nguyên Nguyễn Trực.

          Đã là người thiên cổ, được sử sách ghi danh, lại xa cách chúng ta  những gần 600 trăm năm rồi, hẳn là Nguyễn Trực cũng không vui khi hậu thế tôn là Lưỡng quốc trạng nguyên, mà cũng chẳng buồn khi không phải vậy !

          Về với thiên nhiên, ông như cây cỏ, mưa xuân thì mọc !...

 

3. Thơ văn còn lại những gì ?

 

Về Trạng nguyên Nguyễn Trực, tôi còn muốn tìm xem những bài thơ của ông lưu truyền hậu thế. Hy vọng qua đó, phần nào hiểu thêm con người ông, từ tính cách thanh cao đến tâm trạng xa lánh vinh hoa và muốn lui về ở ẩn của ông.

          Thật may. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần Văn tịch chí có nhắc đến 3 tập thi văn của Nguyễn Trực, đó là Vu liêu tập, Ngu nhàn tập, Kinh nghĩa chư văn tân tập, song đều  ghi chú là không rõ mấy quyển. Sách này còn chép : "Trạng nguyên Nguyễn Trực soạn, học trò biên sắp. Cả tập mất nhiều, nay còn vài chục bài. Lời và ý thanh nhã đáng ưa". Sách liệt kê 4 bài, nay xin chép cả ra đây để tiện cho việc tham khảo, bình luận :

         

          Bài 1:  Ngẫu tác

                    Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu kinh

                    Quy kế như kim nhất vị thành

                    Hà nhật Tây Sơn sơn hà lộ

                    Soa y tiểu lạp khán xuân xanh .

          (Dịch)

                    Có bệnh, nhờ ơn vua lưu lại ở Kinh,

                    Tính đường về mãi mà đến nay vẫn chưa được,

                    Biết ngày nào được đi con đường ở dưới chân núi Tây Sơn,

                    Đội nón nhỏ, mặc áo tơi, đi xem cày ruộng mùa xuân.

 

          Bài 2 : Bính Tuất ngâm

                    Đại đình tằng đối tam thiên tự,

                    Phù thế hư kinh ngũ thập niên,

                    Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh

                    Chí nhân đa bệnh ức điền viên.

          (Dịch)

                    Ở sân vua từng làm bài đối sách ba ngàn chữ,

                    Giật mình về việc đã năm mươi năm trời đuổi theo

                    cái hư danh của thời thế,

                    Chỉ vì lắm bệnh, nhớ cảnh điền viên.

 

          Bài 3:  Đề chùa Cực Lạc (thuộc Ý Yên, Nam Định)

                     Đột ngột vân gian tự,

                     Nhân sinh kỷ độ qua ?

                     U nham tàng Phật tích,

                     Tiếu bích ỷ tăng gia.

                     Địa viễn phi trần thiểu,

                     Sơn cao đức nguyệt đa,

                     Thượng nhân lưu khách túc

                     Ổi vụ hựu phanh trà.

          (Dịch): 

                       Chùa cao chót vót ở trên mây

                        Bởi người dễ mấy lần được đến

                        Hang sâu dấu vết Phật

                        Vách núi dựa nhà tăng,

                        Xa đất nên ít bụi,

                        Trên cao được trăng nhiều.

                        Nhà sư lưu khách lại,

                        Nướng khoai lại pha trà.

         

          Bài 4 :   Lên chùa Hương Lô

                       Tằng tằng đăng nghiễn lộ,

                       Thừa hứng yết kim tiên,

                       Diệu khế tam sinh mộng,

                       Do tồn nhất lũ yên.

                        Lâu đài phi thế hữu,

                        Thảo mộc đắc xuân thiên.

                        Du mục phù vân ngoại,

                        Mang mang thị Đại thiên.

 

          (Dịch):  

                         Tằng tằng đường leo núi,

                         Thừa hứng lên yết Phật,

                         Khéo hợp mộng ba sinh,

                         Vẫn còn một tia khói.

                         Lâu đài này không phải người trần có được,

                         Cỏ cây lúc nào cũng mùa xuân.

                         Đưa mắt ngoài mây nổi,

                       Mông mông ấy thế giới Tam thiên.

          Có lẽ trong số 6 bài thơ còn lại được chép trong bộ Toàn Việt thi lục (TVTL) có 4 bài này. Nhìn chung, đều mang tâm trạng muốn rời xa chốn quan trường lui về ở ẩn chốn sơn lâm, chữa bệnh, tu dưỡng tinh thần, nuôi dạy con cái, gõ đầu trẻ, và chăm lo việc thiện.... Cũng có thể xem như thái độ "trốn việc quan đi ở chù " vậy .

          Học giả Phan Huy Chú sau khi dẫn dụ rằng, đến thời Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, nhờ văn chương nên Nguyễn Trực càng được vua yêu, được bổ làm quan to (Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh), song ông vẫn mấy lần xin về ở ngôi nhà tranh ở Tây Sơn mà vua không cho, nên mới có gửi gắm nỗi niềm tâm sự vậy. Qua đó, Phan Huy Chú bình : "Xem đấy đủ rõ phong độ và tiết tháo của ông ". Sách dẫn tiếp : "Ông đỗ đầu đại khoa, ra làm quan mà coi rẻ công danh, thường có ý muốn chóng về. Thân Nhân Trung (một thành viên trong Nhị thập bát tú , Phó súy Tao đàn thời Hồng Đức) có khen ông là: Lấy văn chương được các triều tri ngộ mà khiêm tốn kính cẩn giữ vẹn sau trước . Thực là lời phê bình xác đáng ".

          Quả là sau những lời bình của các bậc danh tài túc nho như vậy, há không cần bình phẩm gì thêm. Tuy nhiên, nếu truy nguyên để bồi đắp thì hẳn cũng không thừa ?

          Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn , quyển V-Tài phẩm, thấy chép về Nguyễn Trực : "Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên lúc còn ít tuổi, giao thiệp đối đáp với sứ nhà Minh là Hoàng Gián, một lúc họa xong 50 vần thơ lưu biệt, có thể giữ được thể diện trong nước. Nhân Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà vẽ tượng truyền thần, để ở bên cạnh chỗ ngồi, để tỏ ra rằng không lúc nào quên được. Thánh Tông sai người đem bộ Thiên Nam dư hạ tập (tập thơ của Lê Thánh Tông) đến chỗ ở là đình Hoàn Bích để tiện phê duyệt. Đều là sủng ngộ đặc biệt ".

          Được những hai vị vua sủng ái như vậy thì cũng là hiếm, vậy sao ông vẫn muốn sớm cáo bệnh lui về ở ẩn với nếp sống thanh nhàn? Phải chăng, ngay chính năm ông đỗ trạng nguyên thì đã xảy ra liên tiếp các sự kiện kinh thiên động địa  như đã liệt kê ở phần 2) khiến ông sớm kinh hãi rồi sinh chán ngán chốn quan trường? Tài danh và công lao nhất mực như Hành khiển Nguyễn Trãi còn bị vu oan tru di đến 3 đời; các công thần từ thời Lê Thái Tổ thì tranh giành quyền lực, thanh toán lẫn nhau theo cái lối do chính Thái Tổ sử dụng là hết thỏ thì đập chó săn; rồi các phi tần thì ngấm ngầm lôi kéo quan lại và nội thị kết thành bè cánh tranh giành ảnh hưởng nhằm tiêu diệt nhau để ngoi lên? Ngay trong triều, thấy những quan lại đồng khoa, và sau mình (như Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc, Nguyễn Nghiêu Tư...) thăng trầm quan lộ, có thể làm ông ngán ngẩm?

          Lại nữa, cũng có phần ông chịu ảnh hưởng di truyền và cả sự dạy bảo từ các bậc tiền bối, nhất là cha mình, Nguyễn Thì Trung vốn là Giáo thụ trong Quốc Tử Giám? Sách KVTL, học giả Lê Quý Đôn chép về người cha của Nguyễn Trực: "Nguyễn Thì Trung, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, dưới triều nhà Trần, ông tổ tên là Hữu, giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm hình viện sứ, cha tên là Bính, giữ chức nho học Huấn đạo. Thì Trung là người có văn học, nối dõi được gia phong...  Sau khi Thái Tổ đã bình định được cả nước, hào kiệt, nho sinh, văn sĩ các lộ đều tranh nhau đến bái yết, kẻ trước người sau đều được trao cho quan chức, chỉ có Thì Trung có ý nhạt nhẽo không cầu hiển đạt làm quan. Đến đầu triều Thái Tông, hạ chiếu tìm hỏi những hiền tài còn bị bỏ rơi, nghe biết ông là người có văn học đức hạnh, nhà vua ra đặc chỉ tuyên triệu, hạ lệnh cho sở tại cố khuyên mời ông đến kinh sư, cho giữ thư khố ở Quốc Tử giám, mùa thu năm thứ 2 (1435) nhà vua ngự điện Hội Anh, ra bài thi, ông dự thi được trúng cách, cho thăng một tư, giữ chức Thị thư ban, sau thăng chức Giáo thụ trong Quốc Tử giám. Chưa được bao lâu, liền xin thôi làm quan, lui về ở chốn lâm tuyền, giảng sách dạy con, vui vẻ tự do, xa gần nhiều người theo học. Lúc mất, đặt tên thụy là Như Ngu cư sĩ (chữ Ngu ở đây được hiểu là sự yên vui - TG )... Văn chương của Nguyễn Thì Trung tuy không lưu truyền hết, nhưng xem bài thơ tiễn viên giáo thụ họ Trình về trí sĩ và một bài khi ông về trí sĩ lưu lại để từ biệt viên giám sinh họ Hồ cũng có thể tưởng tượng biết được phong vận thơ văn của ông ".

          Đã rõ ràng, qua phần chép và bình phẩm của Lê Quý Đôn, ngay từ trứng nước, Nguyễn Trực đã thừa hưởng di truyền tố chất để làm nên bản tính thanh cao từ bậc cha ông, thêm vào đó, sự dạy dỗ tận tình của người cha đã sớm định hình phẩm chất cao quý trong con người Nguyễn Trực. Không những ông không xu thời và biết xa lánh bả quyền quý vinh hoa, Nguyễn Trực còn có một phẩm chất đáng quý khác là ông không đố kỵ, biết tôn trọng và nâng đỡ người khác, kể cả khi họ chỉ là bậc dưới về mọi phương diện.  Sách KVTL của Lê Quý Đôn chép :"Lê Hoằng Dục, con Thái phó Lê Văn Linh, học vấn rộng khắp đầy đủ, thơ từ thanh cao phóng khoáng... thường cảm hứng làm 10 bài thơ Giang thành ngẫu thành, lúc Thánh Tông còn ở phủ đệ phiên vương, lấy làm thích lắm, theo vần họa lại, sau khi lên ngôi vua hạ lênh cho từ thần là Nguyễn Trực phê bình, phần nhiều khen ngợi ...". Cũng sách này còn chép: "Bản triều lại có Nguyễn Bảo (người xã Phương Lai, huyện Vũ Tiên, nay thuộc Thái Bình)  đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472) niên hiệu Hồng Đức. Trung thư lệnh là Nguyễn Trực yêu thích văn chương của Nguyễn Bảo, tìm đến xem mặt và nói : ‘Già này chấm văn kỳ đệ nhị, mãi sau được chấm bài của ông, về lời lẽ bài chiếu "phục lập phó bí" (dựng lại bia đã đánh đổ , tài tình ở chỗ nói rõ được bụng ăn năn hối lỗi của Đường Thái Tông, các sĩ tử không thể theo kịp được, già này nêu rõ ra là bài ấy đứng vào hàng văn kiệt tác. Từ nay về sau, nghĩa lý trong Kinh sách thánh hiền, ký thác vào ông cả"... Quả nhiên, sau này Nguyễn Bảo rất hanh thông về quan lộ, thăng đến chức Thượng thư bộ Lễ, giữ chức ở viện Hàn lâm dưới triều Lê Hiến Tông, có đóng góp nhiều cho triều chính.

          Truyền thống nho gia nhiều đời tiếp nối qua ông đến tận con cháu. Cháu ngoại của Nguyễn Trực là Nguyễn Ích Tốn, hẳn là được thừa hưởng từ ông ngoại mình không những sự di truyền mà cả sự giáo dưỡng. Nguyễn Ích Tốn đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 15 (1483), cũng là một thành viên trong Nhị thập bát tú của Tao đàn  do chính Lê Thánh Tông làm chủ súy dưới thời Hồng Đức (Theo sách Hồng Đức quốc âm thi tập - NXB Văn học,1982).

          Có một việc, theo tôi cũng nên xác định cho rõ, đó tên tác phẩm của Nguyễn Trực được các sách chép khác nhau. Không kể các tác phẩm Ngu Nhàn tập, Kinh nghĩa chu văn tân tập, và văn bia Mục lăng (soạn cùng Nguyễn Bá Kỳ theo lệnh của vua Lê Thánh Tông) thì tên một thi văn tập khác của ông lại được chép khác nhau. Cụ thể là :

          - Vu liêu tập (Theo sách LTHCLC của Phan Huy Trú).

          - Trừ liêu tập (Theo sách Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam của nhóm Đinh Xuân Lâm -Trương Hữu Quýnh biên soạn).

          - Hu liêu tập (Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam của nhóm Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga-Nguyễn Hữu Mùi biên soạn). Sách này còn đống nhất Hu liêu tập với Bối Khê thi tập  là một .

          Thậm chí, có sách còn chép là Sư liêu tập. Vậy thì tên gọi nào là đúng? Rất tiếc là phần lớn các sách, khi biên soạn xuất bản, đều không kèm mẫu tự chữ Hán, mà chỉ có tên Hán Việt phiên âm mẫu tự Latin, nên thật khó tra cứu. Trong số các sách dẫn ra đây, duy bộ Các nhà khoa bảng Việt Nam là có in kèm tên bằng mẫu tự chữ Hán (chép đủ cả tên chính Nguyễn Trực, tên tự Công Đĩnh, hiệu Hu Liêu, tên tác phẩm- Hu Liêu tập). Căn cứ vào mẫu tự chữ Hán, tra cứu Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, thì không phải là Hu, mà phải đọc là Vu (chỉ tên một loài cây xấu, không dùng làm được việc gì, còn có nghĩa bóng để chỉ loại người vô dụng) ; còn chữ Liêu, cũng theo từ điển nêu trên, có nghĩa là cửa sổ nhỏ-mà cũng chỉ việc làm quan cùng nhau (ví như : đồng liêu - cùng làm quan với nhau ).

          Nếu căn cứ vào đó, thì tên hiệu của Nguyễn Trực là Vu liêu (chứ không phải là Hu Liêu). Có lẽ đây là một cách lấy tên hiệu kiểu tự biếm, tự nhận mình là người vô dụng, thể hiện bản chất khiêm nhường, muốn xa lánh chốn đình trung của Nguyễn Trực chăng? Cùng với hiệu là Vu liêu, thì tác phẩm là Vu liêu tập. Điều này đúng với cách gọi trong sách LTHCLC của Phan Huy Chú ./.

 

 

 

THÁI SINH -

Chưa bao giờ ta lại thèm viết như lúc này...

 

Đây là những dòng tâm sự nghẹn lòng của nhà văn Thái Sinh trên giường bệnh trong thời gian ông chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ung thư mật giai đoạn cuối. Khi sức lực đã yếu, một lần ông để lộ sự ngã lòng viết trên trang cá nhân: “Chưa bao giờ ta lại thèm viết như lúc này. Đầu óc đầy ắp tư liệu, nhưng bàn tay không chịu sự điều khiển. Muốn khóc mà không khóc được. Ông trời còn hành ta dến bao giờ?”. Ngã lòng vậy, đương nhiên, khi một người thấy cái chết dần đến gần mình mỗi ngày, nhưng rồi Thái Sinh lại tự vực mình dậy, khi dẫn lời bạn bè báo chí văn chương đến thăm ông động viên: “.... Hoàng Anh bảo, Thái sinh là người không sợ trời không sợ đất thì chiến thắng bệnh tật là chuyện bình thường” ...

            Lần giở những ngày tháng Thái Sinh giành giật với cái chết mỗi ngày khi ông gắng gượng gõ máy tính trên giường bệnh, rút ruột gan viết những trang văn cuối đời mình, chân dung bạn bè văn nghệ sĩ từng một thời gian khó cùng ông,...

            Tôi nhớ, vào quãng giữa năm 2021, khi dịch Covid 19 còn mù trời, Tạp chí Nhà văn & cuộc sống (Hội Nhà văn Việt nam) phát động cuộc thi viết Chân dung cuộc sống, tôi gọi điện thông báo và đặt bài Thái Sinh, ông hào hứng nhận lời nhưng rồi  ỉu xìu ngay, bảo “Tôi đang có vấn đề về sức khỏe ông ạ.... Nhưng tôi sẽ gắng,... dự thi chỉ là một chuyện thôi, song viết được gì cũng là viết cho mình, cho anh em bạn bè nữa ...”.

Bẵng đi, rồi tôi nhận bài viết của Thái Sinh, kèm ảnh, về nhà thơ dân tộc Pa Dí, Pờ Sảo Mìn. Tôi đọc thấy thích, chuyển bộ phận biên tập chung nhưng lâu không thấy xếp số (có lẽ do bài về nhiều quá), tôi đành phải khiếu đến nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tập, nhắc nhở, bài mới vào số. Ít lâu sau, tình cờ mục sở thị nhà thơ Pờ Sảo Mìn về xuôi, ghé thăm tòa soạn, tôi gặp ông nhà thơ này, ngẫm chân dung Thái Sinh phác họa Pờ Sảo Mìn, thấy thú vị làm sao,...

           Tôi biết tên tuổi nhà văn Thái Sinh lâu rồi, thời Thái Sinh mới về đầu quân báo Nông nghiệp Việt Nam (NNVN), còn tôi khi ấy cũng là cộng tác thưòng xuyên của tờ báo này. Rồi chạm mặt, gặp loáng thoáng vài ba lần ở Trụ sở tòa soạn trên phố Ngô Quyền, Hà Nội mỗi dịp họp hành hay tổng kết cuối năm gì đấy. Thú thật, khi đó tôi chưa mấy đọc văn Thái Sinh, nên không bàn chuyện văn thơ, tuy nhiên, những bài phóng sự, ký sự về miền núi Tây Bắc của Thái Sinh gây ấn tượng tốt với tôi. Tôi nể Thái Sinh, trước hết bởi sự dấn thân, từng trải, hiểu biết vùng đất và con người Tây Bắc, còn bởi tính nghiêm trọng của vấn đề đặt ra, cùng hái độ, trách nhiệm cảu người cầm bút. Cùng là dân làm báo chuyên nghiệp với nhau, đọc dăm bài báo của nhau là “ngửi” ra ngay cái chất của người viết, để rồi nể trọng hay không. Thế đấy. Và tôi thực sự nể trọng Thái Sinh với tư cách người làm báo. Tôi có tìm hiểu thêm về Thái Sinh, qua người bạn học của tôi, nhà báo Trịnh Bá Ninh (Phó Tổng biên tập Báo NNVN), biết Thái Sinh từng làm việc ở Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), rồi báo Lào Cai trước khi về đầu quân giữ chân thường trú Báo NNVN khu vực Tây Bắc. Xa hơn nữa, khi còn trẻ, Thái Sinh là giáo viên lên vùng núi Than Uyên, Lai Châu dạy học, dù quê ở Phúc Thọ, Hà Tây,...

           Ngày ấy, Thái Sinh thuộc những người cầm bút trẻ, như tôi, vả lại người viết văn chưa đông như bây giờ, nên mỗi khi ngó thấy trên báo chí có cái tên mới là dọc kỹ, đặng thầm so sánh với mình, với người này kẻ nọ, hoặc học lỏm của nhau,... Năm 1993, tôi xuất bản tập truyện ngắn đầu tay “Đêm nguyệt thực” (NXB Hà Nội,1993) vào giải cuộc thi truyện ngắn về đề tài Hà Nội, thì Thái Sinh bắt đầu nổi lên khi giật giải Nhì cuộc thi truyện ngắn (dưới 1.000 từ) của Thế Giới Mới với truyện Thuyền Lá. Tôi nhớ không nhầm, kỳ thi ấy Phan Thị Vàng Anh (ái nữ của nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường) giành giải Nhất với truyện Hoa Muộn thì phải. Thú thật, cuộc thi ấy tôi lưỡng lự muốn dự thi, nhưng rốt cuộc lại thôi. Thế nên, tôi đọc kỹ mấy tác phẩm giải cao ấy lắm, bụng thầm nể trọng. Cái tên Thái Sinh in vào đầu tôi từ đấy,...

             Cuộc sống bận mải, tôi có thấy đâu đó truyện củaThái Sinh trần báo, nhưng cũng ít đọc, ngoài những phóng sự, ký sự đăng trên báo NNVN nơi ông là phóng viên thường trú, biết ông vẫn túc tắc viết văn (truyện ngắn, tiểu thuyết) và làm thơ. Mãi đầu năm 2018, trong một đám cưới ở Hà Nội, tình cờ, chúng tôi ngồi cùng mâm với nhau, tôi giữa Thái Sinh và nhà văn Văn Chinh. Vài lần cụng ly câu chuyện của chúng tôi thêm phần cởi mở. Sau cuộc gặp mặt mấy, tôi và Thái Sinh kết bạn “mạng xã hội” và kể từ đó, hai người đọc nhau khá đều, ghi comment, thích thì chat messinger, lâu lâu lại alo buôn chuyện này nọ. Thái Sinh có hai trang trên Facebook, một tên Thái Sinh và một tên Thao Dan Nguyen và chịu khó lên bài đều cả hai. Điều này cho thấy ông rất tích cực sử dụng mạng xã hội và hiểu rõ công dụng của chúng. Cùng về hưu, nhưng cả hai cùng làm thêm, Thái Sinh vẫn bám trụ vùng Tây Bắc cho Báo NNVN, còn tôi thì làm cho VTC (Đài truyền hình kỹ thuật số), rồi trang Web và Tạp chí Nhà văn & cuộc sống của Hội Nhà văn Việt Nam. Cùng với văn chương, chúng tôi có nhiều chuyện khác để nói . Quãng thời gian này, Thái Sinh túc tắc đăng tải “Chuyện làng Tào” trên trang cá nhân. Ở đó, các câu chuyện được kể bằng giọng văn châm biếm, hài hước và chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên bức tranh rất sinh động về một làng quê Bắc bộ, đâu như làng Ngọc Tảo quê ông chẳng hạn... Đọc ông nhiều, tôi dần nhận ra và thêm hiểu chất văn, chất người Thái Sinh,...

                                              

1. Khát vọng văn chương & Sự dấn thân,

           Rời quê, Ngọc Tảo. Phúc Thọ, Hà Tây, một vùng đất trù phú đậm đặc trầm tích văn hóa đồng bằng Bắc bộ. chàng trai trẻ Nguyễn Đình Sinh (tên thật của Thái Sinh) lên Than Uyên, Lai Châu xa tít mù, làm nghề gõ đầu trẻ, hẳn khi ấy, chẳng bao giờ chàng trai trẻ này nghĩ mình trở thành nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp.

          Để nên một Thái Sinh, như chúng ta biết, con người và tác phẩm, tôi nghĩ, có hai yếu tố cơ bản, khát vọng văn chương và sự dấn thân. Thái Sinh đã đi theo con đường, cái cách mà các bậc đàn anh lớp trước đã đi, những thầy giáo miền xuôi lên vùng cao dạy học, như Vũ Đình Minh, Bùi Nguyên Khiết, Nguyễn Thái Vận,... Dạy học, đương nhiên là một nghề cao quý, xã hội xưa nay vẫn tôn vinh. Nếu chỉ đơn thuần lập thân, lập nghiệp, vậy là ổn, song khát vọng văn chương (lập ngôn) lại thôi thúc tâm can. Chẳng đành lòng và thế là thầy giáo trẻ Nguyễn Đình Sinh cầm bút. Dấn thân thôi. Nuôi mộng văn chương, ấy là khao khát nội tâm, nhưng với Thái Sinh khi đó còn là chiếc cầu duy nhất nối người thầy giáo trẻ miền xuôi lên miền ngược này với đời sống xã hội bên ngoài,... Chỉ có viết văn, bằng  cách này, thầy giáo  Nguyễn Đình Sinh mon men dần sang nghiệp văn chương, báo chí. Quả nhiên, chàng ta đạt được mục đích. Chẳng rõ, Thái Sinh có yêu nghề gõ đầu trẻ hay không, nhưng chắc chắn không ghét nó. Chẳng qua, công việc đó ít nhiều bó buộc chân cẳng, không thể đi xa, nên đành rời bỏ thôi. Người ta có thể quên những truyện ngắn thuở ban đầu của cây bút trẻ Thái Sinh như “Con sáo biết nói”, “Người ngồi trước tôi hai hàng ghế”, “Rừng có nhiều hoa cúc dại”... song khó có thể quên “Thuyền lá”, cái truyện ngắn dưới một ngàn từ đoạt giải cao một cuộc thi truyện ngắn đặc biệt, khiến độc giả biết đến tên Thái Sinh. Thông điệp của truyện ấy thì đã rõ, cái ước mơ mong manh hão huyền ấy thì trẻ con ai cũng từng có, nhưng chuyển hóa nó thành một hình tượng văn học thì chẳng dễ chút nào. Vậy mà Thái Sinh đã làm được chỉ bằng ngần ấy chữ... Tôi đã quên không hỏi ông, mà tốt nhất là không nên hỏi, rằng cái thời đương trai gõ đầu trẻ con ở nơi thâm sơn cùng cốc Than Uyên (Lai Châu) ấy, thầy giáo Nguyễn Đình Sinh có bày cho lũ học sinh nhãi ranh của mình chơi trò thả thuyền lá xuống suối cùng những kời ước hay không? Rất có thể lắm chứ. Để rồi sau này, Thái Sinh ký thác vào truyện ngắn Thuyền lá. Mà đâu chỉ trẻ con, cả người lớn đấy chứ. Viết truyện gửi đăng báo, gửi dự thi, Thái Sinh đã làm cái việc thả những chiếc thuyền lá mong manh, và một trong số ấy đã mang mơ ước của chủ nhân ra tận cửa sóng để hòa vào biển cả bao la,... Hình dung này của tôi về buổi ban đầu Thái Sinh đến với văn chương càng được củng cố thêm khi mà mới đây tôi đọc một status của nhà văn Đỗ Bích Thúy. Ở đấy, Thúy kể câu chuyện rất hay về thời mình bé con đi học trường bản ở vùng cao Vị Xuyên, Hà Giang, rằng những xúc cảm văn chương đầu đời mình có được là từ một cô giáo tên Nhuần gieo mầm,... Với Thái Sinh ngày ấy, tôi nghĩ, không chỉ gieo chữ, giao mơ ước, khát khao cuộc sống cho học trò mà cho cả chính bản thân mình ?!

           Dấn thân, là bước tiếp theo để Thái Sinh chuyển hẳn sang con đường báo chí, văn chương. Rời bỏ một cuộc sống tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng lâu ngày dễ sinh nhàm chán, chuyển hẳn sang nghiệp viết lách, lênh phênh nay đây mai đó đầy bất trắc, ngày đó với Thái Sinh đã là một sự dấn thân rồi. Song thú vị là cái chắc. Với một người đầy sức vóc, ham đi, ham tìm tòi, ham viết lách như Thái Sinh, nhưng ngày làm ở Văn nghệ ở Hoàng Liên Sơn hẳn là những ngày tháng thoải mái nhất. Được tiếp xúc hàng ngày, cùng ăn cùng ở, cùng những chuyến đi dài ngày với các văn nghệ sĩ có tiếng mà mình quý trọng, ngưỡng mộ bấy nay thì thú vị lắm chứ. Nhưng rồi, đau chỉ yên vui, song gió cũng không ít, nhất là thời điểm chia tách tỉnh, tan đàn xẻ nghé, mỗi người một nơi,... Những chuyện ngày ấy, bao tâm sự buồn vui dồn nén, để sau này, Thái Sinh trút hết gan ruột vào ngòi bút khi ông khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng ông thời gian khó, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Lâm Quý, Dương Soái, Ngọc Bái,... Chuyện người mà ra cả chuyện mình, thân phận mình.

           Song le, dấn thân cho văn nghệ chưa thấm đâu nỗi cực nhọc của nghề làm báo. Để có những phóng sự điều tra, phanh phui vụ tiêu cực này tiêu cực nọ thì gian khổ cực nhọc đã đành mà còn nguy hiểm đến tính mạng không chừng.... Tất cả những cái ấy, Thái Sinh từng trải qua hết khi chuyển sang làm báo (Báo Lào Cai, Báo Nông nghiệp Việt Nam).  Dõi theo mấy chục năm nghiệp báo của Thái Sinh, người ta có thể thấy được nạn phá rừng, nạn buôn bán lâm thổ sản, nạn khái thác và buôn bán trái phép khoáng sản qua biên giới đến mức nào. Báo thôi chưa đủ, Thái Sinh đi bằng hai chân, đưa các vấn đề nóng ấy vào tiểu thuyết của mình. Có thể nói, mấy chục năm qua, Thái Sinh ngang dọc khắp các nẻo đường Tây bắc, không chỗ nào vắng dấu chân ông. Dấn thân gian nan là thế nhưng gặt hái được thành quả  xứng đáng cũng bõ công sức lắm chứ ?!...

                                              

2. Một Thái Sinh nặng nỗi niềm thơ

Người ta rõ ngay diện mạo một nhà báo, nhà văn Thái Sinh mạnh mẽ, xông xáo, sắc sảo, đầy bản lĩnh và trung thực, mà không biết hoặc quên đi một Thái Sinh cũng nặng nỗi niềm thơ,...

Quả là, tôi cũng không mấy biết về thơ Thái Sinh, nên không lạm bàn, suy diễn. Chỉ bạn bè văn chương nghe nói, hồi còn trẻ, khi mới chạm ngõ văn chương, Thái Sinh yêu thơ và từng là một người biên tập thơ có hạng ở Hội văn nghệ tỉnh. Vậy thôi là để thấy Thái Sinh không hề  thơ ơ với thơ. Để ý, các cây bút văn chương xứ ta, hầu hết khởi đầu từ thơ, rồi sau họ mới lựa chọn và theo đuổi thế mạnh riêng của mình.... Tôi tin, Thái Sinh cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Thơ là ngôn ngữ của cõi lòng, là chiếc thuyền chở nỗi buồn con người ta mà, đôi khi còn là phép tu tâm dưỡng tính... Thế nên,  một thầy giáo trẻ miền xuôi lên mạn ngược, tuổi tráng niên thừa sức lực và đầy khao khát lại bị bó chân trong môi trường dạy học, như Thái Sinh, kiểu gì chàng ta cũng thả hồn vào thơ... Thơ Thái Sinh đây: “Nỗi buồn đổ xuống giếng khơi/ Giếng không lấp được em lôi lên bờ/ Trách cho người ấy hững hơ/ Buồn em, em bán, bây giờ ai mua?” (Buồn). Rất có thể, khi đã chọn văn xuôi (bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết) là chủ lực, lại công thêm công việc làm báo bận rộn hàng ngày, Thái Sinh tạm để thơ lắng lại nơi đáy lòng mình,...chờ cơ hội mà bột phát.

Cuộc đời nhiều đổi thay, thăng trầm, có thời gian Thái Sinh tưởng chừng mất việc, những lúc lòng trịu năng nỗi đau đời như vậy, hẳn chỉ có thơ là chỗ bấu víu để vực mình vậy. Tiếc là, tôi chưa được đọc thơ Thái Sinh những năm tháng ấy. Có điều này, chăc chắn Thái Sinh không hề thơ ơ với thơ. Ông quan tâm đến thơ bạn bè, mặt bằng thơ nói chung. Dăm năm trước, tôi viết về nhà thơ Vũ Đình Minh, trích nhiều thơ ông, Thái Sinh đọc bài, bị cuốn hút bởi những bài thơ, câu thơ của Vũ Đình Minh hồi nhà thơ này còn dạy học ở Cao Bằng. Thái Sinh ham bàn, bình luận thơ, rồi nhân đó góp chuyện kể thời mình dạy học ở Than Uyên. Có lẽ, thơ Vũ Đình Minh đã vô tình thức dậy trong lòng Thái Sinh ký ức quá vãng, khơi  gợi cảm xúc về một thời lam thầy giáo vùng cao của mình,...

Có một dạo, vài ba năm trước, tôi đăng tải liền mấy trường ca của tôi trên trang cá nhân. Thái Sinh đọc kỹ, tỏ ra thích thú, nhất là các trường ca viết về miền núi là Tây Bắc thương nhớĐất nước nơi đầu núi. Ông hết alo cho tôi, lại chát bảo, rất thú vị. Nếu có chăng, ông chỉ không đồng tình mỗi chi tiết, là tôi có ý chê người vùng cao uống quá nhiều rượu và mòn mỏi vì điều điều Ông bảo, không phải vậy, gần năm chục đi khắp mọi nẻo núi rừng Tây Bắc, từng nhiều năm ăn ở với người đồng rừng, ông nhận thức, người miền núi họ không uống rượu đơn thuần mà “làm bạn với rượu”, họ chỉ nương vào đó để tự vỗ về an ủi mà vượt qua cuộc sống dầy khó khăn bất trắc hàng nagy, vậy thôi. Ngẫm ra, thấy Thái Sinh có lý. Ông cũng rất thích trường ca Con sông tuổi thơ tôi, bởi chăng, Thái Sinh tìm thấy bóng dáng tuổi thơ của chính mình qua trường ca này của tôi? Chưa hẳn, được Thái Sinh khen thơ mà tôi thích ông, còn bởi tôi có thêm người hiểu, đồng cảm và chia sẻ cùng mình. Là người trực tính, ưa nói thật, một khi Thái Sinh đã khen là thực lòng, bởi chưng ông không cần và không quen thói xã giao lấy lòng ai bao giờ ,...

Quãng năm 2021, khi phát bệnh và biết mình mang trọng bệnh,  bằng linh cảm, Thái Sinh ý thức được thời gian sống hữu hạn của mình, chữa bệnh đấy nhưng ông bắt đầu tăng tốc. Với ông, lúc này, viết được cái gì kịp cái ấy... Ở vào thời điểm ấy, Thái Sinh đã ý thức về nơi an nghỉ vĩnh viễn của mình. Đêm 06.9.2021, ông viết bài thơ Nếu: “Nếu ngày mai tôi từ giã cỗi trần/ hãy chôn tôi bên mẹ mình trên quê cha đất tổ/ Nơi cái núm rốn của tôi mẹ chôn dưới gốc khế, gốc đa/ Cuộc đời bể dâu gốc khế, gốc đa cũng không còn nữa/ Cái núm rố của tôi đã hóa đất lâu rồi/ Muốn tìm lại tôi cái thời trèo me trèo sấu/ Đã hóa thành mái tóc phôi pha/ Nay tôi đã già lại muốn về nằm bên mẹ/ Để nghe mẹ kể chuyện ngày xửa ngày xưa... Mẹ dặn chúng tôi- sống gửi thác về/ Sống nhân nghĩa đừng làm điều ác/ Tôi đã sống như điều mẹ dặn/ Nếu tôi mất muốn về với mẹ/ Tôi là con của mẹ, mẹ ơi”. Giờ thì ông được toại nguyện, về bên mẹ mình.

Khi sức lực đã yếu, Thái Sinh vẫn gắng gượng. Tạp chí Nhà văn & cuộc sống in bài viết của Thái Sinh về nhà thơ Pừ Sảo Mìn, tôi chụp ảnh bài viết gửi cho Thái Sinh qua Messinger, hôm sau đọc trang cá nhân của ông, Thái Sinh viết: “Hôm qua đang năm thở vì quá mệt do bệnh tật hoành hành, thì nhận được bài viết của mình đăng trên Tạp chí hà văn & cuộc sống viết về Pờ Sảo Mìn. Đã hứa với Chunhac Nguyen (Nguyễn Chu Nhạc) sẽ viết về những nhà văn mình từng sống và làm việc cùng; Nguyễn Ngọc Bái, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh, Dương Soái,... Đêm qua, đã hình thành bài viết về Lò Ngân Sủn với nhiều chi tiết rất đời c ủa nghệ sĩ nhưng ốm quá lại không mang máy tính, đành cất trong đầu. Về già thường hay nhớ về bạn bè, những người còn sống và những người đã mất”. Thật thương và nghẹn lòng làm sao. Lúc muốn được viết nhất thì Ông Giời lại chẳng cho. Nghẹn lòng hơn, lúc Thái Sinh bất lực, dùng phép thắng lợi tinh thần, ông đã cầu xin làm người quét đền các Vua Hùng: “Con tên là Nguyễn Đình Sinh (Thái Sinh) .... xin các Vua Hùng cho làm người quét đền...

May mà, Thái Sinh còn kịp để lại đôi ba chân dung văn nghệ sĩ bạn bè một thời !...

Tôi tin, cùng với “Thuyền lá” và một số sáng tác khác, các chân dung văn nghệ sĩ anh em bạn bè mà Thái Sinh kịp phác họa trước khi ông rời cõi tạm, sẽ là những chiếc đinh ghim văn chương của ông lại với cuộc đời này !...

 

 

 

Yasunari Kawabata

CHÚA TỂ CỦA NÚI TUYẾT

 

          1. Ngôi vị chúa tể.

Người ấy là Yasunari Kawabata, nhà văn hiện đại của xứ sở Mặt trời và hoa anh đào, người đầu tiên của Nhật Bản được trao giải Nobel văn chương vào năm 1968. Nói đến ông, dân hâm mộ văn chương đều biết đấy là tác giả của bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng làm nên tên tuổi ông trên văn đàn thế giới : Xứ Tuyết- Ngàn cánh hạc- Tiếng rền của núi. Cùng với đó, còn kể đến  Cố đô, Người đẹp say ngủ, Hồ, Đẹp và buồn, Vũ nữ It-zu và biết bao nhiêu truyện vừa, truyện ngắn xuất sắc nữa ...

          Nói đến văn học hiện đại Nhật Bản, với riêng tôi và tin rằng còn bao người khác nữa, Y. Kawabata giữ ngôi vị chúa tể. Sau ông, người ta nhắc tên Kenzaburo Ôe, người Nhật thứ hai giành Nobel văn chương, và mới đây là Haruki Murakami , người được tiên đoán sẽ giành Nobel văn chương trong tương lai, song dẫu thế thì họ cũng khó có thể lật được ngôi vị chúa tể của Y. Kawabata.

          Riêng với tôi, chính Y. Kawabata cùng với những tác phẩm của mình là diện mạo văn chương, và cao hơn là văn hóa Nhật Bản. Shõ-gun tướng quân của tác giả James Clavell, một tác phẩm văn học sử, ít nhiều đã đưa đến mọi người hình ảnh một nước Nhật phong kiến xưa cũ, ở đó bản sắc văn hóa của đất nước mặt trời mọc hiện lên khá phong phú. Tuy nhiên, phải chờ đến  Y. Kawabata, tinh thần và văn hóa Nhật mới được khắc họa đậm nét, được tôn lên hàng đầu.

          Bấy lâu nay, nói đến Nhật Bản, người ta tóm gọn trong mấy cụm từ như sau : Hoa anh đào- Núi Phú Sĩ- Động đất.- Samurai (Võ sĩ đạo)- Trà đạo- Kịch Noh- Thơ Haiku- Trang phục Kimônô- Vật Su-mô- Rượu Sa-kê- Geisha. Theo tôi, nối dài thêm một gạch nữa - Y. Kawabata.

          Như vậy, Y. Kawabata là một đặc sắc của Nhật Bản rồi. Song tại sao lại thế? Đơn giản, bởi Y. Kawabata khiến cả thế giới biết đến văn chương- văn hóa Nhật Bản, không chỉ thông qua các tác phẩm văn chương , mà qua cả chính cuộc sống và cái chết của mình. Tự thân, ông chỉ là một gạch nối, song ông đã chứa đựng trong cuộc sống mình những tố chất của nền văn hóa Nhật Bản và đồng hóa nên các tác phẩm, mà bạn đọc khắp thế giới đều có thể tìm thấy từ đấy nhứng gạch nối kia (hoa anh đào, động đất, núi Phú sĩ, trà đạo, kịch Noh, Geisha...). Câu chuyện về ông, xin bắt đầu từ kết cục là cái chết theo tinh thần Samurai, chỉ không lâu sau khi ông giành Nobel văn chương, vào đầu năm 1972 ...

          Mùa thu năm 2005, tôi sang Tokyo. Chỉ nửa ngày, tôi đã biết thế nào là động đất, khi chiếc giường tôi nằm trong căn phòng tầng 7 ngay trung tâm thành phố, rung nhẹ liền mấy đợt, và khi tôi hiểu ra thì động đất đã chấm dứt. Đúng một ngày sau, truyền hình Nhật Bản liên tục đưa tin hình ảnh Thủ tướng Nhật (khi đó là  ngài Koizomi) đi viếng ngôi đền Yosukoni, cùng những phản ứng của những quốc gia láng giềng. Sở dĩ người ta phản đối là vì trong ngôi đền ấy, không chỉ thờ các vị anh hùng, liệt sĩ từ nhiều đời đã hy sinh, tận tụy vì sự tồn vong và phát triển của đất nước Mặt trời mọc, mà còn có cả mấy chục vị tướng cùng vị thủ tướng Nhật Bản bị quy là tội phạm chiến tranh khi đã cùng quân đội của mình xâm chiếm và tàn sát nhân loại ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tôi đã tự hỏi và đến nay chưa có lời giải đáp, rằng liệu ở đó, có tên của Y.Kawabata không? Hoặc giả ở nước Nhật, có nơi nào thờ các bậc danh nhân tư tưởng văn hóa để lưu tên tuổi của những vị như ông không, kiểu như điện Panthéon ở Paris (Pháp) quàn các danh hào ?

          Trở lại với mùa thu Tokyo năm 2005. Tôi đã được chiêm ngưỡng những cây phong dần ngả vàng, những hàng tơ liễu buông thướt tha dọc hè phố, và tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã đến thăm đền thờ Minh Trị Thiên hoàng xem đám rước tế, chơi ngắm triển lãm cúc hoa-một biểu hiện nhỏ của bon-sai Nhật, rồi lần giở từng chiếc thẻ cầu may của đám học trò trước mùa thi treo đầy dẫy ở đó, và sờ tay lên các vết xước lõm do những đồng chinh của người dân ném cầu phúc lộc thọ năm mới trên những cánh cửa gỗ cửa đền, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã thẩn thơ dạo gót trong công viên hành chính Hibiya, lặng quan sát những họa sĩ cắm cúi trên giá vẽ và những người già ngả lưng mơ ngủ trên ghế đá, rồi quá bộ đi dạo ngang qua Lầu công chúa, qua rừng thông đến tận cổng Hoàng cung để chiêm ngưỡng vẻ cổ kính thâm nghiêm của cổng thành với cặp lính gác đứng im như tượng, tôi nhớ đến Y. Kawabata. Tôi đã bỏ thời gian chui rúc hòa vào dòng người nhung nhúc tuôn chảy theo 13 tuyến metro chằng chịt ngang dọc trong lòng đất sâu, rồi cũng bỏ thời gian theo dõi bầy chim quạ chao liệng lúc chí chéo lúc não nề trên những ngọn cây cao, tôi nhớ đến Kawabata. Tôi đã dán mắt vào màn hình ti vi xem trọn màn kịch Noh dài lê thê mấy giờ đồng hồ buổi đêm, cũng như lang thang cùng đồng nghiệp ken vai chen chúc  nơi dốc phố có cửa hàng đồ lưu niệm Một trăm yên, nơi cách đấy vài trăm thước là quảng trường tụ hội của các cặp đồng tính trong trang phục kỳ quái đua nhau phô diễn, tôi nhớ đến Y. Kawabata.Tôi đã được lên sân thượng của tòa nhà thị chính thành phố cao 45 tầng, để từ đó chụp ảnh và thoải mái phóng tầm mắt bao quát bốn phương tám hướng cái thủ đô hiện đại cỡ bậc nhất thế giới với chiều dài trải gần trăm cây số và chứa mười mấy triệu dân này, tôi nhớ đến  Kawabata... Cho đến khi chiếc Boeing của Vietnam Airlines từ sân bay quốc tế Narita cất mình bay bổng lên bầu trời rồi liệng nửa vòng trên vịnh Tokyo, nghiêng cánh chào rồi bay theo hướng tây nam, đưa du khách trở về với món mì lạnh kiểu Nhật trong bữa ăn trên máy bay, tôi nhớ về Kawabata. Tại sao lại thế, khi ông nhà văn này cứ như hình với bóng bám theo tôi từng bước chân, ám ảnh tôi trong mọi suy nghĩ? Đơn giản là với tôi, Y. Kawabata chính là vẻ đẹp Nhật Bản, là tinh thần Nhật Bản, là văn hóa Nhật Bản, là sự hiển hiện của cả nước Nhật. Vâng, chỉ là một thôi mà cũng là tất cả!

          Tôi nhớ, trong buổi làm việc báo cáo kết quả chuyến đi và cũng là buổi làm việc chia tay với Ban lãnh đạo của Trung tâm y tế quốc tế Nhật Bản, trong ý kiến của mình, tôi dành phần nhiều để nói về đất nước và con người Nhật Bản thông qua những biểu hiện về văn hóa. Tôi nhắc đến tác phẩm Vô ảnh đăng của nhà văn Wantanabe viết về giới y học Nhật Bản, chỉ là mượn cớ để bắc cầu sang  Y. Kawabata. Tôi đã thao thao không rõ bao lâu về văn hóa Nhật được thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn này làm cô phiên dịch tài giỏi cũng hết sức khó khăn trong việc tìm từ chuyển ngữ sang tiếng Anh, đến mức làm các vị tiến sĩ y khoa bạn phải ngạc nhiên không hiểu sao cái ông nhà báo Việt này lại biết lắm thứ về văn hóa Nhật đến vậy. Có lẽ, khi ấy, sự dồn tụ về Y. Kawabata chứa chất trong tôi bao lâu không được giải tỏa, nên đến khi gặp dịp tôi đã tuôn ra trong sự kích động khó kìm nén, khiến mình có gì đó bất nhã bởi đáng lý phải nói về chuyện y học bệnh tật thì lại đi khen một ông nhà văn. Tôi còn nhớ, trong những phút giây như nhập đồng đó, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, lo phía bạn khó chịu vì sự lac đề của mình, nên đã viện diễn rằng, chính người cha thân sinh của Kawabata cũng là một bác sĩ. Sau này tôi rẩm riu, chắc là các vị trong giới y học Nhật Bản cũng không nỡ chê trách khi phải nghe một ông khách nói như phát cuồng về tinh thần, về vẻ đẹp, về văn hóa nước họ, cùng những lới khen ngợi dành cho một nhà văn của họ, người đầu tiên đã mang về cho đất nước họ niềm vinh hạnh, Nobel văn chương.

          Chắc chắn là các vị tiến sĩ y khoa người Nhật hôm ấy không tài nào biết được tôi đã từng đọc ngấu nghiến, rồi nghiễn ngẫm bộ ba kiệt tác của Y. Kawabata là Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, cùng truyện Vũ nữ It-zu, Người đẹp say ngủ , Cố đô, Đẹp và buồn,...đó là những tác phẩm của ông sớm nhất được dịch ra tiếng Việt, và dạo ấy do đời sống xã hội khó khăn nên hầu hết ấn phẩm in bằng loại giấy xấu màu xám đen, xù xì và nét chữ không mấy rõ. Họ cũng không thể biết được là, đúng vào lúc tôi có dịp dạo chơi trên đất nước quê hương của Y. Kawabata để nhìn ngắm mà chiêm nghiệm về những gì nhà văn này đã viết từ nửa đầu thế kỷ trước, và thao thao nói về Y. Kawabata, thì ở Việt Nam, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đang chuẩn bị cho ra đời Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata, dày hơn nghìn trang in trên giấy loại tốt trong kế hoạch Tủ sách Nobel văn học.

          Sau nữa, khi có điều kiện đọc thêm nhiều tác phẩm khác của Kawabata, nhất là Diễn từ Nobel của ông, kể cả bài giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 của Tiến sĩ Anders-Sterling thuộc Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi thấy những cảm nhận của mình về con người và giá trị văn chương của ông không mấy khác xa. Y. Kawabata được trao Nobel văn chương bởi những lý do, như : "Người ta đặc biệt ca ngợi Kawabata như một người thấu hiểu một cách tinh tế tâm lý phụ nữ." ; "Tác phẩm của Kawabata làm ta nhớ tới hội họa Nhật Bản; ông là kẻ tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ hình ảnh u buồn của hiện hữu trong cuộc sống của thiên nhiên và thân phận con người" , và "Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây".

          Ngay chính Y. Kawabata, Diễn từ Nobel của mình đọc tại buổi lễ trao giải cuối năm 1968, ông đã lấy tên "Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản", như thế đủ rõ ông tự ý thức về giá trị văn chương của mình thế nào! Tôi dặc biệt thích, ông đã mở đầu diễn từ đó bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là Bản lai diện mục : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi".

          Tôi không dám sa đà vào diễn từ của Y.Kawabata, đơn giản bởi tôi sợ mình sẽ không còn đủ sự khôn ngoan tỉnh táo để thoát khỏi mê cung cái đẹp mà ông giăng mắc. Còn bởi từ lâu nay, sau khi đọc những kiệt tác văn chương của ông, tôi bị đắm chìm vào đấy và thường hay mộng mị giữa ban ngày. Những người đàn bà đẹp với đủ thân phận, những xúc cảm tình dục mãnh liệt mà mong manh dễ vỡ, những phong cảnh thiên nhiên đẹp một cách u buồn , những sinh hoạt tôn giáo huyền bí, những phong cách quý tộc vừa trang nhã vừa suy đồi, những phong tục dân gian khác lạ, những bóng hình của nhân vật-tác giả lởn vởn đâu đây... Tất, tất cả vây hãm, luồn lách trong ta, ám ảnh ta !...

          Trong chục ngày ở Nhật Bản, tôi không có thời gian và điều kiện đi đâu xa ngoài thủ đô Tokyo và vùng phụ cận, song do đọc các tác phẩm của Kawabata, nên tôi thấy như mình đã được đi đây đó khắp nước Nhật rồi. Kể từ ngày Y. Kawabata về cõi xưa, nước Nhật đã trải qua hơn ba chục năm, giàu có-đông đúc-hiện đại hơn lên nhiều lắm. Khi thong thả một mình dưới bóng liễu lúc chiều tối, hay khi ngửa mặt ngắm tán phong vàng ở bến xe buýt lúc đợi xe, tôi tự hỏi không biết Y. Kawabata đã từng đi đứng ở chỗ này chưa? Rồi lúc hòa mình vào dòng người trên phố, nơi ga metro, chốn siêu thị đông đúc, tôi thường nhìn thẳng vào gương mặt người đối diện, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ để xem có chút gì của Kawabata ẩn giấu? Bởi người ta bảo ông là gương mặt của vẻ đẹp, tinh thần và trí tuệ Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật Bản ngày nay ham học, ham làm ăn lập nghiệp và cũng chơi tới bến. Tôi tin rất nhiều trong số họ không biết Kawabata là ai. Cũng có rất nhiều người trong số họ biết đến Kawabata và từng đọc tác phẩm của ông, song với họ ông không là tất cả. Không nói đến nhiều giá trị Nhật Bản khác trên trường quốc tế, ngay trong lĩnh vực văn chương thôi, thì Kawabata đã quá xa xôi, gần hơn là Ôê, mà Ôê thì cũng xa rồi, bởi mốt bây giờ là đọc Murakami, là Banana Yoshimoto, là những gỉ gì gì sau nữa...

          Sau này, tôi có dịp tiếp xúc, trò  chuyện với một bạn gái trẻ Nhật Bản, cô Sachiko Asa, đạo diễn chương trình phát thanh Tiếng Việt thuộc Ban Phát thanh & truyền hình Đối ngoại Đài NHK Nhật Bản.Cô có đợt tìm hiểu và học việc tại cơ quan tôi, Đài Tiếng nói Việt Nam. Cô cắt nghĩa cho tôi hiểu cái tên Sachiko, âm Hán Việt là Tảo Tri Tử, tức là đứa trẻ thông minh sớm. Là một nữ nhà báo, tuổi chưa đến 30, Sachiko khá thông minh và hiểu biết. Vì không vướng rào cản ngôn ngữ, tôi giúp cô hiểu biết thêm nhiều về văn hóa phong tục Việt, và ngược lại, cô cũng giúp tôi hiểu thêm văn hóa Nhật Bản. Tôi hỏi cô về Y. Kawabata, cô sáng mắt à lên vui thích. Tuy nhiên, cô cũng không mấy hiểu về Kawabata, ngoài việc biết đó là một nhà văn nổi tiếng đã đem về Nobel văn chương cho tổ quốc song đã mất từ lâu rồi. Tôi nghe mà chạnh buồn. Ôi tinh thần và vẻ đẹp Nhật Bản đâu rồi, khi con người hiện tại đã dần phai mờ về Y. Kawabata, một giá trị đặc sắc của văn hóa Nhật Bản ?

          Tôi lại nhớ về hình ảnh của cặp vợ chồng già ngồi tựa lưng vào nhau mặt ngoảnh đi hai phía trước sân vườn ngôi nhà bên đường ngày ngày tôi ra ga Wakamatsu, những người già ngả lưng trên ghế đá công viên Hibiya và người già dạo chơi rồi ngủ lăn lóc dưới thảm cỏ vườn thông bên Lầu công chúa, hẳn trong ký ức họ có Y. Kawabata? Thế còn cánh nam thanh nữ tú kia, những người hằng ngay tranh thủ lúc ngồi trên metro vun vút trong lòng đất sâu Tokyo hoặc nhoay nhoáy chơi điện tử hoặc cắm phôn nghe nhạc từ điện thoại di động, hoặc ngủ gật vì quá mệt mỏi sau một ngày làm việc cật lực, họ có gì về Y. Kawabata không? Hay chính ông cùng các tác phẩm tuyệt vời của mình đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vừa mới đây?

          Người ta bảo Y. Kawabata tự sát vì bế tắc. Vậy xã hội Nhật Bản đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước có biến động gì lớn khiến ông bế tắc? Hay tự nội tâm ông? Chỉ 3 năm sau giật Nobel văn chương, một đỉnh cao chói lọi mà hàng ngàn hàng vạn nhà thơ nhà văn trên khắp trái đất này nằm mơ cùng không thấy, thì điều gì khiến ông chọn kết cục như vậy ?

          Chẳng vì lẽ gì cả. Thực ra, câu kết của Diễn từ Nobel năm 1968, Y. Kawabata đã bộc lộ : "Những câu thơ Bản lai diện mục ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của Dogen chính là Thiền ".

          Thế là đã rõ. Tự chấm dứt sự tồn tại về thể xác, với Y. Kawabata, chỉ là một cách Thiền !...

 

         

2. Tiếng rền của núi tuyết

Cho đến thời điểm này, tôi đã có ba lần đặt chân đến xứ sở Mặt trời mọc, lần đầu vào mùa thu năm 2005. Các lần sau, 2014 và 2017, tình cờ cũng đều vào mùa thu. Tôi đã thấy một nước Nhật đẹp huyền ảo và mông mị trong tấm áo choàng thiên nhiên lá vàng lá đỏ. Tôi cũng thấy tuyết trắng lấp lánh trên đỉnh núi Phú Sĩ dưới bầu trời trong xanh mùa thu... Và tôi lại nghĩ về các tác phẩm của Y. Kawabata, vị chua tể của văn chương Xứ Tuyết,...

Gần đây, tôi đọc thêm một tác phẩm nữa trong số các kiệt tác của ông, tiểu thuyết “Hồ”. Khác với các tác phẩm kia, chuyên săn tìm cái đẹp, ở tác phẩm này, nhân vật chính của ông là một con người bị coi là xấu xí. Song bi kịch là ở chỗ, con người xấu xí ấy lại đam mê cái đẹp, mà cụ thể là vẻ đẹp khác giới-đàn bà. Nhân vật chính của câu chuyện, Momoi Gimpei, một người đàn ông luôn mặc cảm vì sự xấu xí về hình thể và tuổi thơ không mấy tốt đẹp của mình, nên phần sau cuộc đời, gã ta bị mặc cảm chi phối thành vô thức mà bám theo bóng hình đàn bà đẹp bất kỳ cho dù họ chỉ thấp thoáng lướt qua gã trên đường đời. Người ta cho rằng, nhà văn cố tình lựa chọn và tạo dựng một nhân vật đầy khiếm khuyết, đang vùng vẫy tìm lại cái tôi, tìm lại bản tính như những người Nhật bước ra từ chiến tranh. Có thể là vậy, song tôi nhận thấy còn hơn thế, Y. Kawabata còn gửi gắm những thông điệp lớn lao hơn,... Đó là gì vậy?

Tôi thấy ở đây, hình bóng đàn bà đẹp hay là hình bóng của một tinh thần văn hóa Nhật Bản tốt đẹp một thời đang dần bị phôi pha, mai một, bị chen lấn xô đẩy, chèn ép bởi văn hóa ngoại lai? Phải chăng, Y. Kawabata đã sớm nhận thấy và tiên đoán về sự sa sút và xô bồ của tinh thần văn hóa Nhật Bản khi bước vào thời kỳ công nghiệp phát triển và toàn cầu hóa?

Rất có thể, gã trai xấu xí và một quá khứ tuổi thơ không mấy tốt đẹp kia chính là hình ảnh của một nước Nhật ngày nay, dần bị xô bồ và lệch lạc bởi sức ép từ chính sự phát triển quá lố của mình và áp lực từ việc toàn cầu hóa, từ sự ô nhiễm và biến đổi khí hậu, từ dịch bệnh với quy mô toàn cầu,...? Thế nên, sự vô thức (hay ý thưc) đi tìm vẻ đẹp kia, sự tốt đẹp hiện tại còn sót lại đâu đó (và cả vẻ đẹp trong quá khứ) của nhân vật Momoi Gimpei, chính là sự cần thiết, sớm ngộ ra để khôi phục vẻ đẹp tinh thần văn hóa Nhật Bản từng có,...? Đương nhiên, ở vào thời nhà văn sống và sáng tác, thì đây là sự suy luận thiên tài mang tính tiên tri. Vậy theo tôi, đây là một thông điệp cơ bản ẩn chứa của tiểu thuyết này.

Tìm hiểu về văn hóa và tinh thần Nhật Bản, dường như mọi hiện tượng đều được nâng lên một giá trị nào đó và có ý nghĩa biểu tượng khi mà nó chứa đựng chất nhân văn, như một triết lý sống, ngay cả với cái chết. Không giống tinh thần Phật giáo, mọi sự đều bé nhỏ và vô ưu trước Đức Phật, tinh thần Nhật Bản nặng yếu tố Thần Đạo, ít nhiều mang một ý nghĩa nào đó, gần với cuộc đời.

Người dân Nhật Bản có tuổi thọ rất cao. Nhưng khi cuộc sống không còn ý nghĩa và giá trị nào đó, nghĩa là sống chỉ là sự kéo dài thời gian tồn tại trên mặt đất thôi, người ta sẽ tìm cách chấm dứt. Khác với cái chết theo tinh thần võ sĩ đạo (samurai), người già cô đơn ở Nhật Bản đã từng diễn ra khá phổ biến, ấy là cách bỏ lại tất cả, một mình đến xứ tuyết, cứ thế đi sâu vào vùng trắng lạnh mênh mông cho đến khi cạn hơi kiệt sức mà gục ngã vùi mình trong tuyết giá. Một kết cục đẹp và buồn làm sao ?!

Hay đâu, một giá trị từng được nâng lên thành triết lý đầy chất nhân văn, mà Y. Kawabata thuật trong tác phẩm "Người đẹp say ngủ" của mình. Người ta bỏ tiền ra để thuê dịch vụ ngắm (chỉ được ngắm bằng mắt, không có hành vi nhục dục) đàn bà đẹp khỏa thân trong trang thái say ngủ (là loại hình dịch vụ, bị dùng thuốc mê ngủ, không bị cưỡng bức mà là sự thỏa thuận). Đó là một cách hưởng thụ về tính dục cho những ai có nhu cầu, nhưng cũng có thể nhìn nhận đó như một sự cảm thụ cái đẹp theo tinh thần mỹ học....

Những triết lý sống-chết như vậy chỉ có ở Nhật Bản, và cũng chỉ qua cái nhìn đầy mỹ cảm và nhân văn, sâu săc, cùng bút pháp điêu luyện của Y. Kawabata mới trở nên tuyệt vời như vậy!...

Trong xã hội Nhật Bản hiện tại, tức là hơn nửa thế kỷ đã qua so với thời gian Y. Kawabata sống và viết, những cách thức như vậy không còn nữa (hoặc giả vẫn tồn tại cá biệt trên đất nước Nhật?), thì những triết lý ấy vẫn không mất đi, bởi ý nghĩa nhân văn của nó. Chí ít, nó tồn tại trong ký ức của một lớp người, hay trong các tác phẩm tuyệt vời của Y. Kawabata, với sự lan tỏa trên phạm vi toàn cầu...

Sau cùng, không thể không nói đến bút pháp, văn phong của Y. Kawabata. Lựa chọn ông để trao Nobel văn chương năm 1968, Hội đồng giải Nobel đã nhận xét: "... Kawabata , với tư cách nhà văn, đã phú cho một nhận thức văn hóa đầy tính đạo đức-thẩm mỹ một phẩm chất nghệ thuật độc sáng, vì vậy, bằng cách riêng của mình đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông với phương Tây". Dĩ nhiên, không có gì bàn cãi, khi tô đậm mấy đặc điểm chính của văn chương Kawabata, đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng.

Khi đã là một gạch nối, một đặc sắc của văn hóa Nhật Bản, tôi nghĩ, cùng với các đặc điểm cơ bản làm nên giá trị văn chương của Y. Kawabata (đạo đức-thẩm mỹ-nghệ thuật độc sáng) thì chắc chắn còn những giá trị khác nữa từ cội nguồn văn hóa dân tộc xem như chất “phụ gia” để ông hòa quên, nhào nặn thành chất kết dính các giá trị cơ bản kia? Vậy đó là những gì?

Thường là, mỗi nền văn hóa đều chịu ảnh hưởng, nếu không muốn nói lấy tôn giáo, tín ngưỡng gốc làm nền tảng. Với người dân xứ sở Mặt trời mọc, tôn giáo gốc (từ trước Công nguyên) là Thần đạo (Shinto). Truy nguyên, tư tưởng của Thần đạo Nhật Bản khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác. Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống còn của con người, nên trước khi ăn người ta thường phải nói câu Itadakimasu (戴きます) để cảm ơn những sinh linh đã phải chết để trở thành thức ăn, và đến ngày nay điều này đã trở thành một phong tục. Như thế, có thể nhận thấy, tư tưởng Thần đạo Nhật Bản với ý nghĩa cơ bản của nó khi khuyên “con người ta hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác” đã là nên giá trị đạo đức trong các tác phẩm của Y. Kawabata.

Thẩm mỹ, tôi nghĩ, đặc điểm nổi trội nhất trong văn chương của ông, nếu không muốn nói Y. Kawabata là nhà văn theo “chủ nghĩa duy mỹ”. Là người đắm đuối, tôn thờ cái đẹp, song Y. Kawabata không đơn thuần duy mỹ đến mức độ coi “cái đẹp” là duy nhất mà tách rời nó khỏi nội dung xã hội và đạo đức cuộc sống. Thẩm mỹ, trong con người và văn chương Kawabata, mang đúng nghĩa của khái niệm này, sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp hòa quện trong sự cảm thông sâu sắc của tâm hồn. Mỹ cảm của ông mang thiên hướng đàn bà, pha trộn ẩn ức tình dục mơ hồ, đơn giản vì họ là biểu tượng của cái đẹp. Những nhân vật nữ của ông dù ở tầng lớp và thuộc loại người nào, đều được tôn trọng, nâng niu và ít nhiều ông dành cho họ sự ưu ái. Chính điều này, theo tôi, đã làm nên “đặc sắc Kawabata”, khiến ông khác lạ với các nhà văn Nhật Bản khác, chẳng những thế, sự khác lạ và đặc sắc ấy lại giàu năng lượng và có sức nâng, góp phần tôn vinh văn học, văn hóa Nhật Bản, khiến Hội đồng văn chương Nobel không thể làm ngơ mà quyết định trao giải cho ông, người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba được vinh danh. Vinh quang này cho cá nhân Y. Kawabata và văn chương Nhật Bản.

Song Y. Kawabata cần gì ở điều ấy? Chẳng phải ngẫu nhiên, ông đã mở đầu diễn từ Nobel năm 1968 bằng việc viện dẫn bài thơ thiền của vị thiền sư người Nhật Bản là Dogen ở thế kỷ 13, bài thơ có tên là "Bản lai diện mục" : "Hoa thắm mùa xuân/ Cu gù tiết hạ/ Trăng thu óng ả/ Tuyết đông/ Giá lạnh, tinh khôi". Thực ra, đọc kỹ các tác phẩm của ông, người ta đã nhận thấy sự thiền định thấm đẫm trong mạch văn, câu chữ. Điều này cho thấy, chất thiền cũng là một đặc trưng văn chương của Kawabata. Hầu như, các nhân vật của ông (hay chính bản thân) không mấy nổi giận và nếu có thì cũng ít khi đến mức mất kiểm soát... Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tôn giáo đến tinh thần Nhật Bản, mặc dù tôn giáo gốc là Thần đạo, nhưng càng về sau, sự lan tỏa và sức ảnh hưởng của Phật giáo càng mạnh, chi phối tinh thần văn hóa Nhật Bản. Đây cũng là cách lý giải yếu tố Thiền trong văn chương của Kawabata, cũng như tâm thế và sự hành xử của các nhân vật trong tác phẩm của ông. Lấy trạng thái an tĩnh và sự tập trung cao độ trong cách nhìn nhận, vận động, hành xử là cốt lõi của “thiền định”, và đó cũng chính là tâm thế Y. Kawabata. Vậy xem như, bài thơ thiền “Bản lai diện mục” cho thấy sự tiếp nối trạng thái động-tĩnh, thực -ảo, hiện tại-ký ức thay nhau luân chuyển với vẻ đẹp điển hình của thiên nhiên bốn mùa là căn cốt cảm hứng sáng tạo văn chương của Y. Kawabata. Các tác phẩm của ông là minh chứng sống động cho phương châm và cảm hứng sáng tạo này.

Trở lại với nhận định của Hội đồng Nobel văn chương năm 1968, về sự đóng góp của Y. Kawabata cho sự phát triển của văn học thế giới, ấy là “nghệ thuật độc sáng”. Vậy hiểu nhận định này ra sao? Phải chăng, nếu không phải là sự độc đáo và sáng láng thì đó là gi?

Người Nhật Bản tự hào về Haiku (俳句), một loại thơ độc đáo, một đặc sắc ngôn ngữ, văn chương của họ. Khởi phát từ đầu thế kỷ 17 và nhanh chóng phát triển cực thịnh trong thời kỳ Edo (1603-1867). Sắc thái trào phúng sơ khởi cũng dần chuyển sang âm hưởng sâu lắng và thanh tịnh của Thiền tông và âm hưởng ấy đến giờ vẫn là chủ đạo của loại thơ này. Haiku Nhật bản độc đáo là bởi độ ngắn gon (thường không vượt quá 17 âm tiết tiếng Nhật) và sự hàm súc đầy gợi mở của nó. Kinh điển thể Haiku, người ta hay viện dẫn bài thơ “Con ếch” của Matsuo Bashō: “Ao xưa;/ con ếch nhảy vào/ vang tiếng nước xao.”... Vì sự giới hạn số từ và âm tiết nên Haiku chỉ tả sự việc ngay trước mắt (nhãn tiền) nhưng nội hàm lại nhiều nên phải có sự tương quan các ý tưởng với nhau. Tôi thấy, thơ Haiku thú vị ở chỗ, vì độ ngắn gọn, hàm súc và gợi mở của nó nên người đọc không đơn thuần chỉ cần đọc hiểu mà còn có thể liên tưởng, suy luận ngầm, đi tìm ý tứ sâu xa của bài thơ gốc đặng diễn đạt bài thơ ấy theo ý mình. Điều đó có nghĩa, mỗi người đọc đều có thể trở thành đồng sáng tạo với tác giả bài thơ. Đó là cái hay và sự độc đáo riêng có của Haiku. Chính sự độc đáo của Haiku nên văn chương Nhật Bản dễ bị ảnh hưởng và sự chi phối của thể thơ này,... Dĩ nhiên, Y. Kawabata, dù ở ngôi vị chúa tể, cũng không ngoại lệ.

Thậm chí, theo tôi nghĩ, văn phong của Y. Kawabata chịu ảnh hưởng khá sâu sắc phong vị và tính chất của Haiku. Chính xác hơn, Y. Kawabata biết cách đồng hóa tính chất và sắc thái của Haiku để làm nên phong vị riêng mình – “đặc sắc Kawabata”. Ấy là thứ nghệ thuật mà Hội đồng Nobel văn học năm 1968 gọi là “nghệ thuật độc sáng”.

Đọc tác phẩm của Y. Kawabata, dù tiểu thuyết hay truyện ngắn đều thấy rõ điều này. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa vô vàn những bài thơ Haiku. Đơn cử, điển hình là tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ”, cả tác phẩm là một bài Haiku lớn. Hình ảnh nhân vạt chính, ông già bảy mươi đắm đuối ngắm người đàn bà đẹp ở trạng thái khỏa thân say ngủ, là hiện thực nhãn tiền, còn những dòng suy tưởng miên man, chập chờn hồi ức, hiện tại, mộng mị đan xen của nhân vật chính là các ý tưởng tương quan với nhau làm nên bài Haiku toàn vẹn, khiến người đọc suy ngẫm, liên tưởng,... Và trong bài Haiku lớn ấy, lại chứa đựng rất nhiều bài Haiku khác, dường như mỗi chương, mỗi đoạn đều mang dáng dấp của bài Haiku, cứ thể nhân lên, vô vàn những bài Haiku nhỏ, cái nọ lồng trong cái kia, đan cài, bao bọc... Bởi thế, đọc tác phẩm của Y. Kawabata, không thể đọc nhanh, mà phải đọc chậm, thật chậm rãi, những mong tìm lời giải cho từng bài Haiku mà tác giả đặt ra. Văn của Y. Kawabata tốc độ chậm là vậy. Điều này khiến cho một số bạn đọc ưa tốc độ nhanh, thích hiệu ứng sốc, cảm thấy sốt ruột và sinh ngại chăng ?... Có lẽ, đây cũng là lý do mà các tác phẩm của ông thường ngắn, kể cả tiểu thuyết ?

Kể từ ngày Y. Kawabata hóa thân theo “ngàn cánh hạc” xải cánh trắng bay về “xứ tuyết” tinh khôi để đêm đêm nghe “tiếng rền của núi”, chớp mắt đã nửa thế kỳ trôi qua. Khởi nguồn, sinh vào năm cuối cùng của thế kỷ 19 ở Osaka miền nam nước Nhật, hàng năm linh hồn ông vẫn cùng bầy hạc trắng từ xứ tuyết phương Bắc trở về thăm cố hương, ngang qua vùng “hồ”, thăm “cố đô”, nơi ông đã để lại những kỷ niệm “đẹp và buồn”, từng mộng mị ngắm “người đẹp say ngủ”,.. đã,... từng,...và từng,...

Với các tuyệt phẩm của mình, thực ra, nửa thế kỷ qua, Y. Kawabata vẫn đang ở đây, cùng mọi người đấy chứ ?!..../.

 

 

 

HỒNG LÂU MỘNG &

Giấc mộng lầu hồng của con người.

 

          1.

          Sang thế kỷ 21, các nhà nghiên cứu văn học và khoa học xã hội nhân văn hàng đầu thế giới, nhận thấy sự cần thiết nên đã nhóm họp, bàn bạc và bỏ phiếu để đi đến việc nhất trí chọn ra 20 tác phẩm văn học bất hủ mọi thời đại của thế giới. Người ta thấy trong danh sách có những cái tên rất xứng đáng như : Homèrre với  Odysee, Cervantes với Don Quixote, Gustav Flaubert với Bà Bô-va-ry , William Shekespeare với Hamlet, Vua Lia, Marcel Proust với Đi tìm thời gian đã mất, Fedor Dostoiesky với Tội ác và trừng phạt, Gabriel Garcia Márquez với Trăm năm cô đơn v.v...

          Tất  nhiên là thế, bởi những cái tên đó đều thật đích đáng, song tôi chỉ ngạc nhiên, sao lại thiếu vắng cái tên Tào Tuyết Cần với Hồng Lâu Mộng ? Theo tôi, nó không những xứng đáng, thậm chí còn được xếp trên tất thảy những tác phẩm đã  được kể tên kia.

Vâng, một câu hỏi có tính nghi ngờ độ chuẩn xác và cả công tâm trong việc bình chọn kia. Phải chăng, cái hội đồng hàng mấy trăm con người, mà toàn những người thông thái nọ, lại có quá ít thuộc châu Á nên số phiếu đã không đủ để đưa Hồng Lâu Mộng vào danh sách ấy ? Hoặc giả, tiêu chí bình chọn không phù hợp để người ta bỏ phiếu cho nó ? Hoặc nữa, nó chưa được chuyển ngữ sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha ? Nhân chuyện này, tôi lại nghĩ đến một việc khác còn lớn hơn, đó là sự lo ngại của dân Trung Hoa khi quá ít người biết sử dụng internet để làm cái việc bỏ phiếu cho Vạn Lý Trường Thành của họ lọt vào danh sách 7 kỳ quan  thế giới mới do một tổ chức đứng ra bình chọn, trong khi bình thường ra chỉ cần nhắc đến tên thôi ta cũng thấy nó quá xứng đáng rồi. May rồi chuyện cũng qua, khi mà Vạn Lý Trường Thành đã có tên trong số 7 kỳ quan thế giới mới được bình chọn. Nhưng , Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần lại không, trong khi nó thực sự là một "Vạn Lý trường thành" của  thế giới văn chương đông tây cổ kim.

          Với cá nhân tôi, nếu ai đó hỏi rằng thích tác phẩm văn học nào nhất, tôi không ngần ngại mà trả lời : Hồng Lâu Mộng.

          Tôi thích viết tên tác phẩm này với mọi chữ cái đều viết hoa. Viết hoa theo cách tu từ. Nghĩa là nó xứng đáng để viết hoa, như khi người ta muốn nhấn đến Con Người với phẩm chất cao đẹp nhất trong thế giới muôn loài !

          Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có cả một hội mang tên Hồng học (hội của những người yêu thích và nghiên cứu Hồng Lâu Mộng). Chúng ta đều biết, Trung Hoa có lịch sử văn tự đến mấy ngàn năm, với biết bao tác phẩm nổi tiếng gồm triết học, sử ký, địa dư, bách khoa thư và văn học..., song chỉ có mỗi một “Hồng học”, bao gồm hàng vạn những con nhang đệ tử của Hồng Lâu Mộng, mà không riêng ở trong biên giới Trung Quốc, còn ở nước ngoài. Đấy là chưa kể đến hàng triệu độc giả say mê Hồng Lâu Mộng ở khắp thế giới. Như thế đủ biết Hồng Lâu Mộng nổi tiếng và hấp dẫn, kỳ thú đến độ nào. Trong tứ đại kỳ thư của nền văn học Trung Hoa, Hồng Lâu Mộng không có sự kỳ vĩ hoành tráng của Tam Quốc diễn nghĩa, không có sự mãnh liệt đến sảng khoái và bi tráng của Thuỷ Hử, và cũng không có chất phiêu dạt ly kỳ của Tây Du Ký, song bù lại, nó có sự tinh tế, mơn trớn đến ảo diệu và mộng mị hút hồn người. Không những vậy, Hồng Lâu Mộng còn đánh dấu sự ra đời của một nền tiểu thuyết Trung Hoa đích thực xét về tính thể loại văn học.

          Quả đúng với mệnh danh, đấy là “giấc mộng lầu hồng” của con người, mà không ai không thấy và không muốn. Ở đây, tôi không bàn, nếu không muốn nói là loại trừ việc hiểu hai từ hồng lâu là để nhằm đến loại gái lầu hồng  (ám chỉ kỹ nữ). Giấc mộng lầu hồng, mà cũng là tất thảy những gì được Tào Tuyết Cần tả trong bộ sách của mình là cuộc sống cực kỳ vương giả, xa hoa nơi lầu son gác tía của thế gia quyền quý. Cuộc sống của các chàng công tử và những tiểu thư khuê các trong Đại Quan Viên của đại gia đình họ Giả đất Kim Lăng dù có đạt đến đỉnh điểm vinh hoa phú quý, cũng sẽ trở thành bình thường nếu như tác giả không lồng vào đấy những triết lý, mà thực ra chính là bản chất vốn có của cuộc sống đời người. Những mối quan hệ chân-giả, phúc-họa, tĩnh -động, thực-ảo... đan xen khôn lường, lẩn vào mỗi tính cách và số phận hàng mấy trăm con người, cho ta thấy mọi phương diện, ngóc ngách của cuộc sống từng cá nhân đến gia đình, cộng đồng, xã hội, quan trường, triều chính... Tầm triết lý sâu sắc và ảo diệu của bộ sách còn ở tên chính nó là Thạch đầu ký. Hòn đá trên đỉnh núi Thanh Ngạch có linh tính bởi mấy ngàn năm lắng khí thiên nhiên, vì nghe lén chuyện đời mà nảy sinh thèm muốn được hưởng phúc phận nơi trần thế với đủ các cung bậc ái, ố, hỉ, nộ... Phiêu lãng cao siêu lắm thay mà cũng chân thực đến tận cùng .

          Cứ thế, cuộc sống như dòng Trường Giang, đoạn thẳng khúc quanh, nơi dốc nơi bình, khi cuồn cuộn hung dữ lúc hiền hòa sâu lắng, mùa đục mùa trong, chảy hoài ra biển Đông- sóng vui dập hết anh hùng. Tưởng chừng, cuộc sống chốn vinh hoa phú quý tột bậc ấy, ngày đêm, tháng năm chỉ biết có yến tiệc cùng phong hoa tuyết nguyệt sẽ êm đềm, vô lo vô nghĩ, song thực ra lại là nơi ẩn giấu của những yêu thương-thù hận, vui vẻ-sầu não, ngây thơ-mưu mô, chân thành-lừa lọc gian manh, mưu cầu thành-bại...tất thảy chồng chất lên nhau và lặn sâu vào trong, tạo thành những lớp lang, thường ra nào thấy được ... Đấy, chính những lớp lang ấy làm nên đặc sắc ảo diệu cho Hồng Lâu Mộng. Người đọc, mỗi bận mỗi hay, mỗi lần mỗi khám phá, càng đọc càng mê mẩn và không khỏi ngạc nhiên vì những vỉa tầng ý nghĩa trầm lắng dần phát lộ!...

          Về mỹ cảm đã vậy. Hơn nữa, về sự thâm trầm sâu lắng, như trầm tích, như vật chất quý báu  là những tư tưởng Nho, Phật, Lão hòa quyện, ẩn chứa. Ấy là nền tảng tư tưởng của xã hội Trung Hoa mấy ngàn năm, nó chi phối tư tưởng xã hội nhiều nước phương Đông và khiến phương Tây hết sức nể trọng, thích thú khám phá. Hồng Lâu Mộng còn là tiếng chuông thức tỉnh tâm cam con người trong sự mê muội chìm đắm phù hoa, đồng thời mang tính dự báo, chế độ phong kiến mấy ngàn năm của Trung Hoa bắt đầu suy tàn, dần đi đến sự cáo chung,...

          Từ thuở học trò cho đến bây giờ, tôi đã đọc đi đọc lại Hồng Lâu Mộng chẳng rõ bao nhiêu lần rồi. Mỗi khi đọc xong dòng cuối, buông sách xuống, tôi lại như người mất cảm giác. Hình như đó là trạng thái của người ý thức được sự mất phương hướng của mình chăng ?!...

          Tôi đã hơn một lần lưỡng lự khi cầm trên tay cuốn Hậu Hồng Lâu Mộng do Lưu Trợ Thủ hiệu điểm. Đọc hay không ? Tôi sợ sự thất vọng như khi đọc Hậu Tam Quốc, Hậu Thủy Hử...Song dẫu sao, với truyện Tam Quốc hoặc Thủy Hử thì phần nhiều là lịch sử, là chiến tranh, là sự kiện, nên ít nhiều có chất hấp dẫn riêng của nó. Vậy mà còn thế, nữa là chuyện nhàn tản phong hoa tuyết nguyệt, nếu không khéo sẽ nhạt thếch và tẻ ngoét.

          Biết là thế, nhưng rồi sự cuốn hút từ Hồng Lâu Mộng bắt tôi phải đọc cuốn Hậu . Đọc rồi sinh ngẩn ngơ. Không phải ngẩn ngơ vì sự tiếp nối thành công của câu chuyện mà lại chính từ sự non kém của tác phẩm. Một kiệt tác thì không cần chi thêm nếm. Hồng Lâu Mộng đã làm trọn sứ mệnh của mình là xây nên giấc mộng lầu hồng cho con người. Tự mình mộng giấc mộng của riêng mình triền miên ngàn năm, nhiều ngàn năm. Và bất kỳ lúc nào, hễ ai dây vào rồi thì ngẩn ngơ cả đời với nó !... Thế thì Hậu, có hay không cũng vậy thôi. Hay, hay không hay, đó là một câu chuyện khác. Tôi đã xem Hậu Hồng Lâu Mộng với ý nghĩ như thế.

          Trở lại với Hồng Lâu Mộng, một kiệt tác trong Tứ đại kỳ thư của Trung Hoa tự cổ chí kim. Có chuyện cho rằng, Tào Tuyết Cần viết phần lớn bộ sách, phần sau là do Cao Ngạc viết. Cho dù thế đi chăng nữa, về cơ bản, bộ sách vẫn là một chỉnh thể khá nhất quán, mà người đời khó tìm ra dấu vết của sự lắp ghép, tiếp nối. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn về mạch chuyện, hơi văn, tính cách nhân vật, tình tiết từng câu chuyện và sự biến hóa mỗi tuyến chuyện của bộ sách, đã làm nên một lâu đài văn chương. Có ý kiến, phần đầu do Tào Tuyết Cần, văn đẹp mộng mị và chữ nghĩa nuột nà hơn, phần chấp bút của Cao Ngạc thì văn hiện dại và tốc độ hơn, mà kết cục số phận các nhân vật cũng gia tăng ý nghĩa thức tỉnh và tính hiện thực cho tác phẩm,...?. Ngẫm ra thấy cũng có lý.

Tác phẩm điện ảnh ăn theo tuy khó theo kịp nguyên tác, song cũng đã thành công vang dội khắp thế giới, bởi nó đã hỗ trợ và vun đắp cho lâu đài Hồng Lâu Mộng thêm lung linh huyền diệu. Sự thành công ấy của bộ phim Hồng Lâu Mộng, bản dựng năm 1987, không những đem vinh quang đến cho đạo diễn mà cả cho các diễn viên chính như Âu Dương Phấn Cường (vai Giả bảo Ngọc), Trần Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), Đặng Tiệp (vai Vương Hy Phượng) v.v... Niềm vinh quang ấy kéo dài cho đến 20 năm sau, khiến các nhà làm phim trẻ tiếp tục nuôi tham vọng dựng Hồng Lâu Mộng bản mới hoành tráng hơn, và hy vọng sẽ thành công không kém bản dựng trước. Người ta sẵn sàng chi hàng chục triệu USD để làm Đại quan viên 2 cũng ở ngay Bắc Kinh để làm phim trường. Thế nhưng, khó khăn lại ở việc lựa chọn diễn viên, rồi đó là cảnh quay và diễn xuất ra sao để mang đến sắc thái mới và không làm “mất hồn vía” của bộ tiểu thuyết này...? Lại càng thấy rõ tầm vóc của Hồng Lâu Mộng lớn đến mức nào !...

          Lại nữa, có chuyện rằng Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng như viết tự truyện. Gia sản nhà họ Tào thời cha ông là Tào Luyện Đình trở về trước vốn giàu sang quyền quý, qua niên hiệu Khang Hy đến niên hiệu Ung Chính nhà Thanh thì bị tội ( án văn tự ?) mà mất hết gia sản, tan tác cửa nhà, nên Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng như trút một hơi thở dài đầy những luyến tiếc...

          Cũng có chuyện khác, sách Tùy Viên thi thoại của Viên Mai , một nhà thơ, nhà nghiên cứu và phê bình văn học xuất sắc của Trung Hoa đời Thanh, trong một thiên sách của mình, ông có nói đến Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Viên Mai cho rằng, Đại Quan Viên trong bộ Hồng Lâu Mộng thực ra là mô tả  theo Tùy Viên (vườn nhà họ Tùy) nơi cư ngụ của gia đình Viên Mai. Sách này còn dẫn chuyện, rằng Tào Tuyết Cần có lần đến chơi Tùy Viên, thấy có cô gái hồng lâu (gái lầu hồng) tuyệt đẹp, đã cảm động mà tặng bài thơ, đó là : " Bệnh dung tiều tuỵ thắng đào hoa/ Ngọ hạn triều hồi nguyệt chuyển gia/ Do khủng ý trung nhân khán xuất/ Cưỡng ngôn kim nhật hiệu sai ta " (được dịch  là : Dung nhan tiều tụy quá hoa đào/ Trưa sốt quay về nóng trở cao/ Còn sợ người yêu nhìn thấy rõ/ Gượng rằng nay đã bớt phần nào). Thực hư ra sao, chẳng cần truy nguyên mà làm gì. Chỉ rõ thêm một điều, tâm ý thương hoa tiếc ngọc, nâng niu trân trọng đàn bà con gái, bất kể thân phận cao sang hay bình dân, con ở, kỹ nữ của chàng Giả Bảo Ngọc trong sách kia đích thị của Tào Tuyết Cần.

          Riêng chỉ ngần ấy thôi, cũng khiến người đời phải ngẩn ngơ rồi ! ?...

 

          2.

          Buộc người đời sau khi đọc phải ngẩn ngơ vì luyến tiếc giấc mộng lầu hồng ngắn ngủi giữa dòng đời dằng dặc những truân chuyên, buồn tủi,... đó là cái tài của tác giả Hồng Lâu Mộng. Tài là thế, song cái tài ấy cụ thể là những gì?

          Là trường thiên tiểu thuyết, với hàng ngàn nhân vật lớn nhỏ, nên việc “bài binh bố trận” sao đây, khi mà người ta chơi cờ có mấy chục quân thôi đã khó?

          Nửa thế kỷ đọc Hồng Lâu Mộng và không ngừng nghĩ ngợi về nó, cho đến nay, tôi mới vỡ lẽ ra cái tài của Tào Tuyết Cần mà trước đây chỉ cảm nhận không nói ra được, ấy là cách tạo dựng không gian truyện và nghệ thuật khắc họa hình hài,  tính cách nhân vật.

          Thực tình, từ mấy trăm năm trước, khi loài người chưa biết Điện ảnh là gì thì Tào Tuyết Cần đã biết dùng các thủ pháp nghệ thuật  Điện ảnh để sáng tạo nên Hồng Lâu Mộng. Đọc tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, có thể nhận biết, tác giả đã sử dụng các thủ pháp hình ảnh Toàn, Trung, Cận và nghệ thuật chồng mờ, những đặc trưng cơ bản của điện ảnh.

          Trong một không gian không quá rộng, chủ yếu ở hai phủ Ninh, Vinh với bà chủ quyền uy là Giả mẫu, rồi không gian được khoanh về mỗi phủ với các không gian nhỏ hơn là gia đình riêng trong quan hệ máu mủ ruột rà, họ hàng hang hốc và hẹp nữa là qui thành không gian riêng biệt mỗi cô cậu chủ đơn thân trong Đại Quan Viên, từ không gian chật hẹp nhất ấy lại tiếp tục mở ra, phân nhánh chia rễ sang đám người hầu con ở,... Dây mơ rễ má, rắc rối là thế, với hàng trăm nhân vật, hàng ngàn mối quan hệ thì giải quyết sao đây? Tài tình thay, tác giả (Tào Tuyết Cần và sau đó Cao Ngạc) đã biết cách sử dụng phương pháp chồng mờ về tổng thể (nghệ thuật điện ảnh, những hình ảnh thay thế nhau liên tiếp theo trình tự mờ-đậm-mờ), nghĩa là đem các không gian to nhỏ, rộng hẹp ấy chồng liên tiếp lên nhau, để kể chuyện, rồi tùy từng hoàn cảnh cụ thể  mà dụng cảnh toàn, trung, cận. sao cho phù hợp. Với thủ pháp này, người đọc nhận biết được sự việc, hiện tượng, hình ảnh, tính cách nhân vật ,... theo logic câu chuyện và trí tưởng tượng của mình, mà không bị rối.

Có thể, so sánh không gian truyện giữa Hồng Lâu Mộng & Chiến tranh và hòa bình để thêm rõ nghệ thuật không gian chồng mờ.

Cùng dạng trường thiên tiểu thuyết, với nhiều nhân vật, ở tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoi, không gian truyện trải rộng bao la, tản mạn, tuy chung quy về mấy gia đình quý tộc, nhưng không gian  khá riêng biệt, mối quan hệ với nhau thông qua những nhân vật đại diện, chứ không chằng chịt, chật hẹp và chồng lấn như ở Hồng Lâu Mộng. Thêm nữa, mối quan hệ họ tộc, gia đình ở xã hội Phương Tây mang tính độc lập tương đối, khác với xã hội và họ tộc phương Đông vấn vít, nương tựa, dựa dẫm vào nhau. Thế nên, việc khắc họa nhân vật đậm nét, nổi bật trong mớ bòng bong quan hệ ở Hồng Lâu Mộng thực khó. Điều này càng cho thấy cái tài của tác giả Tào Tuyết Cần.

Nghệ thuật không gian truyện về tổng thể là vậy, nhưng chuyện kể sẽ nhạt nhẽo, vô bổ nếu như tác giả không giỏi việc khắc họa cảnh vật, con người, tình tiết chuyện...

          Ở đây, mỗi nhân vật chính (hay phụ) lại được khắc họa theo trình tự cấu trúc: trước hết là vị trí và vai trò của nhân vật, rồi theo đó là hình dáng dung nhan, tính cách con người, quang cảnh nơi ở, quan hệ với họ hàng-bè bạn-kẻ hầu người hạ... Cứ theo cái trục đó mà đan cài, khâu nối hay bóc tách mà ra  hết,... Thật tài tình lắm thay,... Cứ xem các nhân vật chính như Giả mẫu, Vương Hy Phượng, Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân, Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Tích Xuân, Thám Xuân... mỗi người mỗi vẻ hay. Các nhân vật phụ: gia đình, họ hàng, quan hệ dây mơ rễ má (như Giả Chính, Giả Xá, Vương phu nhân, Hình phu nhân, Dì Triệu, Nguyên Xuân, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung, Tần Khả Khanh, Tiết Bảo Cầm, Giả Thụy, Tiết Bàn, Tần Chung, Ba chị em Vưu thị ...); những a hoàn, người hầu (như Bình Nhi, Uyên Ương, Kim Xuyến, Tập Nhân, Tình Văn, Tử Quyên, Xạ Nguyệt, Dính Yên....); đám người ngoài có quan hệ bạn bè quen biết  (như Già Lưu, Ni cô Diệu Ngọc, Hương Lăng, Hình Tụ Yên, Tưởng Ngọc Hàm, Liễu Tương Liên, Hạ Kim Quế, ạ Kim QUế, Cô Đa,...) cứ thấp thoáng đâu đó song rất sắc nét, đầy cá tính... có thân phận rõ ràng, và mỗi kết cục của nhân vật đều khiến người ta phải cảm thông, day dứt, thương cảm, suy nghĩ mãi không thôi !...

          Với đặc trưng đậm chất điện ảnh như vậy, nên khi dựng thành phim, đạo diễn Vương Phù Lâm và các nhà làm phim rất thuận lợi khi chuyển thể Hồng Lâu Mộng thành phim truyền hình (Bản dựng năm 1987). Điều này phần nào lý giải, vì sao đây là một trong số ít tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh thành công nhất trên quy mô thế giới. Từ quang cảnh, phục trang, chọn diễn viên, diễn xuất, hội thoại, âm nhạc đều tuyệt vời... đến mức độ, ngỡ như cụ Tào Tuyết Cần sống lại trực tiếp tham gia đạo diễn với Vương Phù Lâm vậy. Thiết nghĩ, điều ấy chỉ có thể là đạo diễn tài ba Vương Phù Lâm đã đọc ra và tận dụng hiệu quả nhất tố chất điện ảnh có sẵn trong tác phẩm văn học này mà thôi. Nhờ sự thành công vang dội của bộ phim mà điện ảnh Hoa đán trình diện hàng loạt gương mặt diễn viên trẻ có tài, cùng với Đặng Tiệp (vai Phượng Thư), Âu Dương Phấn Cường (vai Giả Bảo Ngọc), Trần Hiểu Húc (vai Lâm Đại Ngọc), là Trương Lợi (vai Tiết Bảo Thoa), Quách Tiêu Trân (vai Sử Tương Vân), Đông Phương Văn Anh (vai Giả Thám Xuân), An Văn (vai Tình Văn) v.v...

          Một đặc sắc nữa của Hồng Lâu Mộng mà hiếm có tác phẩm Đông Tây Kim Cổ nào có dược, ấy là Thơ.

          Thơ ngâm vịnh, trêu ghẹo, đùa rỡn hay tự thán của các nhân vật trong Ninh-Vinh phủ, Đại Quan Viên (Lý Hoàn, Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Ni cô Diệu Ngọc, Bảo Cầm...), hay cả đám a hoàn (Tình Văn, Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tử Quên...), đều hay, hợp cảnh hợp tình,... có những bài thuộc hàng xuất sắc.

Ví như: Đại Ngọc chôn hoa, tự thán: “Giờ hoa rụng có ta chôn cất/ Chôn thân ta chưa biết bao giờ/ Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ/ Sau này ta chết ai là người chôn?”; Rồi cũng Lâm Đại Ngọc: “Chiều hôm quyên lặng tiếng rồi/ Vác mai về đóng cửa ngoài buồn tênh/ Ngả người trước ngọn đèn xanh/ Ngoài song mưa tạt bên mình chăn đơn” (Táng hoa từ); và  “Ngoài rèm hoa vẫn nở đầy/ Mà trong rèm lại người gày hơn hoa” (Đào hoa hành);... Hay đâu: “Tỉnh giấc nỗi niềm ai đã tỏ/ Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng” (Cúc mộng)...

Hay như Sử Tương Vân với bài thơ Đối cúc :”... Sổ khứ cánh vô quân ngạo thế/ Khán lại duy hữu ngã tri âm/ Thu quang nhẫm nhiễm hưu cô phụ/ Tương đối nguyên nghi tích thốn âm”. (nghĩa: ở đời mấy ai xa được thói thô tục/ may thì có nổi một kẻ tri âm/ bóng thu loáng vụt trôi đi mất/ khi ấy ngẩn ngơ mà tiếc lòng)...

Hay đâu, Nam Kha từ của Giả Bảo Ngọc :”Rơi xuống chàng đừng tiếc/ Bay về thiếp biết thôi/ Tiết muộn màng ong bướm bùi ngùi/ Sang xuân dù gặp, cách một năm rồi

Hay như, đêm Trung thu thưởng nguyệt ở Ao Tinh quán, trăng sáng rỡ khi sen dần tàn, Lâm Đại Ngọc và Sử Tương Vân riêng ngẫm thân phận mình tức cảnh sinh tình đã thay nhau nối vận mà thốt ra câu thơ hay đến tái tê rợn người :” ... Cò rò bóng hạc bên ghềnh/ Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong”.

Không chỉ những cô cậu chủ ở Đại Quan Viên, trong Ninh phủ, Vinh phủ, mà các a hoàn cũng lây cái bệnh  ngẩn mơ thơ phú của chủ mình. Hàng ngày hầu hạ các cô cậu chủ, khi tiệc tùng, lễ lạt, khi gặp hội uống rượu đề thơ, đố thơ, đám a hoàn hóng chuyện, hoặc bị lôi vào cuộc vui... và những lúc an ủi, chia sẻ nỗi ưu tư phiền muộn của chủ... lâu thành quen, bị ngấm khi nào chẳng hay, mà sinh mơ tưởng hão huyền (Tập Nhân, Tình Văn, Kim Xuyến, Tử Quyên...).

Dĩ nhiên, thơ vịnh, thơ đối trong Hồng Lâu Mộng đều do Tào Tuyết Cần sáng tác cả, nhưng khi gán cho từng nhân vật lại phải hợp cảnh, hợp tình, hợp tính với mỗi người. Ở đây, tôi không sa đà phân tích sâu phần thơ phú, nhưng có thể thấy, Tào Tuyết Cần tài văn-thơ thật song toàn. Văn tuyệt vời đã đành, còn Thơ thì dẫu chưa đến hạng kinh điển nhưng cũng rất chi là hay. Cái tài của Tào Tuyết Cần là hóa thân vào từng nhân vật, lúc hội đố thơ thì linh hoạt ứng biến, còn khi tâm trạng tự thán ngâm vịnh lại trầm lắng sâu xa phù hợp với cảnh ngộ thân phận từng người,...

Trong Hồng Lâu Mộng, ngâm vịnh, đối thơ vừa là cách để gây không khí cho việc tạo dựng không gian truyện, vừa là phương tiện giao đãi và cũng là sự bày tỏ nỗi niềm tâm can của mỗi nhân vật. Thêm nữa, dưới thời nhà Thanh, văn học Trung Hoa không mạnh về thơ mà phát triển văn xuôi tiểu thuyết. Thế nên, thơ phú trong Hồng Lâu Mộng có thêm vai trò ấy là phần nào phản ánh diện mạo, mặt bằng thơ Trung Hoa thời đó ra sao.  Thật là “nhất cử, đa tiện”. Vì thế, đó cũng là một đặc trưng, góp phần làm nên thành công của tác phẩm này và cùng với những đặc sắc khác, biến Hồng Lâu Mộng thành một kiệt tác, đôn nó lên đầu bảng đông tây kim cổ văn chương thế giới.

Còn với riêng tôi, mỗi lần đọc lại, nghiền ngẫm, đặng thấu hiểu mà thêm lần bóc tách  một gia tầng của tác phẩm để vẻ đẹp tiềm ẩn lộ ra,... Hy vọng là thế !

Thực lòng, mỗi lần như vậy, tôi sa vào cảm thức mất cân bằng, như mộng mị phiêu du trong Đại Quan Viên cùng các nhân vật, mà đến nay tôi vẫn chưa biết gọi cảm thức ấy là gì ?!... ./.

 

 

 

 

Đệ nhất võ công thế giới kiếm hiệp

KIM DUNG

 

 

1.

 

Kim Dung tiên sinh quả không hổ danh oai trấn giang hồ giới cầm bút võ hiệp kỳ tình. Có thể mạnh dạn mà đưa ra nhận định như thế.

          Nửa đầu thế kỷ hai mươi, các tín đồ của truyện kiếm hiệp xứ ta say mê với các tiểu thuyết kiếm hiệp như Bồng Lai hiệp khách, Giao Trì hiệp nữ, Lục kiếm đồng... hay một số tiểu thuyết dã sử mang màu sắc kiếm hiệp như Thuyết Đường, Chinh Đông, Chinh Tây, Vạn hoa lầu, Ngũ hổ bình Liêu, Ngũ hổ bình Nam, Phấn trang lâu v.v... Song như thế chưa thấm đâu, và sẽ là thiệt thòi nếu như không được biết đến hàng loạt những tác phẩm kiếm hiệp khác của các danh tài như Kim Dung, Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh, Nam Kim Thạch, Trần Thanh Vân...

          Trong số ấy, ngôi sao sáng nhất không ai khác ngoài Kim Dung tiên sinh. Không cần nhắc đến toàn bộ sự nghiệp, chỉ cần mấy bộ trường thiên như Thiên long bát bộ, Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký, Tiếu ngạo giang hồ, Thần điêu hiệp lữ, Lộc đỉnh ký, Kim Dung đã khiến không ai sánh kịp ông rồi. Thêm nữa, mấy bộ ngắn hơn như Thư kiếm ân cừu lục, Tuyết sơn phi hồ, Phi Hồ ngoại truyện, Bích huyết kiếm, Liên Thành quyết, Hiệp khách hành ... cũng rất chi là đặc sắc và hấp dẫn .

          Độc giả say mê truyện kiếm hiệp của Kim Dung từng đặt câu hỏi, rằng trong thế giới võ hiệp của Kim Dung, nhân vật nào là người có võ công cao cường nhất? Hỏi vậy rồi người ta tự trả lời, phải chăng đó là Vương Trùng Dương, Lâm Triều Anh, Trương Tam Phong, Đạt Ma Tổ Sư, Tiêu Dao Tử, Độc Cô Cầu Bại, Phong Thanh Dương, hay là Vô Danh Thần Tăng, Hoàng Sam Nữ Tử, Đông Phương Bất Bại, Hoàng Dược Sư, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Chu Bá Thông,...? Hay còn ai nữa?

Tôi nghĩ, nếu có đưa ra một cái tên cụ thể nào đó thì sẽ ngay lập tức xảy ra tranh luận chẳng đi đến cả. Chẳng thể có câu trả lời chính xác, bởi không có căn cứ, vả lại cách nhìn nhận và lòng yêu mến từng nhân vật của độc giả khác nhau. Vậy thì, chỉ có một câu trả lời khả dĩ có thể chấp nhận được, người có võ công thượng thừa trong thế giới võ hiệp của Kim Dung chính là Kim Dung tiên sinh, bởi không ai khác, ông là người đã tạo nên một thế giới phiêu dật kỳ ảo với các nhân vật võ công cao siêu tranh hùng tranh bá,...

          Ở Trung Hoa, nếu trước đây có Hội Hồng học (Hội của những người chuyên nghiên cứu tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng và tác giả của nó là Tào Tuyết Cần) thì giờ đây có thêm hội của những tín đồ yêu mến và chuyên nghiên cứu về Kim Dung tiên sinh cùng các tác phẩm của ông. Đấy là một vình hạnh không dễ ai có được.

          Trên thế giới, có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu quan niệm rằng, kiếm hiệp không phải là văn học, mà chỉ là cận văn học, nên tác giả của loại tiểu thuyết này cũng không phải nhà văn. Đánh giá như thế nào là quyền của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ cần lấy tiêu chí là số lượng người đọc và sự ảnh hưởng của tác phẩm đến văn hóa đọc, đến đời sống xã hội thì chắc chắn Kim Dung xứng đáng với danh hiệu nhà văn hơn ối nguời. 

          Rõ ràng Kim Dung cùng các tác phẩm của ông là một hiện tượng đặc biệt trong làng văn hóa đọc ở thế kỷ 20, và lan sang cả thế kỷ 21, không riêng gì ở Trung Hoa mà cả châu Á và thế giới.

          Tôi nhớ không thật rõ, nhà văn Vương Sóc thì phải, đã có bài viết về Kim Dung (Kim Dung trong mắt tôi) và ở đó, sự đánh giá về Kim Dung tiên sinh rất thường, khi cho rằng tiểu thuyết kiếm hiệp nói chung không phải là văn học với đúng nghĩa của nó, nên cũng coi như không đóng góp gì cho tiến trình phát triển của văn học cả, mà chúng chỉ là thứ mua vui  (giải trí) cho đông đảo độc giả mà thôi.

          Cứ cho là như thế đi, vậy chúng ta sẽ lý giải làm sao khi đánh giá tính văn học của các bộ sách như Harry Porter (J.K. Rowling), Chúa tể của những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings - J.R.R Tokien), Mật mã Da Vinci, Thiên thần và ác quỷ (Dan Brow)- những tiểu thuyết thần thoại và trinh thám, xét cho cùng như một thứ kiếm hiệp thời đại mới của châu Âu ? Xa hơn nữa, là những Shelock Holmes (Conan Doyle) hoặc Bá tước Monte Cristo (Alexandre Dumas) cũng vậy ?

          Tôi dám cả quyết rằng, riêng sự ly kỳ và tính hấp dẫn, truyện kiếm hiệp của Kim Dung tiên sinh đã ăn đứt rồi. Đấy còn chưa kể đến những hiểu biết rất chi là siêu của tiên sinh về lịch sử, địa dư, triết học, tôn giáo, võ học, y học ... được thể hiện trong các tác phẩm một cách tài tình.

          Quay trở lại với những tác phẩm của Kim Dung. Tiên sinh đã gác bút sau 15 tác phẩm trường thiên, dài ngắn đủ cả. Lý do ông gác bút, có thể dã cảm thấy bút lực không còn dồi dào, và sự lặp lại đã thấy đâu đó trong một số tác phẩm. Cũng có thể từ những nguyên do khác nữa. Song theo tôi, khác với Cổ Long và một số cây bút võ hiệp kỳ tình khác, viết vì tiền và viết như một thói quen, Kim Dung tiên sinh ý thức việc gác bút khi đang ở đỉnh cao. Đấy là một điều khó, khiến ông khác người và đương nhiên việc ấy tôn ông lên vị trí cao hơn những người khác. Quả nhiên, dù không viết thêm tiểu thuyết kiếm hiệp nào nữa, nhưng ông đâu có vì thế mà kém đi về tiền tài và danh vọng so với thiên hạ. Việc những tác phẩm của ông ngày càng được dịch ra nhiều thứ tiếng với số lượng bản in cực lớn, thêm vào đó, các nhà điện ảnh đua nhau dựng phim ăn theo, tất thảy, đều đem đến cho ông những khoản thu khá lớn từ bản quyền. Tiền tài và danh vọng đủ cả. Không những thế, ông còn được phong giáo sư danh dự và thỉnh giảng ở nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới.

          Sự gác bút đúng lúc của Kim Dung tiên sinh cũng đáng giá lắm chứ ?!

          Gần đây, thiên hạ om xòm với tiểu thuyết kiếm hiệp Tru Tiên của một chàng sinh viên thất nghiệp (Tiêu Đỉnh). Nghe đâu, khi xuất hiện vào năm 2003, nó đã gây nên một làn sóng trong giới độc giả mê kiếm hiệp ở Trung Hoa, và cùng với " Phiêu Diểu chi lữ ", "Tiểu Binh truyền kỳ " làm thành  "Tam đại kỳ thư Internet ". Tôi đã đọc nó trên mạng, và chỉ sau ít trang mê hoặc phần đầu, tôi đã nhận ra sự non kém của nó về mọi phương diện. Cái được cư dân mạng gọi là "thời đại kiếm hiệp hậu Kim Dung" hay là “Tiên hiệp” gì đó đã nhanh chóng chết yểu khi nó được phơi ra dưới ánh sáng ban ngày trước bàn dân thiên hạ dưới dạng ấn phẩm.

          Lại cũng mới đây, báo chí Trung Hoa đưa tin về một cuộc bỏ phiếu xếp hạng các nhà văn có tên gọi là "Bảng xếp hạng thực lực nhà văn Trung Quốc", được hình thành từ 58 nhà văn- ứng cử viên được giới thiệu bởi 10 nhà phê bình văn học do Chu Đại Khả cầm đầu. Kết quả, người được 9 phiếu là Mạc Ngôn; được 6 phiếu có Dư Hoa, Vương An Ức...; được 5 phiếu có Bắc Thôn, Tô Đồng, Giả Bình Ao...; nữ văn sĩ đương kim Chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc là Thiết Ngưng cũng chỉ nằm trong số được 4 phiếu ; còn Vương Sóc và Trần Trung Thực cùng mấy nhà văn khác thì chỉ được có 3 phiếu mà thôi. Tôi không rõ trong số 58 ứng cử viên được giới thiệu bình chọn có Kim Dung hay không ? Song nếu có thì cũng chẳng biết sẽ ra sao, bởi nhìn chung, mỗi nhà phê bình đều có quan niệm riêng của họ, vậy nên, mức độ tin cậy chỉ còn một nửa. Đấy mới là sự xếp hạng của chục nhà phê bình mà thôi. Nghe đâu, danh sách 58 nhà văn ứng cử viên này sẽ còn được công bố để rộng khắp bạn đọc bỏ phiếu. Kết quả phiếu bầu của đông đảo công chúng mới là quyết định đưa đến chung cục cho bảng xếp hạng này.

          Dầu sao, tôi nghĩ, Kim Dung luôn được bạn đọc ở khắp mọi nơi trên thế giới thán phục và yêu mến, bởi ông đã đem đến cho họ những cảm xúc bi tráng và phiêu bồng khi đọc các tác phẩm của ông.

          Đấy là phần thưởng không dễ gì có được !

 

 

2.

 

Trong số các nhà văn được bỏ phiếu bình chọn ngày nào ở Trung Quốc thì người dẫn đầu là Mạc Ngôn đã giật giải Nobel văn chương (năm 2012) với các tác phẩm Phong nhũ phì đồn Đàn hương hình cùng nhiều tác phẩm xuất sắc khác. Như vậy, cũng có thể nhận định cái hội đồng bình chọn ấy là nghiêm túc, công tâm và khá chuẩn xác. Tuy nhiên, cái gì cũng mang tính tương đối, bởi khoa học xã hội nhân văn, có chính xác đến đâu chăng nữa, một khi còn bị chi phối bởi yếu tố cảm xúc thì đương nhiên kết quả dễ lung lay và thay đổi theo thời gian. Giờ đây, người ta không kể tên Dư Hoa, Vương An Ức, Tô Đồng, Vương Sóc, Giả Bình Ao... những nhà văn Trung Quốc từng được đánh giá cao một thời, mỗi mùa Nobel văn chương với tư cánh là các ứng cử viên năng ký, mà lại nhắc đến cái tên Tàn Tuyết... Nhưng rồi, Nobel văn chương cũng chưa xướng tên bà này. Dẫu sao vẫn còn hy vọng các mùa sau,...

Nói chuyện này, thực ra dể trở lại một cái tên quen thuộc hơn nửa thế kỷ qua, kể từ khi ông còn sung sức hay thời gian gác bút và cả khi đã qua đời, ấy là Kim Dung cùng các tiểu thuyết kiếm hiệp trứ danh của mình,...

Các tiểu thuyết dài hơi của Kim Dung, tôi đọc đi đọc lại. Khi chúng được điện ảnh hóa, nhất là các phiên bản do Trung Hoa đại lục dựng, cũng xem nhiều lần. Vậy điều gì đã hấp dẫn tôi làm vậy, khi mà nhiều tác phẩm hàng kinh điển của các nhà văn lớn trên thế giới tôi chỉ đọc một vài lần? Thật khó lý giải cho rạch ròi với những câu hỏi tại sao, khi mà các tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta không công nhận là văn học đích thực, mà chỉ cho là á văn học, cận văn học gì đó?

Hấp dẫn, với nhiều thế hệ độc giả, đấy là điểm mạnh không dễ gì các tác phẩm văn học khác sánh được tiểu thuyết kiếm hiệp cảu Kim Dung. Điều gì đã tạo nên sự hấp dẫn đó? Võ hiệp kỳ tình, đã trở thành khuôn mẫu cho thể loại truyện kiếp hiệp nói chung mà các tác giả khác (như Trần Thanh Vân, Lương Vũ Sinh,  Ngọa Long Sinh, Cổ Long, Nam Kim Thạch...) sử dụng. Kim Dung cũng vậy, song hẳn ông còn có những “vũ khí” khác, chiêu trò khác để tạo nên sự hấp dẫn riêng có?...

 

Điểm dễ nhận thấy “cái chốt” mà Kim Dung đóng trong truyện của mình, hay nói một cách khác, “chìa khóa vạn năng” dể mở mọi cánh cửa diệu kỳ, ấy là “duyên kỳ ngộ”. Hiểu nôm na thì đó là “sự gặp gỡ kỳ diệu”. Ở đây, không chỉ là duyên kỳ ngộ của các nhân vật nam chính nữ chính với nhau, mà là sự hợp duyên của nhân vật chính với loại võ công thượng thừa do vô tình có được,... Nào hãy xem, Trương Vô Kỵ vô tình có được Cửu dương thần công và Càn-khôn-đại na-di; Lệnh Hồ Xung tình cờ mà được Phong Thanh Dương truyền thụ kiếm khí thượng thừa với triết lý khác người “vô chiêu thắng hữu chiêu”, và cũng vô tình học được Hấp tinh đại pháp; Dương Quá thì tình cờ được võ công của Độc Cô Cầu Bại; Đoàn Dự vô tình học được phép Lăng-ba-vi-bộ của Tiêu Dao phái và Lục Mạch thần kiếm  Đại Lý; Hư Trúc cũng tình cờ mà có công lực cùng võ công thượng thừa của Tiêu Dao Tử; Thạch Phá Thiên chất phác vô tình hiểu được chữ khoa đẩu để lĩnh hội võ công tuyệt đỉnh thiên hạ,...

Thực ra, “duyên kỳ ngộ” chỉ là một cách diễn đạt về sự ĐỐN NGỘ của triết lý nhà Phật. Cái gọi là “sat-na Đốn ngộ”, hay nói một cách đơn giản, trong một khoảnh khắc nào đấy con người ta ngộ ra một chân lý, một điều gì đấy mà lâu nay vốn mờ tối bỗng dưng sáng tỏ. Cái quan trọng hơn, sau sự đốn ngộ, mọi ý nghĩ trở nên thông suốt, minh triết, nhìn vào đâu vào cái gì cũng thấu tỏ. Để đạt được trạng thái này, trong thực tế, ít có sự diệu kỳ xảy ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập trung suy tư nghiền ngẫm chờ cơ duyên bất chợt mà bùng phát mà thôi. Thế nhưng, trong thế giới võ hiệp của Kim Dung, cơ duyên và sự kỳ diệu hòa quện làm một, gây hiệu ứng bất ngờ cho bạn đọc, tạo nên sự cuốn hút, hấp dẫn, cùng trạng thái thăng hoa. Điều ấy chẳng khác mấy trạng thái phấn khích của doping. Kim Dung mê hoặc người đọc là thế?!...

Điều này còn cho thấy một minh triết, chân lý, tự thân vốn giản dị, tuyệt nhiên không phải là kết quả của sự hỗn loạn, rắc rối nào cả. Cho nên, tiếp cận để đi đến chân lý, sự chân thực thuần phác là con đường ngắn nhất,...

 

Tựa vào lịch sử, ấy là sự lựa chọn và phương châm xây dựng không gian truyện cho  hầu hết các sáng tác của mình. Trong hơn chục truyện võ hiệp ngắn dài của Kim Dung, ngoại trừ tác phẩm “Tiếu ngạo giang hồ” không thật rõ nét về thời điểm lịch sử, còn lại các câu chuyện khác đều được đặt trong một bối cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, ngay như “Tiếu ngạo giang hồ”, căn cứ vào sự tồn tại, hưng vong của các giáo phái ở Trung Hoa như: Minh giáo, Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Thanh Thành, Ngũ hiệp kiếm phái, v.v ... Người ta cũng có thể suy đoán được bối cảnh lịch sử của cuốn truyện. Có một điểm chú ý dẫn đến việc Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử Trung Hoa để tựa vào, đó là xuất thân của ông. Tuy định cư và phát triển sự nghiệp ở Hồng-kông nhưng quê hương bản quán của Kim Dung ở Gia Hưng, Chiết Giang thuộc gia tộc khoa bảng danh giá. Lấy bối cảnh từ các triều đại phong kiến và sự tồn vinh của các giáo phái Trung Hoa là một lợi thế rất lớn, bởi lịch sử Trung Hoa là những cuộc chiến liên miên giữa các tập doàn phong kiến, các triều đại, nội chiến huynh đệ tương tàn, sự kháng cự của  Đạo giáo Trung Hoa với các giáo phái ngoại lai... . Có lẽ, đây còn là sự khẳng định về nguồn gốc bản thân và gia tộc trong lịch sử văn hóa dân tộc mình. Nói cách khác, Kim Dung mượn truyện võ hiệp để quảng bá lịch sử, văn hóa dân tộc, đất nước mình ra phạm vi toàn thế giới.

Có một sự thật là, hư cấu có đến mấy cũng khó vượt nổi sự phong phú đa dạng của thực tế, vì hư cấu chẳng qua là sản phẩm của đầu óc con người. Vậy nên, Kim Dung đã khôn khéo lựa chọn một phương thức pha trộn, ấy là hư cấu về nội đung và tình tiết truyện nhưng đem chúng bỏ vào một không gian lịch sử cụ thể. Cách thức này vô hình chung vừa tạo nên tính xác thực và cả sự hoài nghi cho câu chuyện, nhân vật,..Đó cũng là cái cách làm nên sự cuốn hút cho tác phẩm. Quả thật, đọc các tác phẩm của Kim Dung thấy ông rất hiệu nghiệm khi sử dụng cách thức này.

 

Yếu tố nhân văn nhào luyện cùng chất phiêu bồng, Kim Dung thực sự là một phù thủy cao tay khi dùng ”phép luyện công” này. Thực tế cho thấy, các cây bút chuyên viết truyện võ hiệp khác cũng đều sử dụng phép thức này, nhưng Kim Dung cao siêu và tài tình hơn cả. Trong các truyện võ hiệp của mình, sự kết hợp nhuần nhuyễn chất nhân văn (hạt nhân các nhân vật) và chất phiêu bồng (dung môi tạo nên không gian truyện) là những yếu tố xuyên suốt, là chất kết dính các dị biệt, thái cực với nhau.

Nhân văn là bản chất vốn có trong mỗi con người, vậy nên nó đậm đặc ở các nhân vật chính diện (Trương Tam Phong, Quách Tĩnh, Tiêu Phong, Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, Đoàn Dự, Hư Trúc, Tiểu Long Nữ,...), phai nhạt ở các nhân vật trung gian, mập mờ ở các nhân vật chính tà lẫn lộn (Nhạc Bất Quần, Tạ Tốn, Thiên Sơn đồng mỗ, Dương Khang, Khang Mẫn, Lý Mạc Sầu. Điền Bá Quang, Mộ Dung Phục, Chu Chỉ Nhược, A Tử, Lâm Bình Chi... ) và không phải không có ở các nhân vật phản diện (như Tứ đại ác nhân, Âu Dương Phong, Thành Côn, Đông Phương Bất Bại, Đinh Xuân Thu, Dư Thương Hải, Mộc Cao Phong, Cừu Thiên Nhẫn, Toàn Quán Thanh v.v...). Chất nghĩa khí ẩn trong mỗi con người nên có cơ hội thì bột phát. Ở thời điểm và trang thái ấy, chất nhân văn lấn át nên người vốn bị coi là xấu xa cũng có thể “tốt đột xuất”, và đó cũng phần người, phần đáng yêu của nhân vật phản diện. Bản thân Kim Dung minh triết và đầy nhân văn khi nhìn nhận bản chất con người, nhìn nhận sự vận động của ý thức để tạo dựng các nhân vật của mình. Có lẽ, ông cao siêu là vậy?

Không thể phủ nhận, chất phiêu bồng làm nên thế giới ảo diệu của riêng Kim Dung. Ông không sa đà vào sự thực lịch sử, mà chỉ mượn lịch sử, nương vào đó để dựng không gian truyện của mình, tạo nên một “thế gian võ hiệp” riêng có. Thế gian truyện của ông chông chênh giữa lịch sử và hư cấu, giữa thực và ảo, giữa thiện và ác, giữa tiên thánh và con người,... Mà thế giới ấy, người đọc của trần gian thực tại luôn tò mò thích thú bởi ước muốn thoát tục vươn tới một thế giới lý tưởng?

Kim Dung thần diệu, tài tình hơn người là vậy chăng?!...

 

Có lẽ, vì cao siêu và tài tình hơn người, nên cả lúc còn sống và khi khuất bóng, các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ xếp vào dạng “cận văn học”, đã và vẫn sẽ hấp dẫn hàng triệu người trên khắp thế giới, trên phương diện văn bản đọc hay sản phẩm điện ảnh.

Và như vây, Kim Dung xứng danh là “đê nhất võ lâm truyền kỳ” !

 

PS: Có một người chưa đọc vì không thích Kim Dung, bởi ông coi truyện kiếm hiệp của Kim Dung và truyện kiếm hiệp nói chung, là “cận văn học”, đó là nhà thơ Trần Đăng Khoa. Gần đây, nhân tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của ông tái bản lần thứ 157 (Có thể coi là một kỷ lục xuất bản ở Việt Nam hiện nay), tôi hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa, rằng ông có biết, hiện tại sách của tác giả nào được ấn hành nhiều nhất thế giới không, thì ông bảo không biết. Tôi bảo, truyện kiếm hiệp của Kim Dung, với hơn 300 triệu bản in trên toàn cầu (chưa kể số lượng bản in lâu cũng rất lớn). Chưa chắc chắn, song cũng có thể xem là kỷ lục thế giới rồi. Trần Đăng Khoa tròn mắt, thế á. Tôi đùa, việc ông coi truyện kiếm hiếp của Kim Dung không phải là sách văn học. Ông cười, hỏi: “Thế truyệncủa  Kim Dung có hấp dẫn không?”. Tôi bảo: “Rất hấp dẫn”. Trần Đăng Khoa toét miệng cười: “Vậy là được rồi...  Là văn học hay không, đâu có còn quan trọng nữa !”.  ./.

 

 


Nhận xét